Tác giả |
|
thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 9:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
TAM ĐỘC
Phàm là đệ tử Phật trước hết nên học cho biết rơ phiền năo từ trạng thái của phiền năo, nơi sanh ra phiền năo đến nguyên sanh ra phiền năo. Ta phải học cho biết rơ phiền năo để ta tránh nó trước khi nó phát sanh và diệt trừ nó khi nó phát sanh. Nếu ta chỉ biết phiền năo làm cho ta khổ, nhưng ta không biết trạng thái nó ra sao, phát sanh nơi nào và do đâu nó phát sanh lên được và nhất là không biết phương pháp để diệt trừ phiền năo, th́ ta không thể tránh được tai hại. Như ta đă nói ở đoạn trước, người không biết cách diệt trừ phiền năo, khi bị phiền năo làm khổ, lại đi cờ bạc rượu chè, th́ khác nào làm cho phiền năo càng cháy mạnh thêm lên, càng đốt ta nhiều hơn chẳng khác nào trẻ em biết tuy lửa cháy dùng nước để tắt, mà thấy lửa cháy, nó tưởng dầu xăng là nước nó đem đổ xăng vào th́ lửa càng cháy nhiều thêm lên. V́ vậy người học Phật và muốn giải thoát, th́ phải học cho kỹ về phiền năo để dễ bề tiêu diệt nó. Mặc dầu chúng ta không thể thắng được phiền năo nhất thời nhưng ta biết cách ngăn ngừa hay diệt trừ nó, th́ ta cũng được an vui hơn là người không biết ǵ hết, chỉ đợi chết với phiền năo thôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 9:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
GIẢI VỀ THAM
LOBHA: Tham, là ǵ?
Tham là muốn được của người khác về cho ḿnh bằng cách bất hợp pháp như trộm cắp, cướp bóc, sang đoạt, gian lận, cưỡng bách v.v…
Nếu chúng ta muốn hiểu rơ THAM là ǵ, th́ chúng ta nên t́m biết bước đầu của ḷng tham là ǵ. Bước đầu của ḷng tham là RATIUA.
Tôi tin chắc rằng mỗi người của chúng ta hiểu tiếng Tham khác nhau. Có vị hiểu rằng: muốn giàu sang phú quí là Tham, v́ lẽ đông người ta nghĩ vậy, nên chi khi chư Đại đức thuyết pháp dạy người dứt bỏ ḷng tham, người thường không thích nghe và có người phản đối rằng: Chư Đại-đức dạy người lười biếng không lo làm ăn, đó là nguyên nhân làm cho quê hương càng ngày càng đi đến chổ thoái hóa và diệt vong.
Quan niệm về ḷng tham như vậy là sai lầm.
Theo Phật dạy sự bắt đầu của ḷng tham là ưa, thích. Sự ưa, thích nầy không làm hại cho bản thân người ưa thích và người ở gần bên. V́ người ưa thích làm lụng để lấy tiền, chớ không làm ǵ đến kẻ khác để lấy tiền làm giàu cho bản thân ḿnh. Như vậy chưa gọi là Tham được.
Nếu đem ḷng tham ví với các trạng thái của trái xoài chín và nếu phân tách trạng thái của trái xoài chín, th́ người ta thấy có 7 giai đoạn:
1. Hườm hườm
2. Vừa chín
3. Chín đều
4. Chín mùi.
5. Chín thâm kim
6. Chín úng
7. Chín rục có ḍi.
Người ăn xoài có thể ăn bốn thứ xoài từ hườm hườm cho tới xoài chín mùi th́ thật là vô hại, bằng ăn ba thứ sau sẽ có hại cho sức khỏe.
Ḷng tham cũng có tuần tự tiến triển như chín mùi của trái xoài. Có thứ ḷng tham cũng không hại, nhưng ta không biết ngăn đón nó, th́ nó lại đem đến sự tai hại cho ta. Như tôi đă nói bắt đầu của của ḷng tham là sự ưa thích, nếu ta không biết ngăn nó, nó sẽ đi lần tới ham muốn và ham muốn tội lỗi, rồi tới tham.
Chư đại-đức thường dạy không nên tham lam và nên ngăn ngừa chứng tham lam. Ư chư Đại đức dạy rằng nên trông coi tâm ta, đừng để nó đi quá cái mức ưa thích tới nơi tham lam thái quá, rồi gây ra tội lỗi. V́ khi mà tâm người đi tới giai đoạn tham th́ nó lại t́m mưu nầy kế kia để thỏa măn, bất luận là phải làm một điều ǵ, dầu có trái với pháp luật chăng nữa cũng vẫn cứ làm.
Đây tôi xin phân ra từng giai đoạn của ḷng tham và xin tuần tự giải thích:
1. RATI: Ưa.
2. ICCHÀ: Ưa Thích.
3. MAHICCHÀ: Ham.
4. PÀPICCHÀ: Ham muốn tội lỗi.
5. LOBHA: Tham.
6. ABHIJÀ: Tham lam.
7. ABHIJÀVISAMALOBHA: Tham lam thái quá.
1.- RATI: ưa. Khi ḿnh trông thấy một vật ǵ hay nghe một tiếng ǵ vừa ḷng, th́ ḿnh thấy ưa vật ấy hay tiếng ấy. Sự ưa ấy Phạn ngữ gọi là RATI. Rati nầy có ở trong ḷng của mọi người, từ giàu sang đến nghèo khó. Nhưng sự ưa ấy không gọi là tham, không gọi là ác.
2.- ICCHÀ: thích. Thích nghĩa là muốn được vật ǵ mà ḿnh đă ưa, ḿnh cầu cho được ḿnh mong mỏi. Ḷng mong cầu nầy không có ǵ ác bằng chiếm đoạt sái với lẽ đạo, hay luật đời, v́ khi tâm c̣n trong ṿng tốt đẹp, như muốn học giỏi làm việc nhiều để được tiền, siêng năng làm cho ra tiền bằng cách chánh mạng và chánh nghiệp. Hạng ICCHÀ nầy không gọi là tham được. V́ nếu không thành công th́ đó chẳng qua là sự hiểu lầm thôi, chưa gây ra tội lỗi.
3.- MAHICCHÀ: Ham muốn. Giai đoạn này là giai đoạn bắt đầu đi vào tội lỗi, nếu ta không dùng trí tuệ kềm hăm hay trừ nó ngay lúc phát sanh. Nhưng đây cũng chưa hẳn là đi đến nơi phá giới hay là phạm pháp. Nó chỉ làm giảm mất phẩm hạnh thanh cao của ḿnh thôi, v́ khi người ta ham muốn, thường làm những chuyện chướng mắt, không lịch sự. Ta có thể thấy người ham muốn ấy trong nhiều trường hợp như trong bữa ăn, khi người ham muốn thấy món ăn nào ngon và hợp miệng ḿnh, th́ không c̣n nghĩ đến người quanh ḿnh, ăn lấy ăn để, như thế làm giảm mất giá trị của ḿnh. Chúng ta c̣n thường thấy nơi chen chúc mua đồ bằng "Bông" hay là khi gặp tuồng hát hay, kẻ đến sau mà chen lấn vào trước, không nghĩ đến người đă đứng đợi từ trước. Hạng người ham muốn nầy chỉ biết thủ lợi cho ḿnh thôi, không nghĩ đến ai hết, nhưng họ cũng không làm hại ai. Đây là sơ khởi của ḷng tham, nếu người ấy không biết giữ ḿnh hay sửa chữa ḿnh, th́ họ sẽ đi đến chỗ tham không c̣n là bao xa. Người mà có ḷng ham muốn nầy, ví như người thổi bong bóng, khi họ thổi bong bóng càng lúc càng lớn, th́ cái bong bóng lại từ từ che tất cả các sự vật trước mặt họ: họ chỉ thấy cái bong bóng ấy thôi. Người ham muốn cũng vậy, cứ để tâm theo đà ấy mà đi măi măi, th́ lại đi tới tham.
Nếu có người hỏi: "Vậy người muốn làm giàu và ham nhiều, hai người nầy có giống nhau không?" Không giống nhau được. V́ người muốn làm giàu chỉ lo chăm chỉ làm việc có lợi nhiều cho giàu, không gian lận để làm giàu, th́ cái giàu ấy không thể gọi là ham nhiều được. C̣n ham nhiều có nghĩa là có gian lận. Làm giàu do nơi cần cù và chánh nghiệp ấy do nơi RATI (ưa) chớ không phải do nơi ham muốn. C̣n ham muốn là sự làm ḷng người bôn chôn nóng nảy muốn được của về cho ḿnh, mặc dầu là không phạm luật sai pháp, nhưng không hoàn toàn trong sạch, v́ bày tỏ ra bên ngoài cho người trông thấy: đó là con đường bắt đầu đi sâu vào tội lỗi là ḷng tham.
Ví dụ như hai người đi bộ cùng đi đến một nơi chỉ định là từ Sài G̣n đi Vũng Tàu.
Một người th́ đi không hối hả hấp tấp, đi vừa phải với sức ḿnh. C̣n một người th́ đi hấp tấp cho mau, vậy mà vẫn c̣n thấy chậm, rồi chạy lúp xúp, nhưng cũng chẳng vừa ḷng, cố chạy cho mau để tới chỗ. Cách đi của người nầy không đem lại kết quả tốt đẹp mà trái lại làm cho mệt và đôi khi phải bệnh, v́ sự làm quá sức. Người nầy cũng như người ham nhiều, c̣n người kia là người muốn làm giàu, khác với nhau cũng như RATI (thích) và MAHICCHÀ khác nhau vậy.
4.- PÀPICCHÀ: ham muốn tội lỗi, hay ham muốn một cách sâu xa đê tiện. Không biết tội lỗi và trái với luật pháp.
Một khi tâm người đi tới chỗ ham muốn sâu xa đê tiện th́ không c̣n nghĩ tới sự khen chê khinh bỉ của thế nhơn. Người có tâm ấy chỉ biết làm theo khát vọng của ḿnh thôi, không c̣n lo sợ ǵ hết. Mặc dầu chuyện làm ấy đối với pháp luật là vô tội, nhưng không khỏi miệng đời phê phán và người đời khinh bỉ, chẳng hạn như chuyện làm của nhiều người nịnh bợ bề trên để được che chở làm việc ít mà hưởng lợi nhiều.
Chúng ta đừng nghĩ rằng: việc làm quấy, ư tưởng xấu mà ta giấu che không ai biết: tất cả những sự suy nghĩ và sự hành động mà ḿnh cho là thật kín, cũng có ngày lộ ra, v́ đó là việc làm hay là sự suy nghĩ cũng có ảnh hưởng đến đời ta, không sớm th́ muộn đều lộ liễu cho người thấy.
Tâm chúng ta xấu xa đê tiện hằng t́m kiếm những điều xấu xa tội lỗi. Tâm chúng ta có thể ví như con lằng xanh. Con lằng xanh thích những cái ǵ mà người đời nhờm gớm. Tâm ta cũng có khuynh hướng thích những điều nhờm gớm như vậy, nên bực tri thức nhận thấy rơ nó, như ta thấy rơ con lằng xanh.
5.- LOBHA: tham, là ham muốn mănh liệt trong ḷng ḿnh và muốn chiếm của kẻ khác, hoặc cưỡng bách để đem về cho ḿnh hay trộm cắp v.v... Tóm lại là dùng phương tiện nào cũng được miễn đem vật ḿnh đă thích về cho ḿnh. Hạng người ham muốn nầy không màng tội lỗi đối với pháp luật và cũng không sợ quả của luân hồi.
Ḷng tham không đo lường, hoặc h́nh dung ra thế nầy thế nọ được. Muốn dễ nhận thức, tôi xin ví dụ như thế nầy:
Có người muốn được một trăm ngàn đồng để làm một công nghiệp ǵ. Người cố hết sức làm lụng vất vả để có đủ số tiền cần dùng vào việc ấy. Người nầy không gọi là tham mà gọi là ưa-thích.
C̣n một người khác chỉ cần một ngàn đồng thôi, mà lại đi lường gạt hay làm một chuyện ǵ bất chánh để có số tiền th́ người ấy gọi là người tham. Vậy ham muốn một cách bất hợp pháp, bất chánh, mặc dầu một xu nhỏ cũng gọi là tham.
Tham là một Ác-pháp, một phiền năo, là nguồn gốc làm cho tâm ta nhơ đục, tội lỗi; và cũng v́ nó mà luân hồi.
Ḷng tham đến giai đoạn nầy là hiện thân của tội ác.
6.- ABHIJHÀ: tham lam, tham quá sức; ḷng tham quá sức nầy có thể khiến người ta làm tội ác được.
7.- ABHIJHÀVISAMALOBHA: Tham lam thái quá, nghĩa là ḷng tham đă đi tới tột độ, không c̣n chỗ nào cao hơn. Ḷng tham nầy làm cho ḷng người mờ tối, không c̣n nhận thấy phải trái, dám giết người cướp của miễn đoạt cho được mới nghe. Ḷng tham của con người tới mức độ nầy, th́ không c̣n phương pháp nào chặn đứng được.
Trên đây bảy giai đoạn của ḷng tham đă được lư giải riêng rẽ, dưới đây xin thuyết minh những điểm dị biệt giữa các giai đoạn:
1.- LOBHA: Tham. Người tham của hạng nầy là người muốn được của người khác bằng mọi cách, nhưng ngoại trừ cướp và giết người. Ḷng tham nầy lại c̣n phân biệt được của quyến thuộc cha mẹ, và người có ơn; nghĩa là dầu tham nhưng không lấy của những hạng kể trên.
2.- ABHIJHÀ: Tham lam. Ḷng tham lam nầy sanh lên không c̣n phân biệt là của ai, và trên phương diện nào hoặc là cướp bóc v.v… nhưng c̣n chưa dám lấy của cha mẹ.
3.- ABHIJHÀVISAMALOBHA: Tham lam thái quá. Ḷng tham nầy không c̣n nghĩ đến là của ai cả, mặc dầu của ấy là của cha mẹ cũng chẳng từ, miễn sao về cho ḿnh là được.
*
Đức Phật dạy chúng ta nên học cho biết rơ nguyên nhân sanh lên ḷng tham, cốt để chúng ta thấy rơ h́nh dáng và nơi phát sanh để dễ cho chúng ta dập tắt được, hay chúng ta ngăn ngừa không cho nó sanh lên.
Đức Thế Tôn biết chúng ta có căn cơ tu hành khác nhau, nên Ngài không dạy chúng sanh nào cũng phải xuất gia. Ngài có dạy cả hai phương pháp là cho hai hạng người. Hạng căn cơ cao dầy th́ xuất gia bỏ cả tài, t́nh, danh, lợi, hầu giải thoát khỏi biển luân hồi. C̣n mạng căn cơ thấp kém th́ lo tu tại gia. Đức Phật dạy cho người tu tại gia nên tu theo các pháp là:
1.- Siêng năng lo làm việc cho có tiền của. Việc làm không phải bắt buộc là làm nghề này nghề nọ, nhưng phải là nghề chân chánh.
2.- Biết giữ lấy của ḿnh đă có và xài không phung phí.
3.- Có bạn lành (xin xem 38 Pháp An lành).
4.- Đối với vợ con phải thành thật nghĩa là không ngoại t́nh. Đối với con một ḷng thương yêu và trông nom săn sóc (xin xem 38 Pháp An lành).
5.- Xa những người lười biếng, giải đăi hay bỏ phế công việc làm ăn.
6.- Không nên để đến đỗi thiếu thốn đi vay nợ.
Phải có Tam qui và Ngũ giới.
Đây là sơ lược của người tại gia cư sĩ phải thực hành theo. Theo lời giải trên đây th́ chúng ta thấy rằng Đức Phật không cấm người tại gia cư sĩ làm giàu, nhưng Ngài cấm người tại gia cư sĩ làm giàu trên xương máu kẻ khác, như đầu cơ, chợ đen v.v… Nếu đệ tử Phật không lo làm ăn, toàn là nghèo khổ hết, th́ Phật giáo không thể trường tồn được, trái lại nếu giàu có th́ dễ bố thí giúp đỡ chư Tăng. Nếu tất cả phật tử đều giàu có th́ chúng sanh bớt khổ, v́ tất cả đệ tử Phật đều học rành hai tiếng Bố Thí, Từ Bi.
Đức Phật biết rơ đă là chúng sanh ḷng c̣n phiền năo, th́ không sao chạy khỏi sự ưa thích, v́ đó là một phiền năo nằm sâu trong tâm chúng sanh, Phật gọi là thụy miên phiền năo. V́ vậy nên Ngài dạy cho chúng ta biết rơ phiền năo ấy và dạy cách chặn đứng. Ngài hiểu rằng ḷng tham là tai hại không nhỏ, nên Ngài dạy phương pháp ngăn ngừa.
QUẢ CỦA L̉NG THAM LAM
Người tham th́ bạn bè xa lánh, đến nơi nào cũng không ai thích làm bạn, không ai muốn giúp đỡ, làm ăn thường bị thất bại v́ thiếu tín nhiệm hay bạn bè không ai chỉ cho chỗ lợi hại. Người đời không ai là không ghét người THAM.
Con người đă gọi là tham lam th́ chắc chắn bị nhiều người thù ghét, nếu có thể người khác cũng dám ám sát để trả thù v́ cướp bóc hay lường gạt hoặc cưỡng bách người ta. Hạng người nầy sau khi chết chắc chắn bị sanh vào Địa ngục hay Ngạ quỷ, hoặc súc sanh.
PHÁP ĐỐI TRỊ VỚI THAM
Trong đoạn trước chúng ta đă thấy ḷng tham lam phát sanh lên tuần tự theo bảy giai đoạn. Dưới đây là pháp đối trị để ngăn chặn và diệt trừ.
1.- RATI: Ưa. Pháp đối trị của ưa là SANTOSA: Tri-túc. Khi thấy trong tâm ḿnh muốn một vật ǵ mà ta đă có, mặc dầu ta không cố ư chiếm đoạt của ấy, nhưng ta nên biết rằng đây là bước đầu tiên để đi tới tham. Vậy ta phải biết tri-túc, nghĩa là tự ḿnh măn nguyện với những ǵ mà ḿnh đă có, đừng thèm muốn. Đây là pháp ngăn không cho "ưa" đi thêm một bước nữa.
2.- ICCHÀ: Thích. Pháp đối trị của thích là HIRI: Hổ-thẹn, tội lỗi. Tại sao hổ thẹn, tội lỗi lại trị được cái thích?
Đức Phật thường dạy: con người luân hồi tỉ như người c̣n đang đi lạc trong rừng đầy nguy hiểm và khổ sở; mà sự ưa thích là nhân làm cho con người phải luân hồi khổ. Người nào thấy ḿnh c̣n ưa thích món nầy vật nọ, mà thấy thẹn với ḷng ḿnh bởi c̣n ham trầm luân trong biển khổ mới là Đệ tử của đấng tối cao và hoàn toàn giác ngộ, ráng noi theo gương giải thoát của Ngài, dứt hết mọi ham mê theo trầm luân. Người ấy dứt bỏ được sự ưa thích bằng sự hổ thẹn tội lỗi.
3.- MAHICCHÀ: Ham muốn. Pháp đối trị của ham muốn là CÀGA: dứt bỏ, ư nói dứt bỏ sự tham muốn bằng cách bố thí. Thí "dứt bỏ" có hai ư nghĩa khác nhau là:
a.- Khi người có trí tuệ nh́n lại tâm ḿnh, thấy ḿnh ham muốn một vật chi, liền suy nghĩ đến vô thường khổ năo và vô ngă. Người có trí tuệ hằng nghĩ rằng: người càng có của nhiều, càng ham mê và muốn được thêm măi, v́ ḷng ham của con người không có biên giới, mặc dầu hiện giờ được món ấy không phạm vào điều cấm của Phật, không sái với pháp luật với chánh quyền, nhưng của đó là một nhân làm cho ḷng ḿnh nặng lo. Khi càng có của nhiều càng sợ mất hay sợ tai hại càng nhiều cho của đó, ví như ta có một cái nhà ta lo cho một cái nhà này thôi, nếu có hai cái th́ lo hai cái, tức nhiên phải nặng hơn nhiều.
Đức Phật ví chúng ta c̣n sanh trong luân hồi không khác nào người đi trên chiếc xuồng nhỏ và trong đêm tăm tối giữa bể khơi thay v́ lo chèo chống lái vào bờ cho mau trái lại c̣n lo vớt những đồ đạc bỏ lên thuyền ḿnh cho nhiều. Người đi trên chiếc xuồng ấy là bản thân ta; c̣n biển đó là biển luân hồi; đêm tối chính là Vô-minh; c̣n những của mà ta vớt như tài, t́nh, danh, lợi, là đồ của chư thánh nhơn đă vứt bỏ v́ thấy đáng ghê sợ.
Khi người đă giác ngộ về Ngũ trần th́ không dám ham muốn tài sản chi nữa, mới dứt bỏ được phiền năo.
b.- "Dứt bỏ" có ư nói là khi mà ta đă có nhiều của cải, thấy rằng ta chết không đem vật ǵ theo ta được, có chăng chỉ tội và phước, ta liền đem của tiền ḿnh có ra bố thí cho người nghèo, hoặc giúp vào việc từ thiện, hay giúp đỡ người tu. Người dứt bỏ như vầy là người đánh ngay vào ḷng ham muốn và ḷng ham muốn chắc chắn sẽ bị đánh bại.
4.- PÀPICCHÀ: Ham muốn đến độ mù quáng. Sự ham muốn này đi đến chỗ gọi là Ác pháp, v́ khi sự ham muốn đi đến nơi đây tức nhiên con người dám trộm cắp, hay lường gạt. V́ vậy nên đức Phật dạy pháp trừ ngay Ác pháp này là Chánh-mạng, nghĩa là nuôi mạng chân chánh, không hại người, đem lợi ích cho ḿnh.
Pháp thứ 5, 6 và 7 là tham, tham lam, và tham lam thái quá, chỉ có sự Bố thí mới dứt trừ nó được.
PHƯƠNG PHÁP TRỪ THAM
Muốn trừ tham Đức Phật dạy Bố thí. Bố thí có nghĩa là đem của ḿnh đă có cho kẻ khác, như cho người nghèo khó, hay giúp vào việc phước thiện, hay giúp cho người bị tai nạn như lụt băo, hay hỏa hoạn. Bố thí có một ư nghĩa tổng quát là: Giúp đỡ kẻ khác với tấm ḷng từ bi và không nghĩ tới sự trả ơn của người thọ lănh của Bố thí ấy. Sự đem ra cho, là pháp đối trị của tham. V́ tham muốn thâu vào, c̣n Bố thí lại phát ra.
Tham lam là ḷng muốn thêm măi măi không biết đến những độ nào cho đủ. V́ tham lam nên ḷng người hay thay đổi, lo sợ mất của, dám sang đoạt của cải của bạn lành hay của quyến thuộc cha mẹ. Sở dĩ con người tham lam, v́ con người từ khi sanh ra cho đến lớn lên chỉ học lấy một tiếng Thâu thôi, không học tiếng Xuất, v́ vậy ḷng tham ấy đă quen rồi, thật khó mà bỏ được. Đức Thế Tôn biết rơ ḷng chúng sanh là vậy, nên người tu Phật tiếng học đầu tiên là Bố thí hay xuất của ḿnh ra cho, tuỳ tiện theo của ḿnh đă có. Nếu có nhiều, cho nhiều, có ít cho ít. Ban sơ không thể đem ra cho ai được, nên Đức Phật dạy về phước và sự an vui ở thiên đàng, chúng sanh có bố thí có phước sanh được về thiên đàng an vui như thế nầy thế nọ. Sau Ngài lại dạy ḷng từ bi, thương hại chúng sanh, đem của ra cho tất cả ai chẳng hạn, không c̣n có giai cấp biên giới, nghĩa là Bố thí không phải chọn chư Tăng hay người tu mà tất cả những người cần ta giúp đỡ. Sự Bố thí nầy là phương pháp trừ được tham lam.
Phật dạy phải DẠY TÂM ḿnh. Ư nói rằng: Ta nên suy nghĩ để t́m thấy cái hại của sự tham lam và đặc ân của sự không tham lam. Những pháp làm cho tâm ta xa được sự tham lam là Tri túc, Tự túc, Bố thí. Đức Phật dạy chúng ta nên quán tưởng cho thấy các bậc vua chúa giàu sang tột độ, nhưng khi chết không đem ǵ theo được. Của cải mà ta đă có chỉ cho ta vui sống trong kiếp nầy thôi; nếu nói đến vị lai th́ của nầy là của thừa, không dùng vào đâu được nếu ta không biết phương pháp mang theo, th́ chẳng ích chi cho đời ta cả. Chỉ có cách Bố thí mới đem về của vị lai được.
Tóm lại phương pháp duy nhất của sự diệt tham lam là Bố thí. V́ vậy nên trong 30 pháp Ba-la-mật của chư Phật, Bố thí là hạnh đầu tiên, mà chư Bồ tát thường hành. Vậy chúng ta là đệ tử Phật muốn giải thoát, nên cố hành theo hạnh nầy trước nhất.
GIẢI VỀ SÂN HẬN
DOSA nghĩa là sân hận. Nhưng theo đúng Phạn ngữ ta có thể diễn dịch là GIẬN DỮ và LÀM HẠI NGƯỜI. Sân hận là một trong Tam Độc.
Hỏi: Quả của sân hận như thế nào?
Đáp: Rất dễ hiểu: Người sân hận thường hay có nhiều oan trái oán thù, hằng tâm nóng nảy không an tịnh thảnh thơi.
Hỏi: Do đâu mà tâm trở nên sân hận?
Đáp: Sự sân hận sanh lên do một nguyên nhân rất nhỏ, như sự tham lam, chẳng khác nào một đám rừng cháy dữ dội chỉ do nơi một đốm lửa nhỏ. V́ vậy nên Dức Phật có dạy người ta không nên dể-duôi cho đốm lửa nhỏ không hại ǵ.
Hỏi: Vậy sự sân hận sanh lên do nơi một điểm nhỏ là điểm ǵ?
Đáp: Do nơi ARATI sự bất măn. Đây tôi xin nêu ra nguyên nhân sanh sân hận:
1. ARATI: Bất măn.
2. PATIGHA: Bực tức.
3. KODHA: Sân.
4. DOSA: Sân hận.
5. BYÀPÀDA: Cột oán thù.
Khi quư vị trông thấy sự tŕnh bày trên th́ quư vị đă nhận thấy sự đi tuần tự của tâm sân hận. Đây tôi xin giải từng chi tiết để quư vị dễ nhận xét.
ARATI: BẤT MĂN
Nguyên nhân sanh ra sân hận (giận dữ) trước hết nó do nơi sự không ưa, tức là sự bất măn, cũng như ḷng tham lam sanh lên do nơi sự ưa thích vậy.
Hỏi: Vậy sự bất măn do nơi đâu sanh ra?
Đáp: Sự bất măn này sanh lên do nơi ḷng ham muốn cho vừa ư ḿnh; khi không vừa ư ḿnh, hay không toại nguyện, th́ sanh ra sự bất măn. Khi sự bất măn sanh trong tâm ta cũng chưa gọi là một tai hại, nó chỉ làm cho tâm ta không thỏa măn thôi. Nếu ta không diệt trừ nó từ bấy giờ, th́ nó sẽ đi lần đến PATIGHA: Bực tức.
Hỏi: Nếu ta muốn diệt trừ sự bất măn th́ phải làm sao?
Đáp: Phải dùng ngay YONISOMANASIKÀRA nghĩa là dùng trí nhớ có trí tuệ kèm theo quan sát tâm từng sát-na. Ư tôi muốn nói có trí nhớ như có ông quan canh cửa thành, vị nầy biết rơ người nào nên cho vào thành, người không nên cho vào, và người nên bắt giữ lại. Nếu để những kẻ bất lương xâm nhập vào thành, th́ nó sẽ quấy rối nhân dân trong thành không làm ăn ǵ được. Và cũng có thể hại cho nhà vua, hại cho cả quốc gia.
Quốc gia đây ví như thân người, có thành tŕ chắc và có sáu cửa ra vào là nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ư. C̣n tâm th́ ví như nhà vua. Khi người có trí nhớ canh nơi các cổng thành, không cho các đề mục bên ngoài xâm nhập vào làm cho tâm nhơ đục, hay là trí nhớ biết rằng đề mục nầy nếu đem vào tâm, th́ làm cho tâm trở nên nhơ đục. Nhơ đục đây có ư nói là bất măn, bực tức, sân, sân hận và oán thù.
Hỏi: Vậy cái ǵ nhận biết đề mục? Cái ǵ nhận biết là đề mục xấu làm cho tâm nổi phiền năo, nếu không phải là tâm?
Đáp: Sự nhận biết ở sáu cửa không phải là tâm, mà gọi là thức. Khi thức có trí nhớ và trí tuệ giúp vào th́ thức ấy biết rằng đề mục nào làm cho tâm bất măn, rồi đi lần đến sân hận, oán thù. Trí nhớ và trí tuệ sẽ làm cho tâm và thức nhận biết cái hại của sân hận oán thù.
Hỏi: Nhược bằng trí nhớ không thể ngăn đón đề mục ấy tâm đă bất măn rồi nó sẽ ra sao?
PATIGHA: BỰC TỨC
Đáp: Tâm sẽ đi đến chỗ bực tức. Khi sự bực tức đă sanh lên, th́ tâm không c̣n sáng suốt nữa, khi ấy tâm chỉ thiên về một bên là nghĩ rằng ta phải. Tâm bực tức làm cho con người khó chịu, đây là nguyên nhân nổi lửa sân. Người muốn diệt trừ ngay sự bực tức trong lúc nầy phải có sự DAMA nghĩa là dạy tâm.
Hỏi: Phải dạy bằng cách nào?
Đáp: Có nhiều cách dạy tâm, nhưng rất khó làm cho nó vắng lặng liền được, là v́ nó đang nóng nảy, ta phải cố xa lánh chỗ nào đang làm ta bực tức, để ta xa lánh hoàn cảnh bên ta, rồi hăy nhớ niệm một trong 40 đề mục tham thiền. Khi tâm trở lại b́nh tĩnh, th́ người lại nhận thấy ngay cái hại của sự bực tức, là sẽ đem lại nhiều sự bận ḷng, oán thù, oan trái v.v…
Riêng tôi th́ tôi lại đi t́m một nơi nào mát mẻ, hay đi uống nước mát từ hớp một cho tâm tôi lần trở nên yên tịnh, chừng ấy mới nghĩ tới cái hại của ḷng sân hận, và quả báo của sự không sân hận.
Hỏi: Nếu ta không thể dằn được sự bực tức, tâm sân lại phát sanh, ta phải làm cách nào trừ sân? Hiện tượng của sân ra sao?
KODHA: SÂN
Đáp: Sân tức là giận, nó làm cho tâm rất nóng nảy, mất hẳn sự b́nh tĩnh, mặt biến sắc, tay chân run, khi nói tiếng đổi giọng.
Sân gây hại rất nhiều, v́ khi sân đă sanh lên, th́ tâm chỉ biết làm hung dữ, sân đem lại đủ các tác hại cho ḿnh. Đức Thế Tôn có dạy sân là một vật rất nhơ bẩn, hôi thúi, một khi tâm đă sân rồi, th́ không c̣n phân biệt phải quấy, tâm trở nên đen tối và có thể gây ba điều hại:
1.- Sân làm cho tâm đen tối.
2.- Sân làm cho tâm làm việc không hay, nhất là làm mất phẩm hạnh.
3.- Sân thường làm cho việc làm hư hỏng.
Nếu ta muốn nhận định được ta th́ ta nên xét từ bên trong ta (tức là tâm ta) như thế nào rồi xét đến hạnh kiểm, cuối cùng xét đến việc làm của ta. C̣n muốn nhận định cho biết rơ người ngoài ta, th́ ta phải xét ngược lại, nghĩa là nên xét việc làm, rồi xét hạnh kiểm, cuối cùng mới xét đến tâm.
1.- Khi tâm không sân th́ trong sạch vui vẻ thảnh thơi, suy nghĩ điều ǵ không thông suốt, trí tuệ được minh mẫn và rất thanh tịnh. Trái lại khi nó sân th́ xấu không sao nói hết. Nói về sự suy nghĩ của tâm, khi nó đă sân th́ không bao giờ suy nghĩ việc lành điều thiện. Khi đă sân lên th́ mặc dầu người có học thức tới tột độ trong thế gian nầy, cũng trở nên tối mê, khi ấy không khác nào người điên.
2.- Đức Thế Tôn dạy rằng khi sân th́ con người mất phẩm hạnh. Khi người chưa sân th́ từ cử chỉ nhỏ nhặt đến lời nói việc làm đều nhă nhặn, khả ái, nhưng khi sân hận th́ mọi việc đều thay đổi hẳn, người ta trở nên vũ phu tàn bạo, v́ lẽ tâm không c̣n yên tịnh mát mẻ. Khi tâm sân th́ sự hành động khác hẳn và mặt mày cũng không c̣n đẹp đẽ ra vẻ thiện lương nữa.
3.- Khi sân th́ không khi nào người ta làm việc được hoàn mỹ, v́ tâm không c̣n yêu thích việc đang làm nữa.
Người có tánh sân vốn ít có bạn, v́ ít người dám giao tiếp. Khi người ấy làm lớn, th́ càng tai hại nhiều, v́ những người dưới quyền ít muốn gần và cũng không khi nào dám nói ǵ dầu cho khi họ biết rằng ông chủ làm việc sai lầm.
DIỆT SÂN
Như chúng ta đă biết, sân là một thói xấu, không ai ưa và muốn gần. Khi tôi viết đến đoạn nầy tôi không muốn giải nhiều, v́ tôi biết rằng nói về sân cho quư vị nghe, không khác nào nói chuyện nhức răng cho các cụ nghe, các cụ đă biết qua nhức răng là thế nào rồi. Nhưng điều mà tôi muốn nói là phương pháp DIỆT TRỪ SÂN.
Có ba phương pháp diệt sân:
1.- Làm thế nào chận đứng sân.
2.- Khi đă sân rồi th́ làm thế nào dập tắt được.
3.- Làm thế nào dứt được sân cho không c̣n sân nữa.
Trước hết tôi xin nhắc lại: bệnh tinh thần là tham lam sân hận và si mê, thường làm cho chúng ta đau khổ, thất vọng, buồn rầu và cũng là nhân đem lại luân hồi, chỉ có vị lương y đại tài là Đức Phật t́m ra phương pháp trừ bệnh ấy. Vậy nên tôi giải đây là phương pháp là do nơi những phương pháp và các phương thuốc để trị bệnh của vị Bác sĩ đại tài ấy.
1.- Phương pháp ngăn ngừa Sân
Bước đầu tiên ta nên ngăn đừng cho sự bất b́nh phát sanh, v́ lẽ ngừa bệnh hơn chữa bệnh.
Ví dụ như ta bị người mắng chửi, th́ tất nhiên ta bất b́nh đến bực tức, tới sân, kế là sân hận và sau cùng là oán thù. Bất b́nh và bực tức chỉ là hai bước đầu tiên chưa thật là một tai hại, nhưng đến bước thứ ba sân mới đáng kể là quan trọng. Tâm thường tuần tự như vậy, nhưng v́ ta không thường chăm nom hay nói cho dễ nghe là không có tu theo tập phương pháp chánh tịnh hoặc Tứ niệm xứ của Đức Thế Tôn dạy, nên chi khi tâm sanh lên quá mau không đủ trí nhớ quan sát nó nên nó tự phát ra. V́ chúng ta thiếu trí nhớ để kiểm soát tâm, nên ta cảm thấy như ḷng sân phát sanh lên liền, trong khi ta thường gặp trường hợp không vừa ḷng, chớ thật sự th́ phải đi tuần tự như đă kể trên.
Muốn chặn đứng sân có nhiều vị Đại đức dạy rằng khi biết ḿnh sân, th́ lập tức niệm về số tức quan, tức là đếm hơi thở. Theo tôi khi đến sân rồi, ít người c̣n sáng suốt để niệm ǵ được hết, bởi thiếu trí nhớ, nên để đề-mục xấu xâm nhập vào tâm, không c̣n sáng suốt ngay lúc ban sơ, th́ làm sao có đủ sáng suốt để niệm khi sân đă phát sanh trong tâm rồi. Theo tôi người cần phải có trí nhớ để ngăn đón đừng cho sự bất măn phát sanh. Nếu khi ta biết sự bất măn đă sanh lên, nên niệm một trong 40 đề mục tham thiền. Sở dĩ mà người có thể chận được sự bất măn nơi đây là v́ sự bất măn chưa có thể làm cho tâm rung động mạnh, trí nhớ c̣n có thể kiềm chế tâm được. Khi ta đă niệm một đề mục nào chính là ta cố đem tâm ta ra ngoài hoàn cảnh ta đang ở, ư tôi muốn nói đem tâm ra khỏi đề mục làm cho ta bất măn. Sự bất măn ví như lửa của diêm quẹt, ta có thể thổi tắt được, không phải gọi đến hàng xóm đến phụ dập tắt.
Người muốn thắng được sân, nên hành theo pháp nhẫn nại.
2.- Phương pháp dập tắt Sân
Khi sân sanh lên, ta dập tắt liền. Để cho dễ hiểu tôi xin ví dụ. Bất măn ví như lửa của diêm quẹt, ta có thể thổi tắt được; nếu không dập tắt khi lửa c̣n ở trạng thái diêm quẹt, mà để đến giai đoạn bực tức th́ lửa bắt đầu cháy mùng; lửa cháy mùng vẫn c̣n chữa được; nhưng đến đây, nếu ta không chữa kịp thời, th́ lửa cháy tới vách; lửa cháy vách đây ví như sân, nếu không cố chữa cho được, th́ nó sẽ cháy đến nóc nhà ví như lửa sân hận. Khi tới nóc mà không gọi xe chữa lửa đến th́ lửa sẽ cháy hết nhà, lửa cháy mănh liệt như thế, khó mà dập tắt được; đến đây lửa đó ví như là sự oán thù vậy.
Như đă nói ở trên, khi người nổi sân, th́ không c̣n đủ sáng suốt để phán đoán việc ǵ cả. Người ấy thiếu hai pháp là trí nhớ và biết ḿnh, nên để cho những đề-mục ác xâm nhậpvào tâm. Sự thật tâm của chúng ta hành động rất là nhanh chóng, không có ǵ sánh bằng, mà ta lại thiếu trí nhớ và không biết ḿnh, th́ càng nguy hiểm. Khi tâm ta đang sân, đang gây gổ với người khác, trong lúc ấy có một khoảng nào rất ngắn trong tâm ta trở nên b́nh tĩnh, nhận định thấy mọi việc, nghĩa là sáng suốt, nếu ta có đủ trí nhớ và biết ḿnh, nhân cơ hội ấy đàn áp được ḷng hận nghĩa là ta tránh đi nơi khác, nhất là niệm một đề-mục thiền định, hoặc dùng trí tuệ quan sát thấy tội của sân; và nghĩ đến vô thường, khổ năo, vô ngă, khi thấy tâm ta sẽ an-tịnh.
Sự thật trong thế gian nầy, ai ai cũng có dịp nổi sân, nhưng ít có ai có thể tiếp tục sân trong 30 phút liên tiếp. Nếu có chăng th́ sau khi ấy chắc chắn là không khỏi mệt nhiều. Và trong khi sân như thế cũng có một thời gian ngắn tâm vắng lặng.
Nếu quí vị muốn tránh sân th́ xin quí vị nên cố quan sát tâm để dập tắt, khi mới bất măn, hay khi đă sân ta nên chụp ngay cơ hội nào để trốn nó, nếu ta không thể thắng nổi nó.
Tóm lại, nếu ta muốn chận đứng sân, th́ nên có trí nhớ và nên biết ḿnh, để ngăn ngừa nó không cho sanh lên trong tâm ta.
3.- Phương pháp dứt bỏ Sân
Phương pháp nầy là phương pháp dạy tâm cho trở nên b́nh tĩnh trong các trường hợp và nên làm cho tâm mát mẻ. Khi ta dạy tâm ta được an tịnh mát mẻ và điềm tĩnh trong các trường hợp làm cho ḿnh sân, th́ chẳng những bản thân ta được hạnh phúc an vui, mà vợ con ta, quyến thuộc, bạn bè, và người cộng sự với ta cũng an vui lây.
Ngoài ba phương pháp kể trên, để đối trị với sân, tôi xin giải thêm ba phương pháp nữa là:
a)- Xem mọi trường hợp là chuyện không không. Ư tôi muốn nói dùng trí tuệ suy nghĩ thấy rằng: mọi việc đến cho ta đều là chuyện không đáng quan tâm. Ví như có người kia mắng chửi ta, ta nên nghĩ: Không biết họ nói ǵ ta? Nghe chưa kịp, xin họ nói lại một lần nữa. Ví bằng không hỏi lại v́ đă nghe rơ, ta nên t́m coi tại sao mà người ấy mắng ta? Điều quan trọng hơn hết, là nên tự nhận điều ấy do nơi ḿnh ra. Hơn thế nữa, nên nghĩ rằng: người ấy đang bị lửa sân thiêu đốt, nên không dằn được mà mắng nhiếc ta; ta nên nhẫn nhịn đi, hơi đâu mà gây gổ với người mất trí, hơn nữa ta Đệ Tử Phật, Ngài có dạy sân là nguồn tội lỗi luân hồi, Ngài thường dạy chúng sanh nên dứt bỏ, mà ta là Đệ-Tử của Ngài nên hành theo lời Ngài để đáp đền công ơn muôn một, ta không nên để các bực trí thức chỉ trích chê khinh, và người đời ghê tởm. Khi người suy nghĩ được như thế, th́ ḷng không c̣n bận tới thế sự, hơn thua tranh giành danh lợi với người khác, th́ tức nhiên sự mắng nhiếc không thành vấn đề.
b)- Rải tâm từ. Khi tâm ta bị trường hợp làm cho sân lên, th́ lập tức phải rải ḷng thương hại nhân vật làm cho ta sân; ḷng thương hại ấy chính là tâm từ trong Phật-giáo. Ta nên nghĩ: ḷng sân hận làm cho người mất b́nh tĩnh và làm những điều không hay, mất cả đức tánh tốt. Người v́ ḷng sân nên bị khổ sở, không nhịn chịu được, nên bộc lộ ra ngoài những cái mà bực trí thức chỉ trích. Vậy ta không v́ vậy mà giận hờn, trái lại nên thương hại người ấy hơn. Nếu ta không mau tránh, th́ ta cũng vào ṿng sân như thế, và sẽ làm tṛ cười cho thế gian. Và đó là nguồn làm cho ta phải luân hồi.
Xin nhắc quí vị rằng: đột nhiên ta không thể nào rải ḷng từ, khi ta gặp chuyện làm cho ta sân được. Tại sao? V́ nếu muốn rải ḷng từ, th́ ít nhất ta phải tập tâm ta có ḷng từ, trước khi gặp hoàn cảnh làm cho ta sân, nếu ta để đến nơi mà mới rải tâm từ th́ bằng thừa thôi. Phải từ trước có hành tâm từ, mới được; người không bao giờ niệm tâm từ, mà rải tâm từ, th́ chắc chắn không có kết quả, ví như người muốn chữa lửa, mà không có dự trữ sẵn nước, hay như người đến khát nước mới đào giếng vậy.
c)- Tham thiền. Nếu vị nào có tham thiền, th́ mới biết tham thiền là một phương pháp làm cho tâm người từ vọng động trở nên b́nh tĩnh. Như tôi đă nói ở trên, tâm của chúng ta sở dĩ mà vọng động, là v́ bị hoàn cảnh bên ngoài kích thích, nên mất b́nh tĩnh làm cho tâm sân.
Đức Phật dạy tâm người không khi nào chịu vắng lặng ví như cá với nước hay khỉ trong rừng. Phàm khỉ không bao giờ ngồi yên một chỗ. Tâm ta cũng vậy, không bao giờ chịu ở yên một nơi nào, nó vẫn phóng túng theo các cảnh trần, v́ phóng túng theo cảnh trần nên tâm không b́nh tĩnh. Vậy nên chỉ có một phương pháp duy nhất là phải làm cho tâm b́nh tĩnh, cũng như muốn cho khỉ đừng chuyền nhảy từ cây này qua cây nọ th́ chỉ có một phương pháp là cột nó lại một nơi nào. Vậy hành giả muốn tâm ḿnh trụ lại một chỗ, th́ chỉ có một phương pháp là tham thiền, nghĩa là phải niệm 1 trong 40 đề-mục của Đức Thế Tôn đă dạy.
Tôi xin ví dụ: tâm ta như con khỉ, cây cột để cột khỉ ví như đề mục để niệm, c̣n trí nhớ không khác nào như sợi dây cột khỉ, trí tuệ không khác nào người cột khỉ luôn luôn coi khỉ c̣n chỗ nào phải cột thêm, trí tuệ hằng quan sát coi tâm c̣n vọng động bởi một nhân ǵ và t́m thế để diệt trừ nhân ấy. Khi tâm tập được thuần phục rồi, ít khi bị hoàn cảnh bên ngoài chi phối, nếu có bị chăng nữa cũng thức tỉnh lấy ḿnh được, v́ nó đă quen ở với khuôn khổ.
Nếu nói sân mà mà không nói đến UPANĂHA th́ chưa gọi là hoàn toàn. Nên đây tôi xin giải thêm cho quí vị dễ nhận thức.
Phiền năo UPANÀHA nghĩa là cố chấp sân. Phiền năo nầy là chi nhánh của sân, ít khi bộc lộ ra ngoài như sân v́ nó thuộc về hạng phụ thuộc. Nhưng kỳ trung nó đem tai hại đến cho ta không ít.
Tóm lại 3 điều quan trọng thuộc về tâm sân là:
1.- KODHA: Sân.
2.- DOSA: Sân hận, có nghĩ là giận dữ làm hại người bằng tất cả các phương tiện khả dĩ làm được. Đây thuộc về phần chánh trongTam độc là tham lam, sân hận, và si mê.
3.- BHYÀPÀDA: Cột oán thù, ư nói khi sân hận nhưng chưa làm ǵ được người ta: cố dành để trong tâm, chờ có dịp nào thuận tiện th́ sẽ làm, bất luận là thời gian bao nhiêu năm.
Ba phiền năo kể trên có liên quan với nhau rất là khắng khít, trong khi đó không có UPANÀHA. Nhưng khi tâm sân sanh lên, ngưng lại nơi ấy, không đi tới sân hận, mà nó cũng không bị dập tắt và c̣n chấp giữ lấy trong tâm. V́ vậy nên phiền năo nầy không phải là vai chính trong sân hận. Hơn nữa có người đă sân, rồi hết, không bao giờ chấp chứa giận hờn, nên ít thấy nói đến UPANÀHA: Cố chấp sự giận hờn trong tâm.
Nếu có người hỏi: Vốn có của sự cố chấp giận nghĩa là có giận, tại sao lại c̣n có tên là UPNÀHA cố chấp giận là ǵ?
Đáp: Cố chấp sân (giận) là một phần riêng của KODHA: sân (giận) tạo ra. Ta có thể ví dụ rằng: Ông chủ là KODHA (sân), c̣n UPANÀHA cố chấp sân là thư kư. Vậy th́ quí vị thấy rơ ràng cố chấp là giữ lấy những ǵ của ḷng sân giao cho. Khi sân thâu nhận và giao cho UPANÀHA chứa giữ nhiều chuyện th́ sẽ đi đến DOSA: sân hận (sân hận sẽ giải sau). Nếu người không thể chận đứng sân, th́ sân hận sẽ theo sau liền. Thiết tưởng chúng ta cần nhận định sự cố chấp sân và cột oán thù khác nhau thế nào. Người cố chấp sân là người không bao giờ nghĩ đến sự đánh đập người mà họ đă giận, nhưng không bao giờ họ chịu làm lành với người ấy. Hoặc giả có nói chuyện với người ấy chăng nữa cũng chỉ v́ xă giao, chớ chắc chắn không bao giờ giúp đỡ, khi người kia cần phải được giúp đỡ.
C̣n sự cột oán thù th́ trên sự cố chấp sân một bậc nghĩa là đă không giao tiếp với người mà họ đă sân hận mà c̣n cố làm hại cho ḱ được, bất ḱ trong trường hợp nào, nếu có dịp đưa đến.
Tai hại cửa sự cố chấp sân (giận) ấy là:
1.- Làm cho tâm không yên tịnh, làm nhân cho tâm vọng động, nhớ đến người làm cho nó sân, v́ vậy tâm mất b́nh tĩnh. Người để cho sự cố chấp trong tâm không khác nào người biết rằng ḿnh đang ở chung với thú dữ, biết nó sẽ ăn hại ta trong trường hợp nào thuận tiện cho nó, nên tâm hằng lo lắng luôn.
2.- Tâm bị tàn phá, như trường hợp người nào đă cố chấp giận người khác, khi gặp người ấy nơi vắng vẻ, hay nơi công cộng đều cảm thấy trong ḷng hồi hộp khó thở, muốn lánh mặt người ấy. Người c̣n cố chấp sân trong ḷng ví như người mang chứng bệnh ung thư, càng ngày càng ăn lớn ra, v́ tâm càng ngày càng bị sân ám ảnh, càng mất sáng suốt và khả năng làm việc.
3.- Hại cho đời sống. Người nào hay cố chấp sự giận hờn hay có nhiều người oán thù và gây nhiều nghiệp chướng. Ít nhất là ai cũng tránh xa, mặc dầu quyến thuộc họ hàng cũng không ưa mến người ấy. Người hay sân và cố chấp sân ví như quả bom nổ chậm, không biết nổ giờ phút nào, th́ hỏi có ai dám đến gần. V́ thế nên đời sống của người ấy bị lẻ loi cô đơn, không bạn bè, khi có chuyện cần không ai giúp đỡ.
4.- Hại cho việc làm. Việc làm của người sân và cố chấp sân ấy thường hay bị trở ngại, v́ không người giúp đỡ và cũng bởi tại sân nên làm việc không được khéo léo.
Sân và sự cố chấp sân là thường t́nh thiên hạ, ai ai cũng biết khỏi phải học. Nhưng phương pháp diệt trừ sân và sự cố chấp sân th́ phải học và càng phải cố công hành cho tinh tấn v́ đây là phương pháp giải thoát
Hỏi: Người muốn ngừa, dập tắt lửa sân th́ phải làm sao?
Đáp: Nơi đây tôi giải một phương pháp giản tiện và công hiệu nhất, nếu quí vị có thể hành được th́ kết quả sẽ quá sự mong muốn.
Phàm người chữa lửa th́ chữa ngay chỗ lửa đang cháy, cũng như người muốn trừ sân hay dập tắt sân th́ trước nhất phải dập tắt nơi phát sanh của nó. Vậy trước hết ta nên tự hỏi: Tại sao ta sân? th́ ta thấy rằng: V́ ta chấp đây là ta. Danh vọng ta. Ta là người có quyền chức, giàu sang, có tên tuổi trong xă hội v.v…V́ ta chấp ta như vậy nên ai động tới cái ta là ta giận và cố chấp sự giận hờn ấy.
Ta tự nghĩ rằng: Ta bị xúc phạm. Nếu ta không trả lại th́ người đời chê ta là nhát, nhu nhược, khiếp sợ.
V́ sợ mất thể diện. V́ ba luận điệu này mà người ta sân và cố chấp sân. Vậy người muốn đừng sân và không cố chấp sân th́ phải diệt trừ nguồn gốc của sân trong ḷng ta trước, nghĩa là phải diệt trừ cái ta.
Trước hết ta nên biết ta là ǵ?
Theo Phật dạy, ta là tứ đại hợp thành. Người v́ chấp cái ta ấy nên mới tạo ra nghiệp thiện hay ác và nghiệp ấy làm cho luân hồi. Chúng sanh v́ cái ta này nên phải khổ, không sao kể xiết. Cái làm ta chấp là ta ấy, vốn không phải ta, v́ nó thường thay đổi, đem lại khổ sở cho ta. Khi ta chết th́ ta không đem cái ta ấy theo được. Khi người nhận thấy rơ được như thế, th́ người không v́ cái ta mà làm điều tội lỗi và không v́ việc đời làm cho tâm sân tạo nên tội lỗi.
Nếu người muốn dứt sân và sự cố chấp sân th́ nên hành theo hai pháp:
1.- Dứt sân. Điều thứ nhất, muốn dứt sân nên diệt ngay tâm ta, v́ tâm ta sân như người chữa lửa chữa ngay chỗ gốc lửa cháy chớ không thể dập tắt nơi đầu ngọn lửa. V́ vậy ta nên tập cho nhẫn nại, từ bi trước và luôn luôn có tâm trong ta.
Người đời sống v́ đời nhiều hơn sống v́ bản thân ḿnh. Nên khi có nhân vật nào chạm vào ta, làm cho ta bất măn liền, lắm khi có người cũng muốn không giận, nhưng lại nghĩ rằng nếu ḿnh nhịn th́ người đời cho rằng ḿnh ngu, ḿnh sợ v.v…. V́ vậy nên người ấy lại chống lại rồi gây ra oan trái oán thù, chung qui cũng chỉ sống v́ thế gian thôi. Nếu người ta nhẫn nhịn th́ mọi việc đều yên. Nhưng người đời có biết đâu, khi ḿnh chống lại với hoàn cảnh bên ngoài để thắng nó th́ chính ta cũng phiền năo bên trong, là sân rồi. Chúng ta có thua hoàn cảnh bên ngoài th́ chỉ có khó chịu đôi chút thôi, nếu ta thua phiền năo bên trong là sân th́ ta khổ măi măi không biết đời nào mới hết, nghĩa là khi ta thắng nhân vật mà làm cho sân ấy, th́ chính ta cũng gây ra mối oán thù oan trái và tội lỗi về ngày vị lai vậy. Đức Phật có dạy rằng ATTÀNAM JITAM SEYYO: thắng được bản thân ḿnh mới cao thượng. Bản thân đây Đức Phật chỉ tâm.
Vậy ta là Phật tử nên cố gắng thắng tâm ta mới gọi là thắng tuyệt đối, v́ khi thắng tâm được rồi, không có oan trái oán thù, không lo sợ người trả thù, tâm được thơ thới, an tịnh và đến nơi giải thoát.
2.- Làm lành với nhân vật mà ḿnh đă sân (giận). Ư tôi muốn nói rằng khi mà ta không sân, hay là đă sân rồi, nhưng không chấp oán thù, trở lại làm lành và giúp đỡ nhân vật mà ta đă sân (giận). Nếu ta muốn đừng giận, có một phương pháp giản tiện nhất là mọi việc ǵ ta cũng chịu nhận rằng: phần lỗi ấy là do nơi ta, sở dĩ ta bất b́nh uất ức v́ ta c̣n phiền năo, nên mới c̣n luân hồi, nên mới có sự sân hận, buồn ghét v.v… Nếu ta không c̣n phiền năo th́ không c̣n sanh lẫn lộn trong thế gian nầy, th́ đâu có khổ v́ vậy ta nên cố tu hành để mau chạy khỏi bể luân hồi nầy.
Tiếp theo KODHA và UPANÀHA cố chấp sân (giận hờn) là DOSA: sân hận. DOSA theo tiếng Phạn có nghĩa là làm hại người. Ư tôi muốn nói là giết hại người hay làm cho người tiêu tan tài sản như đốt nhà, hay phao vu cho người bị tù tội v.v… tóm lại là làm cho người bị đau khổ, thất lợi, hổ thẹn.
Xin quí vị hiểu rằng: Không phải người sân hận làm hại kẻ khác thôi. Trái lại trước hết người ấy làm hại bản thân ḿnh mà người sân hận ấy không biết. Tại sao vậy? V́ người sân hận là người bị lửa phiền năo thiêu đốt nóng này trong Tâm, nên không thể nhịn chịu được mới dùng lời nói hay việc làm để giảm bớt sự bực bội trong tâm, như thế người sân là người bị khổ trước hơn người bị làm hại. Lại có lắm lúc làm hại người ta không được ḿnh càng thấy khổ và uất hận hơn. Người thường hay sân giận th́ mau già, như thế ta thấy người ấy bị giảm thọ rồi, và người ấy dầu đẹp đến đâu cũng trở nên xấu. V́ vậy ta nên thương hại người sân hận hơn là giận lại họ, và ta cũng nên cố tránh ḷng sân hận. Đă nói là độc th́ sân hận không bao giờ đem sự an vui hạnh phúc đến cho ḿnh.
Để dễ thấy và dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ, một chiếc ôtô có tốc độ 120 hoặc 200 cây số một giờ. Người tài xế tốt không bao giờ chạy hết tốc lực của nó, anh ta chỉ chạy 8 hay 9 chục cây số một giờ. Nếu chạy hết tốc độ của nó th́ chiếc xe ấy chắc chắn không thể chịu nổi đến một tháng, v́ xe không hư th́ chắc chắn người lái cũng không c̣n.
Xe ấy cũng ví như con người. V́ mỗi một người đều có một sức lực tiềm tàng đến một mức độ nào đó. Nếu ta xài hết mức độ của sức lực nhiều lần th́ thế nào cũng sanh bệnh. Đây tôi muốn nói rằng khi người chưa sân hận th́ các bộ phận trong cơ thể của người làm việc b́nh thường, nhưng khi sân lên, th́ các bộ phận trong các cơ thể làm việc tăng gia với một tốc độ nhanh hơn. V́ vậy nên người sân hận có thêm nhiều sức mạnh, có thể làm những việc nặng mà khi chưa sân không thể làm nổi. Nhưng sau khi ấy th́ cảm thấy mỏi mệt nhiều. V́ vậy nên sự sân hận làm hại sức khỏe của người ta rất nhiều.
Sân hận đă có khả năng gây tai hại cho sức khỏe thân xác như vậy, huống ǵ đức tánh hạnh kiểm của con người, như hiếu thảo, nhẫn nại, từ bi v.v…khi người sân hận th́ những đức tánh mà các bực tri thức thường ngợi khen cũng bị tiêu hoại mất.
Cái tai hại của ḷng tham lam ví như nước lụt. Nếu lụt xảy đến tất nhiên có gây hư hại, nhưng dù sao cũng c̣n sót ít đồ vật. C̣n cái hại của sân hận cũng như cháy nhà; khi nhà bị cháy th́ khó mà c̣n vật ǵ lại, có c̣n chăng là chỉ c̣n một đống than.
Sân hận ấy là một thứ lửa nóng hơn các thứ lửa, mặc dầu là chất nóng của nguyên tử ắt cũng không bằng. Lửa bên ngoài chỉ thiêu đốt thân ta nóng nảy thôi, chớ lửa phiền năo thiêu đốt ḷng ta và c̣n làm cho ta phải sanh vào 4 đường Ác đạo.
DẬP TẮT SÂN HẬN
Chư vị Phật tử chắc ai ai cũng nghe và học qua rằng bố thí trừ tham lam, tŕ giới diệt sân hận, trí tuệ diệt vô minh hay si mê.
Theo tôi nghiên cứu th́ tŕ giới chỉ là một bức tường chận đứng sân hận, cũng như sợ lửa cháy nhà xây tường bằng gạch để ngăn ngừa lửa bên ngoài, hay cũng như đóng một cái chuồng để tạm nhốt sư tử. Nhưng sự thật lửa cũng vẫn c̣n là lửa, mà sư tử cũng vẫn c̣n là sư tử bất di bất diệt; nhưng lửa ấy chưa cháy được nhà v́ nhờ bức tường và sư tử chưa ăn người v́ bị nhốt thôi: Khi tường bị hư ngă, chuồng bị phá vỡ, th́ lửa vẫn cháy nhà, sư tử vẫn ăn người. Như vậy sân hận chỉ bị ngăn ngừa hay bị kiềm chế thôi, chớ, chưa tắt hẳn và cũng chưa chết thật. Vậy th́ tŕ giới cũng chưa gọi là dập tắt sân hận hoàn toàn.
Chỉ có hai pháp: Từ và Bi, mới là phương pháp dập tắt lửa sân hận được. V́ Từ là muốn cho chúng sanh được an vui. Bi là thương hại chúng sanh và hằng nghĩ đến sự giúp đỡ chúng sanh khỏi khổ được vui.
Tâm từ có trạng thái là hành động hầu đem lại lợi ích cho chúng sanh; có phận sự là đem lợi ích lại cho chúng sanh; có quả cao quí nhất là diệt bỏ sự giận ghét oán thù chúng sanh; và có nơi sanh, là thấy rơ rằng chúng sanh ai ai cũng thương ḿnh như ḿnh thương ḿnh. V́ vậy người có tâm từ không bao giờ làm khổ kẻ khác.
Tâm bi có trạng thái là giúp người đang bị khổ, nghĩa là giúp tắt khổ cho người khác; có phận sự là không thể chịu nổi khi thấy người bị khổ mà không cứu; có quả là không khi nào làm khổ kẻ khác mặc dầu người ấy đă làm cho bản thân ḿnh bị khổ; và có nơi sanh là trông thấy chúng sanh bị khổ trong luân hồi như người đang bị lửa cháy quanh ḿnh không con đường nào thoát được, không có một ai thương hại để giải cứu. V́ vậy người có tâm bi hằng lo giúp đỡ kẻ bị tai nạn, khổ sở.
Từ và bi là phương pháp dạy tâm nóng nảy, sân hận trở nên mát mẻ. Ta có thể nói giới là chuồng nhốt sư tử, và từ bi là phương pháp dạy cho sư tử trở nên hiền lành.
Về phần thực hành, người không thể dùng ḷng từ bi dập tắt ngay tâm đang sân hận. Đừng nói là dùng ḷng từ bi trong lúc ấy, chính trong lúc người sân hận không hề nhớ đến tiếng từ bi, th́ làm sao dập tắt sân hận được. Khi sân hận lắng xuống th́ mới nhớ tới từ bi.
Nói đó, không phải tôi chỉ trích lời của phật dạy, v́ chính tôi đă thử áp dụng phương pháp nói trên là cố dùng từ bi trong khi sân, thật tôi không thể đè nén sân được dễ dàng, v́ tâm từ bi thường thường đến sau tâm sân hận, ví như xe chữa lửa bao giờ cũng đến sau lửa cháy, khi xe đến đàn áp được ngọn lửa, th́ thiệt hại cũng ít nhiều rồi.
Vậy trong kinh dạy từ bi là pháp trừ sân hận đă sai rồi chăng?
Đáp: Không! Nhưng tôi nói đây theo một phương diện khác. Tôi nói người muốn diệt trừ được ḷng sân hận th́ ít nhất phải tập cho tâm có sẵn ḷng từ bi trước. Như người ấy phải học tham thiền về đề mục từ bi cho được thuần thục, làm cho tâm mát mẻ đầy đủ khi gặp sân hận mà không sân hận, mới gọi là người có tâm từ bi và mới dập tắt ḷng sân hận được. Người có tâm từ bi như người sợ lửa cháy nhà nên họ xây tường cao, làm nhà bằng gạch lợp ngói; không cho có vật dẫn hỏa trong nhà, trái lại trong nhà c̣n có một b́nh cứu hỏa. Giới ví như tường rào. Trí nhớ ví như nhà, từ bi ví như b́nh cứu hỏa.
Người muốn ngăn sân hận th́ trước hết nên ngăn và dập tắt ARATI: bất b́nh. Diệt bất b́nh th́ không có ǵ khó. Khi người biết rằng ta đă bất b́nh, th́ liền bỏ đi nơi khác là êm chuyện. Nó tự động ngưng ngay lại.
Sự bất b́nh ví như lửa diêm quẹt, ta có thể thổi tắt được dễ dàng, nhưng rất tiếc là người ta không chịu dập tắt ngay từ khi ấy. Nếu ta để nó đi tới bực tức, th́ không khác nào ta để lửa diêm quẹt cháy mùng. Khi lửa ấy cháy tới vách là lửa sân, nếu ta không tắt kịp th́ tới nóc nhà ví như lửa sân hận thật khó mà cứu chữa.
V́ vậy ta nên cẩn thận mặc dầu lửa diêm quẹt cũng chẳng nên dễ duôi, phải dập tắt liền khi thấy có.
OÁN THÙ
Sau sân hận là oán thù. Phạn ngữ gọi là BYÀPÀDA có nghĩa là sân hận và làm hại người có ư nói cột sự sân hận để có dịp hại người.
Quả của sự cột oán thù
Có nhiều người cho rằng cột oán thù là một chuyện tốt. V́ người làm hại thân nhân ḿnh, th́ ḿnh phải trả thù là phận sự. V́ vậy người ấy cố t́m thế hại người thù cho đă giận.
Không nói ra nhưng ai ai cũng biết ư nghĩa của tiếng cột nên miễn giải. BYÀPÀDA có nghĩa là cột oán thù, ư nói cột dính người mà ḿnh đă sân hận vào tâm cố ư làm cho người ấy bị khổ bất kỳ một trường hợp nào, hoàn cảnh nào.
Khi người đă cột oán thù rồi th́ tâm luôn luôn phóng túng, và lo t́m cách để làm cho kẻ thù ấy bị khổ.
Theo Phạn ngữ chữ BYÀ có nghĩa là làm hại. PÀDA là sự hành động nghĩa là sự hành động làm cho người bị tai hại.
Người đời v́ sự si mê che án nên hằng nghĩ rằng ta làm hại người, người ấy sẽ bị đau đớn khổ sở, thật là đáng. Người ấy thỏa thích với sự hành động của ḿnh. Nhưng trái lại đó là một sự hiểu rất sai lầm. V́ người mà khổ sở đau đớn trước nhất, chính là người làm khổ cho người khác, chớ không phải người bị ḿnh làm khổ. Khi mà người nào cột oán thù với người khác chính là người ấy đă đem tai hại vào ḷng ḿnh trước rồi. Vậy người cột oán thù ấy có những điều ǵ hại?
Đáp: Người cột oán thù thường hay mất b́nh tĩnh, tâm trạng thay đổi không ngừng, khi niệm Phật cũng không thể làm cho tâm an tịnh được, tâm hằng nhơ đục. Nếu người có trí tuệ khi thấy tâm ḿnh nhơ đục, sự an vui bị giảm nhiều, nhất là những thiện pháp trong tâm ḿnh cũng từ từ tiêu diệt, nhất giới đức và thiền định càng lúc càng suy giảm, khi các pháp như nhẫn nại, từ bi, trí nhớ, biết ḿnh và giới hạnh tiêu mất hết, th́ chừng đó người ấy mới có thể làm hại người khác được, v́ trong tâm không c̣n có chút thiện pháp nào cả. Như đă giải ở trên, th́ chúng ta chắc hẳn nhận thấy cái hại ở trong tâm ḿnh trước, v́ tất cả những điều tốt đẹp của ḿnh bị tiêu tan hết, ví như một quả bom. Khi quả bom nổ, đành rằng người khác có hại hay không chưa biết trước được, hay cái hại ấy tới một mức độ nào cũng chưa lường được, mà cái tai hại ghê nhất là chính trái bom ấy không c̣n h́nh dạng nữa. Người cột oán thù và làm hại người không biết hại người được tới đâu nhưng chính ḿnh bị thiệt tḥi nhiều hơn hết, y như trái bom ấy vậy.
Người mà cột oán thù với ai rồi, th́ chính người ấy đóng cửa nhà ḿnh lại không cho lợi ích an vui vào nhà ḿnh. Ư tôi muốn nói rằng khi người cột oán thù với ai rồi, th́ không khi nào muốn gặp người ấy và ḷng ḿnh bực tức thấy rơ là lợi ích của ḿnh bị ngăn đứng lại. V́ vậy nên đức Phật dạy trong năm pháp gọi là chướng ngại có một pháp là cột oán thù.
Người mà đă cột oán thù rồi th́ càng ngày càng ít có bạn lành và các bạn trước kia cũng lánh xa.
Người càng làm lớn nên xét và nhận thấy cái hại của sự sân hận và cố chấp oán thù; v́ đó là một tai hại lớn nhất do phiền năo sanh ra. Khi đă làm lớn mà có tánh này th́ các bực trí thức đều xa lánh, tất nhiên sẽ không làm nên việc ǵ khác hơn là thất bại. Người nhiều sân hận oán thù không khác nào con tằm nhả tơ rồi quấn ḿnh lại, kết cuộc chết v́ tơ của ḿnh. Người nhiều sân hận oán thù bị thất bại trong mọi hoàn cảnh cũng chỉ v́ tính ấy thôi.
Nếu trên thế gian này không oán thù nhau, th́ thật là một thế giới có nhiều an vui. Đức Thế Tôn có dạy: Là ABHÀPA JJHAM SAKKAM LOKE. Có nghĩa là: Sự không làm hại nhau, không oán thù, là sự an vui trong thế gian này.
Sự cột oán thù ấy có thể chia ra làm ba hạng là:
1.- Cột oán thù cố làm hại người, v́ người ấy đă làm hại ta.
2.- Cột oán thù cố làm hại người, v́ người ấy đă làm hại quyến thuộc ta.
3.- Cột oán thù cố làm hại người, v́ người ấy giúp đỡ người mà ta thù ghét.
Sự phát sánh lên oán thù do nơi ba điều khác nữa là:
1.- Hạng nặng: Làm hại người v́ người xúc phạm đến ta.
2.- Hạng trung: Làm hại người v́ người làm cho người ta thân yêu bị rắc rối.
3.- Hạng nhẹ: Làm hại người v́ người ấy theo phe với người ta ghét.
Người có trí tuệ khi nhận thấy cái tai hại của ḷng sân hận oán thù như đă giải trên, xin hăy cố gắng tu những pháp:
1.- Trí nhớ.
2.- Biết ḿnh.
3.- Nhẫn nại.
4.- Từ bi.
5.- Tŕ giới.
6.- Tham thiền.
Đây là những pháp đối trị SÂN HẬN.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 9:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
GIẢI VỀ SI MÊ
MOHA nghĩa vắn tắt là Si mê. Si mê là tiếng thông dụng nhất trong Phật giáo, v́ vậy nên tiếng này có nhiều ư nghĩa, không như những tiếng thông thường. Si mê có nghĩa là ngu dại, tối tăm, không hiểu và không phân biệt phải quấy, không nhận thức được sự thật (là Vô thường, Khổ năo và Vô ngă), không có trí tuệ, mờ tối, không sáng suốt, hiểu lầm.
TRẠNG THÁI CỦA SI MÊ
Si mê thật là khó giải hơn tham lam và sân hận. V́ si mê thuộc về sự không thông hiểu. Ta có thể phân biệt được sự thông minh hơn là si mê dốt nát. V́ ta có thể chia sự thông hiểu ra từng ngành chuyên môn, từng hạng, như hiện giờ có hạng tú tài, cử nhân v.v… Nhưng về sự dốt nát ta không thấy có hạng dốt thứ nầy, hạng nọ, mà cũng không thấy có ai đứng ra cấp bằng, hay chứng nhận rằng người nầy ngu dại dốt nát hơn người kia.
Sự thể ấy ví cũng như ánh sáng có thể chia ra từng hạng, như hạng 10 ánh nến, hạng 20 ánh nến v.v… nhưng không thấy có chia ra ngu dốt hạng A, hạng B v.v… Ta có thể dùng tiếng tối đen, tốt mịt v.v… nhưng không chia hạng tối ấy ra sao.
MOHA: SI MÊ, LÀ G̀?
Có người hiểu rằng: Si mê là không thông hiểu. Hiểu như thế là sai lầm. Nếu nói si mê là không thông hiểu th́ trên vũ trụ này không có một người nào thông hiểu, v́ không có vị trí thức nào thông hiểu tất cả các ngành, các nghề được. Vị nào thật thông minh, th́ cũng chỉ chuyên môn về năm ba ngành là cùng.
Nếu muốn biết người si mê hay không, ta nên xem ở nơi hành động của người ấy, chớ không thể dựa vào cấp bằng chuyên môn mà cho rằng người này thông minh, người kia ngu dốt.
Si mê đây không phải là sự không thông hiểu, mà cũng không phải là sự thông hiểu. Người có cấp bằng cao thông thái hay là người ngu dốt nát cũng không gọi là si mê được. Si mê hay không, là do nơi người biết áp dụng sự hiểu biết của ḿnh đúng chỗ đúng lúc. Sự thật người có học thông Tam tạng chăng nữa mà làm tội lỗi cũng gọi là si mê.
Ta hăy xem lại thân thể ta có tay để làm việc, chân để đi, tai để nghe, mắt để xem, miệng để nói v.v… Mỗi cơ thể có khả năng riêng của nó, ít hay nhiều. Tâm ta có khả năng là biết điều khiển cơ thể bên ngoài, làm việc đúng theo khả năng của nó. Ví như khi lái xe, tay ôm lái xe, hai chân giữ lấy thắng và săng v.v… Ta không thể đang lái xe mà đánh đàn được, hay nghĩ xao lăng chuyện ǵ khác được. Tâm phải dùng cơ thể nầy đúng chỗ mới đem lợi ích cho ta. Nếu tâm điều khiển thân này sai lạc, th́ tức nhiên sẽ bị tai hại. Khi làm sai phận sự như vậy gọi là si mê.
Theo Phật giáo, th́ tâm là vật biết thiện, ác, tội phước. Khi tâm bỏ thiện làm ác, hay là làm tội lỗi, là v́ trong khi ấy tâm bị si mê che án làm cho tâm tối tăm, không phân biệt được thiện ác. Khi tâm đă làm điều ác, mặc dầu người ấy là bực có tiếng gọi là thông thái, người có tâm ấy gọi là người si mê.
Hỏi: Tại sao Phật giáo phê phán gắt gao sự thông hiểu và không thông hiểu là si mê, là một phiền năo rất vĩ đại, là cội căn của các phiền năo khác?
Đáp: V́ nguyên nhân làm cho người thiện trở nên ác do nơi sự hành động không hợp pháp, không đúng theo lẽ phải. Người không thông về các ngành chuyên môn khác hơn sở năng của ḿnh, không gọi là si mê, v́ người ấy không làm chuyện sái với phận sự ḿnh, ư tôi muốn nói làm ác. Ví dụ, trong thế gian này biết bao nhiêu người không thông hiểu luật, mà đâu có phạm lỗi hết, v́ mặc dầu không hiểu luật mà không làm sai luật, nên không gọi người thế ấy là người si mê. Nếu một ông trạng sư mà làm sai luật mới gọi là si mê.
Ba pháp mới xem qua th́ gần giống nhau là:
1.- AVIIJJÀ: Vô minh.
2.- MOSA: Si mê.
3.- MICCHÀDITITHI: Tà kiến.
Nhưng xét kỹ th́ ba pháp ấy vẫn khác rất xa.
1.- AVIIJJÀ: Vô minh, nghĩa là sự không hiểu biết, ư nói không hiểu biết pháp Tứ Đế, là nguyên nhân làm cho chúng sanh luân hồi. Người vô minh ví như người ở trong rừng, không biết và không t́m được con đường đi khỏi ra rừng, cuối cùng chịu chết trong rừng. Sự không hiểu rơ đây là nền tảng của tâm. Tất cả chúng sanh đều có Vô minh. Khi đắc quả A-la-hán, hay Độc giác Phật hoặc Chánh đẳng Chánh giác th́ vô minh mới tận diệt.
2.- MOHA: Si mê, ư nói đến sự phân biệt được tội và phước, thiện và ác. Si mê nầy không phải là nền tảng của tâm mà chỉ là sự lầm lạc của tâm, bởi không dùng trí tuệ làm nền tảng để quán xét cho chu đáo rồi mới thực hành.
3.- MICCHÀDITTHI: Tà kiến. Sự hiểu biết sai lầm, như nghĩ làm tội phước, không có quả, chế`tội lỗi rồi mất không sanh, rồi thật hành theo ư niệm của ḿnh.
Người gọi là vô minh hay si mê, có thể ngồi nghe những lời giảng dạy của các bực tri thức để vâng giữ hành theo, hay ít nữa cũng có thể phục thiện được. C̣n người tà kiến đă không nghe, mà c̣n tự phụ là ḿnh nghĩ đúng và hành đúng, chấp chắc vào một chuyện mà ḿnh đă nghĩ trước.
Người không hiểu và người hiểu sai lầm vốn khác nhau. V́ người không hiểu có lúc sẽ hiểu, c̣n người hiểu sai lầm th́ khó mà sửa sai được.
Vô minh và si mê là phiền năo thật sự, v́ đó mà tâm ta nhơ đục, nhưng chưa có hành động, nên chưa gọi là nghiệp. Tà kiến mới thật là tâm nghiệp.
Tóm lại, th́ Vô minh là nền tảng của tâm; v́ tâm bị vô minh làm nền tảng, nên si mê; v́ tâm si mê, nên có tà kiến. Khi tâm tà kiến mới hành động theo sự hiểu biết của nó, đó là tạo nghiệp.
Ba trạng thái ấy liên quan với nhau, có thể ví dụ như người kia mắt làng, nhằm đêm ba mươi trời rất tối, mà họ vẫn không chịu ở yên một chỗ, cứ đi nơi nầy nơi nọ bị cây đụng vào mắt, càng làm cho mắt đau nhức. Người làng mắt đó ví như tâm có vô minh làm nền tảng. Si mê ví như đêm ba mươi, càng làm cho người ấy mờ thêm , nhưng đây chỉ mờ thêm theo trường hợp, nếu ban ngày th́ c̣n thấy mờ mờ. C̣n tà kiến ví như sự di chuyển của người mờ trong đêm 30 vậy, tà kiến là nghiệp, tức là sự hành động.
TAI HẠI CỦA SI MÊ
Trong tam độc, si mê là phiền năo quan trọng hơn hết, v́ tham lam và sân hận sanh lên đều do nơi si mê làm chủ, khiến tham lam hay sân hận hành động mănh liệt. Khi không có si mê phụ vào, th́ không đến đỗi đi tới chỗ cực kỳ hung ác. C̣n riêng về si mê, nó tự phát sanh lên một ḿnh, không cần có tham lam, hay sân hận phụ vào. Như khi đang ngồi lễ Phật, tâm ta phóng túng hoặc trong khi tham thiền tâm ta xao lăng hay hôn trầm đều do nơi si mê mà ra cả. V́ vậy nên chỉ có A LA HÁN quả mới hoàn toàn diệt tận được phiền năo này.
Si mê có nhiều năng lực tác hại:
1.- Khi ta thương, si mê nhập vào làm cho ta mù quáng, quên ḿnh có thể làm tội lỗi được.
2.- Khi giàu có, si mê xâm nhập vào, làm cho ta mê mệt cố chấp lấy của, quên già đau chết, có nhiều càng tạo cho nhiều thêm lên, không hề biết đủ.
3.- Khi ta có quyền chức lớn, si mê xâm nhập vào làm cho càng mê theo quyền chức ấy khiến làm những việc không cao đẹp.
4.- Khi ta giận si mê nhập vào làm cho ta mù quáng có thể giết hại người.
Nếu ta đă chán mùi thế tục, muốn an tịnh t́m vào nơi tĩnh mịch để tham thiền niệm Phật, th́ ta sẽ thấy tâm si mê phát sanh như: Phóng tâm, buồn ngủ, bần thần, lười biếng, giải đăi, lần lựa hẹn giờ này giờ kia v.v…
Trong 16 điều phiền năo, ḷng si mê chiếm hết 12 điều.
Dưới đây tôi xin giảng sơ lược những phiền năo thuộc về si mê và các pháp đối trị.
MAKKHA: BỘI ƠN
MAKKHA có nghĩa là bội ơn. Ơn đây chỉ việc làm của người đă giúp đỡ ta trong trường hợp nào chẳng hạn, mặc dầu bằng một bát cơm, một chén nước. Người biết ơn không bao giờ dám nghĩ tới sự quên ơn và hằng t́m phương thế đền đáp, cho xứng đáng, mặc dầu ơn đức ấy có ít mà ta đă trả rồi cũng vẫn thấy rằng chưa đủ.
Đức Phật dạy, người khó kiếm được nhất trong tam giới này là người biết ơn. Người dễ kiếm nhất là người bội ơn. Trong đời này, người bội ơn quả thật nhiều, không sao kể xiết. Hơn nữa Phật c̣n dạy cho ta thấy con người vốn có rất nhiều si mê hơn các pháp ác khác.
Người biết ơn có thể chia ra làm ba hạng.
1.- Hạng cao thượng, biết cúng dường người có công ơn như cha, mẹ, thầy, các bậc cao quí như chư Phật và chư Thánh nhơn.
2.- Hạng trung, là đền đáp công ơn người đă giúp ḿnh.
3.- Hạng thấp là nhớ công ơn người đă giúp ḿnh, nhưng không nghĩ tới chỗ đền đáp.
Người bội ơn chia ra làm ba hạng:
1.- Hạng đê hèn nhất, không nghĩ đến cúng dường công ơn như cha mẹ, thầy tổ, Phật, chư Thánh nhơn, mà c̣n khinh khi hay làm hại, Phạn ngữ gọi là MAKKHA: bội ơn.
2.- Bực trung, không biết ơn, mặc dầu có cho hay giúp đến mực độ nào người ấy cũng không cần biết, Phạn ngữ gọi là AKATTANNU: không biết ơn.
3.- Hạng đê tiện, không trả ơn, không bao giờ nghĩ đến sự trả ơn ai hết, Phạn ngữ gọi là AKATAVED̀: không đáp ơn.
Người thuộc về hạng bội ơn này ví như là một tảng đá, ta không thể nào trồng một thứ giống ngũ cốc nào lên đó được. Tâm người ấy xấu không sao nói cho hết được.
Phương pháp diệt Bội ơn
Nếu ta muốn diệt phiền năo, th́ ta nên t́m tận nguồn gốc của nó. Nguồn gốc của bội ơn là si mê th́ ta nên dùng trí tuệ để diệt si mê. V́ người có trí tuệ không bao giờ quên ơn người, hằng suy nghĩ thấy cái hại của sự bội ơn, là đi vào bốn đường ác đạo. Theo sau trí tuệ là hằng biết ơn và cố trả ơn KATTANNÙ KATAVED̀.
PALÀSA: ĐEM M̀NH SÁNH VỚI BỰC CAO NHƠN
Đây cũng là một phiền năo tai hại, hôi hám, ai ai cũng chán ghét, nhưng trong thâm tâm của chúng sanh, ai cũng có dầu ít hay nhiều. Tại sao? V́ nó thuộc vào tâm si mê mà tâm si mê là chúa tể của các tâm khác.
Sở dĩ người ta đem ḿnh sánh với các bực cao nhơn là v́ tưởng rằng ḿnh cũng như người cao nhơn, giá trị của ḿnh cao bằng người cao nhơn, nguyên nhân của tâm trạng ấy là: Biết rằng ta không bằng người ấy.
Nhưng cố khoe khoang hay làm ra người có tài bằng người ḿnh muốn sánh, hoặc nói bằng lời.
Tai hại của sự "Đem ḿnh sánh với các bực cao nhơn"
Là các bực trí thức không gần, bạn lành cũng xa lánh, không học thêm được những ǵ hết nhứt là phương pháp diệt phiền năo. V́ người nầy nặng si mê, khó giác ngộ được pháp giải thoát. Nói tóm lại là người thường đem ḿnh sánh với các bực cao nhơn th́ thường hay bị MẤT:
- Mất những pháp lành.
- Mất bạn lành.
Phương pháp diệt "Đem ḿnh sánh với các bực cao nhơn"
Đem ḿnh sánh với bực cao nhơn là một phiền năo làm cho tâm người mờ tối, không nh́n thấy trời cao đất rộng, cũng ví như chó chưa hề thấy cọp, tưởng cọp là thú bốn chơn không có ǵ đáng sợ.
Người bị phiền năo nầy che ám làm cho tâm mờ tối, th́ nên dùng trí tuệ mới có thể đối trị được. Sau trí tuệ nên có pháp là ATTANNŨTĂ, nghĩa là biết ḿnh, ư nói người luôn luôn biết rơ bản thân ḿnh, đừng nghĩ ai cũng bằng ḿnh. Khi ta không biết chính bản thân của ta ra thế nào, thuộc hạng nào, nên mới đem ḿnh sánh với bực cao nhơn.
ISSÀ: GANH TỴ
Ganh tỵ là một phiền năo, khi thấy người ta được lợi hay được cấp trên khen ngợi, hoặc được thăng chức rồi tỏ ra ganh ghét. Đây là phiền năo thuộc về hạng si mê, nó hằng làm cho tâm bực bội khó chịu.
Muốn hiểu rơ ḷng ganh tỵ, tôi xin chia ra làm ba phần là: Trạng thái của ganh tỵ, tai hại của sự ganh tỵ và phương pháp diệt trừ ganh tỵ.
Trạng thái của Ganh tỵ
Người muốn xem cho rơ ganh tỵ hăy xem xét hai thành phần là người ganh tỵ và sự ganh tỵ. Như đă giải ở trên người thấy kẻ khác được việc tốt lành mà tỏ ra khó chịu, đó là người ganh tỵ. C̣n sự ganh tỵ là sự hành động của người ấy, là khi thấy người được việc tốt lành, không thể nhịn chịu được sự bực tức nên nói ra miệng, như chỉ trích hay phê b́nh hoặc đem dĩ văng của người ta nói xấu.
Người ganh tỵ ít th́ thấy ḷng ḿnh khó chịu khi nghe thấy biết người khác được lợi lộc quyền chức. Người ganh tỵ hạng trung b́nh th́ khi nghe thấy người lợi lộc quyền chức, không tỏ vẻ hoan nghinh mà tỏ vẻ khinh khi nhưng không nói ra. Người ganh tỵ tuyệt đối là người, khi nghe hoặc thấy người khác được lợi ích v.v…tỏ ra thái độ khinh thị mà c̣n chỉ trích đủ phương diện.
Tai hại của sự Ganh tỵ
a.- Ganh tỵ làm hại sự an vui. Phàm người có tánh ganh tỵ ít được an vui v́ luôn luôn thấy hay nghe thấy người được lợi lộc quyền chức v.v… th́ thấy ḷng khó chịu, hay khổ ḷng.
b.- Ganh tỵ làm mất quyền chức và thanh danh. Phàm người ganh tỵ ít có bạn lành hay người dưới quyền ḿnh ca tụng khen ngợi, trái lại c̣n chỉ trích. Như thế thanh danh và quyền chức ngày càng tiêu tan hết. Nếu người ấy là người ở cùng một xóm chắc chắn ít ai dám gần và làm bạn.
Phương pháp diệt trừ Ganh tỵ
Muốn diệt trừ ganh tỵ chỉ có pháp HỈ. V́ thiện pháp hằng vui vẻ và hoan hỉ đến mọi người được an vui và hằng cầu xin cho người được an vui, hỉ là pháp đối trị rất có hiệu lực để trừ ḷng ganh tỵ.
Hỉ có nhiều trạng thái sau đây:
1.- Hỉ có sự vui vẻ hay hoan hỉ với mọi người, ư nói hỉ thường hoan hỉ với người được an vui hạnh phúc và hằng cầu xin cho chúng sanh được may mắn.
2.- Hỉ có sự không ganh tỵ là phận sự, nghĩa là không bao giờ ganh tỵ khi thấy người được hạnh phúc.
3.- Hỉ có sự diệt trừ buồn bực trong ḷng ḿnh và cho kẻ khác, đó là quả.
4.- Hỉ có sự thấy của người khác như của ḿnh là nhân sanh. Ư nói rằng người có tâm hỉ thấy của cải của người khác cũng như của cải của ḿnh, nghĩa là, có tâm hỉ hằng trông nom săn sóc của cải của người khác như của cải của ḿnh, không hề muốn làm hại của cải ai cả.
Người có tâm hỉ là người không bao giờ nghĩ tới ganh tỵ, tâm hỉ là tâm làm cho người an vui, không có oán thù, oan trái và có nhiều bạn lành, bực trí thức hằng ngợi khen. Khi người có pháp này trong tâm th́ chư Thiên và nhân loại hằng kính nể. Đây là một trong Tứ Vô lượng tâm, hằng có trong tâm của chư Phật, chư Thánh nhơn và các đức Bồ tát.
MACCHÀRIYA: BỎN SẺN
Bỏn sẻn là một phiền năo, Đức Thế Tôn thường nhắc nhở chúng sanh nên diệt trừ, tuy là một chi phụ thuộc của si mê nhưng cũng đem lại hậu quả không nhỏ. Trạng thái của bỏn sẻn là không bao giờ hi sinh vật ǵ của ḿnh cho kẻ khác hoặc cho quần chúng, chẳng hạn như giúp cho đồng bào lúc bị tai nạn.
Xin quí vị nhận xét cho kỷ thế nào là bỏn sẻn theo hai điều dưới đây.
1.- Tiết kiệm. Người biết cách tiêu sài tiền của, chẳng hạn khi nhận thấy không nên bỏ vật này v́ nó c̣n dùng được hay không nên sắm vật kia, v́ chưa cần dùng đến. Người tiết kiệm khi cần giúp đỡ quyến thuộc hay quần chúng th́ không hề tiếc tiền của. Như thế không phải là bỏn sẻn mà là tiết kiệm.
2.- Phung phí. Người xài tiền một cách vô ích, xài v́ cho bản thân ḿnh, dầu tốn kém nhiều cũng chẳng sao, nhưng không khi nào hy sinh đồng trinh cắc bạc cho người nào ngoài ḿnh ra, có khi chính quyến thuộc ḿnh cũng chẳng cho. Cũng có hạng người cho chính ḿnh cũng không dám xài, mặc dầu có thèm món nào cũng vẫn nhịn, để tiền coi thôi. Hai hạng người này thuộc về hạng bỏn sẻn, keo kiệt.
Tai hại của Bỏn sẻn
Bỏn sẻn hằng làm cho người lạnh lạt đối với đời. V́ người bỏn sẻn không bao giờ biết thương tiếc ai cả, mặc dầu là quyến thuộc. Tâm bỏn sẻn khiến cho trong kiếp này con người phải cô độc, không thân thích họ hàng, v́ không ai ưa mến, thậm chí khi có tai nạn cũng không ai giúp đỡ cho. Nếu nói về kiếp vị lai th́ tội ít nhất là sanh làm ngạ quỉ (quỉ đói), nếu sanh làm người th́ là người nghèo khó ăn xin, không họ hàng thân thuộc.
Pháp trừ Bỏn sẻn
Như đă biết bỏn sẻn là một nhánh của si mê, th́ phương pháp để diệt trừ nó là trí tuệ. Người dùng trí tuệ quan sát thấy tai hại của bỏn sẻn, và nghĩ thấy thương hại người bị tai nạn hay nghèo khó mà giúp đỡ ít nhiều tùy theo của ḿnh đă có; lại cũng nên suy nghĩ cho thấy rơ là khi ta chết, ta không thể đem ǵ theo ta được mặc dầu là thân ḿnh, th́ của cải tài sản đối với ta có ích ǵ, có đem theo được chăng là tội và phước. V́ vậy nên người trí tuệ mới có thể dùng pháp CÀGA: Dứt bỏ, ư nói dứt bỏ bỏn sẻn, đem của ra bố thí cho chúng sanh. Sự bố thí là một nết hạnh đáng khen, v́ đó là con đường đi của các bực thánh nhơn, nhất là Phật.
MÀYÀ: XẢO TRÁ
Phạn ngữ Màyà có nhiều nghĩa khác nhau:
1.- Màyà có nghĩa là duyên
2.- Màyà có nghĩa là ra dấu làm cho người biết điều mà ḿnh muốn nói ra.
3.- Màyà có nghĩa xảo trá hay thủ đoạn bất chánh.
Nghĩa thứ nhất ngụ ư chỉ người có duyên, như nói có duyên, cười có duyên v.v…
Nghĩa thứ nh́ tỏ ra bằng cử chỉ, để người khác biết ư của ḿnh muốn nói ǵ, như liếc mắt, bậm môi, v.v…
Nghĩa thứ ba ngụ ư nói về thủ đoạn xảo trá của con người, đây mới thật là phiền năo. Xảo trá hay thủ đoạn này thường phô bày, làm cho người khác quên ḿnh, tin theo và bị lường gạt, của cải hoặc những ǵ khác nữa, lắm khi phải mất mạng v́ thủ đoạn của người xảo trá ấy.
Nói cho rơ, th́ xảo trá là một thủ đoạn của người muốn lường gạt, bày làm cho người kia tin chắc vào, rồi giao cho những ǵ mà người xảo trá đ̣i hỏi.
Vậy chúng ta nên thận trọng. Nhiều khi thấy người ta đối với ḿnh thành thật, nhưng bên trong thật là sân độc, như sự tích c̣ và cá sau đây:
Ở nơi bưng nọ có nhiều cá tôm cua c̣ng. Có một con c̣ thường đến để bắt cá ăn, nhưng không được như ư, v́ cá tôm nơi ấy đều biết c̣ là một sát tinh của chúng. Nhân dịp lâu ngày không mưa c̣ mới đứng cú rũ bên bưng tỏ vẻ buồn, cá đến gần cũng không cần bắt ăn, cá thấy thế mới làm lạ hỏi rằng: "Tại sao hôm nay ngươi không ăn cá? ."
C̣ đáp: "Ta lấy làm buồn và thương hại chúng bây, cho chúng bây biết rằng, trời sắp hạn, nước trong bưng sẽ khô, chúng bây sẽ chết hết, ta không biết phương thế nào cứu văn t́nh h́nh này."
Bầy cá tôm nghe vậy lấy làm kinh khủng bu lại hỏi rằng: "Vậy chúng tôi phải làm sao? Đi ở đâu bây giờ?"
C̣ làm bộ suy nghĩ hồi lâu nói rằng: "Ta đi kiếm ăn có gặp một cái hồ trên núi Hi Mă Lạp Sơn, nơi ấy có nước trong quanh năm, không bao giờ sợ khô cạn, chúng bây có thể đến ở yên không tai hại ǵ hết".
Bọn cá hỏi: "Vậy làm sao chúng tôi đến nơi ấy được?"
C̣ đáp: "Đây mới là một vấn đề nan giải, nhưng ta có thể lần lượt tha chúng bây đến đó."
Khi ấy có một con cá nói: "Chúng tôi làm sao tin c̣ được?"
C̣ nói: "Có ǵ khó, ta đem một con đi đến nơi đó, để coi cái hồ ấy, rồi đem con ấy về thông tin lại cho chúng bây biết."
Trong khi ấy có một con cá hy sinh đi. C̣ cũng đem con cá ấy đi tới một cái hồ to lớn mát mẻ, rồi lại đem cá ấy trở về. Cá ấy mới thuật chuyện lại cho đàn cá nghe, tất cả cá đều tin như lời, nên tranh nhau xin c̣ đưa đi. Như vậy lần hồi bao nhiêu cá trong bưng ấy đều vào bụng c̣.
Ngày chót chỉ c̣n một con cua. C̣ ta cũng muốn ăn luôn, nên hỏi cua bằng ḷng đi không? Cua bằng ḷng đi với điều kiện là một càng kẹp cổ c̣ c̣n một càng kẹp mỏ c̣. C̣ bằng ḷng v́ nó tính rằng khi để cua xuống nó lại mổ ăn liền.
Khi c̣ ta bay tới một tảng đá, nó bèn để cua xuống, cua không bằng ḷng xuống mà càng kẹp chặt vào cổ và mỏ c̣. C̣ không biết phải làm sao nên đành đưa cua về chỗ cũ. Cua không tha chết cho c̣, mà kẹp cổ c̣ chết luôn.
Túc sanh truyện này có luận rằng đây là một ngón xảo trá mà người đời hằng lầm tin theo, nên mắc phải.
Tích nầy cho ta thấy rơ rằng người xảo trá, dầu khôn ngoan đến đâu, cũng có ngày thất bại như c̣ vậy.
Tai hại của sự Xảo trá
Như ta đă thấy trong tích con c̣, người xảo trá không sao tránh khỏi tai hại như c̣. Người xảo trá hằng hay mất lợi, là v́ ai ai cũng biết người ấy xảo trá th́ không khi nào tin cậy và được giao phó công chuyện cho.
Phương phá trừ Xảo trá
Đức Phật dạy muốn trừ xảo trá th́ cần phải tu pháp Chân-Thật, bắt đầu nên cố thọ tŕ giới nói dối cho trong sạch, rồi lần lần phát nguyện giữ lấy sự chân thật trong ḷng ḿnh nguyện là không bao giờ lừa dối ai. Khi đă hứa với ḷng ḿnh th́ thực hành không màng trở ngại. Người cố hành pháp nầy th́ sự lừa dối xảo trá từ từ mất dần và chừng ấy ta mới thắng nổi xảo trá trong thâm tâm ta.
SÀTHEYYA: KHOE KHOANG
SÀTHEYYA có nghĩa là khoe những ǵ mà ḿnh không có, mà nói thành có, hay có ít mà muốn khoe cho có nhiều, với tác ư là muốn cho người đời kính nể ḿnh. Ít nhất là làm cho người khác không dám coi thường ḿnh.
Tai hại của Khoe khoang
Người đời thường hay khoe, nhưng họ không nhận thấy cái hại của sự khoe khoang ấy. Chúng ta hăy để ư coi, người khoe khoang chỉ ḷe được người thường thôi, chớ không khi nào lừa được bực trí thức v́ các bực trí thức nhận thức thấy rơ rằng người khoe khoang không khác nào cái thùng rỗng lăn đi tiếng kêu to, nhưng kỳ thật là không có ǵ bên trong hết.
Người khoe khoang là người hay nói nhiều, nhưng những lời nói ấy không có bổ ích vào đâu hết, dầu là cho bản thân họ, ví như bọt sà pḥng, nghĩa là khi ta càng nhồi quần áo nhiều chừng nào th́ bọt nhiều chừng ấy, những bọt ấy không có nước bên trong chỉ có không khí thôi, cũng như lời nói của người khoe khoang không có giá trị, chỉ làm tốn hơi mà thôi.
Tóm lại là người hay khoe khoang ở những nơi nào cũng thường đem tai hại đến nơi đó.
Phương pháp trừ Khoe khoang
Người khoe khoang là người không biết rơ bản thân ḿnh là người thuộc hạng nào; khoe khoang như vậy hằng có tai hại. Cần phải có pháp ATTANNÙTÀ nghĩa là biết ḿnh, ư nói biết hạng người của ḿnh, giai cấp của ḿnh, học lực của ḿnh v.v… khi biết như thế th́ không hề dám khoe khoang.
THAMBLA: CỨNG ĐẦU
Phạn ngữ THAMBHA (cứng đầu) có nhiều nghĩa khác nhau. Nếu là danh từ th́ Thambha nghĩa là cột nhà, nếu là động từ th́ nghĩa là giúp đỡ, chống đỡ, xét về từ ngữ th́ tiếng Thambha không thấy có ǵ quan trọng hay hư hại ǵ. Nhưng khi làm h́nh dung từ của tâm, th́ Thambha có ư là cứng đầu, hay có nghĩa là làm cho tâm cứng, không chịu khép vào khuôn khổ của lời chỉ giáo của thầy tổ, cha mẹ. V́ vậy nơi đây tôi xin dịch Thambha là cứng đầu.
Tâm chúng ta có thể trở nên thiện ác tùy theo hoàn cảnh bên ngoài đưa đến. Hoàn cảnh bên ngoài cũng như phân bón cây cho tốt, hay chất độc làm hại cây. Phàm người cứng đầu hay chán với lời giảng dạy của các bực trí thức, cha mẹ. Ta có thể dạy tâm ta trở thành lương thiện, do nhờ siêng năng và dễ dạy, cho các bực trí thức thương mến dạy dỗ mau trở nên lương thiện nhơn.
Tai hại của Cứng đầu
1.- Đưa sự tai hại đến cho bản thân ḿnh. Người mà được tiến hóa về phần tinh thần là nhờ có các bực trí thức chỉ giáo. Khi tâm chán nản và không ham học lời giảng dạy của các bực trí thức, th́ tâm không được tiến hóa trong sự học vấn về đời cũng như phương diện tinh thần, đạo đức. Người cứng đầu thường lầm tưởng rằng chính ḿnh họ là người thông hiểu hơn ai hết. Trái lại các bực trí thức thấy rằng người tỏ ra cứng đầu chính là người biểu lộ sự ngu dốt của ḿnh ra. V́ vậy nên các bực trí thức thường khiêm nhượng và chịu khó nghe lời người khác nhắc nhở.
2.- Cái tai hại của cứng đầu là nếu người cứng đầu không chịu nghe lời chỉ dạy của các bực trí thức mà có quyền chức chỉ huy một cơ sở nào th́ sẽ làm hại đến người trong cơ sở ấy.
Phương pháp trừ Cứng đầu
Muốn trừ cứng đầu phải hành động như thế nầy:
1.- Đối với người ngoài bản thân ta:
- Hết ḷng dạy bảo bằng ḷng từ bi.
- Hành phạt.
- Hành phạt theo thể thức của Phạm Thiên, ư nói rằng khi không dạy được th́ người đồng hội hay cùng một chí hướng hăy đồng ḷng không giao thiệp với người ấy, nhưng không làm hại oán ghét. Người cứng đầu sẽ bị cô lập rồi sẽ trở nên người dễ dạy.
2.- Đối với bản thân ḿnh: Phải nhận thấy cái hại của sự cứng đầu và quả của sự biết vâng lời, rồi lo lắng học hành siêng năng nghe lời giảng dạy của các bực trí thức, cha mẹ, và làm cho ḿnh trở nên người dễ dạy.
SÀRAMBHA: TRANH ĐUA
Tranh đua là một phiền năo làm cho người bị nhiều sự phiền phức hay nhiều tai hại, như:
1.- Tranh đua thường làm cho các phiền năo khác tuần tự phát sanh theo sau, v́ óc tranh đua làm cho tâm vọng động, khiến con người quyết định phải thắng, và phải t́m đủ thủ đoạn làm cho không c̣n thiện tâm nữa. Do đó các phiền năo khác thường theo sau phiền năo tranh đua:
MAKKHA: Bội ơn.
PALÀSA: Đem ḿnh sánh với các bực cao nhơn.
ISSÀ: Ganh tỵ
MÀYÀ: Xảo trá.
SÀTHEYYA: Khoe khoang.
ATIMÀNA: Khinh khi các bực trí thức.
Những phiền năo này hằng chờ cơ hội để xâm nhập vào tâm cho mau thỏa óc tranh đấu.
2.- Tranh đua hằng làm cho tâm mờ tối. Khi người bị phiền năo là tranh đua nổi lên, rồi không c̣n nghĩ phải trái, tâm thường hay phóng túng, nghĩ sai lầm, chỉ nghĩ những phương thế nào đánh ngă kẻ mà ḿnh đang tranh đua, mặc dầu người ấy đă đối với ta rất tốt. Phiền năo là nhân tạo ra cảnh vật cho tâm, nên người càng nhiều phiền năo chừng nào th́ tâm càng không có an tịnh, mà dầu đă có cũng bị mất dần dần đi. Phàm tâm con người bị phiền năo rồi, không khác nào con tằm bị tơ của ḿnh quấn lấy không c̣n xây trở được; tâm bị phiền năo bao vây, th́ không c̣n nghĩ phải nữa.
3.- Tranh đua làm cho người mất quyền thế. Người tranh đua khi đang tranh với người khác, tất nhiên phải có những hành vi không được tốt đẹp nên người đời trông thấy vậy, đều tránh xa, như tội lỗi là các bực trí thức, hằng sợ sự tranh đua.
Tóm lại người tranh đua bị thua lỗ mọi phương diện: mất thanh danh, quyền thế bạn lành. Mặc dầu thắng người mà ḿnh tranh đua ấy, nhưng bên trong ta lại thua phiền năo của ta. V́ vậy nên Đức Thế Tôn dạy rằng: Tranh đua là một phiền năo.
Phương pháp diệt trừ Tranh đua
Phương pháp diệt tranh đua cũng không có ǵ khó. Nên có trí nhớ và trí tuệ suy nghĩ thấy cái hại của tranh đua, cái lợi của không tranh đua. Và hằng thỏa thích với những ǵ mà ḿnh đă có, gọi là tri túc.
MÀNA: NGĂ MẠN
Ai cũng biết ngă mạn là một tật xấu không ai ưa. Phiền năo ngă mạn có thể chia ra làm ba bực:
1.- Hạng thô thiển (biểu lộ ra bên ngoài).
2.- Hạng trung b́nh (gọi là ANUSÀ: ô nhiễm).
3.- Hạng vị tế (gọi là UPAKILESA: thụy miên phiền năo, phiền năo nầy ngủ ngầm trong tâm cho đến khi đắc A-la-hán quả).
Tai hại của Ngă mạn
Tai hại của ngă mạn nói ra không hết nhưng có thể tóm lại có ba điều:
1.- Hại cho bản thân ḿnh. V́ người ngă mạn thường ỷ ḿnh là người cao thượng, quí phái , trí thức v.v…c̣n người khác đều ngu dốt, thấp hèn nên làm mất thân thiện với mọi người bên ḿnh. Người càng ngă mạn, càng thâu hẹp trái đất, ư tôi muốn nói không ai ưa giao thiệp hay thân cận, nên mặc dầu trái đất to lớn, nhưng người ấy sống lẻ loi, h́nh như quả địa cầu nầy rất nhỏ bé. Người ấy, t́m không ra một người bạn lành, nếu có chăng th́ những người ḷn ra cúi để nhờ vả thôi, nếu có chuyện quan trọng những người nầy cũng chạy bỏ.
2.- Ngă mạn làm hại bạn. Người nào c̣n giao thiệp với người ngă mạn, th́ người ấy cũng bị các bực trí thức xa lánh và những người bạn lành khác chỉ trích và lánh xa.
3.- Người ngă mạn thường hay khó chịu trong khi gặp nơi hội họp đông người, v́ họ nghĩ rằng ta cao thượng, ta không muốn giao thiệp với hạng người nầy. Trái lại những người ấy không muốn gần người ngă mạn. Như vậy người ngă mạn cảm thấy bị cô lập.
Phương pháp trừ Ngă mạn
Người muốn diệt trừ phiền năo nầy nên có trí tuệ nh́n lại sự thật, xem kỹ coi ta là hạng người thế nào, có phải ta thuộc hàng vua chúa, hạng trí thức, hạng sang giàu và ta có đặc sắc ǵ hơn người không. Khi người can đảm nhận thấy ḿnh không có những điều ấy th́ nên mau mau dứt bỏ ngă mạn đừng để căn bệnh ấy nhiễm sâu vào thêm. Nhược bằng ta thật là thuộc những hạng kể trên, th́ ta nên dùng trí tuệ quan sát rằng: ta và người chỉ khác nhau ở chỗ giàu nghèo, sang hèn, thông minh, dốt nát thôi, nhưng có chỗ giống nhau là ta vốn là chúng sanh c̣n đang trong ṿng luân hồi khổ năo, và sau khi chết rồi ta sẽ không đem được đặc ân ǵ theo được, mà chỉ đem tội và phước thôi. Vậy ta có ǵ cao thượng. Ta nên dứt bỏ tánh xấu ngă mạn ấy. Hơn nữa ta hăy suy nghĩ nhận thấy tai hại của ngă mạn, th́ dứt bỏ không khó khăn ǵ.
ATIMÀNA: KHINH NGƯỜI
Theo Phạn ngữ, ATI có nghĩa là quá hay nhiều. MÀNA là ngă mạn. Ta có thể cắt nghĩa là ngă mạn thái quá. Nhưng ư nghĩa của ATIMĂNA là khinh người. Ngă mạn chỉ cho rằng ḿnh hơn kẻ khác. C̣n khinh người th́ nói ra miệng, chê bai người khác rằng: Người kia không bằng ta. Trong ấy c̣n có tánh cách khinh khi bỉ mặt. Th́ ra ATIMÀNA từ trong Màna ra. Khi xét kỹ th́ ATIMÀNA là khinh người với hai điều rơ rệt hơn Măna ngă mạn. Hai điều ấy là ngă mạn chấp ta và khinh khi người. V́ vậy cái hại của ATIMÀNA (khinh người) cũng như là Màna (ngă mạn).
Đây tôi xin nhắc lại cái hại về sự khinh người của ḍng Thích ca.
Hai mươi sáu thế kỷ trước đây, ḍng Thích ca là ḍng có danh vọng cao quí nhất trong cơi Diêm phù đề, và rất giỏi về cai trị và chinh chiến. Như vậy có ai dám dè rằng ḍng Thích Ca phải bị diệt tộc một cách chớp nhoáng, chỉ v́ khinh người thôi. Nguyên buổi ban mai kia, Đức vua Ba Tư Nặc, trị v́ tại xứ Săvathĩ, Ngài đứng trên lầu cao trông thấy chư Tăng đi khất thực, Ngài lấy làm lạ sao chư Tăng vào thành thật sớm, chia ra từng nhóm nhiều ít khác nhau. Ngài mới nghĩ rằng chư Tăng đi thọ thực nơi nào có ai thỉnh các Ngài đó, nên Ngài mới hỏi quan hầu rằng:
- Nầy hiền khanh, có ai thỉnh chư Tăng thọ thực chăng?
- Tâu Đại Vương, có nhiều nhà thỉnh chư Tăng đến thọ thực.
Đức vua phán hỏi:
- Vậy mỗi gia đ́nh thỉnh mấy vị?
- Tâu Đại Vương, có chỗ thỉnh nhiều, có nơi thỉnh ít. Tùy theo sức của mỗi gia đ́nh.
- Vậy người mời chư Tăng nhiều hơn hết là mấy vị?
- Tâu Đại vương, theo thần biết th́ có ông Trưởng giả Cấp Cô Độc thỉnh 2.000 vị, ông Culaanàthapandika thỉnh 500 vị, bà Visàkhà thỉnh 500 vị, bà Supavàsà thỉnh 500 vị.
- Nếu vậy ta thỉnh chư Tăng đến thọ thực trong cung nội th́ hay biết chừng nào!
- Tâu Đại vương, thật là hạnh phúc.
Chiều hôm ấy, Đức vua Ba Tư Nặc đến chùa Kỳ Viên bạch Đức Thế Tôn rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử muốn xin cúng dường đến chư Tăng hằng ngày.
- Lành thay! Đức Thế Tôn phán.
- Nếu vậy đệ tử xin Đức Thế Tôn cho đệ tử thỉnh trai tăng mỗi ngày một ngàn vị.
- Lành thay!
- Riêng về phần Đức Thế Tôn, đệ tử xin thỉnh Ngài thọ thực hằng ngày trong hoàng cung, c̣n chư Đại đức khác tuỳ theo sở định của tăng chúng.
Đức Thế Tôn phán: "Tâu Đại vương, lẽ cố nhiên, một vị Chánh đẳng Chánh giác không bao giờ thọ thực một nhà măi măi, v́ tất cả nhân loại đều mong muốn được cúng dường cho Đức Phật, cho nên Như Lai phải v́ nhân loại."
Đức vua bạch: "Bạch Đức Thế Tôn, nếu chư Tăng hằng đổi phiên nhau đi thọ thực trong hoàng cung, th́ khó cho quí Ngài không quen, vậy xin Đức Thế Tôn cho một vị đến thường trực, v́ như vậy th́ vị ấy thông thạo sự đi lại và nơi thọ thực."
Đức Thế Tôn đáp: "Như thế ấy là Như Lai nhậm lời!"
Sáng ngày, có một ngàn đệ tử Phật đến thọ thực. Đây là lần đầu tiên đức vua trai tăng, nên ngài chưa thông đạo và sự bố thí có tánh cách là quảng cáo cho dân chúng biết. V́ vậy chính Đức vua ngự ra dâng cúng đến chư Tăng. Ngài làm như thế được 7 ngày, Ngài lại giao phận sự ấy cho các quan lo, c̣n Ngài th́ lo việc khác, v́ vậy nên sự cúng dường càng ngày càng giảm sự cung kính và vật thực cũng không đủ và các quan làm phận sự không tṛn. Khi ấy chư Tăng càng ngày càng giảm, không đến thọ thực trong hoàng cung nữa, chỉ c̣n có một ḿnh Đức Ananđa ráng tŕ chí nhẫn nhịn đến thôi.
Đức vua Ba Tư Nặc thấy chư Tăng vào thọ thực trong hoàng cung càng ngày càng ít như thế, Ngài ngờ rằng v́ các quan phụ trách việc ấy không làm tṛn phận sự hay là v́ Ngài không phải là quyến thuộc của Phật, nên chư Tăng không thích đến. Rồi Ngài thầm nghĩ rằng: "Vậy ta phải làm sao cho trở nên quyến thuộc của Phật. Ta phải cưới cho được người ḍng Thích Ca về làm hoàng hậu, chừng đó th́ chư Tăng và Đức Phật sẽ ngự đến thọ thực."
Đoạn Ngài mới cho sứ thần đến thành CA B̀ LA VỆ xin làm lễ cưới con gái ḍng Thích Ca.
Khi ḍng Thích Ca tiếp được lời yêu cầu của Đức vua Ba Tư Nặc, liền hội nhau lại bàn việc gả cho con vua Ba Tư Nặc. Sự thật th́ ḍng Thích Ca không bao giờ muốn gả con cho ḍng khác, nhưng nếu không gả th́ sợ Đức vua Ba Tư Bặc cử binh đến vấn nạn. V́ vậy họ mới gả con của người thị nữ tên Vàsabhakhattiyà. Sứ thần và đức vua Ba Tư Nặc đều không biết chuyện ấy.
Mười sáu năm sau, thái-tử Vidùdabha tưởng rằng mẹ ḿnh là ḍng Thích Ca cao quí, nên xin mẹ cho phép về thăm quê ngoại. Hoàng hậu thấy con quyết về thăm quê ngoại như vậy không biết phải nói sao, nên cho người về báo ḍng Thích Ca hay trước và yêu cầu tiếp đón nồng hậu.
Khi hoàng tử Vidùdabha ngự về thành Ca B́ La Vệ với quan hầu thật trang nghiêm, th́ ḍng Thích ca đă cho các công nữ, và hoàng tử đi chơi xa, v́ ḍng Thích ca không bao giờ chịu làm lễ ai mặc dầu bằng một cái chấp tay xá.
Khi đến sân chầu thái tử Vidùdabha được một vị đại thần đưa đi giới thiệu cho từ vị trưởng thượng ḍng thích Ca. Thái tử Vidùdabha làm lễ các vị xong, mới hỏi vậy các hoàng huynh đệ đi đâu hết, không thấy có mặt vị nào. Vị đại thần đáp rằng:
Những vị ấy mắc đi học xa, có vị đi săn bắn chưa về. Thái tử Vidùdabha tin bằng lời.
Đến ngày thứ tư thái tử Vidùdabha cáo từ ra về. Những thị nữ trong hoàng cung rất bực ḿnh, vốn muốn cho thái tử về mau, nên khi thái tử vừa ra đi, th́ bọn thị nữ lấy sữa tươi rửa chỗ ngồi của thái tử và nói rằng: "Thứ đồ con của đầy tớ mà cũng làm cho chúng ḿnh nhọc công!"
Ngay khi ấy, có một vị quan hầu của thái tử trở lại lấy cây gươm của thái tử bỏ quên nghe được lời ấy, bèn tâu lại cho thái tử nghe. Thái tử Vidùdabha lấy làm căm tức nói rằng: "Ngày nào đây ta sẽ lấy máu cổ của ḍng Thích ca để rửa mặt đất!"
Thời gian qua, đến khi thái tử Vidùdabha được trị v́ xứ Sàvatth́ là xứ hùng cường nhất trong thời kỳ ấy, điều mà Ngài nhớ trước hết là lời khinh khi của những người tỳ nữ của ḍng Thích Ca nên Ngài truyền ra quân và chính Ngài thân chinh.
Đức Thế Tôn biết trước rằng ḍng Thích Ca sẽ bị tiêu diệt do tay của vua Vidùdabha. Ngài nghĩ thương hại cho cả hai bên thắng cũng như bại đều bị tiêu diệt nên Ngài mới ngự đến nơi biên giới của hai nước Sàvatth́ và Ca B́ La Vệ.
Khi trông thấy Đức Thế Tôn, đức vua Vidùdabha mới đến gần lễ bái xong rồi hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, tại sao Ngài ngự dưới cột cây nhành lá thưa thớt trong buổi trưa nóng nực như thế này? Xin thỉnh Ngài đến ngự dưới cột cây kia mát hơn".
Trong thâm tâm, vua Vidùdabha muốn thỉnh Đức Thế Tôn ngự qua cây khác là muốn cho trống đường đặng quân Ngài đi qua. Ngài sợ khi quan quân trông thấy Đức Thế Tôn sẽ ngă ḷng, v́ tất cả quan quân ai ai cũng kính trọng và rất trong sạch với Đức Thế Tôn, th́ sẽ không chịu đi giết hại ḍng Thích Ca.
Đức Thế Tôn đáp lời rằng: "Tâu đại vương, bóng cây kia thật là mát, nhưng bóng mát của quyến thuộc c̣n mát hơn bóng cây ấy".
Đức vua nghe qua liền hiểu rằng Đức Thế Tôn ngự đến nơi đây là để ngăn Ngài không cho giết hại ḍng Thích Ca. V́ ḷng kính nể và thương mến Đức Thế Tôn, và nghĩ rằng Ngài là cậu ḿnh, nên đức vua lễ bái xong lui ra và truyền rút quân về thành.
Nhưng đức vua Vidùdabha chỉ dằn ḷng được ngay lúc đó thôi; lúc sau Ngài lại cử binh đi nữa. Như thế đến ba lần mà lần nào cũng gặp Đức Thế Tôn, đức vua đều trở về đủ ba lần.
Đức Thế Tôn đón đức vua Vidùdabha cả ba lần nhưng biết không thể cản được, nên Ngài không đến cản lần thứ tư. Ngài biết rằng nếu là nghiệp và oan trái th́ không thể nào giải được, mặc dầu Ngài là Phật.
V́ vậy đến lần thứ tư, Đức vua Vidùdabha xua quân vào tận diệt ḍng Thích Ca. V́ ḍng Thích Ca là ḍng tu hành thọ ngũ giới rất trong sạch nên không kháng chiến, để quân Đức vua Vidùdabha vào thành tàn sát dễ dàng.
Tai hại của ḍng Thích Ca phải gánh chịu đó là do nơi sự khinh khi kẻ khác mà ra.
Người khinh khi kẻ khác có thể chia ra làm hai hạng, một hạng khinh khi kẻ khác bằng lời nói và hạnh thứ nh́ th́ khinh khi người ngầm trong tâm ḿnh. Hạng người thứ nh́ không khinh khi người v́ nghèo hay ít học hoặc dốt nát hay gia đ́nh hạ lưu mà khinh khi v́ đủ mọi việc mà không phô bày ra bên ngoài cho người ta biết. Bệnh này thật là khó chữa không khác nào ung thư bên trong. Phiền năo nầy thật là tai hại cho tâm.
Muốn trừ phiền năo ấy, ta nên nhận thấy quả của khinh người như ḍng Thích Ca, ta phải làm cho tâm biết kính trọng người trưởng thượng mặc dầu hạng người ấy thuộc giai cấp nào, đừng quên rằng dầu sao họ cũng là người như ta, khi chết cũng thúi như nhau. Chúng ta hăy xem coi chúng ta có ǵ quư hơn người, khi chúng ta nhổ nước miếng vào một cái ly hỏi chúng ta có thể liếm nước miếng ấy lại được không? Tất nhiên là không. Ta cao quư và trong sạch ơn người khác ở chỗ nào, chính bản thân và đồ vật trong người của ta ra mà ta cũng vẫn gớm như thường. Tóm lại muốn diệt sự khinh khi người ta, phải có pháp ATTANNÙTÀ nghĩa là luôn luôn có sự nhận thức biết ta là hạng nào.
MADA: SAY
Phiền năo nầy có nghĩa là say, nhưng say của tâm chớ không phải say của thân. Cái say của thân là say rượu, say trầu, say thuốc, say nắng v.v… Những cái say nầy có thể hết được không cần chữa. Nhưng cái say của tâm th́ thuốc chữa cũng chẳng lành mà nằm nghỉ củng chẳng hết.
Người đời khi có tiệc hay bạn bè rủ uống rượu chơi, lỡ say, đây thuộc về thân say. C̣n người nào không có rượu là chịu không được, phải có rượu uống mới được, không vậy th́ buồn bực quạo v.v… Đây thuộc về tâm say. Tóm lại khi ta thấy người say ngă tới ngă lui, ấy ta chưa chắc người ấy say thân hay say tâm. Phải đợi coi hành vi của họ, v́ cái say có rất nhiều h́nh thức, phải xem kỹ sự hành động mới có thể định được.
Tai hại của sự Say
Phàm người đă say, dầu say một vật nào, vật ấy cũng là nguyên nhân đem tai hại đến cho ta ít hay nhiều tùy trường hợp. Vật nào làm say người cũng thường làm cho mất thanh danh, mất tín nhiệm, các bực trí thức chỉ trích, bạn bè lánh xa; công việc làm ăn bị đ́nh trệ; cái hại nhỏ nhất là trong gia đ́nh bị xáo trộn, như vợ không kính nể, con không vâng lời, kẻ giúp việc trong nhà cũng chẳng kiêng nể.
Phương pháp trừ Say
Phàm người có trí nên nh́n thấy cái hại của ḿnh, gia đ́nh ḿnh và con ḿnh, nên lánh xa những ǵ làm cho ta say như rượu, á phiện, cờ bạc, đàng điếm. Theo lời Phật dạy, các đệ tử không nên mê theo ngũ trần dục lạc, v́ đó là nguyên nhân luân hồi. Đức Thế Tôn thường dạy nên suy tưởng đến cái hại của ngũ trần để mà xa lánh. Ngài ví ngũ trần như ngọn đuốc cháy mạnh, người mê theo ngũ trần không khác nào là người cầm ngọn đuốc ấy chạy ngược gió, hoặc ngũ trần không khác nào con dao bén có thoa mật, c̣n chúng ta như những trẻ con không biết đó là con dao bén, mà đưa lên liếm. Ngũ trần ví như mật có chất độc, chúng ta là người ít trí tuệ ham uống chất ngọt, nên nhiễm độc. Đức Phật thường dạy ngũ trần là sắc đẹp, tiếng hay, mùi ngon, vị thơm, sự cảm xúc mềm mại mà chúng sanh thường ưa thích, là nhân đem lại cho chúng sanh khổ nhiều vui ít. Nếu có vui chăng th́ chỉ vui chốc lát mà khổ nhiều năm. Chúng ta ví như người ngồi giữa đống lửa đốt chung quanh nóng nảy khó chịu không sao kể xiết được, nhưng khi có trận gió thổi qua ta cảm thấy mát, nên quên cả sự nóng bao nhiêu lâu. Lửa ấy là cái hại của ngũ trần, c̣n ngọn gió thoảng qua là sự vui của ngũ trần.
Người mà muốn trừ được sự say mê nên có trí nhớ và trí tuệ để nhận thấy cái khổ của ta v́ say mê tài, sắc, danh, lợi, mà khổ không ngày giải thoát được .
PAMÀDA: DỄ DUÔI
Dễ duôi có nghĩa là làm việc không có trí nhớ, hay có thể nói làm việc không cẩn thận. Khi người làm việc thiếu trí nhớ và không cẩn thận th́ việc làm thường hay hư hỏng nhưng đó chỉ là tiểu tiết, có thể trông thấy trong hành động của người dễ duôi. C̣n những chi tiết quan trọng hơn mà ta không nh́n thấy được, v́ không biểu lộ ra bên ngoài mới thật là chân tướng của dễ duôi. Nói đến sự dễ duôi nầy, Đức Thế Tôn ám chỉ người thiếu trí nhớ và trí tuệ, không bao giờ nghĩ đến rằng ḿnh đă già, ḿnh đang đi đến nơi tiêu diệt, tức là đến chỗ chết nó chờ ḿnh. Người đời không bao giờ thấy cái chết thật gần bên ta, ta có thể chết v́ đủ mọi phương diện hoặc v́ xe đụng hay v́ những tai nạn nào khác không kể xiết được. Nhưng người đời v́ dễ duôi, nên nghĩ không bao giờ ḿnh bị những chuyện ấy. Đức Phật dạy: Mỗi phút qua, chính là chúng ta đi đến gần cái chết. Những người chết rồi không đem ǵ theo được, mặc dầu giàu có sang trọng, tiền nhiều của dư. Người chỉ miệt mài theo tài, sắc, lợi, danh quên ḿnh như thế, gọi là người thiếu trí nhớ, thiếu trí tuệ, là người dễ duôi.
Đức Phật có dạy rằng: PAMÀDOMACCUNOPADAM nghĩa là sự dễ duôi là con đường đi đến chỗ chết.
YE PAMADA YATHÀMATA: Người dễ duôi ví như người đă chết. Câu này có ư nói là người mặc dầu c̣n sống nhưng không làm ǵ lợi ích cho ḿnh kiếp này và đời vị lai th́ không khác nào người đă chết.
Phương pháp diệt trừ Dễ duôi
Phương pháp diệt trừ dễ duôi bên ngoài là cố tập cho có trí nhớ. Trí nhớ là pháp quan trọng nhất nên đức Phật dạy pháp tứ niệm xứ là: niệm thân, niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp.
Niệm thân có hai phương diện khác nhau: a) bên ngoài, và b) bên trong.
a.- Người niệm thân là người hằng nhớ đến thân ḿnh, biết rằng ta đang đi, đứng, hay nằm ngồi, hoặc làm ǵ, luôn vẫn có trí nhớ quan sát, v́ ta không có trí nhớ quan sát, nên khi làm ǵ xong rồi ta lại quên đi, hay khi ta đang làm, nhưng ta thiếu trí nhớ làm cho chuyện ấy không được hoàn toàn chu đáo. Trong tứ niệm xứ, nói niệm thân là nói khi đi ta giở chân lên cũng biết ta đang giở chân lên, khi để xuống biết ta để xuống, mà để gót xuống trước hay bàn xuống trước. Trí nhớ kỹ càng như vậy trong mọi công chuyện th́ không khi nào ta bị thất bại. Quí vị cố tập theo lời này, chắc chắn sẽ thấy trí nhớ tăng trưởng; người không tập th́ trí càng ngày càng xa ḿnh dần, thành ra ta nói ta hay quên là v́ vậy. Đó là đức Phật dạy sơ cho ta tập trí nhớ bên ngoài.
b.- Phạn ngữ KÀYA nghĩa là (thân) hội họp. Hội họp những ǵ? Hội họp 32 thể trược như tóc, lông, móng, răng, da v.v…và 32 thể ấy do nơi tứ đại là đất, nước, gió, lửa tạo thành.
KÀYA cũng có nghĩa là chỗ sanh ra những vật bẩn thỉu, đây có ư nói thân nầy là vật cấu tạo do nơi những vật không sạch của mẹ cha, và chính nó hằng tiết ra những mùi hôi thúi. Hơn ấy nữa, thân nầy lại sanh ra những vật nhơ nhớp hơn tất cả các vật nhơ nhớp, là sự HUNG ÁC của con người.
Chữ KÀYA do chữ KU và ÀYA, KU có nghĩa là bẩn thỉu; ÀYA có nghĩa là hội họp.
Khi đức Phật dạy niệm thân bên trong thân, Ngài cố ư dạy hăy suy nghĩ thấy mỗi phần nhỏ riêng biệt nhau ở trong một khối lớn, chia thân nầy ra từng phần như tóc, lông, móng, răng, da, thịt v.v… chúng ta nhận thấy mỗi phần có tên riêng của nó th́ cái ǵ là của ta, là ta, là người; vật mà ta vẫn chấp thân nầy là của ta.
Khi chúng ta chia ra từng phần khác nhau như vậy, chúng ta lại thấy rằng các thành phần ấy đều dưới quyền sở hữu của 4 pháp:
1.- ANICCATO: Thân nầy là vô thường (không bền vững).
2.- DUKKHATO: Thân nầy khổ năo.
3.- ANTTATO: Thân nầy vô ngă ( không phải ta, không phải của ta).
4.- ASUBHATO: Thân nầy rất là nhơ bẩn.
Đức Thế Tôn có dạy: Hành giả nên quan sát thân nầy như vầy: "Về phần trên từ tóc xuống đến da bàn chân, về phần dưới lên từ da bàn chân đến tóc, thân ta bao bọc bằng một lớp da và thân nầy có 32 thể tạo thành. Nầy các thầy Tỳ khưu nên quán tưởng thấy thân ta như thế".
Khi người thấy trí nhớ thô siểng là nhớ đến mọi sự hành động của ḿnh bên ngoài để diệt trừ sự dễ duôi, không làm sai lầm trong công việc. Đó là niệm bên ngoài. C̣n suy nghĩ thấy thân như niệm bên trong đă dạy trên kia để làm cho người không dễ duôi ham mê theo tài, sắc, lợi, danh, th́ mới là phần quan trọng, là con đường đi ra ngoài biển Luân hồi. Khi tâm người không dễ duôi, th́ không chạy theo trần dục, tâm ấy sẽ được thảnh thơi, không nóng nảy v́ ḷng tham ái, sân hận và si mê. Đây là pháp không dễ duôi và diệt trừ sự dễ duôi.
* * *
Như trên đây quí vị đă thấy Si mê là nguồn gốc của mọi phiền năo khác. Tham lam hay sân hận chỉ có đôi ba chi liên hệ với phiền năo chánh thôi, riêng si mê có cả 12 chi mà mỗi chi đều rất quan trọng. Nếu quí vị thấu hiểu những phiền năo đă kể trên và cố tâm quan sát coi nó phát sanh lên do nơi đâu, trong trường hợp nào, xong quí vị lại diệt trừ nó theo pháp đối trị thích ứng th́ chắc chắn quí vị sẽ đặng an vui trong kiếp này và đời vị lai.
Rất mong rằng quyển sách này đem đến cho quí vị nhiều lợi ích. Cầu xin phước báo tôi cố viết quyển này hộ tŕ vị nào đă xem qua, được mau giải thoát khỏi Tam độc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
QuangQuy Hội viên
Đă tham gia: 11 May 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 410
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 10:34pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bài thuyết pháp thật hay. Cám ơn bạn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|