kimlong Hội viên
Đă tham gia: 21 October 2005 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 21 December 2005 lúc 4:54am | Đă lưu IP
|
|
|
THẤY VÔ NGĂ
-ooOoo-
Tất cả những thành phần cấu tạo ngũ uẩn đều vô ngă. Nh́n xuyên qua những đặc tính của các uẩn ta thấy điều nầy trở thành hiển nhiên. Bản Chú Giải mô tả những đặc tính ấy như sau: Không vâng lời làm theo ư muốn ta là một đặc tính của vô ngă. Trong kinh Vô Ngă Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, đặc tính nầy được diễn tả qua câu, "Ta không thể sai bảo sắc pháp, 'Thân ta hăy như thế nầy'." Lại nữa trong kinh nầy có câu "... nó có chiều hướng gây đau khổ ..." Bản chất gây đau khổ, làm khó chịu, áp bức, hay cưỡng chế, phải được xem là một h́nh thức khác của đặc tướng vô ngă. Trong bài kinh cũng có sự t́m hiểu, Ṅhận là tự ngă cái ǵ luôn luôn biến chuyển th́ có thích nghi không?"
Khi người hành thiền quan sát những đặc tướng trên mỗi khi nó khởi sanh th́ phát triển trí tuệ nhận thấy rằng cả hai, sắc uẩn và danh uẩn, đều không phải là tự ngă mà chỉ là những hiện tượng không ngừng sanh diệt. Tuệ nầy được gọi là anattānupassanā ñāṇa, tuệ giác phát triển do công phu quán niệm những đặc tính vô ngă. Bài kinh (sutta) nầy được gọi là Anattalakkhaṇa, Vô Ngă Tướng, v́ đề cập đến những đặc tính vô ngă.
Khó Thấu Hiểu Đặc Tướng Vô Ngă
"Đặc tướng vô thường và khổ có phần dễ hiểu, nhưng đặc tướng vô ngă th́ khó thông hiểu", chú giải Sammohavinodanī nói như vậy. Theo chú giải nầy, những lời than như "Than ôi, thật là vô thường, quả thật là phù du tạm bợ" sẵn sàng đến với tâm ta mỗi khi vô t́nh làm rớt bể một cái hủ. Lại nữa khi bị mụt nhọt, một vết thương hay bị gai đâm chích ta liền than thầm, "Than ôi, quả thật đau nhức, khó chịu". Bằng cách ấy đặc tướng vô thường và khổ được nhận thấy rơ ràng và dễ hiểu. Nhưng cũng như rất khó mà chỉ cho ai khác t́m một vật nằm trong tối, không thể hiểu biết dễ dàng đặc tướng vô ngă.
Đặc tướng vô thường và khổ được hiểu biết rộng răi, ở trong cũng như ở ngoài giáo lư nhà Phật, nhưng đặc tướng vô ngă chỉ được đề cập đến trong Phật Giáo. Những vị ngoài Phật Giáo như đạo sĩ ẩn dật Sarabaṅga chỉ có thể thuyết giảng về bản chất vô thường và đau khổ, c̣n lư vô ngă th́ vượt hẳn ra ngoài tầm hiểu biết của các Ngài. Nếu các vị đạo sĩ ấy có thể dạy lư vô ngă th́ những đệ tử của họ đă có thể chứng đắc Đạo Tuệ và Quả Tuệ, nhưng v́ các Ngài không thể dạy nên không có ai thành đạt Thánh Đạo và Thánh Quả.
Phẩm chất và đặc tính cá biệt đặc thù của một Đấng Chánh Đẳng Chánh Giác là có đủ khả năng giảng dạy lư vô ngă. Những vị đạo sư ngoài Phật Giáo không tiến được đến mức tế nhị và sâu sắc của giáo lư nầy. Bản Chú Giải nói rằng giáo lư vô ngă thâm sâu đến độ chí đến Đức Thế Tôn cũng phải dựa trên đặc tướng vô thường hoặc đặc tướng đau khổ hoặc cả hai cùng một lúc để giải thích dễ dàng.
Bản Phụ Chú Giải giảng rộng thêm: "Trong tuyên ngôn trên của Bản Chú Giải, ngoài Phật Giáo hai đặc tướng anicca và dukkha, vô thường và khổ, chỉ được hiểu theo nghĩa chế định (tục đế), nên không thể dùng làm phương tiện để chứng ngộ lư vô ngă. Chỉ có vô thường và khổ hiểu theo chân lư cùng tột (chân đế) mới có thể xử dụng để giải thích lư vô ngă." Sư đă dùng Phụ Chú ấy để mô tả khái niệm chế định (tục đế) và khái niệm cùng tột (chân đế) của anicca và dukkha, trong sách Sīlavanta Sutta. Có thể tham khảo để có thêm chi tiết.
Thấy Vô Ngă Qua Đặc Tướng Vô Thường
Trong kinh Chachakka Sutta, phần Uparipaṇṇāsa của bộ Majjhima Nikāya, Trung A Hàm, ta thấy đặc tướng vô thường được dùng làm phương tiện để giải thích đặc tướng vô ngă. Theo bài Kinh nầy người hành thiền phải hiểu sáu phân hạng của sáu yếu tố như sau:
1. Sáu căn môn: nhăn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ư;
2. Sáu trần cảnh: sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp;
3. Sáu loại thức: nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức;
4. Sáu loại xúc (phassa): sự tiếp xúc xuyên qua mắt, qua tai, qua mũi, qua lưỡi, qua thân và qua tâm;
5. Sáu loại thọ: cảm thọ xuyên qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và tâm;
6. Sáu loại tham vọng: khát khao ham muốn được thấy h́nh thể, được nghe âm thanh, được hửi mùi, được nếm vị, được sờ đụng và cảm kích.
Nơi đây theo Bản Chú Giải, đoạn "phải hiểu biết" có nghĩa là "phải hiểu biết xuyên qua công phu quán niệm minh sát, vipassanā, hiểu biết bằng trí tuệ của Thánh Đạo". Do đó mỗi khi một vật được thấy, vật ấy phải được chú tâm ghi nhận (niệm) để mắt và đối tượng được thấy, nhăn thức, nhăn xúc và thọ cảm xuyên qua mắt, khởi sanh hiển hiện rơ ràng cùng lúc trong khi thấy. Và trong lúc thấy nếu có sự ưa thích hay ham muốn vật ấy khởi sanh, sự ưa thích và ham muốn ấy phải được ghi nhận, "ưa thích, ưa thích".
Cùng thế ấy, trong khi nghe, khi hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư phải hiểu biết sáu hạng sáu đối tượng ấy. Vị hành giả mà hay biết đúng lúc như vậy tự cá nhân ḿnh sẽ nhận thức rằng mắt, đối tượng được thấy và sự thấy (nhăn thức) khởi sanh và chấm dứt. Vị ấy chứng nghiệm, "Trước đây ta nghĩ rằng có một thực thể thường c̣n, một tự ngă hằng cửu. Giờ đây, qua sự chứng nghiệm bằng cách thật sự quán sát ta nhận thức rằng chỉ có những hiện tượng thiên nhiên không ngừng sanh diệt." Nhận thức rằng không có một tự ngă, không có một thực thể sống, người hành thiền có thể ngạc nhiên không biết ḿnh ngồi đây hành thiền cho ai. Xuyên qua sự hiểu biết đầy đủ về bản chất vô thường của vạn hữu hành giả chứng ngộ rằng không có một tự ngă. Để chỉ dạy rơ ràng kinh nghiệm thực tiển nầy Đức Thế Tôn tiếp tục bài kinh Chachakka Sutta như sau:
"Phần nhạy của mắt, là nền tảng của sự thấy (nhăn thức) khởi sanh và chấm dứt mỗi khi thấy; do vậy nó không phải thường c̣n, không tồn tại vĩnh viễn, không phải là thực thể hằng cửu vững bền, là tự ngă, như h́nh như nó là vậy. Nếu ta nói, 'mắt là tự ngă' th́ cũng giống như nói rằng tự ngă của ta khởi sanh và hoại diệt, không ổn định, không tồn tại vững bền. Do đó ta phải kết luận rằng phần nhạy của mắt không phải là tự ngă."
Cùng thế ấy ta có thể kết luận tương tợ đối với h́nh thể (đối tượng của sự thấy), nhăn thức, nhăn xúc (tức sự tiếp xúc giữa mắt và đối tượng của mắt), và sự ưa thích và ham muốn của mắt: tất cả đều không phải tự ngă. Đó là phương cách mà sáu hiện tượng, trở thành nổi bật vào lúc nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, được xem là vô ngă.
Thấy Vô Ngă Xuyên Qua Đặc Tướng Đau Khổ
Chính trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngă Tướng, đặc tướng vô ngă được giải thích bằng đặc tướng khổ như sau: "V́ h́nh sắc không phải là tự ngă của ta nên có chiều hướng gây đau khổ cho ta." Cái ǵ cưỡng chế hay áp bức ta là đáng cho ta sợ, là nguyên nhân gây đau khổ và rất hiển nhiên là một nguồn đau khổ, không thể là chính ta, là tự ngă, là thực thể sống bên trong ta.
Thấy Vô Ngă Xuyên Qua Cả Hai Đặc Tướng, Vô Thường Và Khổ
Nhằm giải thích đặc tướng vô ngă bằng cả hai, vô thường (anicca), và khổ (dukkha), Đức Thế Tôn dạy:
"Thân không thường c̣n. Cái ǵ không thường c̣n là (nguyên nhân gây) đau khổ. Cái ǵ đau khổ không phải là tự ngă. Cái ǵ không phải tự ngă phải được nhận thức với trí tuệ thích nghi theo đúng sự thật là, 'Đây không phải là của tôi, cái nầy không phải là tôi, cái nầy không phải là tự ngă của tôi'."
Tóm tắt, cơ thể vật chất phải biến đổi và khổ đau, và như vậy không phải là tự ngă. Xem là "của tôi" cái ǵ thật sự không phải tự ngă th́ không thích nghi; lầm lạc tự nghĩ "tôi là ..., tôi có thể làm ...", là không thích nghi; xem đây là "tự ngă của tôi", là "chính tôi" là không thích nghi. Như thế ấy sắc, hay cơ thể vật chất, phải được nhận ra và xem đúng theo thực tại.
Cùng một thế ấy, do những đặc tướng vô thường và khổ, thọ, tưởng, hành và thức cũng phải được xem là không phải tự ngă. Trong phần sau của kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngă Tướng, ta sẽ thấy bản chất vô ngă được mô tả căn cứ trên đặc tướng vô thường (anicca) và đau khổ (dukkha).
Những khái niệm vô thường và khổ, anicca và dukkha, được biết và được chấp nhận rộng răi, nhưng lư vô ngă th́ không mấy được chấp nhận bên ngoài Phật Giáo. Vào thời của Đức Phật có một vị đạo sĩ ẩn dật tên Saccaka đến gặp Đức Thế Tôn và thảo luận về vấn đề nầy.
Cuộc Thảo Luận Với Đạo Sĩ Saccaka
Saccaka là đạo sư của những hoàng tử ở thành Vesālī. Ông hỏi Đức Assaji, vị sư trẻ tuổi nhất trong nhóm năm vị đạo sĩ được gọi là năm anh em Kiều Trần Như, "Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) dạy đệ tử như thế nào? Những lời dạy của Ngài cốt yếu là ǵ?" Đức Assaji trả lời, "'Sắc, thọ, tưởng, hành và thức là vô thường, không phải tự ngă.' Đó là những lời dạy của Đức Bổn Sư; đó là điểm trọng yếu trong giáo huấn mà Ngài ban truyền."
Đến đây Đạo Sĩ Saccaka nói, Nầy Đạo Hữu, chúng tôi có nghe một lời nói sai lầm tệ hại, không đúng. Chúng tôi nghe rằng Đạo Sĩ Gotama dạy giáo lư vô ngă. Đối với chúng tôi như vậy là xấu, sai, không đúng. Một ngày nào tôi sẽ có cơ hội gặp Đạo Sĩ Gotama và sửa sai, làm cho ông từ bỏ giáo lư tệ hại tội lỗi và đáng ghét, quan điểm sai lầm về tự ngă ấy." Đó là một thí dụ cho thấy người chấp ngă thường nh́n giáo lư vô ngă là thấp kém như thế nào. Đối với họ, nghe đến lư vô ngă của Đức Thế Tôn rơ ràng là hiểm nguy độc hại. Vị đạo sĩ du phương c̣n nói đến việc làm cho Đức Thế Tôn từ bỏ "tà kiến" của Ngài. Những người cuồng tín độc đoán tin vào tín điều của họ luôn luôn có đầu óc như vậy; họ khư khư ôm giữ quan điểm của ḿnh và tự cao xem thấp người khác. Dầu là những vị đang dạy đúng theo kinh điển Pāli họ cũng phỉ báng, làm hạ thấp giá trị. Thông thường những người hay lớn tiếng chỉ trích chê bai như thế lại là những vị kém hiểu biết kinh điển hoặc không đủ kinh nghiệm trong pháp hành.
Saccaka không học đủ những lời dạy của Đức Phật và không hiểu biết Giáo Pháp (Dhamma) qua kinh nghiệm của pháp hành. Ông chỉ có một ư niệm sai lầm, xem Giáo Pháp là thấp kém và tự phụ, hănh diện rằng ḿnh cao hơn nhiều. Do đó ông cố đi gặp Đức Thế Tôn để tranh luận. Ông chắc chắn rằng ḿnh sẽ thắng và, muốn cho mọi người mục kích sự thắng cuộc vẻ vang ấy ông mời theo những người trong hoàng tộc Licchavi của thành Vesālī, khoe khoang rằng khi tranh luận về vấn đề giáo lư ông ta sẽ "quây quần Đức Phật như người to lớn mập mạnh chụp đầu một đứa trẻ và quây ṿng." Khi đến trước mặt Đức Thế Tôn vị đạo sĩ xin phép Ngài được nêu lên những câu hỏi.
Ông hỏi, "Bạch Đức Gotama, các vị đệ tử của Ngài được dạy như thế nào? Điểm chánh yếu của giáo huấn ấy là ǵ?" Đức Thế Tôn cũng trả lời y như câu trả lời của Đức Assaji: "Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức là vô thường, vô ngă. Như Lai dạy đệ tử như vậy. Đó là điểm chánh yếu của giáo huấn."
Đến đây Đạo Sĩ Saccaka đưa ra một thí dụ: "Bạch Đức Gotama, hột giống và mầm non phải nương nhờ nơi đất, nó phải tùy thuộc nơi đất để vươn ḿnh mọc lên thành cây con và cây lớn; cùng thế ấy, mỗi hành động được thực hiện với nghị lực và sức mạnh cũng cần phải có đất để nâng đỡ, con người có cơ thể vật chất như một tự ngă có thực chất, attā, và phải tùy thuộc nơi h́nh thể vật chất ấy để có những hành động thiện hay bất thiện. Ta tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành và thức như một tự ngă có thực chất và tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành, và thức để thực hiện những hành động thiện và bất thiện."
Những lời quả quyết xác nhận nầy có nghĩa là hột giống và cây phải tùy thuộc nơi sự nâng đỡ của đất để mọc lên; cùng thế ấy, tất cả những loại sinh hoạt cũng cần phải có nghị lực và sức mạnh. Như cây cối cần sự nâng đỡ của đất, hành động thiện và bất thiện do những cá nhân thực hiện cần phải có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức như tự ngă; chính nhờ tùy thuộc nơi những cái "ta" ấy mà hành động được thực hiện. Cũng chính những cái "ta" gặt hái hậu quả (tốt hay xấu) của hành động. Nếu h́nh sắc vật chất là vô ngă, không có tự ngă, th́ cái ǵ nâng đỡ những hành động tạo thiện hay bất thiện nghiệp, và ai sẽ gặt quả?
Điều nầy đă vượt khỏi phạm vi lư trí của những vị đệ tử. Các vị nầy không hiểu biết phải giải thích như thế nào giáo lư xem tự ngă như đất. Chỉ Đức Thế Tôn mới có thể nắm vững vấn đề, Bản Chú Giải nói như vậy. Đức Thế Tôn hỏi vị đạo sĩ, Nầy Saccaka, phải chăng ông chủ trương rằng sắc là tự ngă, thọ là tự ngă, tưởng là tự ngă, hành là tự ngă, thức là tự ngă?"
"Đúng vậy, Bạch Đức Gotama, tôi chủ trương như vậy, và những người ở đây cũng đều hiểu biết như vậy."
Đức Thế Tôn nhấn mạnh" "nầy Saccaka, hăy để yên qua một bên quan điểm của các vị khác; hăy để tâm lắng nghe những ǵ chính ông tŕnh bày."
Ư định của Saccaka là muốn chia sớt trách nhiệm với những người cùng đi chung nếu ông có nói điều ǵ đáng bị khiển trách, nhưng Đức Thế Tôn thúc giục ông nên tự ḿnh nhận lấy trọn trách nhiệm. Ông buộc ḷng phải chấp nhận rằng chính ḿnh chủ trương, "sắc là tự ngă, thọ là tự ngă, tưởng là tự ngă, hành là tự ngă, thức là tự ngă."
Chừng ấy Đức Thế Tôn hỏi: "Nầy Saccaka, những người cầm quyền cai trị đất nước như Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) và Vua Ajātasattu (A Xà Thế) chẳng hạn, các Ngài có đủ quyền năng hành h́nh những ai phải bị hành h́nh, phạt những ai đáng bị phạt, đày ải những ai đáng bị đày. Những vị ấy có đủ quyền thống trị quốc gia của ḿnh, có phải vậy không, Saccaka?"
"Các v́ quốc vương ấy quả thật là chúa tể trong vương quốc. Các Ngài có đủ quyền thống trị đất nước: chí như những vị Licchavi, được dân chúng bầu làm chúa, cũng nắm đủ quyền hành quyết, h́nh phạt, hay đày ải trong xứ ḿnh." Saccaka trả lời, ông đă vượt qua giới hạn của câu hỏi, không ngờ hậu quả của nó tai hại như thế nào đối với đức tin của ḿnh.
Đức Thế Tôn bèn hỏi: "Nầy Saccaka, Ông nói rằng sắc là tự ngă, là cái "ta" của Ông, vậy Ông có trọn quyền kiểm soát, sai bảo, "Cái 'ta của tôi' hăy như thế nầy, cái 'ta của tôi' hăy không như thế kia" không? Ông có quyền kiểm soát và sai khiến nó như thế không?"
Lúc bấy giờ Saccaka kẹt vào thế tấn thối lưỡng nan. Giáo lư "chấp ngă" của ông chủ trương rằng ta có quyền kiểm soát và sai bảo thân theo ư muốn. Chấp thủ sāmi attā mà chúng ta đă nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chấp rằng có thể kiểm soát, làm cho "cái ta" phải như thế nào theo ư muốn của ḿnh. Đến đây, v́ Saccaka đă xác nhận rằng các v́ vua chúa có trọn quyền điều khiển và kiểm soát "vương quốc của ḿnh" th́ đương nhiên ông cũng công nhận rằng cơ thể vật chất nầy mà ông chấp là "của ḿnh" cũng phải có thể được kiểm soát và điều khiển tùy theo ư ḿnh. Nếu ông chấp nhận như vậy, câu hỏi sắp đến sẽ là ông có thể điều khiển cái thân của ông, bảo nó vẫn măi măi trẻ trung như thân h́nh các vị hoàng tử ḍng Licchavi kia không? Nếu ông trả lời rằng ḿnh không thể sai bảo như thế th́ điều nầy có nghĩa là ông chấp nhận rằng ḿnh không thể kiểm soát thân, và do đó thân không phải là "ta", hay tự ngă. Tự thấy ḿnh đang ở trong thế kẹt, tới không được mà lui cũng không được Saccaka lặng thinh, không trả lời.
Đức Thế Tôn lặp lại câu hỏi lần thứ nh́, nhưng Saccaka vẫn giữ im lặng. Trước khi hỏi lần thứ ba Đức Phật cảnh cáo: "Nầy Aggivessana [*], Ông nên trả lời câu hỏi của Như Lai. Giờ phút nầy không nên giữ im lặng. Khi được một vị Tathāgata, Như Lai, hỏi đến lần thứ ba mà không trả lời ắt đầu sẽ bị bể làm bảy miếng."
[* Aggivessana là tông phái của Saccaka].
Vào lúc bấy giờ được nói là có một vị thiên lôi từ cảnh trời tay cầm lưỡi tầm sét bay lượn quanh quẩn trên đầu Saccaka. Chỉ có Đức Thế Tôn và Saccaka nh́n thấy. Cũng giống như ngày nay có vài người thấy ma, chỉ có những người ấy, người khác không thấy. Thấy thiên lôi sẵn sàng để bửa đầu ḿnh Saccaka kinh hoàng sợ hải; nhưng khi nh́n thấy mọi người có vẻ b́nh thường không lo sợ th́ ông nhận biết rằng những người kia không ai thấy thiên lôi, chỉ có một ḿnh ông. Do đó ông không thể nói rằng ḿnh bị thiên lôi ép buộc phải trả lời như thế nào. Biết rằng lúc bấy giờ chỉ c̣n Đức Thế Tôn là nơi mà ông có thể nương tựa, không ai khác, Saccaka phục tùng bạch Phật: "Xin Đức Thế Tôn nêu lên câu hỏi, tôi sẵn sàng giải đáp."
Đến đây Đức Thế Tôn hỏi: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ thế nào về điều nầy? Ông nói rằng sắc là tự ngă; vậy Ông có thể bảo cái tự ngă ấy, 'Thân nầy hăy như thế nầy, thân nầy hăy không như thế kia', theo như ư Ông muốn được không?"
"Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát nó", Saccaka trả lời, ngược lại với ư ḿnh. Trước kia ông nói rằng sắc là tự ngă; nếu sắc là tự ngă của ông ắt nó phải phục tùng quyền kiểm soát của ḿnh. Giờ đây ông nói rằng không thể kiểm soát sắc, như vậy đương nhiên ông chấp nhận rằng sắc không phải là tự ngă.
Khi Đức Thế Tôn nghe Saccaka nói ngược lại với ư ông như vậy th́ mở lời cảnh giác: "Nầy Aggivessana, hăy coi chừng, hăy cẩn thận với những ǵ Ông nói. Những ǵ Ông nói sau nầy không thích ứng với những ǵ Ông đă nói trước. Những ǵ Ông nói trước không đúng với những ǵ Ông nói sau.
"Bây giờ, nầy Aggivessana, Ông nghĩ như thế nào? Ông đă nói rằng thọ là tự ngă của Ông, vậy Ông có thể sai bảo chăng cái tự ngă ấy, 'Thọ nầy hăy như vầy, thọ nầy hăy không như thế kia, đúng theo như ư Ông muốn không?"
"Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát."
Đức Thế Tôn nêu lên những câu hỏi tương tợ về tưởng, hành, thức và mỗi lần trước khi hỏi Ngài cũng nhắc chừng Saccaka nên thận trọng không nói ngược với ư ḿnh. Mỗi lần Saccaka trả lời tương tợ, rằng đối với tất cả năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, ta không có quyền năng kiểm soát uẩn nào.
Rồi Đức Phật hỏi, vậy sắc là thường c̣n hay vô thường. "Bạch Ngài, là vô thường". "Cái ǵ không thường c̣n, cái đó là khổ hay lạc?" "Bạch Ngài, là khổ", Saccaka trả lời. "Vậy, cái ǵ là vô thường, khổ và phải luôn luôn biến đổi, có thích ứng không nếu ta xem đó, 'cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngă của tôi'?" "Bạch Ngài, không", ông trả lời. Đức Phật nêu lên cùng một câu hỏi về thọ, tưởng, hành, thức, và Saccaka trả lời tương tợ.
Rồi Đức Thế Tôn hỏi thêm: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ sau về điều nầy? Người nọ khư khư chấp thủ những uẩn vốn gây đau khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại, tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngă của tôi'; con người có quan kiến như vậy có thế nào hiểu biết thật sự và thấu đáo đau khổ là ǵ và có thể chấm dứt đau khổ không?" Câu hỏi nầy quả thật thâm sâu: nếu người kia biết rằng các sắc uẩn và danh uẩn ấy là đau khổ mà vẫn thỏa thích hưởng thụ trong sắc pháp và danh pháp phát hiện nơi sáu cửa giác quan và nghĩ rằng, "đây là tôi, đây là của tôi, đây là tự ngă của tôi". Người ấy có thế nào chấm dứt đau khổ không? Có thể nào người ấy loại trừ đau khổ không?
Saccaka trả lời theo câu hỏi: "Bạch Ngài Gotama, người ấy làm thế nào hiểu được chân lư về sự đau khổ hay chân lư về sự chấm dứt đau khổ? Bạch Ngài, không thể được."
"Trong trường hợp nầy," Đức Thế Tôn hỏi, "Có phải không ông là người chấp thủ những uẩn đau khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại, là người tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngă của tôi'?" Saccaka trả lời, "Bạch Ngài, chính tôi là con người như vậy. Làm sao tôi có thể khác?"
Đạo sĩ Saccaka rất hănh diện với niềm tin chắc vào tự ngă của ḿnh. Ông rất tự đắc và khoe khoang về điểm nầy, nhưng khi Đức Thế Tôn rọi sáng vấn đề, ông phải chấp nhận rằng quan kiến của ông là sai lầm. Niềm tin vào một cái ta, attavāda, của ông hoàn toàn tan biến. Để đánh một đ̣n cuối cùng vào cái ngă được thổi phồng, tánh kiêu căng và khoe khoang khoác lác của ông Đức Thế Tôn kể một câu chuyện:
"Nầy Aggivessana, thí dụ như có người kia vào rừng muốn chặt một cây có lỏi cứng. Anh thấy một cội cây loại cây chuối và nghĩ rằng cây ấy có lỏi cứng bên trong nên đốn ngă xuống. Rồi anh tỉa ngọn, rong nhánh, chặt phần trên của cây và bắt đầu lột vỏ. Hết lớp nầy đến lớp khác anh không t́m thấy gỗ, nói chi đến lỏi cứng.
"Cùng thế ấy, khi Như Lai nghiên cứu thuyết hữu ngă của Ông th́ thấy nó rỗng không, không có thể chất bên trong. Giữa đám đông trong thành Vesālī Ông khoe khoang rằng: 'không ai có thể tranh luận với ta mà không toát mồ hôi, rung rẩy lập cập; ta chưa từng gặp một đạo sĩ hay Bà La Môn hay bất cứ ai đă tự xưng là A La Hán, bậc toàn giác mà có thể chịu đựng nổi với ta trong cuộc tranh luận, không rung rẩy hay toát mồ hôi dầm dề. Chí đến một cột trụ vô tri vô giác, khi tranh luận với ta cũng phải rung rẩy và ngă xuống đất, nói chi đến con người.' Ông có khoe khoang như thế không, Aggivessana! Điều xảy ra là vài giọt mồ hôi từ trên lông nheo Ông đă nhỏ xuống y ngoại và rơi xuống đất. C̣n Như Lai th́ không có giọt mồ hôi nào trong ḿnh." Đức Thế Tôn nói vậy và vén y cho mọi người thấy một phần thân ḿnh khô ráo không có một giọt mồ hôi.
Đạo sĩ Saccaka không c̣n ǵ để trả lời, lúng túng và bất ngờ, hai vai sụ xuống và cúi đầu ngồi lặng thinh. Rồi một người trong nhóm tùy tùng của ông, một hoàng tử ḍng Licchavi tên Dummukha đứng dậy xin Đức Thế Tôn cho phép ông nêu lên một thí dụ. Khi được Đức Phật cho phép, Dummukha, vị Hoàng Tử ḍng Licchavi bạch, "Bạch Ngài, gần thành phố có một vũng nước, và trong vũng nước ấy có một con cua đang sống. Trẻ con từ trong thành ra đó đùa nghịch bắt con cua bỏ trên đất liền. Cua quờ quạng quơ càng que vung vẩy. Mỗi lần con cua dở càng hay que lên th́ trẻ con lấy cây đập. Một hồi càng que xơ xác, con cua không thể chạy trở xuống vũng nước. Cùng thế ấy Bạch Ngài, Ngài đă bẻ gảy gai góc và những mũi nhọn của tà kiến, đă tiêu diệt mục trường, băi cỏ sinh sống và những tác động của tà kiến. Giờ đây Saccaka không c̣n ǵ để tranh luận với Ngài."
Trong khi Dummukha, hoàng tử ḍng Licchavi tŕnh bày với Đức Thế Tôn th́ các vị khác cũng nóng ḷng chờ đợi tới phiên ḿnh để nói lên về Saccaka với những câu chuyện thí dụ khác. Thấy t́nh h́nh diễn tiến không mấy tốt đẹp, người nầy đến người kia sẽ chồng chất những điều sĩ nhục trên vai ông, Saccaka quyết định ngăn chận Dummukha lại, không để nói thêm: "Hăy ngưng lại Dummukha, chúng ta đang thảo luận với Đức Gotama chớ không phải với Ông." Rồi ông bạch với Đức Thế Tôn, "Bạch Ngài Gotama, hăy để yên như vậy, tôi muốn chấm dứt nơi đây những ǵ tôi nói và những ǵ người khác nói. Đó là những câu chuyện bâng quơ, không ư nghĩa quan trọng." Rồi ông bạch hỏi Đức Thế Tôn: Trong Phật Giáo phải thực hành thế nào để tiến đạt đến mức có thể chế ngự hoài nghi và có đức tin vững chắc không lay chuyển. Đức Thế Tôn dạy ông rằng ta phải hành thiền cho đến giai đoạn có thể thấy với tuệ minh sát và Đạo tuệ, rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà người đời thường khái niệm sai lầm là "của ta", "ta", "tự ngă của ta" trong thực tế không phải "của ta", "không là ta", "không là tự ngă của ta".
Saccaka cũng muốn biết thực hành như thế nào để trở thành một vị Arahat, A La Hán.
Đức Phật dạy:
"Sau khi chứng ngộ rằng sắc uẩn và danh uẩn không phải "của ta", không phải là "ta", không phải là "tự ngă của ta", ta phải tiếp tục thực hành cho đến khi hoàn toàn buông xả, không mảy may bám níu và luyến ái."
Cuộc biện luận giữa Saccaka và Đức Thế Tôn cho thấy loại tà kiến chủ trương rằng tất cả năm uẩn là tự ngă và những người chấp thủ thuyết hữu ngă lúc nào cũng xem thường những người tin lư vô ngă mà họ xem là thấp kém.
Một loại tà kiến khác chủ trương rằng chỉ có một uẩn là tự ngă. Hiển nhiên đó là trường hợp chấp thủ tự ngă của Sāti, được tŕnh bày ở chương IV và cũng là chấp thủ vedaka attā và chấp thủ kāraka attā.
Biện Luận Về Một Tự Ngă Độc Lập
Trong thời hiện đại c̣n có xuất hiện một thứ chấp ngă khác, bám níu vào một cái ta. Như đă được đề cập đến trong các sách Triết Học Ấn Độ, loại chấp thủ tự ngă mới mẻ nầy không nhắc đến năm uẩn và khẳng định rằng có tự ngă hiện hữu hoàn toàn ngoài năm uẩn.
Đây chỉ là một ư kiến, và ư kiến nầy nên được loại bỏ bởi v́ không có năm uẩn ắt không thể có tự ngă. Hăy b́nh tâm suy nghĩ: nếu không có sắc pháp ta không thể kinh nghiệm tự ngă dưới một h́nh thể hay thể chất nào. Nếu danh pháp vẫn hiện hữu, có thể có sự bám níu vào danh pháp ấy giống như người thế gian (puthujjana, người chưa giác ngộ) luyến ái cảnh giới vô sắc. Nhưng không có danh pháp th́ không có ǵ để chấp là tự ngă. Nếu không có thọ ắt không có chấp thủ thọ lạc hay thọ khổ. Trong trường hợp không có tưởng, ắt không thể có luyến ái khởi sanh nhận ra hay hồi nhớ. Không có thức, không thể hay biết ǵ, và nếu không có hành như ư muốn làm (tác ư), ắt tự ngă không thể hành động ǵ được. Do đó một tự ngă như thế đó chỉ hiện hữu trong danh nghĩa, không thể có tác dụng và ta cũng không thể mô tả. Vậy, mặc dầu họ khẳng định rằng cái ta của họ hiện hữu ngoài năm uẩn nhưng hiển nhiên họ vẫn chấp thủ vào một, hay tất cả năm uẩn. Không thể chấp vào một cái ta riêng rẽ hiện hữu ngoài năm uẩn.
Như vậy trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngă Tướng, ta thấy những chữ, "sắc không phải tự ngă; thọ không phải tự ngă; tưởng không phải tự ngă; hành không phải tự ngă; thức không phải tự ngă" hoàn toàn loại bỏ và biện bác tất cả mọi h́nh thức chấp ngă, dầu xem cái ngă ấy nằm ngoài năm uẩn hay nằm bên trong một, hai, ba, bốn hay tất cả năm uẩn.
Nếu chấp sắc uẩn là tự ngă th́ bốn uẩn c̣n lại là những thành phần, là đặc tính và sự nâng đỡ của cái ngă ấy và như vậy cũng là chấp ngă. Nếu chấp một trong bốn uẩn kia, như thọ uẩn chẳng hạn, là tự ngă, th́ bốn uẩn c̣n lại cũng được xem như thành phần, là đặc tính và sự nâng đỡ của cái ngă ấy. Tuyên ngôn "sắc pháp không phải là tự ngă" biện bác loại trừ tất cả những loại chấp ngă ấy.
Đức Thế Tôn đă giải thích đầy đủ về lư vô ngă nhưng để giải rơ thêm, Ngài dựa trên hai đặc tướng vô thường, khổ, và dạy:
Taṁ kiṁ maññatha bhikkhave rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama eso hamasmi eso me attāti. No h'etam Bhante.
"Nầy chư Tỳ Khưu, các con nghĩ thế nào? H́nh sắc là thường c̣n hay vô thường?"
"Bạch Đức Thế Tôn, là vô thường."
Đức Thế Tôn hỏi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu h́nh sắc có là thường c̣n hay không? Bạch Ngài, "Nó không thường c̣n". Câu trả lời nầy có thể được nói lên do một người thường, người có kiến thức nhờ nghe ai khác dạy, nhưng Đức Thế Tôn muốn một câu trả lời dựa trên tuệ giác mà chính người trả lời đă chứng nghiệm, và trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, tất cả đều đă chứng ngộ Đạo Quả Tu Đà Huờn, tức đă tự ḿnh chứng nghiệm chân lư. Câu trả lời của các vị nầy dựa trên tuệ giác của chính bản thân ḿnh. Đó là ư muốn của Đức Phật.
Quư vị hành giả trong thiền viện đây cũng có thể trả lời câu hỏi nầy dựa trên kiến thức bản thân của ḿnh. Khi niệm "phồng", hành giả nhận thức rơ ràng hiện tượng giăn ra, ép lên, và di chuyển của bụng. Những hiện tượng giăn ra, ép lên và cử động là sự biểu hiện của nguyên tố gió (vāyo dhātu). Trước đó không có những hiện tượng ấy; nó trở nên hiển hiện khi bụng bắt đầu phồng lên. Như vậy đó là sự sanh khởi, rồi trở thành, của hiện tượng. Di động phồng lên của bụng là sự bắt đầu sanh khởi của hiện tượng được hành giả thận trọng quán sát và ghi nhận. Khi di động phồng lên chấm dứt, những hiện tượng giăn ra, ép lên và di động của bụng không c̣n nữa. Ta nói là nó ngưng lại, tan biến, chấm dứt, diệt. Như vậy khi quán niệm di động phồng lên của bụng người hành thiền cũng nhận thức trạng thái sanh khởi rồi hoại diệt, tan biến. Hiện tượng tan biến tiếp liền theo sự sanh khởi và trở thành nầy chắc chắn là đặc tướng của vô thường: sanh, trụ, diệt.
Chứng nghiệm đặc tướng vô thường trong khi niệm phồng xẹp ở bụng là thật sự minh sát bản chất vô thường aniccānupassanā ñāṇa. Tuệ giác hiểu biết đặc tướng vô thường phát sanh do quán niệm trạng thái khởi sanh và hoại diệt là sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, mức đầu của một loạt mười tuệ giác phát triển do thiền Minh Sát. Sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, chỉ nhận thức trạng thái khởi sanh và hoại diệt của những hiện tượng tâm vật lư mà chưa tri giác đầy đủ những chi tiết vi tế ở khoảng giữa. Đây chỉ là kiến thức thâu thập nhờ thấy được hiện tượng trở thành và tan biến của những tiến tŕnh liên tục tiếp diễn, ngay vào lúc nó khởi sanh.
Khi niệm phồng lên ở bụng, hành giả nhận thấy bụng bắt đầu phồng lên và chấm dứt. Hiểu biết sự khởi sanh của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự trở thành, hiểu biết sự chấm dứt của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự tan biến. Thấy rơ trạng thái trụ và diệt của mỗi di động phồng lên không thể có khái niệm lầm lạc rằng đó là thường c̣n.
Khi niệm bụng xẹp, hành giả nhận thấy rơ ràng trạng thái thâu rút xẹp xuống của bụng. Đó là sự di động của nguyên tố gió (vāyo dhātu). Thấy trạng thái khởi đầu và chấm dứt của di động xẹp xuống ở bụng là thấy nguyên tố gió. Khi bụng phồng lên th́ không có di động xẹp xuống của bụng; chỉ đến lúc di động phồng lên chấm dứt h́nh sắc xẹp xuống của bụng mới bắt đầu hiện khởi. Rồi cuối cùng h́nh sắc xẹp xuống cũng tan biến. Đó cũng là vô thường.
Đặc Tướng Vô Thường
Anicca khayaṭṭhena: một điều kiện là vô thường bởi v́ bản chất của nó là đi đến chấm dứt. Theo định nghĩa nầy, trạng thái xẹp xuống của bụng, biểu hiện qua di động thâu rút xẹp xuống đến cùng, chấm dứt không xuống nữa. Như vậy di động ấy là vô thường. Một Chú Giải khác định nghĩa hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành hiện hữu và rồi tan biến, như vậy là vô thường.
Trong khi niệm, "xẹp, xẹp" và hay biết di động xẹp xuống của bụng từ lúc đầu đến lúc chấm dứt, hành giả chứng nghiệm bản chất vô thường của nó. Đó là thật sự thấu hiểu bản chất vô thường (aniccānupassanā ñāṇa) ở mức độ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, nhận thấy trạng thái khởi sanh và chấm dứt của những tiến tŕnh liên tục, ngay vào lúc nó xảy diễn. Đến mức độ udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, hành giả có thể phân biệt rơ ràng ba, bốn hay năm chặng khởi sanh và chấm dứt của hiện tượng trong khoảng thời gian bụng phồng lên và xẹp xuống. Khi tiến đạt đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, hành giả có thể phân biệt nhiều chặng chấm dứt rất nhanh chóng trong một di động phồng lên và xẹp xuống. Sắc pháp phồng lên và xẹp xuống của bụng ở trong trạng thái chấm dứt quả thật là vô thường.
Khi co tay vào hay duỗi tay ra, thận trọng quán niệm, "co vào, co vào" hay "duỗi ra, duỗi ra" và rơ ràng nhận thấy mỗi cử động từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt. Thấy được như vậy là nhờ tiến tŕnh di động được thận trọng ghi nhận. Người thiếu niệm ắt không thể hay biết cử động co tay vào hay duỗi tay ra của ḿnh. Hay dù có hay biết đi nữa người ấy không phân biệt rơ ràng lúc bắt đầu cử động đến lúc chấm dứt. Người ấy sẽ có cảm tưởng rằng cái tay ở đó trước khi co vào hay duỗi ra sẽ c̣n đó sau khi cử động. Khi co tay vào hay duỗi tay ra hành giả thấy có di động chậm chạp của tay ḿnh từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc kế tiếp. Trong mỗi trường hợp co vào hay duỗi ra, lúc bắt đầu duỗi ra và di động là bắt đầu có sự hiện hữu của nguyên tố gió (vāyo dhātu), và khi chấm dứt cử động duỗi ra và di động là sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Khi niệm co vào, hiểu biết sự khởi đầu và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Cùng thế ấy, khi niệm duỗi ra và hiểu biết rơ ràng sự bắt đầu và sự chấm dứt của mỗi cử động duỗi ra là hiểu biết sự phát sanh và chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Trong khoảng thời gian của một cử động co vào hay duỗi ra, hiểu biết những di động chậm chạp khác nhau từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc khác cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo), có đặc tính là giăn ra và di động. Sự di động từ từ của cánh tay biểu lộ hiển nhiên bản chất vô thường. Tuy nhiên, không thể chứng nghiệm chân lư nầy nếu không thận trọng quán niệm.
Trong khi đi, hành giả niệm "mặt, trái", hiểu biết lúc khởi đầu và lúc chấm dứt của mỗi bước. Đó là hiểu biết sự khởi sanh và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo) vốn có đặc tính làm duỗi chân ra và di động bước tới. Cùng thế ấy hành giả quán niệm cử động của chân lúc dở lên, đưa tới và đạp xuống, hiểu biết rành rẽ lúc tác động bước tới bắt đầu và lúc chấm dứt. Đó cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo). Hiểu biết di động từ từ của chân trong mỗi bước cũng là hiểu biết trạng thái sanh và diệt của nguyên tố gió (vāyo). Như vậy nguyên tố gió, vốn có nhiệm vụ đưa cái chân bước tới, cũng khởi phát và chấm dứt trong mỗi bước và do đó, là vô thường.
Khi niệm cảm giác (thọ) xúc chạm ở bất luận nơi đâu trong thân, hiểu biết sự khởi sanh và chấm dứt của cảm giác đụng là hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong xúc giác.
Hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong chính thân ḿnh và vật ḿnh chạm đến. Hành giả chứng nghiệm rằng cảm giác đụng chạm của cơ thể vật chất cũng không ổn định mà vô thường, bởi v́ luôn luôn sanh diệt trong mỗi niệm.
Khi niệm "nghe, nghe" hành giả ghi nhận rằng tiếng động vừa khởi sanh đă nhanh chóng tan biến. Đó là hiểu biết trạng thái sanh diệt của âm thanh. Như vậy mỗi tiếng động đều là vô thường. Cùng với sắc pháp của tiếng động, sắc pháp (phần nhạy) của lỗ tai mà tiếng động chạm đến cũng sanh khởi và nhanh chóng hoại diệt. Như vậy có thể nói rằng một khi nhận ra sự khởi sanh và hoại diệt của âm thanh cũng hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp (phần nhạy) trong lỗ tai. Như vậy hành giả cũng hiểu biết bản chất vô thường của tai.
Tiếng hú của nhà máy xay lúa hay tiếng sủa của con chó, ta thường nghĩ là kéo dài, nhưng đối với vị hành giả mà tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đă phát triển mạnh mẽ, những âm thanh ấy phát hiện từng loạt những khoảnh khắc vi tế, từng chặng, từng giai đoạn, tiếng nầy rồi đến tiếng kia. Hành giả chứng nghiệm rằng sắc pháp của âm thanh cũng phát khởi và hoại diệt rất nhanh chóng.
Cùng thế ấy trong khi niệm "thấy, thấy", nếu tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đă phát triển đến mức cao độ, vị hành giả cũng chứng nghiệm rằng nhăn thức và sự thấy cũng nhanh chóng khởi sanh và tan biến. H́nh sắc được thấy, vốn khởi sanh và hoại diệt, cũng không thường c̣n. Sắc pháp (phần nhạy) của mắt, vốn đồng thời phát sanh và hoại diệt với h́nh sắc được thấy cũng là vô thường.
Trong khi ăn, hành giả ghi nhận vị của thức ăn và hiểu biết khi vị ấy tan biến. Vị vừa khởi sanh đă nhanh chóng chấm dứt, quả thật là vô thường. Bản chất vô thường của vị rất rơ ràng. Vị ngon ngọt của thức ăn chỉ lưu lại ở lưỡi trong một thời gian ngắn và mau lẹ biến tan. Cùng với vị, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cùng lúc cũng tan biến. Như vậy khi vị được nhận ra là vô thường, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cũng được nhận thức là vô thường.
Vị hành giả liên tục quán niệm mùi hương hiểu biết rằng mùi liên tục khởi phát và tan biến, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc. Mùi khởi sanh và nhanh chóng tan biến, quả thật là vô thường, và phần nhạy của mũi cũng đồng thời nhanh chóng phát sanh và hoại diệt.
Trong lúc niệm phồng xẹp ở bụng có những tư tưởng hiện khởi, hành giả phải thận trọng ghi nhận, và sẽ nhận thấy rằng vừa lúc niệm đến là suy tư ấy nhanh chóng biến tan. Mỗi khi suy tư tan biến th́ sắc pháp (ư căn) làm nền tảng cho suy tư ấy cũng tan biến. Ư căn cùng khởi sanh và tan biến với mỗi suy tư không tồn tại lâu dài, cũng là vô thường.
Những sắc pháp được đề cập ở phần trên, chính hành giả tự bản thân chứng nghiệm là vô thường, bằng cách liên tục ghi nhận những hiện tượng của ngũ uẩn. Những sắc pháp ấy liên hệ đến toàn thể châu thân, luôn luôn sanh rồi diệt, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc, khi thấy, khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư. Giống như sắc pháp bên trong thân ḿnh, sắc pháp trong thân những người khác cũng vậy, cũng đồng thời khởi sanh và tan biến.
Thí dụ như khi ghi nhận âm thanh, "nghe, nghe", sắc pháp, hay phần nhạy của tai, cũng tức th́ hoại diệt. Sắc pháp của những người khác trên thế giới cũng sanh diệt cùng thế ấy.
Do đó Đức Thế Tôn hỏi, "h́nh sắc là thường c̣n hay vô thường?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu đă tự bản thân chứng nghiệm bản chất vô thường của sắc uẩn trả lời, "Bạch Ngài, sắc là vô thường".
Đó là những câu hỏi về đặc tướng vô thường. Khi thấu hiểu tận tường đặc tướng vô thường th́ cũng hiểu biết dễ dàng hai đặc tướng khổ và vô ngă. Vô thường có nghĩa là không thường c̣n, không tồn tại lâu dài. Bản Chú Giải định nghĩa là hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành, rồi liền chấm dứt. Đó là những đặc tính của vô thường. Mọi người đều có trông thấy tia chớp khi trời sấm sét. Trước đó không hiện hữu, bỗng nhiên nhoáng lên trở thành, rồi tức khắc tan biến. Hiện tượng tia chớp có đủ tất cả những đặc tính của lư vô thường. Cái ǵ không hiện hữu bỗng nhiên khởi phát rồi nhanh chóng tan biến là có những đặc tính của trạng thái vô thường.
Vị hành giả đă liên tục quán sát tiến tŕnh hay biết, trông thấy sự vật khởi sanh và chấm dứt. Chỉ khi nào vị ấy thấu đạt tuệ giác, chính tự ḿnh hiểu biết đặc tướng vô thường aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thật sự mới phát triển. Trông thấy trạng thái tan biến, vị hành giả hiểu biết rằng đó là vô thường. Sự hiểu biết nầy là aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng vô thường. Nhằm giúp phát triển tuệ giác nầy Đức Thế Tôn hỏi, "Sắc pháp là thường c̣n hay vô thường?"
Sư đă đề cập đến vấn đề vô thường một cách đầy đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng đau khổ.
"Cái ǵ là vô thường, cái ấy là bất toại nguyện hay vừa ḷng?"
Đức Thế Tôn nêu lên câu hỏi.
Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, là bất toại nguyện."
Hai Loại Đau Khổ (Dukkha)
Có hai loại dukkha, đau khổ. Loại đầu tiên là trạng thái khó chịu đựng, đau khổ. Loại nầy là dukkha, đau khổ, bởi v́ nó có tánh cách áp bức, ray rứt. Trạng thái luôn luôn chuyển biến, không ngừng sanh diệt, không phải là loại đau khổ nầy, mà thuộc về loại đau khổ thứ nh́, đúng theo định nghĩa của Bản Chú Giải: "Là đau khổ bởi v́ nó đáng sợ". Hiện tượng không ngừng sanh diệt quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ, hay để dùng một danh từ của người Miến Điện, nó "không tốt". Câu hỏi, "Cái ǵ vô thường là đau khổ hay hạnh phúc, dukkha hay sukha?" cũng giống như hỏi "là xấu hay tốt?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời, "Là đau khổ, dukkha". Hay trong ngôn ngữ của người Miến, đó là "không tốt".
Lư do nó là dukkha, không tốt, là v́ luôn luôn sanh và diệt, và như vậy là đáng kinh sợ. Người ta tưởng tượng sự vật là sukha, tốt, v́ sự vật có vẽ như tồn tại lâu dài và ổn định. Khi nhận ra rằng trong thực tế sự vật không tồn tại lâu dài mà chỉ trong khoảnh khắc và không ngừng tan biến, th́ không c̣n thấy ǵ sukha, tốt, trong đó.
Để sống, chúng ta tùy thuộc nơi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn lúc nào cũng không ngừng tan biến. Nếu vào một khoảnh khắc nào mà ngũ uẩn không biến chuyển đổi mới, ắt chúng ta chết. Đó là điều đáng kinh sợ. Cũng giống như ta đang sống trong một ngôi nhà quá cũ, đă hư nát và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Trường hợp một ngôi nhà cũ th́ c̣n có thể hy vọng nó kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm mới sập, nhưng danh uẩn và sắc uẩn bên trong thân ta th́ không thể tồn tại, dầu trong một giây. Nó không ngừng tan biến và như thế quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ hơn là ở trong nhà cũ.
Do đó ta nói rằng nó là dukkha, đau khổ.
Đặc tính của dukkha là ǵ? Theo Bản Chú Giải, abhiṇha sampaṭipīḷanakara dukkha lakkhaṇaṁ: Luôn luôn, áp bức, không ngừng cưỡng chế, là dấu hiệu của dukkha. Nơi đây luôn luôn áp bức, không ngừng cưỡng chế, hàm ư là trạng thái luôn luôn sanh và diệt của danh uẩn và sắc uẩn. Như vậy, tất cả danh uẩn và sắc uẩn đều được xem là dukkha, những sự vật "không tốt".
Tự bản thân ḿnh kinh nghiệm, thấy dấu hiệu của dukkha và nhận thức rằng sự vật là đáng sợ, đau khổ, "không tốt", không đáng tin cậy, là thật sự minh sát đặc tướng bất toại nguyện của sự vật, dukkhānupassanā ñāṇa.
Phát Triển Tuệ Minh Sát Thấu Hiểu Đặc Tướng Khổ
Trong khi quán niệm danh pháp và sắc pháp, hành giả nhận thấy hiện tượng sanh diệt liên tục diễn tiến trong di động phồng lên và xẹp xuống ở bụng, trong tác động co vào, duỗi ra của tay, hay dở lên, bước tới và đạp xuống của chân. Hành giả cũng thấy trạng thái khởi sanh và tan biến liên tục diễn tiến mỗi khi niệm đụng, nghe, thấy và nếm. Vị ấy bắt đầu cảm nhận sự áp bức khó chịu trong những tiến tŕnh sanh và diệt liên tục, và thấy cái chết có thể xảy đến bất luận lúc nào, thấy ḿnh luôn luôn bị áp bức khó chịu, như vậy là đáng kinh sợ. Đó thật sự là tuệ minh sát về đặc tướng khổ của sự vật dukkhānupassanā ñāṇa.
Nhằm giúp phát triển tuệ giác nầy, Đức Thế Tôn hỏi, "Cái ǵ vô thường là khổ hay lạc, dukkha hay sukha?" Trong đoạn tuyên ngôn, "Sắc, tức thân nầy, không phải là tự ngă" cũng rơ ràng ghi nhận, "V́ sắc không phải tự ngă nên sắc có chiều hướng gây đau khổ." Do vậy ta thấy rơ ràng rằng sắc là khổ, và năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, là khổ, Dukkha."
Khi đă chỉ rơ rằng sắc là vô thường và khổ Đức Thế Tôn tiếp tục khuyến khích năm vị tỳ khưu không nên xem thân nầy là "của ta", là "chính ta", là "tự ngă của ta".
"Cái ǵ là vô thường, khổ và luôn luôn biến chuyển th́ có thích nghi hay hợp lư không khi xem đó là 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngă của tôi'?"
Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, không thích nghi."
Chấp Thủ Với Tham ái, "Đây Là Của Tôi"
Trong ba h́nh thức chấp ngă, chấp rằng "cái nầy của tôi" là chấp thủ với ḷng tham ái, chấp "đây là tôi" là chấp thủ với tâm ngă mạn, và chấp "đây là tự ngă của tôi" là chấp thủ với tà kiến.
Khi ta cảm nghe thích thú với một vật, dầu vật ấy không phải của ḿnh, th́ đó là ḷng tham ái. Như đi chợ, ta thấy một vật đẹp, phát tâm thỏa thích dường như đă làm chủ vật ấy. Thấy một cái áo, hay một cái quần vừa ư, ta tưởng tượng như mặc nó vào ḿnh, thấy một đôi giày giống như ư ḿnh muốn, ta cũng tưởng tượng như mang nó vào chân. Chúng ta ưa thích đủ chuyện nếu vừa ḷng đẹp dạ dầu là vật vô tri giác hay hữu giác hữu tri trong trí tưởng tượng ta xem như đă là của ḿnh. V́ lẽ ấy Đức Bổn Sư hỏi rằng chấp thủ sự vật vô thường, khổ, phải luôn luôn biến đổi và thỏa thích trong đó, xem đó là "của ta", như vậy th́ có sáng suốt không? Nói cách khác, thích thú trong đau khổ th́ có đúng không?
Những sắc pháp trong thân ta vừa khởi sanh đă liền tan biến, không ngừng sanh diệt. Nếu ta thấy sự vật đúng như thật sự nó là vậy th́ quả thật là kinh hoàng, thật đáng sợ, giống như đang sống trong một ngôi nhà quá cũ kỷ, rách nát, không biết sụp đổ lúc nào. Trong khoảnh khắc hiện tại có thể ta cảm nghe an toàn, nhưng bất cứ lúc nào trong tương lai, tùy thuộc nơi điều kiện và hoàn cảnh, hiểm họa có thể bất ngờ xảy đến. Một khi nhận thức rằng thân nầy rất mỏng manh, không ổn định, không thể tồn tại đến một giây mà không biến đổi, và như vậy là một nguồn đau khổ, th́ làm thế nào ta có thể hoan hỷ thỏa thích với nó? Có ai vui ḷng chọn một người bạn đời sắp bị tàn phế hoặc sắp chết trong vài giờ hay trong vài ngày không? Không ai thật sự hiểu biết điều ǵ sắp xảy diễn mà hoan hỷ thỏa thích trong đó. Cùng thế ấy, vị hành giả đă thấy tiến tŕnh nhanh chóng sanh diệt của ngũ uẩn chỉ thấy kinh hoàng đau khổ trong đó. Cảm nhận như vậy người ấy sẽ không có ư muốn chấp thủ thân nầy là chính ta. Do đó Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời rằng xem thân nầy là "của ta" th́ thật không thích nghi.
Chấp Thủ Với Tâm Ngă Mạn, "Đây là Ta"
Thấy sắc pháp và nghĩ rằng, "đây là Ta" là chấp thủ với tâm ngă mạn. Khi có mắt sáng, tai thính, ta thấy và nghe rơ ràng và lấy làm hănh diện, "Tôi có mắt và tai tốt, tôi xinh đẹp, tôi có giọng nói êm dịu dễ thương, tôi có sức khỏe, tôi mạnh mẽ v.v..." Chấp thủ thân nầy như thế ấy có thích nghi không? Nghĩ rằng những ǵ của ḿnh sẽ tồn tại lâu dài và thường c̣n là khái niệm lầm lạc có chiều hướng tăng trưởng tính ngă mạn. Khi những sắc pháp của mắt, tai và h́nh sắc, những đối tượng của sự thấy, được hiểu biết sai lầm là thường c̣n th́ ḷng tự măn càng tăng cao. Cũng giống như người kia có nhiều vàng bạc và của cải được dấu kín ở một nơi: người ấy rất hănh diện với tài sản dồi dào phong phú của ḿnh, nhưng nếu biết rằng bao nhiêu ṿng vàng đều bị trộm, bao nhiêu tiền của đều mất, th́ cái bong bóng ngă mạn ấy sẽ nổ bụp, xẹp lép. Cùng thế ấy, khi chấp thủ những sắc pháp hiển hiện trước mắt, và được nghe nói đến rơ ràng, th́ người ta nghĩ rằng nó vẫn tồn tại, và rất hănh diện với những sắc pháp ấy. Vị hành giả chuyên cần và nhiệt thành quán niệm sẽ hiểu biết rằng những sắc pháp ấy chỉ khởi sanh để rồi tan biến trong chốc lát th́ không có lư do ǵ để hănh diện với ư nghĩ, "Tôi có mắt sáng", "Tôi xinh đẹp". Nhóm Năm vị Tỳ Khưu được hỏi, Ṅghĩ đến thân nầy 'đây là ta' th́ có thích nghi không?" Câu trả lời là, "Bạch Ngài, không". Bằng cách nêu lên câu hỏi để được trả lời, Đức Thế Tôn muốn rọi sáng cho năm vị tỳ khưu thấy rơ là khi có quan niệm rằng sự vật là thường c̣n bất hoại th́ tính ngă mạn sẽ phát khởi, nếu hiểu biết rằng vạn pháp là vô thường th́ ngă mạn không khởi sanh.
Chấp Thủ Với Tà Kiến, "Đây Là Tự Ngă Của Tôi"
Chấp thủ niềm tin "Đây là tự ngă của tôi" là chấp thủ với tà kiến. Tà kiến nầy được chấp chứa dưỡng nuôi khi có niềm tin rằng các sắc pháp bên trong một người tồn tại lâu dài và con người có thể kiểm soát và điều khiển. Khi có sự hiểu biết rằng những sắc pháp ấy không ổn định thường c̣n mà luôn luôn sanh diệt và đau khổ v́ phải luôn luôn biến chuyển, không thể tồn tại, ắt không có lư do vững chắc nào để bám níu vào thân nầy, xem đó là "ta", là một thực thể sống. Khi người hành thiền hiểu biết rằng ta không thể kiểm soát thân nầy, không thể điều khiển, sai bảo, "Hăy làm phát sanh tất cả những ǵ tốt đẹp, đáng được ưa thích, hăy không để xảy ra những ǵ xấu xa, không đáng được ưa thích, hăy để cho những sắc pháp tốt thường c̣n" th́ không có ǵ cho vị ấy bám níu, chấp thủ là "ta". Do đó, để trả lời câu hỏi, "Xem thân nầy là tự ngă th́ có thích nghi không?" năm vị tỳ khưu đáp, "Bạch Ngài không." Với câu hỏi nầy Đức Thế Tôn rọi sáng rằng khi không thông hiểu rằng sắc pháp nầy sanh diệt trong từng khoảnh khắc th́ có chấp thủ xem đó là tự ngă của ḿnh. Khi đă biết trạng thái vô thường của nó th́ không c̣n chấp ngă. Theo vậy, "trạng thái biến đổi trong từng khoảnh khắc" cũng phải được xem là một đặc tướng của lư vô ngă.
__________________ Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
|