Tác giả |
|
hoanghavuthi Hội viên

Đă tham gia: 14 September 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 1 of 12: Đă gửi: 26 February 2006 lúc 11:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ngày hôm qua là Chủ Nhật, ngày 26/02/2006. Tôi có ghé Chùa Xá Lợi trên đường Bà Huyện Thanh Quan vào buổi sáng , đúng lúc có một Vị Hoà Thượng đang giảng về Kinh phật. Đúng đoạn nói về nam -nữ trong Phật Giáo. Theo Vị Hoà Thượng th́ " Phật Pháp đáng lẽ kéo dài tới 1000 năm - nhưng do trong đạo PhẬt có các nữ tu NÊN Phật Pháp chỉ c̣n kéo dài 500năm...
Tôi không biết có sách nào nói về vấn đề này không? mong các vị có ư kiến.
HHa
|
Quay trở về đầu |
|
|
laxanhxanh Hội viên

Bị treo Nick
Đă tham gia: 23 May 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 224
|
Msg 2 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 1:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi nghĩ bạn nên kể thêm về t́nh huống câu chuyện vị Ḥa Thượng đang thuyết chứ trích có 1 câu rồi hỏi th́ dễ dẫn đến việc hiểu lầm
|
Quay trở về đầu |
|
|
hoanghavuthi Hội viên

Đă tham gia: 14 September 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 3 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 4:11am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi đến vào giữa buổi thuyết tŕnh. Hoà thượng đang giảng như vậy. Ông dẫn chứng ra là v́ Phụ nữ đi tu gây ra những điều lộn xộn, không tốt . Chính v́ vậy mà Phạt Pháp bị giảm xuống c̣n cỡ 500năm thay v́ cả ngàn năm. Do vậy, dù Đạo Phật có b́nh đẳng, nhưng các Nữ tu cũng chỉ ở các vị trí thấp kém.. và dẫn chứng ra là các Đạo khác như Đạo Hồi, phụ nữ vẫn được tới nhà thờ nhưng phải đi bằng cửa khác và ngồi riêng... Và Phật giáo cũng chia thành Nam Tông, Bắc tông do không công chấp nhận nữ giới ...
Quả thật, khi xem " Tây Tạng huyền bí" tôi không thấy các nữ tu.
Nhưng một số Đạo th́ lại rất coi trọng nữ giới và họ thờ các nữ thần.
Tôi thật phân vân. v́ Hoà thượng đă giảng và đưa ra các dẫn chứng rất kỹ nên tôi cảm thấy Động ḷng và không nghe nữa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
minhtam Hội viên

Đă tham gia: 16 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 132
|
Msg 4 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 7:55am | Đă lưu IP
|
|
|
hoanghavuthi đă viết:
Tôi đến vào giữa buổi thuyết tŕnh. Hoà thượng đang giảng như vậy. Ông dẫn chứng ra là v́ Phụ nữ đi tu gây ra những điều lộn xộn, không tốt . Chính v́ vậy mà Phạt Pháp bị giảm xuống c̣n cỡ 500năm thay v́ cả ngàn năm. Do vậy, dù Đạo Phật có b́nh đẳng, nhưng các Nữ tu cũng chỉ ở các vị trí thấp kém.. và dẫn chứng ra là các Đạo khác như Đạo Hồi, phụ nữ vẫn được tới nhà thờ nhưng phải đi bằng cửa khác và ngồi riêng... Và Phật giáo cũng chia thành Nam Tông, Bắc tông do không công chấp nhận nữ giới ...
Quả thật, khi xem " Tây Tạng huyền bí" tôi không thấy các nữ tu.
Nhưng một số Đạo th́ lại rất coi trọng nữ giới và họ thờ các nữ thần.
Tôi thật phân vân. v́ Hoà thượng đă giảng và đưa ra các dẫn chứng rất kỹ nên tôi cảm thấy Động ḷng và không nghe nữa.
|
|
|
Chào bạn Vũ Thị Hoàng Hà ,
Ngày nay ngựi giảng pháp th́ nhiều nhưng đúng chánh pháp th́ hiếm ở thời mạt pháp nhiểu nhương này . Ngày xưa cách đây 2500 năm thời Đức Phật cuộc sống nông thôn c̣n đơn sơ và phụ nữ c̣n có những giới hạn theo tập tục xă hội Ấn Độ . Do đó Đức Phật không cổ xúy lắm cho phụ nữ đi tu nhưng phân biệt th́ hoàn toàn không . Thời đó chính Đức Phật và các đệ tử của Ngài thường ôm b́nh bát khuất thực qua các kinh thành ,các thôn xóm . Việc phụ nữ vi hành như vậy ở những vùng hẻo lánh th́ rất nguy hiểm bởi thú dữ và bọn cướp tấn công .
Đức Phật luôn b́nh đẳng giữa Tăng và Ni , c̣n sự phân biệt là do con người sau này . Cũng như ngay từ ban đầu Phật giáo không có phân chia Nam hay Bắc tông , việc phân chia là do ngựi ta sau này tự phân chia sau khi Đức Phật nhập diệt Niết Bàn .
Theo giáo lư nhà Phật giáo th́ nữ giới luôn nặng nghiệp hơn nam giới . Mật tông Tây tạng th́ sau này xuất hiện từ thế kỷ thứ VII và hội nhập vào Phật giáo . Nếu bạn đă từng nghiên cứu về lịch sử Mật Tông Tây Tạng th́ sẽ biết Mật Tông Tây Tạng gắn nhiều với đời , không như Thiền Tông Trung Hoa nghiêng về Đạo .
Một số Đạo thờ nữ Thần là các Đạo như Hindu , Bà La Môn , Ấn Gíao v.v... các Đạo này không phải là Phật giáo mà là Thần giáo .
Bạn muốn rơ vai tṛ cao quư của phụ nữ trong Phật giáo th́ vào trang web đă có từ lâu là :
http://www.quangduc.com/nigioi/index.html
Chúc bạn gặp được nguồn sáng Phật đà .
TT Thích Minh Tâm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Hoangdat Hội viên

Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 109
|
Msg 5 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 12:36pm | Đă lưu IP
|
|
|
chào bạn Vũ thị hoàng hà
Bạnđăviết:(Ông dẫn chứng ra là v́ Phụ nữ đi tu gây ra những điều lộn xộn, không tốt . Chính v́ vậy mà Phạt Pháp bị giảm xuống c̣n cỡ 500năm thay v́ cả ngàn năm. Do vậy, dù Đạo Phật có b́nh đẳng, nhưng các Nữ tu cũng chỉ ở các vị trí thấp kém.. và dẫn chứng ra là các Đạo khác như Đạo Hồi, phụ nữ vẫn được tới nhà thờ nhưng phải đi bằng cửa khác và ngồi riêng... Và Phật giáo cũng chia thành Nam Tông, Bắc tông do không công chấp nhận nữ giới ... ) giảng như vậy dể gây ngộ nhận Đạo Phật là một tôn giáo cũng xem nhẹ phái nữ như các đạo giáo khác và sự dẩn chứng vai tṛ người nữ trong các đạo khác vốn không cần thiết và không nên có .
Để trả lời thắc mắc của bạn ,xin đưa lên một chương trong một bài nói về địa vị của phái nữ trong Đạo Phật của Thích Nữ Huệ Hướng mà tôi đă được đọc trong trang wed thuvienhoasen.rog để bạn xem .mong rằng sẽ giải toả được sự phân vân của bạn.
ĐỊA VỊ NGƯỜI PHỤ NỮ
TRONG GIÁO LƯ ĐỨC PHẬT
Thích Nữ Huệ Hướng
Chương thứ ba
T́m hiểu một số vấn đề dẫn đến sự hiểu biết sai về địa vị người phụ nữ trong Phật giáo
Nữ giới có một địa vị xứng đáng trong Phật giáo, điều này đă quá rơ ràng. Nhưng thực tế không phải không có những vấn đề khiến một số người chưa thâm nhập Phật pháp, hoặc một số người chỉ cưỡi ngựa xem hoa hiểu sai về địa vị người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo, như vấn đề người nữ phải tuân thủ Bát kỉnh pháp, vấn đề mạt pháp sớm hơn năm trăm năm nếu nữ giới xuất gia, vấn đề người nữ bị năm điều chướng ngại....
Thực chất những vấn đề này như thế nào? Có phải người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo chưa thật được b́nh đẳng? Hay v́ chúng ta chưa hiểu hết ư Phật? Để được một nhận thức đúng đắn hơn về vấn đề trên, chúng ta nên lần lượt nghiên cứu những phần trong chương ba này.
1. Vấn đề bát kỉnh pháp:
Trong Phật giáo, một vị Tỳ kheo ni bên cạnh việc thọ tŕ Giới bổn Patimokkha (Ba la đề mộc xoa) c̣n lănh thọ thêm Bát kỉnh pháp (Garudhamma), trọn đời cung kính, tôn trọng không được vượt qua. Nội dung của tám điều cần tôn kính ấy là:
"Dầu cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỳ kheo ni, đối với Tỳ kheo mới thọ đại giới trong một ngày ấy, cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp. Pháp này sau khi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, cho đến trọn đời không được vượt qua.
Tỳ kheo ni không có thể an cư mùa mưa tại chỗ không có Tỳ kheo...
Nửa tháng một lần, Tỳ kheo ni cần phải thỉnh chúng Tỳ kheo hỏi ngày trai giới và đến để thuyết giới...
Sau khi an cư mùa mưa xong, Tỳ kheo ni cần phải làm lễ "tự tứ" trước hai Tăng chúng về ba vấn đề được thấy, được nghe và nghi...
Tỳ kheo ni phạm trọng tội, phải hành pháp man na đơa cho đến nửa tháng...
Sau khi học tập sáu pháp trong hai năm, phải đến xin thọ cụ túc giới trước hai Tăng chúng...
Không v́ duyên cớ ǵ, một Tỳ kheo ni có thể mắng nhiếc, chỉ trích một Tỳ kheo...
...Có sự giáo giới phê b́nh giữa các Tỳ kheo về các Tỳ kheo ni, không có sự giáo giới phê b́nh giữa các Tỳ kheo ni về các Tỳ kheo..." (20)
Có sự bất b́nh đẳng trong tám điều luật này, người vô văn phàm phu có thể nghĩ như vậy. Nhiều người đă căn cứ vào tám điều cung kính này và căn cứ trong luật Phật chế giới điều của Tỳ kheo ni nhiều hơn giới điều dành cho Tỳ kheo tăng mà cho rằng trong đạo Phật có sự kỳ thị nam nữ.
Thật ra cũng dễ hiểu, v́ phái nữ có những điều kiện vật chất và tinh thần, tâm lư khác hẳn nam giới cho nên giới luật cũng khác nhau. Nếu ở trong nam giới, trí tuệ được đề cao th́ đức tính được đề cao ở nữ giới chính là từ bi, bởi thế mà những h́nh tượng tượng trưng cho đức từ bi đều mang h́nh thù phụ nữ.
Nếu ở nam giới, ḷng can đảm gan dạ, chí khí được tán dương th́ ở nữ giới chính là sự nhẫn nhục ôn ḥa, đức bao dung tha thứ. Nếu ở nam giới, sự ăn to nói lớn, hoạt bát hùng hồn là một đức tính thí trái lại, đức tính phái nữ nằm trong sự im lặng tự xóa ḿnh. Nếu ở nam giới quyền lực uy phong được ca tụng th́ ở nữ giới, đức tính cần thiết là nhũn nhặn khiêm tốn, không xem ḿnh là quan trọng.
Nhưng những đức tính vừa kể đối với nữ giới cũng có những mặt trái của nó. Chẳng hạn mặt trái của ḷng từ bi có thể là sự si ái, ḷng kiêu căng. V́ người phụ nữ đóng một vai tṛ quan trọng trong v́ệc đem lại sự sống, nên họ dễ xem ḿnh là tất cả, dễ nghĩ rằng không có ta đây th́ không xong.
Lại nữa, "từ bi" đôi khi bị đánh lừa bởi một ḷng ngụy tín để đi đến chỗ si ái, sướt mướt uỷ mị. Đức tính im lặng nhẫn nhục nơi phụ nữ có thể có bộ mặt trái của nó là sự chấp trước, phiền năo, ôm khư khư một mối hận đến nỗi mang nó theo xuống tuyền đài và khiến cho phụ nữ khó giải thoát, khó "siêu thăng" để nói theo từ ngữ Tịnh Độ.
Đức tính nhũn nhặn khiêm tốn cần thiết nơi phụ nữ cũng thế, có thể có mặt trái là sự nhút nhát ỷ lại, tánh làm đỏm, tự xem ḿnh cần phải lệ thuộc vào một cái ǵ mới sống nổi. Chính v́ muốn phát huy những đức tính và sửa trị những mặt trái những tính xấu nơi phụ nữ, mà đức Phật đă chế ra Bát kỉnh pháp và những giới luật riên cho hàng nữ xuất gia. Ở đây, chúng ta có thể đi ngược ḍng lịch sử để xét lư do v́ sao đức Phật đă chế ra tám điều cung kỉnh.
Chúng ta biết rằng, trong đoàn thể xuất gia đầu tiên của Phật không có hàng nữ lưu. Măi đến năm năm sau khi thành lập Tăng đoàn, bà d́ và cũng là mẹ nuôi đức Phật, di mẫu Mahapajapat́ (Ma Ha Ba Xà Ba Đề), cùng với namm trăm nữ nhân ḍng Thích Ca mới đến ngỏ lời cầu xin Phật cho phép được thế phát xuất gia. Phật từ chối và bỏ đi nơi khác.
Lần thứ hai khi nghe đức Phật đang ở Kỳ hoàn tịnh xá, di mẫu cùng năm trăm nữ nhân ấy từ xa xôi lặn lội, đi bộ rách cả gót chân, y phục lấm lem đất bụi, đến nơi đứng ngoài cửa khóc lóc thảm thương. Ngài A Nan thấy thế động ḷng can thiệp giúp cho di mẫu và sau ba lần Ngài năn nỉ, Phật mới bằng ḷng cho bà và năm trăm vị nữ nhân xuất gia với điều kiện phải tuân Bát kỉnh pháp. Điều này có nghĩa là ǵ? Tại sao đức Phật không độ người nữ xuất gia liền như nam giới mà lại tỏ thái độ từ chối đến ba lần?
Trước hết chúng ta thử suy nghĩ: phải chăng do Phật biết tâm lư kiêu căng cố hữu của người phụ nữ, mặt trái của bản năng làm mẹ, ưa bảo bọc và tự cho ḿnh quan trọng?
Bà Mahaprajapat́ là một v́ đương kim thái hậu, lại là mẹ nuôi của Thái tử Tất Đạt Đa (đức Phật trước khi xuất gia). Bà đă nuôi nấng Thái tử từ khi mới ra khỏi ḷng mẹ được bảy ngày. Như thế bà có đủ tất cả lư do để kiêu căng ngă mạn khi bước vào hàng ngũ xuất gia vậy. Nếu đức Phật không chế ra Bát kỉnh pháp th́ điều ǵ có thể xảy ra? Chúng ta biết đó, nếu ở đời bà đương kim thái hậu này đă sai bảo được lính tráng quan hầu, th́ không lư do ǵ khi vào đạo và lại là mẹ của Phật, bà lại không sai bảo được những vị tu sĩ đáng đầu con cháu bà? Do đó mà ta thấy một trong tám điều cung kỉnh rất có ư nghĩa và chỉ có thể nhắm vào Kiều Đàm Di Mẫu (Mahprajapat́); điều ấy như vầy?: "Dù cho thọ đại giới một trăm năm, một Tỳ kheo ni đối với Tỳ kheo thọ giới trong một ngày, cũng phải đảnh lễ, đứng dậy, chấp tay, xử sự đúng pháp".
Bên cạnh ư nghĩa đă giải thích trên, một lư do nữa đă được đặt ra. Ở đây, chúng ta nên nh́n đức Phật ở cương vị một đức Phật lịch sử chúng ta sẽ thấy vấn đề này rơ hơn. Đức Phật lưỡng lự, từ chối đến ba lần mới cho nữ giới xuất gia, đâu phải Ngài trọng nam khinh nữ. Đó là Ngài đang t́m giải pháp thích hợp cho hàng nữ giới sau khi xuất gia sống đời Phạm hạnh trong Tăng đoàn.
Chúng ta cũng biết, vào thời ấy, xă hội Ấn Độ đang ở trong thời kỳ bán khai, người xuất gia phải rời bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh trong rừng rú. Người nam tu sĩ có thể tự vệ chống bọn cướp, thú dữ, rắn rết ..., nhưng người tu nữ hoàn toàn không thể tự bảo vệ được ḿnh, nên Phật đă dạy: "Tỳ kheo ni không thể an cư tại chỗ không có Tỳ kheo". Và một lư do sâu xa khác của việc chế Bát kỉnh pháp là đức Phật muốn có sự cách biệt trong ḥa khí giữa Tăng bộ và Ni bộ. Nữ giới hay thiên về sự quá đà; hoặc quá thân mật th́ mất sự cung kỉnh và dễ lờn, hoặc quá sơ th́ dễ đi đến chỗ kiêu căng tự phụ cho rằng ta đây có thể tự lập không cần ai dắt dẫn. Do đó một điều cung kỉnh khác trong tám pháp cung kính bắt buộc Ni chúng phải thỉnh thoảng đi đến Tỳ kheo tăng để xin chỉ giáo, để luôn luôn nhớ đến địa vị khất sĩ của ḿnh, nghĩa là phải tầm cầu Chánh pháp.
Chúng ta được biết thêm, cũng chính trong kinh Bộ Tăng Chi này đức Thế Tôn đă giải thích lư do tại sao Ngài ban hành Bát kỉnh pháp:
"Ví như, này Ànanda, một người v́ nghĩ đến tương lai xây dựng bờ đê cho một hồ nước lớn để nước không thể chảy qua, cũng vậy, này Ànanda, v́ nghĩ đến tương lai, Ta mới ban hành tám kính pháp này cho các Tỳ kheo ni cho đến trọn đời, không được vượt qua".(21)
Ngày nay trên cương vị của một người đi t́m Tuyệt đối "phàm xuất gia giả, phát túc siêu phương", chúng ta cũng có thể nhận thấy Bát kỉnh pháp không có ǵ là quá đáng, và c̣n phải được lănh hội một cách sâu xa hơn, ấy là: chúng ta phải kính trọng tất cả, v́ điều trở ngại lớn nhất cho người t́m Đạo chính là thói kiêu mạn. Hơn nữa là người tu học giáo lư Vô ngă, th́ những vị nữ tu sĩ nào thực t́nh muốn xóa bỏ ngă chấp không có lư do ǵ để mặc cảm về Bát kỉnh pháp, và vị nam tu sĩ nào thực t́nh là một con người đi t́m tuyệt đối cũng không có lư do ǵ để tự hào.
2. Vấn đề mạt pháp sớm hơn năm trăm năm:
Bây giờ ta khảo sát một câu nói khác trong kinh đă khiến cho nhiều người nghĩ rằng đức Phật bi quan với thân thế người nữ:
"Này Ananda, nếu nữ nhân không được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh trong Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, thời này Ananda, phạm hạnh được an trú lâu dài và diệu pháp được tồn tại đến một ngàn năm. V́ rằng này Ananda, nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh trong Pháp và Luật này, nay này Ananda, diệu pháp sẽ được tồn tại năm trăm năm". (22)
Thực sự có phải phạm hạnh sẽ không được an trú lâu dài và diệu pháp cũng chỉ được tồn tại năm trăm năm khi nữ giới xuất gia hay không? Điều này khó mà xác định được. Nhưng trên thực tế, với một câu kinh như vậy ít nhiều đă tác động cho người đọc cảm giác Phật giáo chưa thật sự dành quyền b́nh đẳng cho nữ giới. Ngay đây, chúng ta có thể hiểu được ǵ trong câu kinh trên?
Theo một số học giả, các kinh sách nói về sự tích bà Gotaḿ và việc thành lập ni đoàn đều viết vào khoảng năm trăm năm sau Đại Bát Niết Bàn. Trong khi đức Phật giác ngộ dưới gốc bồ đề năm 423 trước Tây lịch. Năm năm sau, năm 418 trước Tây lịch, Ni đoàn được thành lập.
Các cuốn kinh thuật lại việc thành lập ni đoàn viết năm trăm năm sau, tức là vào khoảng cuối thế kỷ I Tây lịch, vào lúc trường phái nguyên thủy ở Ấn Độ nhường bước cho trường phái Đại thừa đang phát triển mạnh. V́ phát triển mạnh, bấy giờ, đề cao địa vị người nam trên tư thế người nữ. Bởi lẽ đó mà dư luận trọng nam khinh nữ được đem vào kinh. Vấn đề này, nếu đứng trên diện lịch sử, vẫn có khả năng xảy ra. V́ như chúng ta biết, tất cả kinh điển Phật giáo đă trải qua nhiều lần kết tập và được viết thành sách sau thời gian đức Phật Diệt độ và như vậy khó mà tránh khỏi những sự sai khác, nên bà C.A.F.Rhys Davids viết:
"Một trong những điều khó khăn nhất khi diễn dịch kinh Pali chính v́ kinh có nhiều chỗ xuất xứ khác nhau, có nhiều chỗ sửa chữa, viết lại, nh́n qua thấy rơ ràng là đă bị thay đổi do các vị Tỳ kheo đến sau. Ta phải nhận cho rơ những nơi thay đổi do người đời sau gây ra hầu có thể t́m cách điều chỉnh. Do đó, nhiều đoạn kinh thiên vị rơ ràng nam giới, thiên vị rơ ràng tăng đoàn (so với cư sĩ), thiên vị rơ ràng người đàn ông so sánh với người đàn bà, và các đoạn kinh này được cố tŕnh bày như chính là lời đức Phật".(23)
Thật là một lời b́nh khá mạnh mẽ. Nhưng dù sao vẫn là một lời b́nh và cũng trên vấn đề này chúng ta vẫn có thể có một quan điểm khác. Ở đây, ta nên t́m hiểu nguyên nhân phát sinh vấn đề lời tuyên bố phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài khi nữ giới xuất gia. Rơ ràng nếu chỉ trích ra một đoạn kinh văn nói về vấn đề nay, th́ chúng ta khó mà hiểu hết ư Phật. Nên biết, câu kinh trên cùng nằm trong kinh Gotaḿ nói về việc thành lập ni đoàn và Phật đă từng đắn đo với những lư do đă được giải thích ở phần Bát kỉnh pháp. Câu kinh này không phải đứng riêng lẻ, mà ngay tiếp theo là ví dụ của đức Phật:
"Ví như, này Ànanda, những gia đ́nh nào có nhiều phụ nữ ít đàn ông, thời những gia đ́nh ấy rất dễ bị đạo tặc, trộm nghè năo hại. Cũng vậy, này Ànanda, v́ rằng nữ nhân được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh trong Pháp và Luật này, nên Phạm hạnh không được an trú lâu dài...".(24)
Ngay trong trường hợp này ta có thể khẳng định: câu kinh trên chỉ nhằm giải thích thêm cho sự quyết định chế ra tám điều cung kính cho phù hợp với căn cơ của người phụ nữ và như vậy sẽ không có một sự bất b́nh đẳng hay mâu thuẫn nào trong giáo lư Phật giáo. V́ rằng, cũng chính trong kinh Bộ Tăng Chi, khi giải thích cho Tôn giả Kimbila nguyên nhân khiến cho diệu pháp không c̣n tồn tại lâu dài sau khi Như Lai nhập diệt:
"Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ không cung kính, không tùy thuận bậc Đạo sư, sống không cung kính, không tùy thuận Pháp, sống không cung kính, không tùy thuộc chúng Tăng, sống không cung kính, không tùy thuận học pháp, sống không cung kính, không tùy thuận, sống phóng dật, sống không cung kính, không tùy thuận tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không tồn tại lâu dài".(25)
Và đến đây đức Phật cũng cho biết thêm nguyên nhân dẫn đến Chánh pháp tồn tại sau khi đức Phật nhập Niết bàn:
"Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính tùy thuận đức Đạo sư, sống cung kính tùy thuận Pháp, sống cung kính tùy thuộc chúng Tăng, sống cung kính tùy thuận học pháp, sống cung kính tùy thuận không phóng dật, sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên, khiến khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài". (26)
Đến đây, chúng ta có thể xác định Chánh pháp có tồn tại lâu dài hay không tồn tại lâu dài, không nhất thiết là do có nữ giới xuất gia, mà điều này phụ thuộc vào việc tứ chúng đệ tử Phật có tu theo chánh pháp hay không. V́ dù cho người nữ không xuất gia trong Pháp và Luật của Phật, nhưng nếu nam giới sống không cung kính, không tùy thuận Phật, Pháp, Tăng, đồng thời sống buông lung theo cảnh trần, thân, khẩu, ư tạo ra những nghiệp bất chánh, ... Chánh pháp có thể tồn tại lâu dài trong một Tăng chúng như vậy chăng?
3. Vấn đề ngũ chướng:
Trong chương t́m hiểu một số vấn đề đưa đến sự hiểu sai về địa vị người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo này, chúng ta đă lần lượt đi qua các vấn đề Bát kỉnh pháp và việc mạt pháp đến sớm hơn năm trăm năm, nay chúng ta tiếp tục bàn đến năm điều chướng ngại của người phụ nữ. Đó là:
"Này A nan, có năm việc nữ nhân không làm được. Nếu nói rằng nữ nhân được thành Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại Phạm thiên, th́ điều này nhất định không thể có. Nhưng có năm việc nam nhân làm được. Nếu nói rằng nam nhân được thành Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, hoặc Chuyển luân vương, Thiên Đế thích, Ma Vương hay Đại Phạm thiên, th́ điều này chắc chắn có thật".(27)
Lại một vấn đề mang tính bất b́nh đẳng giữa người nữ với người nam phát sinh. Thực ra năm điều chướng ngại ấy thật có đối với nữ giới không? Tại sao ngoài kinh Cù Đàm Di (Trung A Hàm II) kinh Mâu Ni Vương Nữ (Tăng Nhất A Hàm), lại có thêm kinh Không Thể Xảy Ra của Kinh bộ Tăng Chi I đề cập đến:
- Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được: "Một phụ nữ có thể là bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác", sự kiện này không xảy ra. Sự kiện này có xảy ra, này các Tỳ kheo: "Người đàn ông có thể là bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác?, sự kiện này có xảy ra".
- Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được: "Một phụ nữ có thể là vị Chuyển Luân Vương", sự kiện này không xảy ra...
- Sự kiện này không xảy ra, này các Tỳ kheo, không có được: "Một phụ nữ có thể là vị Đế Thích ..., là Ác ma ..., là Phạm Thiên", sự kiện này không xảy ra...(28)
Một phụ nữ không thể làm bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác, không thể làm Chuyển Luân Vương, làm Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên. V́ sao? V́ không đủ trí để lănh nhiệm những ngôi bậc đó ư (A la hán, Chánh Đẳng Giác, Chuyển Luân Vương, Đế Thích, Ác ma, Phạm Thiên là năm ngôi vị tượng trưng cho sự thành đạt lớn lao)? Nếu như vậy là đồng quan niệm với những ǵ Ác ma nói với Tỳ kheo ni Somà: người nữ không có trí làm sao có khả năng thành tựu chánh quả?
"Địa vị khó chứng đạt,
Chỉ Thánh nhân chứng đạt,
Trí nữ nhân hai ngón,
Sao hy vọng chứng đạt" (29)
Sự thật là vậy chăng? Người phụ nữ không đủ trí đức, không đủ khả năng để hoàn thành những việc nam nhân làm chăng? Chúng ta nên lắng nghe Tỳ kheo Somà nói kệ đáp lời Ác ma:
"Nữ tánh chướng ngại ǵ,
Khai tâm khéo thiền định,
Khi trí tuệ triển khai,
Chánh quán pháp vi diệu"
Ai tự ḿnh t́m hỏi:
"Ta, nữ nhân, nam nhân,
Hay ta là ai khác?
Xứng nói chuyện Ác ma,
Ác ma thật cân xứng". (30)
Phật tánh vốn đồng th́ làm sao có thể có sự sai khác giữa các chúng sanh trong việc chứng ngộ chân lư. Nhưng trong thực tế, chúng ta cũng nên công nhận rằng đa số phụ nữ có xu hướng thiên về t́nh cảm, ít có tánh cương quyết nên cũng ít có khả năng lănh đạo, tuy nhiên đó không phải là tất cả.
Như vậy, đứng trước vấn đề ngũ chướng chúng ta có thể hiểu đấy là một trong những trường hợp ?tùy duyên thuyết pháp?. Sự giải thích này chắc chắn chưa làm thỏa măn người đọc. V́ cũng có người nhận định một cách mạnh mẽ rằng vấn đề ngũ chướng không do đức Phật thuyết giảng mà do người đời sau đem vào trong kinh:
"Qua phương pháp phân tích, so sánh, các tác giả trên (giáo sư Kajiyamaywichi, học giả Diana Mary Paul, ...) kết luận là ư niệm ngũ chướng t́m được trong một số kinh sách, khi có trong tạng Pàli lại thiếu trong Hán tạng, hoặc ngược lại, có trong Hán tạng lại thiếu trong Pàli tạng, chứng minh được là ngũ chướng không phải là lời dạy của đức Phật vào thời nguyên thủy, mà chính là do dời sau đem vào kinh".(31)
Tuy nhiên, theo thiển ư người viết, năm điều chướng ngại, ràng buộc người phụ nữ dù cho đă được đức Phật đề cập trong kinh vẫn chỉ là dùng để thể hiện những quan điểm, những tư tưởng hoàn toàn bất lợi với người phụ nữ của thế gian và xă hội, mà trong Phật giáo th́ ngược lại. Và chính điểm này ta mới thực sự thấy được việc đề cao giá trị đạo đức và khả năng đồng đẳng với nam giới của phụ nữ trong giáo lư Phật giáo là một điều chính đáng. Như trong kinh Tăng Nhất A Hàm II, Phật đă bác bỏ điều này qua việc đức Phật Bảo Tạng Như Lai thọ kư quả Phật cho Mâu Ni Vương Nữ:
"Trong vô lượng số kiếp về sau, nhà người ra đời sẽ gặp Phật, và được đức Phật ấy thọ kư thành Phật".(32)
Như vậy, trong chương ba này, chúng ta đă lần lượt t́m hiểu một số vấn đề khiến người học kinh khó mà tránh khỏi ư niệm sai lệch về quan điểm của đức Phật đối với người phụ nữ. Những vấn đề này tuy không phải là nhiều nhưng cũng đủ để cho người đă từng hiểu sai về đạo Phật xác định lại ư kiến của ḿnh và rút ra kết luận đúng đắn nhất về địa vị người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo.
Chương thứ tư
Ảnh Hưởng Phật Giáo Đối Với Phụ Nữ Trong Xă Hội
Nếu chỉ t́m hiểu địa vị người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo được tôn trọng, được b́nh đẳng, ... mà chúng ta không biết đến những ảnh hưởng của Phật giáo đối với người phụ nữ trong xă hội là một điều thiếu sót lớn lao. V́ trong vấn đề này sẽ khẳng định thêm việc đạo Phật có bi quan yếm thế, có bất b́nh đẳng với hàng nữ lưu trong xă hội không? Đồng thời chúng ta sẽ được biết thêm vai tṛ quan trọng của Phật giáo đối với phụ nữ ngày nay.
1. Phật giáo với phụ nữ trong đời thường:
Như chúng ta biết, sự thành lập Ni bộ của đức Phật đă được các nhà dân tộc học cho là một việc làm vô cùng cách mạng, nếu ta xét đến yếu tố thời gian cách đây 2500 năm và không gian là xứ Ấn Độ đầy thành kiến đối với phái nữ.
Không những ngày xưa mà ngay hiện tại nhiều nơi ở Ấn vẫn c̣n giữ tục lệ Pardah tức là tục che mặt của phụ nữ khi ra đường, và họ phải sống trong pḥng the khóa kín. Họ không được giáo dục, không làm được những công việc ngoài đường dù nhỏ nhặt đến đâu, tất cả đều do đàn ông đảm trách v́ đó là tục lệ của Ấn giáo.
Ở Ấn Độ, sinh con gái là một điều bất hạnh cho mọi gia đ́nh, v́ phải lo việc gả chồng và sắm của hồi môn. Hơn nữa, trong xă hội Ấn Độ thời bấy giờ, cũng như ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam, mọi gia đ́nh đều xem con trai là trường cột trong việc nắm giữ giềng mối tổ tông và lo việc tế tự thờ cúng. Do đó, nếu một người phụ nữ không sinh được con trai th́ người chồng có thể cưới vợ khác và có thể trục xuất họ ra khỏi gia đ́nh. Nhưng kể từ khi đạo Phật xuất hiện, những truyền thống xă hội Ấn Độ đă trải qua một cuộc đổi thay.
Phật giáo dạy rằng sự hy sinh phải bắt nguồn từ nội tâm, bằng cách gột rửa những tư tưởng ngă chấp, thiêu đốt tham, sân, si. Hoàng hậu Mallikà nhờ thấm nhuần những tư tưởng ấy của đạo Phật, đă trở nên một Phật tử chơn chánh, và thuyết phục được chồng bà, vua Pasenadi khỏi làm một cuộc tế lễ vĩ đại trong đó nhiều muông sinh đáng lẽ sẽ bị giết để chuộc mạng sống cho vua, theo lời khuyên của một người Bà la môn giáo.
Lại nữa, trong giáo lư Phật giáo mỗi người tự trách nhiệm lấy luân hồi sinh tử của ḿnh, đă bật tung gốc rễ của niềm tin truyền thống mà trong đó có ít nhiều tai hại cho phụ nữ như tin rằng nhờ tế tự thần linh mới sinh được con trai, hay tin rằng linh hồn người cha sẽ trở về quấy nhiễu nếu việc cúng tế không chăm sóc chu đáo. Với thuyết nghiệp báo, đạo Phật không tin vào những vụ cúng tế kia, dù là để cầu con trai hay để chuộc tội lỗi.
Như vậy, với sự xuất hiện của Phật giáo, người phụ nữ Ấn không c̣n phải quá lo ngại và bị ngược đăi khi không sinh được con trai. v́ người ta đă nhận thức được rằng cuộc sống đời sau của người cha hoàn toàn tùy thuộc vào những hành vi hiện tại của ông, chứ không phải do sự cúng tế của người con trai hay con gái nào cả. Và sự kế nghiệp gia đ́nh cũng không c̣n quá lệ thuộc vào người trưởng nam như trước.
Ngày nay ở bờ biển Tây Ấn c̣n có một giai cấp Bà la môn rất cổ xưa gọi là Nairs có truyền thống chỉ trao quyền thừa kế cho con gái. Điều này có thể là do một trong những ảnh hưởng của Phật giáo.
Trong Phật giáo hiện đại cũng thế, những công tác xă hội đề hàn gắn những vết thương của đồng loại trong lúc gặp thiên tai giặc giă, phần nhiều là do những vị ni và nữ Phật tử, nhiều từ tâm xả kỷ. Hàng nữ xuất gia cũng như tại gia hiện tại cũng đóng một vai tṛ không kém phần quan trọng đối với những công tŕnh của giáo hội, thường thường là vai tṛ xúc tiến những cuộc lạc quyên gây ngân quỹ.
Về phương diện tinh thần, đoàn thể ni chúng là một tấm gương sáng, một niềm khích lệ an ủi cho nhiều phụ nữ bất hạnh trong sinh hoạt gia đ́nh. Những lúc tinh thần căng thẳng rối loạn v́ đời sống hôn nhân, họ đến chùa và được tăng thêm tự tín khi có những người con gái đáng đầu con, em họ đang dạn dĩ bước đi một ḿnh trên đường đời, lấy chân lư làm bạn và lấy chúng sinh đau khổ làm gia đ́nh. Họ bỗng nhận ra rằng một gia đ́nh nhỏ với dăm ba đứa con hóa ra không phải là mục tiêu duy nhất của người phụ nữ, v́ nhiều phụ nữ khác có thể sống trọn vẹn hơn mà không cần ǵ đến những thứ phụ tùng phiền toái như họ.
Biết bao nhiêu người phụ nữ đau khổ đă được cảm hóa khi biết hướng tâm hồn họ về ánh sáng Phật pháp thay v́ quanh quẩn trong bóng tối của một bản ngă nhỏ hẹp với những vấn đề thế nhân bất tận trước mắt mà họ không thể nào t́m ra giải pháp.
Nhiều phụ nữ đă thú thật rằng nếu không nhờ Phật giáo th́ họ có thể hóa ra điên cuồng hay ít ra cũng thân tà ma dại. Quả thế, Phật giáo đă cống hiến rất nhiều cho giới phụ nữ, cũng như đă tạo nhiều phương tiện giúp hàng nữ lưu phát huy nguồn năng lực dồi dào của họ mà từ lâu bị xă hội chôn vùi trong quên lăng.
Đặc biệt là ngày nay, khi cơn bệnh của thế kỷ (bệnh AIDS) từng bước bành trướng khắp hoàn cầu th́ hơn ai hết những nữ tu sĩ Phật giáo, kế thừa gia bảo Chánh pháp của Phật, đă, đang và sẽ tiếp tục truyền thống thuyết pháp độ sanh, ban trải tất cả pháp môn tu hành xoa dịu nổi đau nhân thế.
Đọc lá thư cuối cùng của Tim Sullivan, người mắc bệnh AIDS, viết ngày 26/6/1994 gởi cho Sư cô T. Wongmo từ tiểu bang Chicago (Hoa Kỳ) chúng ta sẽ thấy rơ điều này hơn:
"Là một người đồng tính luyến ái mắc bệnh AIDS, tôi có nhiều thời gian để chấp nhận hoàn cảnh bi đát của ḿnh. Nhưng khi nói chuyện với Sư cô về vấn đề chết và hấp hối, tôi cảm thấy ḿnh có một nhận thức sâu sắc về cuộc sống và chấp nhận căn bệnh quái ác này. Qua phương pháp thiền chữa bệnh, kỹ thuật khống chế cơn đau và nhiều lần tranh luận với Sư cô ... giờ đây tôi cảm giác b́nh yên kỳ lạ, một cảm giác chưa từng có trong đời của tôi...".(33)
Rơ là chỉ qua một vài nét về sự ảnh hưởng của Phật giáo với phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày xưa cũng như nay, ta có thể đi đến một sự khẳng định chắc chắn rằng: Phật giáo chưa hề và không hề có một chút ǵ gọi là bi quan, gọi là không ưu đăi hàng nữ lưu, mà ngược lại c̣n quan tâm, giúp đỡ họ rất nhiều. Phật giáo đă và đang từng bước đi vào ḷng quần chúng nói chung và phụ nữ nói riêng.
2. Phật giáo với phong trào b́nh đẳng nam nữ hiện nay:
Ngày nay trên khắp thế giới đều dậy lên phong trào canh tân nữ giới. Với khoa học phát triển, với phương pháp truyền thông đại chúng ngày càng nhiều, ngày càng rộng răi, phụ nữ nhận thức được rằng họ không có điều ǵ phải thua kém nam giới. Trên mọi lănh vực xă hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, ... những ǵ nam giới làm được họ đều có thể xông xáo vào và có khả năng của người phụ nữ c̣n vượt trội hơn nam nhân. Phụ nữ không c̣n bị liệt vào một địa vị thấp kém của xă hội như ngày xưa nhằm thời Phật tại thế (dĩ nhiên đây không phải là tất cả).
Nói đến đây, chúng ta mới thực sự thấy đức Phật lịch sử là một nhân vật vĩ đại. Ngài đă làm nên một cuộc cách mạng lớn lao, chẳng những giải phóng cho hàng phụ nữ thoát khỏi sự áp bức của xă hội mà c̣n tạo điều kiện cho nữ giới vững bước vào đời.
Thế nhưng, không phải ai cũng thấy được những đóng góp lớn lao ấy của Phật giáo đối với phụ nữ nên cũng có một số người chưa hiểu Phật pháp cho rằng giáo lư Phật giáo với thuyết Vô ngă, thuyết nghiệp báo, luân hồi sanh tử, ... đă làm tŕ hăm tính năng động của người phụ nữ, và phụ nữ sẽ rất khó thực hiện phong trào đ̣i quyền b́nh đẳng với nam giới nếu họ học tập giáo lư Phật giáo.
Tuy nhiên, nếu nói đă vô ngă th́ c̣n ǵ để giành quyền b́nh đẳng, để phát động phong trào nam nữ b́nh quyền, thi hoàn toàn không đúng. V́ sao? V́ chính nhờ triết thuyết vô ngă này hàng nam giới mới nhận thức được rằng không có ǵ là họ, thuộc về họ để phải lấn lướt đè bẹp người phụ nữ, và phụ nữ cũng hiểu ra không có ǵ để gọi là thua kém để phải tự ti mặc cảm không phấn đấu vươn lên. Và như thế không có nghĩa là một sự tiêu cực dang xảy ra mà vô h́nh chung lại h́nh thành một cộng đồng người sống trong b́nh đẳng, với đầy ḷng từ bi, vô ngă, vị tha.
C̣n nếu nói về thuyết nghiệp báo, luân hồi th́ cũng không khác ǵ ư trên. Mọi người, kể cả nam và nữ, nếu đă tạo nghiệp th́ tất nhiên phải lănh quả báo như nhau. Như vậy không có nghĩa là có thể nói do người nữ nghiệp chướng nặng nề phải chấp nhận những áp bức bất công của xă hội và nam giới là những người hoàn toàn trong sạch để có thể gây nên những nỗi bất b́nh đến thương tâm ấy, mà đức Phật thuyết giáo lư nghiệp báo luân hồi chỉ v́ mục đích giúp cho mọi người hiểu được rằng: hễ gieo nhân nào th́ lănh quả đó, và như vậy sẽ gián tiếp giúp cho mọi người cùng chung sống trong pháp luật, ḥa b́nh, nhân ái.
Nh́n chung, qua những vấn đề trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: Phật giáo hoàn toàn không hề tỏ ra tiêu cực đối với việc b́nh quyền nam nữ mà ngược lại c̣n ủng hộ phong trào này. Và ngay đây chúng ta có thể nói với cái nh́n thiết thực, với tư duy đúng đắn về người phụ nữ, đạo Phật đă góp phần đưa người phụ nữ lên một địa vị xứng đáng trong xă hội.
Kết Luận
Mục đích tối hậu của Phật giáo là giải thoát, là thực chứng Niết bàn. Chính v́ điểm này, một số người không hiểu đă vội vàng cho rằng với giáo lư chỉ liên hệ đến giải thoát không thể vận dụng hữu hiệu vào việc xây dựng và tổ chức một xă hội mới, đặc biệt là sẽ tiêu cực với vấn đề b́nh quyền nam nữ. Nhưng thực tế sau khi nghiên cứu một cách logic những lời Phật dạy trong hệ thống giáo lư Phật giáo, ta nhận định được rằng giáo lư Phật giáo rất thực tiễn, rất mực quan tâm đến những vấn đề có liên hệ đến mọi khía cạnh trong cuộc sống của người phụ nữ.
Cách đây trên hai ngàn năm trăm năm, chính đức Phật đă không chấp nhận thực trạng đọa đày của nữ giới, mà giương cao ngọn cờ cách mạng cho người đương thời thấy rơ các điểm tốt đẹp, các điều thiện trong tư thế, nhân phẩm của người phụ nữ, khác xa cái h́nh ảnh xấu xa và tác hại mà xă hội truyền thống Ấn Độ đă gắn cho người nữ.
Qua một số nét về địa vị người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo đă được đề cập trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: trong đạo Phật không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Tất cả mọi người đều cùng sống thanh tịnh trong Pháp và Luật của Phật. Tất cả, không phân biệt nam nữ, giai cấp hay chủng tộc màu da, đều có thể thành đạt mức độ cao thượng nhất, miễn là theo đúng con đường mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đă vạch ra.
Khách quan mà nói đạo Phật hoàn toàn không làm tŕ hoăn bước tiến của người phụ nữ xưa cũng như nay, mà ngược lại đă đóng góp rất nhiều cho giới phụ nữ trong cuộc giành quyền b́nh đẳng nam nữ ngày nay. Một lần nữa, người viết khẳng định rằng người phụ nữ trong giáo lư Phật giáo thật sự được tôn trọng, được kính nể, được đề cao như một vị Phật tương lai. Và như thế, trước những vấn đề như Tám điều cung kính mà ni giới phải tuân thủ, vấn đề năm trăm năm mạt pháp nếu người nữ xuất gia, và những điều chướng ngại không thể làm nên việc lớn của người phụ nữ, ... đều không phải là lư do để bác bỏ địa vị người phụ nữ trong xă hội nói chung và trong giáo lư Phật giáo nói riêng.
Để kết luận, chúng ta có thể nói rằng Phật giáo đă đem lại một niềm an ủi vô bờ cho những phụ nữ đau khổ, đă mở ra một con đường vinh quang cho những phụ nữ có khả năng giác ngộ. Ngược lại, phụ nữ cũng đóng góp một phần quan trọng trong việc duy tŕ bảo vệ Chánh pháp.
Dưới ánh sáng tâm linh của đức Phật, không có vấn đề kỳ thị mà trái lại, mọi người mọi loài, đều được hiển lộ đúng chỗ của nó và đều quan trọng, đều cần thiết ngang nhau, đều b́nh đẳng như nhau. Nhưng quan niệm b́nh đẳng của Phật giáo phải được đặt căn bản trên tài và đức th́ sự b́nh đẳng ấy mới có ư nghĩa thực thụ chứ không phải là chính trị. Nghĩa là phụ nữ phải nỗ lực gột bỏ những thói xấu cố hữu và trau giồi những đức tính, khả năng của họ để tạo nên sự b́nh đẳng ấy, chứ không phải ngồi một chỗ kêu gào người khác đem đến cho họ, v́ khi ấy sự b́nh đẳng nếu có th́ cũng chỉ là lư thuyết.
Đức Phật dạy:
"Tự ḿnh, điều ác làm,
Tự ḿnh làm nhiễm ô,
Tự ḿnh, ác không làm
Tự ḿnh làm thanh tịnh
Tịnh, không tịnh, tự ḿnh,
Không ai thanh tịnh ai" (34)
Chỉ có tự chúng ta làm cho chúng ta thanh cao hay hèn hạ, không ai khác có thể nâng cao hay hạ thấp phẩm giá của ta, sự thật hiển nhiên là thế. Trong vấn đề phụ nữ cũng vậy, khi người phụ nữ chấm dứt những tệ đoan của họ, khi họ không tự hạ giá bằng cách biến ḿnh thành một thứ hoa chỉ để trang hoàng cho vui mắt, khi họ không quá chú trọng bề ngoài mà biết thực sự đề cao, theo đuổi những giá trị tinh thần tâm linh, biết sống v́ chân lư, th́ họ không có lư do ǵ để tự tôn tự ti, mà sống như một con người chân chánh, đơn thuần là một con người chân chánh, và theo Phật giáo, đấy là địa vị thuận lợi mở ra cho muôn ngàn khả năng đạt đến Tuyệt đối, Niết bàn.
Chú thích
(1) Nguyễn Tài Thư, Phật giáo và thế giới quan người Việt Nam trong lịch sử, nxb UBKHXHVN, 1986, p.37
(2) PTS Nguyễn Minh Ḥa, Xă hội học nhập môn, nxb giáo dục HN, 1995
(3) GS Minh Chi, Tài liệu Tôn giáo học trường CCPHVN, 1993, p.102
(4) Ibid., ... p.114
(5) Phẩm Thứ hai, Kinh Tương Ưng Bộ, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1993, p.194
(6) Kinh Báo Ân, Kinh Tâm Địa Quán, Phúc Điền THPGTPHCM, 1995, p.93
(7) Phẩm Sứ giả của trời, Tăng Chi Bộ Kinh I, HT Thích Minh Châu, Viện NPHVN, 1988, p.147
(8) Ibid., ... p.147
(9) Phẩm Hy Cầu, kinh Tăng chi bộ I, p.104
(10) Kinh Trung A Hàm III, HT Thích Thiện Siêu, THPGTPHCM, p. 266
(11) Kinh Bộ Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, pp.295-296
(12) Kinh A Tu La Pahàràda, phẩm Lớn, Kinh Bộ Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.57
(13) Giới đàn ni
(14) Phẩm người Tối Thắng, Kinh Bộ Tăng Chi, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.34
(15) Phẩm Sumana, Kinh Bộ Tăng Chi, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.39
(16) Trưởng lăo ni kệ, bài thứ 11
(17) Phẩm Gotaḿ, Kinh Bộ Tăng Chi III, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.114
(18) Đại kinh Vacchagotta, Trung Bộ Kinh II, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.236
(19) Đại kinh Vacchagotta, Trung Bộ Kinh II, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.238
(20) Phẩm Gotaḿ, Kinh Bộ Tăng Chi III, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.115
(21) Phẩm Gotaḿ, Kinh Bộ Tăng Chi III, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.117
(22) Phẩm Gotaḿ, Kinh Bộ Tăng Chi III, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.116
(23) Trích bài tựa cuốn ?Women under Primitive Buddhism?, Nguyễn Phúc Bửu Tăp dịch
(24) Phẩm Gotaḿ, Kinh Bộ Tăng Chi III, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.116
(25) Phẩm Chư Thiên, Kinh Bộ Tăng Chi II, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.333
(26) Ibid.,... p.333
(27) Kinh Cù Đàm Di, Trung A Hàm II, viện NCPHVN, 1992, p.751
(28) Phẩm Không Thể Có Được, Kinh Bộ Tăng Chi I, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, pp.37-38
(29) Phẩm Tương Ưng Tỳ Kheo ni, Kinh Bộ Tăng Chi I, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.285-286
(30) Phẩm Tương Ưng Tỳ Kheo ni, Kinh Bộ Tăng Chi I, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1988, p.285-286
(31) Nguyễn Phúc Bửu Tập, Đạo Phật và nữ quyền, Tạp chí Hoa sen số 28 ra ngày 15/5/1996 tại California, p.135
(32) Phẩm Mâu Ni Vương Nữ, Kinh Bộ Tăng Chi I, HT Thích Minh Châu, Viện NCPHVN, 1993, p.43
(33) Báo Giác ngộ, p.20 T. Nguyên Tạng dịch theo Mandala Journal 10/94
(34) Pháp Cú: 165, Ḥa Thượng Thích Minh Châu, trường CCPHVN, 1990, p.97
Tài liệu tham khảo
1. Kinh Trung Bộ I, II, III, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1986.
2. Kinh Bộ Tăng Chi I, II, III, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1988.
3. Kinh Trường Bộ I, II, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1991-1992.
4. Kinh Tương Ưng Bộ I, II, III, IV, V, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1993.
5. Kinh Pháp Cú, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1990.
6. Trưởng lăo ni kệ, HT. Thích Minh Châu, viện NCPHVN, 1982.
7. Kinh Trung A Hàm I, II, III, IV, HT. Thích Thiện Siêu, viện NCPHVN, 1993.
8. Kinh Tăng Nhất A Hàm I, II, III, HT. Thích Thiện Siêu, viện NCPHVN, 1993.
9. Kinh Tâm Địa Quán, Phúc Điền, Thành Hội PGTPHCM, 1995.
10. HT Thích Thanh Kiểm, Lược sử Phật giáo Ấn Độ, THPGTPHCM, 1995.
11. Thích Chơn Thiện, Tăng già thời Đức Phật, VNCPHVN, 1991.
12. Thích Chơn Thiện, Phật học khái luận, GHPGVN, 1993.
13. Thích Thiện Nhơn, Đại cương kinh Tăng Nhất A Hàm, giáo tài Trường CCPHVN, 1994.
14. Thích Thiện Nhơn, Đại cương kinh Tạp A Hàm, tài ĺệu Trường CCPHVN, 1995.
15. Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh, 1971.
16. Phật giáo nh́n toàn diện, Phạm Kim Khánh, 1996.
17. GS Minh Chi, Tài liệu Tôn Giáo học, trường CCPHVN, 1993.
18. Nguyễn Trọng Văn, Lịch Sử Triết học Phương Tây, Đại học Tổng hợp TPHCM, khoa Triết học.
19. Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, UBKHXHVN, viện Triết học.
20. Xă hội nhập môn, Nguyễn Minh Ḥa, nxb giáo dục HN, 1995.
21. Báo Giác ngộ, số 20, ra ngày 1-3-1995
22. Nguyệt san Tư tưởng, số 3, tháng 5-1971, viện Đại học Vạn Hạnh.
23. Nguyệt san Hoa sen, số 28 ra ngày 15-5-1996, tại California, p.135.
24. Hoa Đàm, Ni Bộ Bắc Tông, 1973.
Nguồn: http://www.tuvienquangduc.com
HD
__________________ dacthanh
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
hoanghavuthi Hội viên

Đă tham gia: 14 September 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 6 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 8:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thật là hay và rất sâu sắc !
Tôi không ngờ một câu hỏi nhỏ lại có thể được trả lời sâu rộng như vậy.
Tôi xin chân thành cảm ơn và hi vọng rằng có những vị Hoà Thượng có kiến thức uyên bác như vậy để khai mở cho chúng sinh.
Cảm Ơn.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 7 of 12: Đă gửi: 27 February 2006 lúc 10:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào quí vị và các bạn!
xin chân thành cảm ơn các bạn đă có những ư kiến thật hay.
Nhân đây, tôi cũng có vài lời:
1.Đức Phật ra đời nhằm " khai thị ngộ nhập phật tri kiến " cho tất cả chúng sanh đều thành phật cả. Do đó không có sự phân biệt bất cứ ai. Nếu hành và sống đúng như tất cả lời Ngài chỉ dạy th́ đều giải thoát cả.Lời Ngài từng dạy: " Ta là Phật đă thành, chúng sanh là phật sẽ thành sau ta ".
2.Theo kinh điển của phật giáo nguyên thủy, Đức Phật có giảng về sự chướng ngại của nữ giới v́ sao kiếp này mang thân nữ.Không phải Ngài không cho người nữ tu tập v́ thuở đó chỉ có Tăng đoàn mà không có Ni đoàn nhưng sau khi nghe lời Ngài A Nan van cầu và tŕnh bày ư kiến cho nên Ngài đă cho thành lập Ni đoàn.V́ nữ giới không đủ pháp tướng như trượng phu va hay dễ duôi có thể làm lung lay ư nguyện tu hành nên Ngài cần phải cân nhắc lại.Có thể nói rằng có biết bao vị ni nổi tiếng và đắc quả từ thời đức phật quá khứ,hiện tại cũng có biết bao vị chứng quă ẩn mật tu hành đắc quả và viên tịch không phô bày ra, mà người thay thế dức phật phổ biến giáo lư phật đà thường là các vi tùy khưu tăng bởi các ngài có đầy đủ giới đức và đủ sức úng phó trước những chướng ngại có thể xăy ra. Do đó quí vị nào có ư trọng nam khinh nữ th́ hăy xem lại đi. Để bát bỏ ư tưởng này, kinh PHÁP HOA có nói rơ: nàng rồng có tám tuổi sau khi nghe kinh xong, nàng đă nhả viên ngọc của ḿnh dâng cúng cho phật, hiện đủ tướng trượng phu chứng quả vị Phật ở xứ Vô Cấu.Bồ Tát Quảng Đức dạy rằng " không có sự phân biệt trong máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn".
3.Thời ḱ này là thời mạt pháp: do đó ma vương và ma con ma cháu ẩn trú vào phật pháp. Chúng có thể mặc Tăng phục diễn giải kinh theo thiên kiến của chúng.Do đó khó phân biệt thực giả, chúng ta phải suy xét và kiểm chứng bằng kinh điển để xem sự đúng sai. Những vị nào giảng " không y kinh " th́ chúng ta phải dùng trí tuệ để quán xét bởi lẽ thời nay hơi khác xưa do đó có những điều có thể đúng nhưng có cái cần phải xem xét cân nhắc lại. Nếu vị nào "ly kinh giảng đó là lời ma thuyết".Theo Phật giáo nguyên thủy th́ giáo pháp của đức Thích Ca tồn tại đến 5000 năm ( hiện nay phật lịch là 2549 dựa theo chúng thánh điểm kí từ khi phật nhập diệt ).Do đó sẽ xuất hiện nhiều giáo phái: " Rần rần đạo nọ đạo kia ra, kẻ ở trên non kẻ ở nhà".
Tóm lại, chúng ta là đệ tử phật phải lấy chánh lư mà suy không nên mù quáng tin theo. sống và hành theo lời phật dạy tự ḿnh tu, ḿnh biết tự tu tự tiến không nên chạy theo ảo vọng phù hoa tin mê phép lạ thần thông th́ thế nào cũng lạc vào ma đạo nên nhớ. Đừng quên lời dạy ba đời của chư phật: " CHỚ LÀM ĐIỀU ÁC. HĂY LÀM ĐIỀU LÀNH.ẤY LÀ LỜI CHƯ PHẬT DẠY ".
kính chúc quí vị vạn sự kiết tường.
Phổ Quảng
thân chào
Sửa lại bởi phoquang : 27 February 2006 lúc 10:37pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
minhtam Hội viên

Đă tham gia: 16 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 132
|
Msg 8 of 12: Đă gửi: 28 February 2006 lúc 9:07am | Đă lưu IP
|
|
|
phoquang đă viết:
Kính chào quí vị và các bạn!
xin chân thành cảm ơn các bạn đă có những ư kiến thật hay.
2.Theo kinh điển của phật giáo nguyên thủy, Đức Phật có giảng về sự chướng ngại của nữ giới v́ sao kiếp này mang thân nữ.Không phải Ngài không cho người nữ tu tập v́ thuở đó chỉ có Tăng đoàn mà không có Ni đoàn nhưng sau khi nghe lời Ngài A Nan van cầu và tŕnh bày ư kiến cho nên Ngài đă cho thành lập Ni đoàn.V́ nữ giới không đủ pháp tướng như trượng phu va hay dễ duôi có thể làm lung lay ư nguyện tu hành nên Ngài cần phải cân nhắc lại.Có thể nói rằng có biết bao vị ni nổi tiếng và đắc quả từ thời đức phật quá khứ,hiện tại cũng có biết bao vị chứng quă ẩn mật tu hành đắc quả và viên tịch không phô bày ra, mà người thay thế dức phật phổ biến giáo lư phật đà thường là các vi tùy khưu tăng bởi các ngài có đầy đủ giới đức và đủ sức úng phó trước những chướng ngại có thể xăy ra. Do đó quí vị nào có ư trọng nam khinh nữ th́ hăy xem lại đi. Để bát bỏ ư tưởng này, kinh PHÁP HOA có nói rơ: nàng rồng có tám tuổi sau khi nghe kinh xong, nàng đă nhả viên ngọc của ḿnh dâng cúng cho phật, hiện đủ tướng trượng phu chứng quả vị Phật ở xứ Vô Cấu.Bồ Tát Quảng Đức dạy rằng " không có sự phân biệt trong máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn".
.Theo Phật giáo nguyên thủy th́ giáo pháp của đức Thích Ca tồn tại đến 5000 năm ( hiện nay phật lịch là 2549 dựa theo chúng thánh điểm kí từ khi phật nhập diệt )." CHỚ LÀM ĐIỀU ÁC. HĂY LÀM ĐIỀU LÀNH.ẤY LÀ LỜI CHƯ PHẬT DẠY ".
kính chúc quí vị vạn sự kiết tường.
Phổ Quảng
thân chào
|
|
|
Chào bạn Phổ Qủang ,
Lời giải thích trên chưa thể hiện tinh thần của Phật giáo
bỡi vào thời ĐỨC PHẬT không phải v́ lư do chỉ có Tăng đ̣an mà chưa có Ni đ̣an . Cũng không do thỉnh cầu của Ngài A Nan ,lời thỉnh cầu đó do duyên lành đă chín muồi đến thôi .
Bỡi ĐỨC PHẬT là vị giáo chủ khai sáng ra chân lư tối thượng giải thóat viên măn cho ḷai người . Với sức Định thâm sâu của Đức Phật th́ Ngài có thể quán xét nh́n thấu nghiệp trùng trùng của chúng sanh trong muôn ngàn kiếp . Do đó nữ giới không phải là do pháp tướng hay tánh dễ duôi , đó chỉ là thể hiện bên ng̣ai của tâm thức , sự chi phối của nghiệp lực mà thọ mạng thân nữ . ĐỨC PHẬT đă làm một cuộc cách mạng b́nh đẳng cho nữ giới và nam giới , giữa Tăng và Ni trong Phật Đạo .
Theo Phật giáo nguyên thủy th́ Phật lịch đến năm 2006 là 2550 năm và theo Việt lịch Quốc Tổ Hùng Vương là 4885 năm . Thân chào .
TT Thích Minh Tâm cẩn bút
|
Quay trở về đầu |
|
|
DaiBi Hội viên


Đă tham gia: 27 November 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 124
|
Msg 9 of 12: Đă gửi: 01 March 2006 lúc 2:18am | Đă lưu IP
|
|
|
hoanghavuthi đă viết:
Phụ nữ đi tu gây ra những điều lộn xộn, không tốt. |
|
|
hoanghavuthi đă viết:
Do vậy, dù Đạo Phật có b́nh đẳng, nhưng các Nữ tu cũng chỉ ở các vị trí thấp kém.. và dẫn chứng ra là các Đạo khác như Đạo Hồi, phụ nữ vẫn được tới nhà thờ nhưng phải đi bằng cửa khác và ngồi riêng... Và Phật giáo cũng chia thành Nam Tông, Bắc tông do không công chấp nhận nữ giới ... |
|
|
Đây là lời phỉ báng chánh pháp của kẻ tạo tội, đừng nên nghe theo. Mọi người đều không biết Quan Âm bồ tát thường hay hoá nữ nhân để cứu độ chúng sanh hay sao?
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 10 of 12: Đă gửi: 01 March 2006 lúc 10:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
xin chào các bạn!
Tất cả mọi việc trên đời này đều do định luật nhân quả chi phối. Đúng như bác Minh Tâm đă nói mọi việc đều do nhân duyên đúng lúc đúng thời , do đó Đức Phật Ngài mới quán xét tâm ư của tất cả, rồi ngài mới đưa ra quyết định của ḿnh. Chính ngài A NAN là một tác nhân để cho Đức Phật cần xem xét lại vấn đề.
Rơ nét nhất là Bồ Tát Quán Âm đă hoá thân thành TARA và nguyện dùng thân nữ để mà độ chúng sanh trong mọi lúc.
Chớ nên phỉ báng chê bai mà phải biết lắng nghe bằng tâm thức của ḿnh để quán xét những cái sai cái đúng trong thời mạt pháp này; hăy nói bằng lời ôn hoà để mọi người cùng góp ư để ḿnh có thể hiểu ro vấn đề hơn.
Chân thành cảm ơn
thân chào
Sửa lại bởi phoquang : 01 March 2006 lúc 10:55pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên


Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 11 of 12: Đă gửi: 03 March 2006 lúc 10:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỌC PHẬT QUẦN NGHI
(Giải thích những nghi vấn trong Phật học)
Phân Viện Nghiên Cứu Phật Học dịch
*QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỊA VỊ NỮ GIỚI NHƯ THẾ NÀO ?
Ḥa Thượng Thích Thánh Nghiêm trả lời:
Phật giáo gọi nữ giới là ni chúng. Tỉ dụ về địa vị có liên quan đến ni chúng thường được đem ra thảo luận là "phép tám kính" (bát kính pháp). Theo phép tám kính th́ ni chúng không thể ở độc lập mà phải nương dựa vào nam chúng, không thể cùng ở với nam; cũng không thể tách rời nam giới quá xa. Phải mời các trưởng lăo thượng tọa nam đến thuyết pháp dạy về giới ni chúng nửa tháng một lần, ni chúng không thể trực tiếp đến thọ giới trong ni tăng mà phải nam giới chứng minh. Tỳ kheo ni tuy thọ giới 100 năm c̣n phải lễ bái nam chúng mới thọ giới Tỳ kheo.
Do vậy, cho đến nay ni chúng trước sau đều không có địa vị trong Phật giáo đặc biệt là trong khu vực Thượng Tọa bộ ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, người ta thậm chí c̣n không cho phép nữ trở thành Tỳ kheo ni. Họ chỉ có thể trở thành những nữ tu hành sống cuộc đời xuất gia mà không thọ giới xuất gia.
Thế nhưng hiện nay sau khi nữ giới ở phương Tây gia nhập tăng đoàn Phật giáo, họ lên tiếng đ̣i quyền lợi nam nữ b́nh đẳng. Họ cảm thấy ở phương Đông nữ giới không có địa vị, nhưng quay trở về xă hội phương Tây th́ nữ Phật tử xuất gia ở đây càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Đó là một hiện tượng đặc thù. Bởi v́, đến phương Tây truyền bá Phật giáo chủ yếu là nam chúng. Nam chúng vốn không phân biệt đối xử với ni chúng, nhưng truyền thống của Phật giáo là như vậy làm sao mà phá được. Then chốt là ở đấy.
Hiện nay ở Mỹ có một nhóm ni chúng Phật giáo xuất gia xuất bản một quư san gọi là tạp chí Kahawai với phụ trương là "Nữ giới với thiền" (Journal of Women and Zen). Tạp chí đă ra được 9 số. Ở Tích Lan cũng có một nhóm ni chúng phát tâm xuất bản một tổ thông tin hàng tháng gọi là "parappvdvwa" với phụ trương "Nunslsland" (đảo của ni chúng), tạp chí đă ra được 4 số. Tôn chỉ của tạp chí này là đề cao địa vị của nữ giới trong Phật giáo để đạt tới mục đích nam nữ b́nh đẳng. Trung tuần tháng 2 năm 1987, Phật đà gia ở Ấn Độ đă triệu tập đại hội tỳ kheo ni thế giới có tính chất lịch sử.
Trong tạp chí "Dương đại" số 11 do Đài Loan xuất bản tháng 3 năm 1976 Dân Quốc, bác sĩ Mỹ là Cổ Chính có viết một bài chuyên luận nhan đề là "Phật giáo với sự xem thường nữ giới" nói rơ sự xem thường nữ giới củ Phật giáo xuất phát từ Hóa Địa Bộ thuộc hệ thượng tọa. Tỉ dụ như "phép tám kính" và nữ giới có 5 trở ngại đều do Hóa địa bộ cường điệu ra. Cái gọi là 5 trở ngại là nữ giới không thể thành Phật, không thể thành ma vương, không thể làm thiên đế thích, không thể làm phạm vương, không thể chuyển bánh thánh vương. Điều này chứng tỏ đại chúng bộ ở vào thời kỳ cuối, hữu bộ và hệ không của Đại thừa thời kỳ đầu đă có những ư kiến khác nhau đối với quan niệm này. Bộ Kinh Phật thuyết về "Long thi nữ" đă phản đối nhất thiết bộ quan niệm về 5 loại trở ngại đối với nữ giới, nêu rơ cuốn 22 và cuốn 50 của "Tăng nhất a hàm" đă thuật lại những phụ nữ như những bà d́ của Đức Phật là Đại Ái Đạo, Tu Ma Đề không những có đầy đủ đức tin mà c̣n cho rằng làm nữ giới là điều vinh quang. Kinh "Đạo thành bát nhă" của Đại thừa hệ không, đă cực lực phản đối lư luận chuyển hóa nữ làm nam giới thành Phật. Kinh "Duy Ma Cật", kinh "Thuận quyền phương tiện", kinh "Chư Phật yếu tập", kinh "A xà quán vương A thuật đạt Bồ Tát", kinh "Đại tịnh pháp môn", kinh "Bảo nữ sở vấn", kinh "Phật thuyết Tu Ma Đề Bồ Tát" và kinh "Phật thuyết và người phụ nữ hiền thanh tịnh" v.v... đều nêu bật tác dụng của lư luận không phân biệt nam nữ.
Trên thực tế, khi nghiên cứu quan niệm đối với nam nữ trong thời đại Phật tại thế, th́ nên chú trọng đến sự b́nh đẳng cơ bản như chứng quả la hán không phân biệt nam nữ, tu học Phật pháp cũng nam nữ b́nh đẳng. Phật nói tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật, huống hồ là nữ giới. Gọi là Phật là người được giải thoát triệt để, là người có trí tuệ viên măn và người cứu thế vô thượng, nam cũng có thể thành Phật, nữ cũng không ngoại lệ. Nhưng xét về sinh tâm lư của nữ th́ chúng ta không thể - không phủ nhận nữ giới nói chung so với nam giới th́ yếu đuối hơn, nhu nhược và có tính ỷ lại nhiều hơn. V́ vậy, để bảo vệ các ni tu đạo và sinh hoạt được an toàn, khuyến khích họ trở thành những chúng tăng xuất sắc ở cửa Phật th́ các tỳ kheo nam nên giành một phần công sức giúp đỡ các ni, nhưng đó không phải là áp đặt họ, phân biệt đối xử với họ. Như đối với những tỳ kheo ni có danh tiếng như bà d́ của Đức Phật, ai lại không tôn kính ? Trong kinh Phật có đề cập đến việc nữ giới là nguồn gốc kích động t́nh dục và tham dục của Tỳ kheo. Để ngăn ngừa ngọn lửa t́nh dục thiêu đốt, nên đối với tỳ kheo ni có nói rằng thân nữ giới không trong sạch, lấy thân thể nữ giới làm đối tượng mà tu lối quán bất tịnh. Đó là phương pháp để áp dụng và cách thức đề pḥng trong quá tŕnh tu tŕ chứ không phải là phân biệt đối xử với nữ giới.
Trong nữ giới cũng có những bậc trượng phu, những anh hùng nhưng xét cho cùng th́ không có nhiều vĩ nhân như nam giới. Thế giới hiện nay lên tiếng ca ngợi nam nữ b́nh đẳng, đảm bảo quyền lợi cho giới nữ nhưng hiệu quả chưa được rơ rệt. Trong số 160-170 quốc gia trên toàn thế giới hiện nay có những phụ nữ đă trở thành nguyên thủ quốc gia. Trong mấy chục năm gần đây đă có bà Mayer, Thủ tướng Ixraen, bà Găng-đi ở Ấn Độ, bà Thát-chơ ở Anh, bà Auinô ở Philipin, Xri Lan Ca cũng có một bà tổng thống. Lănh tụ tôn giáo nổi tiếng thế giới là bà tu sĩ Đức Thụy Sa được giải thưởng ḥa b́nh No-ben năm 1979. Trong giới công thương theo thống kê của tạp chí Forbes số tháng 5 năm 1987, th́ năm 1987 chỉ có 3 phụ nữ trong số giám đốc của 800 công ty Mỹ có cổ phiếu trên thị trường. Chúng ta biết rằng tỷ lệ nhân khẩu nam nữ trên thế giới là xấp xỉ bằng nhau. Tại sao số phụ nữ kiệt xuất nổi tiếng so với nam giới lại ít ỏi thế ? Vấn đề là do truyền thống nữ giới chăm lo công việc gia đ́nh nên trở thành những vị anh hùng sau hậu trường. Hơn nữa, bản thân nữ giới có những nhược điểm vốn sinh ra đă có. Đó là một sự thật.
Chúng ta không nên nhấn mạnh đến sự b́nh đẳng tuyệt đối giữa nam và nữ giới trong Phật giáo mà phải tiếp thu lời giáo huấn của Đức Phật. Cái gọi là "Pháp trụ pháp vị" tức là mỗi cái đều có vị trí lập trường của ḿnh, mỗi cái đều có phần riêng của ḿnh, mỗi cái đều làm hết trách nhiệm của ḿnh, cái này, cái nọ tôn trọng lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nếu gặp trường hợp có 4 chúng nam nữ (tức ưu bà tắc, ưu bà di, tỳ kheo, tỳ kheo ni) cùng hội họp th́ nên xem tính chất của cuộc họp để sắp xếp chỗ ngồi, đối với nữ giới có tính chất đại biểu và có chức vụ quan trọng th́ nên bố thí họ ngồi ngang hàng b́nh đẳng với nam giới, nếu cuộc họp có tính chất nghi thức thông thường th́ chúng tăng nam và chúng tăng nữ nên phân biệt mà ngồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
Hot_dzit_lon Học Viên Lớp Tử Vi


Đă tham gia: 04 October 2004 Nơi cư ngụ: Iraq
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 941
|
Msg 12 of 12: Đă gửi: 05 March 2006 lúc 5:23pm | Đă lưu IP
|
|
|
minhtam đă viết:
Theo giáo lư nhà Phật giáo th́ nữ giới luôn nặng nghiệp hơn nam giới .
|
|
|
Thưa thầy Minh Tam
Tại sao nữ giới nặng nghiệp hơn nam giới huh thầy ?
__________________ Bách niên thế sự bất thăng bi
Công hầu đệ trạch giao tân chủ
Văn vũ y quan dị tức th́
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|