Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 185 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Viết về Tâm Kinh Bát Nhă Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 1 of 11: Đă gửi: 12 January 2006 lúc 8:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

SẮC BẤT DỊ KHÔNG

KHÔNG BẤT DỊ SẮC

SẮC TỨC THỊ KHÔNG
KHÔNG TỨC THỊ SẮC



Sắc (rùpam) là h́nh thể, là thân xác, là cơ thể vật lư, sinh lư, cũng là núi, là sông, là cây, là lá..., cũng là nước, là mây, là đá...

Tóm lại, là mọi thứ có h́nh sắc, dù rắn, lỏng, hay khí và nếu nó là sinh vật, th́ nó được tạo nên bởi “tứ đại” (đất, nước, gió, lửa...) mà tôi cho là người xưa đă nói đến C, H, O, N... những nguyên tố mà do “duyên” ǵ đó đă kết hợp nhau lại để thành những cơ thể sống, từ các proteine, đến vô số sinh vật và con người, và những ǵ nữa không sao biết hết được. Khoa học hiện đại gần đây đă t́m thấy gène của một con vi trùng cũng giống gène cây cải, gène con người, chỉ khác về số lượng, về tỷ lệ và có thể một chút ǵ đó về chất lượng. Mọi con người đều có cấu trúc gène giống nhau đến 99,99%. C̣n chút xíu khác nhau kia có thể làm cho người nọ thành ca sĩ, người kia thành thợ hồ, người này là nhà bác học, người kia là nhà thơ...

Không (synyata) ở đây không phải là “không” trong tiếng Việt (hàm ư trái với có). Không của Tâm Kinh là sự trống rỗng – emptyness - như vũ trụ, như bầu trời không mây, khoảng trống của ngôi nhà, khoảng rỗng bên trong một lọ hoa... Không ở đây chỉ nghĩa là “không có tự tính riêng biệt” (self-existence, propre nature) mà là do duyên hợp của các yếu tố sắc – tâm, tác động qua lại trong “ngủ uẩn” mà tạo ra cái Ta (Ngă). Nói khác đi, cái Ta không có tự tính. Cái Ta do duyên sinh và biến đổi, thay đổi liên tục trong cả thời gian và không gian. Sắc sờ sờ ra đó nhưng sao lại bảo là không (trống rỗng)? Thật ra cái “sắc” tuyệt vời kia dù từ những duyên ǵ đi nữa không biết đă tạo ra cái hiện hữu, tạo ra cô hoa hậu, anh lực sĩ, tạo ra cái ta, thân xác ta, với biết bao nhiêu là điều kỳ thú, đă trải qua biết bao nhiêu là tiến hóa từ con siêu vi sống nhờ, ở đậu, lấy của người làm của ḿnh đến con vi trùng bé xíu biết tự tại, đến loài ḅ sát, cá, ếch nhái, chim và... con người – là không đơn giản và tuyệt vời biết bao! Cá có công chúa cá, ếch có hoàng tử ếch. Cái thân xác kỳ diệu kia không sao nói hết về sinh lư học, cơ thể học, từ một con kư sinh trùng có chung trên thân thể bộ phận sinh dục ”đực – cái” đến loài có vú và con người, có nam có nữ, có t́nh yêu, có khổ đau, có sinh sản, có già, có chết, sao có thể bảo là không? Chính cái “sắc” đó đă tạo ra thọ, ra tưởng, hành, và thức. Không có thân xác th́ lấy đâu mà “tu”, mà “kiến tánh”, mà giác ngộ? Thế nhưng nếu bám lấy cái “sắc”, coi nó là vĩnh cửu... th́ sẽ khổ đau khi thấy tấm thân hoa hậu kia, lực sĩ nọ mà tóc bạc da mồi, mà lưng c̣ng, mắt kém... Sự khổ đau xảy ra v́ thấy cái Ta lớn quá, cái ta riêng biệt quá, vĩ đại quá! Và sợ. Sợ đủ thứ. Sợ đổi thay, sợ chuyển hóa, sợ mất mát. Cô hoa hậu mỗi ngày ngồi trước tấm gương soi và sợ. Một sợi tóc đă rụng đi. Sợ. Một cái mụn mới lồi lên. Sợ. Sợ đủ thứ. Anh lực sĩ cũng vậy. Mà ta cũng vậy. Chỉ có Phật là tủm tỉm cười, có ông c̣n ha hả cười! Nhưng “Trời có nói ǵ đâu!” (Khổng Tử kêu lên như vậy). “Ta có dạy ǵ đâu!” (Phật cũng kêu lên như vậy). Nó vậy. Nó phải vậy. Nó là vậy. Nó dĩ nhiên vậy. Người ta gọi nó là cái Đó, là Như thị. Cái “vậy vậy” mà cũng làm cho ta khổ đau, làm cho ta sợ hăi, lo lắng mất ăn, mất ngủ ư? Mây vẫn xây thành trên bầu trời xanh kia và biến đi rồi xây lại, thương hải biến vi tang điền, nơi này hạn hán th́ nơi kia băo lụt... Cái khổ đau của kiếp người thật vô duyên, không cần thiết và chẳng đi t́m phương thuốc ở đâu cho mệt, v́ đau khổ là do ta tự tạo ra, lo sợ là do ta tự tạo ra th́ cũng phải do chính ta tạo ra an lạc, hạnh phúc, niềm vui. Có người cho rằng Tâm Kinh là một loạt phủ định. Phải nói nó khẳng định mới đúng. Nó tích cực. Nói ra sự thật không dối trá, “chân thật bất hư”. Tâm Kinh c̣n khẳng định “Ba đời Phật – quá khứ, hiện tại, vi lai – ǵ ǵ cũng phải hiểu và hành Bát Nhă, như vậy mới thành Phật được, nghĩa là giác ngộ, là hết sợ hăi, là “vượt thoát sinh tử”. Cho nên ông Phật nào thấy cũng tươi vui, hạnh phúc, có ông c̣n vỗ cái bụng to cười khà khà ! C̣n bà Phật th́ xinh đẹp, dịu dàng, tay cầm lọ nước “cam lồ” sẵn sàng đi cứu khổ cứu nạn khắp nơi! Chỉ có mấy ông La Hán là c̣n vật vă, nhăn nhó, tuy ở gần Phật mà chưa đủ giác ngộ, nên c̣n dằn vặt, trợn mắt, nắm tay... ngồi đứng không yên!

“Sắc bất dị không” Tâm Kinh nói vậy. Nhưng không chỉ vậy. Nói vậy nguy hiểm. Có kẻ hiểu lầm, bỏ đời đi tu hết trơn, hoặc tự tử hoặc rơi vào hư vô chủ nghĩa, sống liều lĩnh, hoặc rơi vào thái độ coi thường thân xác, hành hạ thân xác, đày đọa thân xác coi nó là đồ ăn hại, cái bị thịt, nhơ bẩn, xấu xa, cần tẩy trừ, cần tiêu diệt th́ thật là tai hại!

Không dừng lại ở “Sắc bất dị không”. Tâm Kinh nói ngay vế thứ hai “Không bất dị sắc”. Nói như vậy để người ta không rơi vào hư vô chủ nghĩa, không coi khinh, coi thường cái “sắc”. Bởi v́ thật ra không có sắc th́ cũng không có ǵ cả! Không có tâm không có phật. Cái “chân không” kia, cũng không khác cái có, cái h́nh thể, cái thân xác. Bảo cái núi kia là không, nhưng nó có đó. Nó có đó nhưng mà nó không v́ nó biến chuyển, đổi thay và nó có đó chẳng qua là do một cơn địa chấn, làm vỏ trái đất bị nhăn nhúm lại một chút mà thành. Mà “thấy” được như vậy th́ quả thật, núi đă đẹp hơn quư hơn. Có mà không. Không mà có. “Thấy vậy mà không phải vậy”.

Cho nên phải chăm sóc cái “sắc” một chút. Nó là một cái “không” rất tuyệt vời! Phật đă t́m ra một tư thế ngồi thoải mái làm dễ chịu khắp châu thân, thế ngồi dễ hít thở sâu nên không mệt. Lại c̣n chọn chỗ ngồi dưới gốc cây to vừa tránh nắng vừa có nhiều dưỡng khí. Mỏi th́ nằm trên cỏ nghỉ ngơi. Đói th́ ăn, khát th́ uống. Dĩ nhiên là có vệ sinh, tắm rửa, giặt giũ. Có điều ngay trong lúc vệ sinh, tắm rửa, giặt giũ... cũng biết đang làm việc đó, nghe nó, thưởng thức nó. Nhờ vậy mà cũng giải tất cả stress, lo âu, căng thẳng.

Người ta hỏi Phật : “Vậy chớ mỗi ngày ngài làm ǵ?” Phật mỉm cười: “Mỗi ngày tôi đi lại, ăn uống, tắm giặt...” “Vậy th́ có khác ǵ mọi người đâu?” Phật lại mỉm cười “Có khác chứ. Lúc đi lại, ăn uống, tắm giặt... tôi biết ḿnh đang đi lại, ăn uống, tắm giặt!” Tôi biết nghĩa là tôi ư thức, tôi sống trong nó, sống với nó, sống ở đây và bây giờ, chớ không phải suy nghĩ vẩn vơ để sống trong quá khứ hay trong tương lai mà quên hiện tại. “Sắc” quan trọng lắm. Coi nhẹ sắc là một sai lầm lớn!

Tâm kinh không dừng ở đó, mà c̣n nói thêm:“Sắc tức thị không/ Không tức thị sắc”

Nghe có vẻ như ”lẩm cẩm”. Thực ra, đó lại là một sự khẳng định, xác tín. Không có chuyện phủ định ở đây. Thật vậy,        &n bsp;    “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” là một xác quyết. Không chỉ so sánh: bất dị (không khác) mà c̣n nói “tức thị” (chính là). Điều này thực sự có thể làm choáng váng, nhưng không làm khiếp đảm bởi nó có lư của nó.

Khi các nhà bác học nói: Vật chất “không khác” năng lượng, vật chất “chính là” năng lượng với công thức E=mc2 th́ ta không ngạc nhiên. Nhà sinh học bảo cái cây kia có 70% gène giống gène của chúng ta, con ruồi giấm kia có trên 80% gène giống gène chúng ta và nói cây kia không khác chúng ta, cây kia chính là chúng ta có vẻ cũng có lư phần nào. Bởi v́ trái đất không c̣n cây xanh th́ chúng ta cũng không c̣n tồn tại!

Với mắt trần, ta chỉ nh́n thấy màu trắng của ánh sáng, nhưng qua lăng kính đă tách ra thành 7 màu: đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím. Trộn chúng lại th́ ra màu trắng. Th́ ra trắng là “không”. Cũng không khác cái gọi là “ngũ uẩn”, tách ra th́ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp lại thành Ta (cái Ngă). Ta có mà không. Không có cái màu trắng mà thực ra là có. Cái màu trắng h́nh như bao hàm trong nó tất cả màu sắc cũng như cái chân không bao hàm vạn hữu. Rồi đỏ với vàng thành cam; xanh với đỏ thành tím; vàng với xanh thành xanh lá cây, nên người họa sĩ có thể pha ra hằng trăm màu sắc khác nhau từ cái màu “trắng không hề có mà có” kia vậy!





THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, DIỆC PHỤC NHƯ THỊ



        Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng lại như vậy, nghĩa là cũng như sắc uẩn:



“Thọ bất dị không

Không bất dị thọ

Thọ tức thị không

Không tức thị thọ”



Và cứ như thế cho các uẩn khác, để cuối cùng là “ngũ uẩn giai Không”. Nó giúp xóa đi cái “chấp” lớn nhất, cái chấp làm khổ đau cho cả kiếp người là chấp “ngă”. Hết chấp ngă th́ “tâm vô quái ngại” không c̣n bị cản trở ǵ nữa và nhờ vậy sẽ không c̣n sự sợ hăi nào nữa! Sợ hăi, chứa đựng trong nó một dạng năng lượng mạnh mẽ - cũng như giận dữ ghen tuông, ngờ vực vậy – và v́ là năng lượng ta không thể huỷ diệt nó mà chỉ có thể chuyển hóa nó thành một dạng năng lượng khác. Sợ hăi, giận dữ, âu sầu chứa một năng lượng làm ta suy kiệt, càng nén nó xuống th́ ta càng bị trầm cảm thêm, bị tâm thần nặng thêm lên mà thôi. Nhưng chuyển hóa năng lượng đó cách nào? Các chuyên gia tâm lư khuyên chỉ cần “nh́n thẳng” nó, nhận ra nó, mà không cần phê phán. Bởi v́ phê phán th́ sẽ có cảm xúc, xúc động đi kèm. “Nh́n”, “nhận ra”, “hiểu”, “đối diện”... nó th́ nó sẽ tự biến đổi, chuyển hóa. Thật không dễ! Vậy nên mới phải cần thực tập, rèn luyện dài dài. “Thở” và biết ḿnh đang thở vào ra ( chánh niệm) là một kỹ thuật. Không phải vô lư mà người ta thỉnh một tiếng chuông, người ta lần tràng hạt... với điều kiện là nhớ thở chánh niệm đi kèm!

Sắc bất dị không. Sắc tức thị không... Thọ tưởng hành thức cũng là Không, Không cũng là thọ tưởng hành thức là một cách nói triệt để, nhằm tiến tới cái Một, cái “Bất Nhị”, cái không hai. Người nghệ sĩ có thể trực giác ngay những điều đó mà không cần lư giải: “Tôi là em và em cũng là tôi” (Trịnh Công Sơn).

Tâm Kinh có thể được trực nhận qua trực giác, nhưng nó lại là chỗ “trí tuệ” rốt ráo nhất. Sariputra, Xá lợi tử “là đại đệ tử của Phật, được Phật khen là Trí tuệ đệ nhứt trong các đại đệ tử của Ngài”. Phật đă không giảng Tâm Kinh cho ai khác trong mười đại đệ tử của Ngài, mà chỉ nói cho Xá lợi tử, người trí tuệ bậc nhất là có lư do. Tâm Kinh c̣n gọi là “Diệu pháp trí độ”, một pháp tuyệt diệu dùng trí tuệ để “độ” người!.

Thật vậy, khi “chiếu kiến” được “ngũ uẩn giai không” rồi th́ bản ngă đă tan biến (vô ngă). Không có ngă th́ không c̣n ǵ vướng víu được nữa rồi. Vô ngă rơ ràng là cái thấy tối hậu. Nhưng vô ngă mà vẫn cứ là ngă, cái ngă mới, cái ngă trong vô thường, trong thay đổi, cái ngă do gắn bó, do tương tác ra trăm cái ngă mà thực ra không có cái ngă nào cả, không có ngă nào cả mà thực ra có ngă, chân ngă, thật ngă.

Osho viết đại ư: “Cuộc sống đ̣i hỏi nhiều can đảm. Những kẻ nhút nhát chỉ có tồn tại, họ không sống, bởi toàn bộ cuộc đời họ quay quanh sự sợ hăi... Sợ những điều hiện hữu và cả những điều không hiện hữu. Sợ địa ngục, sợ ma quỷ, sợ thần thánh: kết quả của sự tưởng tượng của họ...”.

Cuộc sống tự nó là nỗi hiểm nguy và sự bất an, sự chuyển động bất tuyệt, và tự nó cũng là nỗi hân hoan, là niềm cực lạc. Thật là tuyệt khi ư thức cuộc sống là vô thường, luôn thay đổi, chuyển động, nó cho phép ta tự do, khám phá, sáng tạo, ngạc nhiên. Người ta được hồn nhiên, trở thành trẻ con, ḥa ḿnh vào cuộc sống thực, không ảo tưởng, không đ̣i nó phải thế này, phải thế khác để rổi tuyệt vọng, thất vọng v́ không được như ư, cũng chẳng khoái ru?.



THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG:

BẤT SANH BẤT DIỆT

BẤT CẤU BẤT TỊNH

BẤT TĂNG BẤT GIẢM



Pháp: (dharma) tiếng gọi chung tất cả sự vật nhỏ lớn, hữu h́nh, vô h́nh, hữu vi, vô vi, chân thật, hư vọng (Đoàn Trung C̣n, Sđd). Nh́n một cách b́nh thường th́ vạn hữu h́nh như có cái thể, cái tánh, cái bản chất riêng của nó, nhưng xét cho kỹ, theo tinh thần của Tâm Kinh Bát nhă th́ nó là không tướng, không có tự tánh riêng biệt. Nói khác đi, “không tướng” mới là thật tướng của vạn hữu.

       “Ngũ uẩn giai không” một khi đă được hiểu thấu đáo, một khi đă được “hành” tới nơi tới chốn, th́ tất cả những phần c̣n lại tự nhiên vỡ ra, như những hệ luận, nhất quán, xuyên suốt. Những câu chữ ở đây sắc gọn, thuyết phục, dẫn dắt từ ư này sang ư khác một cách – nói theo bây giờ - và logic dù không dễ hiểu, nếu chỉ đọc loáng thoáng, hoặc chỉ tụng thuộc ḷng.

“Thị chư pháp không tướng”: tất cả các pháp - sự vật, hiện tượng, sinh vật... – trong cơi đời này tuy là có tướng nhưng thực chỉ là tướng không, mới nh́n có vẻ như có tướng mà nh́n kỹ, nh́n thấu đáo th́ hóa ra “không” (rỗng) tướng v́ nó không tự thân có, nó do duyên sinh, duyên hợp, tương tác mà thành như “ngũ uẩn” kia vẫn vốn là “không”, vậy mà vẫn có ta, có cơ thể này, có đi đứng, có nói năng, buồn vui, sướng khổ. Có tất cả, mà là “rỗng”, “rỗng” mà “lại có”.

Cái mặt trời kia tưởng là nó quay mà nó không quay. Tưởng là nó có mọc (sinh) và có lặn (diệt) vậy mà nó cứ ở y đó, chẳng mọc mà cũng chẳng lặn. Khi nó lặn ở chỗ này th́ ở chỗ kia người ta gọi nó mọc. Nói khác đi, nó ỳ một chỗ. Tưởng nó ỳ một chỗ mà nó lại quay trong thiên hà của nó. Tưởng nó vĩ đại, khổng lồ mà thật ra như hạt cát trong dăi thiên hà. Mà, ngày nay khoa học đă t́m thấy hàng trăm ngàn thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỷ ngôi sao như mặt trời “vĩ đại” của chúng ta. Mặt trăng kia cũng vậy. Chả có trăng non, trăng già, trăng đầy, trăng khuyết ǵ cả! Khi trái đất xoay – và trăng cũng xoay – th́ trái đất che bớt một phần trăng đi, ta có bao nhiêu là hiện tượng: trăng lặn, trăng mọc, trăng đầy, trăng khuyết, nào sinh nào diệt, nào thêm nào bớt. Mà không có ǵ cả! Nó vậy đó. Ngay cả cái “trăng sáng vằng vặc” của nó cũng vậy. Cũng không tự nó. Rồi mây che, rồi mây bay đi. Mây cũng vậy, lang thang vô định, xây thành rồi tan biến rồi lại xây. Mây thành mưa. Mưa thành suối, sông hồ biển cả rồi lại bốc thành mây. Là những giọt nước. Giọt nước lại chỉ là H và O, những nguyên tử, xoắn xít, xoay trở thành đủ thứ. Thủy triều lên bên này là lúc thủy triều xuống bên kia. Ngọn sóng vươn lên, như có một số phận - rồi tan trong nước, lại vươn lên thành sóng, như không động, mà cũng không nghỉ, không có mà cũng không vắng. Một ḥn sỏi, một hạt cát, vỡ tan đi thành bụi, rồi thành năng lượng mà năng lượng th́ không có sinh ra và cũng chẳng mất đi. Ngàn năm trước, không phải là nhà vật lư, Phật cũng nói như vậy bằng trực giác. Một đóa hoa trên bàn viết đă được trồng từ mảnh đất đầy phân. Và đóa hoa thơm tho kia, chẳng mấy chút cũng đă lại trở thành phân. Nhưng đừng nh́n hoa mà chỉ thấy phân! Cũng đừng nh́n phân mà không thấy hoa. Vẫn như có “sắc tướng” mà chỉ là “không tướng”, vẫn như có “thọ tướng”, “tưởng tướng”, “hành tướng”, “thức tướng”, mà thật ra chỉ là “không tướng”. Nhưng v́ sao Tâm Kinh chỉ nói đến 3 đặc tính “sinh diệt, nhơ sạch, thêm bớt” của vạn hữu?

Với đôi mắt, đôi tai của ta, ta được nh́n được nghe chỉ trong một giới hạn nào đó – thí dụ, mắt không nh́n được tia tử ngoại và hồng ngoại, tai không nghe được cao hơn hay thấp hơn một số décibel nào đó – th́ rơ ràng thấy nghe các pháp (sinh vật, hiện tượng, sự vật...) như có một cái “tướng thực” mà không phải vậy như có lúc người ta “thấy” trái đất là vuông, đứng yên một chỗ, thấy mặt trời quay quanh trái đất, có mọc có lặn, thấy mặt trăng có khuyết có tṛn, nói chung thấy các “tướng” của “chư pháp” có sinh có diệt, có thêm có bớt. Nhưng khi con người vượt ra được chính ḿnh - bằng trí huệ - thấy được “ngũ uẩn giai không” – cũng như nhờ khoa học mà thấy được sóng âm thanh, lượng tử của ánh sáng, thấy được trái đất tṛn quay quanh mặt trời, hiểu được nhật thực và nguyệt thực, biết dùng truyền h́nh, radio, điện thoại di động th́ cái “tướng” của vạn phép tưởng là thật kia hóa ra không phải như ta nghĩ tưởng. Khoa học chứng minh và mọi việc sáng tỏ dần, nhờ đó con người cũng đă bớt sợ hăi một số hiện tượng như nhật thực, nguyệt thực, sóng thần, gió mưa sấm sét... bớt đi vai tṛ của các thần linh và từ đó bớt mê tín dị đoan. Vậy người thật sự có “trí tuệ” Bát Nhă thấy được “ngũ uẩn”là “Không” th́ “độ nhất thiết khổ ách” không lạ. Họ hết c̣n lo lắng sợ hăi nữa, họ hiểu rơ sự vô thường, thoát các chướng ngại cản trở và “thoát khỏi ṿng sanh tử”. Không phải là không c̣n sanh tử nữa nhưng họ thoát khỏi sự sợ hăi về cái sống, cái chết, nhờ vậy họ ung dung tự tại, an nhiên vui sống và an nhiên vui chết. Họ biết sống hạnh phúc, an lạc trong hiện tại. Hiện tại th́ không có thời gian . “Sinh và diệt” có thể là một trong những nỗi sợ lớn nhất của kiếp người. Ta từ đâu tới? Ta là ai? Tại sao có ta? Nếu ông ngoại mà không gặp bà ngoại, nếu ông nội mà không gặp bà nội, ba mẹ không gặp nhau th́ ta là ai? Nếu cái trứng rụng t́nh cờ kia của gần nửa triệu cái trứng, không gặp phải một tinh trùng trong hai tỷ tinh trùng ào ào chạy ngược ḍng kia th́ có ta không? Nếu và nếu, hàng triệu cái nếu như vậy đặt ra, và ta là ai? Ta mang cả một gia sản di truyền với hơn 3 tỷ mật mă truyền từ đời này sang đời kia của một ḍng chảy mà ta là một “hạt” trung gian nối kết hai tiến tŕnh? Hay ta là một giọt nước trong đại dương, có lúc dính vào đợt sóng, có lúc gắn vào cơn mưa, có lúc lại róc rách trong ghềnh suối... Sinh diệt là nỗi lo lớn nhất của kiếp người mà các hệ thống triết học không sao giải đáp được, chỉ có thể dùng “tuệ giác” để khẳng định “bất sinh bất diệt” – sinh và diệt là một - chỉ là một sự chuyển hóa năng lượng mà năng lượng th́ luôn được bảo toàn – Nó vậy đó. Để làm ǵ ư? Phật biểu đừng hỏi. Người bị thương cần cứu sống cái đă, cần giảm đau cái. Cho nên nỗi sợ hăi lớn nhất, nỗi khổ lớn nhất phải được phá vỡ trước nhất.

“Nhơ” và “sạch” cũng là nỗi khổ của kiếp người, nỗi lo, nỗi sợ của kiếp người. Nó cũng quấn quít trong ngũ uẩn, từ “tưởng”, từ “thức” dẫn đến “hành”, đến “thọ” chằng chịt, quấn quít nhau và sau cùng tác hại lên “sắc”. Thoát được “nhơ và sạch” th́ giải thoát được những mặc cảm, những dồn nén làm cho con người co rúm lại, thấp bé đi, sợ hăi buồn phiền triền miên. Sợ bị chê, khoái được khen. Rồi mang đủ thứ nhăn hiệu, tên tuổi, bằng cấp, tước vị, c̣n tự tạo ra bao nhiêu là h́nh bóng ảo tưởng, giả tạo để phân biệt, cách ly, kỳ thị. “Bất cấu bất tịnh” (không nhơ cũng không sạch) nhằm triệt tiêu cái đối lập nhị nguyên thứ hai làm khổ kiếp người. “Không nhơ cũng không sạch” c̣n giúp nâng cao ư thức trách nhiệm giữa ta và người, giữa hoàn cảnh và cá nhân, giúp ta có thái độ ḥa đồng, cởi mở, tôn trọng, không úp chụp người khác, không biến người khác thành kẻ thù hay ngục tù của ḿnh – v́ phải sống giả h́nh theo cái nh́n để rồi bị g̣ bó, bị ràng buộc, bị vướng mắc vào cái “tưởng” của tha nhân! . Khi biết “cấu” và “tịnh” chỉ là hai mặt của một sự việc, một con người, của Ma vương và Phật th́ con người được giải thoát, không c̣n bị thành kiến che khuất, không c̣n mong cầu t́m kiếm và nhất là không tự măn, tự ti hay tự tôn.

“Bất tăng bất giảm” (không thêm cũng không bớt) để “đánh” vào nỗi đau, nỗi lo, nỗi khổ khác, quan trọng không kém của con người là ḷng tham! Thủy triều lên bên này th́ thủy triều xuống ở bên kia: khối lượng nước của biển đă không tăng, chẳng giảm. Nhà tỷ phú kia tích cóp th́ con cháu lại phung phí, nhất là đối với những đồng tiền, của cải phi nghĩa. Tăng thêm đất đai, mở rộng biên cương như Alexandre Đại đế, như Thành Các Tư Hăn, như Napoléon, như Hitler... để muôn năm trường trị, nhất thống giang hồ rồi sẽ về đâu? Hết tung đến hoành, hết Xuân Thu lại Chiến Quốc! Ḷng tham của con người thật là vô đáy.

Dĩ nhiên là c̣n nhiều những khái niệm nhị nguyên như đẹp xấu, cao lùn, mập ốm, ghét thương, giàu nghèo... làm cho con người luôn ray rứt, khốn khổ. Nhưng chỉ cần nêu 3 cặp “sinh diệt”, “cấu tịnh” “tăng giảm” là ba cặp gây sóng gió khổ đau nhất cho kiếp người, để giúp giải thoát sợ hăi, âu lo thoát ṿng sanh tử, thoát nẻo thị phi, thoát miền tham đắm cũng đă là đủ.

Tâm Kinh viết “Xá lợi tử! Thị chư pháp không tướng...” cũng như ta gọi, này tôi ơi, các pháp (dharma) đều có tướng không, mới nh́n tưởng là có tướng, tưởng như có tăng có giảm, có nhơ có sạch, có sanh có diệt... mà thực ra không phải vậy. Nh́n bằng tuệ giác th́ thấy rơ rằng các pháp đều là Không (tuy có tướng đó nhưng mà là gỉa tướng, thật tướng là không). Bởi v́ “ngũ uẩn” đă là “Không” th́ sao c̣n các cặp nhị nguyên đối đăi đó, sao c̣n có thị phi, c̣n tranh chấp, c̣n tham đắm, say mê, sầu hận, khổ năo... Và nếu “vượt thoát” được hết những khái niệm đối lập giả tạo đó, phải chăng sẽ đạt tới sự an lạc, thoát khỏi “mọi khổ đau ách nạn”?



THỊ CỐ KHÔNG TRUNG

“VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH THỨC”

VÔ NHĂN NHĨ TỶ THIỆT THÂN Ư

VÔ SẮC THANH HƯƠNG VỊ XÚC PHÁP...”



Vậy th́, trong cái tánh Không (    , sunyata), chẳng có Sắc, có Thọ, chẳng có Tưởng, có Hành, có Thức ǵ cả!

Có một sự lư luận chặt chẽ của Tâm Kinh, dẫn từ “uẩn”, một tập hợp, mà bản chất thực của nó chỉ là duyên sinh, là tương tác, tương hợp, tương tức, nên không uẩn nào có tự tánh riêng biệt, có uẩn này là do có uẩn khác, và ngay Sắc uẩn là h́nh hài vật chất của ta cũng do tứ đại “đất nước gió lửa” tương tác mà thành... th́ các Thọ uẩn, Tưởng uẩn... cũng đều vậy cả, đều là tánh KHÔNG. Và từ tánh Không trống rỗng này dẫn đến “không có” là một logique không xa, như Huệ Năng đă bảo “cổ lai vô nhất vật” là vậy! Trong cái tánh Không đó th́ làm ǵ c̣n có cái gọi là Sắc, là Thọ, là Tưởng, là Hành, là Thức. Ở đây, Không – Vô đă khác với Không - Rỗng nói trên. Vô là “không có”. Có thể thấy Tâm Kinh đă đi từ cái Không đến cái Vô. Để làm ǵ? Để dấn thêm chút nữa, đẩy mạnh thêm chút nữa, phá hủy cho tận cùng những “chấp trước” kể từ chấp tướng, chấp ngă đến chấp pháp, và cả chấp Bồ tát, chấp Phật, cùng vô số những “chấp” khác đă ràng buộc con người, đă làm “quái ngại” con đường giác ngộ của con người, vây chặt lấy con người.

Một khi đă “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” rồi th́ với cái nh́n “trong suốt” đó, cái Không đó, các thứ khác sẽ là không có nữa, không c̣n nữa, không cần nữa, như là một hệ luận tất yếu từ một định đề, do tuệ giác mà thấy, không cần chứng minh hoặc khi khoa học phát triển đến mức nào đó, có thể dần dần sẽ được chứng minh. Như trước đây không ai nghĩ trong một chén nước có vô số vi sinh vật cho măi đến khi khoa học t́m ra kính hiển vi! Sinh sản vô tính chẳng hạn rồi sẽ tạo nên những sinh vật như thế nào trong tương lai ? Với internet th́ trái đất trở nên nhỏ bé lạ lùng, đang quay tít mù khơi trong cơi ta bà! Người ta đă có thể làm dừng ánh sáng và đă t́m thấy có thứ vận tốc c̣n nhanh hơn ánh sáng. Vật lư hiện đại cho thấy vạn vật có tính nhất thể. Vật chất không phải là một đơn vị độc lập mà nằm trong mối liên hệ, phụ thuộc chằng chịt lẫn nhau. Những hạt hạ nguyên tử không ổn định, tự phân hủy thành những hạt khác, không thể biết sẽ mang h́nh dáng phối hợp nào, thời gian tồn tại bao lâu. Hạt vừa là sóng vừa là hạt, một cấu trúc của xác xuất, giữa hiện hữu – phi hiện hữu, giữa có và không. Tại một điểm nó vừa không có mặt vừa không vắng mặt, không di động cũng không yên nghỉ.. Thật là thú vị khi liên hệ đến tứ đại, ngũ uẩn, duyên sinh... mà Phật đă nói. (The Tao of Physics, Fritjof Caprey bản dịch Nguyễn Tường Bách, Nxb Trẻ, 2001)

Từ “ngũ uẩn giai không”, Tâm Kinh dẫn đến những bước xa hơn, nhằm giúp ta “phá chấp”. Mà cái chấp lớn nhất, dai dẳng đeo bám nhất, đó chính là chấp ngă. Chấp vào cái tôi, bám vào cái tôi, khổ đau triền miên v́ cái tôi. Phật hỏi một đệ tử: “Thấy một người chết có buồn không?”. Vị đệ tử trả lời: “C̣n tùy! Kẻ thiện chết, người thân chết th́ buồn. Kẻ ác chết, người lạ chết th́ không!”. Vậy th́ bản thân sự chết không gây buồn khổ mà chỉ v́ cái chết đó có liên quan đến ta, ta mới buồn khổ thôi. Nếu không có cái ta đó – cái ngă đó – th́ mọi sự sẽ trở nên vắng bặt. Vô ngă chính là Niết bàn! Nhưng làm sao vô ngă? Tâm Kinh “độ” cho ta vậy. “Độ” bằng cách nào? Bằng cách “lột bỏ” từ từ những lớp vỏ đă bám víu chặt vào ta, tạo thành cái Ngă lớp lang của ta. Lột như lột bẹ chuối. Người càng trí thức, bản ngă càng to, dày, nhiều lớp, “lột” khó hơn. Có lẽ Tâm Kinh dành cho các đệ tử đă dày công tu luyện, đă học quá nhiều, đă tu quá kỹ mà không ngộ nổi, trái lại c̣n bám víu nhiều hơn, cho nên Phật t́m cách giúp họ.

Chắc Phật có lúc cũng đă phải nổi giận: “Này các ông, các ông t́m cái ǵ đó vậy? T́m ở đâu vậy? Phật nằm ngay trong bản thân các ông đó thôi. Các ông đều là Phật sẽ thành cả đó thôi, miễn là thấy được Phật tánh trong chính ḿnh. Ta có dạy ǵ cho các ông đâu? Nó có sẵn đó rồi mà! Lời dạy của ta, nếu có, chỉ là ngón tay chỉ trăng chớ đâu phải trăng, chỉ là cái bè giúp các ông qua sông, qua sông rồi phải vứt bè đi chớ, sao c̣n vác hoài vậy? Ta biết vậy th́ hồi đó ở nhà làm vua cho nó sướng, tu làm ǵ, rồi khi đắc đạo th́ “nhập Niết bàn” luôn cho rồi, ở lại giúp các ông làm ǵ?” Có lẽ Phật đă nổi giận, rồi bỗng nhiên ngài mỉm cười, ngài thấy ḿnh giận vô lư, v́ họ cũng phải trải qua nhiều cái ngă... khổ đau kia mới đạt tới vô ngă được! Ngài cười, nụ cười thấm đẫm từ bi, thấu cảm, trước một đám đông đang đợi ngài giảng dạy những phép màu, những thần thông. Giải thoát là giải thoát những khổ đau, sợ hăi, làm nặng kiếp sống và an lạc là an lạc trong hiện tại, ở đây và bây giờ. Như vậy cũng đủ tạo nên bao ư nghĩa tích cực cho cuộc sống, biết thương yêu, biết tha thứ, làm giảm đi bao nỗi căng thẳng lo toan giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên và cả với chính bản thân ḿnh!

V́ muốn giúp người - trước hết là giúp họ dọn dẹp, quét sạch, lột sạch những ǵ bám víu họ, cho họ có cái nh́n thoáng hơn, giúp họ xóa tan lớp băng, lớp sương mù đóng chặt trên cửa kiếng tâm hồn th́ họ phải biết tự xóa lấy, chùi lấy tấm kiếng của họ chớ không thể nhờ ai khác. Sẽ có người cải lại: Phật đă giảng dạy trước đây, nào lục căn, nào lục trần, nào thập nhị nhân duyên, nào tứ diệu đế, nào bát chánh đạo...? Đúng là có giảng, nhưng giảng tùy căn cơ, tùy “tŕnh độ” người nghe. Có người phải giảng kiểu này, có người phải giảng kiểu khác. Có tám vạn bốn ngàn pháp môn mà! Cho nên sau khi giảng dạy mấy chục năm Phật bảo: “Ta có giảng dạy ǵ đâu!”. Mà thực vậy, cái ǵ cũng sẵn có đó rồi, nó đă là như thế, không cần bày vẽ chi nữa. Chỉ cần làm sáng nó ra, làm rơ nó ra. Mỗi người đều đă có viên ngọc trong túi áo rồi, chỉ cần lau chùi sạch sẽ. Như Lai chẳng phải là “cái như thế, cái như vậy – cái chân như”, cái “không từ đâu đến mà cũng chẳng đi về đâu” đó ư? Phật ngộ ra điều đó và cười một ḿnh.

Trong cái tánh “Không” đó, tất cả là Vô, hay nói khác đi tất cả là không có! Không có h́nh thể, sắc tướng; không có cảm thọ – không có tưởng, hành, thức ǵ cả. Tóm lại, là vô ngă. Không có cái ta thực mà chỉ có cái ta giả tạm, bọt bèo, cái ta đang ăn uống, nói năng, huênh hoang, tự măn, tự ti, tham lam, sân si, mê đắm... đủ thứ, đủ kiểu. Cái ta giả này làm khổ cái ta thật. Cái ta giả làm Tôn Ngộ Không bị kim cô siết đau muốn chết, c̣n cái ta thật th́ Tôn Ngộ Không đă bay bỗng biến ra vô số những Tôn Ngộ Không khác rồi! Mà đă vô sắc (cái thân xác) th́ đương nhiên sẽ vô nhăn (mắt), vô nhĩ (tai), tỷ (mũi), thiệt (lưỡi), thân (xúc giác), ư (suy tưởng). Toàn thân đă không có lẽ nào có từng thành phần? Nhưng sao không liệt kê thêm vô số những bộ phận khác nữa mà chỉ nói đến 6 “mục” trên, trong đó, 5 cho thân và 1 cho tâm (ư )? Bởi v́ 5 cho thân đó là 5 yếu tố quan trọng, chính là 5 giác quan giúp cho con người tiếp xúc với ngoại giới. Không có 5 giác quan đó con người có thể là gỗ đá, cho nên chỉ cần nói đến 5 giác quan đó: mắt, tai, mũi, lưỡi, da là đủ. Nó là cửa ngơ của tâm hồn. Chính nó làm ta sướng, ta khổ, ta vui, ta buồn, ta đau, ta khoái. Cộng thêm với “ư”,là phần c̣n lại gồm thọ, tưởng, hành, thức trong ngũ uẩn tuy chỉ là 1 trong 5 nhưng là chủ soái, kẻ chỉ huy, đầu năo, bộ óc. Bộ óc mới biết thu thập thông tin, phân tích, phản ứng. Có cả 5 giác quan mà không có bộ óc cũng là không. Sáu thứ đó vốn gọi là “lục căn”, 6 cái căn bản, nguồn gốc của bao nhiêu thứ tuyệt diệu và phiền toái, sung sướng và đau khổ của kiếp người. Muốn giải thoát, phải hiểu nó. Bảo nó không có nhưng nó vẫn có đó, nhưng nó bị giới hạn và nó không vận hành riêng lẻ mà gắn bó tác động chằng chịt lẫn nhau. Mắt chỉ nh́n thấy trong chừng ấy bức sóng ánh sáng, tai trong chừng ấy décibel, mũi trong chừng ấy, lưỡi trong chừng ấy và da cũng trong chừng ấy, trong cái hạn chế, cái cho phép. Có cái ta thua con này, có cái thua con khác. Thua mắt cú, mắt mèo, thua tai dơi, da ếch... Và điều quan trọng cả 5 giác quan tương tác với nhau, không có giác quan nào có tự tánh riêng biệt: thấy sắp bị thọc lét đă cười, nghe nói me chua đă chảy nước miếng... Nói nó không có (vô nhăn, vô nhĩ) v́ nó không tự có, nó tương tác mà có, nó tập hợp mà có và nó bị hạn chế mà có, nên không thể “tin” nó được. Lóa mắt hết nh́n rơ, ù tai hết nghe rơ, nóng quá hết đau, cay quá hết ngọt. Nó lầm lẫn tứ tung. C̣n “ư” th́ ghê gớm hơn nữa, nó mặc sức mà tưởng tượng vẽ vời. Thấy sợi dây thừng tưởng con rắn, sợ toát mồ hôi, ngất xỉu! Năm giác quan cũng như 5 phủ tạng: tâm can tỳ phế thận, không có “thứ” nào có thể “sống” riêng rẻ, tự hoạt động một ḿnh mà không liên quan đến thứ khác. Không có thứ nào “tắt ngấm” mà không làm thứ khác tắt theo. Tim phải có mạch, mạch phải có máu, máu phải có oxygène, phải thải độc qua phổi, phổi phải có máu nuôi, phải có thận thải bă... Tóm lại, chúng quấn quít chằng chịt lấy nhau. Chúng thực không có. Chúng nương nhờ, chúng tương tác mà có, mà hoạt động. Trước thấy nó có, sau thấy nó không có, rồi lại thấy nó có, nhưng đă khác trước. Có mà không. Không mà có là vậy.

Dấn thêm chút nữa: Vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp! Không có h́nh thể (màu sắc), không có tiếng (thanh âm), không có mùi, chẳng có vị, chả có “pháp” ǵ cả! “Sắc thanh, hương, vị, xúc, pháp” là 6 đối tượng (lục trần) cho 6 căn, như mắt đi với sắc, tai đi với tiếng, lưỡi đi với vị, mũi đi với mùi hương... Mắt thấy có xanh, có đỏ, đen, có xấu, có đẹp, nhưng không phải là thực tướng, đă vậy c̣n biện biệt, so sánh, phán đoán, làm cho khổ đau thêm! Sầu riêng người khen thơm, kẻ cho khó ngửi; nước mắm người kêu ngon, kẻ chê hôi! Các cặp nhị nguyên cần được xóa bỏ, và như vậy ta được giải thoát.

“Xóa bỏ” không phải là triệt tiêu! Với cái nh́n mới về căn, về trần, về thức như thế, ta thấy cái thực trong cái giả, cái thường trong vô thường, và đời sẽ đẹp hơn, tốt hơn lên.



C̣n tiếp

__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 2 of 11: Đă gửi: 12 January 2006 lúc 8:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

VÔ NHĂN GIỚI

NẢI CHÍ VÔ Ư THỨC GIỚI



Thấy một bông hồng đẹp làm ta xao xuyến, suưt xoa, khen ngợi rồi thấy bông hồng đó héo tàn ta buồn bă, khổ đau. Thấy là do “nhăn căn” (mắt), gặp phải bông hồng là “trần”, tạo ra cái ư thức biện biệt đẹp xấu trong ta, rồi ta vui sướng, rồi ta buồn bă v́ sự vô thường của bông hồng (thức) c̣n bông hồng th́ vẫn thế, vẫn hồn nhiên thế. Tóm lại “căn” đụng “trần” th́ sinh ra “thức”. Thức đó sẽ “quấy ta” tưng bừng, chớ không phải chỉ “ba cái lăng nhăng nó quấy ta” như Tú Xương nói. Sự vô thường của đóa hồng là dĩ nhiên, là tất yếu, mà ta không biết, nên đă tự đánh lừa ḿnh, tự làm khổ đau ḿnh. Hoa hồng rồi thành phân, phân rồi thành hoa hồng. Hoa có nở th́ có tàn. Hạt có chôn vùi th́ mới nứt ra và nẩy mầm. Nó vậy! Thấy ra cái điều b́nh thường đó mà khó vô vàn! Phá “lục căn”, dễ! Phá “lục trần”, cũng dễ. Phá lục thức mới khó. Nó dày đặc, chằng chịt, tích lũy từ kiến thức, từ kinh nghiệm. Che mắt bịt tai, dễ. Trốn lên núi, lên rừng, dễ. Trốn cái thức mới là khó v́ nó ăn sâu vào tận xương tủy, tận bản ngă ta!

“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” - Trần Nhân Tông nói như thế. Bởi v́ “căn” mà “đụng” trần th́ nảy sinh “thức”: niệm đă dấy lên, tâm dấy lên! Tách căn ra khỏi trần, tách căn - trần ra khỏi thức, phải “tu luyện” dày công! Vô niệm, vô tâm, đă thành “chánh quả! Bởi v́ “Rồi bị thương người ta giữ gươm đao, không muốn chữa, không chịu lành thú độc” (Xuân Diệu). Hay như Trịnh Công Sơn viết: Con tinh yêu thương vô t́nh chợt gọi!...

Từ “nhăn giới” đến “ư thức giới” là đi từ cái thô đến cái tinh tế, từ cái dễ đến cái khó, từ cái thân đến cái tâm. Tất cả gồm 12 xứ và 18 giới. Phân tích để rồi tổng hợp. Dạy để rồi xóa. Khi quên hết th́ lúc đó coi như đă thuộc làu. Phật dạy cho ta “kiếm ư” chớ không chỉ dạy “kiếm chiêu”.

“Ư” rơ ràng c̣n thấp hơn “Thức” một bậc. Ư mới chỉ là cái tư tưởng, cái suy nghĩ ở trong tâm, c̣n thức th́ sâu hơn, là cái kiến giải, biện biệt, được thua, hơn kém, tốt xấu, c̣n mất. Có “ư” chưa hẳn có “thức”. Kẻ “thức” giả thường rất khó mà... thành Phật. Ngay cả cái ư muốn thành Phật cũng đă giữ lại, không để cho ta được giác ngộ! V́ thế mà phải “phá”, phá tận gốc, phá từ căn đến trần đến thức. Hết chấp th́ mới không c̣n bị ràng buộc, quái ngại. Tuy nhiên, căn vẫn có đó, trần vẫn có đó và thức vẫn có đó. Vấn đề là cái thức nào, cái thức khổ đau hay cái thức an lạc, thánh thiện. Bông hồng sẽ đẹp hơn chứ không phải không có bông hồng, hay xóa bỏ bông hồng. Tùy cái “tâm thức” của ta vậy.



VÔ VÔ MINH

DIỆC

VÔ VÔ MINH TẬN



Vô minh là yếu tố đầu tiên của Thập nhị nhân duyên (12 nhân duyên) làm cho con người ta khổ, không giải thoát được, bị “luẩn quẩn” trong những lo âu, phiền muộn, sợ hăi. Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lăo tử. Đó là 12 nhân duyên, gây khổ đau ḷng ṿng, luẩn quẩn. Thương yêu (ái) th́ muốn chiếm giữ (thủ), giành cho được về ḿnh làm của riêng (hữu)... rồi ngu dốt (vô minh) không thấy nó là vô thường (tưởng c̣n trẻ trung xinh đẹp hoài, tưởng của riêng ta hoài không bao giờ thay đổi, nhạt phai!...) đến chừng thấy thay đổi (vô thường) th́ sợ hăi, hốt hoảng. Vô minh là nguồn gốc tất cả những khổ đau đó của kiếp người. Diệt được vô minh là giải thoát (sướng chưa?). Dẹp hết được “thập nhị nhân duyên” là giác ngộ (gọi là duyên giác)! Phật dạy như vậy trong nhiều chục năm trời cho đến khi Phật bắt đầu giảng Tâm Kinh cho Sariputra: “Vô vô minh diệc vô vô minh tận!”. Không có ngu dốt mà cũng không bao giờ hết ngu dốt! Nói khác đi, ngu dốt c̣n dài dài, chả có ǵ làm cho hết ngu dốt được, mà thực ra – thú vị chưa? - cũng chả có ǵ gọi là ngu dốt cả! Ngă c̣n không có huống chi là vô minh!

Vả lại, làm sao biết được ai ngu dốt? Người trí có chắc không ngu? Có chắc hôm nay khôn mà ngày mai cũng c̣n khôn? Có chắc cái ta tưởng là khôn mà thực sự là khôn? Khôn với ai và ngu với ai? “Biết ai rằng dại biết ai khôn” Nguyễn Bỉnh Khiêm đă nói vậy.

Ngu là ngu với ai, ngu cái ǵ, ngu lúc nào, ngu ở đâu? Và khôn cũng vậy. Như đồng tiền có hai mặt, ngu là v́ có khôn, khôn là v́ có ngu. Ngu không khác ǵ khôn. Ngu chính là khôn. Sắc bất dị không. Sắc tức thị không. Và ngược lại.

Trong đời sống có những người tưởng ngu mà hóa khôn, tưởng khôn mà hóa ngu. Phật bỏ ngôi thái tử, bỏ vinh hoa phú quí... ra đi, ai dám bảo không khôn? Tần Thủy Hoàng t́m thuốc trường sanh ai dám bảo không ngu? Bát Nhă là “bất nhị”. Dại khôn là một khái niệm của trí của tưởng, của sự phê phán, đánh giá, dẫn tới kiêu căng, kỳ thị. Xóa bỏ bức tường ngăn cách, ta có nhất nguyên, lúc đó chính là Bát nhă. Vô vô minh diệc vô vô minh tận!



NĂI CHÍ

VÔ LĂO TỬ

DIỆC VÔ LĂO TỬ TẬN



Tâm Kinh bảo “Không có cái già, cái chết mà cũng không bao giờ hết già hết chết!”

Lăo tử nằm trong “thập nhị nhân duyên” nên có chữ “năi chí” (cho đến) để nói đủ cả thập nhị nhân duyên từ vô minh đến lăo tử. Đă không có vô minh th́ làm ǵ có chuyện hết vô minh. Nên cứ c̣n vô minh dài dài. Không cần sợ vô minh. Đừng mong tiêu diệt vô minh! Đừng đi “tu” để mong thành chánh quả v́ c̣n mong là c̣n muốn, c̣n muốn là c̣n sợ, sợ mất, sợ thất, muốn đắc, muốn được, và từ đó cứ c̣n khổ! Lăo tử (già, chết) cũng vậy. Cũng là nỗi lo, nỗi sợ, nỗi khổ của kiếp người. Nhưng có ai mà không già không chết? Phật cũng già, cũng chết. Khổng tử cũng chết. Socrate cũng chết. Có điều Phật chết mà vui. Ngài vẫn luôn an lạc từ lúc giác ngộ cho đến lúc già, lúc chết, v́ không hề có chút lo âu , sợ hăi cái già, cái chết của ḿnh, v́ đă sống tràn đầy trong mỗi phút giây.

Mà v́ biết sống từng phút giây như vậy nên mỗi phút giây của Phật như dài vô tận. Mỗi phút giây đều có ư nghĩa, đều hạnh phúc. Phật nếm trải hạnh phúc quả là nhiều! C̣n ta? Ta mất biết bao thời gian để lo sợ, để mong chờ. Ta hối tiếc cho ngày hôm qua, ta mong đợi những ngày tới tốt đẹp hơn, mà nếu không đạt được ta lại tiếp tục đau khổ. Cho đến khi “nh́n lại ḿnh đời đă xanh rêu” (Trịnh Công Sơn), mới thảng thốt kêu lên “Ta đă làm chi đời ta?” (Vũ Hoàng Chương). Th́ ra ta đă chưa từng sống. Ta chỉ lo buồn cho quá khứ, ta chỉ mong cầu ở tương lai. Hiện tại trôi qua lúc nào không hay. Nếu biết sống trong hiện tại th́ hiện tại sẽ tuyệt vời, sẽ dài dằng dặc. Biết được “lăo tử” là lư đương nhiên th́ ta sẽ trôi trên ḍng nước mà không cần lội ngược ḍng, không cần vội tới đích. Trôi và thưởng thức. Năng lượng dành cho lo sợ đă tiêu tốn nhiều quá, khiến ta lúc nào cũng nơm nớp, lúc nào cũng căng thẳng, hối hả. Hết thành công này tới thành công khác, hết mục tiêu này tới mục tiêu kia. Nó tiêu hủy thời gian sống của ta mà ta không hay! Thực ra ta không sống, ta đợi sống. Và sống th́ khác với đợi sống.

Như đă nói trong mỗi giây, hằng tỷ tế bào trong cơ thể ta chết đi và hằng tỷ tế bào khác được sinh ra. Chừng ba tháng th́ toàn bộ khối lượng máu trong cơ thể ta đă hoàn toàn đổi mới. Nói khác đi ta chết và ta sinh ra, ta “phục sinh” trong mỗi phút giây. Bản thân ta có thể là một “tế bào” của một cái ǵ đó khác, và cả hành tinh ta có thể lại chỉ là một “tế bào” của một cái ǵ đó khác vĩ đại hơn chăng?

“Ngũ uẩn” đă là “không” th́ sao c̣n có lăo, có tử? Vậy mà vẫn cứ lăo, vẫn cứ tử, v́ sắc tức thị không mà không tức thị sắc! Không có cái già cái chết, mà cũng không bao giờ hết già hết chết! V́ trong không, đă không có cái sinh ra nên cũng không có cái mất đi. Có thể chỉ là sự chuyển hóa năng lượng. Mà năng lượng th́ luôn được bảo toàn. Không phải không c̣n chết, không c̣n già nữa, mà là không c̣n sợ hăi cái chết, cái già, không c̣n t́m cách che giấu, chống lại nó. Trái lại vui hưởng nó. Đùa với nó, cười với nó. Các vị thiền sư ngộ được rồi th́ “thoát ṿng sanh tử” thanh thản, an nhiên, tự tại. Không c̣n lo lắng, bứt rứt như Tần Thủy Hoàng đi t́m thuốc trường sanh. Chắc chưa có bữa ăn nào mà vua Tần ăn được ngon, chưa có bữa ngủ nào mà vua Tần ngủ được yên.

Các “nhân duyên” khác cũng vậy. Nào hành, thức, danh sắc, ái, thủ, hữu... đều vậy. Đều không mà đều có. Cho nên một thiền sư Việt Nam viết:

                Có th́ có tự mảy may

Không th́ cả thế gian này cũng không.





VÔ “KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO”



Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo! Chỉ có Phật mới dám... phủ nhận tứ diệu đế như vậy. Bao nhiêu năm Phật giảng dạy Tứ diệu đế, để rồi giờ đây trong Tâm Kinh lại bảo: Chả có cái ǵ là khổ, là tập, là diệt, là đạo cả.

Thật vậy, đă đạt tới cái Không, cái Vô ngă rồi th́ c̣n chỗ nào cho “khổ” nữa v́ khổ cũng là không, khổ - sanh lệnh bảo tử - cũng là vui, khổ cũng không khác ǵ an lạc, khổ có khi c̣n là nguồn gốc của an lạc! Bởi v́ phiền năo cũng là bồ đề, Niết bàn chỉ có ở cơi ta bà đó thôi! Nhưng Tứ diệu đế vẫn là Tứ diệu đế là những chiếc cầu, là những bậc thang. “Phá chấp”, ở đây là phá chấp pháp vẫn là điều cốt lơi. Có lẽ sau nhiều chục năm trời Phật đă dạy bao nhiêu điều để giúp người ta buông bỏ, để t́m đến an lạc, mà người ta lại cứ bám chặt vào những từ ngữ, những ư niệm, những định nghĩa, càng lúc càng chặt, càng cứng ngắt như những khuôn vàng thước ngọc nên đă đến lúc cần phá cho thật rốt ráo những ư niệm đă làm trở ngại con đường giải thoát. Đă không có khổ, sao c̣n có tập? Có diệt? Có đạo? Có chiến lược chiến thuật để diệt khổ?

Bảo rằng BK (Bacille de Kock) là nguyên nhân của bệnh lao không đúng hẳn. Người ta vẫn sống với BK đó chứ, từ bao nhiêu đời rồi. Tại sao nó gây bệnh (khổ) cho người này mà không gây cho người kia? Tại sao các thầy thuốc ở bệnh viện lao ngày đêm gần gũi BK mà không mắc bệnh? Đổ thừa cho BK tội nghiệp nó chứ! Tiêu diệt BK? Đồng ư, nhưng tiêu diệt nó th́ phải đúng cách, nếu không nó biến thể, tạo ra ḍng BK kháng thuốc c̣n nguy hiểm hơn. C̣n sống chung với BK? Dĩ nhiên có thể được, miễn là có sức đề kháng tốt. Đề kháng tự nhiên hoặc đề kháng do chủng ngừa BCG. Người có tu tập cũng giống người được chủng ngừa! “Đối cảnh” mà “vô tâm” được c̣n lo ǵ nữa!

Tứ diệu đế, Bát chánh đạo vẫn là những phương tiện, những biện pháp cần thiết để làm cái bè qua sông. Trong bát chánh đạo, cái nào cũng quan trọng nhưng “chánh niệm” có lẽ là kỹ thuật hàng đầu và thiết yếu – ít ra là ở giai đoạn đầu, khi ta c̣n quá vọng động - đặc biệt cho con người thời đại, mê tốc độ, thích thành công, bị nhiều áp lực, nhiều stress trong đời sống, những kẻ “ở không yên ổn, ngồi không vững vàng” (Kiều, Nguyễn Du). Cho nên không phải vô lư khi Phật ca ngợi người “biết sống một ḿnh”, biết quay về với chính ḿnh. Biết sống hôm nay, ở đây và bây giờ.



VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC



Tâm Kinh “phá chấp” từng bước một, từ thấp đến cao, có vẻ như là phá một cái tháp nhiều tầng từ chấp ngă đến chấp pháp: nào 12 xứ, 18 giới, nào 12 nhân duyên, nào 4 thánh đế... Và cuối cùng là “phá” cả 2 cái c̣n lại: Trí và Đắc. “Trí” là phần quan trọng nhất của “lục độ”, sáu pháp để… thành Bồ tát! Thế nhưng “Trí” lại có vẻ như là một cái vỏ bọc nguy hiểm, càng lúc càng dày, làm cho con sâu trong kén không bung ra được để hóa bướm. Trí c̣n lôi theo nó tính tự cao, tự đại, tự măn. Osho viết: “Có những câu hỏi Phật không trả lời bởi v́ chỉ có thể được kinh nghiệm. Tâm trí bao giờ cũng cố gắng đưa ra câu trả lời lừa phỉnh, giảng giải, dẫn chứng trong kinh sách. Tâm trí luôn vay mượn và tích lũy, tích trữ tri thức! Nếu có thể đi ra ngoài tâm trí, xuyên qua tâm trí và một khoảnh khắc “vô trí” nảy sinh th́ có được câu trả lời”.

Đúng là tri thức làm mờ mắt, làm mụ muội nhận thức trực quan đưa đến chân lư. Thiền là vô trí. Phải trải nghiệm về nó mà không thể lư luận.

Nhưng Phật không hề coi thường trí - miễn là Trí tuệ phải đi với Từ bi! Vấn đề chính là hiểu biết “cách nào” và mang lại lợi lạc ǵ cho chúng sanh, chớ không phải hiểu biết “cái ǵ” để tích lũy cho nhiều kiến thức! Cái ǵ th́ vô số, càng hiểu biết càng thấy dốt. Tích lũy tri thức, “đầu cơ” tri thức, “buôn bán” tri thức là chuyện thường ngày của nếp sống hiện tại. Kẻ càng có tri thức càng dễ vênh váo, kiêu ngạo, có thể thành đạt, nhưng không hẳn là người có hạnh phúc, có an lạc. Trí mà có Tuệ th́ không dừng ở trí, mà vượt qua trí – vô trí – không dừng ở biện biệt, so sánh, tính toan, phân biệt các khái niệm, các phạm trù... nhờ đó mà thấy được tướng không vạn pháp. Nhờ tâm thức đó mà nh́n sự vật, hiện tượng, với con mắt khác: con mắt “Bất Nhị”, không phê phán, không kỳ thị mà vượt qua, vượt lên. Lăo tử tự coi ḿnh là người “ngu muội, đần độn” (ngă ngu nhân… độn độn hề). Đó là người “vô trí”, bậc thánh nhân, người giác ngộ vậy.

Nhưng “Vô đắc” có lẽ mới là “mục tiêu” tối thượng của một ḍng “hành thâm”, mặc dù hành thâm Bát nhă chả có một mục tiêu nào cả.

Không phải vô cớ mà Tâm Kinh đặt Vô Đắc ở cuối đoạn văn chính yếu. Nó là điểm cốt lơi, cũng giống chữ Không ở câu đề, Đắc là nút gút, để giải quyết rốt ráo, được đặt trên đỉnh tháp. Thái tử Tất Đạt Đa, hơn ai hết, bỏ nhà, bỏ vợ con, bỏ vương triều đi tu... lúc đầu cũng là để mong t́m kiếm được cái ǵ đó hơn hẳn cái đang có, chẳng hạn t́m sự trường sinh bất tử hay Niết bàn, ở đó có sự sung sướng hơn, hạnh phúc hơn; hoặc ít ra đi tu cũng để t́m kiếm con đường triệt tiêu nguyên nhân gây ra sự đau khổ của kiếp người. Trong nhiều năm trời, trải qua bao nhiêu sai lầm, ngài mới phát hiện ra một điều thú vị: chả có cái chi để đạt tới cả. Bờ bên này cũng là bờ bên kia. Và có lẽ Phật đă luôn tủm tỉm cười từ lúc đó. Cái hồi bỏ nhà đi t́m đạo, cái hồi tu khổ hạnh, chắc không có cái nụ cười đó bao giờ ! Ngài chỉ cười khi đă “đắc đạo”, nghĩa là phát hiện ra một điều lư thú: Chả có cái chi để đắc cả! Vô đắc! Dĩ nhiên tùy căn cơ từng người, Phật chỉ dẫn bằng những con đường khác nhau, trên mỗi chặng đường tu tập đó đều có chút phần thưởng, nghĩa là có thêm niềm hạnh phúc, an lạc, bớt phiền năo, bớt lo âu, bớt sợ hăi. Cuối cùng Phật bảo: Không có cái ǵ để đắc bởi không có chỗ nào để đắc cả. Nó sẵn có đó rồi. Khi phật đă giác ngộ, người ta hỏi: “Thầy đă đạt tới cái ǵ?”. Và ngài cười nói: “Ta chẳng đạt tới cái ǵ cả - Có cái ǵ để đạt đâu! Ta chỉ phát hiện ra cái vẫn sẵn có đó. Ta chỉ đơn giản đi về nhà. Không có thành đạt nào cả. Ta chỉ đơn giản nhận ra nó. Đó không phải là phát minh, đó chỉ là phát hiện lại” (Osho, sđđ).

Nhưng v́ sao “Vô đắc” được đặt ở điểm cuối cùng, của một loạt “phá chấp”, nó quan trọng đến thế, v́ sao? Câu trả lời có thể là v́ chính sự sợ hăi là nguồn gốc của nỗi khổ đau lớn nhất của kiếp người. Giải thoát khỏi sợ hăi cũng chính là giải phóng năng lượng tiêu hao cho những chuyện vô ích, để chuyển hóa năng lượng đó qua cho sự an lạc, hạnh phúc, yêu thương. V́ sao người ta lại sợ hăi? Bởi v́ người ta muốn. Muốn ǵ? Muốn không sanh, không bệnh, không lăo, không tử. Muốn luôn sung sướng. Muốn luôn trẻ đẹp, không bao giờ già, không bao giờ chết, không bao giờ bệnh. Muốn thành người giàu có nhất nước, nhất thế giới, muốn thành người nổi tiếng, lừng danh, thành đạt, thành công nhất thế giới! V́ muốn Đắc cho nên sợ Thất. Muốn được th́ sợ mất. Sợ sinh từ ham muốn. Niết bàn, thiên đàng hay địa ngục th́ cũng chính ta tạo ra cho ta, nó sẵn đó trong ta. Lúc tham lam, sân giận...đă là địa ngục. Lúc an nhiên tự tại đă là thiên đàng. Kim Dung có vẻ thấm “vô đắc” nên những nhân vật của ông mang tư tưởng đó: Đoàn Dự không muốn học vơ, lại đạt vơ công tối thượng, không muốn làm vua th́ lại làm vua. Lệnh Hồ Xung không coi sinh tử là quan trọng, không cần thị phi, dấn thân vào chốn giang hồ với cái tâm hồn nhiên trong sáng, vô tâm và vô đắc nên cuối cùng lại “đắc”. Đắc mà không đắc: gác kiếm, từ bỏ, để tiếu ngạo giang hồ, rong chơi ngày tháng. Trong khi đó Mộ Dung Phục đêm ngày đao đáo mộng phục quốc, t́m đủ mọi thủ đoạn âm mưu để cuối cùng thành một người điên...

Tóm lại, trong cái chân không, không có trí, không có đắc. Không có mong cầu, không có vướng bận, không có muốn th́ không có sợ, và không có sợ th́ đă được giải thoát.

Nói cho cùng, Ngũ uẩn đă giai không, tức Ngă c̣n không th́ sao lại c̣n có đắc? Đắc cái ǵ? Đắc cho ai? Đắc để làm ǵ? C̣n chấp Đắc là c̣n mong cầu, c̣n chờ đợi, để rồi hồi hộp, hí hửng, hoặc lo âu, sợ hăi... tóm lại là luẩn quẩn loanh quanh. Cho nên Tâm Kinh nói đơn giản: Vô đắc!



DĨ VÔ SỞ ĐẮC CỐ

BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA

Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ

TÂM VÔ QUÁI NGẠI

VÔ QUÁI NGẠI CỐ

VÔ HỮU KHỦNG BỐ

VIỂN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG

CỨU CÁNH NIẾT BÀN



“Vô đắc” là một nhát búa cuối cùng, chặt đứt luôn những ảo vọng chẳng những gây bao chướng ngại mà c̣n làm sợ hăi. Khi c̣n sợ hăi th́ không thể vượt thoát. Đắc được đặt ở đỉnh tháp, chỗ cao nhất phải chăng là v́ ngay cả người đi tu cũng muốn “đắc”: đắc đạo! Phải vượt qua cả cái đắc th́ mới tới cái Không. Người hành thâm Bát nhă phá được cả chấp “Đắc” th́ không c̣n trở ngại ǵ nữa, nhờ đó mà cũng không c̣n sợ hăi (vô hữu khủng bố) ǵ nữa, rời bỏ được những mộng tưởng, ảo tưởng đảo điên mà đến bờ giác ngộ. Thực ra th́ bờ giác cũng ở đó thôi, sẵn đó thôi, chỉ là cái trở bàn tay: quay đầu là bờ. Vậy mà khó thay!

Đắc là đỉnh tháp. Ḷng mơ ước của cả kiếp người để t́m kiếm hạnh phúc với hết thành công này đến thành công khác, rồi khổ đau, rồi tuyệt vọng rồi hy vọng... và cứ xây đắp măi, cao lên măi, để rồi càng bám víu, càng lo âu, càng sợ hăi. Không phải vô cớ mà ông vua nào cũng muốn “vạn tuế, vạn vạn tuế!”. Không phải vô cớ mà ông vua nào cũng muốn t́m thuốc trường sinh bất tử. Có được một thái tử như Tất Đạt Đa không dễ. Có được một vị vua như Trần Nhân Tông không dễ. Họ không lấy “đắc” làm cứu cánh mà chọn lấy sự an vui, an lạc, an nhàn ngay trong cuộc đời này, cho ḿnh và cho người. Vậy nếu không mong cầu không chờ đợi, ước muốn “đắc” cái này cái nọ nữa th́ con người sẽ đạt tới tự do, bay nhảy như chim trên trời cao, như mây qua đỉnh núi. Những nhà minh triết không hề xa lạ nhau. Dù là Thích Ca, Socrate, hay Lăo tử, Trang tử... họ đều giống nhau. Họ thoát khỏi những ràng buộc, vướng mắc, những “quái ngại” đầy dẫy trong cuộc sống. Một khi họ không c̣n bị quái ngại ràng buộc nữa th́ c̣n có điều chỉ có thể làm cho họ sợ hăi nữa chứ. Ai “khủng bố” họ được nữa, một khi chính họ đă không tự khủng bố họ nữa rồi, họ không muốn “đắc” bất cứ cái ǵ nữa rồi! Và họ sẽ rời xa (viễn ly) những điều mơ mộng hảo huyền, ngược xuôi điên đảo, nào vương nào tướng nào trường sanh bất tử. Họ ăn biết ngon, họ ngủ biết yên... Họ ngao du ngày tháng ḥa ḿnh với mọi người, với cỏ cây hoa lá. Cái ǵ đến với họ cũng đẹp tuyệt vời, một hạt cát, một giọt sương, ngôi sao, dinh thự, ḍng sông, con người, vạn vật... Họ biết họ ở trong tất cả và tất cả ở trong họ. Họ sống một ḿnh nhưng là tất cả. Tất cả nhưng lại là một ḿnh. Cuộc sống an vui đó chính là thiên đàng, là niết bàn, không cần t́m kiếm đâu xa. Niết bàn là sự an lạc trong giây phút “vô đắc”. Vậy vô đắc mà đắc - Sắc bất dị không và không bất dị sắc!



TAM THẾ CHƯ PHẬT

Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ

ĐẮC A NẬU ĐALA

TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ



Các vị Phật, vô số các vị Phật - những kẻ giác ngộ- ở quá khứ, hiện tại và vị lai (tam thế) hiểu được sự thật của kiếp người, xa lánh các mộng tưởng đảo điên, vượt qua mọi chướng ngại, thoát khỏi mọi sợ hăi, an nhiên tự tại, sống vui trong lẽ vô thường, đồng thời cởi bỏ, buông xả mọi thứ, đạt đến cái Không là nhờ y theo Bát Nhă Balamật mà “hành”, sẽ đạt tới “Vô thượng chánh đẳng chánh giác” - sự giác ngộ tối cao không ǵ hơn nữa - tức là thành Phật. “A nậu Đa la Tam miệu Tam bồ đề” là phiên âm tiếng Phạn, dịch ra Hán ngữ sẽ là “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” nghĩa là sự “sáng suốt cao nhất”, “minh triết siêu việt”, “giác ngộ trọn vẹn nhất”, hoàn hảo nhất (the most supreme enlightement, la plus haute et parfaite illumination). Mọi người đều có khả năng “giác ngộ”, hiểu rơ sự t́nh, thấy rơ sự thật: Nó vậy đó. Nó vốn phải vô thường. Nó vốn phải sanh lăo, bệnh tử. Nó vốn phải ngu dốt và sẽ c̣n ngu dốt. Và khi hiểu được ngũ uẫn giai không, th́ nó không c̣n lo sợ chuyện sinh tử nữa, “vượt thoát sinh tử”, nói cách khác. Ở các chùa thấy tượng Phật quá khứ trông trang nghiêm quá, Phật hiện tại – Phật Thích Ca – th́ mỉm cười thoải mái, tự tại, ung dung, c̣n Phật tương lai, Di Lặc th́ cười ha hả, cười hết ga, cười toe toét. Vậy có thể nói, trong tương lai, người ta sẽ “ngộ” nhanh hơn chăng, “ngộ” dễ dàng hơn chăng? Thật ra, người ta có thể ngộ từng giờ, từng phút: phật rồi ma, ma rồi phật. Lúc ngộ th́ là phật, lúc mê th́ là ma, thế thôi. Không sao, cứ tinh tấn. Tu lâu dài và có kinh nghiệm lọc bỏ những phiền năo th́ phật nhiều lên, phật lâu hơn. Phật th́ ngộ trăm phần trăm, các vị tu sĩ th́ năm bảy chục phần trăm c̣n người thường như ta th́ lâu lâu giật ḿnh ngộ một chút cũng tốt. V́ thế mà Phật dạy phải ráng tinh tấn, ráng nhẫn nhục. Thiền định và quán “Bát nhă” có lẽ là một phương pháp kết hợp tốt cho cả tâm và thân.

Điều thú vị ở đây là nói đắc “A nậu Đala Tam miệu Tam bồ đề” ǵ ǵ đó. Trên đă nói “vô đắc” sao bây giờ c̣n đắc? Thật ra đắc ở đây là đắc cái “Không”, đắc cái có sẵn đó, đắc cái không có ǵ để đắc cả, không có chỗ nào để đắc cả! Tấm kiếng mờ dính đầy bụi, khi chùi cho sáng ra th́ không phải là t́m kiếm được, đạt được, giành được, thủ đắc được tấm kiếng. Cho nên nói đắc mà thật ra không đắc. Toàn bộ Tâm Kinh viết chặt chẽ và không hề mâu thuẫn. Trong kinh Kim Cang, Phật nói rơ điều này với Tu bồ đề: “Đừng nói Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ngay với một chút pháp nào đi nữa, ta cũng không có chi gọi là đắc!” ( Đoàn Trung C̣n, Sđd).

Tâm Kinh rơ ràng rất “tự tin”, rất dứt khoát và quả quyết: Các vị Phật dĩ văng hiện tại tương lai đều phải nhờ Bát Nhă Balamật mà thành Phật, nghĩa là nhờ thấy “ngũ uẩn giai không”, kiến tánh, mà thành Phật.. Dĩ nhiên là vẫn c̣n đó Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo, Thập nhị nhân duyên... là những bậc thang, con đường cần thiết cho mỗi giai đoạn nào đó, nhưng Tâm Kinh th́ vượt qua, vượt ra, vượt lên, v́ tất cả những con đường ṿng đó cũng chỉ để cuối cùng đạt tới vô ngă, chân như, tịnh lạc: Không, chân không cũng là diệu hữu. Các vị Phật cứ theo Tâm Kinh Bát Nhă mà “hành” th́ sẽ đắc cái “không có ǵ để đắc cả” đó, mà tâm sẽ hoàn toàn vắng lặng, vượt qua mọi chướng ngại, tức những “sai lầm khởi lên từ tác dụng trí năng” và vượt luôn những chướng ngại bắt rễ từ “ư thức truy nhận và cảm quan như sợ hăi và bàng hoàng, vui vẻ và buồn phiền, thất vọng và giải đăi (Suzuki, Sđd) nghĩa là đạt đến sự tịnh diệt, tự tại tuyệt đối. Suzuki viết: “Bát nhă Ba la mật là mẹ của Phật đạo và Bồ tát đạo”. Mẹ tức là từ đó sanh ra.



CỐ TRI

BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA

THỊ ĐẠI THẦN CHÚ

THỊ ĐẠI MINH CHÚ

THỊ VÔ THƯỢNG CHÚ

THỊ VÔ ĐẲNG ĐẲNG CHÚ

NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỔ

CHÂN THẬT BẤT HƯ



Tâm Kinh Bát Nhă Balamật là một “linh chú”. Chú, tiếng phạn là dharani, “một câu nói thoát ra trong một trạng thái hết sức đặc biệt; thân, tâm và ngôn ngữ ḥa hợp lại trong một định lực thật lớn. Một câu nói có thể thay đổi được hoàn cảnh, th́ gọi là linh chú” (NH, Sđd). Cũng theo ông, với nhiều người, câu linh chú sẽ chẳng linh ứng chút nào, như “đàn khảy tai trâu”, v́ chưa được chuẩn bị để nghe, để tiếp nhận.

Như vậy, “chú” hay thần chú là một thứ linh ngữ, mật ngữ, chỉ “thiêng” trong một trạng thái nào đó của con người. Với người này th́ “thiêng” mà với người khác th́ không. Vấn đề ở đây là tại sao Tâm Kinh kết thúc bằng một linh chú và tại sao được ca tụng đến mức 4 lần nói là “đại thần”, “đại minh” “vô thượng” “vô đẳng đẳng” nghĩa là rất thần diệu, rất sáng suốt, cao nhất, không có ǵ sánh bằng! Bốn lần ca tụng và rất “đại ngôn”. Đại ngôn đến nỗi làm cho ta e ngại! Những người được gọi là “trí thức” được dạy phải luôn khiêm tốn – và cả Phật cũng rất khiêm tốn.

Thế nhưng cái “cố tri” Bát Nhă Balamật này thực chất không phải là cái “tri” thường thấy ở người trí thức mà là cái “hành” của người hành giả, nó không từ kiến thức, từ lư trí mà từ trực giác, nói cách nào đó, từ cái vượt qua ngoài lư trí, cái vô trí. Mặt khác nó cũng không có ư nghĩa như tích lũy tri thức, để nhằm đạt một cái ǵ đó, như qua một kỳ thi để có bằng cấp, học vị, để được lên chức, làm quan, mà ở đây, cái đạt được lại là cái “không”, cái khoảng trống, cái vắng lặng, tịch diệt, từ bỏ, buông xả. Do vậy khi sự ca tụng hồ hởi của tri thức đáng được “cảnh giác” – đao to búa lớn, đại ngôn hoặc ngược lại giả vờ khiêm tốn – bao nhiêu th́ ở đây là cái “ cố tri” của trực giác với những lời reo vui, hoan hỉ, kinh ngạc, tán tụng đáng cho ta trân trọng, nghiền ngẩm bấy nhiêu!

Tại sao phải reo lên đến bốn lần? Đại thần, đại minh, vô thượng, vô đẳng? Chắc chắn phải là có một sự bộc phát bất ngờ, sâu sắc, một sự tràn ngập hân hoan, một phát hiện vĩ đại nào đó như là tiếng kêu “Eureka! Eureka!” của nhà khoa học. Nhà khoa học kia reo lên và trần truồng chạy tung ra khỏi pḥng tắm, lúc đó hẳn là rất buồn cười, nhưng không ai trách ông cả, cũng như làm sao mà bộ Đại Bát Nhă 600 quyển, tinh gọn c̣n vài ba trăm chữ (Tâm Kinh) rồi rút chỉ c̣n cô đọng trong 6 từ, biến thành một lời “chú” có tính chất đặc biệt linh ứng đến nỗi Tâm Kinh nói: “năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư” mà không mang một ư nghĩa nào? Và ta hăy tưởng tượng vị Bồ tát cũng đang tung cửa chạy ra, reo lên...

Suzuki là một một học giả có uy tín về Thiền. Ông nghiên cứu rất sâu và trong tài liệu của ông phát hiện những điều lư thú về Tâm kinh. Ông nói bài chú kết thúc Tâm Kinh này luôn luôn được đọc theo lối không dịch nghĩa, làm như âm hưởng đích thực của lối dịch âm Phạn có một tác động nhiệm mầu. Nếu câu đó không sao hiểu nổi, và chúng cứ để cho không hiểu, chúng càng khó hiểu th́ uy lực mầu nhiệm đằng sau lại càng có hiệu nghiệm! Rồi Suzuki kết: “Sự thực, h́nh như toàn thể bản kinh được viết ra v́ câu thần chú đó, và không có ǵ khác hơn” (Suzuki, Sđđ).

Ngược lại, Osho giải thích ở góc độ khác, theo ông, mật chú này không phải để tụng niệm. Nó cần được hiểu. Toàn bộ thông điệp Bát Nhă chỉ cần cô đọng trong một câu thôi: như một công thức. Một công thức thần thông, Osho cho đây là một cái “mẹo”, để giúp loại bỏ các bóng ma (đau khổ) do ḿnh gây ra (vọng tưởng!). Ma là giả, mật chú cũng giả, nhưng có ích. Mật chú cần để loại bỏ ảo tưởng, loại bỏ ảo tưởng rồi th́ cái c̣n lại là chân lư. Trực quan bắt đầu vận hành. Một người tưởng ḿnh nuốt một con rắn vào bụng, sợ khiếp và suy sụp nặng. Đi bao nhiêu bệnh viện, bác sĩ vẫn không t́m ra, không chữa khỏi. Sau nhờ một ông “thầy” ra tay: thầy đợi bệnh nhân ngủ, lén bỏ con rắn (rắn không độc) vào mền. Khi bênh nhân thức dậy, “thầy” liền đọc một câu thần chú bala bala ǵ đó, rắn ḅ ra, bệnh nhân khỏe ngay tức khắc! Rắn là giả, sợ là tưởng, bệnh cũng không thật. Bùa chú cũng không thật, nhưng có ích, ở đây, trong t́nh huống này.

Công thức bí mật - mật chú - chỉ linh ứng dành cho một người đă được chuẩn bị. Khi nh́n thấy công thức E = mc2 th́ một người chưa đi học chỉ ph́ cười, người học rồi th́ áp dụng, hiểu nó, c̣n nhà vật lư học th́ toát mồ hôi, ngă nón chào! Không tự dưng mà Einstein viết ra được công thức đó. Và viết cho ai?

Tâm Kinh Bát Nhă Balamật gom lại trong một câu, mật chú, linh chú và được ca ngợi là: rất sáng suốt, cao nhất, vô song... hẳn có ư nghĩa và dành cho ai đó. Phật không triết lư suông. Phật không phải là triết gia mà là một y vương, không chỉ chữa cái đau mà c̣n chữa cái khổ của kiếp người, giúp người ta hết bệnh - bệnh thiệt và bệnh ảo – thoát khỏi sợ hăi, tham đắm, si mê, sân hận, ngờ vực... để được hạnh phúc, được an nhiên, tự tại. Vả lại, trong đời sống có biết bao người đang giúp đời, đang xây dựng hạnh phúc cho đời, cho nhân loại, bảo vệ môi trường, tạo yêu thương giữa người với người, người với vật, với muôn loài, với thiên nhiên? Họ cũng là Bồ tát một cách nào đó. Có điều bản thân họ đă thoát sợ hăi chưa? Họ cần một câu chú để nhắc nhở. Để đừng quên. Và khi họ đọc câu chú đó, họ hiểu, hiểu rơ cả một tiến tŕnh hành thâm “Ngũ uẩn giai không”, Vô thường, Vô ngă, Vô trí, Vô đắc. Họ không đọc tụng ngây ngô. Mật chú do vậy là cần thiết như một công thức thần thông, một linh ngữ để nhắc nhở kẻ đă hành thâm.



CỐ THUYẾT

BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CHÚ

TỨC THUYẾT CHÚ VIẾT:

YẾT ĐẾ. YẾT ĐẾ

BALA YẾT ĐẾ. BALA TĂNG YẾT ĐẾ BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA!



Chú, mật chú, linh chú, thực ra chỉ “thiêng” với người này mà không thiêng với người kia. Hai người yêu nhau th́ một câu một chữ của họ nói với nhau cũng “thiêng” một cách kỳ diệu mà người ngoài nghe cho là vô nghĩa, ngớ ngẩn, buồn cười. Với người này th́ “yết đế, yết đế” sẽ linh, với người khác th́ “gate, gate...” sẽ linh hơn.

Chỉ cần cái âm ngữ, âm hưởng là đủ có tác động nhiệm mầu, chẳng cần hiểu nghĩa nữa! Cái âm “OM” chẳng hạn mà Herman Hesse viết trong “Câu chuyện của ḍng sông” đâu có cần phải được dịch. Eureka cũng vậy! Dịch ra, có khi lại ngây ngô, gây hiểu lầm, lệch ư. Như cái công thức E = mc2, chỉ vắn tắt vậy nhưng đă là kết quả trọn đời nghiên cứu, t́m ṭi của Einstein có thể chế tạo bom nguyên tử giết người hàng loạt, mà cũng có thể tạo ra năng lượng hạt nhân phục vụ con người! Câu chú của Tâm Kinh cũng là một công thức. Nó nói nhiều điều mà không cần nói ǵ cả. Với người đă biết và người chưa biết, với người tu và hành ở mức độ này hay mức độ khác, ư nghĩa sẽ rất khác nhau. Suzuki cho rằng “Đó là sự phóng xuất vọt ra từ nội tâm của ngài (Quán Tự Tại) khi đă sang ngang ḍng phủ định... Một khi ngài đi đến đích, kiệt sức và vô vọng... trí năng và xúc cảm hoàn toàn cùng tận, ngài thực hiện bước nhảy tối hậu... Với sự phóng xuất đó, mọi vật bừng sáng và Quán Tự Tại đă tu tập Bát Nhă đến chỗ cuối cùng” (Suzuki, Sđđ). Và Quán tự tại đă reo lên như Archimède đă reo! Rơ ràng “chú” không là chú. Chú là kết quả của một hành tŕnh tu tập dài lâu. Giác Khai nói: “Phải tham thiền chớ không tụng đọc. Kiến tánh thành Phật, làm chủ ḿnh, tự do, tự tại, tức là đạt đến bờ bên kia”. Bờ giải thoát. Bởi v́ bên này là bờ mê, bên kia là bến giác. Bên này là buộc ràng, là đối đăi, là khổ đau, là sinh bệnh lăo tử... vượt qua bên kia là tĩnh lặng, là vô ưu, vô úy, là giải thoát. Mà bờ mê bến giác, thực ra cũng chỉ ở một nơi chốn đó thôi. C̣n t́m đâu nữa!

Câu “linh chú” mà Quán Tự Tại bốn lần tán thưởng: “Uy lực to lớn, sáng suốt vô cùng, cao nhất, không ǵ sánh được”, rồi đọc lên 4 âm tiếng Phạn: “Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi, svaha!” đó, có nhiều cách dịch khác nhau:

Hán dịch âm tiếng Phạn: Yết đế, yết đế, Bala yết đế, Balatăng yếtđế. Bồ đề, Tát bà ha!...

Đoàn Trung C̣n dịch nghĩa tiếng Việt: Độ đi, độ đi, độ rốt ráo đi...

Tuệ Sỹ dịch: Đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia, NH dịch: Qua rồi, qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả vượt qua bên kia rồi... C̣n Osho th́: Vượt ra, vượt ra, vượt ra ngoài, vượt ra ngoài tất cả!

Dù dịch cách nào th́ ư nghĩa vẫn là một: Qua bờ bên kia! Qua bờ bên kia rối! Reo vui! Cái bè “Bát nhă” là Không (    ): chữ Hán viết trông giống như h́nh ảnh một người đang ngồi thuyền đi qua ḍng. Không không phải là Vô. Nhưng mà rồi cũng là vô. Vô ngă, Vô trí, Vô đắc... Ngộ được Không th́ kiến tánh. Thấy chân không cũng là thấy diệu hữu. V́ không cũng là sắc, mà sắc cũng là không. Lệch một bên nào th́ thuyền cũng đắm.

Ngă không xấu, ngă cần thiết. Trải qua vô vàn ngă mới đạt tới vô ngă được. Trong “Câu chuyện của ḍng sông”, Herman Hesse cho Tất Đạt từ người con Bà la môn đến một sa môn, tu sĩ, rồi con buôn, dân chơi, để rồi trở thành kẻ chèo đ̣, kẻ giác ngộ. Đi từ có tới không rồi từ không tới có, rồi lại từ có tới không nhiều lần như vậy mới làm người độ kẻ khác “đáo bỉ ngạn” được. Herman Hesse rơ ràng là đă rất hiểu Tâm Kinh. Có ư thức, có cái tôi, có suy nghĩ, có mơ ước, có muốn, có đắc th́ có sợ hăi đi kèm. Càng sống cho tương lai càng lo âu, căng thẳng. Dĩ nhiên là vẫn phải có kế hoạch cho tương lai, nhưng không sống trong tương lai. Vượt qua được Ngă, th́ đă vượt ra ngoài, vượt lên trên. Hạnh phúc sẽ mênh mông. Tôn Ngộ Không trong Tây Du Kư cũng phải đẩy Đường Tăng rơi xuống ḍng nước mới giải quyết được vấn đề. Truớc đó, có lẽ ông c̣n vướng nào giới, nào nhân duyên, nào thánh đế... và cả cái chức quốc sư Đại Đường của chính ông.

Trong khi các triết gia Đông Tây kim cổ loay hoay với câu hỏi ngàn đời ta là ai, từ đâu đến, để làm ǵ, đi về đâu... Descartes băn khoăn: Je pense, donc je suis (tôi suy nghĩ, vậy có tôi), Sartre than thở: “Tha nhân là tù ngục của tôi”, Lăo Tử trầm ngâm “Đạo khả đạo phi thường đạo”, Trang Tử ngậm ngùi “Tôi hóa bướm hay bướm hóa tôi?”. Khổng Tử cũng kêu: “Thiên hà ngôn tai!” th́ Phật Thích Ca, sau những năm tháng vật vă kiếm t́m bỗng tủm tỉm cười: Th́ ra nó vậy đó, không khác được! Nó không sinh không diệt, nó không nhơ không sạch, nó không thêm không bớt. Nó là Không. Nó kết tập lại rồi tan ră, rồi kết tập lại. Nước rồi bốc hơi, hơi rồi thành mây, mây rồi thành mưa, mưa rồi thành nước, lại bốc hơi; sóng ầm ào vỗ, tan biến đi, rồi h́nh thành lại, vẫn cứ là đại dương... Lavoisier khẳng định: năng lượng không mất đi, không sinh ra, nó chỉ chuyển hóa! Einstein thêm vào: vật chất là năng lượng, năng lượng là vật chất. Sắc tức thị không mà không tức thị sắc. Bám cái Sắc đă sai mà bám cái Không c̣n sai hơn. Bát Nhă là bất nhị (Tôi thích nói như vậy cho dễ nhớ: Bát nhă là Bất nhị. Thiền là Thở). Nỗi sợ lớn nhất của kiếp người mà các triết gia nhiều khi không trả lời được, không thể trả lời được là sự sống chết, “sinh tử” th́ Phật đă trả lời: Vô lăo tử diệc vô lăo tử tận! Nó vậy đó. Như lai. “Vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ”, chẳng từ đâu tới mà cũng chẳng đi về đâu. Và thoát ra ngoài sự sinh tử, không c̣n sinh tử để mà sợ hăi. Một khi tâm đă không c̣n “quái ngại”, không ǵ cản trở được nữa rồi th́ “vô hữu khủng bố”. Tâm trở nên trong sáng, tự nhiên như trăng soi trên mặt hồ tĩnh lặng một khi không c̣n làn sóng lớn sóng nhỏ, sóng lăn tăn nào nữa. Khi không sợ hăi nữa (vô úy) th́ năng lượng của nỗi sự hăi - rất lớn - được chuyển hóa thành năng lượng của yêu thương, của an lạc.

Trong đời sống thường ngày, ta thấy khi không c̣n nghi kỵ, không c̣n ngờ vực, ghen tuông, tham lam, sân giận th́ niềm vui tràn đến, ta thấy rộng ḷng hơn, biết yêu thương hơn, biết tha thứ hơn. Và ta cũng được đáp lại như vậy. Nh́n mọi loài với con mắt thương yêu (Từ nhăn thị chúng sanh) không dễ nếu bên trong ta chưa chuyển hóa hết năng lượng tham lam, sân giận, nghi kỵ... thành năng lượng trung tính, rồi từ bi. Từ chưa đủ mà c̣n phải bi. Yêu thương chưa đủ mà c̣n phải giúp đỡ, hỗ trợ. Sự thương yêu giúp đỡ này không phải là bố thí, v́ bố thí là từ bên ngoài đưa cho, c̣n ở đây phải thắp sáng ngọn đèn của chính ḿnh. Cái phát hiện lớn nhất của Phật có lẽ là ở chỗ đó, chỗ quay về chính ḿnh, thay đổi chính ḿnh. T́m được sự thật rồi, sắc thái của Phật bỗng nhiên ung dung, tự tại, tủm tỉm cười hoài. Trần Nhân Tông vị vua anh hùng thời nhà Trần của nước ta , hơn 700 năm trước, vừa là một thiền sư tu ở chùa Yên Tử cũng tủm tỉm cười bảo: Gia trung hữu bảo hưu tầm mích : Trong nhà có của báu rồi, thôi đừng t́m kiếm đâu nữa cho mệt! Phật không có ở chùa, cũng như sức khỏe không t́m thấy ở bệnh viện - ở đó chỉ có những người bệnh- một vị sư cũng đă nói với tôi như thế. Phật cũng không có ở trên núi. Phật ở trong mỗi chúng ta. Khi thấy Phật trong ta rồi th́ ở đâu cũng thấy Phật. Để đạt sự giác ngộ đó, thật không dễ. Không chắc có ai “ngộ” luôn một lèo suốt cả đời, trừ Phật Thích Ca. Nhưng chắc là ngài cũng có lúc mệt mỏi v́ phải hướng dẫn, dạy dỗ chúng sanh, đệ tử, phải lập ra bao nhiêu điều lệ này, nội quy nọ, cơ chế kia; phải trừng trị kẻ lợi dụng đạo pháp làm bậy, phải khen thưởng kẻ làm tốt, có công... Rồi c̣n bao nhiêu kẻ ganh ghét chực phá rối, bao nhiêu kẻ thù nghịch, bao nhiêu kẻ đến đ̣i tranh luận. Chắc ngài có lúc cũng khổ, cũng bực ḿnh, nổi giận, đổ quạu, nhăn nhó. Có lúc chắc ngài muốn “nhập niết bàn” cho rồi, cho khỏe, mà nghĩ lại, thương chúng sanh, lại chịu khó ra đi giúp đời, giúp người. Do vậy mà chính ngài cũng phải tu hoài, không lơ đễnh, và khuyên Quán Tự Tại Bồ Tát cũng phải tiếp tục tinh tấn! Không ai có thể là kẻ giác ngộ mà không tu – không tự sửa ḿnh . Niết bàn chỉ có trong cơi Ta bà. Bồ Tát phải dấn thân vào đời, phải giúp đời với sự giác ngộ và ḷng từ bi. Coi cách sống của Phật th́ rơ đó là một nếp sống lành mạnh: Mỗi ngày đi bộ vài ba giờ (đi khất thực), ăn nhẹ (có ǵ ăn nấy), nhai kỹ (ăn chánh niệm), nhiều rau trái, nhiều chất xơ nên chắc không bị tăng cholesterol, không bị cao huyết áp, bón, trĩ, tiểu đường, gan nhiễm mỡ.... Nằm nghỉ th́ nằm nghiêng bên phải, để gan không đè lên dạ dạy. Thở sâu và chậm - thở cơ hoành, thở bụng. Tập trung vào hơi thở - thở chánh niệm – dùng thở chánh niệm. Cử chỉ lúc nào cũng khoan thai, ḥa nhă, không hấp tấp, vụt chạc. Luôn chánh niệm từ cách mặc áo đến cài khuy. Nói năng chậm răi, từ tốn. Và luôn dùng lời từ ái. Luôn mỉm cười với cái vui tự bên trong, cái an lạc tự bên trong. Như vậy các kích thích tố cũng không tiết ra nhiều được, cơ thể tự điều tiết, điều ḥa, điều chỉnh. Mùa đông giữ ấm, mùa hè giữ mát. Đói th́ ăn. Khát th́ uống. Mệt th́ ngủ, nghỉ. Không lo lắng cho tương lai, không nhớ tiếc chuyện quá khứ. Thế nhưng không phải là từ bỏ mọi nghĩa vụ mà với ḷng đại bi vẫn bương chăi trên 40 năm trời để đi đó đi đây giúp đời, mong cho mọi người cũng được thoát bao nỗi khổ đau, sợ hăi của kiếp người. Bát Nhă không chỉ là tri thức, mà đ̣i hỏi phải thực hành, thay đổi điều kiện sống, môi trường sống mà trước hết là cách sống ở bản thân mỗi người. Với cái nh́n Bát Nhă, mọi sự tranh chấp sẽ triệt tiêu. Tranh chấp với người cũng như tranh chấp với chính ḿnh, bởi đă vô ngă, vô trí, vô đắc. Một cách giải stress tuyệt vời! Khi sắp tranh luận, sắp đấu khẩu - bị khiêu khích, bị chọc giận – th́ ngài thở và tập trung theo dơi hơi thở của ḿnh, rồi b́nh tĩnh, mỉm cười, chậm răi từ tốn trả lời. Khi quá căng thẳng như khi Sariputra đến đ̣i tranh luận ngài chỉ đề nghị Sariputra ở lại chơi với ngài một năm, không có ǵ phải hấp tấp, phải vội vă. Một năm đó có lẽ là thời gian Phật dạy Sariputra “hành thâm Bát nhă”. Dạy mà không cần dạy. Với sẵn vốn tri thức bức bách, t́m kiếm, tri thức vô vọng lâu nay, Sariputra đă chín muồi đến một mức độ nào đó để sau khi gặp Phật th́ bùng nổ, Phật đă truyền đạt Tâm Kinh cho ông. Đối với những đệ tử khác, có thể ngài không truyền dạy Tâm Kinh v́ chưa phải lúc. Vậy có thể hành thâm Bát nhă hay “sống” Tâm Kinh với hai điều kiện: có cái bức xúc về tri thức, có cái từng trải khổ đau trong cuộc sống và có một quăng thời gian nung nấu thực hành, thể nghiệm. Người trí thức trong thời hiện đại có thể “dị ứng” với Tâm Kinh ngay khi tiếp xúc. Hăy chờ đợi. Đừng nóng vội. Chờ có duyên may. Có bè đó, nhưng cần có người chống, hoặc có buồm rồi cũng cần đợi cơn gió mới qua sông được, mới “đáo bỉ ngạn” được. Cả thế giới Tây phương và cả Đông phương hiện nay đang bị căng thẳng bởi những stress của thời đại, ngập trong kỹ thuật, trong môi trường sống đầy dẫy bất trắc, hận thù, luôn đ̣i hỏi tốc độ, thành công, tri thức, tuổi trẻ, sắc đẹp, ngày càng trở nên bế tắc đến nỗi t́nh trạng tử tự gia tăng, bệnh tâm thần phát triển, các cuộc chiến tranh vẫn c̣n tiếp diễn… măi đem khổ đau lại cho kiếp người. Tâm Kinh có thể cứu văn, có thể “độ” chăng?



                                                                  TẠM KẾT

   

           Có lẽ “tự tại” là niềm mơ ước lớn nhất của kiếp người: thoát khỏi mọi ràng buộc, khổ đau, dằn vặt, lo âu, sợ hăi... V́ sao có ta? V́ sao không ta? V́ sao ta thương yêu, v́ sao ta tuyệt vọng, v́ sao ta mong cầu? Biết bao câu hỏi không lời đáp. Cho nên mơ ước, nghĩ tưởng (Quán) thoát được mọi “khổ đau ách nạn” (Tự Tại) là mơ ước của mỗi con người mà Tâm Kinh hy vọng giải đáp.

            Avalokitésvara, Quán Tự tại Bồ tát , lúc th́ được gọi là Quán Thế Âm, lúc th́ được gọi là Quán Tự Tại. Có lẽ khi cần nói đến “Từ bi” th́ nói đến “Thế âm”, người nghe được tiếng kêu thống khổ của trần thế, người có thể rưới những giọt nước cam lồ để dập tắt những khổ đau ách nạn cho con người; c̣n khi cần nói đến sự vượt thoát khổ đau ách nạn của chính ḿnh th́ nói đến “Tự tại”, người có khả năng buông xả, viễn ly những “điên đảo mộng tưởng” để đến được bờ an vui, hạnh phúc! Người tự tại đôi khi chưa chắc đă thế âm và thế âm đôi khi chưa chắc đă tự tại. Thế nhưng phải tự tại th́ mới có thể thế âm và ngược lại! Trí tuệ phải đi với Từ bi. Một cái v́ người, cho người, một cái v́ ḿnh, cho ḿnh. V́ thế mà Quán Thế Âm cũng chính là Quán Tự Tại đó vậy! C̣n Bồ tát là kẻ đă giác ngộ rồi nhưng c̣n nấn ná ở lại “cơi người ta” để giúp đời, giúp người mà cũng chính là để giúp ḿnh. Ở đâu và lúc nào ta cũng thấy các vị Bồ tát - hằng hà sa số chư vị Bồ tát - v́ lời thệ nguyện, dấn thân vào đời. Nơi nào càng khốn đốn khó khăn càng dễ thấy Bồ Tát xuất hiện. Họ có thể là những người đă xuất gia nhưng cũng có thể là những kẻ trần tục, “cư trần lạc đạo”, sống trong đời sống bỉnh thường mà vui lẽ đạo, tích cực hoạt động cho sự tiến bộ của xă hội với cái tâm vô ngại, không tính toan, cái tâm “vô tâm”, hồn nhiên, trong sáng. Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng đời nhà Trần của nước ta, trên 700 năm trước, người hai lần đại phá quân Nguyên, đă từ bỏ ngai vàng khi hăy c̣n trẻ, về tu ở núi Yên Tử, trở thành Tổ của thiền phái Trúc Lâm, người đă dạy con rất nghiêm và khi cần vẫn xuống núi đánh nam dẹp bắc giữ yên bờ cơi, đă viết:



Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

                                                                                  (TNT)

(Sống trong đời sống mà vui lẽ đạo, cứ để tuỳ duyên; Đói th́ ăn, mệt th́ ngủ; Trong nhà có của báu rồi, thôi đừng t́m kiếm đâu nữa; Gặp cảnh mà giữ được vô tâm th́ không cần phải hỏi chi đến Thiền!).

        Tâm Kinh Bát Nhă không phải để học, để hiểu, mà là để hành, để giúp người ta có thể “cư trần” mà “lạc đạo”. Có nhiều thứ Bát Nhă: Bát Nhă văn tự dành cho nhà nghiên cứu, cho các học giả ; Bát Nhă thiền quán dành cho hành giả và cho người b́nh thường, biết cư trần lạc đạo trong đời sống xă hội thường ngày và Bát Nhă “thực tướng” là Bát Nhă thâm sâu, siêu việt, một lănh vực không thể nghĩ bàn!

        Thực hành Tâm Kinh không dễ, nhất là trong đời sống hiện đại của chúng ta. Chỉ cần bấm cái nút, rê con chuột, th́ bao thứ thông tin tốt xấu đă tràn ngập. Các giác quan luôn bị khuấy động, luôn bị kích thích, với bao nhiêu là h́nh ảnh bát nháo, âm thanh ́ xèo, xu hào rủng rỉnh, rồi nước tăng lực, rồi thuốc hỗ trợ... làm cho cái sắc lồng lên, cái thọ cái tưởng bấn xúc xích, cái hành cái thức không lúc nào được yên! Con “trâu” bây giờ “chăn” thật không dễ!

           Thế nhưng khi Tôn hành giả trở thành “Tôn Ngộ Không” rồi th́ trợn con mắt chính giữa lên nh́n lập tức yêu quái hiện nguyên h́nh. Cái nh́n Bát Nhă. Cái nh́n bất nhị. Cái nh́n thấy được chân tướng bên trong. Vượt ra, vượt qua, vượt lên...

        Niết bàn hay địa ngục là do ta tự tạo ra cho ḿnh, nó ở ngay trong ta thôi: Giận dữ, ngờ vực, sợ hăi, lo âu... tiêu hao của ta rất nhiều năng lượng, đốt cháy ta từ tầng này đến lớp khác chẳng phải là h́nh ảnh của địa ngục ư? C̣n niềm vui, an lạc, hạnh phúc, vô uư... làm ta như chắp cánh bay lên, quên cả thời gian, không gian, chẳng phải là h́nh ảnh của thiên đàng, niết bàn ư? Một câu linh chú “Gate, gate... Qua rồi! Qua rồi ...” có thể nhắc nhở ta nhiều điều chăng?

        Cái Không của ngũ uẩn, của 12 xứ, 18 giới có lẽ là dành cho kẻ “nhân gian” để vượt qua chấp ngă, c̣n cái Không của thập nhị nhân duyên, tứ đế, lục độ là dành cho kẻ đến bờ để vượt qua chấp pháp. Đâu thể tùy nghi! Người có bệnh th́ cần thuốc; người không bệnh chẳng cần thuốc, thậm chí cũng chẳng cần đến bác sĩ. Phật là một y vương chỉ muốn chúng sanh không bệnh, không khổ, để không phải dùng đến thuốc. Mỗi người tự chịu trách nhiệm về ḿnh, về sức khỏe cũng như về an vui, hạnh phúc của ḿnh. Tâm Kinh Bát Nhă mà bị hiểu sai th́ rất nguy hiểm, dễ đưa đến kiêu mạn, buông lung như dùng thuốc mà sai th́ chữa không khỏi bệnh mà c̣n tạo ra những phản ứng phụ! Cho nên người bạn đồng nghiệp quy y từ thuở nhỏ của tôi không phải là không có lư khi khuyên phải đi từng bước, từ giới, đến định, đến tuệ. Tuệ mà không giới không định th́ như không có nền móng; giới, định, mà không có tuệ cũng chẳng đến đâu.

Phật đă không nói Tâm Kinh với bất cứ ai mà chỉ nói với Sariputra bởi ông đă đến độ chín muồi cần thiết, không phải lơ lửng ở giữa ḍng, không c̣n sợ ông bị đắm thuyền nữa!

        Các nhà hiền triết Đông Tây đều nói đến cái tâm hồn nhiên trong sáng của trẻ thơ, cái “xích tử chi tâm” của Lăo tử chẳng hạn không khác câu “Chỉ có trẻ con mới vào được nước thiên đàng” của Chúa; cái “vô ngă” của Phật dẫn đến “vô hữu khủng bố” cũng gần với “vô thân hữu hà hoạn?” của Lăo tử. Tiếng than “Thiên hà ngôn tai!” của Khổng tử cũng gần như sự im lặng sấm sét hay “bất lập văn tự” của các vị thiền sư!

        Phật gần gũi với chúng ta có lẽ ở chỗ ngài không phải là một triết gia mà là một “hành giả”, một nhà sư phạm lỗi lạc, có những cách giảng dạy phù hợp cho từng đối tượng, sử dụng phương pháp giáo dục chủ động giúp người ta tự khám phá, tự phát hiện và thay đổi thái độ, điều chỉnh hành vi; đặc biệt ngài luôn khơi dậy ở con người ḷng tự tin vào chính ḿnh khi nói “mỗi người là một vị Phật sẽ thành” do nỗ lực tự thân. Không ai có thể giác ngộ giùm cho người khác được bởi chính ngài cũng là người t́m đường và tự thể nghiệm, tự thực chứng.

Cái thấy biết của Phật có vẻ cũng là cái thấy biết của chúng sanh, có điều ở Phật là sự “thấy biết” rốt ráo, thường trực, c̣n ta, chỉ thỉnh thoảng giật ḿnh “giác ngộ” một chút, rồi quên. Để rồi kêu lên “Ta đă làm chi đời ta?’(VHC), hoặc ngậm ngùi “Nh́n lại ḿnh đời đă xanh rêu...” (TCS). Ta chỉ thỉnh thoảng giật ḿnh chút thôi. Bởi v́ ‘Con tinh yêu thương vô t́nh chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người”(TCS)... Cái bóng con người đó làm nên cơi Ta bà. Mà thực ra Niết bàn cũng chỉ có ở cơi Ta bà cũng như Bồ đề chỉ có thể phát sanh từ phiền năo. Cho nên mới nói “Bất tận hữu vi, bất trụ vô vi” (Kinh DMC). Nếu không vậy, các vị Bồ tát đâu có c̣n được gọi là “Phật hữu t́nh”?

        Sắc bất dị Không. Không bất dị sắc. Nhưng cái sắc sau đă khác cái sắc trước. Sắc trước mới chân không mà sắc sau đă là diệu hữu. Từ chân không đến diệu hữu là cả một quăng đường dài, đầy chông gai, dù thực ra chỉ là một. Chân không cũng chính là diệu hữu. Khi ngộ th́ cái bờ bên kia cũng chính là bờ bên này đó vậy.

        Tôi viết những cảm nghĩ trong khi nghiền ngẫm Tâm Kinh cũng là để làm một phương thuốc chữa trị bệnh cho chính ḿnh và chia sẻ cùng một vài bạn bè thân hữu, những người bạn cùng lứa, “đồng bệnh tương lân”.

Trong khi hành nghề bác sĩ của ḿnh, khi tham vấn sức khoẻ cho người bệnh và cả người không bệnh, tôi hiểu rằng những đức tính cần thiết của một tham vấn viên mà tâm lư học ngày nay nêu thành những nguyên tắc như tôn trọng, chân thành, thấu cảm và những kỹ năng cần thiết như biết lắng nghe, biết tương tác, biết đối thoại...th́ hơn hai ngàn năm trăm năm trước Phật đă h́nh tượng nên các vị Bồ tát Thường Bất Khinh, Quan Thế Âm, Diệu Âm, Dược Vương... để giúp con người giải thoát khổ đau, ách nạn. Khi nh́n vào bệnh tật, tôi “ngộ” rằng “Huyết áp bất dị Không. Không bất dị huyết áp...”. Huyết áp không chỉ là một con số đo. Nó là kết quả của những tương tác như sức co bóp của tim, khối lượng và chất lượng của máu, t́nh trạng của mạch, các chất hoá học gây co hay giăn mạch, hoạt động của hệ bài tiết, của bộ máy hô hấp, của những chất dinh dưỡng trong thức ăn thức uống hằng ngày, của những cảm xúc tâm lư, lo âu, sợ hăi, căng thẳng v.v...” Cho nên điều trị huyết áp không chỉ đơn giản dùng thuốc để hạ số đo mà phải chữa một cách toàn diện. Bệnh tâm thần cũng vậy, ngày càng nhiều do nếp sống căng thẳng, dồn nén, ẩn ức... mà phân tâm học ngày nay h́nh như mới chỉ giúp quậy bùn trong ao lên hơn là để lắng đọng, chuyển hoá, để mọc thành những cánh sen...

Cái tôi hiểu về Tâm Kinh hôm nay có thể rất khác với ngày mai, ngày kia, cũng khác với Tâm Kinh người khác hiểu. Tâm Kinh có lẽ như một tấm gương để ta tự soi rọi lấy ḿnh, nh́n vào bên trong ḿnh, tự nhắc nhở ḿnh mà “viễn ly” những “điên đảo mộng tưởng” để từ đó mà được “độ nhất thiết khổ ách!” chăng?

Nhưng không dừng ở đó, Tâm Kinh Bát Nhă c̣n mở ra vời vợi những khoảng Không bất khả tư ngh́ ./.



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 3 of 11: Đă gửi: 12 January 2006 lúc 8:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

                  KINH ĐẠI BÁT-NHĂ

Nguyên đề mục kinh này có mười chữ: “Ma-Ha Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh”, gọi tắt là “Tâm Kinh”.



       MA-HA: Trung-hoa dịch âm chữ Phạn “Maha”, dịch nghĩa là “Đại” (lớn), “Đa” (nhiều) và “Thắng” (hơn).



       BÁT-NHĂ: Trung-hoa dịch âm chữ Phạn “Prajnà”; v́ không có chữ dịch cho cân-xứng, nên chỉ dịch nguyên âm (Bát-Nhă).



       Bát-Nhă có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa:



Viễn-ly: Xa ĺa các vô-minh phiền-năo vọng chấp.


Minh: Sáng, không mờ tối.


Trí: Thông suốt.


Huệ: Sáng tỏ.


Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt.


Thanh-tịnh: Trong sạch không nhiễm-ô.


Bát-Nhă có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa th́ không được đúng lắm, nên các dịch-giả chỉ để nguyên âm chữ Phạn.



Tuy nhiên, trong sáu nghĩa trên đay, nếu đem so-sánh và cân-nhắt, th́ có thể dùng tạm nghĩa “Trí-huệ”; v́ nghĩa Trí-huệ có phần rơ-ràng và xác-đáng hơn hết.



       Nhưng, cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ các loại Trí-huệ sau đây, mới đúng với nghĩa của chữ “Bát-Nhă”.



1.      Trí-huệ thế-gian.



Trong thế-gian, những người học rộng thấy xa, thông-minh lanh lợi khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương-diện, thiên-hạ gọi là người “trí-huệ”. Nhưng trí-huệ đó là trí-huệ của thế-tục phàm-phu, không phải là “Trí-huệ Bát-Nhă”.



2.      Trí-huệ ngoại đạo.



Chúng ngoại đạo tu thiền-định lâu ngày cũng có trí-huệ (xem bài Thiền-tôn trong bộ Bản-đồ tu Phật) biết được việc quá-khứ hiện-tại và vị-lai, thần-thông biến hóa vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí-huệ đó là tà trí-huệ, không phải “Trí-huệ Bát-Nhă”.



3.      Trí-huệ Nhị-thừa.



Hàng Thinh-văn và Duyên-giác do tu pháp Tứ-đế và Thập-nhị nhơn-duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đă khỏi sanh-tử luân-hồi, thần-thông tự-tại và có trí-huệ biết được việc quá-khứ hiện-tại và vị-lai.



Nhưng trí-huệ đó thuộc về trí-huệ Tiểu-thừa, chỉ thấy về “ngă không chơn-như” (thiên không), chớ chưa thấy được “pháp không chơn-như”, nên cũng không phải “Trí-huệ Bát-nhă”.



       Trừ ba loại trí-huệ trên, duy có trí-huệ của Phật hay của Đại-thừa Bồ-tát, mói phải là “Trí-huệ Bát-nhă”.



       Công dụng của Trí-huệ Bát-nhă, như mặt trời chiếu phá các mây mù vô-minh vọng chấp (ngă, pháp). Bởi thế nên Trí-huệ Bát-nhă chiếu soi các pháp, th́ pháp nào cũng đều bỏ h́nh giả-dối, mà hoàn lại tướng chơn-thật. Tướng chơn-thật của các pháp đă hiện, túc là chơn-như hay chơn-lư của vũ-trụ hiện ra vậy.



       Trí-huệ Bát-nhă sẵn có trong mỗi chúng-sanh từ vô-thỉ đến nay, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mà thành. Dù ở địa-vị phàm phu, nó cũng không giảm, dù chứng quả thánh, nó cũng không tăng. Nó không bị các vô-minh phiền-năo phá hoại, trái lại c̣n phá tiêu tất cả vô-minh phiền-năo từ vô-thỉ đến nay. Nó phá một cách dễ-dàng và rốt-ráo, như gió thổi mây bay, như mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là “Bát-nhă Ba-la-mật-đa” (Trí-huệ rốt-ráo).



       Trí-huệ Bát-nhă có công năng như chiếc thuyền, đưa chúng-sanh từ bên này bờ mê muội triền-phược của phàm-phu, đến bên kia bờ giác-ngộ giải-thoát của chư Phật, nên Cổ-nhơn cũng gọi là “thuyền Bát-Nhă”.



       Muốn giản-biệt Trí-huệ Bát-Nhă, để khỏi lầm lộn với trí-huệ của phàm-phu, ngoại đạo và Tiểu-thừa, chúng tôi dịch nghĩa chữ “Bát-Nhă” như sau:



1.      Trí-huệ Phật.



Trí-huệ của Phật tánh hay chơn tâm.



2.      Trí-huệ Bát-nhă.



Dùng cả chữ Phạn và chữ Hán.



3.      Trí-huệ rốt-ráo (Bát-nhă Ba-la-mật).



Bát-Nhă có ba loại:



a) Văn-tự Bát-nhă:



Tức là “học Bát-nhă”. Hành-giả nhờ học văn-tự nghĩa lư kinh Bát-nhă mới ngộ được Lư-tánh Bát-nhă của ḿnh.



b) Quán-chiếu Bát-nhă:



       Tức là “tu Bát-nhă”. Sau khi đă ngộ được Lư-tánh Bát-nhă, hành-giả phải tu-tập; nghĩa là quán-sát chiếu soi các pháp đều “Không”.



c) Thật tướng Bát-nhă:



       Tức là “chứng Bát-nhă”. Sau khi tu-tập, đến lúc công viên quả măn rồi, hành-giả chứng được tướng chơn-thật của Bát-nhă.



       Tu chứng Bát-nhă có ba giai đoạn:



1.      Gia-hạnh Bát-nhă



Tăng-gia công-hạnh tu Bát-nhă. Nghĩa là sau khi hạ thủ công-phu tu-tập, hành-giả phải tăng-gia công-hạnh, mới đặng trí-huệ Bát-nhă.



2.      Căn-bản Bát-nhă



Tức là thể-tánh Bát-nhă, tuy sẵn có trong mỗi chúng-sanh, nhưng phải nhờ có tu-hành mới được hiển lộ.



3.      Hậu-đắ ;c Bát-nhă



Tức là diệu-dụng Bát-nhă, do hành-giả sau khi chứng đặng “căn bản Bát-nhă” rồi mới được diệu-dụng này.



*



       BA-LA-MẬT-ĐA : Trung-hoa dịch âm chữ Phạn “Paramita”, có hai nghĩa:



1.      Đáo-bỉ-ngạ n



Đến bờ bên kia. Trí-huệ Bát-nhă có công-năng đưa chúng-sanh từ bờ mê-muội triền-phược của phàm-phu bên này, qua đến bờ giác-ngộ giải-thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là “Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa”.



2.      Cứu-cánh viên-măn



Hoàn-toàn rốt-ráo. Theo tục-ngữ Ấn-độ, phàm làm việc ǵ khi đă hoàn-toàn viên-măn, th́ gọi là “Ba-La-Mật-Đa”. Trí-huệ Bát-nhă là loại trí-huệ đă rốt-ráo viên-măn, nên gọi là “Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa”.





TÂM: Chữ “Tâm” có nhiều nghĩa.



1.      Tâm



Quả tin, như “tâm can tỳ phế thận”.



2.      Tâm:



Chứa nhóm và sanh khởi, như “tập khởi tâm”.



3.      Tâm



Chứa nhóm, như “tích tập tâm”.



4.      Tâm



Sanh diệt không gián đoạn, như “đẳng vô gián tâm”.



5.      Tâm



Nhớ nghĩ lo lường, như “tư lương tâm”.



6.      Tâm



Rơ-ràng phân biệt, như “minh liễu phân biệt tâm”.



7.      Vọng-tâm



Tâm hư vọng sanh diệt.



8.      Chơn-tâm



Tâm chơn-thật, như “bản thể chơn-tâm”.



9.      Tâm



Toát-yếu hay tinh-yếu, như chữ “trọng tâm”.



       Tóm lại, chữ “Tâm” ở trong Đề-mục kinh này, th́ nên dùng nghĩ “tinh-yếu”, “toát-yếu” hay “trọng tâm” mới là chính xác. V́ Phật nói kinh Đại Bát-nhă đến 600 quyển, trải qua thời-gian 22 năm mới rồi (nhị thập nhị niêm Bát-nhă đàm); kinh này (chỉ có 260 chữ) là trọng-tâm hoặc toát-yếu hay tinh-tyếu của kinh Đại Bát-Nhă, nên gọi “Ma-Ha Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh”.





       KINH: Kinh điển hay giáo-lư, do Phật hoặc Bồ-tát nói ra. Chữ “Kinh” có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau:



1.      Thường



Không thay đổi. Chơn-lư của Phật không thay đổi, dù Phật quá-khứ, hiện-tại, vị-lai cũng đều nói chơn-lư như vậy.



2.      Đường canh



Đường chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi, xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. C̣n kinh là sự tổng-hợp ghi chép các lời nói của Phật hoặc Thánh hiền.



3.      Hợp (khế)



Kinh của Phật “hợp với chơn-lư của vũ-trụ” và “hợp với căn-cơ tŕnh-độ của chúng-sanh”. Cũng một bộ kinh, mà tùy theo tŕnh-độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lư tu hành th́ đều được khỏi khổ luân-hồi, không xót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là “Khế kinh”.



       Tóm lại, “Ma-Ha Bát-Nhă Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinh” là “Kinh toát-yếu kinh Đại Bát-Nhă”.



       Nói về Danh, Tướng, Thể, Dụng của kinh này:



       Danh: Tên Kinh này dùng pháp “Bát-nhă” làm tên.



       Tướng: Kinh này lấy “Đại-thừa” làm giáo-tướng.



       Thể: Kinh này lấy “Thật-tướng” làm thể.



       Dụng: Kinh này lấy “độ thoát khổ ách” làm dụng.



       Tôn-chỉ: Kinh này lấy “quán-chiếu” làm tôn-chỉ.



Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 4 of 11: Đă gửi: 12 January 2006 lúc 8:43pm | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

Năm uẩn tức là “Không” (Bát-nhă), “Không” tức là Năm uẩn.



       Nói năm uẩn tức là nói tất cả các pháp. Tất cả các pháp đều có hai phần: Tánh và Tướng. Tánh của các pháp th́ không có h́nh tướng. Kinh gọi là “không tướng” (thị chư pháp không tướng). Bởi “không tướng” nên không sai khác, không sanh diệt, không hư-hoại v.v… cũng gọi là thật-tướng, chơn-tướng, chơn-tánh, chơn-không, chơn-như hay chơn-tâm v.v…



       Tướng của các pháp th́ có h́nh tướng, như năm uẩn hay các pháp sai khác, có sanh diệt, hư dối không thật, rốt cuộc hoàn không. Kinh chép: “ngũ uẩn giai không”.



       Thí dụ như ṿng, kiểng, xoa, xuyến là “tướng” của vàng; băng, tuyết, mù-sương, nước đá là “tướng” của nước, đều có sanh diệt, hư-giả không thật, rốt cuộc đều trở về không. C̣n “tánh” của vàng hay “tánh” của nước th́ không có các tướng: dài, ngắn, vuông, tṛn v.v… (dụ cho không tướng). V́ “không tướng” nên không sanh diệt hư-hoại; dụ như thật-tướng, chơn-tướng hay chơn-không v.v… (Đây chỉ là thí dụ cho dễ hiểu, chứ không phải “vàng” hay “nước” là thật-tướng hay chơn-tướng v.v…).



       Đoạn kinh này có hai từng đạo-lư, cạn và sâu khác nhau. Từng đạo-lư thứ nhất, dùng hai chữ “chẳng khác”.



       Năm uẩn “chẳng khác” với Không

       Không “chẳng khác” với Năm uẩn.



       Nghĩa là đem “năm uẩn” với “chơn-không” để so-sánh nhau: Lấy “năm uẩn” so-sánh với “chơn-không” không khác; và lấy “chơn-không” để so-sánh với “năm uẩn” cũng không khác. Tuy không khác, nhưng có người hiểu: vẫn c̣n một bên “năm uẩn” và một bên “chơn-không”. Cũng như nói “sóng và nước không khác”, nhưng vẫn c̣n chấp: sóng và nước hai thứ riêng biệt.



       Đến từng đạo-lư thứ hai, có phần sâu hơn, lại dùng hai chữ “tức là”:



       Năm uẩn “tức là” Không

       Không “tức là” Năm uẩn.



       Nghĩa là: “năm uẩn” tức là “chơn-không”, “chơn-không” tức là “năm uẩn”. Năm uẩn với chơn-không không c̣n hai phần riêng biệt nữa. Cũng như nói: sóng tức là nước, nước tức là sóng, không có riêng khác.



       Từng đạo-lư thứ nhứt nói: Năm uẩn “chẳng khác” với Không, Không “chẳng khác” với Năm uẩn, tức là nói:



       Tướng của các pháp “chẳng khác” với Tánh của các pháp. Tánh của các pháp “chẳng khác” với Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) “không khác” với Đường (tánh); Đường “không khác” với Kẹo.



       Từng đạo-lư thứ hai nói: Năm uẩn “tức là” Không, Không “tức là” Năm uẩn; tức là nói:



       Tướng của các pháp “tức là” Tánh của các pháp. Tánh của các pháp “tức là” Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) “tức là” Đường (tánh); Đường “tức là” Kẹo.



       Muốn rơ thêm đoạn này, chúng tôi xin thí-dụ như sau: Như người mê ngủ chiêm-bao (dụ chúng-sanh mê-muội) thấy các cảnh vật khổ vui v.v… V́ mê-mộng nên họ chấp các cảnh vật ấy là thật, rồi cũng vui buồn cười khóc v.v…



       Trái lại, người thức (dụ Bồ-tát tu trí-huệ Bát-nhă) thấy các cảnh chiêm-bao kia đều không (ngũ uẩn giai không) nên không bị cảnh chiêm-bao làm cho họ khổ sở (độ nhứt thế khổ ách).



       Người thức kia (dụ Ngài Quán-Tự-Tại Bồ-tát) biết rằng: V́ tâm chiêm-bao hiện ra các cảnh chiêm-bao, nên nói:



       “Cảnh chiêm-bao (sắc) “không khác” với tâm chiêm-bao (không), Tâm chiêm-bao “không khác” với Cảnh chiêm-bao; Cảnh chiêm-bao “tức là” Tâm chiêm-bao, Tâm chiêm-bao “tức là” Cảnh chiêm-bao”.



       Lên một từng nữa, Phật dạy:



-        Chúng-sanh v́ mê bản-thể chơn-tâm thanh-tịnh của ḿnh (chơn-không) nên vọng hiện ra thế-giới và chúng-sanh, tức là cảnh-giới của chúng ta sống đây (trong kinh cũng gọi là cảnh đại-mộng”. Rồi chúng-sanh vọng-chấp cho là cảnh thật, nên cũng mừng giận khổ vui v.v… cũng như người chiêm-bao (tiểu mộng) không khác, nên gọi là “mộng-tưởng điên-đảo”.



Bồ-tát đă giác-ngộ (như người thức tỉnh) dùng trí-huệ Bát-nhă (như người trí đă thức) thấy cảnh-giới của chúng ta đang sống đây là cảnh đại-mộng, đều do tâm hiện ra, nên Bồ-tát dạy: “Các pháp đều không (ngũ uẩn giai không), do tâm hiện ra, nên các pháp chẳng khác với tâm (không), tâm chẳng khác với các pháp; các pháp tức là tâm, tâm tức là các pháp”.



Tóm lại, đồng một bản-thể chơn-tâm thanh-tịnh không khác, nhưng chúng-sanh v́ vô-minh vọng-tưởng điên-đảo, nên thấy có năm uẩn hay thế-giới chúng-sanh, rồi theo cảnh đại-mộng này mà thọ khổ.



Trái lại, Bồ-tát đă giác ngộ (người đă thức giấc đại-mộng) dùng trí-huệ Bát-nhă thấy cảnh đại-mộng này (5 uẩn hay các pháp) đều không, chỉ do tâm hiện ra, nên không c̣n bị các khổ của cảnh đại-mộng nữa (độ nhứt thế khổ ách).



V́ chúng-sanh mê, từ “tánh không” hiện ra “có sắc”, nên nói: “sắc, chẳng khác với không”, hay “sắc tức là không”.



V́ Bồ-tát ngộ, từ “sắc tướng” trở về “tánh không”, nên nói: “không, chẳng khác sắc”, hay “không tức là sắc”.



GIẢI DANH TỪ



       XÁ-LỢI-TO 16;: Có nhà dịch “Xá-Lợi-Phất” hay “Xá-Lợi-Phất-Đa-La”. Chữ “Phất” đồng nghĩa với chữ “Tử” (con). Ông Xá-Lợi-Tử là bực đại đệ-tử của Phật, trí-huệ thứ nhứt.



       Bà mẹ ông tên Xá-Lợi, thông-minh xuất chúng, biện luận nổi danh trong xứ, nhứt là trong khi có mang ông.



       Theo phong-tục Ấn-độ, thường lấy tên mẹ đặt cho con, nên gọi ông là Xá-Lợi-Tử (hay Phất); nghĩa là con bà Xá-Lợi.



       Theo bản dịch của ngài Thi-Hộ chép: “Trong khi Đức Thế-Tôn ở non Linh-Thứu nhập định Thậm-thâm-quang-minh, nói chánh pháp Tam-ma-đề, th́ ông Xá-Lợi-Phất bạch với ngài Quán-Tự-Tại Bồ-tát rằng: “Nếu có người muốn tu pháp-môn thậm-thâm Bát-nhă, th́ phải tu như thế nào?” Nhơn đó ngài Quán-Tự-Tại gọi ông Xá-Lợi-Phất mà giảng nói kinh này”.



       SẮC, tức là “Sắc-uẩn”: Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những h́nh tướng, như thân thể và cảnh vật, gọi là “sắc uẩn”.



       Sắc uẩn gồm có 11 món: Năm căn và sáu trần.



       Năm căn là:



1. Nhăn căn: Con mắt.

2. Nhĩ căn:    Lỗ tai.

3. Tỹ căn:      Lỗ mũi.

4. Thiệt căn: Cái lưỡi.

5. Thân căn: Thân thể.



       Sáu trần là:



       1. Sắc trần:        & nbsp;  Cảnh bị thấy của mắt.

       2. Thanh trần:       Ti̓ 1;ng bị nghe của tai.

       3. Hương trần:      Mùi bị ngửi của mũi.

       4. Vị trần:        & nbsp;    Vị bị nếm của lưỡi.

       5. Xúc trần:        & nbsp; Cảnh bị xúc của thân.

       6. Pháp trần:        Cảnh bị biết của ư-thức; tức là “vô-biểu-sắc”. Sắc này tiêu-biểu ra ngoài, nhưng đối với nội tâm (ư-thức) chúng ta có thể thấy rơ-ràng.



       THỌ, tức là “Thọ uẩn”. Thọ là lănh-thọ. Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh ra lănh-thọ. Sự lănh-thọ có năm: 1.- Thọ khổ, 2.- Thọ vui, 3.- Thọ buồn, 4.- Thọ mừng, 5.- Thọ không vui không buồn.



       TƯỞNG, tức là “Tưởng uẩn”. Tưởng là tưởng nhớ h́nh tượng của các cảnh. Do sau khi tiếp xúc và lănh-thọ các cảnh khổ vui rồi, sanh ra tưởng-nhớ.



       HÀNH, tức là “Hành uẩn”. Hành là sự thay đổi biến-chuyển của tâm niệm. Trong 51 món Tâm-sở, trừ Thọ và Tưởng ra, c̣n 49 Tâm-sở và 21 món Tâm Bất-tương-ưng, đều thuộc về Hành-uẩn.



       THỨC, tức là “Thức uẩn”. Thức nghĩa là hiểu biết phân biệt; có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức, chia ra làm tám loại:



Nhăn thức, cái biết của mắt, phân-biệt các cảnh sắc.
Nhĩ thức, cái biết của tai, phân-biệt các tiếng tăm.
Tỹ thức, cái biết của mũi, phân-biệt các mùi.
Thiệt thức, cái biết của lưỡi, phân-biệt các vị-trần.
Thân thức, cái biết của thân, phân-biệt xúc trần.
Ư-thức, cái biết của ư, phân-biệt các pháp trần (cảnh nội tâm).
Mạt-na thức, cái biết thứ 7, chấp thức thứ 8 làm ngă.
A-lại-da thức, cái biết thứ 8, chứa chủng-tử các pháp.




5 UẨN



               Vật chất        : Sắc      - Sắc pháp         &n bsp;         &n bsp;11



               Tinh-thần   &nb sp;    : Thọ      - Tâm-sở                        51 món

                                       : Tưởng - Tâm bất-tương-ưng    24

                                       : Hành    - Tâm bất-tương-ưng

                                       : Thức    - Tâm-vương        ;        8



                Vật chất + Tinh-thần    = 94 pháp Hữu-vi



KHÔNG, tức đoạn sau nói “Không tướng”. Cái “Không” đây, không phải hư-không, ngoan-không hay cái “không” đối với cái có; cũng không phải thủ-tiêu hết các vật hữu t́nh mà nói là không; và cũng không phải cái “không” của Tiểu-thừa (Thiên-không).



       Cái “Không” đây, tức là bản-tánh thanh-tịnh không có các h́nh tướng. V́ “bản tánh không” này, không có h́nh tướng, nên gọi là “Không tướng” (tướng không). V́ nó không sanh-diệt, không hư-dối, nên cũng gọi là “chơn-không” hay thật-tướng,chơn-tướng, chơn-tánh, chơn-tâm, chơn-như v.v…



       Tóm lại, kinh này nói “năm uẩn” tức là bên Duy-thức nói “94 pháp hữu-vi”. Kinh này nói “không” hay “không tướng”, tức là bên Duy-thức nói “sáu pháp vô-vi”.



       Kinh này nói: “Sắc chẳng khác với không” hay nói: “Sắc tức là không”, là nói: “Pháp hữu-vi (tướng) không khác với pháp vô-vi” (tánh), hay nói: “Pháp hữu-vi tức là pháp vô-vi ”.



__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
vitbau
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 15
Msg 5 of 11: Đă gửi: 13 January 2006 lúc 9:42pm | Đă lưu IP Trích dẫn vitbau

To: bachngoc,
Chỉ một câu gửi tới bachngoc: "Xin cảm ơn".

__________________
OM MANI PADME HUM
Quay trở về đầu Xem vitbau's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vitbau
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 6 of 11: Đă gửi: 15 January 2006 lúc 9:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

I - GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Sáu chữ BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH:

Chữ TÂM nói ra thật rất khó nói, bởi v́ chân tâm, vọng tâm cũng là nó, chánh tâm, tà tâm cũng là nó. Kinh HOA NGHIÊM nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", vậy vũ trụ vạn hữu và vạn vô, tất cả đều là nó. Nói "TÂM BAO GỒM HƯ KHÔNG PHÁP GIỚI" cũng c̣n chưa đúng, v́ nếu nói như vậy th́ tâm là tâm, hư không pháp giới là hư không pháp giới, thành ra hai rồi. C̣n nói đến "BỔN TÂM", bổn tâm tức là tự tánh, tự tánh là BẤT NHỊ (không hai). Hư không pháp giới tức là TÂM, TÂM tức là hư không pháp giới, chẳng phải là hai cái, không có khác biệt, như vậy mới đúng với cái nghĩa BẤT NHỊ của tự tánh. Nhưng tâm của chúng ta hiện nay th́ có muôn ngàn sai biệt, không những một ḿnh có đủ thứ tâm như tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm cống cao ngă mạn, tâm ác, tâm thiện, tâm tín, tâm nghi v.v... mà muôn ngàn người lại có muôn ngàn cái tâm sai biệt bất đồng nữa. Bây giờ TÂM KINH nầy là muốn làm cho tất cả muôn ngàn cái tâm sai biệt đều đạt đến chỗ hoàn toàn không sai biệt, hồi phục lại cái BẤT NHỊ của tự tánh, cho nên Kinh này chỉ rơ đường lối tu hành cho chúng ta, dạy chúng ta y theo đó mà thực hành để đạt đến chỗ BẤT NHẤT BẤT NHỊ, chỗ hoàn toàn không có sai biệt, không những không có sai biệt cũa cá nhân, cũng không có sai biệt của chúng sanh, đây là ư nghĩa cũa hai chữ TÂM KINH vậy.

Chữ KINH là chữ thông thường, không cần phải giải nữa.

II - GIẢI THÍCH NỘI VĂN

QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT HÀNH THÂM BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA THỜI, CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG, ĐỘ NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH.

QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT: Nhiều người cho là Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng tôi nói là Quán Thế Âm Bồ Tát cũng được, nói là tự tánh của tất cả mọi người vốn có cũng được, bởi v́ TỰ TÁNH tức là QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT, TỰ TÁNH tức là QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT, cũng như Lục Tổ nói "TỰ TÁNH TỰ ĐỘ", Quán Tự Tại Bồ Tát tự tánh tự độ, cái tự tánh Quán Âm của ḿnh cũng phải tự tánh tự độ mới được. Không những là tự tánh Quán Âm mà c̣n là tự tánh Phật nữa: Phật thuyết Bát Nhă Tâm Kinh nầy không những chỉ nói với hàng Bồ Tát, mà cũng là dạy cho tất cả chúng sanh, mỗi mỗi đều phải tự tánh tự độ, cho nên tôi nói Quán Tự Tại Bồ Tát là Quán Thế Âm hay là tự tánh của chúng ta cũng được.

HÀNH THÂM BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA THỜI:

HÀNH là thực hành. THÂM là h́nh dung Bát Nhă như Ma Ha Bát Nhă (Đại Bát Nhă), Kim-Cang Bát Nhă và THÂM BÁT NHĂ trong Kinh nầy cái ư cũng giống nhau. Chữ THÂM nầy tức là siêu việt số lượng, không phải đối với cạn mà nói sâu, cũng như chữ Đại của Đại Bát Nhă, không phải đối với nhỏ mà nói lớn, mà là siêu việt số lượng, nếu có số lượng th́ không được gọi là ĐẠI, nếu có số lượng th́ không được gọi là THÂM, nếu có số lượng th́ không phải là Bát Nhă.

BÁT NHĂ dịch là trí huệ, nhưng trí huệ nầy không phải như trí huệ của thế gian; trí huệ của thế gian cần phải qua sự tác ư mới dùng được, c̣n Bát Nhă của tự tánh th́ không cần sự tác ư. Cái dụng của Bát Nhă rất lớn, không có khuông khổ, không bị tất cả hạn chế, do đó sức dụng của Bát Nhă với sự ứng dụng trí huệ của thế gian khác nhau, v́ thế nên người dịch không dịch ngay là trí huệ mà chỉ y theo tiếng Phạm (Ấn Độ) gọi là Bát Nhă. Tổ Sư nói: "Không có Bát Nhă không phải là Bát Nhă, có Bát Nhă cũng không phải là Bát Nhă". Không có Bát Nhă đương nhiên không phải là Bát Nhă rồi, nhưng tại sao có Bát Nhă cũng chẳng phải là Bát Nhă? Bởi v́: CÓ đối với KHÔNG là tương đối, lọt vào tứ cú (Tứ cú: có, không, chẳng có chẳng không, cũng có cũng không), c̣n BÁT NHĂ th́ không thể lọt vào tứ cú được, cho nên nói có BÁT NHĂ cũng chẳng phải BÁT NHĂ là lư nầy vậy.

Vậy muốn HÀNH THÂM BÁT NHĂ để làm ǵ? Là để đạt đến BA LA MẬT ĐA. Bốn chữ nầy từ tiếng phạm dịch ra, chữ ĐA là tiếng đệm, không có nghĩa, c̣n ba chữ BA LA MẬT nghĩa là bờ bên kia. Chúng ta ở bờ bên nầy th́ có khổ, có phiền năo, không được tự do tự tại, nếu chúng ta phát huy được cái đại dụng của BÁT NHĂ th́ được đạt đến bờ bên kia; bờ bên kia là thí dụ chỗ tự do tự tại, không có phiền năo và khổ sở.

Bây giờ chúng ta THAM THIỀN, đề câu thoại đầu, khởi lên nghi t́nh, tức là hành THÂM BÁT NHĂ rồi, chỉ cần dũng mănh tham cứu măi, tương lai nhất định sẽ đến được bờ bên kia. Tham tới lúc ngộ tức là CHIẾU KIẾN NGŨ UẨN GIAI KHÔNG. Trong Kinh Lăng Nghiêm nói đến quá tŕnh phá ngũ uẩn: là từ s¡c uẩn đến thức uẩn, y theo thứ lớp mà phá, khi phá được thức uẩn rồi là KIẾN TÁNH. Đến đây, tất cả chướng ngại đều bị quét sạch, cho nên Kinh nói GIAI KHÔNG.

Phật pháp nói chữ KHÔNG là để hiện ra cái dụng tích cực của tự tánh, chứ không phải là cái rỗng không, tiêu cực như người đời hay hiểu lầm, cũng không phải là cái không ngơ. Chữ KHÔNG nầy kỳ thực nói ra rất d­ hiểu, ví như một căn nhà, nếu không có cái KHÔNG (chỗ trống) th́ không ở được, một cái bàn không có cái KHÔNG th́ chẳng thể để đồ được, một cái tách nếu không có cái KHÔNG th́ chẳng thể đựng trà, đựng nước, đựng cà phê được, cho nên có thể suy ra, bất cứ cái ǵ nếu không có cái KHÔNG th́ chẳng thể dùng được. Muốn dùng th́ phải có cái KHÔNG, cái KHÔNG đến cùng tột th́ cái dụng cũng được đến cùng tột. Cái dụng của tự tánh cũng vậy, h­ KHÔNG đến cực th́ dụng đến cực, mà dụng đến cực tức là Phật, cũng là hoàn toàn phát huy được cái đại dụng của Bát Nhă, đến lúc đó cái đại dụng của BÁT NHĂ cùng kh¡p hư không pháp giới, ánh sáng ấy chiếu đến đâu th́ tất cả tai nạn khổ sở đều bị tiêu tan sạch. Chữ ĐỘ là độ thoát, tức là ĐỘ THOÁT NHẤT THIẾT KHỔ ÁCH rồi.

Đoạn thứ nhất nầy là nói tổng quát, văn sau sẽ lần lượt nói từ lớp.

XÁ LỢI TỬ, SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC, SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, DIỆC PHỤC NHƯ THỊ.

Hai chữ XÁ LỢI là tiếng Ấn Độ, là tên của người mẹ. Tử là con (tiếng Hán). XÁ LỢI TỬ tức là Xá Lợi Phất trong Kinh Di Đà, là đại diện đương cơ của Kinh nầy. Phật mỗi lần thuyết pháp đều có một vị đại diện đương cơ, để đại diện người nghe đối đáp với Phật. Trong mỗi cuốn Kinh, Phật tuy chỉ nói với một vị đại diện đương cơ, kỳ thực cũng là nói với đại chúng cùng nghe.

SẮC BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ SẮC:

Theo sự hiểu biết thông thường, SẮC là tất cả vật chất có h́nh có tướng, KHÔNG th́ không phải là vật chất, hai cái khác nhau, nhưng ư của Kinh nầy th́ nói SẮC, KHÔNG bất nhị, chẳng có khác biệt.

Có người giải câu Kinh nầy rằng: Thí dụ như cái tách là SẮC, đập bể rồi thành KHÔNG, hoặc nói: cái tướng là SẮC, cái tánh vốn KHÔNG. Nếu giải thích như vậy th́ thành ra hai rồi, bởi v́ họ nói tánh với tướng bất đồng, SẮC với KHÔNG khác nhau. Nếu nói cái tách đập bể rồi thành KHÔNG cho là đúng đi, nhưng làm sao mà hợp cái KHÔNG đó lại thành SẮC được? Như Kinh Lăng Nghiêm nói: HỢP KHÔNG CHẳNG THÀNH SẮC, PHÂN TÁCH KHÔNG CŨNG CHẳNG THÀNH SẮC ĐƯỢC. Dẫu cho giải câu SẮC BẤT DỊ KHÔNG như thế là đúng đi, c̣n câu KHÔNG BẤT DỊ SẮC th́ làm sao mà giải thích?

Kỳ thực như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", S¡c là do tâm tỖ, KHÔNG cũng là do tâm tỖ, hai cái đều không có tự tánh th́ đâu cần tiêu diệt SẮC rồi mới có thể thành KHÔNG! cũng không cần phân biệt là tánh hay là tướng. Lúc chúng ta thấy SẮC, SẮC vốn là KHÔNG, bởi v́ cái SẮC đó do tâm tỖ, vốn không có thật, cho nên nếu không chấp cái SẮC là thật th́ SẮC TỨC THỊ KHÔNG, không chấp cái KHÔNG là thật th́ KHÔNG TỨC THỊ SẮC. Hai cái vốn không khác biệt, chỉ v́ chúng sanh có bệnh hay chấp thật nên mới phân biệt có SẮC có KHÔNG, nếu không chấp thật th́ không cần đập bể hay phân tách, tự nhiên SẮC, KHÔNG bất nhị, không có khác nhau.

Có người giải SẮC, KHÔNG theo nghĩa nhân duyên cho là: Nhân duyên ḥa hợp th́ thành SẮC, nhân duyên tan ră th́ thành KHÔNG. Nếu giải như vậy đă là hai rồi, là có khác biệt rồi. Kinh Lăng Nghiêm nói: "PHI NHÂN DUYÊN, PHI TỰ NHIÊN". Tất cả Kinh li­u nghĩa đều như vậy, chúng ta lấy Kinh để chứng Kinh th́ được biết cái nghĩa của Kinh nầy không phải là nhân duyên. Như vậy SẮC với KHÔNG không khác th́ SẮC TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ SẮC, cũng là cái nghĩa bất nhị của tự tánh vậy.

SẮC uẩn trong ngũ uẩn như vậy th́ bốn uẩn kia cũng như vậy, cho nên nói DIỆC PHỤC NHƯ THỊ. Cũng như lấy thọ uẩn để nói th́ "THỌ BẤT DỊ KHÔNG, KHÔNG BẤT DỊ THỌ, THỌ TỨC THỊ KHÔNG, KHÔNG TỨC THỊ THỌ". Ba uẩn tưởng, hành, thức, cũng theo đó mà suy ra. Không những thọ, tưởng, hành, thức như vậy, mà vũ trụ vạn vật tất cả đều phải như vậy. Ví như lấy cái tách vào đó mà nói th́: "Tách bất dị không, không bất dị tách, tách tức thị không, không tức thị tách.", lấy ta mà nói th́ "Ta bất dị không, không bất dị ta, ta tức thị không, không tức thị ta.", lấy Phật mà nói th́ "Phật bất dị không, không bất dị Phật, Phật tức thị không, không tức thị Phật". Nói tóm lại tất cả đều như vậy.

Cái nghĩa bốn câu ở trong Kinh nầy cũng như nghĩa ba câu trong Kinh Kim-Cang và cái nghĩa "LY TỨ CÚ, TUYỆT BÁCH PHI" mà tôi đă có giảng qua, cũng không khác biệt.

XÁ LỢI TỬ, THỊ CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG, BẤT SANH BẤT DIỆT, BẤT CẤU BẤT TỊNH, BẤT TĂNG, BẤT GIẢM, THỊ CỐ KHÔNG TRUNG VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, VÔ NHĂN, NHĨ, TỲ, THIỆT, THÂN, Ư, VÔ SẮC, THANH HƯƠNG, VỊ XÚC, PHÁP, VÔ NHĂN GIỚI NĂI CHÍ VÔ Ư THỨC GIỚI.

Đoạn nầy chữ VÔ thí dụ như cây chổi để quét sạch tri kiến của phàm phu. Đoạn trên đă nói "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO", cũng gọi là KHÔNG TƯỚNG, cái KHÔNG TƯỚNG đó chẳng phải chỉ KHÔNG những cái có h́nh tướng, mà cũng KHÔNG những cái chẳng có h́nh tướng, như thấy có chẳng phải thật có, là KHÔNG TƯỚNG, thấy không chẳng phải thật không, cũng là KHÔNG TƯỚNG, thấy chân chẳng phải thật chân, là KHÔNG TƯỚNG, thấy giả chẳng phải thật giả, cũng là KHÔNG TƯỚNG, nói tóm lại, không có một pháp nào chẳng phải là KHÔNG TƯỚNG, cho nên Kinh nói CHƯ PHÁP KHÔNG TƯỚNG là vậy. Cái KHÔNG TƯỚNG nầy chẳng phải đối với có mà nói không, nó không có đối đăi, không lọt vào tứ cú. Hai chữ KHÔNG TƯỚNG cũng là biệt danh của tự tánh; bởi v́ nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt, cho nên nói KHÔNG TRUNG (trong KHÔNG TƯỚNG) VÔ SẮC, VÔ THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THỨC, là để phá ngũ uẩn, VÔ NHĂN, NHĨ, TỲ, THIỆT, THÂN, Ư là để phá lục căn, VÔ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC, PHÁP là để phá lục trần, VÔ NHĂN GIỚI NĂI CHÍ VÔ Ư THỨC GIỚI là để phá lục thức. Chữ VÔ nầy chẳng phải là cái vô của tuyệt diệt mà là cái vô của "vô thật" (không thật). Như việc trong chiêm bao là vô thật, nhưng chẳng phải không có chiêm bao, chẳng có thực tế, mà phàm phu chấp sự việc có thật, đó là tri kiến sai lầm. Nên đoạn nầy dùng chữ VÔ để quét sạch tri kiến chấp thật của phàm phu. VÔ VÔ MINH, DIỆC VÔ VÔ MINH TẬN, NĂI CHÍ VÔ LĂO TỬ, DIỆC VÔ LĂO TỬ TẬN.

Đoạn nầy là quét thừa Duyên Giác (quán thập nhị nhân duyên mà giác ngộ gọi là Duyên Giác). Trong 12 nhân duyên, đầu tiên là VÔ MINH, cuối cùng là LĂO TỬ, ở giữa là: hành, thức, danh s¡c, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh. Ở đây dùng hai chữ NĂI CHÍ để thay thế cho mười nhân duyên ở giữa. Thừa Duyên Giác tu 12 nhân duyên được chứng quả Bích Chi Phật (dịch là độc giác). Đoạn trên đă nói, tất cả pháp đều là KHÔNG TƯỚNG, KHÔNG TƯỚNG tức là chẳng phải thật, vô minh đă chẳng phải thật th́ không có vô minh để TẬN (hết), lăo tử chẳng phải thật th́ không có lăo tử để tận, (LĂO TỬ TẬN là Niết Bàn của Tiểu Thừa). Nhưng trước m¡t chúng ta thấy có già, có chết th́ làm sao nói chẳng phải thật được? Làm sao nói vô lăo tử được? Lăo tử tức là sanh tử, hiện nay chúng ta thấy rơ ràng có sanh có tử, nhưng chẳng biết cái sanh tử đó là do cảm giác sai lầm của chúng ta sanh ra. Trong Kinh Viên Giác Phật có nói bốn thứ thí dụ, ở đây tôi chỉ nêu ra một: Do vọng tâm của chúng ta ngày đêm hoạt động không ngừng cho nên nhất định phải thấy có sanh tử luân hồi, cũng như thân ḿnh xoay không ngừng th́ nhất định phải thấy căn nhà xoay vậy. Căn nhà xoay dụ cho sanh tử luân hồi, căn nhà ngưng xoay dụ cho Niết Bàn. Cái xoay của căn nhà là do cái xoay của thân thể sanh ra cảm giác sai lầm như thế, căn nhà ngưng xoay dĩ nhiên cũng là do cảm giác sai lầm mà ra, bởi v́ căn nhà có xoay hồi nào đâu mà nói căn nhà ngưng xoay? Do vọng tâm hoạt động thấy có sanh tử luân hồi và do vọng tâm ngưng hoạt động mà hiển hiện Niết Bàn (li­u thoát sanh tử) cũng là lư lẽ nầy vậy. Như thế chứng tỏ thập nhị nhân duyên chẳng phải thật, mà Thừa Duyên Giác chấp đó là thật, cho nên đoạn nầy dùng chữ VÔ để quét cái tri kiến chấp thật của Thừa Duyên Giác.

VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO.

Đoạn nầy là quét Thừa Thanh Văn (Văn Phật thanh giáo: nghe tiếng Phật dạy mà ngộ ĐỖ, gọi là Thanh Văn). Thừa Thanh Văn gọi KHỔ TẬP, DIỆT, ĐẠO là tứ thánh đế, chúng ta ở trong sanh tử chịu đủ thứ KHỔ, là do cái tâm tạp nhi­m tích TẬP, phải tu Ngũ Đ́nh Tâm Quán của ĐẠO mới có thể chứng quả A La Hán, rồi cái khổ sanh tử được DIỆT, nên gọi là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Nhưng đoạn trên đă nói, sanh tử là do cảm giác sai lầm của vọng tâm hoạt động mà sanh ra, th́ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO nầy chẳng phải là thật, cho nên ở đây lấy chữ VÔ để quét cái tri kiến chấp thật của Thừa Thanh Văn.

VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, DĨ VÔ SỞ ĐẮC CỐ, BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI NGẠI, VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ.

Đoạn nầy là quét Bồ Tát Thừa, tức là Đại Thừa. Đối với Tiểu Thừa, Phật quở là ngu si v́ c̣n chấp pháp, chấp quả A La Hán là thật, chấp quả Bích Chi Phật là thật, không chịu buông bỏ để tiến lên Đại Thừa, cho nên bị Phật quở là tiêu nha bại chủng, như hạt lúa bị cháy rồi không thể dùng làm hạt giống được.

Đối với cái ngu si của Tiểu Thừa mà nói Đại Thừa là trí huệ, nếu người tu Đại Thừa chấp trí huệ là thật th́ bệnh chấp thật vẫn c̣n, cho nên nói VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, ư là không có trí huệ cho ḿnh ĐẮC được (VÔ SỞ ĐẮC), v́ vô sở đ¡c mới có tư cách làm Bồ Tát. Hai chữ BỒ TÁT là tiếng phạm, toàn danh là BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, dịch là Giác Hữu T́nh, tức là giác ngộ chúng sanh. Bổn phận của Bồ Tát là độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh th́ phải làm cho chúng sanh giác ngộ, nếu chẳng giác ngộ th́ chẳng phải là độ, bởi v́ chẳng giác ngộ th́ chẳng thể rời khỏi căn nhà sanh tử trong mở m¡t chiêm bao, chẳng thể giải thoát cái khổ của sanh tử luân hồi. Nếu Bồ Tát có sở đ¡c tức là c̣n chấp thật, đă tự ḿnh c̣n chấp th́ làm sao phá được cái chấp của chúng sanh?

Nói đến ba chữ VÔ SỞ ĐẮC th́ chúng sanh rất khó tin, v́ vậy, BÁT NHĂ TÂM KINH nầy tuy chỉ có 262 chữ, nhưng Phật cũng phải thêm mấy câu để giải thích cái VÔ SỞ ĐẮC nầy: nếu tất cả đều vô sở đ¡c th́ tâm được thanh tịnh, tâm được thanh tịnh th́ cái dụng của Bát Nhă tự hiện, dụng của Bát Nhă hiện ra th́ đạt đến bờ bên kia, cho nên Kinh nói Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI NGẠI, muốn làm cho tâm vô quái ngại th́ phải VÔ SỞ ĐẮC, nếu có sở đ¡c th́ sẽ bị cái sở đ¡c ấy quái ngại rồi. Đă được tâm vô quái ngại tức là tự do tự tại, th́ đương nhiên VÔ HỮU KHỦNG BỐ rồi. Đoạn nầy là quét cái tri kiến chấp thật của Đại Thừa.

VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG, CỨU CÁNH NIẾT BÀN.

Hai chữ vi­n ly cũng là cây chổi, mấy đoạn trước lấy chữ VÔ làm cây chổi, đoạn nầy muốn quét cái tri kiến chấp Phật, nên dùng hai chữ VIỄN LY để nhấn mạnh thêm cái tác dụng của cây chổi. Nhiều người giải đoạn nầy rằng: "Xa ĺa cái điên đảo mộng tưởng th́ chứng nhập cứu cánh Niết Bàn". Nếu chấp có cứu cánh Niết Bàn thật để chứng nhập th́ cái tri kiến chấp thật nầy tức là điên đảo mộng tưởng, cho nên đoạn nầy CỨU CÁNH NIẾT BÀN cũng phải quét luôn.

Đoạn trên đă nói, căn nhà xoay (như sanh tử) là do cảm giác sai lầm sanh ra, th́ căn nhà ngưng xoay (như Niết Bàn) đương nhiên cũng là cảm giác sai lầm sanh ra, căn nhà vốn không có xoay th́ làm sao nói ngưng xoay được? Cho nên Kinh Lăng Già nói: "VÔ HỮU NIẾT BÀN PHẬT, VÔ HỮU PHẬT NIẾT BÀN". Đoạn nầy quét luôn cứu cánh Niết Bàn tức là lư nầy vậy.

Trong Kinh nầy, từ phàm phu, Tiểu Thừa, Đại Thừa cho đến Nhất Phật Thừa, chia làm bốn đoạn để quét, quét tới sạch trơn không c̣n ǵ để quét nữa rồi mới có tư cách thành Phật; như phần 17 trong Kinh Kim Cang, quét tới quét lui A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề đến 6-7 lần: bởi v́ quét những cấp dưới Phật th́ người ta d­ tin hơn, c̣n quét luôn cả Phật th́ người ta cảm thấy rất khó tin, nên mới phải quét tới 6-7 lần là vậy.

TAM THẾ CHƯ PHẬT, Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ, ĐẮC A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ.

Đoạn nầy mới chánh thức thành PHẬT, cứu cánh Niết Bàn của đoạn trên chưa phải thành PHẬT, phải quét luôn cứu cánh Niết Bàn, sau khi quét sạch tri kiến Phật rồi mới đủ tư cách thành PHẬT. TAM THẾ CHƯ PHẬT đều phải quét như vậy, tức là Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai đều phải y theo BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA mà thực hành, nghĩa là phải quét từ phàm phu, tiểu thừa, đại thừa, cho đến nhất Phật thừa, quét sạch tất cả tri kiến, không c̣n một pháp nào để chấp thật, rồi mới có thể đạt đến A NẬU ĐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ĐỀ (giác ngộ tối cao).

A NẬU ĐA LA dịch là vô thượng, TAM MIỆU dịch là chánh đẳng, TAM BỒ ĐỀ dịch là chánh giác, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Chánh giác đối với tà giác mà nói; như ngoại đỖ cũng có giác ngộ, nhưng v́ c̣n chấp ngă, không được thoát khỏi sanh tử luân hồi, nên gọi là tà giác. Nếu phá được nhân ngă chấp, thoát khỏi sanh tử luân hồi th́ gọi là Chánh Giác, như A La Hán, Bích Chi Phật, v́ phá hết nhân ngă chấp mà chứng được Chánh Giác, nhưng cái giác ấy chưa bằng Phật, phải chứng quả vị Bồ Tát rồi cái giác ấy mới bằng Phật được, mới gọi là Chánh Đẳng Chánh Giác. Cái giác ngộ của Bồ Tát tuy chánh lại bằng với Phật, nhưng diệu dụng th́ chưa thể bằng Phật, c̣n có Phật ở trên, không được xưng là vô thượng, phải chứng đến quả Phật rồi mới được xưng là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức là đạt đến giác ngộ cao nhất không có quả vị nào cao hơn nữa.

Nếu ở đoạn trên không dám quét luôn cứu cánh Niết Bàn th́ chỗ nầy không có tư cách thành Phật, như Kinh Kim Cang nói: "Phật Thích Ca nếu thật đ¡c được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề th́ Nhiên Đăng Phật không thọ kư cho tương lai thành Phật, hiệu Thích Ca Mâu Ni." Nếu cứu cánh Niết Bàn ở đoạn trên đă chứng nhập rồi, ở đây c̣n chứng nhập thêm lần nữa là trùng, cho nên cứu cánh Niết Bàn ở trên cần phải quét. Đoạn sau tả cái sức dụng do sự quét KHÔNG mà hiện ra, như thế mới được phù hợp với thứ tự trong Kinh. Phàm tất cả Kinh Phật, từ đầu đến cuối nhất định phải đầu đuôi tương ứng, mạch lạc rơ ràng.

CỐ TRI BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA, THỊ ĐẠI THẦN CHÚ, THỊ ĐẠI MINH CHÚ, THỊ VÔ THƯỢNG CHÚ, THỊ VÔ ĐẳNG ĐẳNG CHÚ, NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỔ, CHÂN THẬT BẤT HƯ.

Đoạn nầy di­n tả cái dụng của Bát Nhă, ở đây thần chú chia làm bốn cấp, tùy theo sự quét KHÔNG của từng tŕnh độ cao thấp mà hiện ra cái dụng lớn nhỏ bất đồng, quét trống được bao nhiêu th́ cái dụng hiện ra được bấy nhiêu. Bốn cấp thần chú là đại diện cho sức dụng, như quét sạch được tri kiến phàm phu rồi th́ được tự động hiện ra cái sức dụng bằng ĐẠI THẦN CHÚ, quét sạch được tri kiến Tiểu Thừa rồi th́ hiện ra cái sức dụng bằng ĐẠI MINH CHÚ, quét sạch được tri kiến Đại Thừa rồi th́ hiện ra cái sức dụng bằng VÔ THƯỢNG CHÚ, quét sạch được tri kiến Phật Thừa rồi th́ hiện ra cái sức dụng bằng VÔ ĐẳNG ĐẳNG CHÚ, đến đây đă quét tới chỗ không c̣n ǵ để quét nữa, sức dụng của Bát Nhă đă đạt đến cứu cánh, không có ǵ có thể bằng được, nên gọi là VÔ ĐẳNG ĐẳNG (vô đẳng khả đẳng), cuối cùng NĂNG TRỪ NHẤT THIẾT KHỔ, CHÂN THẬT BẤT HƯ, đến đây cũng là đạt đến chỗ tự do tự tại rồi.

Phật pháp nói đến tự do tự tại là không bị thời gian, không gian và số lượng hạn chế, cho nên sự tích cực của Phật pháp rất triệt để, chẳng phải v́ kiếp nầy hay kiếp sau, cũng chẳng phải trăm kiếp, ngàn kiếp, dẫu cho muôn triệu ngàn kiếp cũng không màng, tại sao vậy? Nếu muôn triệu ngàn kiếp sau, khổ c̣n trở lại nữa th́ không được kể là tự do tự tại, v́ đă bị thời gian muôn triệu ngàn kiếp hạn chế rồi, th́ làm sao gọi là tự do tự tại được? Nên sự tích cực của Phật pháp là vĩnh vi­n, nếu muôn triệu ngàn kiếp sau khổ c̣n trở lại th́ không được gọi là CHÂN THẬT BẤT HƯ.

CỐ THUYẾT BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CHÚ, TỨC THUYẾT CHÚ VIẾT: YẾT ĐẾ, YẾT ĐẾ, BA LA YẾT ĐẾ BA LA TĂNG YẾT ĐẾ, BỒ ĐỀ TÁT BÀ HA.

Sau chót nói đến chú Bát Nhă Ba La Mật Đa. Thần chú là đại diện mệnh lệnh hoặc sức dụng tự động của tự tánh, cho nên không cần dịch nghĩa, cũng không cần giải thích, nhưng cũng có Pháp sư giải rằng: "Nỗ lực tinh tấn, mau đến bờ bên kia".

Mục đích tôi giải BÁT NHĂ TÂM KINH nầy là muốn chứng tỏ sự tham thiền tức là tŕ Kinh. Nhiều người tưởng lầm tụng Kinh, niệm Kinh là tŕ Kinh, nhưng kỳ thực họ chỉ là tụng niệm chứ không phải là tŕ, tŕ là phải y Kinh mà tín thọ phụng hành mới được nói là tŕ Kinh, cũng như tụng giới không phải là tŕ giới vậy. Bây giờ chúng ta đề cái NGHI T̀NH ấy là cây chổi ôtômatic, khỏi cần tác ư muốn quét mà tự nhiên quét sạch tất cả, cũng như Tâm Kinh nầy dạy chúng ta quét từ phàm phu, tiểu thừa, đại thừa, cho đến nhất Phật thừa, quét từng thứ lớp, quét tới không c̣n ǵ để quét nữa, kết quả được KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT, biết rơ được chính ḿnh, làm chủ cho ḿnh, đạt đến tự do tự tại, cũng là đạt đến bờ bên kia (Ba La Mật) rồi vậy
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 7 of 11: Đă gửi: 16 January 2006 lúc 8:31am | Đă lưu IP Trích dẫn dieptan_dung

thaicuc đă viết:
I - GIẢI THÍCH ĐỀ KINH

Sáu chữ BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH:


VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO.

Đoạn nầy là quét Thừa Thanh Văn (Văn Phật thanh giáo: nghe tiếng Phật dạy mà ngộ ĐỖ, gọi là Thanh Văn). Thừa Thanh Văn gọi KHỔ TẬP, DIỆT, ĐẠO là tứ thánh đế, chúng ta ở trong sanh tử chịu đủ thứ KHỔ, là do cái tâm tạp nhi­m tích TẬP, phải tu Ngũ Đ́nh Tâm Quán của ĐẠO mới có thể chứng quả A La Hán, rồi cái khổ sanh tử được DIỆT, nên gọi là KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO. Nhưng đoạn trên đă nói, sanh tử là do cảm giác sai lầm của vọng tâm hoạt động mà sanh ra, th́ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO nầy chẳng phải là thật, cho nên ở đây lấy chữ VÔ để quét cái tri kiến chấp thật của Thừa Thanh Văn.

VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, DĨ VÔ SỞ ĐẮC CỐ, BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI NGẠI, VÔ QUÁI NGẠI CỐ, VÔ HỮU KHỦNG BỐ.

Đoạn nầy là quét Bồ Tát Thừa, tức là Đại Thừa. Đối với Tiểu Thừa, Phật quở là ngu si v́ c̣n chấp pháp, chấp quả A La Hán là thật, chấp quả Bích Chi Phật là thật, không chịu buông bỏ để tiến lên Đại Thừa, cho nên bị Phật quở là tiêu nha bại chủng, như hạt lúa bị cháy rồi không thể dùng làm hạt giống được.

Đối với cái ngu si của Tiểu Thừa mà nói Đại Thừa là trí huệ, nếu người tu Đại Thừa chấp trí huệ là thật th́ bệnh chấp thật vẫn c̣n, cho nên nói VÔ TRÍ DIỆC VÔ ĐẮC, ư là không có trí huệ cho ḿnh ĐẮC được (VÔ SỞ ĐẮC), v́ vô sở đ¡c mới có tư cách làm Bồ Tát. Hai chữ BỒ TÁT là tiếng phạm, toàn danh là BỒ ĐỀ TÁT ĐỎA, dịch là Giác Hữu T́nh, tức là giác ngộ chúng sanh. Bổn phận của Bồ Tát là độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh th́ phải làm cho chúng sanh giác ngộ, nếu chẳng giác ngộ th́ chẳng phải là độ, bởi v́ chẳng giác ngộ th́ chẳng thể rời khỏi căn nhà sanh tử trong mở m¡t chiêm bao, chẳng thể giải thoát cái khổ của sanh tử luân hồi. Nếu Bồ Tát có sở đ¡c tức là c̣n chấp thật, đă tự ḿnh c̣n chấp th́ làm sao phá được cái chấp của chúng sanh?

Nói đến ba chữ VÔ SỞ ĐẮC th́ chúng sanh rất khó tin, v́ vậy, BÁT NHĂ TÂM KINH nầy tuy chỉ có 262 chữ, nhưng Phật cũng phải thêm mấy câu để giải thích cái VÔ SỞ ĐẮC nầy: nếu tất cả đều vô sở đ¡c th́ tâm được thanh tịnh, tâm được thanh tịnh th́ cái dụng của Bát Nhă tự hiện, dụng của Bát Nhă hiện ra th́ đạt đến bờ bên kia, cho nên Kinh nói Y BÁT NHĂ BA LA MẬT ĐA CỐ TÂM VÔ QUÁI NGẠI, muốn làm cho tâm vô quái ngại th́ phải VÔ SỞ ĐẮC, nếu có sở đ¡c th́ sẽ bị cái sở đ¡c ấy quái ngại rồi. Đă được tâm vô quái ngại tức là tự do tự tại, th́ đương nhiên VÔ HỮU KHỦNG BỐ rồi. Đoạn nầy là quét cái tri kiến chấp thật của Đại Thừa.

VIỄN LY ĐIÊN ĐẢO MỘNG TƯỞNG, CỨU CÁNH NIẾT BÀN.

Hai chữ vi­n ly cũng là cây chổi, mấy đoạn trước lấy chữ VÔ làm cây chổi, đoạn nầy muốn quét cái tri kiến chấp Phật, nên dùng hai chữ VIỄN LY để nhấn mạnh thêm cái tác dụng của cây chổi. Nhiều người giải đoạn nầy rằng: "Xa ĺa cái điên đảo mộng tưởng th́ chứng nhập cứu cánh Niết Bàn". Nếu chấp có cứu cánh Niết Bàn thật để chứng nhập th́ cái tri kiến chấp thật nầy tức là điên đảo mộng tưởng, cho nên đoạn nầy CỨU CÁNH NIẾT BÀN cũng phải quét luôn.





Giảng giải Bát Nhă Tâm Kinh thế này th́ có mà chết thiên hạ bỡi hiểu theo văn tự nghĩa đen của kinh th́ tai hại vô cùng . Người giảng kinh này thiếu căn bản Phật Pháp , các Pháp của Đức Phật b́nh đẳng làm ǵ có cao thấp do tùy ngộ căn cơ duyên hợp mà thành . Người giảng mà c̣n phân biệt các thừa th́ làm sao giác ngộ chân lư . Nếu quét sạch các thừa th́ cần ǵ phát BỒ ĐỀ TÂM về NIẾT BÀN . Chỉ có điều khi về cơi Niết Bàn rồi th́ buông xả tất cả Pháp thế gian mà Đức Phật đă thuyết để không c̣n bám chấp pháp nữa . Trọng tâm là TRÍ HUỆ BÁT NHĂ do đâu mà có th́ không đề cập đến ?

Có nơi nói rằng Tâm vốn sẵn thanh tịnh của chúng sinh Bồ Tát như nhau, chỉ v́ vọng khởi làm che lấp chân tính. Nếu biết gạn lọc vọng trần th́ Tâm lại thanh tịnh như xưa. Đúng chăng ?
Nếu trước kia Tâm vốn sẵn thanh tịnh, rồi bị trần lao che lấp th́ cái Tâm thanh tịnh đó không đủ sức tự giữ lấy ḿnh. Nếu nó đủ sức tự giữ lấy ḿnh th́ đâu có bị trần lao khởi lên che lấp! Bây giờ nhân sinh có khổ công tu hành để t́m lại cái Tâm đó th́ ngày nào nó cũng bị trần lao che lấp lại. Như vậy Bồ Tát và chúng sinh th́ khác nhau nhiều lắm . Vài ḍng cho bạn Thaicuc suy gẫm .

Diệp Tấn Dũng

Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 8 of 11: Đă gửi: 17 January 2006 lúc 4:39am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

     Bồ tát vẩn c̣n bị ngũ uẩn che lấp


Bổn phận của Bồ Tát là độ chúng sanh, muốn độ chúng sanh th́ phải làm cho chúng sanh giác ngộ, nếu chẳng giác ngộ th́ chẳng phải là độ, bởi v́ chẳng giác ngộ th́ chẳng thể rời khỏi căn nhà sanh tử trong mở m¡t chiêm bao, chẳng thể giải thoát cái khổ của sanh tử luân hồi. Nếu Bồ Tát có sở đ¡c tức là c̣n chấp thật, đă tự ḿnh c̣n chấp th́ làm sao phá được cái chấp của chúng sanh?

Điều bạn thắc mắc tôi đă giải đáp v́ bồ tát vẩn c̣n bị ngũ uẩn che lấp , vẩn không thoát khỏi sinh tử ,tâm thanh tịnh ...Đó là tánh "không" ...mà cũng là tâm bồ đề


Khi tâm không trụ

Ḷng sẽ b́nh yên

Đây Tứ Niệm Xứ

Nẻo về Chân Tâm






























































































Sửa lại bởi thaicuc : 17 January 2006 lúc 5:08am
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 9 of 11: Đă gửi: 17 January 2006 lúc 5:22am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

        Thân chào !
Bạn thaicuc post theo tôi th́ không ǵ mà khó hiểu chẳng qua là sở tri kiến thôi
Tôi cũng tặng bạn bài thơ này tuỳ ư các bạn hiểu sau th́ hiểu

Sở thành, sở đắc bởi không
Các v́ Bồ Tát nương tùng huệ năng
Tâm không c̣n chút ngại ngăn
Nên không c̣n chút băng khoăng sợ ǵ
Đảo điên mộng tưởng xa ĺa
Niết Bàn mới đến bên kia bến bờ

Ba đời chư Phật sau, xưa
Đắc thành Chánh Giác cũng nhờ huệ năng
Trí huệ năng lực vô ngần
Đại Minh vô thượng, Đại Thần cao siêu
Trí huệ năng lực có nhiều
Thật là thần chú trừ tiêu năo phiền
Trí huệ năng lực vô biên
Dẫn đường giải thoát qua bên giác ngàn
Liền theo lời chú thuyết rằng:
Độ tha giác ngộ khắp trần chúng sanh.

Yết đế, yết đế
Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề Tát bà ha


Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 10 of 11: Đă gửi: 17 January 2006 lúc 5:28am | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

Quán âm Bồ Tát hải hà,
Thực hành bát-nhă ba-la-mật thời:
Ngài dùng trí tuệ quán soi,
Thấy rằng năm uẩn ba đời đều không.
Vượt qua khổ năo mịt mùng,
Nghe đây Xá-lợi-phất, ông nhớ là:
Sắc kia chẳng khác không mà,
Không nào khác sắc, sắc là không đây.
Thọ tưởng hành thức cũng vầy,
Tướng không muôn pháp xưa nay chớ lầm.
Chẳng sanh chẳng diệt thường năng,
Chẳng nhơ chẳng sạch chẳng tăng giảm ǵ.
Trong không mảy sắc không hề,
Thọ hành tưởng thức mọi bề đều không.
Mắt tai mũi lưỡi ư thân,
Sắc hương vị xúc pháp thanh không th́:
Sáu căn thấy biết thật chi,
Không vô minh dứt, không ǵ vô minh.
Tử sinh với dứt tử sinh,
Cùng là bốn đế thực t́nh đều không.
Trí tuệ chứng đắc chẳng ḥng,
C̣n ǵ chỗ đắc bận ḷng nữa đâu.
Nương vào bát-nhă bấy lâu,
Biết bao Bồ-tát đi sâu thực hành.
Dẹp tan chướng ngại quanh ḿnh,
Mọi điều chẳng khiến hoảng kinh, năo phiền.
Xa ĺa mộng tưởng đảo điên,
Niết-bàn rốt rào an nhiên tỏ tường.
Ba-la-mật, trí diệu thường,
Ba đời chư Phật mượn đường nương qua.
Bồ đề tột đỉnh chứng ra,
Nên coi bát-nhă ba-la-mật là:
Là lời thần chú sâu xa,
Là lời thần chú thật là quang minh.
Là lời thần chú anh linh,
Là lời thần chú thực t́nh cao siêu.
Diệt trừ khổ năo trăm chiều,
Muôn đời chân thật chẳng điều chi sai.
Ngài liền tuyên đọc chú này,
Để người tŕ niệm sáng bày chân tâm.
Ga-tê ga-tê pa-ra-ga-tê
Pa-ra-sam-ga-tê bu-đi-sva-ha
(Đi đi đừng có băn khoăn,
Bờ kia bến giác đă gần đến nơi.
Các ngài bồ-tát chớ rời,
Bờ kia bến giác sắp rồi, đi đi!)


__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 
anhkhoi09
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 October 2005
Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 63
Msg 11 of 11: Đă gửi: 17 January 2006 lúc 5:37am | Đă lưu IP Trích dẫn anhkhoi09

------------------------------------------------------------ --------------------

Bài Bát Nhă Tâm Kinh không phải là một bộ kinh to lớn và nhiều quyển như "Đại Tạng Kinh, Hoa Nghiêm Kinh hay Pháp Hoa Kinh..." đây chỉ là một bài Kinh Bát Nhă không đầy ba trăm (300) chữ, ngắn gọn nhưng rất sâu sác và triết lư rộng bao la, không bút nào tả xiết, bản kinh này không những là phần cô kết nhất của những tinh hoa trong tư tưởng triết học Phật Giáo, mà c̣n tŕnh bày con đường tu tập thực tiễn, đó là con đường hiện quán, đi vào suối nguồn tuệ giác – vô thượng ; một con đường duy nhất có thể thoát ly tất cả khổ đau ngay tại cuộc đời này. Hầu hết các Phật Tử đều thuộc ḷng v́ đó là một bài Kinh tụng niệm hàng ngày. Tuy nhiên, ít người hiểu biết một cách sâu rộng và thấu triệt được ư nghĩa của từng câu, từng đoạn trong bài Kinh này.

Để giúp cho một số Phật Tử hiểu rơ thêm về ư nghĩa của bản Tâm Kinh này tôi cố gắng sưu tầm và biên soạn ra đây một câu mà tôi cảm thấy tâm đắc nhất, hầu góp phần trong việc phổ biến Phật Pháp, nếu quí vị cao tăng hoặc trí thức Phật Giáo nào có thêm các dữ kiện hay nhận xét ǵ xin chỉ giáo theo địa chỉ E-Mail trên, để tôi học hỏi thêm.

Trước hết tôi xin sơ lược về lịch sử Kinh Bát Nhă. Về mặt lịch sử tư tưởng, kinh Bát Nhă là một bộ kinh đầu tiền truyền bá tư tưởng Đại thừa (Mahayana), bát nguồn từ miền nam Ấn Độ, thuộc trung tâm truyền giáo của Đại chúng bộ (Mahàsamghikà) và biểu tượng trung tâm của kinh này là Tánh Không (Sùnyata). Về nội dung, Tâm kinh được xem như là "Trái Tim" của toàn bộ đại Bát Nhă, cũng như của tư tưởng Phật Giáo được nói ra bởi Tuệ giác Vô thượng của Phật, nhằm dẫn dắt chúng sinh đi vào thực tại giải thoát.

Trong câu đầu tiên của bài "Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh" ta thấy Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă Ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Nếu dịch ra tiếng việt ta thấy = Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng (1) Người tỉnh thức b́nh yên (2) soi sáng như thật ràng tự tính của 5 hợp thể (3) đều là không (4) liền thoát ly mọi khổ ách. trong đoạn trên kỳ này tôi chỉ bàn tới "Ngũ Uẩn" (năm hợp thể đều là không). Tôi muốn nói tới con người. Tạo Hóa sinh ra con người đă cấu tạo thành hai phần đó là thể xác và linh hồn mới thành thực thể của con người hiện hữu trên thế gian đó là : "NGŨ UẨN".

Năm Uẩn là : Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uần.

Bây giờ ta hăy t́m hiểu về Sắc Uẩn (Rupa ajkandha), trước hết tôi muốn nói tới ư nghĩa của chữ UẨN (skandha) "thuật ngữ.’ Tiếng Phạn là Tắc-kiện-đà. cách dịch cũ là Ấm, nghĩa là che lấp, che khuất, ư nói các pháp săùc tâm che lấp chân lư. Cách dịch mới là UẨN, nghĩa là tích tập chứa nhóm, ư nói các pháp sắc tâm lớn nhỏ trước sau tích tập mà tạo ra tự thể, chẳng hạn như Sắc Uẩn, Tâm Uẩn...(thể xác và linh hồn).

SẮC UẨN : Sắc uẩn gồm có 4 thể chất đó là : Đất, nước, gió, lửa,(tứ đại) hay nói cách khác gồm có 4 đại năng tạo, bốn đại sở tạo, và bốn biểu sắc. Bốn đại có 2 nghĩa là 4 đại chúng và chấp thọ đại.

1)-Đại chúng : Bốn đại là đất, nước, gió, lửa. Chúng là hạt giống. Tất cả sự vật chất đều do 4 đại mà có nên gọi là chúng, 4 đại cũng như hạt giống. Cây được sinh ra từ hạt giống. Cũng vậy, bốn đại là cái gốc, từ đó sinh ra tất cả sự vật khác, vật chất khác, nên gọi là bốn đại chúng. Gọi tát là bốn đại. Bốn thứ này có tính chất rộng lớn, hiện diện kháp tất cả vạn vật.nó có bốn đặc tính :

a)-Sở ư đại : Chỗ nương rộng lớn; tất cả sắc pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng đều nhờ có 4 đại mà hiện hữu và tồn tại.

b)-Thể đại : Thể của bốn đại là rộng lớn, cũng có thể nói nó là bản thể của sự vật.

c)-Tướng đại : Tướng của bốn đại rộng lớn, đó là những biểu tướng hiện hữu nơi mỗi sự vật khiến ta có thể nhận thức được. Ví dụ : Đất có biểu tướng là cứng, có biên giới, có h́nh tướng rơ ràng. Nước có biểu tượng là thấm ướt, lưu chuyển. Lửa có biểu tượng là nóng bức và thiêu đốt. Gió có biểu tượng là cuốn hút và co giăn, lay động. Tướng của đất là đại địa, tướng của nước là đại hải, tướng cuả gió là cuồng phong, tướng của lửa là đại hỏa.

d)-Dụng đại : Là tác dụng, là hoạt dụng của bốn đại. Đất : có tác dụng nâng đỏ và chứa nhóm; Nước : có tác dụng nối kết, nâng đỡ và dung hóa sự vật; Gió : vừa có tác dụng trưởng dưỡng vừa có tác dụng phá hủy: Như gió nhẹ làm cây xanh tốt, nẩy nở, hơi thở đều ḥa làm người khỏe mạnh nhưng gió mạnh quá th́ sẽ làm cây gẫy đổ. Lửa :

có tác dụng thiêu đốt và làm chuyển hóa tứ đại lẫn nhău (từ địa chuyển hóa thành thủy phải nhờ sự nung chẩy của hỏa, như nấu sắt, đồng chảy thành thể lỏng.

Do bốn đặc tính của tứ đại ấy mà kinh thường nói đến đại tam tai tức là ba tai nạn phá hủy lớn : Thủy tai, Hỏa tai và Phong tai. Bốn đặc tính của Đất, Nước, Gióù, Lửa có thể nói tóm tắt với các từ là tính chắc cứng, tính ướt nhuyễn, tính chuyển động, và tính nung nóng (cố thể là đất, dịch thể là nước, động lực là gió và nhiệt lực là lửa) hay gọn hơn th́ nói là Thể và Lực.

2)-Chấp Thọ : Nói cho đủ là "chấp vi tự thể linh sanh giác thọ" . Nói tắt là chấp thọ. Vậy chấp cái ǵ và thọ cái ǵ ? Cơ thể của chúng ta được nuôi dưỡng bằng chén cơm, b́nh nước hay các chất bột khác như bánh, bún, ḿ v..v..những thứ ấy đều là tứ đại cả. Khi chén cơm, b́nh nước, cái bánh ...để giữa bàn nó là vật vô tri vô giác, ai muốn đánh đập ǵ cũng được. Nhưng khi nó được đưa vào cơ thể của chúng ta, tứ đại ấy đă biến thành tự thể của chúng ta, nếu có ai đến vuốt ve, nịnh hót th́ ta thọ vui, đến chửi rủa hay đánh đập th́ ta thọ khổ. Như vậy từ tứ đại mà sanh ra tự thể và tự thể mà sanh ra có cảm giác, biết vui,biết buồn là giác thọ. Thuận với nó th́ nó vui,(thọ lạc); nghịch với nó th́ nó khổ (thọ khổ) Như thế là "Chấp vi tự thể linh sanh giác thọ", nói tắt là chấp thọ. Nói tóm lại khi thân ta thọ một pháp ǵ thuận hợp với ta th́ ta cảm thọ vui, Thọ pháp ǵ trái với ta th́ ta cảm thọ khổ, buồn..Vui th́ biết vui, buồn th́ biết buồn chứ không so sánh phân biệt ǵ cả.

3)-Tưởng : Nhưng đến khi tường thủ tướng ấy th́ nó gom lại tất cả các tướng đă lănh thọ nó rồi nó đối chiếu, so sánh, phân biệt, rồi nó sắp đặt lại.

Nếu không có sự so sánh, phân biệt của tưởng th́ tất cả các Pháp đều b́nh đẳng như nhău trong một tương quan trùng trùng duyên khởi ở trong bể pháp giới, không có cái ǵ tách biệt. Thế nhưng tưởng đem cắt nó ra, riêng biệt từng phần, sắp đặt phân biệt ; so sánh pháp này với pháp khác và đặt tên riêng cho nó. V́ thế` mà có tướng núi, tướng sông, hoa, lá, cây, cỏ con người con vật v..v..Đó là tác dụng của Tưởng.

V́ vậy, ta thấy người có học thức, kiến thức rộng răi với người ít học và tŕnh độ hiểu biết kém nó khác nhău nếu hai loại người này ngồi chung với nhau để thảo luận một đề tài nào đó th́ thật khó có thể ḥa hợp được. Trên đây tôi chỉ phân biệt đơn giản nhưng rơ ràng để ta có thể thấu hiểu được sự khác biệt của hai chữ Thọ và Tưởng. Ngay trong kinh dậy người tu thiền quán nên có một cái tâm luôn luôn sống trong hiện tại. Khi Thọ mà không đem tưởng vào thi ta mới sống trong hiện tại được. Thí dụ khi ăn cơm, ta chỉ biết miếng cơm, ta đang nhai trong miệng là ta đang sống với hiện tại. C̣n ta biết so sanh cơm bây giờ ngon hơn cơm hôm qua hay ngược lại th́ đă có tưởng vào nên sinh ra lắm chuyện khen chê. Con người lúc sơ sanh sống với tiền ngũ thức nhiều hơn, khi có tưởng vào mới có ư thức phân biệt, so sanh và đặt tên cho sự vật ; đó tức là lư trí.

4)-Hành : Như trên đă nói hành uẩn là thiên lưu, tạo tác. Tạo tác này lấy "Tư tâm sở" làm chủ yếu. Tư đây là ư chí. Tưởng mới chỉ là ư nghĩ thôi, c̣n khi quyết định làm, quyết định hành động là thuộc về hành thuộc về Tư Tâm Sở.

5)-Thức : Là liễu biệt, là nhận thức. Nó khác với vô tri vô giác. Năm thứ trên đây : Thọ, Tưởng, Hành, Thức là thuộc về Tâm. Sác Uẩn thuộc về Thân. Thân Tâm hợp lại thành con người có đủ thể xác và tâm linh. Khi phân tách ra th́ gọi là ngũ uẩn, gom lại th́ gọi là danh sác hay sác tâm. Ta nói sác pháp, tâm pháp hai thứ ấy cũng giống như khi nói về con người nói chung lại là thể chất và tâm hồn. Cho nên đây là phần căn bản nhất.

Trong duy thức học có chia ngũ vị bách pháp (5 vị 100 pháp). Năm vị là ǵ ? Là sắc vị, tâm vị, tâm sở vị, tâm bất tương ưng vị, và vô vi vị, mà 5 vị ấy gồm có 100 pháp, ngũ uẩn này cũng gồm có 100 pháp. Tuy chỉ có 5 nhưng trong đó gồm cả 100 pháp. Nếu chi tiết hóa ra th́ nó c̣n rất bao la


__________________
Vật cùng tất biến,vật biến tất thông !
Quay trở về đầu Xem anhkhoi09's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhkhoi09
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9609 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO