Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 185 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Wer war Ich? Tôi đă là ai? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 1 of 11: Đă gửi: 23 November 2005 lúc 12:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh


Chào các bạn,
Bài viết này, Đông Anh dựa vào 2 tài liệu:
1. Dokumetarfilm: Wer war Ich? Reise in ein früheres Leben/ Tôi đă là ai? Cuộc hành tŕnh trong một cuôc sống trong tiền kiếp- Đây là Phim Thời Sự dài 6 tập, Tập 1 được chiếu vào tối hôm thứ Ba, 22.11.2005, Đài VOX từ 22:10Uhrr đến 23:10Uhr.
2. Căn cứ vào bài viết trong Webseite www.doreen-buechner.de ;Doreen Buechner là một Trance Expertin (chuyên gia xuất hồn), bà đă cộng tác với Đài truyền h́nh VOX để làm bộ Phim dài 6 tập này.
Trong tập 1 này, th́ 2 người sẽ bị bà Doreen Buechner làm cho xuất hồn:
*Carina 26 tuổi, Carina th́ cũng có niềm tin về Đạo phật và thuyết Luân Hồi (v́ Mẹ cô ta đă từng để làm chuyện xuất hồn này), nên cô ta rất háo hức để biết ḿnh là ai, làm ǵ, ở đâu, sống vào thế kỷ nào ở tiền kiếp. Cô Carina hiện đang sống ở thị trấn Taufkirchen (gần thành phố München/ miền Nam Đức), có bạn trai và một con gái nhỏ tên Emily.
*Sabine, 42 tuổi, sinh trưởng ở Bremen, hiện đang sống ở Ăachen (miền Bắc Đức). Sabine không tin vào Kiếp Luân hồi, cô ta chỉ bằng ḷng cho "thí nghiệm" v́ cô ta ṭ ṃ.

In Bayern, vor den Toren der Landeshauptstadt: Hier wohnt die 26-jährige Carina. In der Rückführung erlebt sie sich als Mann. Ihr Name war Mike, und sie wurde 1804 im Südwesten Englands, in Cornwall, geboren. Ihr Vater war ein armer Bauer. Manchmal war Mike mit seinen Eltern in einer Kirche namens St. Hilary. Später kam er dann in eine wohlhabende Familie in Brighton an der englischen Südküste. In Cornwall findet sich tatsächlich eine Kirche mit dem Namen St. Hilary. Es ist dort die Einzige mit diesem Namen. Da Carina nichts Genaueres über Mikes Heimatort sagen konnte, wird nach seinen Spuren bei der St. Hilary Kirche im Westen Cornwalls gesucht. Als Carina durch die Kirche geht, wirkt sie wie gefesselt. Sie erkennt die Fenster, und auch der Glockenturm weckt bei Carina Erinnerungen an ihr früheres Leben. Kann es tatsächlich sein, dass Carina schon einmal als Mike gelebt hat?
Tại Tiểu Bang Bayern, trên đường vào cổng chính vào Thành phố chính của Tiểu Bang: cô Carina, 26 tuổi đang sinh sống ở đây. Trong lúc „Hồi ức“ cô ta đă từng sống trải qua như một người đàn ông. Tên cô ta là Mike, và „cô“ ta đă được sinh trưởng vào năm 1804, tại thành phố Cornwall, nằm ở phía Tây-nam nước Anh. Cha „cô“ ta là một nông dân nghèo. Thỉnh thoảng th́ Mike và Bố mẹ đi đến một Nhà thờ, có tên là St.Hilary. Sau đó th́ Mike đến ở một gia đ́nh khá giả tại Brighton, nằm ở bờ biển phía Nam của nước Anh.
Tại thành phố Cornwall, th́ phái đoàn (ở đây muốn nhấn mạnh đến những người đă tham gia vào cuộn phim Thời Sự dài 6 tập này), đă t́m thấy Nhà thờ có tên là St. Hilary. Ở đây th́ chỉ có một Nhà thờ, với cái tên đă nêu trên. Bởi v́ cô Carina không thể nói rơ quê quán của cậu Mike (v́ cậu ta được đem đi cho lúc mới 5 tuổi), v́ vậy tông tích của cậu Mike này sẽ được bắt đầu phanh mối từ Nhà thờ St. Hilary ( Nhà thờ nằm ở phía Tây thành phố Cornwall).
Lúc Carina đi vào Nhà Thờ này, th́ cô ta có cảm tưởng như ḿnh đang bị trói chặt lại. Cô ta đă nhận ra tất cả những cửa sổ, cái tháp chuông,v..v.. Những h́nh ảnh này là những h́nh ảnh cô ta đă thấy trong lúc đang hồi ức về tiền kiếp. Có thật sự là Carina đă có lúc sống như là cậu bé Mike đă sống trước kia ở đây hay không?

Cũng xin nói thêm, Đông Anh đă được coi cuộn phim quay lúc bà Doreen Büchner „dẫn dắt“ cô Carina xuất hồn, và trong lúc đó th́ cô ta vẫn trả lời từng câu hỏi một của Bà Doreen Büchner. Sau khi tỉnh dậy, th́ Carina nhớ hết tất cả mọi chuyện (khác với thôi miên, thi khi tỉnh dậy, th́ họ không nhớ ǵ nữa). V́ vậy mà Carina được yêu cầu vẽ lại những ǵ cô đă thấy (Nhà thờ, băng ghế, cửa sổ trong nhà thờ, và một nghĩa địa cổ với những mộ bia nằm bao bọc xung quanh Nhà thờ). Thêm vào đó, sau khi cô Carina (cậu bé Mike Moris) bị ông Bố mang đi cho nhà giàu khi 5 tuổi, th́ cậu ta được sống trong ngôi nhà khá to ở Brighton, có hàng rào song sắt chung quanh và Carina đă vẽ lại rất tốt về những chi tiết này. Đến khi Phái đoàn tới Thành phố này, th́ họ rất thất vọng, bởi v́ những căn nhà nằm trên đường King Road đă bi biến mất: thành phố Brighton này đă được phát triển rất mạnh vào những năm đầu của 1900. Nhưng dựa vào tên con đường và h́nh vẽ mà Carina đă phát họa, người ta vào Pḥng Lưu trữ Tài liệu Thành phố và t́m các Nhà Sử học, th́ họ đưa ra những tài liệu, h́nh ảnh chụp những căn nhà của đầu thế kỷ 1800 được xây tại Brighton, th́ giống như h́nh vẽ của cô Carina, nhưng từ những năm 1850 đến 1880, th́ những căn nhà này đă bị đập đi và xây thành Khách Sạn, nên đă không c̣n tồn tại ở ngoài đời.
Cũng xin nói thêm là cậu bé Mike Moris lớn lên và trở thành anh chàng phong lưu, suốt ngày chỉ đi đánh cá ngựa và là khách thường xuyên một quán Bar rất nổi tiếng trong vùng, hay đi tán tỉnh các phụ nữ giàu có. Qúan Bar nằm không xa bờ biển. Và trong Film đă cho thấy như vậy, và điều rất may là qúan Bar này c̣n tồn tại, mặc dù đă sửa đổi khá nhiều. cô Carina này (cậu Mike Moris trong tiền kiếp), hiện nay làm việc phục vụ cho một quán Bar, rất thích shoping và rất sành sỏi về cách ăn diện, làm dáng!!

Die 42-jährige Chefsekretärin Sabine lässt sich aus Neugier auf eine Rückführung ein. Es dauert nicht lange, und sie erzählt in Trance aus ihrem früheren Leben als Marie Vern in dem Ort Quimper in Frankreich. Diese Stadt existiert wirklich und zwar im Nordwesten in der Bretagne unweit der Atlantikküste. In Quimper befindet sich ein ca. 400 Jahre altes Buch mit den Aufzeichnungen über die Bürger der Stadt. Da die Seiten dieses Buches im Laufe der Jahrhunderte immer brüchiger geworden sind, haben die Archivare sämtliche Eintragungen in neuere Bücher übertragen. Nach kurzem Suchen wird klar: Eine Frau namens Marie Vern hat wirklich zum angegebenen Zeitraum im Quimper gelebt.

Cô Chánh thư kư văn pḥng, Sabine, 42 tuổi cũng v́ ṭ ṃ, nên cũng để cho bà Doreen Bücher xuất hồn để t́m vào cuộc sống của thời tiền kiếp. Cuộc thôi miên kéo dài không lâu, th́ cô ta đă kể lại trong lúc xuất hồn, cô ta là Marie Vern, sống trong thành phố Quimper tại Pháp. Thành phố nhỏ này thực sự lại có tên trên bản đồ nuớc Pháp và nằm phía Tây-Nam trong thành phố Bretagne, không cách xa bờ biển Atlantik lắm. Tại Quimper, pḥng Lưu trữ Hồ Sơ th́ có cuốn sách cổ 400 năm, trong đó có ghi tên những người dân trong thành phố này. Trải qua thời gian mấy trăm năm, nên những trang sách đă có nguy cơ bị gảy mục, nên người ta đă đánh máy lại toàn bộ cuốn sách, và sau khi cô Thủ quản đă xem xét lại phần ghi chép trong sách mới, đă t́m ra ngay tên của một phụ nữ tên là Marie Vern. Marie Vern đă sống vào thời điểm và thành phố Quimper mà cô Sabine đă nói trong lúc xuất hồn...
Sau khi tỉnh dậy, th́ cô ta đă mô tả và vẽ lại những ngôi nhà đặc biệt trong vùng: mới vào đầu đường là một căn nhà nhỏ bằng đá, nằm trên ghềnh đá, bên cạnh là ngọn Hải Đăng và biển xung quanh.. Về căn nhà mà cô Sabine (Marie Vern) ở lúc xưa, th́ cũng c̣n tồn tại, đặc biệt là có một Nhà thờ rất lớn nằm đối diện. Đến khi Phái đoàn đến đó, th́ cô Sabine hơi thất vọng, v́ đă thấy căn Nhà thờ quá rộng và có phần đổi khác, so với giấc mông; nhưng sau đó mới biết là phần „mới“ này được xây thêm này chỉ có vào từ năm 1909 (trong khi cô Marie Vern
được sanh và sống ở đầu thế kỷ 17!!!). Trong lúc xuất hồn, khi được hỏi về tiền tệ lúc đó, th́ cô Sabine nói chỉ dùng đồng vàng tṛn, khá to, có tên là Louis d’or, và một mặt có chạm đầu người. Khi cô ta được dẫn đến cửa tiệm mua bán tiền cổ trong Quimper, th́ cô ta không t́m thấy đồng tiền mà cô ta đă cầm trong tay (trong lúc Hồi Ức), nhưng khi t́nh cờ lục sách trong tiệm, th́ cô ta đă t́m thấy đuợc đồng tiền đó và có tên là Double Louis d'or, và khổ khá to, đồng vàng. Qua những sự kiện trên, làm cho cô Sabine cảm thấy nghi ngờ về những điều trước đây mà cô đă không tin.

Các bạn muốn biết thêm về bà Trace Expertin (Chuyên gia xuất hồn) Doreen Buechner, th́
vào Webseite www.doreen-buechner.de (rất tiếc là bằng tiếng Đức).
hoặc nếu ở Đức, th́ đón coi chương tŕnh: Wer war Ich? Reise in ein früheres Leben (Tôi đă là ai?- Cuộc hành tŕnh vào một cuộc sống trong tiền kiếp), được phát thêm 5 tuần, mỗi tuần vào tối thứ ba từ 22:10Uhr đến 23:10 Uhr tại đài VOX.
Thân,
Đông Anh


Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 
thangbe700
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 4
Msg 2 of 11: Đă gửi: 27 November 2005 lúc 10:04am | Đă lưu IP Trích dẫn thangbe700

Bài này thật là hấp dẫn. Nhờ Đông Anh phiên dịch và tóm tắt trong những bài tới. Cám ơn nhiều
Quay trở về đầu Xem thangbe700's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thangbe700
 
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 3 of 11: Đă gửi: 02 December 2005 lúc 6:14am | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh

Tập 2: (Được phát vào Thứ ba, 29.11.05 từ 22:05 Uhr đén 23:05 Uhr, đài VOX)

Trong tập 2, th́ có hai người sẽ được bà Buechner làm cho xuất hồn là Gabriela và Mandy:
 Gabriela 44 tuổi, Giáo viên, hiện đang sống ở ngoại ô thành phố Mainz (Trung Đức), Cô Gabriela th́ rất cởi mở, có một con trai nhỏ. Cô Gabriela tin rằng sau cái chết là một cuộc sống khác vẫn được tiếp diễn, và mỗi người không phải trải qua một tiền kiếp, mà là nhiều tiền kiếp khác nhau.
 Mandy 33 tuổi, nội trợ, có 2 con: 12 tuổi và 4 tháng, sống ở Verl, gần thành phố Bielefeld (Tây-Bắc Đức). Thú tiêu khiển của Mandy là vẻ tranh. Mandy th́ cũng hồi
hộp để biết về tiền kiếp của ḿnh v́ cô cũng rất tin là cô ta đă sống trong kiếp khác, trong một „con người“ khác..

Gabriela:
Gabriela ist Grundschullehrerin und lebt in der Nähe von Mainz. Sie erzählte in der Rückführung, dass sie um das Jahr 1770 als Luise Müller in Mecklenburg Vorpommern geboren wurde, und dass sie die Kirche des Ortes zeichnen könne. Mit Hilfe der Zeichnung landen wir schließlich in Sassen, einem kleinen Ort, der zum Landkreis Demmin gehört. Tatsächlich erkennt Gabriela die alte Kirche von Sassen wieder. Sie erzählte ebenfalls von einem Schauspieler mit dem Namen, den sie zur damaligen Zeit in Greifswald gekannt habe. Wir fahren dorthin, und vom Greifswalder Marktplatz aus steuert Gabriela zielstrebig eine bestimmte Straße an. Vor einem bestimmten Haus bleibt sie stehen. Hat Gabriela hier vor mehr als 200 Jahren ihren Freund Johannes Meister auf der Bünhe gesehen...?
Gabriela là giáo viên dạy ở trường Tiểu học và sống gần thành phố Mainz. Cô ta đă kể lại trong lúc được dẫn dắt để Hồi ức, cô ta được sinh vào năm 1770, tên là Luise Müller tại Tiểu Bang Mecklenburg Vorpommern (Đông Đức), và cô ta (sau khi xuất hồn) đă có thể vẽ lại căn Nhà thờ ở tại vùng đó. Với sự hổ trợ của h́nh vẽ này, chúng tôi cuối cùng đă đến vùng Sassen, đó là một vùng ngoại ô nhỏ, thuộc về thành phố Demmin (thuộc Tiểu Bang Mecklenburg Vorpommern). Quả thật không ngờ là Gabriela đă nhận ra đúng căn Nhà thờ cổ thuộc Sassen. Thậm chí cô ta c̣n kể lại về một người diễn viên sân khấu, có tên là Johannes Meister, người diễn viên này có quen biết với cô ta trong thời gian cô ta sống tại thành phố Greifswald. Chúng tôi đă đi đến đó, và từ trung tâm phố chợ của thành phố Greifswald, cô Gabriela đă hướng dẫn chúng tôi đến một con đường nhất định. Đi đến trước một căn dinh thự, th́ cô ta dừng lại. Có thật sự là hơn 200 năm trước, tại nơi đây, Gabriela đă thấy người yêu của ḿnh là Johannes Meister ở trên sân khấu hay không...?


Trong lúc xuất hồn, cô Gabriela đă kể những chi tiết sau:
1. Cô ta tên là Luise Müller, sống ở thành phố Demmin và ở đó có một nhà thờ, xung quanh Nhà thờ có bao bọc bằng tường đá thấp, và những tảng đá này rất to, Nhà thờ th́ rất là đơn giản, mặt tiền được ốp bằng gạch đá nung đỏ, phía trong Nhà thờ th́ không có trang trí ǵ nhiều, ngoài những cửa sổ nhỏ, th́ c̣n có 3 cửa sổ lớn kiến trúc kiểu Gotik có gắn kính màu, nằm phía trên cao bàn thờ, giửa Nhà thờ là bồn nước bằng gạch.
Kiểm tra thực tế:
Khi đến Demmin, th́ Cô Gabriela rất thất vọng, v́ đó không phải là Nhà thờ mà cô ta đă thấy. Sau khi hỏi lại, th́ phái đoàn t́m đến một thị trấn nhỏ là Sassen (thuộc về Demmin).
Mới thấy Nhà thờ này, th́ không những cô ta và phái đoàn cũng bàng hoàng, v́ tất cả những ǵ cô ta mô tả, trong Hồi ức, th́ đang hiện ra trước mặt. Nhà thờ tuy đang đươc sửa chửa nhưng phái đoàn có giấy phép đặc biệt, nên họ đă vào nhà thờ để quay Film và kiểm chứng lời thuật lại của Gabriela. Tất cả đều hiện ra trước mắt, như thật..
2. Cô Gabriela c̣n cho biết thêm, là lúc ngày xưa cô hay đi xe ngựa ra vùng thiên nhiên chơi, qua một con đường làng thật dài, cuối đường là một Nhà cối xay chạy bằng nước.
Kiểm tra thực tế:
V́ Nhà cối xay không c̣n tồn tại, nên Phái đoàn đă gặp ông Rodig, quản thủ viên của Thành phố. Trong sách tài liệu cổ của Thành phố, ông ta đă chỉ trong đó, th́ tất
cả những nhà cửa và công tŕnh công cộng, đường xá, cầu cống trong thành phố Sassen, đă được ghi chép và đo đạc rất cẩn thận. Và quả thật, trong năm 1679, th́ Nhà cối xay này đả được tạo dựng để làm đập thủy điện cho Thành phố.
3. Cô Gabriela đả kể lại, cô ta đă thấy ánh đèn sân khấu và người yêu của cô là diễn viên sân khấu và anh ta đă diễn tuồng Molier.
Kiểm tra thực tế:
Căn nhà ở tại thành phố Greifswalder, mà cô ta khẳng định là rất „thân quen“, hiện nay đă trở thành Viên nghiên cứu Động vật học. Phái đoàn đă nhờ một người làm trong Pḥng Hướng dẫn du lịch để điều tra hộ, bà ta đă chỉ trong sách tài liệu, và cho biết là Ngôi nhà hiện đang có chức năng là Viên nghiên cứu Động vật học, ngày xưa trong thế kỷ thứ 18 và 19 đă là Sân khấu nhạc kịch. Năm 1766 cũng đă trở thành Sân khấu diễn viên và những tuồng kịch đă được tŕnh diễn ngoài Goethe, mà c̣n có cả Molier..
Sau khi đi theo đoàn để kiểm tra thực tế, được hỏi về cảm tưởng: th́ cô Gabriela cho biết là cảm thấy rất là nhẹ nhỏm, và rất là xúc động bởi v́ cô ta đă được tiếp xúc thực tế với những ǵ mà cô ta đă thấy trong lúc xuất hồn.

Mandy:
Mandy, 33 Jahre und Mutter von zwei Kindern, lebt in der Nähe von Bielefeld. Mandy hat in ihrer Rückführung erzählt dass sie im Oktober 1827 als Richard Pinell geboren wurde, und dass sie sich in einer Stadt mit Namen Krummau befände. Dort sollen jetzt die Spuren ihrer Vergangenheit als Richard Pinell gesucht werden. In der Rückführung konnte Mandy ein Schloss beschreiben und aufzeichnen. Das Schloss gibt es wirklich und stimmt mit Mandys Zeichnung perfekt überein. Am Nachmittag fahren wir mit ihr in ein großes Naturschutzgebiet in der Nähe von Krummau. Sie hat erzählt, dass sie sich damals von einem Fels, der der 'Mädchenfelsen' genannt wurde, hinab gestürzt habe, um sich das Leben zu nehmen. Hat hier tatsächlich das Leben eines Richard Pinell sein Ende gefunden...?

Mandy, 33 tuổi và là Mẹ của 2 đứa con, sống gần thành phố Bielefeld (Tây-Bắc Đức): Trong lúc „hồi ức“, th́ cô ta kể lại, cô ta được sinh vào tháng 10 năm 1827, có tên là Richard Pinell, và „cô“ ta đă có mặt tại thành phố Krummau. Từ thành phố này, th́ những tông tích trong qúa khứ của Richard Pinell sẽ được phanh mối. Trong lúc Hồi ức, th́ cô Mandy đă có thể mô tả lại một Toà lâu đài và c̣n có thể vẽ phác thảo lại được. Toà lâu đài này...có trong thực tế và trùng hợp với bản vẽ phác thảo của Mandy một cách toàn hảo.
Vào một buổi chiều, chúng tôi đă cùng cô ta lái xe đến một vùng thuộc về bảo vệ tài sản thiên nhiên rộng lớn, gần thành phố Krummau. Cô ta đă kể lại là cô ta đă nhảy từ trên đỉnh núi đá - núi đá này có tên là Núi đá trinh nữ - để tự kết liểu đời ḿnh. Có thật sự là cuộc đời của chàng trai Richard Pinell đả kết thúc ở tại đây hay không?

Trong lúc Hồi ức, Mandy đă kể lại:
1. Cô ta là đàn ông, tên là Richard Pinell, sinh vào tháng 10 năm 1827, có liên hệ đến thành phố Krummau, tại nước Tschechien (Tiệp khắc). Anh chàng Richard này rất nghèo, vào Chủ nhật phải đánh xe ngựa vào thành phố để đi mua hàng và bán hàng, phụ với Bố.
Nghề chính của anh chàng Richard là làm phu khuân vác, kiếm tiền sinh sống hàng ngày.
Thành phố Krummau có một Ṭa lâu đài rất đẹp, đứng bên bờ sông sẽ thấy toà lâu đài, nằm nổi bật giửa thành phố .Muốn vào Krummau th́ phải đi qua cầu, bởi v́
thành phố Krummau được bao bọc xung quanh bởi gịng sông Moldau.
Kiểm tra thực tế:
V́ Mandy sống ở miền Bắc Đức. và cô ta chưa hề đi du lịch ở Nam Đức hay Tiệp khắc bao giờ, nên cô ta sẽ bay xuống miền Nam Đức, và từ đó sẽ đi chung với phái đoàn bằng xe hơi qua nước Tiệp khắc. Trên đường đi vào Tiêp khắc, cô ta đă nhận ra nhiều h́nh ảnh rất „thân quen“. Khi đến Krummau, mọi người như bị ngộp thở, bởi v́ những chi tiết mà Mandy đă kể lại, th́ rất đúng với thực tế.
Cũng xin nói thêm là Thành phố Krummau có tên Tiệp là Cesky Knumlow (xin lỗi đă không gơ đúng tiếng Tiệp, v́ thiếu Font chữ). Tại đây ngày xưa, th́ 1/3 dân số đều nói tiếng Đức, đến năm 1992, th́ thành phố Krummau được UNESCO xếp loại vào một trong những „ Di Sản của Thế Giới“.
2. Cô Mandy kể thêm: giữa thành phố, th́ có một bồn nước khá to, bể nuớc th́ xây bằng đá tảng, đường phố th́ lầy lội, chỉ bốc lên những mùi thối của rác rến, đặc biệt mặt bằng tầng trên của Toà thị sảnh, có dạng cong tṛn của kiến trúc Barock.
Kiểm tra thực tế:
Mandy đă rất là hạnh phúc, khi cô ta t́m thấy ngay bồn nước to, nằm ở giửa thành phố, những bục đá vẫn c̣n nguyên vẹn. V́ thành phố đă được sửa chửa rất khang trang, và mặt tiền của Toà thị sảnh đă không c̣n đúng như diễn đạt; cho nên phái đoàn đă nhờ một hướng dẫn viên của Thành phố giúp đở. Ông ta chuyên nghiên cứu về lịch sử phát triển của thành phố, và xác nhận là thành phố ngày xưa rất lầy lội và bẩn thỉu, và ông ta c̣n đem một tấm h́nh in từ sách tài liệu để chỉ cho thấy là những ngôi nhà ở trung tâm này được xây vào thế kỷ thứ 17, nhưng rất tiếc là mái nhà kiểu Barock của toà nhà mà Mandy đă thấy, chỉ c̣n trong h́nh vẽ, v́ ngội nhà này đă được xây lên cao, nên mái cũ đă bị phá mất..
3. Trong lúc hồi ức, Mandy cho biết thêm chi tiết của một Nhà thờ mà „cô“ ta thường đi qua, mỗi lần vào thành phố; Nhà thờ th́ rất đẹp, có cổng to, và trước Nhà thờ đó có tượng Maria, choàng khăn trắng, xanh; trên tay trái bồng đứa con.
Kiểm tra thực tế:
Khi dẫn Mandy đến một Nhà thờ xây vào thế kỷ thứ 15, th́ cô ta thất vọng. Bởi v́ không t́m thấy được dấu vết quen thuộc. Nhưng cô ta quyết định đi ṿng ṿng thành phố, để t́m lại „Nhà thờ thân quen“; chưa kéo dài bao lâu, th́ cô ta đă phát hiên ra một phần mái của Nhà thờ, mà cô ta muốn t́m. Nhà thờ này bị „nằm bóp chẹt“ ở giữa những căn nhà lợp mái ngói cao 3 tầng; phía trước Nhà thờ qủa thật chỉ c̣n lại vết tích của cổng vào, và tượng Maria đang bồng con trên tay trái vẫn c̣n tồn tại.
Theo sách vở, th́ Nhà thờ này đă bị đóng cửa vào năm 1787 và sau đó; v́ nhu cầu, nên đă sửa lại thành nhà ở.
4. Cô Mandy c̣n cho biết kết thúc của cuộc đời ḿnh rất là buồn thảm, cô hay đi ra vùng ngoại ô, ở đó có một núi đá tên là Mädchenfelsen (tạm dịch là Núi đá trinh nữ), và "cô" không hiểu tại sao các thiếu nữ hay nhảy xuống đó để tự vẫn và "cô" đă đi lên đó, nằm trên mỏm đá, và ..có lúc cô ta cũng muốn nhảy xuống.
Kiểm tra thực tế:
Khi đi xung quanh thành phố, th́ Mandy đă chỉ cho phái đoàn phải lái xe đến một hướng nhất định, và cuối đường họ đă t́m thấy một núi đá cao sừng sững, ôm chân núi đá là một con lạch nước.
Để t́m hiểu thêm về sự tích núi đá này, phái đoàn đă nhờ một cô giáo viên dạy Trung học, cô chuyên dạy tiếng Đức và Lịch sử. Cô Giáo Viên kể rằng, núi đá có tên Đức là Mädchenstein hay Mädchenfelsen (Núi đá trinh nữ); bởi v́ ngày xưa có 4 anh, em trai đến ở vùng này, người anh trai thứ hai, tên là Jơop?? hắn là một tay đàn ông bạc ác và dă man, hắn đă quyến rũ rất nhiều cô thiếu nữ trong vùng, đến khi hắn đă chán chường cô nào, th́ hắn dụ cô ta lên mỏm đá, và đợi lúc thuận tiện là hắn xô nạn nhân xuống vực...
Khi được hỏi cảm tưởng, sau khi cuộc hành tŕnh, th́ Mandy cho biết là cô ta cảm thấy „thất vọng“, v́ cô ta đă là đàn ông trong tiền kiếp, và có một cuộc sống không được sáng sủa ǵ cho lắm, v́ cô ta cứ nghĩ là trong tiền kiếp, cô ta là một người phụ nữ „hết xẩy“, có cuộc
sống ngon lành, hay ít ra cũng làm được những ǵ „vĩ đại„ lắm. Nhưng kết cuộc là cô ta đă t́m ra được một từ biệt với cuộc sống „ngày xưa“, để sống cho cuộc sống mới, c̣n những người „thân quen“ trong tiền kiếp, nếu vẫn c̣n duyên nợ với cô, th́ nến họ muốn chắc là sẽ t́nh cờ „gặp gở“ lại với cô ta.

Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 
thangbe700
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 4
Msg 4 of 11: Đă gửi: 02 December 2005 lúc 9:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn thangbe700

Cám ơn Đông Anh đả chia xẻ với diển đàn.
Quay trở về đầu Xem thangbe700's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thangbe700
 
quangcom
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 16 February 2005
Nơi cư ngụ: Austria
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 60
Msg 5 of 11: Đă gửi: 03 December 2005 lúc 5:04am | Đă lưu IP Trích dẫn quangcom

Cám ơn bạn Đông Anh. Tôi có xem chương tŕnh Wer war Ich nhưng tiếc là tŕnh độ tiếng Đức của tôi không được tốt nên không hiểu nhiều. Nay được đọc lại bài dịch của bạn thấy thật thú vị. Mong bạn tiếp tục dịch thêm cho các chương tŕnh tới.
Quay trở về đầu Xem quangcom's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi quangcom
 
nhoccon1412
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 15 March 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 329
Msg 6 of 11: Đă gửi: 06 December 2005 lúc 4:34am | Đă lưu IP Trích dẫn nhoccon1412

cám ơn Đông Anh
Quay trở về đầu Xem nhoccon1412's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nhoccon1412
 
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 7 of 11: Đă gửi: 07 December 2005 lúc 1:02pm | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh

Chào Các bạn,
cám ơn các bạn đă ghé qua đọc bài và cho ư kiến.
Đông Anh sẽ cố gắng theo dơi và tường thuật tiếp những chương tŕnh tới.
Thân,
Đông Anh
Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 8 of 11: Đă gửi: 07 December 2005 lúc 1:46pm | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh

Tập 3(phát tối thứ Ba, ngày 06.12.2005, từ 22:05 Uhr đến 23:05 Uhr, Đài VOX).
Trong tập 3 này, th́ 2 người sẽ được bà Buechner làm xuất hồn là:
 Christiane, có chồng và con trai, thú giải trí của bà là vẽ tranh. Bà ta rất vui mừng về cuộc hành tŕnh, bởi v́ bà rất hồi hộp để „xem thấy“ lại những cái ǵ, mà đang chờ đón bà ta.
 Andreas, sinh năm 1961, cậu ta là một người nổi tiếng ở khu vực cậu đang ở, v́ tính t́nh vui vẻ hay cười đùa của cậu, thú vui của cậu là bơi lội và „ủi tất“.

Christ́ane: (Hubert)
Christiane ist Künstlerin, stammt aus Belgien und wohnt in Frechen bei Köln. Auch sie lässt sich auf das Experiment einer Rückführung ein und berichtet sehr ausführlich aus einem ihrer früheren Leben.
Christiane erzählt, dass sie Anfang des 20.Jahrhunderts als junger Mann namens Hubert in Frankreich in einem Ort namens Chaumont gelebt habe, in der Rue de la Nation oder der Rue de la Republik Nr.2.

Den Ort Chaumont gibt es, er liegt mitten in der Champagne unweit des Ortes Reims. Eine Straße mit dem von ihr angegebenen Namen hat es in Chaumont nie gegeben, es gab keine Rue de la Republik, wohl aber eine Avenue de la Republik. Unser erster Anlaufpunkt ist die Avenue de la Republik Nr. 2. Auf den ersten Blick sieht hier alles ziemlich neu aus, aber in zweiter Reihe finden sich Häuser aus altem Sandstein. Unmittelbar nach der Rückführung hat Christiane das Haus aufgezeichnet, das sie in ihrem früheren Leben bewohnt hat und sie erkennt dieses Haus in der Avenue de la Republik Nr. 2 wieder. Und auch eine Burg mit einem besonderen Turm, von dem Christiane erzählt hat, gibt es in Chaumont. Christianes Reise in ihr früheres Leben fängt damit gerade erst an...

Bà Christiane là một họa sĩ, xuất xứ từ nước Belgien ( Bỉ), và hiện đang sống tại Frenchen, thuộc ngoại ô thành phố Köln (Tây-Bắc Đức). Bà ta cũng muốn „thí nghiệm“, nên cũng để làm cho xuất hồn, và đă tường thuật rất tỉ mỉ lại một trong những tiền kiếp của bà.
Bà đă kể rằng: Bà là một bé trai, tên là Hubert, sống ở đầu Thế kỷ 20 tại Pháp, trong một địa phương, có tên là Chaumont, sống tại đường Rue de la Nation hay là Rue de la Republik số 2.
Địa danh Chaumont là có thật, nằm giửa thành phố Champagne, không xa địa phận của thành phố Reim cho lắm.
Con đường với tên Rue de la Republik (tạm dịch là đường Cộng hoà), mà bà ta đă cho biết, th́ không bao giờ có trong thành phố Champagne, nhưng lại có một con đường khác tên là Avenue de la Republik (tạm dịch là Đại lộ Cộng hoà).
V́ vậy, điểm khởi hành của chúng tội sẽ bắt đầu từ Avenue de la Republik số 2. Thoạt đầu, th́ con đường này trông có vẻ hoàn toàn mới, nhưng bắt đầu từ căn thứ hai, th́ tất cả các căn nhà đều xây bằng đá cát mịn, rất cũ. Ngay sau khi „hồi ức“, th́ Christiane đă phát họa lại ngôi nhà, mà bà đă sống ở đó, và bà ta đă nhận ngay ra
đúng căn nhà ở đường Avenue de la Republik số 2. Và một toà lâu đài với một cái mái chuông đặc biệt, mà Christiane đả kể lại, th́ cũng c̣n... hiện hữu tại Chaumont.
Cuộc hành tŕnh vào cuộc tiền kiếp của Christiane, sẽ được bắt đầu từ nơi này ....

Trong lúc hồi ức, th́ bà Christiane đă kể lại:
1. Bà đă là một cậu bé, tên là Hubert, khoảng độ 13 hay 14 tuổi, được sinh vào năm 1902 hay 1903, tại thành phố Chaumont (nước Pháp), bà đă sống tại đường Avenue de la Republik số 2. Tuy c̣n nhỏ, nhưng cậu bé phải làm việc để nuôi mẹ.
Đi vào thành phố, th́ sẽ thấy tượng một người lính đang cầm cờ..

Kiểm tra thực tế:
Bà Christiane tuy là gốc người Bỉ, nhưng bà ta ở Nam Bỉ, ở tại đó, th́ không dùng tiếng Pháp.
Thành phố Chaumontlà có trên bản đồ nước Pháp, và cũng may là trung tâm của Chaumont không có thay đổi ǵ. Nên phái đoàn quyết định cùng bà Christiane đến Chaumont (Pháp)để điều tra. Bà Christiane chưa bao giờ đặt chân đến thành phố Chaumont,nhưng mới đứng trước căn nhà số 2,đường Avenue de la Republik, th́ bà ta đă nói ngay là nhà này không sâu, v́ phía sau có một mảnh vườn rất rộng, và phía sau có cửa sổ nằm trên mái nhà. Quả thật, tuy mảnh vườn đă không c̣n, v́ đă được sửa sang thành bải đậu xe, nhưng từ sân đậu xe, phái đoàn đă quan sát phía sau căn nhà, và đúng như lời mô tả của bà.
Đi vào trung tâm thành phố, th́ phái đoàn đă thấy ngay „tượng đài chiến sĩ“ rất to, và chi tiết cũng giống như lời bà đă thuật lại trong lúc xuất hồn.

2. Khi được hỏi là trong thành phố có ǵ „đặc biệt„ nữa không, th́ bà Christiane cho biết rằng ở Chaumont có một toà lâu đài, có 2 tháp cao h́nh tṛn; lâu đài th́ nằm trên núi cao. Và trong tháp này th́ có nhiều người phải sống ở đó, ngoài ư muốn; v́ họ bị đẩy vào và bị nhốt ở đó.

Kiểm tra thực tế:
Đi lên một con đường dốc dài, từ xa phái đoàn đă thấy ngay một ṭa lâu đài rất đẹp, mặt tiền được ốp bằng đá thiên nhiên. Ôm xung quanh phiá sân sau, là một sườn dốc khá sâu. Nhưng vẫn chưa t́m thấy hai tháp cao tṛn; v́ vậy phái đoàn đă nhờ một người chuyên hướng dẫn du khách ở vùng Chaumont để hỏi. Sau khi đi ṿng quanh lâu đài, ông ta đă chỉ cho bà Christiane tháp tṛn, mà bà muốn t́m; và ông c̣n cho biết là sau Cách mạng Pháp, th́ có rất nhiều người bị nhốt ở trong đấy, có nghĩa là nơi đó đă biến thành nhà giam.

3. Bà Christiane kể lại lúc đó, bà đă „thấy „đang có chiến tranh và quân Đức cũng đă có mặt tại vùng Zedan.

Kiểm tra thực tế:
Phái đoàn đă nhờ một nhà Sử học người Pháp để kiểm tra lại những sự kiện lịch sử, mà Bà đă kể lại. Ông Henry Dutailly, vừa là Tiến sĩ về Lịch sử, lại là Giảng viên đại học trong Đại học quân Đội, ông ta đă xác nhận rằng: quân đội Đức đă có mặt tại nước Pháp vào chiến tranh Thế Giới thứ hai, là chuyện rất rơ, và chuyện quân đội Đức đă có mặt tại Zedan, trong chiến tranh Thế Giới thứ nhất, th́ cũng có thật.
Ngoài ra, bà Christiane đă phát thảo tại chổ trang trí nội thất trong căn nhà của bà đă ở „ngày xưa“ tại Chaumont, th́ cũng được ông Dutailly xác nhận là chính xác.

4.Khi hỏi về đặc điểm của Nhà thờ trong vùng, th́ bà Christiane cho biết là có một Nhà thờ tên là Basilika Saint Jean, nhà thờ rất đẹp và to, có 2 tháp chuông, và đặc biệt là cửa vào rất đẹp, có trạm trổ, và có rất nhiều tượng được dựng ở ngoài tường; nhưng bản thân cậu bé Hubert là chưa từng bước chân vào Nhà thờ, v́ cậu ta không muốn, và cậu ta không hiểu lư do tại sao?; nhưng cậu thấy ông Cha ở Nhà thờ, cứ bắt mọi người phải mang đồ đến „cống nạp“ cho ông, trong khi ông ta đă có đủ mọi thứ.

Kiểm tra thực tế:
Đi ṿng trong thành phố, phái đoàn đă phát hiện ra Nhà thờ Basilika Saint Jean, từ h́nh dáng Nhà thờ cho đến cổng vào, th́ rất chính xác theo lời mô tả của bà Christiane, chỉ có điều là tượng Maria bồng con và tượng thiên thần rất to và đẹp ... đă không c̣n ở đó, người ta chỉ thấy trên tường c̣n lại... dấu vết của hai bức tượng đă mất. Và bà Christiane đă quyết định ... bước vào Nhà thờ để xem, mặc dù trước đây cả "trăm năm", bà nhất định không muốn vào. Sau khi ra khỏi Nhà
thờ, th́ bà cảm thấy nhẹ nhỏm, bởi v́ bà đă hiểu lư do tại sao ngày xưa, bà không muốn vào, chỉ v́ „bà“ đă thấy có sự không công bằng tại đây, và điều này đă làm cho cậu bé Hubert tức giận, nên cậu ta nhất quyết không bước vào. Khi đi qua một căn nhà nguyện khác, có tên là Jesuisten Kapelle, th́ bà Christiane cảm thấy rất là bất an, nên bà cũng không vào.
5. Bà Christiane đă mô tả ở Charmont có một chiếc cầu rất to và dài, cầu có rất nhiều h́nh cong, bán nguyệt.

Kiểm tra thực tế:
Không xa Chaumont cho lắm, phái đoàn đă t́m thấy một chiếc cầu, được thiết kế theo dạng Aquädukt, cầu đă được bắt đầu xây vào năm 1855 và hoàn thành vào năm 1856. Chiếc cầu này có 3 tầng, phía trên là đường xe lửa, tầng dưới là cầu dành cho người đi bộ.(xin nói thêm Aquädukt là một hệ thống dẫn nước có từ hồi Rome, được xây như chiếc cầu, nhưng mặt bằng trên là một rănh sâu, dùng để dẫn nước từ sông, hồ về thành phố).
6. Kết thúc đời cậu bé Hubert trong tiền kiếp th́ rất là buồn thảm, v́ cậu bé đă bị đau đầu rất dữ dội, cậu ta đă phải chạy 5 hay 6 Km để vào một khu rừng. Trong rừng không có lối đi, nên cậu phải dẫm lên gai góc và qua những cây to, cho đến lúc cậu không biết rằng ḿnh đang ở đâu và cậu bé đă chết trong rừng. Xác của cậu th́ không ai t́m thấy, v́ người ta cũng đă không bỏ công nhiều để t́m kiếm cậu bé nghèo nàn Hubert...

Kiểm tra thực tế:
Từ trung tâm Chaumont, ra ngoài ngoại ô khoảng 6 Km th́...có khu rừng hoang. Phái đoàn đă cùng bà Christiane đến đó, và bà đă nhớ lại rất rơ là cơn đau đầu đă làm cho cậu bé Hubert hoảng sợ,cậu ta phải chạy đến một nơi rất yên tỉnh, để không c̣n nghe ǵ nữa; rồi cậu bé cảm thấy có cảm giác rất „ấm áp“ trong đầu, cậu té xuống và mọi chuyện đă qua...

Khi được hỏi về cảm tưởng sau khi hồi ức: Bà Christiane đă không hiểu được, là trong lúc hồi ức th́ bà không phải là con người thật của ḿnh, mà là một con người khác, và sống ở thời đại và thế giới khác. Tuy là bà đang sống cho cuộc sống hiện tại, nhưng bà vẫn rất lấy làm thú vị, khi biết được ḿnh có „điều kiện“ để „sống lại“ và t́m hiểu một „đời sống khác“ của ḿnh. Trước khi hồi ức, th́ bà ta không phải là con người đa sầu, đa cảm, để mà có thể dễ dàng „chảy nước mắt“; nhưng sau khi hồi ức th́ bà dễ bị cảm xúc cảm hơn, nhất là mỗi khi bà nghĩ đến thời tiền kiếp của bà.

Andreas (Sebastian)
Andreas wuchs in Meissen in der ehemaligen DDR auf, als Sohn einer Thüringerin und eines Studenten aus West-Guinea. Heute lebt er in Köln und ist Besitzer eines Kiosks in der Innenstadt. Während seiner Rückführung erzählt er, dass sein Name Sebastian gewesen sei und er 1755 in einem Ort namens Teplice im Schloss Durchau geboren wurde. Als ungewolltes Kind wurde er in der Kirche aufgezogen.
Die Stadt Teplice gibt es, sie liegt im tschechischen Böhmen. Ein Schloss Durchau ist nicht zu finden, dafür aber in der Nähe von Teplice das Schloss Duchov. Das Schloss Duchov stammt aus dem 16. Jahrhundert, im 18. Jahrhundert lebte dort die Adelsfamilie von Waldstein. Andreas konnte in der Rückführung allerdings keinen Nachnamen nennen.

Im 18. Jahrhundert lebten auf dem Schloss etwa 120 Menschen: Die Waldsteins, ihre Köche, Mägde und Knechte und außerdem viele prominente Urlaubsgäste wie Mozart, Beethoven oder Goethe. Ein Treffen mit dem Schlosshistoriker Jiri Wolf ergibt folgendes: Der Name Sebastian war damals sehr gebräuchlich, und tatsächlich wurden hier zahlreiche uneheliche Kinder geboren. Meistens hat die Kirche die Kinder zur Erziehung aufgenommen. Die weitere Recherche führt zu einem alten Taufbuch und zu dem "besonderen Wasser" von Teplice...


Andreas lớn lên ở thành phố Meissen, thuộc Cộng Ḥa Dân Chủ Đức ngày xưa, là con trai của một cô xứ Thüringen và của một cậu sinh viên từ xứ Tây Guinea (PhiChâu). Cậu Andreas hiện nay sống ở thành phố Köln (Tây bắc Đức), và là chủ tiệm của một tiệm bán sách báo trong trung tâm thành phố Köln. Trong lúc „hồi ức“, th́ cậu ta đă thuật lại, cậu ta tên là Sebastian và đă được sinh vào năm 1755, tại địa phương tên là Teplice, trong một Ṭa lâu đài tên là Durchau. Đứa bé „ngoài ư muốn“ này đă được nuội nấng, dạy dỗ trong Nhà thờ.
Điạ danh Teplice là có thật, nằm trong nước tschechischen-Böhmen (Tiệp khắc).Toà lâu đài với tên là Durchau th́ không t́m thấy, nhưng ở gần thành phố Teplice, th́ có Toà lâu đài với tên là Duchov. Ṭa lâu đài Duchov đă có từ thế kỷ thứ 16, và trong thế kỷ thứ 18, th́ gia đ́nh quư tộc gịng họ Waldstein đă sinh sống ở đây. Andreas đă không biết được họ thật của ḿnh trong lúc hồi ức..
Trong thế kỷ thứ 18, th́ đă có khoảng 120 người sống trong Toà lâu đài này: Những người trong gịng họ Waldstein, bồi bếp, hầu gái, hầu cận, và nô bộc; và ngoài ra c̣n thêm những vị thượng khách nổi tiếng đến để nghĩ hè như Mozart, Bêethoven hay là Goethe. Qua cuộc gặp gỡ với nhà sử học chuyên nghiên cứu về lâu đài ở đây, ông Jiri Wolf, th́ được biết rằng: tên Sebastian lúc bấy giờ rất được thông dụng, và thật sự ở đây đă có rất nhiều đứa trẻ „ngoài gía thú“ được sinh ra đời.
Phần lớn là những đứa trẻ này, đă được Nhà thờ thâu nhận để nuôi dưỡng. Trong một cuộc điều tra khác, th́ chúng tôi đă t́m đến một cuốn sổ khai sinh rất xưa và tới „nguồn nước đặc biệt“ của vùng Teplice.

Trong lúc hồi ức, th́ cậu Andreas đả kể lại:
1.Cậu ta sinh năm 1755, trong ṭa lâu đài tên là Durchau, trong thành phố Teplice (Tiệp khắc); cậu là một đứa bé không được thừa nhận, nên cậu không được phép sống trong toà lâu đài, v́ vậy cậu ta đă bị mang đi bởi một ông Cha hay thầy tu; mặc dù bà mẹ đă khóc lóc rất nhiều.

Kiểm tra thực tế:
Thành phố Teplice th́ có trên bản đồ nước Tiệp, nhưng tại đây th́ không có ṭa lâu đài nào tên Durchau, mà chỉ có tên là Duchov. Andreas th́ chưa bao giờ bước chân đến thành phố này; nên phái đoàn quyết định để cho cậu ta bay từ Köln (Tây Đức) sang Dresden (Đông Đức) và từ đó họ sẽ cùng cậu lái xe qua Tiệp khắc. Khoảng 10 Km, trước khi vào Teplice th́ chúng tôi đă t́m thấy Toà lâu đài này rất đẹp có tên là Duchov. Để kiểm chứng lại những nguồn tin mà Andreas đă cho biết, th́ phái đoàn đă nhờ 2 người Tiệp giúp đở. Một là Nhà sử học chuyên nghiên cứu về lâu đài, và một cô hướng dẫn khách du lịch. Ông sử gia cho biết: tên Sebastian rất được thường dùng trong thời gian đó, và chuyện những đứa con ngoài gía thú cũng không có ǵ là hiếm cả. Bởi v́ là trẻ „vô thừa nhận“, nên chúng phải bị giao cho Nhà thờ nuôi dưỡng và giáo huấn.
Lục trong sách khai sanh thuộc về toà lâu đài, trong năm 1755, th́ không có tên Sebastian được ghi vào sổ; nhưng điều này cũng được cô hướng dẫn viên du lịch giải thích: chỉ có những đứa con „chính thức“ của những tay hầu tước mới được ghi vào sổ khai sinh, c̣n đối với những đứa con „rơi“ của họ với những cô hầu gái, th́ không được ghi sổ, và c̣n phải bị bắt đem đi .
2. Cậu Andreas c̣n cho biết thêm là ở trung tâm phố chợ, có một bồn nước. Và ở Teplice có nguồn nước rất quư, v́ vậy đă thu hút khách du lịch đến rất đông. Cậu ta đă phát thảo lại bồn nước ở đây và nhiều Nhà thờ nằm xung quanh: Một trong những Nhà thờ, mà rất được cậu ta
yệu mến tên là St. Johannes

Kiểm tra thực tế:
Qủa thật thành phố Teplice từ xưa đến nay, đă lôi cuốn rất nhiều du khách từ khắp mọi nơi trên Thế giới, v́ có nguồn nước thiên nhiên chửa lành rất nhiều bệnh. Cô hướng dẫn viên du lịch đă cùng phái đoàn đi ra trung tâm phố chợ, th́ đă thấy bồn nước to, rất đẹp. Trước đây, th́ có những nguồn nước đă chảy ra từ những tượng đá, làm đầy bồn; ngày nay th́ đă ngưng hoạt động. Ở đây, th́ Andreas đă nhận ra ngay Nhà thờ St. Johannes, mà cậu ta đă có cảm giác được „che chở“ trong Nhà thờ này, khi cậu ta c̣n là cậu bé 10 tuổi. Chưa bước vào, th́ cậu ta đă mo tả là trong Nhà thờ có một cột rất to, ôm ṿng quanh cột là một cầu thang cuốn, dẫn đi lên gác chuông. Ngày xưa trong cột này, cậu ta đă hay chui vào đó, để trốn các ông Cha. Bước vào Nhà thờ, th́ mọi vật vẫn c̣n nguyên như cũ, chỉ có cột nhà rỗng ngày xưa, ngày nay người ta đă xây lại thành tường.
3. Cậu Andreas đă kể rằng: cậu bé Sebastian bị đem giao hết từ Nhà thờ này, qua Nhà thờ khác. Cuối cùng th́ cậu ta đến tu một tu viện tên là Mariaschein, và đă sống như một thầy tu trong tu trong viện này.

Kiểm tra thực tế:
Cả lục điạ Châu Âu chỉ có một tu viện, có tên là Mariaschein, và chỉ nằm cách Teplice khoảng 5 Km, phái đoàn đă đi đến đó và liên hệ với một bà chuyên quản lư về tu viện này. Bà ta cho hay là trong tu viện, th́ có hai ngôi nhà riêng rẽ: Tu viện và Nhà thờ. Tu viện th́ được xây vào năm 1679, c̣n Nhà thờ xây vào năm 1706, nội thất ở trong hai ngôi nhà này, th́ vẫn không có ǵ thay
đổi từ nhiều năm nay.
4. Cậu Andreas c̣n tả tỉ mỉ về một tượng Đức Mẹ Maria đang ngồi, bồng con có khoác áo thật dài, được đặt trên một bậc thềm thấp. Trong Nhà thờ, giữa đường đi rộng, th́ chỉ có hai dăy ghế. Chạy dọc hai bên tường, mỗi bên có đến 3 pḥng xưng tội, làm bằng gỗ đen mun, có trạm trổ rất cầu kỳ.

Kiểm tra thực tế:
Chỉ mới bước vào Nhà thờ vài bước, cậu Andreas đă biết ngay là t́m tượng Đức mẹ "thân quen" ở đâu. Quả thật
tượng này th́ đă có trong Nhà thờ từ năm 1705, đặt trên bậc thềm thấp. Cậu ta đă ứa lệ và bảo đây là bức tượng mà cậu ta đă cố t́nh t́m kiếm. Nơi bức tượng này, „ngày xưa“ cậu ta đă t́m thấy hơi ấm của t́nh thương, bởi v́ khi nh́n mặt Đức Mẹ Maria, th́ cậu lại nhớ đến h́nh ảnh xinh đẹp của người Mẹ trẻ đáng thương, cô ta đă la khóc thật nhiều, lúc con ḿnh bị bắt đi. Và ngay bên hông tường Nhà thờ, chạy dọc theo các dăy ghế, th́ những pḥng xưng tội vẫn c̣n nguyên như cũ....
Khi được hỏi về cảm tưởng sau khi hồi ức, th́ cậu ta đă nói: Cậu ta rất lấy làm ngạc nhiên, bởi v́ những ǵ cậu đă thấy trong lúc xuất hồn, nay đă hiện ra trước mắt. Từ lâu, cậu vẫn đặt câu hỏi, có thật là sẽ có cuộc sống khác sau khi chết, hoặc đă có một cuộc sống trước khi chết hay không? Qua cuộc „hành tŕnh“ này, th́ câu hỏi của cậu đă có câu trả lời, và theo cậu ta th́ mọi người trong chúng ta ai ai cũng vẫn tiếp tục .....sống hoài.



Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 
thangbe700
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 26 November 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 4
Msg 9 of 11: Đă gửi: 07 December 2005 lúc 8:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn thangbe700

Cám ơn Đông Anh rất nhiều đả bỏ công tóm tắt chuyện cho diễn đàn. Sau khi đọc xong, tôi thấy thời gian họ chết và đầu thai trở lại rất là lâu. Không biết ư kiến của các bạn ra sao.
Quay trở về đầu Xem thangbe700's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thangbe700
 
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 10 of 11: Đă gửi: 16 December 2005 lúc 7:26am | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh

Tập 4 (phát vào thứ Ba, 13.12.2005 t ừ 22:05 Uhr đến 23: 05 Uhr tại đài VOX)
Trong tập 4 này, có 2 người sẽ được bà Buechner giúp họ trở về hồi ức:
 Gerti, 52 tuổi, thư kư. Bà ta rất sợ trước khi đi theo phái đoàn để kiểm chứng lại những ǵ bà đă thấy. V́ có thể qua đó, th́ sẽ tăng thêm nơi bà niềm tin vào kiếp luân hồi, hoặc là cuộc sống mới sau khi chết.
 Kordula, 35 tuổi, có chồng và 2 con trai. Cô ta rất tin tưởng vào luân hồi cũng như là nhờ vào cúng bái, mà có thể „tẩy“ hết bệnh tật ra ngoài cơ thể.

Gerti (Paul Gilmore)
Gerti ist Bürokauffrau und lebt in der Nähe von Wiesbaden. Wir gehen mit Gerti auf Seelenreise und versuchen Pfade ihres vergangenen Lebens zu entdecken. Gerti beschreibt uns ihr Leben als Schäferjunge Paul Gilmore zu Beginn des 20. Jahrhundert in Wales. Sie erzählt von dem Ort Pembroke, in dem sie gelebt habe. Diesen Ort gibt es, er liegt im Südwesten Großbritanniens, in Wales, unweit der Küste. Wir fahren mit Gerti dorthin.
Gerti hatte noch in Deutschland einen Plan der Stadt Pembroke gezeichnet. Vor Ort wollen wir mit Hilfe von alten Karten überprüfen, ob Gertis Angaben stimmen. Tatsächlich entspricht Gertis Zeichnung exakt der Karte von Pembroke. Auch eine von Gerti erwähnte Burg ist an der beschriebenen Stelle in Pembroke zu finden. Gerti konnte sich außerdem an einen auffälligen großen Platz im Innern der Burg erinnern. Diesen Platz gibt es heute noch, und auch die Lage der Burg am Wasser stimmt mit Gertis Beschreibungen überein.
Ein weiteres Detail aus Gertis früherem Leben finden wir in der Monkton Prioy Church, in der Nähe der Burg. Gerti hatte diese Kirche mit einem Freimaurerzeichen in Verbindung gebracht und dieses Zeichen, das äußerst selten in Kirchen zu finden ist, entdecken wir dort. Im Archiv von Pembroke machen wir uns auf Namenssuche. Hat Gerti 1905 als Schäfer Paul Gilmore in Pembroke gelebt?

Gerti là nữ nhân viên thương mại văn pḥng, hiện đang sống tại gần thành phố Wiesbaden (Trung Đức. Chúng tội đă cùng bà làm một cuộc „hành tŕnh du hồn“ để khám phá ra những „đường xưa lối cũ„ của bà ta trong tiền kiếp. Gerti mô tả cho chúng tôi biết, bà ta đă là cậu bé chăn cừu, có tên là Paul Gilmore, sống vào đầu thế kỷ thứ 20, tại vùng Wales (Anh quốc), và đă từng sống ở vùng Pembroke. Vùng này có thật và nằm ở phía Tây-nam nước Anh, tại Wales, không xa bờ biển cho lắm. Chúng tôi đă cùng Gerti đi đến đó.
Lúc c̣n ở Đức, th́ Gerti đă phát thảo được bản đồ của thành phố Pembroke. Trước khi vào thành phố này, th́ chúng tôi dựa vào một bản đồ cũ, để kiểm tra lại những lời chỉ dẫn của Gerti, xem rằng có đúng hay không? Qủa thật, th́ bản phác thảo của Gerti th́ hoàn toàn chính xác với bản đồ của thành phố Pembroke. Đồng thời th́ một thành quách ở tại một vi trí, mà bà Gerti đă mô tả lại, th́ cũng t́m thấy tại Pembroke. Ngoài ra, bà ta c̣n nhớ đến ở trong thành có một sân rất rộng và khá đặc biệt. Sân rộng này hăy c̣n tồn tại và cũng như địa điểm của thành nằm ở gần vùng sông cũng thống nhất với mô tả của Gerti.
Những chi tiết khác liên quan đến cuộc sống tiền kiếp của Gerti cũng được t́m thấy trong Nhà thờ Monkton Prioy, Nhà thờ nằm không xa thành cho lắm. Gerti c̣n cho biết là Nhà thờ này có dính dáng đến một Symbole gọi là Freimauerzeichen, Symbole Freimauerzeichen rất là khó, để mà t́m thấy trong Nhà thờ, nhưng chúng tôi đă phát hiện ra...Trong hồ sơ lưu trữ của thành phố Pembroke, chúng tôi đă cố gắng t́m ra tên của cậu Paul Gilmore.
Có thật sự Gerti đă là cậu bé chăn cừu Paul Gilmore, và đă sống tại đây vào năm 1905?
Trong lúc Hồi ức, th́ Gerti đă kể lại
1. Bà ta là một cậu bé tên là Paul Gilmore, sinh năm 1890, mồ côi cha rất sớm. Cậu không được đi học, nên cậu hoàn toàn „mù chữ“. Cậu phải đi làm cho một ông chủ trại chăn cừu để kiếm sống. Bà Gerti cũng c̣n vẽ lại đường vào thành phố Pembroke (nơi cậu Paul đă sống và làm việc ở đó).
Kiểm tra thực tế:
Bà Gerti th́ chưa bao giờ đặt chân lên nước Anh. Phái đoàn đă cùng bà bay đến phi trường Luân đôn và từ đó, họ lái xe đến thành phố Pembroke. Chưa vào thành phố, chúng tôi đă đến pḥng tàng trữ tài liệu, gặp ông John David (Nhà sử gia tại địa phương). Ông đă so sánh bản vẽ của bà Gerti và bản đồ rất xưa của thành phố Pembroke năm 1908, th́ hai bản vẽ này rất trùng hợp với nhau.
2. Bà c̣n mô tả về một thành quách rất to, có 4 hay 5 tháp canh. Thành này đă từ lâu không c̣n ai ở. Giữa thành là sân cỏ, và ở trung tâm là một sân trống khá to.
Kiểm tra thực tế:
Từ xa, th́ phái đoàn đă thấy ngay tường thành khá cao. Bước vào thành, th́ bà Gerti rất bàng hoàng v́ tất cả hiện ra rất đúng như những ǵ bà đă thấy trong lúc hồi ức; mặc dù trước đây 100 năm, bà chỉ vào thành này chơi chỉ có vài lần: không những về quan cảnh trong thành mà ngay đến phía ngoài thành, có gịng sông chạy ôm xung quanh. Để hiểu rơ thêm về „nguồn gốc“ của cái sân trống ở thành, th́ phái đoàn đă gặp ông Brian, là người nghiên cứu về lịch sử của thành; ông cho biết là sân trống này đă có từ năm 1908, ngày xưa được sử dụng là sân chơi Tennis.
3. Bà c̣n cho biết trong vùng có một Nhà thờ, bà cũng vào vài lần. Trong Nhà thờ này có những bức tranh vẽ theo kỷ thuật Fresko (Tranh vẽ theo kỷ thuật Fresko là loại tranh được vẽ thẳng lên tường, trong lúc lớp vữa trét tường c̣n ướt, sau khi khô, th́ màu và nét vẽ sẽ giữ lại rất lâu) và trên cổng Nhà thờ có một Symbole gọi là Freimauerzeichen (Xin nói thêm là thường thường trong nghĩa địa ở Châu âu, th́ trên những tấm mộ bia, người ta hay khắc thêm dấu thập, hoa hồng, đôi bàn tay cầu nguyện v...v... th́ có thêm một dấu hiệu cũng hay được dùng gồm có compa và cái búa- th́ được gọi là Freimauerzeichen ).
Kiểm tra thực tế:
V́ lời thuật lời của Bà Gerti về dấu hiệu Freimauerzeichen tại Nhà thờ, là điều rất là „táo bạo“ đối với khuôn phép của Nhà thờ; nên chúng tôi phải nhờ ông Darrel John, là Sử gia chuyên nghiên cứu về Nhà thờ để được giúp đở. Ông cho biết rằng không có Nhà thờ nào, mà có thể chấp nhận là dấu hiệu Freimauerzeichen này nằm trước cổng Nhà thờ. V́ vậy, bà Gerti nhất quyết bước vào để t́m hiểu tại sao bà đă thấy dấu hiệu Freimauerzeichen có liên quan đến Nhà thờ này. Bước vào Nhà thờ, bà đă thấy lại những bức tranh vẽ theo kỷ thuật Fresko, như bà đă thấy trong lúc hồi ức, sự khám phá này đă làm bà rất xúc động và bà quyết định là đi qua pḥng khác, nằm bên hông điện chính. Và quả thật, trong pḥng này trên những cửa sổ dạng Gotik, làm bằng kính màu bà đă phát hiện ra dấu hiệu Freimauerzeichen, rất khó nhận thấy giữa những hoa văn khác. Khi được hỏi về dấu hiệu này, th́ ông John cho biết là cả vùng Pembroke chỉ có một Nhà thờ có để dấu hiệu này, và cả nước Anh chỉ có 2 Nhà thờ là có để dấu hiệu này mà thôi.
4. Bà Gerti cho biết là lúc bà 15 hay 16 tuổi (1905 hay 1906), th́ sống ở Pembroke.     
Kiểm tra thực tế:
Phái đoàn quay trở lại pḥng lưu trữ tài liệu thành phố để kiểm tra lại, th́ trong sổ kiểm tra dân số của Pembroke th́ không có tên của cậu Paul Gilmore, ngay cả đến danh sách bầu cử cũng không có, th́ được giải thích rằng thời gian cậu cư ngụ ở đó quá ngắn và c̣n quá nhỏ, để người ta có thể điền tên cậu vào danh sách dân số của thành phố.
5. Trong lúc hồi ức, bà Gerti kể rành mạch về cách chửa bệnh những con cừu, thậm chí là bà đă dùng dao đâm vào bụng cừu để cứu chúng.
Kiểm tra thực tế:
V́ lời kể của bà về cách „chữa bệnh“ các con cừu có vẻ „táo bạo“, nên phái đoàn đă nhờ ông Stephan James giúp hộ. Ông James sinh năm 1930 tại Pembroke, nghề chính của ông là nhân giống và chăm sóc cừu. Phái đoàn đă nhờ bà Gerti chỉ chổ phải đâm vào bụng cừu, để cứu tính mạng cho chúng, khi chúng bị đầy hơi. Ông James đă rất lấy làm ngạc nghiên là tại sao một phụ nữ thành thị như bà Gerti lại có thể rành về chuyện này; và trên thực tế, sau năm 1940 th́ thủ thuật này đă không được áp dụng nữa. Trước đó, khi điều kiện phát triển về y tế chưa được tân tiến, th́ dân chăn cừu phải làm những thủ thuật kể trên để cứu chúng,khi chúng bị tức bụng; v́ nếu không chỉ sau vài giây, th́ chúng sẽ bị chết.
Sau được ông James giải thích, th́ bà Gerti cảm thấy nhẹ nhỏm, v́ bà không hiểu được tại sao trong lúc hồi ức; bà có thể „ác độc“ đến độ có thể cầm dao đâm vào bụng những con vật dể thương như vậy.
6. Bà kể tiếp là sau khi ông chủ nông trại bị bệnh, th́ ông ta đă bán hết đàn cừu. Không c̣n cách ǵ để sinh sống, nên cậu bé Paul đă lên tàu, rời quê hương sang lập nghiệp ở Pháp. Tại đây, cậu cũng làm đủ nghề. Một ngày nọ, cậu bị bệnh rất nặng nằm trên giường, chỉ c̣n da bọc xương. Rất là đói, nhưng cậu không thể nào nuốt được bất cứ cái ǵ vào bụng v́ cơn đau bụng khủng khiếp cứ hành hạ cậu, và cậu đă kiệt sức và chết lúc 25 tuổi.
Kiểm tra thực tế:
Ra đến hải cảng của Pembroke, th́ bà Gerti không chắc chắn là bà đă rời nước Anh từ hải cảng này, nên phái đoàn đă quay trở lại vị trí của thành. Ở một phía bờ thành, bà có cảm tưởng là bà đă xuất hành từ đây. Nhưng chuyện cũng khó tin, v́ mực nước ở gịng sông rất cạn, không thể nào là nơi cập tàu thuyền được. Chúng tôi gặp lại ông Brian, v́ điều ngạc nhiên là ông đă cho chúng tội xem những tấm bưu thiếp ngày xưa, th́ quả nhiên trước đây khoảng 50 năm, th́ nơi đây cũng là địa diểm xuất phát của tàu thuyền, và bà đă nhận ra bức h́nh của chiếc thuyền, mà ngày xưa bà đă bước xuống, để rời xứ Pembroke.
Được hỏi cảm tưởng của bà, th́ bà cho biết là bà biết chắc là bà đă sống ở vùng Pembroke (Anh quốc) ngày xưa; và bà rất tin vào việc linh hồn của ḿnh cứ đầu thai vào nhiều „thân xác“ khác nhau, cũng như là kiếp luân hồi.

Kordula (Karla)
Kordula ist Krankenschwester und lebt in Rheine, in Nordrhein Westfalen. In der Rückführung gab Kordula an, ca. 1890 in Lüdinghausen gelebt zu haben. Diese Stadt liegt im Münsterland und ist nur 75 Kilometer von Kordulas jetzigem Wohnort Rheine entfernt.
Kordula erzählt, dass sie dort in einer Weberei gearbeitet habe. Das Münsterland und Lüdinghausen waren gegen Ende des 18 Jahrhunderts bekannt für ihre Garnherstellung und die Ansiedlung zahlloser kleiner Webereien.
Wir fahren mit Kordula nach Lüdinghausen, um dort nach Spuren ihrer Vergangenheit zu suchen. Ein Gebäudeteil des Rathauses, das ihr bekannt vorkommt, wurde zur damaligen Zeit als Amtsgericht genutzt. Das eigentliche Rathaus befindet sich direkt nebenan und beherbergt heute das Stadtarchiv.
Hier treffen wir Herrn Neuhaus - er kann uns einiges über das Leben in Lüdinghausen vor 100 Jahren erzählen. Der Experte zeigt Kordula ein Buch mit historischen Ansichten der Stadt, auf der Suche nach ihren Erinnerungen. In diesem Buch erkennt Kordula eine Brücke, die über einen Bach führt. Wir begeben uns zu der Stelle, und hier findet Kordula die Bilder aus der Trance bestätigt...

Kordula là y tá, hiện sống tại Rheine, tại tiểu bang Nordrhein Westfalen (Tây-Bắc Đức). Trong lúc Hồi ức, th́ cô ta cho biết, đă sống ở tại Lüdinghausen vào năm 1890. Thành phố này nằm ở Münsterland, và chỉ có cách xa thành phố Rheine 75 km, nơi mà Kordula hiện đang sinh sống.
Kordula kể rằng, cô ta đă làm việc với công nghệ dệt vải. Thành phố Münsterland và Lüdinghausen vào cuối thế kỷ thứ 18, th́ đă rất nổi tiếng về sản xuất dệt sợi và là nơi định cư của rất nhiều những công nghệ nhỏ dệt sợi .
Chúng tôi đă cùng Kordula chạy xe đến Lüdinghausen, để t́m kiếm những „dấu vết“ ngày xưa của cô Kordula. Chi tiết của ngôi nhà thị sảnh, đă rất thân thuộc với cô, ngày xưa đă được xử dụng là Toà án, sát bên cạnh toà thị sảnh, là ngôi nhà tàng trử dữ liệu Thành phố. Tại đây, th́ chúng tôi có gặp ông Neuhaus - ông ta đă có thể kể cho chúng tôi nghe đời sống của tại thành phố Lüdinghausen, trước đây 100 năm. Nhà chuyên gia này đă chỉ cho Kordula cuốn sách, để hổ trợ cho sự hồi tưởng của cô; trong sách có những h́nh ảnh mang tính lịch sử cuả thành phố Lüdinghausen. Kordula đă t́m thấy trong cuốn sách một chiếc cầu, được bắt qua một con lạch. Chúng tôi đă đến đó, và nơi đây Kordula đă t́m thấy những h́nh ảnh trong lúc xuất hồn....

Trong lúc xuất hồn, th́ Kordula đă kể lại:
1.Trong xưởng dệt vải của cô mang tính cách sản xuất gia đ́nh loại nhỏ, chỉ có 5 hay 6 người. Sau đó th́ hăng này đóng cửa v́ không có hợp đồng mới, về năm sinh th́ cô ta không nhớ, chỉ nhớ khoảng 18...
Kiểm tra thực tế:
V́ Kordula không ở xa thành phố Lüdinghausen cho lắm, nên phái đoàn đă lái xe cùng cô đến thành phố này để kiểm tra lại những lời tường thuật lại của cô. Tới ṭa nhà thị sảnh, th́ từ bậc thềm bước vào, cho đến những trang trí hoa văn trên cửa sổ, th́ rất đúng với lời mô tả của cô sau lúc tỉnh dậy. Phái đoàn đă nhờ ông Neuhaus, ông ta nghề chính là giáo viên, và ngoài ra ông ta c̣n là người chuyên nghiên cứu về lịch sử phát triển của thành phố này. Ông ta cũng xác nhận là ngày xưa cả toàn thành phố này sống về công ngệ dệt vải; nhưng cơ sở làm việc của Kordula nói, th́ không có ghi vào trong danh mục cơ sở thương mại của thành phố. Điều dễ hiểu là những cơ sở này rất nhỏ, không có đóng góp ǵ nhiều về việc mang lợi tức cho thành phố, nên không có tên trong danh mục.
2. V́ Kordula sống không xa so với chổ ở trong „tiền kiếp“ của cô; nên cô được hỏi tên của Thị trưởng thành phố, cũng như một vài đặc điểm về ông Thị trưởng này. Cô cho biết là ông ta tên là Effingen, và cô c̣n thấy là tầng trên của Toà thị sảnh đă được sử dụng thành nhà ở.
Kiểm tra thực tế:
Cũng tại đây, ông Neuhaus đă chỉ cho chúng tôi xem h́nh ông thị trưởng của thành phố Lüdinghausen từ năm 1890-1926 có tên là ...Effingen; và trong thời gian ông Effingen làm thị trưởng, th́ ông ta đă lấy tầng trên của Ṭa thị sảnh làm thành nhà ở của ông.
3. Cô Kordula c̣n cho biết là cô hay vào tŕnh diễn nhạc trong Nhà thờ. Trong Nhà thờ này, th́ trên phía bàn thờ, th́ có trang trí một gác chuông rất đặc biệt, và cô cũng đă phác hoạ lại gác chuông đó.
Kiểm tra thực tế:
Vào đến Nhà thờ, th́ Kordula đă rất lấy làm vui mừng, khi thấy lại cảnh ngày xưa hơn „trăm năm“ trước, nay như hiện ra trước mắt: nơi đây là chổ cô bé Karla ngày xưa đứng hát, bên kia là giàn nhạc và tháp chuông nhọn phía trên bàn thờ giống như bản phác thảo của Kordula th́... vẫn c̣n đó.
Khi được hỏi cảm tưởng của cô sau chuyến hành tŕnh, th́ cô nói là chắc chắn là cô đă sống ở tại Lüdinghausen trước cả trăm năm, bởi v́ cô đă nhận ra tất cả cảnh cũ, thân quen từ chổ đứng chơi nhạc trong Nhà thờ, cho đến toà thị sảnh thân quen...


Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 
Dong Anh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 77
Msg 11 of 11: Đă gửi: 30 December 2005 lúc 6:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn Dong Anh

Tập 5 (phát vào thứ Ba, 20.12.05 từ 22:10Uhr đến 23:10 Uhr)
Trong tập này, th́ có 2 người sẽ được bà Buechner đưa vào trạng thái hồi ức, trở về tiền kiếp:
 Sandra, 32 tuổi, có 2 con và đang sống với bạn trai, tại thành phố Escheburg (gần thành phố cảng Hamburg, thuộc Bắc Đức). Cô là một thiếu nữ xinh đẹp, có mái tóc dài, và nét đẹp mặn mà của những phụ nữ vùng Nam Châu Âu.
 Barbara, 42 tuổi, đang sống với bạn trai tại thành phố Köln (Tây Bắc Đức). Barbara rất tin vào kiếp luân hồi và Barbara cảm thấy rất là thú vị, nếu biết được là bà ta „ngày xưa“ đă sống ở đâu và vào lúc thời gian nào.

Sandra (Suzanne Loire)
Sandra ist 32 Jahre alt und arbeitet als freie Mitarbeiterin für eine große Versicherung. Bei der Rückführung erzählt sie von ihrem früheren Leben als Suzanne Loire, und dass sie in Boulogne-sur-Mer, im Norden Frankreichs, eine geheime Liebesbeziehung zu einem General namens Babra gehabt habe. In Boulogne-sur-Mer angekommen, begleiten wir Sandra zum Château Musée, einem alten Schloss aus dem 13. Jahrhundert, das in der historischen Altstadt liegt. Sandra ist sich sicher, dass General Babra dort früher untergebracht war. Wir finden heraus, dass tatsächlich in dem heutigen Museum zu Napoleons Zeiten höher gestellte Soldaten und Generäle lebten. Auch ihre Zeichnung der Fenster der ältesten Kirche des Ortes stimmt mit der Architektur des Gebäudes überein. Wir begleiten Sandra weiter auf der Erkundungstour durch die Altstadt. Bei einem Hinterausgang der alten Stadtmauer überkommt sie ein beklemmendes Gefühl. Es stellt sich nach einigen Recherchen heraus, dass sich an diesem Tor viele Jahrhunderte lang ein geheimer Treffpunkt für Liebespaare der Stadt befand. Hat sich Sandra hier in einem früheren Leben mit ihrem heimlichen Geliebten getroffen? Wie kann sie eine Stadt aus dem 18. Jahrhundert so detailliert beschreiben, in der sie noch nie gewesen ist?

Sandra 32 tuổi và là cộng tác viên cho một hảng Bảo hiểm lớn. Trong lúc hồi ức, th́ cô ta kể lại về cuộc đời cô ta trong thời tiền kiếp, cô tên là Suzanne Loire. Tại thành phố Boulogne-sur-Mer, nằm ở phía Nam nước Pháp, cô ta đă có quan hệ t́nh cảm với một ông Tướng tên là Babra. Chúng tôi đến Boulogne-sur-Mer, và đă hộ tống Sandra đến Château Musée, là một toà lâu đài cổ có từ thế kỷ thứ 13; toà lâu đài này nằm ở trong thành phố cổ lich sử. Sandra th́ chắc chắn rằng ông Tướng Babra ngày xưa đă ở trong đó. Chúng tội đă điều tra và quả thật trong thời đại của Napoleon, th́ những nguời lính cấp cao được tuyển mộ cũng như các ông Tướng đă ở trong toà lâu đài này. Đồng thời, những bản phác thảo của Sandra về những cửa sổ của căn Nhà thờ cổ nhất ở trong vùng, cũng trùng hợp với kiến trúc của ngôi Nhà thờ. Chúng tôi lại sát cánh cùng Sandra đi qua thành phố cổ để điều tra tiếp. Qua một cổng sau, của bức tường thành chạy quanh thành phố, th́ Sandra bị một cảm giác khó thở xâm chiếm lấy cô. Sau khi điều tra, th́ chúng tội đă biết được tại cánh cổng này, th́ trước đây vài trăm năm đă là nơi hẹn ḥ bí mật của nhiều căp t́nh nhân. Có thật sự là Sandra trong thời tiền kiếp đă gặp gở lén lút người t́nh của ḿnh ở tại đây không? Làm thế nào mà cô ta có thể mô tả rất chi tiết về một thành phố trong thế kỷ thứ 18, mà cô ta chưa hề đặt chân lên thành phố này.
Trong lúc hồi ức, th́ Sandra đă thuật lại những chi tiết sau:
1. Cô ta dọn đến ở thành phố Boulogne-sur-Mer vào năm 1798, chị cô đă lấy chồng và bà mẹ (không rơ lư do), đă gởi cô đến sống chung với bà d́ ruột. Bà d́ th́ đang ở tại thành phố Boulogne-sur-Mer. Cô Suzanne có mái tóc đen, dài. Cô hay mặc áo đầm trắng và mang găng tay. Tại thành phố này chỉ toàn là lính mặc quân phục màu tối và dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon.
Kiểm tra thực tế:
Thành phố Boulogne-sur-Mer nằm ở miền Nam nước Pháp và trong sách sử th́ đặc biệt vào những năm 1802-1805, Napoleon đă dồn hơn 100.000 quân tinh nhuệ về đây để chuẩn bị xâm lược nước Anh. Sandra đă qua Pháp một lần, nhưng chưa bao giờ đặt chân đến miền Nam nước Pháp, nên phái đoàn đă quyết định cùng cô làm cuộc hành tŕnh vài ngày để kiểm chứng lại những thông tin mà cô đă đưa ra, sau khi hồi ức.
Khi xe chạy vào thành phố Boulogne-sur-Mer, th́ từ xa đă thấy tượng Napoleon được dựng ở trên một cột đài cao ngất trời, tượng đài đă được dựng vào năm 1840, để kỷ niệm về thời gian ông ta đă gắn bó ở thành phố này. Nhưng với h́nh ảnh của Napoleon, th́ Sandra nhớ rất kém, cô chỉ mô tả là ông ta có bàn tay khá to và hay mang tất trắng. Cũng rất may là nội địa thành phố này cũng không có nhiều thay đổi từ nhiều năm nay, nên Sandra cũng nhận ra rất nhiều căn dinh thự khá quen thuộc ...
2. Sandra thuật lại: Trong một bữa vũ tiệc; cô và một chàng tướng rất là lịch lăm, đẹp trai có cặp mắt nâu đă làm quen với nhau. Sau vũ tiệc chàng đă lén lút đón cô bằng xe ngựa và hai người đă đi chơi trong thành phố. Anh chàng tướng hào hoa này có tên là Babra.
Kiểm tra thực tế:
Đến thành phố này, phái đoàn đă nhờ một Sử gia, ông Claude Faye, để kiểm chứng lại nhân vật tên là General Babra. Ông Faye chuyên nghiên cứu về tiểu sử của Hoàng đế Napoleon và cũng là tác gỉa của cuốn sách viết về lịch sử của thành phố Boulogne-sur-Mer. Ông Faye cũng cho biết là ông cũng nghe nói về chuyện luân hồi, đầu thai và ông ta cũng nghĩ nhiều về „hiên tượng„ này. Nhưng để chứng minh điều này, th́ Sandra phải cho ông biết thêm nhiều chi tiết. Sau khi được Sandra hỏi về tướng Babra, th́ ông Faye cho biết bắt đầu từ năm 1793, để chuẩn bị cho cuộc xâm lược Anh quốc được thành công, nên Napoleon đă triêu tập rất nhiều tay tướng tài giỏi và có nhiều chiến công nhất về thành phố này; một trong những tướng đó, có tên là ...Babra.
Cuộc khám phá này, đă làm cho Sandra rất bàng hoàng, v́ cuộc t́nh lăng mạng giửa Suzanne và anh chàng tướng lịch lăm, đẹp trai mà „Sandra“ đă „cảm nhận“ trong lúc hồi ức, không phải là giấc mơ, mà General Babra là một nhân vật đă có thật.. trước 200 năm.
3. Trong lúc hồi ức, khi Sandra được hỏi là cô có biết là những sĩ quan và tướng tá đă cư ngụ ở đâu? th́ cô ta cho biết là trong một toà lâu đài rất to và cao, xây bằng đá trắng, mặt tiền nổi bật với hai khối nhà h́nh tṛn. Đi vào trong là có chiếc cầu đá nằm cắt ngang mặt bằng của toà lâu đài. Và toà lâu đài nằm ở trung tâm thành phố. Sau đó, cô c̣n phác thảo lại kiến trúc của chiếc cầu đá này.
Kiểm tra thực tế:
V́ Sandra đă mệt và xúc động trước sự khám phá về sự hiện hữu của... người yêu Babra, nên cô phải về khách sạn để nghĩ ngơi và hôm sau tiếp tục đi với phái đoàn. Hôm sau, phái đoàn đă cùng cô đi đến Château Musée. Cô đă nhận ra đây là toà lâu đài mà ngày xưa General Babra cùng các sĩ quan khác đă ở đây. Điều này thật là khó kiểm chứng, bởi v́ toà nhà hiện nay là Viện bảo tàng, mà trước đó, toà nhà kiên cố này là... Nhà tù. Phái đoàn đă nhờ cô Isabella Marquis, cô là hướng dẫn viên du lịch của thành phố Boulogne-sur-Mer, để giúp hộ. Cô Marquis cho biết quả là khó tin, nhưng có thật đây đă là nơi cư ngụ của những sĩ quan chọn lọc và các vị tướng trong thời Napoleon. Và khi bước vào trong toà nhà, th́ h́nh ảnh chiếc cầu đá, đă hiện ra, đúng như lời mô tả và bản phác thảo của Sandra.
4. Khi được hỏi về một Nhà thờ cổ nhất ở Boulogne-sur-Mer, Sandra cho biết có tên là Nikolas. Cô cũng mô tả và phác thảo lại về h́nh dáng Nhà thờ, cửa sổ cũng như là kiến trúc đặc biệt của những ṿm mái trong Nhà thờ.
Kiểm tra thực tế:
Quả thật trong thành phố này có nhà thờ, tên là St. Nicolas. Nhà thờ rất xưa, h́nh dáng bên ngoài th́ đúng như lời mô tả của Sandra; nhưng những cửa sổ th́ mang h́nh dạng khác biệt. Phái đoàn đă nhờ bà Yvette Talfert giải thích giùm, bà Talfert là hướng dẫn viên về thành phố và chuyên biệt về Nhà thờ. Bà đă xác nhận là h́nh vẽ của Sandra chỉ phù hợp với t́nh trạng của Nhà thờ... trước chiến tranh thế giới mà thội. Sau chiến tranh, th́ Nhà thờ tuy không bị hư hại, nhưng các cửa sổ bị thiệt hại và người ta đă cố t́nh không thay cửa sổ mới. Bước vào Nhà thờ cũng là một sự may mắn, v́ ở trong cũng không hư hại nhiều, nên vẫn t́m thấy những trùng hợp của bản phác thảo của Sabdra và kiến trúc hiện hữu của Nhà thờ.
5. Sandra đă kể lại những chi tiết về cuộc t́nh của cô và anh chàng tướng Babra, hai người hay lén lút gặp nhau tại một nơi rất kín đáo ở trong thành phố. Cuộc t́nh của hai người đang rất êm đẹp, nhưng chàng phải ra trận và đă chết ngoài trận tuyến. Nhớ đến đây, th́ Sandra đă khóc nức nở và cô đă được bà Buechner đánh thức dậy..
Kiểm tra thực tế:
Sau khi ra khỏi Nhà thờ, th́ Sandra đă hướng dẫn phái đoàn đi theo những con đường nhất định, mà cô cảm thấy rất thân quen. Một con đường nhỏ dẫn đến cuối thành phố, th́ dược ngăn bằng một bức tường, chỉ có một cổng nhỏ để đi qua, th́ cô dừng lại và ôm mặt khóc. Sandra đă t́m thấy lại ǵ ở nơi bức tường này? Phái đoàn đă nhờ ông Faye giúp lần nữa. Ông cho biết con đường nhỏ này có tên là Quelle der Liebe, tạm dịch là „Nguồn t́nh“. Bởi v́ trước đây, vài trăm năm, là nơi ḥ hẹn của nhiều cặp nhân t́nh, rất kín đáo và lăng mạn. Sandra đă quyết định đi qua cổng, để t́m lại chổ hẹn củ với người yêu. Quả thật, đằng sau cổng của bức tường này, là một chiếc cầu đá rất cao và dài. Dưới chân cầu, là một con đường rất sạch sẻ, được chia thành những khoảng không gian nhỏ bé, bởi những bức tường ngang dọc, cao hơn đầu người, có „khoét“ những khung cửa. Đây là địa điểm hẹn ḥ rất lư tưởng của những cặp t́nh nhân, họ có thể ẩn nấp sau những bức tường, trong những ô nhỏ, mà không bị phiền nhiểu...
Khi được hỏi cảm tưởng, th́ Sandra quả quyết rằng cô đă sống ở đây „ngày xưa“, bởi v́ những ǵ cô thấy trong lúc hồi ức, nay đă hiện ra tất cả và cô cũng có ư định là sẽ quay trở lại với gia đ́nh để viếng thăm thành phố này.

Barbara ( Demeter)

Barbara erzählt uns während der Rückführung, dass sie auf Naxos gelebt habe. Diese Insel ist die größte der insgesamt 56 Kykladen-Inseln in der südlichen Ägäis. Barbaras Angabe, zur Zeit der "reifenden Früchte" geboren zu sein, lässt darauf schließen, dass es sich um einen Zeitraum vor unserer Zeitrechnung handelt - also vor Christi Geburt!
Nach einigen Recherchen, von deren Inhalt wir Barbara nichts erzählen, machen wir uns auf nach Griechenland. Bereits bei der Einfahrt ins Hafenbecken von Naxos ist Barbara sehr bewegt. Im Nordosten der Insel finden wir die Überreste eines über 2000 Jahre alten Tempels mit dem Namen Demeter. Wir fahren mit Barbara dort hin, um festzustellen, ob ihr hier irgendetwas vertraut vorkommt. Spontan bitten wir sie, uns einmal den Tempel in seiner ursprünglichen Form zu zeichnen. Wir vergleichen das Ergebnis mit einer aktuellen Computerrekonstruktion des Demeter-Tempels, und beide Abbildungen stimmen nahezu überein.
Früh am Morgen des nächsten Tages machen wir uns auf den Weg in den Nordosten der Insel. Dort vermuten wir eine von Barbara beschriebene und gezeichnete Statue, die sie 'Kouros' nannte. Tatsächlich bezeichnen die Archäologen große, aus Stein gehauene Stauen, die vor Tausenden von Jahren zu Ehren griechischer Götter angefertigt und aufgestellt wurden, als 'Kouros'. Auf Naxos finden wir dann auch in der Nähe des Ortes Apollonas einen halb fertig liegenden 'Kouros', der genau den Beschreibungen von Barbara entspricht. Auch konnte sie einen auffälligen Tempel mit vielen Säulen beschreiben und zeichnen. Die Suche danach führt zu einer vorgelagerten Insel, auf der die Reste des unvollendeten Apollon-Tempels stehen, der auf 100 Säulen errichtet werden sollte ...

Barbara (Demeter)
Trong lúc hồi ức, th́ Barbara đă thuật lại cho chúng tôi là bà ta đă sống tại Naxos (Naxos là một trong những ốc đảo thuộc nước Griechenland (Hy lạp), nằm quây xung quanh Naxos là những ốc đảo khác). Ốc đảo này là một trong những ốc đảo lớn trong số 56 ốc đảo khác, nằm ở vùng biển phía Tây vùng Ägäis. Theo lời kể của Barbara, th́ bà ta được sinh vào lúc „mùa trái cây chín“, và chắc chắn rằng là vào khoảng thời gian, mà trước khi chúng ta có cách tính thời gian- như vậy có nghĩa là trước khi Chúa được giáng sinh.
Sau khi nghiên cứu, th́ chúng tôi đă có một số tài liệu riêng; về nội dung của những tài liệu này, th́ chúng tội không kể cho Barbara biết; và chúng tôi làm cuộc hành tŕnh đến Griechenland (nước Hy lạp). Chỉ vừa bước vào bến cảng của ốc đảo Naxos, th́ Barbara rất xúc động. Trong vùng phía Đông nam của ốc đảo, th́ chúng tôi đă t́m thấy những vết tích c̣n sót lại của một ngội đền cổ có trên 2000 năm, tên là Demeter. Chúng tôi lái xe cùng Barbara đến đó, để xác định rằng, liệu rằng có bất cứ cái ǵ hay điều ǵ ở đây mà làm cho bà ta cảm thấy „thân quen“ hay không. Chúng tôi tự động yêu cầu bà nên phác thảo h́nh dáng cũ của ngôi đền này lại lần nữa. Chúng tôi đă so sánh kết qủa bản phát thảo của bà với bản vẽ lại ngôi đền Demeter (bản vẽ được dựng lại bằng Computer), và hai h́nh vẽ này đă rất khớp với nhau!.
Vào buổi sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi đă đi đến vùng Đông bắc của ốc đảo Naxos. Nơi đây, chúng tôi phỏng đoán rằng sẽ t́m thấy một trong những bức tượng, mà đă được Barbara mô tả và phát thảo lại; bà Barbara gọi những bức tượng này là Kouros.
Thật vậy, những nhà khảo cổ học đă cho chúng tôi biết: trước đây cả ngàn năm, để chứng tỏ ḷng tôn kính đối với những ông thần Hy lạp, người ta đă đẻo từ những tảng đá khổng lồ ra thành những bức tượng, và dựng đứng lên, những bức tượng này có tên là Kouros. Cũng trên ốc đảo này, không xa vùng Apollona cho lắm, chúng tội cũng đă t́m thấy một tượng Kouros đang c̣n tạc dở dang, c̣n nằm ở đấy, đúng chính xác như lời mô tả của Barbara. Ngoài ra, bà ta c̣n mô tả và phác thảo một ngội đền rất khác thường, có rất nhiều cột. Cuộc t́m kiếm đă dẫn đến một ốc đảo nằm vươn ra ngoài bờ biển, trên ốc đảo này c̣n sót lại vết tích của ngôi đền Apollon c̣n xây dở dang, và đền thờ này sẽ được dựng lên trên 100 cái cột ....

Trong lúc hồi ức, th́ Barbara đă kể lại:

1.Barbara là đàn bà, có tên là Demeter, Demeter được sinh vào lúc màu trái cây chín, về năm sinh, th́ bà không nói được, v́ không có năm sinh. Demeter được sinh ở trên ốc đảo Naxos.
Kiểm tra thực tế:
Đảo Naxos có trên bản đồ, thuộc về nước Hy lạp. Barbara th́ chưa bao giờ đặt chân lên ốc đảo này bao giờ, phái đoàn đă quyết định cùng Barbara đến Naxos. Bay từ phi trường Düsseldorf đến phi trường Athen, phái đoàn cùng bà đi thuyền thêm 4 tiếng đồng hồ, mới đến được ốc đảo Naxos. Từ xa, phái đoàn đă thấy dấu vết của cột của một ngôi đền, c̣n sót lại. Đặt chân lên Naxos, th́ phái đoàn khá thất vọng, v́ những khách sạn đồ sộ cũng như khu du lịch mọc lên như nấm; nhưng phái đoàn vẫn hy vọng là vẫn c̣n t́m ra những dấu vết, mà Barbara đă mô tả, bởi v́ quần đảo Naxos là nơi diễn ra rất nhiều câu chuyện thần thoại của xứ Hy lạp.
2. Barbara rất lấy làm ngạc nhiên, v́ ở Naxos có một ngôi đền nhỏ cũng có tên là Demeter. (Xin nói thêm là Demeter là tên một Nữ thần xuất phát từ vùng Hy lạp và xứ Á châu nhỏ. Nữ thần Demeter là tượng trưng cho đơm hoa kết trái của đất đai, của các loại ngũ cốc và của các loại hạt giống, cũng như bốn mùa trong năm).
Kiểm tra thực tế:
Phía Đông nam của Naxos, có một ngôi đền chỉ c̣n lại một cột. Đến đây, Phái đoàn đă yêu cầu Barbara phác thảo lại mặt tiền của đền thờ Demeter này, th́ Barbara đă vẽ hai cột đầu của đền thờ là cột vuông, ở giữa là 5 cột tṛn, mái tam giác và tất cả đều bằng đá cẩm thạch. Và phái đoàn đă đối chiếu với tài liệu mà họ đă t́m thấy trong lúc điều tra, th́ hai bảng vẽ này rất ăn khớp với nhau. Phái đoàn cũng nhờ một chuyên viên hướng dẫn du lịch ở Naxos, Andreas Klang, ông ta là người Đức, nhưng đă sống rất lâu ở Naxos, và rất thông thạo về những lịch sử của những ngôi đền cũng như lịch sử của thành phố Naxos. Ông ta cho biết là ngôi đền có tên là Demeter này được dựng lên để tưởng niệm Nữ thần Demeter. Đền đă được xây trước Công Nguyên (Dương lịch) 530 năm, và đây là ngôi đền đầu tiên được xây toàn bộ bằng đá cẩm thạch.
Về chuyện tên của những đứa trẻ con của Nhà nông, khi sinh ra đời, th́ thông thường được bố, mẹ của chúng đặt theo tên của những vị thần, mà bố mẹ chúng rất thành kính.
3. Barbara cho biết ở Đông bắc Naxos, c̣n một bức tượng Kouros c̣n nằm dở dang, không được hoàn thành, bởi v́ trong lúc tạc tượng, những điêu khắc gia đă t́m thấy vết nứt của tảng đá cẩm thạch, nên công tŕnh phải bỏ dở. Barbara c̣n phác thảo lại bức tượng và vết nứt nằm ở đầu gối. Khi được hỏi là họ đă dùng những dụng cụ ǵ để đẻo tượng đá, th́ Barbara ta mô tả là những thanh đá h́nh khối chữ nhật nhỏ, dài ngắn khác nhau và hai cạnh dài của khối chữ nhật được bào mỏng, sắc như những lưỡi dao. Ngoài ra, lúc ấy họ c̣n khắc thêm những đồ mỹ thuật là những tượng người đang ngồi, hay theo dang của những chiếc đàn guitar hoặc là nhửng khối h́nh tṛn, dẹp có trạm trổ mặt trời ở giửa.
Kiểm tra thực tế:
Để t́m kiểm chứng lại lời mô tả của Barbara, phái đoàn đă cùng Barbara đến t́m vết tích của tượng Kouros này. Quả thật theo hướng dẫn của Barbara, phái đoàn đă thấy tượng Kouros và ngay đầu gối bức tượng, có một vết nứt khá sâu ở đó. Barbar đă ôm bức tượng và khóc nức nở, v́ bà ta cũng không ngờ là bà có thể chạm vào bức tượng rất thân quen với bà ngày xưa. Phái đoàn cũng nhờ một nhà điêu khắc gia và cũng là thợ đục đá, ông Ingbert Brunk, ông ta là người Đức, nhưng đă sống và làm việc hơn 20 năm ở Naxos, để kiểm chứng lại lời mô tả của Barbara. Ông Ingbert Brunk có một xưởng điêu khắc rất lớn, ngoài việc chế biến từ những tảng đá cẩm thạch khổng lồ, để thành bàn, ghế, tủ; ông ta c̣n làm thêm những tượng mỷ thuật trang trí, cũng như dụng cụ dùng trong nhà hàng ngày rất xinh đẹp. Ông ta cũng rất ngạc nhiên về sự hiểu biết của Barbara về đá cẩm thạch và cũng xác nhận là khi những điêu khắc gia t́m thấy vết nứt có sẳn trong những tảng đá cẩm thạch hay chính họ gây ra, th́ họ phải ngưng ngay công việc, v́ không có lư do ǵ để làm tiếp. Ông ta cũng đẫn phái đoàn ra viếng thăm viện bảo tàng của Naxos, quả thật từ những dụng cụ để đẻo đá ngày xưa, cho đến những đồ mỹ thuật mà Barbara đă mô tả trong lúc hồi ức, th́ đă t́m thấy ở đây.
Trong lúc trên đường đi t́m một đền thờ khác, th́ Barbara yêu cầu phái đoàn ngưng lại, và chuyển hướng rẽ vào một con đường dốc. Tại đây, chỉ có những viên đá sỏi, to bằng nắm tay, được bào nhẳn thín, nằm rải rác. Theo lời kể của Barbara, ngày xưa có một con suối đă chạy qua đây, nhưng với thời gian, th́ suối đă cạn, chỉ c̣n lại những viên sỏi được mài nhẵn bóng, nằm sắp xếp, uốn lượn theo h́nh dạng của con suối.
4. Theo lời kể Barbara, th́ ở trên đảo Naxos c̣n một đền thờ khác, có tên là Apollon, đền thờ này nằm trên một một khoảnh đất nằm hơi nhô ra bờ biển. Đền thờ này sẽ rất là vĩ đại, nếu được xây xong, nhưng rất tiếc đă bị bỏ ngang.
Kiểm tra thực tế:
Đi không xa, th́ phái đoàn đă thấy đền thờ Apollon(Theo truyền thuyết Hy lạp, th́ Apollon là con của Zeus và Leto, thần Apollon cũng là anh em song sinh với nữ thần Artemis. Apollon là thần huỷ hoại, đồng thời cũng là giúp đở và cứu nạn. Thần Apollon là thần của Ánh sáng, Âm nhạc, Thơ văn và Thi ca). Đền thờ này cũng đang xây dở dang, chưa được hoàn tất, và nằm rải rác trên nền nhà, là những dấu vết của những móng cột. C̣n những thân cột c̣n nằm ngỗn ngang. Chỉ c̣n lại hai cột nhà duy nhất là c̣n tồn tại, đứng sừng sững giửa trời....
Khi được hỏi cảm tưởng, sau chuyến du hành: th́ Barbara khẳng định là bà đă sống ở trên đảo này, trước đây hàng ngh́n năm, bởi v́ những ǵ bà thấy trong lúc hồi ức, đă dược t́m thấy tại đây; bằng chứng rơ ràng là những ngôi đền thờ, tượng kouros và ngọn suối đă bị khô cạn, và những h́nh ảnh này sẽ ở lại hoài trong kư ức của bà.

Quay trở về đầu Xem Dong Anh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Dong Anh
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.5957 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO