thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 09 December 2005 lúc 9:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cơi giới
-ooOoo-
Chúng ta sanh tử và sau đó chúng ta lại tái sanh. Cơi nào chúng sẽ tái sanh, điều đó vượt ngoài sự hiểu biết của chúng ta; nó tùy thuộc vào nghiệp báo mà nó cho tâm tái tục sau khi tâm tử đă chấm dứt.
Lúc này chúng ta đang sống trong cơi nhân loại. Tuy nhiên, kiếp sống con người th́ rất ngắn ngủi. Khi đời sống này chấm dứt, chúng ta không biết cơi nào chúng ta sẽ tái sanh. Đa số người ta không thích suy nghĩ về sự ngắn ngủi của kiếp người; họ bị đam mê vào những ǵ họ biết qua căn môn và v́ thế họ hạnh phúc hoặc đau khổ. Tuy nhiên chúng ta nên ư thức rằng hạnh phúc và đau khổ chỉ là hiện tượng tâm lư phát sanh v́ do nhân duyên rồi lại diệt. Cả kiếp sống của chúng ta là một tiến tŕnh sanh và diệt.
Có nhiều tôn giáo giảng về thiên đàng và địa ngục. Có khía cạnh nào khác biệt với đạo Phật? Chúng ta nên tin vào thiên đàng và địa ngục không? Qua lời dạy của Đức Phật, chúng ta học để hiểu biết sự thật, hiểu nhân quả trong đời sống. Mỗi nhân mang lại những kết quả tương xứng của nó. Người ta thực hiện những hành động thiện ác và những hành động này mang lại những kết quả khác nhau; chúng có thể là nhân tái sanh vào những cơi khác nhau. Cơi là nơi mà người ta tái sanh. Tái sanh trong cơi khổ là kết quả của hành động bất thiện và tái sanh trong cơi an vui là kết quả của hành động thiện. V́ những hành động của chúng sanh có nhiều mức độ thiện ác khác nhau nên những kết quả cũng khác nhau. Có những cơi khổ và những cơi an vui khác nhau.
Bàng sanh là một cơi khổ. Chúng ta có thể thấy, tại sao loài thú cấu xé lẫn nhau và chúng ta cũng thấy rằng bản chất của nó luôn thô bạo. Không chỉ có bàng sanh là cơi khổ mà c̣n có những cơi địa ngục khác nữa. Trong địa ngục, quả bất thiện dữ dội hơn sự đau khổ trong cơi người mà chúng ta thấy. Sự giải thích về địa ngục trong Phật giáo không chỉ đơn thuần là những biểu tượng; việc cảm nhận về những điều bất lạc qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân căn. Quả bất thiện và quả thiện là sự thật. Đời sống trong cơi địa ngục th́ không có thường hằng; khi kiếp sống của con người trong cơi địa ngục chấm dứt lúc đó, có thể tái sanh trong cơi khác.
Ngoài cơi thú và cơi địa ngục c̣n có những cảnh khổ nữa. Tái sanh trong cơi ngạ quĩ là do những kết quả của nghiệp bất thiện do tham làm duyên. Những chúng sanh trong cơi này có h́nh dáng dị thường và chúng luôn đói và khát.
Xa hơn nữa, có cơi A tu la. Những cảnh trần được cảm nhận trong cơi A tu la th́ không có thích thú như những cảnh trần được cảm nhận trong cơi người. Như vậy có tất cả 4 cơi khổ.
Tái sanh làm người là một điều hạnh phúc. Trong cơi người có cơ hội để thực hiện thiện pháp. Người ta có thể học pháp và tu tập để đoạn trừ phiền năo, chấm dứt sanh tử luân hồi. Tái sanh trong cơi người là kết quả cũa thiện pháp, nhưng trong kiếp sống của con người có cả hai kết quả thiện và bất thiện. Trong đời sống mỗi người, luôn gặp phải cảnh được và thua, tán thán và không tán thán, khen và chê, hạnh phúc và đau khổ. Tất cả những điều này là v́ nghiệp, dù người tái sanh trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi, hoặc gia đ́nh giàu hay nghèo. Việc cảm nhận những điều thuận lợi hay không thu?n lợi qua mắt, tai, mũi, lưỡi và thân căn là những kết quả của nghiệp.
Những cơi an vui khác, ngoại trừ cơi người và những cơi trời. Trong những cơi Trời, có nhiều quả thiện hơn trong cơi người và ít quả bất thiện. Có nhiều cơi Trời, và mặc dù đời sống trong cơi trời có tuổi thọ rất dài, nhưng không có thường hằng. Những cơi khổ, cơi người và 6 cơi trời được gọi là cơi dục giới. Cơi dục giới là cơi có thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng qua thân căn và những tâm dục giới khác. Có tất cả 11 cơi dục giới.
Người thấy được sự nguy hiểm do cảm xúc giác quan, họ có thể họ tu tập thiền; có thể tái sanh trong những cơi trời cao hơn mà những cơi đó không phải là cơi dục giới. Người chứng được thiền sắc giới có thể tái sanh trong cơi Phạm thiên sắc giới, ở cơi này ít có những cảm xúc giác quan. Có tất cả 16 cơi Phạm thiên sắc giới. Một trong những cơi này là cơi chúng sanh vô tưởng (Asannàsatta). Ở cơi này chỉ có sắc mà không có danh. Người đạt được những giai đoạn cao nhất của thiền sắc giới và họ không muốn có tâm cho nên họ tái sanh không có tâm, đối với họ th́ chỉ có thân. Những chúng sanh này đă thấy những sự nguy hiểm của tâm; thậm chí hạnh phúc th́ cũng là sự nguy hiểm bởi v́ nó không có tồn tại.
Người thấy được sự nguy hiểm của sắc pháp họ có thể tu tập thiền vô sắc giơí. Nếu họ chứng đắc thiền vô sắc giới họ có thể tái sanh trong cơi Phạm thiên vô sắc giới, ở cơi này không có sắc. Có 4 cơi Phạm thiên vô sắc giới. Những chúng sanh tái sanh trong những cơi này chỉ có danh mà không có sắc. Người ta có thể tự hỏi, làm thế nào những chúng sanh chỉ có thể có sắc hoặc những chúng sanh chỉ có danh. Khi hiểu biết đúng đắn về danh và sắc chúng ta đă tu tập được những pháp chân đế, chúng ta sẽ thấy chúng như là tứ đại phát sanh v́ những nhân duyên không có chúng sanh, con người và bản ngă. Do đó chúng ta sẽ không c̣n hoài nghi nữa, qua những điều kiện thích hợp tŕnh bày ở trên chúng ta thấy rằng có thể có sắc mà không có danh và có danh mà không có sắc.
Có tất cả 31 cơi:
4 cơi khổ
1 cơi người
6 cơi chư thiên
11cơi dục giới
16 cơi phạm thiên sắc giới
4 cơi phạm thiên vô sắc giới
Chúng ta xem trong Tăng Chi Bộ Kinh (pháp 7 chi, chương VI, 9a, ngũ dục) về giá trị của những hành động thiện. Chúng có thể mang lại những kết quả an lạc trong thời gian rất dài và là nguyên nhân tái sanh trong những cơi an vui khác nhau. Chúng ta thấy rằng Đức Phật dạy cho chư Tỳ khưu về những tiền kiếp của Ngài trong những cơi an vui khác nhau. Đức Phật dạy:
Này chư Tỳ khưu, chớ có sợ hăi các công đức, đồng nghĩa với an lạc chính là các công đức. Này các Tỳ khưu, ta thắng trí rằng, các công đức được làm lâu ngày có quả dị thục, có sự h́nh thành khả ái, khả hỷ, khả ư lâu dài.
Trong bảy năm Ta tu tập từ tâm, sau khi tu tập từ tâm, trong bảy thành kiếp, hoại kiếp, Ta không trở lui lại thế giới này. Khi thế giới ở trong kiếp thành, Ta đi đến thế giới Quang lâm thiên, khi thế giới ở trong kiếp hoại, Ta sanh trong Phạm cung trống không. Này các Tỳ khưu, ở đấy Ta là Phạm thiên, đại Phạm thiên, vị Chiến thắng, vị Vô năng thắng, vị Biến tri, vị Tự tại. Ba mươi sáu lần Ta là thiên chủ Sakka. Nhiều hơn bảy lần, Ta là vị Chuyển luân vương theo chánh pháp, là vị Pháp vương, Bậc Chiến thắng bốn phương, đạt được sự thanh b́nh cho quốc độ đầy đủ bảy báu...
Như chúng ta thấy, thực tế là những chúng sanh tái sanh trong những cơi khác nhau là do nghiệp của họ. Cơi là nơi mà con người tái sanh. Cơi th́ không giống như cảnh giới của tâm. Có những cảnh giới của tâm tùy thuộc vào cảnh mà tâm biết. Có bốn cảnh giới cuả tâm là:
1/- Tâm dục giới
2/- Tâm sắc giới
3/- Tâm vô sắc giới
4/- Tâm siêu thế
Tâm dục giới có thể được phân tích như là những tâm vô tịnh hảo và tâm dục giới tịnh hảo. Chúng phát sanh trong cơi nào?
Những tâm dục giới phát sanh trong ba mươi cơi, chúng không phát sanh trong cơi vô tưởng, nơi đó không có danh, ch? có sắc. Mặc dù trong những cơi Phạm thiên vô sắc giới vẫn có những tâm dục giới.
Đối với những tâm dục giới tịnh, chúng có thể phát sanh trong những cơi khổ. Xa hơn, chúng có thể phát sanh trong cơi người, cơi Chư Thiên, cơi Phạm thiên sắc giới và cơi Phạm thiên vô sắc giới. Chúng phát sanh trong ba mươi cơi ngoài trừ cơi vô tưởng. Tuy nhiên tất cả những loại này không phát sanh trong tất cả cơi.
Đối với những tâm vô tịnh hảo, chúng có thể phát sanh trong ba mươi cơi, nhưng không phải những loại tâm này phát sanh trong tất cả cơi. Tâm tham căn có thể phát sanh trong ba mươi cơi; cho dù cơi Phạm thiên sắc giới và cơi Phạm thiên vô sắc giới tâm tham căn cũng có thể phát sanh. Tâm sân căn phát sanh trong mười một cơi dục giới. Nó dính mắc vào trần cảnh mà nó th́ làm duyên cho sân hận; khi người ta không đạt được điều ḿnh mong muốn th́ họ sân hận. Những tâm sân căn không phát sanh trong cơi phạm thiên sắc giới và những cơi phạm thiên vô sắc giới. Cho đến chừng nào những chúng sanh sống trong cơi Phạm thiên sắc giới và Phạm thiên vô sắc giới không có những nhân duyên cho sự sân hận. Tâm si căn có thể phát sanh trong ba mươi cơi; những người không phải là bậc A La Hán vẫn có tâm si và do đó tâm si căn phát sanh trong tất cả cơi, ngoại trừ trong cơi vô tưởng.
Như chúng ta đă biết, không những tâm bất thiện mà c̣n có những tâm vô nhân là những tâm vô tịnh hảo. Đối với những tâm vô tịnh hảo chúng là vô nhân, tâm vô nhân phát sanh trong tiến tŕnh tâm biết cảnh qua một trong những căn môn, chúng có thể chỉ phát sanh trong những cơi mà ở đó có những cảm xúc giác quan. Nhăn thức và nhĩ thức phát sanh trong 11 cơi và chúng cũng phát sanh trong 15 cơi phạm thiên thiên sắc giới, do đó chúng phát sanh trong 26 cơi. Chúng không phát sanh trong cơi Phạm thiên vô sắc giới v́ ở cơi đó không có sắc pháp.
Tỷ thức, thiệt thức và thân thức chỉ phát sanh trong 12 cơi dục giới. Cho nên chúng không phát sanh trong cơi Phạm thiên sắc giới và Phạm thiên vô sắc giới.
Tâm khán ngũ môn, tâm tiếp thu và tâm quan sát phát sanh trong tất cả những cơi có cảm xúc giác quan, như vậy chúng phát sanh trong 26 cơi: 11 cơi dục giới, và 15 cơi Phạm thiên sắc giới ngoại trừ cơi vô tưởng.
Tâm khán ư môn phát sanh trong tất cả những cơi có danh pháp, do đó nó phát sanh trong 30 cơi.
Người ta muốn t́m hiểu về nơi mà người ta sẽ tái sanh. Chúng ta muốn tái sanh trong cơi người hay không? Chúng ta dính mắc đời sống trong cơi người và thường thường chúng ta không quan tâm nhiều về những quả bất thiện mà chúng ta đă tạo trong cơi này: chúng ta bị đe dọa bởi những tai họa như chiến tranh và đói khát, già, bịnh và chết. Một số người muốn tái sanh trong cơi Trời họ thích biết những điều lạc thú qua các căn. Người ta muốn tái sanh trong cơi Trời, nhưng được hay không điều này sẽ tùy thuộc vào nghiệp lực của chúng ta. Tái sanh là quả của nghiệp không có điều ǵ xảy ra mà không có nguyên nhân. Nếu người ta thực hiện những hành động thiện và tu tập những nhân lành điều đó sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp nhưng không có phương pháp nào để nhận biết lúc nào những kết quả sẽ xảy ra, điều này vượt ra ngoài sự hiểu biết của chúng ta.
Chúng ta có sợ chết hay không? Đa số người ta muốn kéo dài đời sống của họ. Họ sợ chết bởi v́ họ cảm thấy tương lai không chắc chắn. Người phàm phu có thể tái sanh trong cơi địa ngục. Chúng ta không thích tái sanh trong cơi khổ, nhưng có thể những hành động bất thiện đă làm trong quá khứ có thể làm nhân cho sự tái sanh trong địa ngục. Thậm chí ngay cả Đức Phật lúc ngài c̣n Bồ tát ngài vẫn tái sanh trong cơi địa ngục [1]. Suy nghĩ về địa ngục với tâm bực bội và lo sợ th́ thật là vô ích, nhưng suy nghĩ về địa ngục để nhắc nhở chúng ta làm điều thiện th́ thật là hữu dụng.
Chúng ta xem trong Tương Ưng Bộ Kinh (V, Mahàvagga, Tương Ưng Dự Lưu, chương VI,§4, việc viếng thăm người bịnh) lúc Đức Phật ngự ở ḍng họ Thích Ca ở Kapilavatthu, trong vườn tre, Mahànàma hỏi Đức Phật làm cách nào người cư sĩ có trí bị bịnh cần phải được an ủi bởi người cư sĩ có trí khác. Đức Phật dạy:
Này Mahànàma, một người cư sĩ có trí bị bệnh...phải được an ủi bởi người cư sĩ có trí khác bằng bốn pháp an ủi như sau: "Bạn hữu hăy an tâm, với ḷng tịnh tín bất động của bạn đối với Đức Phật: Ngài là Thế Tôn, bậc A La hán, Chánh Đẳng Chánh Giác ... thầy của Chư Thiên và nhân loại, Phật và Thế Tôn. Bạn hữu hăy an tâm, với ḷng tịnh tín bất động của bạn đối với giáo pháp... Bạn hữu hăy an tâm, với ḷng tịnh tín bất động của bạn đối với chúng Tăng...Bạn hữu hăy an tâm với các giới của bạn đă được các bậc thánh trao truyền. . .Này Mahànàma, người cư sĩ có trí bị bệnh... phải được an ủi do người cư sĩ có trí khác với 4 pháp an ủi cần phải được nói như sau.
Bạn hữu có ḷng thương nhớ cha mẹ không? Nếu vị ấy nói: "-Tôi c̣n có ḷng thương nhớ cha mẹ thời nên nói với vị ấy như sau: "-Thưa bạn hữu, bạn hữu làm thế nào, làm thế nào rồi cũng phải chết. Dầu bạn hữu có ḷng thương nhớ cha mẹ, rồi bạn hữu sẽ cũng phải chết. Dầu bạn hữu không có ḷng thương nhớ cha mẹ, bạn hữu cũng sẽ chết. Vậy tốt hơn là bạn hữu hăy từ bỏ ḷng thương nhớ đối với cha mẹ của bạn hữu."
Nếu vị ấy nói: "Ḷng thương nhớ của tôi đối với cha mẹ, ḷng thương nhớ ấy đă được đoạn tận", vị ấy cần phải nói như sau: "Bạn hữu có ḷng thương nhớ vợ con hay không, dầu bạn hữu có ḷng thương nhớ vợ và con rồi cũng phải chết. Vậy tốt hơn là bạn hữu hăy từ bỏ ḷng thương nhớ đối với vợ và con của bạn hữu."
Nếu vị ấy nói như sau: "Ḷng thương nhớ của tôi đối với vợ con, ḷng thương nhớ ấy đă được đoạn tận", vị ấy cần phải được nói như sau: "Bạn hữu có ḷng thương tiếc năm dục của loài người không?"
Vị ấy nói như sau: "Tôi có ḷng thương nhớ 5 dục công đức của loài người", vị ấy cần phải được nói như sau: "Các thiên dục đối với nhân dục c̣n tốt hơn, c̣n thù diệu hơn. Vậy tốt hơn bạn hữu hăy từ bỏ tâm khỏi nhân dục và hướng tâm đến Tứ đại thiên vương."
Vị ấy nói như sau: "Tâm tôi đă từ bỏ nhân dục và hướng tâm đến Tứ đại thiên vương", vị ấy cần được nói như sau: "Chư thiên ở cơi 33 c̣n thấp hơn, c̣n thù diệu hơn Tứ đại thiên vương... và hướng tâm đến cơi Trời 33... Chư Thiên Dạ ma... Chư Thiên hóa lạc... Chư Thiên tha hóa tự tại... c̣n tốt hơn, c̣n thù diệu hơn Chư Thiên cơi trời 33. Tốt hơn bạn hữu hăy thích nghi tâm của ḿnh vào cơi Phạm thiên."
Như vậy tâm của người bịnh thích nghi như vậy thời vị ấy nói: "Này bạn hữu, ngay cả cơi Phạm thiên th́ cũng vô thường, không trường tồn, bị thân kiến giới hạn. Tốt hơn này bạn hữu, nếu bạn khởi tâm của bạn từ bỏ cơi Phạm thiên và hướng tâm đến đoạn diệt thân kiến."
Nếu vị ấy nói như sau: "Tâm tôi đă từ bỏ Phạm thiên giới và hướng đến đoạn diệt thân kiến", người cư sĩ nói như vậy, này Mahànàma, và vị Tỳ khưu có tâm giải thoát khỏi các lậu hoặc. Ta nói rằng không có ǵ sai biệt tức là về phương diện giải thoát."
Cảnh tượng tái sanh th́ thật là khủng kiếp. Không tái sanh trong tất cả các cơi th́ hạnh phúc biết bao. Nếu ai không muốn tái sanh th́ phải phát huy những sự hiểu biết đúng đắn về những pháp chân đế để nhận chân được Tứ diệu đế, làm như vậy, người đó mới thực sự đi trên con đường dẫn đến chấm dứt tái sanh.
Chân lư đầu tiên là khổ đế. Ví dụ, nếu chúng ta biết rằng thấy ở khoảnh khắc này, nghe, tham đắm hay là bất cứ danh pháp và sắc pháp khác, chúng xuất hiện bây giờ chỉ là giới thôi, mà nó th́ sanh và diệt, chúng ta phải hiểu biết nhiều hơn về khổ đế. Điều ǵ sanh và diệt th́ chúng không thể nào hạnh phúc được. Chân lư thứ hai là nguồn gốc của đau khổ. Nguồn gốc của đau khổ chính là ái dục. Nhờ tu tập Bát chánh đạo nên chúng ta giảm bớt ái dục, ít dính mắc vào danh và sắc. Cuối cùng th́ không c̣n ái dục, chấm dứt tái sanh và như vậy khổ đau không c̣n nữa. Chân lư thứ ba là diệt đế, diệt đế tức là Níp bàn và chân lư thứ tư là con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ, mà con đường này gọi là Bát chánh đạo.
|