Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 217 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Nước Cam Lồ&Nước Bát Công Đức Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 3: Đă gửi: 07 March 2006 lúc 10:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

CAM LỒ THUỶ&BÁT CÔNG ĐỨC THUỶ


I.Cam Lồ Thuỷ:

1.Nước Cam Lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt do hứng ngoài sương mà được. Chữ CAM là ngọt, chữ LỒ đọc trại là LỘ tức là sương hay móc. CAM LỘ tiếng Phạn là A-Mật-rí-đa ( Amrta ) dịch là Cam Lộ ( Nước móc ngọt ), cũng dịch là thuốc rượu uống chẳng chết ( Bất tử tửu ), thuốc rượu uống vào sống măi (Trường sanh tửu ), thuốc rượu của Chư Thiên ( Thiên tửu ). Ấy là thứ thuốc nước ngon ngọt, thơm tho, linh diệu, để làm đồ uống của Chư Thiên, Chư Thần. Cam Lộ có 4 màu: xanh, vàng, đỏ, trắng. Cam Lộ là chất thuốc Tiên, thuốc Phật, ngon ngọt và linh diệu hơn các thứ thuốc phàm, hễ rưới lên ḿnh ai th́ người ấy dứt hết bệnh tật, dầu sắp chết cũng được sống lại. Nước Cam Lồ tượng trưng cho ḷng Từ Bi của Bồ Tát. Khi chúng sanh bị phiền năo thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ Tát, Ngài sẽ mang nước này dập tắt, và đem lại cho họ sự mát mẻ trong lành. V́ thể so sánh, nên người ta gọi Pháp Phật, Niết Bàn là Cam Lộ:

+Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, phẩm 9:

Thế Tôn huệ đăng minh, Thế Tôn đèn sáng cơi trần
Ngă văn thọ kư âm, Chiếu cho tôi đặng biết phần về ssau
Tâm hoan hỷ sung măn, Chúng tôi mừng rỡ dứt sầu
Như cam lộ kiến quán. Khác nào được rưới cho nhau cam lồ.


+Niết Bàn Kinh, quyển 26: Cam Lồ đối với độc dược

Cam Lộ tỷ như Pháp Vô Lậu, quả vô lậu. Độc tỷ như các món lợi dưỡng tiền bạc, của cải, đồ ăn uống. Những vị Tỳ Kheo nào v́ các món lợi dưỡng, đối trước người cư sĩ, tự khen ḿnh, nói rằng ḿnh đắc quả Pháp Vô Lậu, tức là hạng đem cam lộ đổi lấy độc dược.

*Thanh Lương Cam Lộ Thuỷ của Quán Âm Bồ Tát hay c̣n gọi là nước Cam Lồ, dùng để giải nhiệt và giải trừ tất cả ccác bệnh khổ cho chúng sanh. Người sắp chết, nếu đại duyên được Quán Âm rưới nước Cam Lồ th́ có thể sống lại, hoặc uống nước cam lồ th́ không thể chết nhưng không dễ gặp được nếu không có đại thiện duyên. V́ thế, nước cam lồ gọi là Bất tử dược. Tất cả cây khô sắp chết, nếu được tịnh thuỷ tưới tắm th́ cũng đều được hồi sinh ( Trong truyện Tây Du Kư: Ở đoạn Bồ Tát Quán Âm cứu cây nhân sâm quả, Ngài có nói với Tôn Ngộ không rằng: Nhành dương đă được Thái Thượng Lăo Quân bỏ vào trong ḷ đốt, nhưng Ngài đă cắm nhành dương vào b́nh nước cam lồ chỉ qua 1 ngày 1 đêm, nhành dương bắt hơi sương nước và đă sống trở lại ). Nước Cam Lồ có thể làm cho tất cả ngạ quỷ đều được no ấm, được chỗ như ư cát tường bao giờ đói khát và thọ nhận nhiều sự an lành khác nữa. Để chế phục Thiên Ma Ngoại Đạo, Bồ Tát Quán Âm đă dùng nhành dương và nước cam lồ tưới nhuần , tự nhiên họ được hồi tâm hướng thiện và y giáo phụng hành.

*Nếu lấy một bát nước, dùng Cam lồ Chơn ngôn gia tŕ 7 biến, tán rải nơi hư không, một giọt nước kia, tức biến thành 10 hộc vị cam lồ, tất cả ngă quỷ đều được uống đủ, không có thiếu kém, thảy đều đầy đủ sung măn.

Chơn ngôn: Nam Mô tố rô bá da, đát đa nga tha da, đát điệt tha – Úm tố rô tố rô bá ra tố rô bá ra tố rô ta phạ ha (7 biến).

GIẢI: Giả như không có đồ ăn uống, tức dùng Cam lồ Chơn ngôn gia tŕ trong nước đem thí, khiến tất cả ngă quỷ thảy đều no đủ. Nếu có bốn chúng đệ tử, dùng Chơn ngôn này và danh hiệu bốn đức Như Lai gia tŕ đồ ăn uống mà bố thí các loài ngă quỷ, th́ hay được đầy đủ vô lượng công đức, tuổi thọ sống lâu phước đức tăng vinh. Lại được nhan sắc trắng đẹp, oai đức mạnh mẽ, mau chóng đầy đủ đàn Ba la mật (Bố thí Ba la mật). Tất cả Dạ Xoa, La Sát, các ác Quỷ Thần, người chẳng phải người v.v… đều kính nể người đó, không dám lại gần xâm hại.


-Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni chép rằng : Nếu muốn cho tất cả loài hữu t́nh đói khát được no đủ mát mẻ , nên cầu nơi tay hóa cam lồ .Và có chơn ngôn:

+Hán Việt: Án tô rô,bát tô rô, bát ra tô rô ,tô rô , tô rô dă,tát phạ hạ.

+Phạn âm: OM (cảnh giác ) SURU SURU ( ban răi nước cam lộ ) PRASURU(ban răi nước cam lộ thù thắng ) suru (ban răi cam lồ)SURUỲA (nhóm ban răi cam lộ )SVÀHÀ(viên măn tốt lành ).

-Tay hoá Cam Lồ tương ưng với câu chú thứ 30: Đà La Đà La và câu chú thứ 45: Tô Rô Tô Rô trong bài Đại Bi Chú.

*QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT CAM LỒ CHƠN NGÔN:

Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Đà Ra Ni nói: Nếu người tụng chú này, đời quá khứ, hiện tại đă tạo tứ trọng , ngũ nghịch, hủy báng kinh Phương Đẳng, tội nhứt xiển đề, hết thảy các tội đều được tiêu diệt không c̣n dư sót, thân tâm nhẹ nhàng, trí huệ minh mẫn. Nếu thân hoặc lời nói thảy hay lợi lạc tất cả hữu t́nh. Nếu có chúng sanh rộng tạo tất cả các tội Vô gián, nếu được gặp người tŕ chú này, h́nh bóng chói vào thân của người kia, thoạt được cùng nói chuyện, hoặc nghe tiếng nói người kia, tội chướng thảy đều tiêu diệt. Nếu muốn lợi ích tất cả hữu t́nh, mỗi khi trời mưa khởi đại bi tâm, ngửa mặt hướng hư không tụng Chơn ngôn này 21 biến, mỗi giọt mưa kia thấm nhuần tất cả hữu t́nh, diệt hết tất cả nghiệp trọng tội, đều được lợi lạc.

Chơn ngôn: Nẵng mồ ra đát nẵng, đát ra dạ dả, nẵng mồ a lị dă, phạ lồ chỉ đế thấp phạ ra dả, mạo địa tát đát phạ dả, ma hạ tát đát phạ dả, ma ha ca rô nĩ ca dả, đát nễ dă tha. Úm Độ Nĩnh Độ Nĩnh, Ca Độ Nĩnh Ta Phạ Hạ.

(Ca hoặc nói hát nê, hoặc nói nhĩ nĩnh, hoặc nói nễ.)

GIẢI: Nếu muốn lược tụng, chỉ tŕ từ chữ Úm trở xuống, chữ Úm trở lên là lời quy kính, chánh chú là từ chữ Úm. Nếu chép Chơn ngôn Phạn tự này trên chuông, trống, khánh v.v… tất cả những vật có ra tiếng, các chúng sanh nghe tiếng kia thảy đều thanh tịnh, mạng chung được sanh về Tây phương Tịnh độ.

*Tại thế gian, chúng ta có thể tạo ra nước Cam Lồ bằng cách hứng sương đêm hoặc phương tiện có thể dùng một ly nước lọc rồi gia tŕ ( Tụng ) chú Đại Bi vào ly nước đó. Ta có thể làm như sau:

CÁCH GIA TR̀ ĐẠI BI CHÚ VÀO NƯỚC ĐỂ TRỊ BỆNH
( Phép niệm phục nước Đại Bi Chú )

Nói chung tất cả mọi đệ tử của Tam Bảo khi đă tịnh khẩu kiền tu đều có thể niệm nước Đại Bi Chú để chữa bệnh. Đều đó có thể bố thí kết duyên. Khi niệm, trước hết phải đốt hương dâng lễ trước ngôi Tam Bảo rót ra một chén nước hay một ly nước không kể nhiều hay ít và niệm:

1) Tịnh pháp giới- Tịnh tam nghiệp chơn ngôn:

*Hán Việt: Om Lam-Om Xỉ Lâm (3 lần).
*Phạn âm: Om Ram-Om TRI RIM (3 lân).

2)Tán hương:

Lư hương xạ nhiệt
Pháp giới mông huân
Chư Phật hải hội tất diêu văn
Tuỳ xứ kiết tường vân
Thành ư phương ân
Chư Phật hiện toàn thân.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

3)Tịnh khẩu nghiệp chơn ngôn:

*Hán Việt: Tu ri, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị tát bà ha (3 lần).
*Phạn âm: Tu ri, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị sờ va ha (3 lần).

4)Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh uy Quán Thế Âm Bồ Tát.

5)Thiên Thủ Thiên Nhăn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni(3 lần).

6)Đại Bi Chú ( Tụng gia tŕ 49 lần ):

Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà gia. Ma ha ca lô ni ca da, án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia bà lô kiết đế thất phật ra lăng bà đà. Nam mô na ra cẩn tŕ. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà tát đa. Na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. đát diệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà, tát bà. Ma ra, ma ra. Ma hê, ma hê rị đà dựng. Cu lô, cu lô, yết mông. Độ rô độ rô phạt xà gia đế. Đà ra đà ra, địa rị ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá giạ. Hô rô hô rô, ma ra. Hô rô hô rô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn tŕ. Địa rị sắc ni na, bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn tŕ ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ ta bà ha. Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án, tất diện đô, mạn đá ra, bạt đà dạ. Ta bà ha ( tụng gia tŕ 49 lần )


7)Bổ khuyết chơn ngôn:

Om đu ru, đu ru, gia dê, mu khê sờ va ha (7 lần).

8)Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát(10 lần).

*Chú Thích:

+Nước Đại Bi này có mang uy lực của nhà Phật có thể trị hết thảy mọi thứ bệnh nguy nan, các dạng tà thuật và mắc đàng dưới( Và có thể rưới vảy chung quanh nhà để tránh tai nạn ).

+Khi uống nước này, trước hết phải xúc miệng cho thật sạch và niệm: Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát(10 lần).
Người bệnh tự tŕ niệm, nếu con nít hoặc người bệnh không thể niệm được, bạn giúp gián tiếp cho người bệnh hoặc những người thân thích có thể niệm thay vào một ly nước hoặc một chai nước tinh khiết và hồi hướng ( Tên, họ, tuổi người bệnh ) rồi làm sao cho người ấy uống hết ly nước hoặc chai nước ấy trong ngày.

+Nếu khi uống nước này, nếu người nhà có thể phát nguyện phóng sanh hoặc mỗi tháng ăn chay vài ngày th́ bệnh sẽ lành hẳn.

+Nếu tiềm tu đại đức, và sau khi niệm Đại Bi Chú Thuỷ, một cách liên tục và miên mật th́ nước có thể là vô hạn và sự bố thí cũng vô hạn. Lúc đó sự huyền nhiệm và công đức tăng lên gấp bội, đó là sự tuỳ tâm phát công đức ra mà quyết định vậy.

2.Quán Âm Bồ Tát tay trái cầm tịnh b́nh chứa nước Cam Lồ tượng trưng cho sự mát mẽ-an lạc-b́nh an, c̣n tay mặt cầm nhành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Dương liễu là một loại cây vừa mềm dẻo, gặp gió mạnh th́ uốn ḿnh theo chiều gió, gió dừng lại th́ trở về vị trí cũ. Nếu cứng khi bị gió lay là bị găy. Cứng quá, mềm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương liễu nhờ sức mềm dẻo nên khéo tuỳ duyênmà không mất vị trí, tức là th́ chiều, theo cảnh mà không bị cảnh chi phối, v́ thế cành dương liễu tượng trưng cho đức nhẫn nhục, nhẫn nhục không có nghĩa là ai làm sao cũng được, ai bảo cái ǵ cũng nghe, chính bản thân của nó là khéo tuỳ thuận người để hướng dẫn họ về theo lối đường hay lập trường của ḿnh tuỳ thuận mà không bị họ chi phối, ngược lại chi phối cho họ. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất hèn yếu, kỳ thực họ có sức mạnh phi thường để tự chiến thắng được t́nh cảm, để phản ứng của bản năng.
*Dùng nhành dương nhúng nước cam lồ sái vẩy vào người bệnh th́ tất cả mọi bệnh tật, cùng ôn dịch và tà khí đều bị đẩy lùi.   


-Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni chép rằng: Nếu muốn trị các thứ bệnh trên thân , nên cầu nơi tay cầm nhành Dương Liểu. Và có chơn ngôn:

+Hán Việt: Án-tô tất địa, ca rị, phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.

+Phạn âm: OM– ( quy mệnh)SUSIDDHI KARI (tác diệu thành tựu ) VARDHANÀM SAMUKTAYE (tăng trưởng thiện giải thoát ) VAJRIBANDHA(KC phộc )HANA HANA(thiêu đốt , đốt cháy)HÙM (Hộ khắp)PHẠT (phá hại).

-Tay cầm nhành dương tương ưng với câu chú thứ 35 trong bài Đại Bi Chú : Mục Đế Lệ.


*VĂN TÁN DƯƠNG NĂNG LỰC CÀNH DƯƠNG LIỄU CỦA NGÀI THIÊN THAI:

+Hán Việt:Thùy dương liễu nhi biến sái cam lộ, trừ nhiệt năo dĩ giai đắc thanh lương. Tầm thanh cứu khổ ư tứ sinh, thuyết pháp độ thoát ư lục đạo; bẩm từ bi kiên cố chi tâm, cụ tự tại đoan nghiêm chi tướng; hữu cầu giai ứng, vô nguyện bất ṭng. Cố ngă truy lưu , đoan bỉnh tịnh quán, thành tụng mật ngôn gia tŕ pháp thủy. Thị thủy giă, phương viên tùy khí, doanh hư nhậm thời , xuân phán đông ngưng, khảm lưu cấn chỉ, hạo hạo hồ diệu nguyên mặc trắc, thao thao hồ linh phái nan cùng, bích giản tàng long, hàn đàm tẩm nguyệt; hoặc tại quân vương long bút hạ, tán tác ân ba, hoặc cư Bồ tát liểu chi đầu, sái vi cam lộ, nhất trích tài triêm, thập phương câu tịnh.

+Dịch nghĩa: Cầm nhành dương liễu Ngài rưới nước cam lộ lên khắp cả, trừ nhiệt năo Ngài làm cho mọi người điều được tắm trong ḍng suối mát thanh lương. Nghe tiếng kêu mà cứu khổ cho tứ sanh, Ngài thuyết pháp để độ cho lục đạo. Sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại trang nghiêm, không ai cầu mà chẳng ứng, không nguyện nào mà chẳng thành. Cho nên chúng con là kẻ xuất gia, an trụ trong tịnh quán, chí thành đọc lại mật ngôn và gia tŕ pháp thủy. Tịnh thủy này vuông tṛn tùy theo b́nh chứa đựng, có hay không cũng tùy tiết tùy thời. Mùa xuân là loăng, mùa đông th́ đặc, khi chảy, khi động thật là mêng mông; nguồn sâu khó lường, chảy măi thao thao, thật là ḍng linh khôn tuyệt. Ở trong khe đá, nước ngâm bóng loài rồng, ở dưới ao thu nước tẩm lấy bóng nguyệt. Tịnh thủy này hoặc đọng dưới ng̣i bút của đấng quân vương để rồi làm tràn ngập sóng âm, hoặc nằm trên đầu nhành dương liểu của vị giác hữu t́nh để rưới thành cam lồ linh diệu. Chỉ cần một giọt nước rưới lên là mười phương điều sạch trong.

Nhất Hạnh dịch

3.Bài Tán Dương Chi và Cam Lồ Thuỷ các vị thường dùng tụng niệm để sái tịnh khử uế :

Dương-chi tịnh thủy,
Biến sái tam-thiên,
Tánh không bát-đức lợi nhơn thiên,
Pháp-giới quảng tăng diên...
Diệt tội tiêu khiên,
Hỏa diệm hóa Hồng-liên.
Nam-mô Thanh-Lương-Địa Bồ-Tát Ma-ha-tát. (3 lần)

4. Các mẫu chuyện:

1)NHIỆM MẦU THAY ĐỨC TIN:

Tôi hồi c̣n nhỏ học trường tư thục Thiên Chúa Giáo. Trốn nhà và bỏ trường vào chùa ở lúc 14 tuổi. Bổn sư tôi là Đại sư Viên Giác, sáng lập Tu Viện Giác Hải ở làng Xuân Tự, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Ḥa, Nha Trang. Thầy tôi rất thương tôi, nhưng người cho tôi là loại trẻ "cứng đầu". Thầy tôi tin tưởng và "mê" Đức Quán Thế Âm một cách lạ lùng, c̣n tôi th́ hời hợt với chuyện nầỵ Không phải chỉ lúc mới đi tu trí óc c̣n non dại, mà ngay đến khi thọ giới người tu trưởng thành, tôi vẫn quan niệm Đức Quán Thế Âm như một h́nh ảnh biểu tượng về t́nh thương. Thờ Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng qua là hiếu kính người hiền và nặng ḷng tín ngưỡng. Thầy tôi đă huy động dân làng và Phật tử khắp nơi dựng Quan - Âm Điện Các ở trên đỉnh núi Ông Sư tại Xuân Tự để phụng thờ, tôi là người hưởng ứng và săn sóc hương khói một cách bất đắc dĩ.

Năm 1958 , tôi không may bị chứng bệnh đau đầu thống trầm trọng. Lư do là tôi ham học và thiếu ngủ. Tôi say mê học kinh điển như một bộ môn triết lư đầy thú vị. Mặt khác tôi lo học chương tŕnh văn hóa ở cấp trung học. Một đêm tôi không ngủ quá ba tiếng đồng hồ. Sau kỳ thi cử không bao lâu, tôi buông bỏ bút nghiên, buông bỏ sự nghiệp học vấn. Đầu tôi đau đớn như muốn vỡ tung từng mảnh, mắt tôi xốn như bị băo cát lùa vào từng cơn . Mũi chảy ra nước xanh, nước vàng. Tôi bỏ ăn, bỏ ngủ. Bao nhiêu nhà thương, bác sĩ Tây - y có tiếng, tôi đều t́m đến. Bao nhiêu thầy giỏi thuốc Bắc, thuốc Nam gia truyền tôi đều khẩn cầu, nhưng tất cả đều vô hiệu. Tôi vào Saigon chữa bệnh, tinh thần tôi càng thêm sa sút. Nhiều lần tôi muốn nhảy vào trong ḷng đại dương tươi mát để t́m giấc ngủ an lành. Thầy tôi biết rơ t́nh trạng đau khổ, bi quan của tôi nên người thường ở bên cạnh để săn sóc, an ủi . Bao nhiêu tiền bạc của một Tu viện nghèo, Thầy tôi đă dồn hết để lo chữa bệnh cho tôi. Thầy tôi đă nhiều tháng thức trắng đêm với tôi và hai thầy tṛ cùng thường đi bộ trên bờ biển hóng mát để tôi bớt đau nhức, v́ bệnh hành hạ về đêm.

Có một đêm ngồi trên vịnh eo biển ở Phan Rang, Thầy tôi có vẻ buồn bă lắm, người bảo tôi rằng: "Thầy thương quư con hơn cả vàng ngọc, nhưng nhiều lúc thầy rất giận con, v́ con ngang ngược cứng đầu, không chịu nghe lời thầy tŕ tụng kinh Phổ Môn, xưng danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ tát để cầu Ngài chữa bệnh cho con." Đó là đêm hai thầy tṛ chúng tôi ôm nhau mà khóc. Tôi nghe lời Thầy tôi như đứa con trẻ tin lời mẹ dạy. Tôi không c̣n đi cầu thầy chữa bệnh nữa, trở lại chùa ở Xuân - Tự, nhập thất ba tháng, chuyên tŕ tụng chú Đại - Bi, kinh Phổ Môn và niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Sau ra thất bệnh chẳng thuyên giảm, tôi vào chùa Ông ở Nha Trang xin tịnh dưỡng và tiếp tục nhập thất, lễ sám hối, chuyên cần tŕ niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ tát liên tục không ngớt. Kỳ diệu thay, sau hai tháng sám hối, nhất tâm xưng danh hiệu "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát", tôi cảm ứng Mẹ Hiền Quán - Âm cứu khổ và tuyệt dứt bệnh căn. Thân tâm tôi nhẹ nhơm như một cuộc tái sanh mới.

Tối đó là ngày rằm, khoảng đầu mùa hè 1959, tôi ngồi thiền và xưng niệm chú Đại Bi nơi gác chuông Chùa Ông –có người gọi là chùa Núi. Lúc đó khoảng hai giờ sáng, tôi thấy một luồng ánh sáng lớn trên trời cao lùa vào gác chuông, rồi hiện ra một Thiên nữ bận áo tră´ng, trao cho tôi 12 viên thuốc tễ nhỏ xíu và một b́nh nước trắng đựng trong lọ thủy tinh có buộc giải lụa màu xanh. Thiên nữ xoa đầu tôi và nói: "Đây là thần dược, người uống xong sẽ hết bệnh, hết khổ. Nhưng nên nhớ, khi khoẻ mạnh rồi, lo chăm chỉ hành đạo để cứu người, chớ có để vọng tâm buông lung, t́nh đời chi phối". Lời Thiên nữ hiền dịu như lời mẹ hiền, tôi cúi đầu đảnh lễ tạ ân và phục mệnh.

Lúc ấy, tôi có một cảm giác an lạc lạ lùng. Tôi chắp tay cung kính cầm thuốc bỏ vào miệng uống mà không nói một lời nào. Vị Thiên nữ bảo tôi nằm ngủ để lấy lại b́nh an trước khi người biến vào hư không. Sau một giấc ngủ dài, tôi thức dậy không cảm thấy đau đầu nữạ Bệnh tôi chấm dứt hẵn. H́nh ảnh người Thiên nữ bận áo trắng kia là ai, tùy mỗi người đặt tên gọị Sự "cứng đầu" của tôi đă bă´t đầu "mềm" từ đó. Tôi tin tưởng và t́m hiểu sự mầu nhiệm về hạnh nguyện cứu khổ của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát khởi đi từ sự cảm ứng nầỵ Hôm tôi lành bệnh trở lại chùa, trong bữa cơm liên hoan của Đại chúng chào đón và mừng tôi, thầy tôi có tặng tôi bài thơ mà tôi đă nằm ḷng:

Thương con như trái tim ḿnh
Thương con vượt thoát ngục h́nh đớn đau    
Quán Âm Bồ Tát nhiệm mầu
Trí bi song vận duyên lành ứng cơ
Tín tâm dứt mối nghi ngờ
Thuyền từ đưa đến bến bờ an vui
Đường tu măi tiến chớ lùi
Giới răn ǵn giữ ngọt bùi chớ mê
Tịnh thiền định huệ đường về   
Ngộ tâm đạt tánh chớ nề độ sanh    
Bồ đề quả vị chóng thành
Nối ḍng Phật Tổ cứu người trầm luân .

2) CẦU NGUYỆN NHƯ Ư

Tôi tên là Tống Ngọc Lê, pháp danh Thanh Nhẫn hiện ở tại San Jose. Tôi nghe lời mẹ dạy nên thường đi chùa Phật, nghe quư Thầy giảng đạo và biết ăn chay kỳ từ thuở c̣n bé. Mẹ tôi cũng bày cho tôi cách ngồi thiền, tụng kinh và niệm Phật. Mẹ tôi hay nhắc nhở, có khi rầy la, v́ tôi ngồi thiền cứ ngủ gục hoài. Tụng kinh và niệm Phật th́ tôi thích hơn. Mẹ tôi biết ư nên khuyên tôi tụng kinh Phổ Môn để làm yếu chỉ tu học. Sau một thời tụng kinh, tôi có đọc 108 danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ - Tát. Hồi c̣n trẻ, tôi tụng kinh, niệm Phật không đều, bữa siêng, bữa nhác; nhưng bây giờ th́ đă thuần thục rồi. Tôi thường tụng kinh, niệm Phật hằng ngày, không hề bỏ sót.

Ngược ḍng thời gian, năm tôi 20 tuổi bị bệnh nặ ng, người nhà đưa tôi vào nhà thương Phúc Kiến ở Chợ Lớn cấp cứu. Tôi bị bệnh thương hàn nhập lư và lên cơn sốt dữ dội. Tôi bi. mê man suốt hai ngày hai đêm. Các bác sĩ cho người nhà tôi biết là bệnh khó chữa trị, kinh mạch xáo trộn, độc tố đă nhiễm vào tim. Cả nha` tôi ai cũng khóc, song mẹ tôi rất b́nh tĩnh và khuyên mọi người đem tâm thành niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ- Tát. Tiếp niệm Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ- Tát luôn trọn ngày và trọn đêm dậy cả một góc nhà thương. Ngay đêm đó, khoảng hai giờ sáng, tôi đang trong cơn mê mà cảm nghe như có gịng suối nước chảy, có tiếng chim hót   và có tiếng chuông chùa. Tôi thấy ḿnh bước chân lên từng cấp của một cảnh chùa nguy nga, hùng vĩ trên một ngọn núi caọ Trước cổng lên núi và chùa có đề ba chữ Phổ Đà Sơn. Vào bên trong tôi mới biết đây là núi Phổ Đà, bên bờ biển Nam Hải, nơi mà Đức Quán Thế Âm thường cư ngụ. Trong chùa có khoảng vài trăm người đang ngồi thiền, xây mặt ra hướng biển Đông. Người nào cũng có tóc và bận áo nhiều màu rất đẹp nên tôi không nhận biết họ là đàn ông hay đàn bà. Riêng tôi th́ được một người đàn bà bận áo trắng dẫn vào trong một ngôi nhà tranh nhỏ, nằm giữa khóm trúc nên thơ . Trong cốc ấy có đến hai cô thanh nữ bận áo xanh; nét mặ t cô nào cũng rất đoan trang và vui vẻ. Hai vị nầy cho tôi biết ngườ i bận áo trắng là thầy của họ mà người đời thường xưng là Bạch Y Quán Thế Âm. Tôi mừng quá, liền cúi sụp lạy, nhưng Đức Bạch Y tay cản lại không cho lạy. Ngài bảo một cô Thanh - Y rót nước trong b́nh tinh thủy cho tôi uống. Uống xong, tôi cảm thấy khỏe khoắn vô cùng, tâm thần nhẹ nhàng và đầy sung sướng. Tôi bèn ngơ lời cảm ơn Bạch - Y Quan Âm và hai tiểu đồng rối rít lên. Kế đó, tôi đột nhiên mở mắt và thấy nhiều người đang đứng vây chung quanh giường niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm. Hai hôm sau th́ tôi xuất viện, v́ bệnh t́nh của tôi khỏi hẵn. Điều nầy khiến các bác sĩ trong bệnh viện vô cùng kinh ngạc về sự thay đổi bệnh trạng của tôị Mẹ tôi bảo cho họ hay rằng, tôi được cứu thoát cơn bệnh ngặt nghèo là nhờ sự mầu nhiệm của Đức Quán Thế Âm Bồ- Tát. Tôi cũng tin như vậỵ Và, câu chuyện nầy đă gây tín tâm râ´t nhiều cho những người trong nhà tôi.

Tôi là con dâu trưởng , sinh sống với chồng tôi nhiều năm mà không sinh con. Chồng tôi th́ thương tôi hết mực, song những người thân phía chồng tôi nói vào nói ra làm cho tôi rất buồn tủi và đau khổ. Họ bảo tôi rằng: "Đàn bà chi mà không biết sanh đẻ". Thay vi` giận, đau buồn, khóc lóc, tủi hổ thân phận th́ tôi lại vui và âm thầm tŕ tụng Kinh Pháp Hoa, niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm và mong có được một đứa con gái ra đời cho vui nhà.

Điều mơ ước lại đến, sau suốt nhiều năm tu tập và cầu nguyện, một đêm tôi thấy ḿnh đi trở lại Núi Phổ Đà, vào viếng thăm chỗ sơ sài của Đại sĩ Bạch Y Thế Âm ở. Tôi mới bước chân đến nữa thềm đá cao, th́ thấy hai thanh nữ hầu Đức Quán Thế Âm thong thả bước lại gần tôi và trao cho tôi một bé gái nhỏ xinh xinh. Tôi tỉnh dậy và bắt đầu có thai từ đó.

Con tôi ra đời đă đem lại cho tôi và chồng tôi một niềm vui rất lớn. Bé Hiền năm nay đă 8 tuổi. Cháu rất ngoan hiền, học giỏi và chí mực hiếu thảo. Cả nhà, các bác, các chú, bà ngoại, bà nội ... hai bên ai ai cũng cưng thương cháu.

Trong kinh cứu khổ có bài kệ mà tôi thấy rất phù hợp với hoàn cảnh của tôi:

Người vô tự quạnh hiu sau trước
Sửa tấc ḷng tác phước khẩn cầu
Từ bi linh hiển phép mầu
Chotrai hiển đạt,gái hầu hiền lương.

Cuối năm 1979, gia đ́nh tôi rời khỏi Việt Nam vượt biên ra nước ngoài. Khi tàu rời bến được độ Hai ngày hai đêm th́ máy bị chết. Mọi người trên tàu đều bối rối, lo âu. Nước biển, sóng gợn ỳ ầm át cả tiếng la khóc của trẻ con, tiếng căi vả của nhiều người với chủ tàu là "lấy tiền người ta mà làm ăn bê bối." Riêng tôi ngồi nh́n đứa con đang ngủ trên tay và định tâm niệm: Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Đức Quán Thế Âm Bồ - Tát . Kỳ lạ thay, vài tiếng đồng hồ sau th́ con tàu chúng tôi nổ máy lại và chạy khoảng 4 tiếng đồng hồ th́ gặp tàu tuần tiễu của hải quân Trung Hoa quốc gia giúp đưa chúng tôi vào địa phận Hồng Kông. Nếu không có chiếc tàu "cứu khổ" nầy th́ chúng tôi đă đắm xuống đáy biển trên 150 mạng v́ con tàu bị chết máy, vừa bị sóng đánh mạnh nên thân tàu bị bể và nước tràn vào ầm ầm không sao tát ra kịp.

Khi được đến Mỹ, gia đ́nh tôi ở một ngôi nhà không đủ pḥng rộng răi, nhưng tôi quyết sắp xếp để nguyên một căn pḥng có nhiều ánh sáng, đẹp làm nơi tĩnh tâm và thờ h́nh tượng Đức Quán Thế Âm Bồ - Tát. Tôi có làm bài thơ 8 câu để cảm tạ thâm ân cứu khổ của Mẹ hiền Đức Quán Thế Âm như sau:
Quán Âm Bồ - tát Đấng Mẹ Hiền
Cứu khổ muôn loài hạnh vô biên
Ứng thân diệu   dụng vô cùng tận
Đại nguyện Từ - bi rải mọi miền .
Con xin sám hối những sai lầm.
Tinh tấn tu học để thanh tâm
Ngày đêm thiền định không lơ đễnh
Giác ngộ gieo nhơn giống nẩy mầm .    


3)GIẢI TRỪ VONG NHẬP

Bà Trần Thị Tuyết Hạnh, 57 tuổi, bị lâm bệ nh ngay khi vừa nhậ p trại tỵ nạn ở đảo Phi - Luật - Tân. Bác sĩ chiếu khám cho bà nhiều lần và đưa bà ra khỏi trại để chụp h́nh nữa mà vẫ n không t́m ra căn nguyên bệnh lư. Bà Hạnh đau rất kỳ cục, bà không ăn, không uống và không ngủ trên cả ba tháng mà sức vóc không hề hấn ǵ. Mặ t bà đỏ gay, con mắt láo liên và về chiều th́ mí mắt xụp xuống khóc thảm, lảm nhảm kể lể những chuyện đau buồn. V́ lư do mắc bệnh kỳ dị nên ban điều hành trại thương lượng cơ quan lo hồ sơ định cư cấp tốc cho gia đ́nh bà Hạnh nhập cảnh Hoa Kỳ sớm để có thể đủ điều kiện thuốc thang trị liệu bệnh t́nh cho bà.

Khi đến vùng San Francisco, người nhà cấp tốc đưa bà Hạnh đến nhà thương trị liệu, song các bác sĩ giỏi cũng đều bó tay chứng bệnh   "không chịu ăn, không chịu uống", mà vẫn sống như thường của bà Hạnh. Hai tháng trôi qua, bệnh t́nh không thuyên giảm, người nhà vẫn tiếp tục đưa bà Hạnh đi khám bác sĩ cho có lệ và để ai nấy yên ḷng.

Một hôm, có cụ Lành đưa đường, chồng bà Hạnh đưa vợ đến chùa Từ Quang gặp tôi để nhờ giúp đỡ. Mới nh́n qua nét mặ t, khí sắc của bà Hạnh là tôi biết ngay bà bị âm - khí ám nhập. Tôi đưa ngay bà Hạnh lên chánh điện để "tra vấn" cái vong linh đang nhập trong người bà. Bà Hạnh nh́n tôi với vẻ sợ hăi và run cầm cập như đang ở giữa băng tuyết. Bà cúi đầu khóc thút thít, nghẹn ngào và biểu lộ sự tức tối, uất ức. Tôi gạ hỏi hoài mà vong nhập kia không chịu "khai báo" một chút tung tích ǵ. Tôi bèn gọi các chú trong chùa trợ niệm và lấy chiếc mơ nhỏ đặt ngay trên đầu bà Hạnh tụng chú Đạ i Bi. Tôi định bụng phải tụng đủ 21 biến mới "trị"   được cái vong đang nhập trong bà Hạnh. Nhưng, chỉ tụng ba biến chú Đại Bi th́ bà Hạnh nhắm nghiền hai mắt, tóc trên đầu bà bay ngược như một cơn băo thổi mạnh, hai tay bà chấp lại thành búp sen và miệng the thé nói một giọng con gái độ 19, 20   tuổi.

Tiếng người con gái nầy nói ḿnh đă chết trên biển cùng mẹ ruột và nhiều người v́ gặp băo, nên tàu ch́m. Tôi hỏi các chi tiết khác th́ vong linh nói mà phát âm không rơ, chỉ thốt lên tiếng the thé, kêu đói, than lạnh rồi vật lăn giữa điện Phật bất tỉnh. Tôi và những người có mặt thấy thế xúc động quá, liền khai Kinh Phổ Môn tụng cầu an cho bà Hạnh và liên tục niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm Bồ - tát; đồng lúc tụng niệm tôi lấy nước thờ trên bàn Phật và đọc thần chú Quán Âm và Tâm Kinh Bát Nhă đem cho bà Hạnh uống. Khi bà Hạnh vừa uống xong ly nước th́ liền tỉnh dậy, vội vàng nhảy tới bàn thờ vong đưa hai tay bốc thức ăn bỏ vào miệng ngồm ngoàm như kẻ bị đói lâu ngàỵ Ăn đă đời, bà c̣n quơ tất cả đồ cúng nào là chuối, bánh, trái cây, khoai, bắp ... trên bàn thờ Cô hồn bỏ vào trong túi áo, lận trong lưng quần và trải tà áo dài mà bà đang bận gói tất   cả thức ăn, chun vào trong góc bàn thờ linh ngồi và tiếp tục ăn như ma quỷ. Bà c̣n khóc và la lên là có nhiều người đói đang dành ăn và đánh tháo bà.

Thấy h́nh ảnh kỳ quái của bà Hạnh , ai cũng sợ và nhiều người bỏ chạy xuống lầu . Tôi b́nh tĩnh niệm chú Chuẩn Đề và dùng lời nhỏ nhẹ, ngọt ngào kêu bà Hạnh ra ngoài và quỳ chỉnh tề ngay giữa chánh điện. Tôi lại tiếp tục "vấn cung" vong linh đang nhập trong bà Hạnh một lần nữạ Lúc nầy, vong linh mới nói rơ tên tuổi, ngày chết và nhu cầu là muốn được nghe kinh siêu độ. Tôi liền viết bài vị thờ ngay lúc ấy, kêu các cụ dưới bếp nấu cơm chay cúng vong và tôi khai kinh Di - Đà cầu siêu tức tốc không một phút chậm trễ. Lễ cầu siêu hôm đó, có khoảng gần 100 tăng ni và Phật tử, v́ hôm đó là nhằm lễ sám hối trong mùa Vu Lan rằm tháng bảỵ       

Sau khi tụng kinh Di - Đà, niệm danh hiệu Phật, đến chỗ quy y linh kư tự, th́ bà Hạnh ngă xuống bất tỉnh. Độ chừng 10 phút sau, bà Hạnh tỉnh dậy và trở lại b́nh thường. Bà Hạnh có cảm tưởng như ḿnh đă ngủ một giấc ngủ thật dài. Gia đ́nh bà Hạnh và mọi người hôm đó đều cảm kích và vô cùng mừng rỡ khi thấy bà Hạnh b́nh phục. Tôi bảo cụ Đức Hạnh, cô Thanh Tịnh nấu cháo trắng để bà Hạnh ăn kẻo nhịn đói lâu ngày ăn cơm vào nặ ng bao tử, và đưa bà về pḥng nghỉ. Ngay tối hôm đó, bà Hạnh đ̣i về nhà v́ thấy đă khỏe hoàn toàn. Sáng hôm sau , tự bà Hạnh và cả nhà đến chùa lễ tạ và xin quy ỵ

Hôm chứng kiến lễ đưa vong linh cô gái Việt Nam chết trên biển ra khỏi người bà Hạnh và kư tự Vong Linh Bất Hạnh ấy tại chùa Từ Quang, cụ Tâm Huy chép miệng thành thơ rằng :

Phép Phật nhiệm mầu
Cứu người khổ đau
Quan Âm linh hiển
Hạnh nguyện thâm sâu .



















Sửa lại bởi phoquang : 07 March 2006 lúc 10:34pm
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
saokhue
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 34
Msg 2 of 3: Đă gửi: 09 March 2006 lúc 4:30am | Đă lưu IP Trích dẫn saokhue

BÁT NHĂ VÔ TẬN TẠNG CHÂN NGÔN

Nạp mô bạc già phạt đế bát nị nhă ba la mật đa dậy. Đát điệt tha. Aùn lột rị địa rị thất rị tuất rô tri tam mật lật tri Phật xả dậy. Sa ha .

Phật rằng Vô tận tạng chân ngôn thật là mẹ chư Như lai. Dầu hay tŕ tụng thần chú ấy, hết thảy tội nghiệp đều cũng tiêu diệt. Lại được chính trí, biết quá khứ kiếp túc mạng nhân duyên, chỗ nghe chính pháp hằng nhớ chẳng quên. Bèn kíp chứng được vô thượng bồ đề .

KIM CƯƠNG TÂM CHÂN NGÔN

Án ô luân ni. Sa bà ha

Trước hết lại dạy tŕ Kim cương tâm chú là bản tâm vậy. Quá khứ chư Phật cũng lấy Kim cương tâm làm nhân, mà tu, bèn mới chứng nên Phật quả. Dẫu nhẫn ra đời giáo hoá chúng sinh, dạy chư Bồ tát cũng lấy Kim cương tâm mà tu, mới được vào đại thừa pháp. Trước hiển, sau mật, dầu tụng Kim cương kinh, hằng niệm chân ngôn, ấy ắt chẳng thối chuyển vậy .

TÁN

Tán là lời khen ngợi pháp bát nhă này, lấy làm mẹ hết thảy chư kinh. Quá khứ chư Phật cũng nương pháp này mà được thành tựu. Hiện tại chư bồ tát cũng lấy pháp này mà độ chúng sinh. Vị lai hành nhân cũng nhờ pháp này, mà được kiến tính vậy .

Đoạn nghi sinh tín

Tuyệt tướng siêu tôn

Tồn vong nhân pháp giải chân không

Bát nhă vị trùng trùng

Tứ cú dung thông

Phước đức thán vô cùng

Đoạn nghi sinh tín là Tu Bồ Đề nhân Phật phá nghi, bèn minh tự kỷ chân tâm, dứt rồi chúng sinh phiền năo vọng tưởng. Kinh này một vị, chỉn thật đoạn nghi sinh tín, lấy làm chủ vậy. Như lai chỗ truyền niết bàn diệu tâm chính pháp nhăn tạng, lấy Kim cương bảo kiếm đoạn trừ t́nh hoặc vi tế tứ tướng, biết được chân như, lư nhân pháp đều không, mới chứng chân không vậy. Bát nhă nguyên tùng chân như tâm lưu ra. Hết thảy muôn pháp chư kinh lấy kinh Kim cương làm cốt tủy. Kinh Kim cương lại lấy tứ cú kệ làm cốt tủy. Dầu hay liễu đạt dung thông sự lư, v́ người diễn thuyết tự lợi, lợi tha, ắt thật thành tựu pháp thân, chứng nên hà sa phước đức. tán thán vô cùng vô tận vậy .

Nam mô Kỳ viên hội thượng Phật bồ tát

Diễn thuyết đại bộ Bát nhă kinh khi Phật trụ vương xá thành non Thứu Phong. Hội thứ nhất diễn thuyết 400 quyển. Hội thứ hai diễn thuyết 78 quyển. Hội thứ ba diễn thuyết 59 quyển. Hội thứ tư diễn thuyết 18 quyển. Hội thứ năm diễn thuyết 10 quyển. Hội thứ sáu diễn thuyết 8 quyển .

Khi Phật trú Thất la phiệt thành, viện Cấp cô viên, hội thứ bảy diễn thuyết 2 quyển, hội thứ tám diễn thuyết 1 quyển, hội thứ chín diễn thuyết 1 quyển .

Khi Phật lên tha hoá tự tại thiên cung, trên điện Mạt ni bảo tạng, hội thứ mười diễn thuyết 2 quyển .

Khi Phật lại về trú Thất la phiệt thành, viện Cấp cô viên, hồi thứ mười một diễn thuyết bố thí ba la mật 5 quyển, hội thứ mười hai diễn thuyết giới ba la mật năm quyển, hội thứ mười ba diễn thuyết nhẫn nhục ba la mật 1 quyển, hội thứ mười bốn diễn thuyết tinh tấn ba la mật 2 quyển .

Khi Phật lại trú Vương xá thành non Linh Thứu phong, hội thứ mười lăm diễn thuyết thiền định ba la mật 3 quyển. Hội thứ mười sáu Phật lại trụ Vương xá thành viện Trúc lâm viên diễn thuyết trí tuệ la la mật tám quyển .

Trước sau hết thảy vừa mười sáu hội, kể được sáu trăm hai quyển. Khi th́ Phật dạy thanh diễn thuyết. Khi th́ Phật dạy bồ tát diễn thuyết. Một quyển Kim cương bát nhă này, lời Phật kim khẩu thân truyền, diễn thuyết vừa khi hội thứ chín ở nơi Thất la phiệt thành, viện Kỳ thọ Cấp cô độc viên, kể từng quyển, năm trăm thứ bảy mươi bảy.

Kinh này là đại thừa giáo. Như lai v́ người phát đại thừa tối thượng thừa, mà diễn thuyết. V́ vậy khi tụng kinh rồi, bèn niệm rằng :

Nam mô Kỳ viên hội thượng Phật bồ tát .

KIM CƯƠNG BÁT NHĂ BA LA MẬT KINH



__________________
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
Quay trở về đầu Xem saokhue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saokhue
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 3 of 3: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 8:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Rất cám ơn anh PhoQuang va SaoKhue đă đưa những bài này, giúp tăng tín tâm của những người tu theo đạo Phật rất nhiều.

Nam Mô Công Đức Lâm Bồ tát ma ha tát.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 4.2031 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO