Tác giả |
|
phoquang Hội viên
Đã tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 1 of 2: Đã gửi: 06 March 2006 lúc 5:02am | Đã lưu IP
|
|
|
NGHI THỨC
LỄ AN VỊ PHẬT
Biên soạn: Trí Hà
( Nghi thức này được soan ra cho tất cả quý vi, khi thỉnh ảnh hoặc tựong Phật mới về an vị tại tư gia hoặc Niệm Phật Đường. Nghi thức này có thể nói đầy đủ nhất và hoàn chỉnh nhất từ trước đến nay, bỡi lẽ được kết hơp các truyền thống trong Phật giáo Nam-Bắc Tông có nghĩa là Hiển Mật song hành. Kính mong quý vị tụng niệm nghi thức này khi an vị Phật mới, đừng chấp rằng nghi thức này quá dài và làm mất thời gian của quý vị, bởi vì lâu lắm quý vị mới có dịp được tụng niệm nghi thức này. )
( Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực niệm )
1.Chú Bái Phật:
Kiến Phật tướng hảo
Đương nguyện chúng sanh
Thành tựu Phật thân
Chứng vô tướng pháp
*Hán-Việt: Án, mưu ni, mưu ni, tam mưu ni, tát phạ hạ ( đọc 3 lần ).
*Phạn âm: Om muni muni mahamuniye svaha ( 3 lần ).
2.TÁN-DƯƠNG PHẬT-BẢO
Pháp vương vô-thượng tôn
Tam-giới vô luân thất
Thiên nhơn chi Ðạo-sư
Tứ-sanh chi từ-phụ
Ư nhứt niệm quy-y
Năng diệt tam-kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán-thán
Ức kiếp mạc năng tận.
3.QUÁN TƯỞNG
Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như Ðế-châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, Ðại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, Ðại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. (1 lạy)
- Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới Ðại-từ Ðại-bi A-Di-Ðà Phật, Ðại bi Quán-Thế-AÂm Bồ-tát, Ðại-Thế-Chí Bồ-tát, Ðại-nguyện Ðịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh Ðại-hải-chúng Bồ-tát. (1 lạy)
Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,Phật Thế Tôn.
*ÂN ĐỨC PHẬT:
+Pali: Itipi so Bhagava, Araham, Sammasambuddho Vijjacaranasampanno, Sugato, Lokavidu, Anuttaro, Purisadammasarathi Satthadevamanussanam, Buddho, Bhagavati.
+Pali âm: Ítípí sô Phágá qua Aùrá hăng Săm-masăm bút-thô, Quích-cha-chárána ùsăm-panh-nô Súgátô, Lôka ùquídu Aùnút-tárô Púrí sáđăm-mása ráthí, Sát-thađê quámá nús-sanăng Bút-thô Phágá quatí.
*ÂN ĐỨC PHÁP:
+Pali: Svakkhato, Bhagavata, Dhammo, Sanditthiko, Akaliko, Ehipassiko, Opanayiko Paccattam veditabbo vinnuhiti.
+Pali âm: Soak-khátô Phágá quáta Tham-mo Sanđít-thíkô,
Aùka líkô Eâhí pás-síkô Oâpáná díkô, Pách-chát-tăng Quêđí táp-bô Quinh-nhu hití.
*ÂN ÐỨC TĂNG BẢO:
+Pali: Suppatipanno bhagavato savakasangho. Ujupatipanno bhagavato savakasangho. Nayapatipanno bhagavato savakasangho. Samicipatipanno bhagavato savakasangho. Yadidam cattari purisayugani.Attha purisa puggala. Esa Bhagavato savakasangho.Ahuneyyo. Pahuneyyo. Dakkhineyyo.Anjalikaraniyo.Anuttaram punnakkhettam lokassati.
+Pali âm: SÚP-pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô. ÚCHÚ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.NHADÁ pátí panh-nô phágá quátôsa quáká săngkhô.SAMICHÍ pátí panh-nô phága ùquátôsa quáká săngkhô.Dáđíđăng chát-tari púrísa ùdúganí. Át-thá púrísá púc-gála. Eâsá phága ùquátô saquáká săngkhô.Ahú nay-dô. Pahú nay-dô. Dắk-khí nay-dô. Anh-chálí kárá niyo. Aùnút-tárăng punh-nhắk-khết-tăng lôkás-sati.
4.Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn:
*Hán Việt: Án lam xóa ha. (3 lần)
*Phạn âm: Om Ram (3 lần)
(Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài Nguyện Hương).
5.Nguyện Hương:
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhứt-thế Phật,
Tôn pháp chư Bồ tát,
Vô biên Thanh-Văn chúng,
Cập nhứt thế Thánh-Hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật-sự,
Phổ huân chư chúng-sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn-ly chư vọng-nghiệp,
Viên-thành vô-thượng đạo.
Nam mô Hương Vân Cái BỒ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
6.Kỳ Nguyện:
Hôm nay, Ngày...thàng...năm, chính là ngày...tháng...năm...âm lịch, Đệ tử-chúng đẳng thành tâm dâng lễ phẩm, hương hoa tinh khiết dâng lên cúng dường, trì tụng kinh chú, tẩy trần sái tịnh, thỉnh Phật an vị, tại gia chiêm bái cúng dường. Nguyện xin Chư Phật, Chư BỒ Tát thùy từ gia hộ, quang lâm chứng minh.
(Chủ lễ đứng dậy cắm hương, rồi ngồi bán già chắp tay lên ngực cả chúng đồng đọc)
7.Tịnh Khẩu Nghiệp Chơn Ngôn:
*Hán Việt: Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị tát bà ha (3 lần).
*Phạn âm: Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị sờ va ha (3 lần).
8.Án Thổ Địa Chơn Ngôn:
*Hán Việt: Nam mô tam mãn đa, một đà nẫm, án độ rô, độ rô địa vỹ ta bà ha (3 lần).
*Phạn âm: Na mắc, sa măng tá, bút đa năm,om bờ rật thi vi rê, sờ va ha (3 lần).
9.Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn:
*Hán việt: Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần).
*Phạn âm: Om sờ va pha va, sút đa, sạc va, đạt ma, sờ pha va, sút đô hăm (3 lần).
10.Phổ Cúng Dường Chơn Ngôn:
*Hán Việt: Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng (3 lần).
*Phạn âm: Om ga ga na, săm Pha va, vắc ra hốc (3 lần).
11.Phụng Thỉnh Bát Kim Cang:
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang
Phụng thỉnh Xích Thinh Hỏa Kim Cang
Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang
Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang
12.Phụng Thỉnh Tứ Bồ Tát:
Phụng thỉnh Quyền Bồ Tát
Phụng thỉnh Sách Bồ Tát
Phụng thỉnh Ái Bồ Tát
Phụng thỉnh Ngữ Bồ Tát
13.Thỉnh Tứ Thiên Vương:
Nam mô Bút đa da, Na-cha lii-ti, La-cút ta-rô (3 lần)
14.Thỉnh Chư Thiên:
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa (3 lần).
*Pali:
Sagge kame ca rupe girisikharatate cantalikkhe vimane. Dipe ratthe ca game taruvanagahane gehavatthumhi khette
Bhumma cayantu deva jalathalavisame yakkhagandhabbanaga
Titthanta santike yam munivaravacanam sadhavo me sunantu.
Dhammassavanakalo ayambhadanta.
Dhammassavanakalo ayambhadanta.
Dhammassavanakalo ayambhadanta.
*Pali âm:
Sắcgê kamê chá rupê gírísí khára ùtátê
Chanta ùlík-khê químanê.
Đipê rat-thê chá gamê tárú quáná gáhánê
gêháquát-thumhí khết-tê phum-ma chádanhtú
đêqua chála ùthálá quísámê
dắk-khá ganhtháp bánaga.
Tít-thánta sanhtíkê dăng múní quárá
quáchánăng satháquô mê súnanhtú.
- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.
- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.
- Tham-más-sáquáná kalô ádăng phádănhta.
15.Dâng Hoa Cúng Phật:
Pujemi Buddham kusumenanena
Punnena metena ca hontu mokkham
Puppham milayati yatha idamme
Kayo tatha yati vinasabhavam.
16.Quy y:
Na mô Guru Phy Giắc
Na mô Bút Đa Gia
Na mô Đạt Ma Gia
Na mô Săng Ga Gia
Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.
Tham-Măng sáránăng gách-chamí.
Săngkhăng sáránăng gách-chamí.
ĐÚTÍ DĂMPÍ Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.
ĐÚTÍ DĂMPÍ Tham-Măng sáránăng gách-chamí.
ĐÚTÍ DĂMPÍ Săngkhăng sáránăng gách-chamí.
TÁTÍ DĂMPÍ Bút-Thăng sáránăng gách-chamí.
TÁTÍ DĂMPÍ Tham-Măng sáránăng gách-chamí.
TÁTÍ DĂMPÍ Săngkhăng sáránăng gách-chamí.
17.Thọ Trì Ngũ Giới:
*Nghĩa:
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà hạnh.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối, nói lời đâm thọc chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và dùng các chất say.
*Pali âm:
Pana típata quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.
Aùđinh-na đana quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.
Kamê súmich-cha chara quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.
Músa quada quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.
Súra mê rádá mách-cháp-páma dát-thana quêra máni sík-kha páđăng sáma đídamí.
18.Kinh Từ Bi (Pali):
1) Karaniya matthakusalena
Yantam santam padam abhisamecca
Sakko ujuu ca suhuju ca
Suvaco c'assa mudu anatimani.
2) Santussako ca subharo ca
Appakicco ca sallahukavutti
Santindriyo ca nippako ca
Appagabbho kulesu ananugiddho.
3) Na ca khuddam samaacare kinci. Yena vinnuu pare upavadeyyum. Sukhino va khemino hontu. Sabbe satta bhavantu sukhitattaa.
4) Ye keci panaphutatthi
Tasa va thavara va anavasesa
Digha va ye mahanta va
Majjhima rassakanukathula
5) Dittha va yeva addittha
Ye ca dure vasanti avidure
Bhuuta va sambhavesi va
Sabbe satta bhavantu sukhitatta.
6) Na paro param nikubbetha
Natimannetha katthacinam kinci. Byarosana patighasanna
Nanna mannassa dukkha miccheyya.
7) Mata yatha niyam puttam
Ayusa ekaputtatamanurakkhe
Evampi sabbaphutesu
Manasam bhavaye aparimanam.
8) Mettanca sabba lokasmim
Manasam bhavaye aparimanam
Uddham adho ca tiriyanca
Asambadham averam asapattam.
9) Tittham caram nisinno va
Sayano va yavat'assa vigatamiddho. Etam satim addhittheyya. Brahmametam viharam idha mahu.
10) Ditthinca anupagamma silava. Dassanena sampanno
Kamesu vineyya gedham
Nahijaatu gabbhaseyyam puna reti'ti.
19.Tán Dương Chi:
Dương-chi tịnh thủy,
Biến sái tam-thiên,
Tánh không bát-đức lợi nhơn thiên,
Pháp-giới quảng tăng diên...
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa diệm hóa Hồng-liên.
Nam-mô Thanh-Lương-Ðịa Bồ-Tát Ma-ha-tát. (3 lần)
20.Sái Tịnh:
Sabbe buddà balappaattà
Paccekànnca yabalam
Arahantànanca tejena
Rakkham bandhàmi sabbaso
(3 lần)
21.Giáo hữu mật ngôn sái tịnh khử uế cẩn đương trì tụng Đại Bi Chú:
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đã tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 2 of 2: Đã gửi: 06 March 2006 lúc 5:03am | Đã lưu IP
|
|
|
22.Phát Nguyện Văn:
Khể thủ tam giới tôn
Quy mạng thập phương Phật
Ngã kim phát hoằng nguyện
Trì thử Phổ Môn Kinh
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tất phát Bồ Đề Tâm
Tạn thử nhất báo tânh
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
23.Vân Hà Phạm:
Vân hà đắc trường thọ
Kim cang bất hoại thân
Phục dĩ hà nhân duyên
Đắc đại kiên cố lực
Vân hà ư thử kinh
Cứu cánh đáo bỉ ngạn
Nguyện Phật khai vi mật
Quảng vị chúng sanh thuyết.
24.Khai Kinh kệ:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa
Nam mô Khai Bảo Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát(3 lần).
25.Kinh Phổ Môn:
*Bài 1: Phổ Môn Kinh theo lối diễn kệ:
Đây tòa Diệu Pháp Liên Hoa
Phổ Môn một phẩm thơm lời kinh thi
Linh mầu pháp vũ huyền vi
Hoa quang bủa khắp Từ Bi mẹ hiền
Ngài Vô Tận Ý khởi duyên :
“ Cầu xin Phật nói lý huyền cơ tâm
Nhân gì Bồ Tát Quán Âm
Đẹp như tên gọi cõi trần lưu danh?
Thế Tôn từ mẫn giải rành
Chúng con được hiểu muôn sanh tỏ tường! “
Người nhìn Đại Chúng mắt thương
Như Lai cười mỉm tuyên dương phép mầu:
Quán Âm Bi Trí rộng sâu
Tùy hình ứng hiện phân thân cứu đời
Lắng nghe tiếng gọi muôn nơi
Tầm thanh cứu khổ kịp thời phò nguy
Xuống lên biến hiện tương tùy
Đến đi vô ngại giữa dòng nhân gian
Quán Âm diệu lực vô vàn
Niệm danh Bồ Tát thoát nàn tai ương
Lửa vây thiêu đốt phố phường
Niệm danh Bồ Tát dây đường bình yên
Nước ngập bão lụt cung thiên
Niệm danh Bồ Tát có thuyền cứu ngay
Gặp quân bạo ác ra tay
Niệm danh Bồ Tát cơ may hóa hiền
Gặp lúc giặc bắt gông xiềng
Niệm danh Bồ Tát khổ liền vượt qua
Gặp loài ác quỷ Dọa Xoa
Niệm danh Bồ Tát linh bùa giải vây
Bị trù, bị yếm điên ngây
Niệm danh Bồ Tát gặp thầy chữa thương
Đi buôn gặp cướp ác vương
Niệm danh Bồ Tát khách thương an toàn
Dục lòng đắm sắc truy hoan
Niệm danh Bồ Tát quy hoàn chánh tâm
Tham sân oán đối mê lầm
Niệm danh Bồ Tát tỉnh lòng hôn mai
Muốn cầu con gái con trai
Niệm danh Bồ Tát gái trai phỉ nguyền
Bồ Tát Vô Tận khởi duyên
Như Lai giải rõ diệu huyền Quán Âm
Quán Âm, hạnh nguyện thâm thâm
Hiện bày phương tiện độ trần mê say
Pháp lành lưu diễn đó đây
Ba hai thân tướng đổi thay khôn lường
Thinh Văn, Bích Chi, Pháp Vương
Đế Thích, Thiên Tướng, Phạm Vương, Thánh Hiền
Sa môn trưởng giả chư thiên
Quan dân cư sĩ phước điền giàu sang
Môn nhơn quý tiện cơ hàn
Tỳ khưu nam nữ loại hình khác nhau
Dạ Xoa, Càn Thát, La Hầu
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu, Già La
Kim Cang Bồ Tát thánh phàm
Tùy hình hóa hiện độ hàm linh an
Pháp lành vô uý truyền ban
Quán Âm rộng dộ nhân gian đượm nhuần
Bồ Tát Vô Tận cùng hàng
Thiên long tứ chúng cúng tràng ngọc châu
Tỏ lòng tín nhiệm thâm sâu
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu Từ Bi
Kính nhường nhận lệ thiết thi
Quán Âm dâng cúng Mâu Ni nửa tràng
Nửa tràng đem để tháp vàng
Cúng Phật Đa Bảo đức lành niệm ân
Vì Vô Tận Ý giải phân
Như Lai tóm lược kết phần kệ tuyên:
Người nghe hạnh Quán Âm
Ứng hiện khắp mọi nơi
Nguyện rộng sâu như biển
Không thể luận nghĩ bàn
Trãi qua hằng sa kiếp
Phát nguyện lớn trong sạch
Nghe tên cùng thấy hình
Quán Âm cùng nhớ nghĩ
Hay diệt mọi khổ não
Như có người muớn hại
Xô xuống hầm lửa thiêu
Nhờ sức niệm Quán Âm
Hầm lửa thành ao sen
Hoặc trôi dạt biển lớn
Bị nạn quỷ cá rồng
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thoát khỏi mọi hiểm nghèo
Hoặc ở trên núi cao
Bị người xô rớt xuống
Nhờ sức niệm Quán Âm
Không mảy may nguy khốn
Hoặc bị kẻ thù đuổi
Ngã vấp rơi núi đá
Nhờ sức niệm Quán Âm
Không tổn thương thân thể
Hoặc gặp phải giặc vây
Dùng dao gậy toan giết
Nhờ sức niệm Quán Âm
Kẻ thù sanh tâm thiện
Hoặc bị nạn pháp luật
Tra hành hình sắp chết
Nhờ sức niệm Quán Âm
Dao gươm gẫy từng đoạn
Hoặc bị tù xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Nhờ sức niệm Quán Âm
Gông cùm tự tháo gỡ
Bị bùa ếm thuốc độc
Nhờ sức niệm Quán Âm
Trở lại hành kẻ hại
Hoặc gặp quỷ La Sát
Nhờ sức niệm Quán Âm
Ác quỷ không dám gần
Gặp thú dữ vây quanh
Nhờ sức niệm Quán Âm
Thú dữ liền chạy xa
Bị trùng độc các loại
Nhờ sức niệm Quán Âm
Chất độc tự tan biến
Mây đen mưa sấm sét
Nhờ sức niệm Quán Âm
Mây tan trời quang tạnh
Chúng sanh bị khốn ách
Vô lượng khổ bức bách
Quán Âm diệu trí lực
Hay cứu đời thoát khổ
Đầy đủ sức thần thong
Rộng tu Trí phương tiện
Khắp cõi nước mười phương
Quán Âm đều hiện thân
Vào ra trong đường ác
Địa ngục quỷ súc sanh
Khổ sinh già đau chết
Không còn bị bức não
Thấy lẽ thật trong suốt
Đức Từ Bi vô lượng
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Hào quang sáng trong ngần
Mặt trời xua bóng đêm
Cản ngăn nạn gió lửa
Chiếu rọi khắp thế gian
Âm lành vang sấm dậy
Ý lành tợ dường mây
Rưới mưa pháp cam lồ
Dập tắt lửa phiền não
Kiện tụng hầu cửa quan
Hoảng hốt nơi chiến địa
Nhờ sức niệm Quán Âm
Binh lửa đều phá ta
DIỆU ÂM, QUÁN THẾ ÂM
PHẠM ÂM, HẢI TRIỀU ÂM
Vượt các tiếng thế gian
Thế nên lòng thường niệm
Niệm niệm chớ khởi nghi
Quán Âm thánh thanh tịnh
Trừ khổ não tai ách
Quán Âm nơi nương tựa
Đầy đủ mọi công đức
Mắt thường nhìn cuộc đời
Phước rộng sâu như biển
Xin cúi đầu đảnh lễ
Bấy giờ Ngài Trì Điạ
Đứng dậy lễ Phật thưa:
Hễ có chúng sanh nào
Nghe Phẩm Phổ Môn này
Trí lực được tự tại
Sức thần thông ứng khắp
Công đức của người ấy
Thật khó nghĩ khó bàn
Phật nói vừa dứt lời
Tám muôn bốn ngàn người
Đều phát lòng vô thượng
Tu pháp hạnh nhất thừa
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Phẩm Phổ Môn-Quán Âm
Lại có câu thần chú
Y nguyên điệu Phạm âm:
Án đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha ( 3 lần )
Bài 2: Phổ Môn Kinh dịch trong Kinh Pháp Hoa:
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
QUYỂN THỨ BẢY
PHẨM "QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT PHỒ-MÔN"
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏị.
Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bo-Tát, thì các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng : "Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy".
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!" vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát sức oai thần to lớn như thế.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lòng giận.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa ngu si.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà-sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?
Vô-Tận-Ý thưa: "Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều".Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế."
Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Sức phương tiện đó như thế nào?"
Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên-giác đượcc độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tể-quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm đại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị "Thí-vô-úy".
Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế-Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng : "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: "Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-Tát này và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.
Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà".
Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
Thế-Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhân duyên gì?
Tên là Quán-Thế-Âm?
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô-Tận-Ý:
Ông nghe hạnh Quán-Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán-Âm
Sóng mòi chẳng chìm được.
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán-Âm
Như mặt nhật treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim-Cang
Do sức niệm Quán-Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán-Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán-Âm
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán-Âm
Tháo rã được giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán-Âm
Trở hại nơi bổn-nhân.(6)
Hoặc gặp La-sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán-Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán-Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán-Âm
Theo tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá (7) , xối mưa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán-Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Địa-ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn-quán thanh tịnh quán
Trí-huệ quán rộng lớn
Bi-quán và từ-quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Tuệ nhật (8) phá các tối
Hay phục tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răn như sấm
Ý tứ diệu dường mây (9)
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não (10)
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán-Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm
Phạm-âm, Hải-triều-âm
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít".
Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
26.Tán Thán Phật và Chú Nguyện:
Đại Thánh Thế Tôn, Nguy nga rực rỡ, Tam dạt chiếu thông, Vua trong các Thánh, Phân thân tế vật, Hiện tọa đạo tràng, Trời người chiêm ngưỡng, Thọ pháp vô cùng, Bát âm vang dội, Ma quân kinh hoàng, Oai chấn Đại Thiên, Từ hóa lưu phương, Bi lực độ khắp, Thâu nhiếp mười phưong,Từ hẳn tám khổ, Đến Bồ Đề hương, Cho nên gọi là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,Phật Thế Tôn.
Nam mô Đa già a già độ, a la ha tam miệu tam phật đà, mười hiệu đầy đủ, độ người vô lượng, dứt sạch sanh tử.
27.Niệm Phật:
Nam-mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (đọc 30 lần)
Nam-mô Ðương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật. (3 lần)
Nam-mô Cực-lạc thế-giới A-Di-Ðà Phật. (3 lần)
Nam-mô Ðại-bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát. (3 lần)
Nam-mô Ðạo-tràng hội-thượng Phật Bồ-tát. (3 lần)
28.Tâm Kinh:
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ÐA TÂM-KINH
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị.
Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.
Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề.
Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư.
Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết:
Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. (3 lần)
*Phạn âm: Ga tê ga tê, pa ra ga tê, pa ra săn ga tê, bô đi sờ va ha.(3lần)
30.Tiêu Tai cát Tường Thần Chú:
Nẵng mồ tam mãn đa , một đà nẫm. A bát ra để, hạ đa xá , ta nẵng nẫm, Đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ranhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn ta, ta phấn ta, phiến để ca thất rị duệ ta phạ ha. (3lần)
Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Đêm ngày sáu thời đều an lành
Tất cả các thời đều an lành
Xin nguyện Từ Bi thường gia hộ.
29.Bổ khuyết Chơn Ngôn:
Om đu ru, đu ru, gia de mu khê, sờ va ha. (3 lần)
30.Hồi Hướng:
An-vị công-đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi-hướng,
Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh,
Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não,
Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung,
Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công-đức,
Phổ cập ư nhứt thiết,
Ngã đẳng dữ chúng-sanh,
Giai cộng thành Phật-đạo.
31.Phục Nguyện:
Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
Hiện tiền chư Phật-tử.... đẳng, thân xu khương thới, mạng vị bình an, tứ thời vô tiêm tiểu chi tai, bát tiết hữu trùng lai chi khánh. Phổ nguyện: gia đình hưng thạnh, quyến thuộc tăng phước hoàn duyên, pháp-giới chúng-sanh, tề thành Phật-đạo.
(Ðồng niệm)
Nam Mô A-Di-Ðà Phật.
32.Tam Quy Y:
Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. (1 lạy)
Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
***
Sửa lại bởi phoquang : 06 March 2006 lúc 5:16am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|