ngocnguyet Hội viên
Đă tham gia: 11 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 25 November 2005 lúc 4:28am | Đă lưu IP
|
|
|
CHÂN SƯ VÀ TÀ SƯ
Chân sư và tà sư khác nhau chỗ nào?
Đối với tu sĩ của một số tôn giáo tôn thờ thần quyền, sự đánh giá chân-ngụy, chánh-tà khá dễ dàng qua mặt đạo đức, tác phong của chính các vị tu sĩ ấy. Mà phẩm cách đạo đức, tác phong của tu sĩ các tôn giáo này thường khi chỉ đặt nền tảng trên sự cần mẫn tận tụy hiến dâng, phụng sự thần linh, thực hành các giáo điều, tín điều đă được thần linh ban hành hay trích dẫn từ kinh sách được tin là được viết ra do sự mặc khải của thần linh. Tu sĩ nào thực hành nghiêm chỉnh các tín-giáo điều th́ được coi là có đạo đức; và ngược lại th́ vô đạo đức; hoặc thiếu đạo đức mà làm bộ như ta đây đạo đức th́ bị gọi là đạo đức giả. Đối với tu sĩ các tôn giáo ấy, tu tập chỉ có nghĩa là như vậy: tuân thủ các giới điều và tín điều. Hoặc nói nôm na tóm gọn là chỉ cần giữ ḿnh làm người đạo đức, mô phạm.
Trong khi đó, thực hành giáo lư đạo Phật, tu sĩ Phật giáo không phải chỉ là những người trau luyện đạo đức hay một thứ tư cách cao quí đức hạnh làm người nào đó mà xă hội mong đợi. Con đường chính yếu của họ là thực hành các phương pháp tinh diệu nhằm phá vỡ biên giới của tự ngă để thể nhập vào bản thể vô tận sẵn có trong mỗi người, mỗi loài. Để thành tựu trọn vẹn mục tiêu này, hành giả phải trải qua một tiến tŕnh, hoặc nhanh hoặc chậm, gồm 53 giai đoạn từ sơ cơ đến thượng trí (10). Những giai đoạn tu chứng này vượt ra khỏi thứ đạo đức làm người của thế gian, bước vào thánh hạnh cao quư của hàng Bồ tát, Phật. Và chính v́ có khá nhiều giai đoạn và thứ bậc như thế, việc nhận dạng các vị chân tu đắc đạo đang ở giai đoạn nào không phải là đơn giản, trừ phi chúng ta đắc đạo như Phật.
Tuy nhiên, như đă nói ở trước, để tầm sư học đạo, chúng ta cần thiết phải biết nhận dạng một vị chân sư để theo học, như cách người xưa thường nói “chọn mặt gởi vàng.” Điều này nói ra có vẻ như một điều mai mỉa bất kính làm đụng chạm một số đạo sư nào đó. Nhưng nếu thực sự có một sự đụng chạm, hóa ra vị đạo sư ấy dễ bị dao động đến thế sao? hóa ra vị đạo sư ấy hăy c̣n một cái ngă to lớn cứng rắn nào đó để cho sự lượng giá của học tṛ đụng chạm đến sao? và nếu cứ tránh né đụng chạm những đạo sư, hóa ra lại đẩy những thiệt tḥi về phía những người học tṛ đang khao khát t́m cầu chân lư?
Người học tṛ thượng căn như Thái tử Tất Đạt Đa năm xưa có thể rời bỏ các sư phụ để tự ḿnh t́m kiếm chân lư, c̣n những học tṛ căn trí thô thiển cạn cợt như chúng ta ngày nay th́ sao? Nếu chọn lầm sư phụ th́ chẳng phải là cái tiền đồ tu tập của chúng ta sẽ mở vào một cơi u u minh minh hay sao?
Cho nên, rất cần thiết phải biết chọn thầy bằng cách nhận dạng dấu hiệu thực nghiệm toát ra từ nếp sinh hoạt của họ. Sự nhận dạng này không có nghĩa là phải nh́n thấu từng quả vị tu chứng của họ hoặc đ̣i hỏi họ phải chứng minh sở đắc. Chúng ta có một ch́a khóa nhỏ để mở ra cái kho vô tận xứng đáng cho ḿnh qui phục, nương tựa. Và ch́a khóa đó chính là điểm chung mà hầu như các vị chân tăng đều có: tính cách vô ngă thể hiện trong nếp sinh hoạt hàng ngày.
Chân sư và tà sư theo quan niệm Phật giáo khác nhau ở chỗ đó. Họ có thể sử dụng những phương tiện giống nhau: tụng kinh, tọa thiền, giảng dạy Phật Pháp, làm việc văn hóa, làm việc xă hội từ thiện... Nhưng mục đích hành đạo của họ th́ khác nhau: một bên th́ có khuynh hướng dẹp trừ bản ngă để thể nhập vào thể tánh vắng lặng vô biên; một bên th́ nuôi lớn bản ngă, đắp cao thành tŕ của ái dục và lợi danh tầm thường.
Cần nhấn mạnh một lần nữa nơi đây rằng, chúng ta chỉ chú trọng đến chân và tà. Mà trong chân có thể vừa có thánh vừa có phàm, trong khi trong tà—dù có là một đạo sư nổi tiếng cách mấy đi nữa—chỉ hoàn toàn là phàm. Như vậy, nếu chúng ta thực sự muốn t́m cầu một bậc thầy có khả năng hướng dẫn ta tiến đến giải thoát giác ngộ, nên lấy chân, bỏ tà.
(Cũng nên mở ngoặc thêm ở đây rằng: trong giới tu học Phật giáo, không phải ai cũng có khát vọng t́m cầu chân lư hoặc hoài băo giải thoát giác ngộ. Không những trong giới tại gia cư sĩ mà ngay cả một số tu sĩ Phật giáo thời nay cũng vậy: có khi chỉ thực hành giáo lư Phật như cách các tu sĩ tôn giáo khác trau luyện đạo đức làm người và giữ ǵn các tín điều. Điều này xét về mặt nhân sinh quan, cũng là điều hữu dụng, v́ có khả năng ổn định xă hội, lành mạnh hóa đời sống gia đ́nh, đem lại chút hạnh phúc nhẹ nhàng nào đó cho mỗi cá nhân. Nhưng, mục tiêu tối hậu của giáo lư Phật th́ không dừng đứng ở chỗ đó. Đức Phật đă từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn th́ đạo lư của ta chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.” Hành giả tu tập có thể giữ ǵn giới luật để được giải thoát từng phần [biệt giải thoát] tùy theo giới cấm ḿnh tiếp thọ; nhưng mục tiêu tối hậu vẫn là giải thoát hoàn toàn tất cả mọi phiền năo trói buộc của tự tâm. Mà để có được điều này, phải dẹp trừ cả ngă chấp và pháp chấp. Tóm lại, tu tập theo chân tinh thần Phật giáo là nhảy vào ṿm trời tự tại vô ngại của tánh Không để được thành Phật như đức Phật, chứ không phải chỉ học làm người, học làm vua, làm tôi, làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm con, làm thầy giáo, làm học tṛ, làm người truyền đạo, làm nhà trí thức, làm người có bằng cấp thế gian, làm người có tiếng tăm danh vọng, làm công dân đạo đức đàng hoàng trong xă hội... mà bất cứ tôn giáo nào cũng có thể hướng dẫn được. Nêu ra điều trên là để thưa trước rằng những ǵ sắp nói ở sau, chỉ dành cho những người muốn tu tập theo đạo lư giải thoát giác ngộ và thực sự muốn t́m một bậc chân sư có khả năng hướng dẫn ḿnh thực hiện chí nguyện đó.)
|