Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 207 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: BỐN CHÂN LƯ CAO QUƯ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 1 of 8: Đă gửi: 16 March 2006 lúc 4:55am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Tôn giáo là ǵ? Tôn giáo là phương pháp diệt trừ mọi phiền năo và đau khổ. Bởi v́ nếu trên thế gian này tuyệt đối không có phiền năo đau khổ th́ chắc chắn không cần phải có một tôn giáo nào. Theo định nghĩa đúng đắn như vậy th́ Phật Giáo quả là một tôn giáo toàn thiện, toàn mỹ nhất trên thế giới v́ Phật Giáo là tôn giáo duy nhất đă thực sự dập tắt được phiền năo, đau khổ vĩnh viễn, quả là khoa học. Đức Phật đă chẩn đoán bệnh cho trần gian và cấp toa chữa trị.

1) Đức Phật quán sát thế giới và chỉ thấy bệnh khổ mênh mông. Những bệnh ǵ là khổ? Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, buộc phải sống với người ḿnh không ưa là khổ, xa ĺa người yêu thương là khổ, sự hiện hữu của ngũ uẩn là khổ. Tóm lại, những chứng bệnh đau khổ của trần gian là vậy, và đây là chân lư cao quư liên hệ đến sự khổ.

2) Nhưng Đức Phật không dừng ở đây. Ngài như một y sĩ giỏi chẩn đoán từng trường hợp và đă t́m thấy nguyên nhân của bệnh khổ. Bởi v́ biết được nguyên nhân của bệnh là coi như chữa được phân nửa chứng bệnh. Đức Phật cho biết nguyên nhân của đau khổ là ḷng khao khát hay tham ái. Đây là chân lư cao quư hay liên hệ đến nguyên nhân bệnh khổ.

3) Bởi vậy nếu diệt trừ được nguyên nhân là đương nhiên bạn sẽ loại trừ được hậu quả của nó. Diệt trừ tham ái là diệt được khổ. Đây là chân lư cao quư đưa đến chấm dứt sự đau khổ.

4) Có điều nói th́ dễ mà làm th́ khó. Dễ nói dập tắt tham ái, nhưng bằng cách nào? Đức Phật đă ban cho chúng ta một toa thuốc khoa học nhiệm mầu để diệt trừ tham ái, nghĩa là: BÁT CHÁNH ĐẠO, gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Đây là chân lư cao quư đưa đến con đường diệt trừ tham ái.

Đây là TỨ DIỆU Đế (hay 4 Thánh Đế) kết thành bốn nền tảng của Phật Giáo v́ bốn chân lư cao quư này chỉ t́m thấy trong Phật Giáo, không nơi nào khác trên thế gian có được. Chân lư cao quư thứ tư (tức là Bát Chánh Đạo) đặc biệt vô cùng độc đáo. Bởi v́ nơi đây bạn sẽ t́m thấy tám bước nhiệm mầu liên kết một cách khoa học theo quy luật nhân quả.

Hăy chiêm nghiệm công thức khoa học này:

Chánh kiến: tạo duyên cho Chánh tư duy.

Chánh tư duy: tạo duyên cho Chánh ngữ.

Chánh ngữ: tạo duyên cho Chánh nghiệp.

Chánh nghiệp: tạo duyên cho Chánh mạng.

Chánh mạng: tạo duyên cho Chánh tinh tấn.

Chánh tinh tấn: tạo duyên cho Chánh niệm.

Chánh niệm: tạo duyên cho Chánh định.

Có hai bước thăng hoa đưa thẳng đến Niết Bàn tối thượng là như vầy:

- Chánh định tạo duyên cho Chánh kiến thực chứng.

- Chánh kiến tạo duyên cho Chánh giải thoát.

Trong công thức mầu nhiệm trên, nếu bước thứ nhất đúng th́ mọi vấn đề đều đúng. Nếu bước thứ nhất sai th́ mọi vấn đề đều sai. Những ai có được chánh kiến sẽ có được Niết Bàn, những ai bị tà kiến dẫn lối sẽ đi vào địa ngục, ngạ quỷ. V́ vậy chúng ta hăy cứu vớt những người có tri kiến sai lầm bằng cách tặng cho họ phương thuốc Chánh kiến. Không có món quà nào cao quư bằng món quà Chân lư. Đó là món quà vĩ đại nhất trong tất cả món quà.

Như chúng ta thấy qua công thức kỳ diệu trên, Tri Kiến trong Phật Giáo đứng hàng đầu và sau cùng. Tri Kiến sơ cơ đến trước (nhờ đọc và nghe), Tri Kiến thực chứng đến sau cùng. Tiến tŕnh nhân quả nhiệm mầu này chỉ được t́m thấy trong Đạo Phật mà thôi, không nơi nào có. Do vậy Phật Giáo là tôn giáo hoàn hảo nhất trên thế giới v́ nó là một tôn gián khoa học dành cho những đầu óc khoa học. Phật Giáo là tôn giáo lạc quan nhất bởi v́ nó trực chỉ Niết Bàn ngay chính trong đời này. (Dịch giả trích “Thanh Tịnh Đạo Luận” của VISUDDHI MAGGA T.T. Thích Phước Sơn–Trường Cao Cấp Phật Học biên soạn). Bản luận đề cập đến 4 nghĩa của khổ là: bất đắc, hữu vi, bốc cháy và biến đổi.Tính chất của nó là chân thật không hư ngụy, không thể khác. Nguồn gốc hay tập khởi của khổ với ư nghĩa tích tập, căn nguyên, trói buộc, chướng ngại. Diệt có nghĩa là thoát ly, tách rời, vô vi, bất tử. Đạo có nghĩa là lối ra, nguyên nhân, thấy, ưu thắng.



Nguyên nhân của khổ (DUKKHA): Du là xấu xa, ác độc Kha là trống rỗng. Thế nên chân lư thứ nhất: Khổ (Dukkha) là xấu v́ nó là nơi thường lai văng của sự hiểm nguy và nó trống rỗng v́ không trường cửu, không đẹp, không vui v́ không có tự ngă.

Chân lư thứ hai: Tập (Samudaya) sam là liên kết, u chỉ sự khởi lên như udita (đi lên), Aya chỉ lư do. Như vậy chân lư này là lư do cho sự khởi lên của khổ, chi phối hợp với những duyên c̣n lại.

Chân lư thứ ba: Diệt (Nirodha). Ni: chỉ sự vắng mặt. Rodha là nhà tù. Chân lư này chỉ sự vắng mặt của mọi sanh thù v́ nơi đây không có sự bức năo của khổ được xem như nhà tù.

Chân lư thứ tư: Đạo hay khổ diệt Đạo. Con đường đưa đến chấm dứt khổ nên gọi là khổ diệt Đạo.

Cả 4 chân lư này được gọi là Thánh đế, v́ chỉ có các bậc Thánh mới thâm nhập được chúng. Lại nữa những sự thật cao cả được gọi là sự thật của các bậc Thánh. Hoặc bốn Thánh đế này là chân thật, không hư ảo, không thể khác nên gọi là Thánh đế.

Bản luận lại mô tả: không có niềm đau nào ngoài khổ, không có nguồn khổ nào khác hơn tham ái. Không có niềm an tịnh nào ngoài tịch diệt (Niết Bàn) và không có lối thoát nào ngoài Chánh Đạo.

* Về thứ tự: Khổ đế được nêu lên trước tiên v́ nó dễ hiểu, v́ nó thô phù, v́ nó chung cho tất cả chúng sanh. Chân lư Khổ tập nêu kế tiếp để chỉ rơ nguyên nhân. Rồi chân lư về Diệt đế biểu thị rằng nhân chấm dứt th́ quả kết thúc. Chân lư về Đạo được nói sau rốt để chỉ ra con đường, phương tiện đạt đến Diệt, và Cổ Đức cũng bảo: tri khổ, đoạn tập, tu đạo chứng diệt (biết khổ để đoạn trừ các nguyên nhân của khổ (tập) nên phải thực hành các Pháp môn do đó mà chứng đạt sự tịnh diệt).



Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 2 of 8: Đă gửi: 16 March 2006 lúc 4:56am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

CHÂN LƯ VỀ KHỔ.

Thông thường khổ có ba loại:

- Khổ khổ tức là nỗi khổ ở nội tại.

- Hoại khổ tức là nỗi khổ do biến hoại.

- Hành khổ tức là nỗi khổ về các phương diện hoặc ngấm ngầm

hoặc lộ liễu.

Khi cảm thọ khổ về thân và tâm gọi là khổ-khổ v́ tự tánh của nó là khổ, khi cảm thọ lạc về thân và tâm gọi là hoại khổ, v́ đó là nguyên nhân sinh ra khổ khi cảm thọ ấy biến mất. Xả thọ và các hành khác trong ba cơi là hành khổ v́ chúng bị bức bách trong sinh diệt.

a) Sanh là khổ, v́ nó là cội nguồn cho khổ trong các đọa xứ, nào là nỗi khổ đi đầu thai, khi ở trong bầu thai và khi sinh ra. Lúc đang sống, chúng sinh cũng phải chịu bao nhiêu nỗi khổ. Nếu ở địa ngục th́ khổ v́ bị lửa thiêu đốt. Nếu ở loài súc sanh th́ phải chịu khổ v́ bị đánh đập bằng roi gậy hoặc ăn nuốt lẫn nhau. Nếu sinh vào loài ngạ quỷ th́ đau khổ v́ đói khát bức bách. Nếu sinh vào Atula th́ đau khổ v́ giá lạnh tối tăm.

b) Già: là căn bản của sự đau khổ thể xác và tâm hồn. Nó khởi lên do nhiều duyên như: tứ chi nặng nề, các căn suy yếu, tuổi trẻ tan biến, sức lực bị phá hủy, trí nhớ sút kém, bị người khi dễ.v.v...

c) Chết: là sự chấm dứt mạng căn nơi một chúng sinh, có nhiều nguyên nhân như: chết do thọ mạng chết, do công đức tận hoặc chết bất đắc kỳ tử, bị tai nạn đột ngột xảy ra.



d) Sầu: là đốt cháy tâm can nơi người bị mất thân quyến hay bị mất mát những ǵ ḿnh yêu quư.

đ) Bi: là sự đau buồn do mất mát người thân của cải v.v... được biểu hiện bằng những hành vi, cử chỉ mà người khác có thể thấy được.

e) Khổ: là sự khổ đau, bức bách của thân xác.

g) Ưu: là sự khổ sở về tâm.

h) Năo: là sự thiêu đốt tâm can.

Sầu như chảo dầu nấu trên bếp lửa riu riu. Bi như chảo dầu nấu trên bếp lửa mạnh. Năo như những ǵ c̣n lại trong chảo sau khi nấu, c̣n tiếp tục cho đến khi chảo khô.

i) Oan gia tụ hội: là sự gặp gỡ những người và vật mà ḿnh oán ghét.

k) Ái biệt ly: là phải xa ĺa những người và vật mà ḿnh yêu quư.

l) Cầu bất đắc: là sự mong cầu không toại ư.

m) Năm uẩn là khổ: v́ năm uẩn là đối tượng của sự chấp thủ, như tấm bia thu hút những tên bắn, như ruồi nhặng bu trên thân con ḅ.

Các nỗi khổ về 5 uẩn th́ Sanh là cái khổ đầu tiên, Già là cái khổ chặng giữa, Chết là cái khổ chặng cuối. Khổ nung nấu tâm can gọi là Sầu. Khổ dưới h́nh thức than van khóc lóc gọi là Bi. Cái khổ do thân tứ đại bị xáo trộn gọi là Khổ. Nỗi khổ bức bách trong tâm hồn gọi là ưu. Khổ ngấm ngầm chồng chất nhiều lớp gọi là Năo, khổ do thất vọng gọi là Cầu bất đắc khổ. Chung quy khi năm uẩn bị chấp thủ chính là khổ.



LUẬN VỀ KHỔ DIỆT HAY NIẾT BÀN
Niết Bàn có thể đạt được nhờ đạo lộ chân chính v́ đă có các bậc Thánh đạt được nó nhờ dùng phương tiện Giới, Định, Tuệ. Do đó không thể bảo rằng Niết Bàn là không có ǵ cả, v́ ta không thể hiểu được. Điều hiển nhiên là không phải ai cũng thấy được Niết Bàn mà nó chỉ có thể đạt được bởi các vị La Hán tức là những người đă đoạn tận tham, sân, si, đă cắt đứt mọi gốc rễ của tham ái.



Mục tiêu duy nhất mà Đức Phật truyền dạy chính là Niết Bàn. Theo bản luận th́ Niết Bàn có hai loại là Hữu dư y và Vô dư y. Hữu dư y Niết Bàn là các cấu uế đă lắng dịu nhưng hậu quả của sự chấp thủ trong quá khứ vẫn c̣n tồn tại. Vô dư y Niết Bàn là đoạn tận các nghiệp đưa đến tái sanh trong tương lai, các uẩn không c̣n sanh khởi nữa, mà những uẩn đă sinh th́ biến mất.



CHÂN LƯ VỀ CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN DIỆT KHỔ
Con đường đưa đến diệt khổ chính là Bát Chánh Đạo. Tám pháp này được giải thích như sau:

1) Chánh kiến: Kiến giải chính xác, hiểu biết chính xác.

2) Chánh tư duy: suy nghĩ một cách chính xác, đúng đắn.

3) Chánh ngữ: nói lời chân thực đúng đắn dễ nghe, có lợi ích.

4) Chánh nghiệp: làm những việc chân chính như không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.v.v...

5) Chánh mạng: sinh sống bằng những nghiệp chân chính, lương thiện.

6) Chánh tinh tấn: nỗ lực chính đáng, siêng làm việc thiện.

7) Chánh niệm: nghĩ nhớ chân chánh, luôn luôn tỉnh táo cảnh giác từng việc nhỏ.

8) Chánh định: tập trung tư tưởng một cách chân chính, không để ngoại vật chi phối làm rối loạn tâm trí.

Tám Chánh đạo này liên quan đến các Pháp như sau:

Chánh kiến dẫn đầu, bao gồm: trạch pháp, như ư túc, tuệ căn, tuệ lực và trạch pháp giác chi. Chánh tư duy bao gồm ba loại tâm là viễn ly, tham sân và hại. Chánh ngữ bao gồm ba loại thiện về thân. Chánh mạng bao hàm thiểu dục, tri túc. Chánh tinh tấn bao hàm 4 chánh cần tấn căn, tấn lực và tinh tấn giác chi. Chánh niệm bao gồm 4 niệm xứ, niệm căn, niệm lực và niệm giác chi. Chánh định bao hàm 4 loại: định có tầm, có tứ, định tâm, định căn, định lực và các giác chi hỷ, khinh an, định, xả.

Tám chánh đạo cũng liên quan mật thiết đến 3 vô lậu học như đoạn Kinh sau đây mô tả : Bất cứ chánh ngữ nào, chánh nghiệp nào, chánh mạng nào cũng thuộc GIỚI UẨN. Bất cứ chánh tinh tấn nào, chánh niệm nào, chánh định nào cũng đều thuộc ĐỊNH UẨN. Bất cứ chánh kiến nào, chánh tư duy nào cũng đều thuộc về TUỆ UẨN. Bản luận nêu ví dụ: Định ví như người trông thấy hoa đẹp mà tự ḿnh không hái được. Tinh tấn ví như người bạn đưa lưng ra cho người ấy đứng lên. Niệm ví như người đứng gần đưa vai làm điểm tựa nhờ vậy mà ngươi ấy hái được hoa. Nghĩa là tinh tấn và niệm là những yếu tố giúp sức rất đắc lực cho Định.

Để làm sáng tỏ ư nghĩa của cả 4 Chân lư, luận chủ đưa ra ví dụ: Khổ ví như gánh nặng, Tập ví như người mang gánh nặng, Diệt như gánh nặng cần đặt xuống, Đạo như phương tiện đặt gánh nặng. Hoặc: Khổ như chứng bệnh. Tập là nguyên nhân. Diệt như sự cần hết bệnh. Đạo như thuốc chữa bệnh. Theo ư nghĩa tuyệt đối, cả bốn chân lư này cần được hiểu là trống rỗng v́ không có người chịu khổ, không có người tập khởi nên cái khổ, không có người chứng sự diệt khổ và không có người đi trên đạo lộ đến diệt khổ. Do đó có khổ nhưng không có người chịu khổ. Có sở tác nhưng không có người tạo tác. Có tịch diệt nhưng không có người chứng đắc. Có đạo lộ nhưng không có người đi.



THÔNG ĐIỆP CỦA ĐỨC THẾ TÔN

Thông điệp của Đức Thế Tôn là thông điệp vô song qua các thời đại. Con đường Phật dẫn đến hạnh phúc sẽ chứng tỏ cho ta thấy rằng Phật Giáo không phải bi quan tiêu cực như người ngoại đạo thường nói, mà là một tôn giáo đưa đến phúc lạc tột đỉnh ngay tại đây và bây giờ.

Bằng cách nào để chúng ta sống được hạnh phúc? Hăy làm điều thiện. Tránh mọi điều ác. Tịnh hóa tâm thức. Đó là lời dạy của chư Phật.

Nhờ nương theo những bước đi chân lư mà người ta đạt được hạnh phúc v́ trí tuệ đưa đến hạnh phúc, si mê đưa đến bất hạnh. Làm điều thiện bạn sẽ hưởng phúc lạc. Điều thiện là ǵ? Thực hành 5 học giới là làm điều thiện. Năm học giớỉ cần phải được thọ tŕ bằng tinh thần cũng như bằng văn từ ngôn ngữ. Văn tự sát mạng c̣n tinh thần cứu mạng. Đối tượng của 5 học giới là ǵ? Bố thí để diệt trừ tham, tŕ giới để diệt trừ sân, thiền định để diệt trừ si.

Năm học giới phải được thực hành thận trọng qua tâm ư, lời nói và hành động v́ mọi sự việc đều do tâm. Tâm là kẻ tiên phong, thủ trưởng và là kẻ sanh sự đủ chuyện. Hăy chánh niệm quán sát tâm th́ mọi sự đều tiến hành tốt đẹp. Nhưng quán tâm bằng cách nào? Phật Giáo là phương pháp tu tập, điều phục tâm. Nếu chúng ta giữ yên lặng chỉ theo dơi tâm, chúng ta sẽ làm cho tâm trong sạch, bảo đảm như ánh mặt trời lên cao. Nhưng làm cách nào để tịnh hóa tâm được. Nếu trong khi quán tâm mà một ư niệm hay vọng tưởng nào khởi lên đi kèm theo với tham, sân, si th́ bạn lập tức chuyển tâm sang hướng khác. Chẳng hạn tâm từ bi thay cho tâm thù hận. Nếu ai chuyển tâm đến Đức Phật, vị đó sẽ đạt hiệu quả cấp kỳ bởi v́ có sự hiện diện của đức Đại từ bi th́ không c̣n một niệm tưởng tham, sân, si nào khởi lên được.

Nếu phương pháp thứ nhất không thành công, bạn hăy thử phương pháp thứ hai. Nghĩa là cố gắng tư duy về những mối nguy hại của những vọng tưởng, bởi v́ ư nghĩ về sân thường dẫn đến sát hại. Nếu bất cứ niệm sân nào khởi lên, hăy diệt ngay từ trong trứng nước. Nếu phương pháp thứ hai không đạt, bạn hăy làm theo phương pháp thứ ba.

Nghĩa là chúng ta đừng nuôi dưỡng, ấp ủ vọng tưởng mà đơn giản lái ư tưởng sang hướng khác không chú ư đến vọng tưởng, nó sẽ chết dần các mối duyên hợp.

Nếu phương pháp thứ ba cũng thất bại, hăy thử phương pháp thứ tư, cố gắng loại bỏ những điều đă tạo nên các vọng tưởng. Hăy t́m ra nguyên nhân rồi nhổ tận gốc rễ.

Nếu phương pháp thứ tư vẫn không kết quả, hăy thử phương pháp thứ năm. Đây là hành động trực tiếp, tôi không muốn nói hành động trực tiếp ở Ấn Độ bởi v́ Đức Phật không phải là thần Jinnah mà là vị Thánh Jina– người chiến thắng dục vọng–người chinh phục thế gian. Ngài tự chiến thắng ḿnh chứ không phải là kẻ chiến thắng người khác.

Nhưng hiển nhiên khi người nào tự chiến thắng ḿnh tức là vị đó muốn chinh phục người khác bằng chính t́nh thương vô bờ bến. Đức Thế Tôn sau khi tự chiến thắng ḿnh tại Bồ Đề Đạo Tràng cách đây 2500 năm đă trở thành ngọn đèn Á CHÂU và là ánh sáng thế giới. Bằng phương pháp trực tiếp, nghĩa là bạn nghiến chặt răng, uốn lưỡi lên đốc họng và tung toàn lực quét sạch vọng tưởng với sức mạnh của năng lực, ư chí giống như nhà đô vật khổng lồ đưa vai vác chú lùn, nâng bổng lên cao rồi ném chú ra khỏi dây, giống như bạn đang vật lộn với vọng tưởng của chính ḿnh, bằng toàn sức mạnh và năng lực ư chí, bạn sẽ quăng vọng tưởng ra ngoài.

Một khi tâm đă được tịnh hóa rồi bằng một trong 5 cách trên, lúc đó bạn mới hưởng được sự thuần tịnh trầm mặc và an lạc. Đồng thời các vọng tưởng đó không c̣n quấy phá bạn nữa. Nếu bạn hành động theo phương pháp này mỗi lần vọng tưởng khởi lên, rồi th́ tất cả các vọng tưởng cũng trở nên yếu dần và sau cùng bị dập tắt hẳn. Giác ngộ không ǵ khác ngoài tiến tŕnh tịnh hóa tâm thức. Nhờ sử dụng phương pháp này mà chúng ta đẩy lùi được những hắc ám trong tâm. Nhờ vậy mà đạt được sự thuần khiết như gương sáng.

Tôi đă nói muốn được hạnh phúc ta phải thực hành 5 học giới. Vào thời Phật có một vị Sư đă thối tâm v́ phải thực hành quá nhiều học giới, trong tam tạng Kinh có 227 giới điều khiến vị đó chán nản v́ không thể giữ được, Sư muốn về đời. Đức Phật hỏi lư do th́ vị ấy trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, Đạo giảo này có quá nhiều học giới, con không kham giữ nổi. Con muốn quay về đời sống thế tục”. Đức Phật thương cảm, Ngài nói: “Con đừng thối tâm như vậy, con có thể làm được một điều”'. Vị Sư hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, điều ǵ vậy?”. Đức Phật dạy: “Con có thể quán sát tâm được không?”. “Thưa, con làm được”, vị Sư trả lời. Ngài tiếp: “Vậy th́ con đừng bận tâm về Giới Luật quá nhiều, hăy quán sát tâm thôi, không c̣n ǵ nữa”. Nhờ vậy vị Sư đó vào rừng và bắt đầu quán tâm. Ngày đêm quán sát tâm bằng phương pháp này, bằng cách thức mà Đức Phật đă khai thị. Nhờ vận dụng tất cả phương pháp đă nêu trên để tịnh hóa tâm, chẳng bao lâu, vị Sư đó đắc quả Alahán tối thượng, có nghĩa là vị đó đă chứng ngộ. Thế nên quư vị thử vận dụng phương pháp trên, tôi chắc quư vị cũng sẽ được Giác Ngộ.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 3 of 8: Đă gửi: 16 March 2006 lúc 4:58am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

* HỌC GIỚI THỨ NHẤT

(Không được sát hại và tàn bạo với các sinh vật)

Không sát hại sinh mạng mọi sự sống dù là loài côn trùng nhỏ nhất. Tại sao học giới sát sanh lại xếp hàng đầu. Bởi v́ nơi nào có sự sống, nơi đó có hy vọng. Khi một sinh vật bị chết, nó khó có thể khôi phục được sinh mạng và nó đánh mất cơ hộ́ tiến lên cảnh giới phúc lạc hơn, v́ lư do này mà ta không giết hại v́ ḷng từ bi, và cũng đừng bảo giết. Giết hại là điều hèn mạt độc ác nhất ngăn chặn đạo lộ hướng thượng.

Không ai có quyền sát hại, nếu vị đó không thể khôi phục được mạng sống chúng sanh hoặc thiết lập cho nó một t́nh trạng tốt đẹp hơn. Sát hại là hành vi ăn cướp xấu xa nhất, v́ sinh mạng là tài sản quư giá của bất cứ chúng sanh nào. Khi một con vật đang hấp hối, nó chết với ḷng căm giận, tâm lực hướng về kẻ giết nó và quyết thề cướp lại mạng sống của bạn trong kiếp sau. Vậy th́ tại sao lại tạo thêm những kẻ thù không cần thiết như vậy. Nếu tâm ḿnh tràn đầy ḷng từ bi thương cảm th́ không ai có thể sát hại được. Tại sao ta lại để cho tâm ḿnh bị ô nhiễm bởi cơn giận dữ điên cuồng làm giảm thọ đời ḿnh. Tại sao ta là người sát nhân để mọi người căm ghét. Tại sao ta không là một người đáng yêu để toàn thế giới trân trọng quư kính. Sát hại rơ ràng làm tổn thương nhân cách, hủy diệt ḷng từ, làm hưng phấn thù hận, bành trướng cái TA ích kỷ, đưa đến khổ đau, tiêu tan niềm an vui hạnh phúc.

Những ví dụ về giới sát hại sinh mạng: tội tử h́nh, tội treo cổ.v.v...

Trong một tập sách nhan đề: “Tội tử h́nh”, tôi đă viết: "Thật là vô ích khi treo cổ một thân xác v́ thân xác này không bao giờ chịu trách nhiệm về tội lỗi của ḿnh. Vô minh–tức là sự ngu độn–mới chính là kẻ sát nhân đích thực. Thế nên ta phải treo cổ gă Vô minh (thiếu trí tuệ) này mớ́ đúng. Bằng cách nào đây? Bằng cách hăy ban cho tội nhân một tri kiến Chân lư Phật Pháp.

Bất cứ ai cũng có thể đưa ra một giải pháp treo cổ Vô minh chứ?

Vô minh chính là nhân tố của mọi tội ác. Các quan ṭa đă lầm lẫn một cách đáng sợ. Thay v́ nhổ tận gốc tội lỗi, các vị ṭa chỉ giản dị hủy diệt cái khung xác trống rỗng này.

Có lần Thánh Gandhi đă nêu rơ điều đó, vào một ngày nọ, khi có nhiều thanh niên ngoại đạo định hành hung Ngài. Bạn có nhớ không, trên báo chí đă kể lại rằng Ngài xuất hiện và nói với họ rằng: “Các cậu định làm ǵ? Điều duy nhất mà các cậu có thể làm là cướp đi cái khung xác trống rỗng của ta. Nếu muốn vậy, hăy lấy mạng ta đi, nhưng các cậu không bao giờ chiếm được linh hồn ta đâu”. Đó là lời dạy của Phật Đạo. V́ vậy các quan ṭa chỉ luôn luôn xử treo cái khung xác trống rỗng mà nó không hề là một tội nhân chút nào.

Làm sao để cho tội nhân đáng thương này huân tập trí tuệ? Bằng cách ban phát trí tuệ (sự hiểu biết) cho tội nhân. Chúng ta cống hiến trí tuệ cho tội nhân và chúng ta treo cổ tội nhân bằng cách ban cho anh ta trí tuệ. Một khi Vô minh bị treo cổ, nó sẽ không sát hại nữa. Chúng ta sẽ không treo cổ Vô minh như treo cái cổ đáng thương kia, nó vốn hoàn toàn vô tội. Tôi chưa hề trông thấy cái cổ nào phạm tội cả. Điều đáng phải treo là những hành động sai trái. Tôi có thể dẫn chứng cho bạn hàng trăm ví dụ cụ thể để thấy thế giới bị điên đảo như thế nào và có người chỉ làm những điều ác ra sao.

Có hai loại ung thư: ung thư về thân xác và ung thư về tâm hồn. Nếu một người đau đớn v́ ung thư thể xác, vị đó chạy đến thầy thuốc và cố gắng tự chữa cho ḿnh. Thật là quái lạ khi một người đau khổ v́ ung thư tâm hồn (ung thư nào nguy hiểm hơn thể xác và tâm hồn ), vậy mà anh ta không bao giờ quan tâm để cứu chữa, cũng không lo lắng để được chữa trị, anh ta không lo ngại ǵ về việc chữa trị. Anh ta nghĩ rằng ḿnh hoàn toàn b́nh thường. Vậy ung thư tâm hồn là ǵ? Là vô minh ngu độn. Xin phép hỏi các bạn có bao nhiêu người trong chúng ta đây đang đau khổ v́ bị ung thư tâm hồn. Có phải tính sơ sơ quá 99%, tất cả nhân loại đều bị ung thư tâm hồn.

Các khoái lạc giác quan là thuốc độc. Đó là món độc dược tinh thần. Vậy mà mọi người đều ham thích. Họ đeo bám vào những thú vui của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư. Dù nó là chất độc nhưng họ vẫn thích và tốn kém rất nhiều tiền bạc cho độc dược này. Chẳng hạn có người mời bạn một cốc rượu sâm banh màu sắc và mùi vị khá hấp dẫn, nhưng nó có chứa chất độc. Người ngu độn cầm lấy uống hết và lăn ra chết. C̣n người khôn ngoan th́ nói: “Không dám, xin bạn hăy giữ rượu của bạn, tôi không dùng được”. Tuy nhiên, bạn vẫn t́m thấy hơn 99% dân chúng biết rằng trong rượu sâm banh có độc tố, thế mà họ vẫn uống và trả tiền nhiều hơn nữa. Sự thỏa măn thị giác bảo rằng rượu sâm banh rất dịu ngọt và đáng yêu dù có chứa độc tố.

Mọi người đều thích hưởng khoái lạc thị giác rồi sinh mê đắm. Về mặt tâm linh, nếu họ chết th́ chẳng có hại ǵ, v́ vậy họ quả là những người mất trí. Hôm qua, chúng ta đă tổ chức lễ Độc Lập. Đó là điều trọng đại không nghi ngờ ǵ nữa, nhưng thế c̣n sự độc lập bên trong tâm hồn th́ sao? Chúng ta đều là những kẻ nô lệ cho mắt, tai, mũi... Một khi con người mà nội tâm được giải thoát như Đức Phật, ai có thể nô lệ Ngài? Không ai cả. Tại sao? Bởi v́ Ngài đă đạt được sự tự do giải thoát nội tâm. Và khi người nào được giải thoát bên trong tức là vị đó đă an nhiên tự tại bên ngoài.

Chiến tranh là sự giết hại trên b́nh diện qui mô. Không lọc nước có sinh vật mà uống đó là phạm giới sát. Không cứu vớt sinh vật khi nó nằm trong tầm khả năng có thể thực hiện cứu được, đó là phạm giới sát. Giả sử bạn trông thấy một ngườ́ đang bị chết đuối, bạn biết lội nhưng không nhảy xuống cứu người. Như vậy, bạn đă vi phạm luật Từ Bi, phạm giới sát, v́ đó là sự vị kỷ. Hăy yêu thương người hàng xóm như chính ḿnh. V́ thương người như thương thân nên bạn mới dám nhảy xuống cứu họ. Đức Phật có lần đă nói: Hăy yêu thương mọi loài như yêu thương huynh đệ ḿnh; như bà mẹ hy sinh thân mạng để bảo vệ đứa con duy nhất. Chính v́ vậy mà chúng ta phải nuôi dưỡng hạt giống tâm từ đối với chúng sinh. Quy luật t́nh thương vô song này sẽ dẫn đến giải thoát.

Lại nữa, bất cứ điều ǵ xúc phạm đến trí tuệ cũng là phạm đến giới sát. Không hề có đức tin nào về linh hồn hiện hữu. Tư tưởng về cái Ta không nên đưa vào tu tập bởi v́ niệm tưởng về Ngă là báo hiệu Vô minh. Sự Vô ngă tối thắng là con đường tu tập giới sát một cách toàn hảo.

Hăy nhớ năm học giới, cần phải học hành chúng qua tư tưởng, lời nói và hành động. Bạn có thể giết hại bằng tâm của ḿnh nếu bạn tự ḿnh nói: “Gă kia là kẻ thù của ta, ước ǵ nó chết sớm cho rồi”, tức là bạn đă sát hại bằng tâm (tâm sát) Bạn đă phạm học giới thứ nhất, về mặt tinh thần bạn có thể vi phạm tất cả các giới khác bằng tâm ḿnh. V́ vậy, việc thực hành tu tâm cũng là đều hết sức quan trọng.



* HỌC GIỚI THỨ HAI.

(không được lấy của người khác).

Tránh lấy vật ǵ không được cho. Trong Phật Giáo, chúng ta không bao giờ dùng từ ăn cắp mà nói: lấy vật không cho. Bởi v́ mọi thứ phải được đặt vào tay chúng ta. Lại nữa chúng ta không thể nhận nó nếu món quà không được đặt trực tiếp trong tay chúng ta. Chúng ta sinh nghi, không biết là vật này có thực sự tặng cho ḿnh không. Nhưng khi vật đó được đặt trong tay ta th́ ta không c̣n nghi ngờ ǵ nữa. Chúng ta biết đó là một tặng vật, nghi vấn liền tan biến.

Những điển h́nh về học giới lấy vật không cho: ví dụ như dùng cân đo gian dối, lấy lệ phí cao, nâng giá hàng, trả lương thấp cho người giúp việc, phóng đại giá trị hàng hóa, giả mạo, pha chế những hợp chất xấu hơn. Làm kém chất lượng sữa bằng cách pha thêm nước và những chất khác vào. Sự cướp đoạt cũng là h́nh thức ăn cướp trên b́nh diện rộng hơn.

Nếu có người lấy cắp một ổ bánh ḿ cho đứa con đang đói, vị đó có thể bị giam tù ngay. Nhưng nếu họ lấy cắp cả một quốc gia do tham quyền th́ anh ta lại được tung hô là người chinh phục thế giới. Thế giới như vậy quả là điên khùng. Tôi nêu lên một ví dụ thứ hai: Khi bạn lấy cắp một ổ bánh ḿ, bạn có biết tại sao quan ṭa phạt bạn không. Ngài phạt bạn v́ lấy cắp quá ít. Điều mà quan ṭa muốn nói là khi ṭa đưa anh ta vào tù, Ngài có ư muốn nhắn nhủ: “Bạn thân thương! Bạn quá nhỏ mọn, bạn phải bị phạt v́ sự nhỏ nhoi này; bởi chỉ ăn cắp bánh ḿ. Lần sau hăy đi ăn cắp một quốc gia. Lúc đó bạn trở thành người anh hùng chiến thắng thế giới. Dân chúng sẽ xây đài tưởng niệm, suy tôn bạn và bạn sẽ vinh quang đi vào lịch sử đất nước. Bạn sẽ tiếp đón danh hiệu vĩ đại như Alexander, Ceasar, Napoléon”. Những kẻ cướp tầm cỡ thế giới lịch sử trở nên vĩ đại v́ họ lấv cắp những cái trọng đại. Họ chẳng bao giờ bị bỏ tù, bởi v́ họ to lớn quá, không vào nhà tù được. Những tên cướp vĩ đại, quá vĩ đại, không lọt vào nhà tù nhỏ bé được. Không có nhà tù nào được xây to rộng đủ cho những tên cướp vĩ đại này và chính v́ vậy mà họ được tự do, họ được tôn kính, bái lạy bởi những kẻ ngu si vĩ đại. Đương nhiên, họ vĩ đại cả hai phương diện v́ mỗi người đều là mẫu người đặc biệt theo khuynh hướng riêng của ḿnh.



* HỌC GIỚI THỨ BA

(Không được có những thèm khát nhục dục)

Tránh tà dâm, dịch đầy đủ là: tôi chịu giữ giới, không phạm tà dâm. Trong Phật Giáo, chúng ta chịu nhận, c̣n tôn giáo khác, học giới được răn dạy, hay ban lệnh: bạn không được làm thế này hay không được làm thế kia. Người nào đó áp bức bằng cây gậy to để ép buộc bạn phải giữ ǵn một số điều răn. Điều răn không hề được t́m thấy trong Phật Giáo. Đức Phật cư xử với chúng ta như những triết gia. Ngài chỉ cho ta con đường chân chính (Chánh đạo). Bởi v́ Ngài biết rằng chúng ta có trí tuệ, chúng ta sẽ theo con đường của Ngài. Nếu chúng ta mê mờ, kém hiểu biết, đó là lỗi của chúng ta. Ngài không sử dụng gậy to để ép buộc chúng ta giữ ǵn năm học giới. V́ ḷng đại bi, Đức Phật dạy. “Nếu bạn có trí tuệ, bạn không thích đau khổ, sẽ được thoát khổ”. Nếu bạn yêu cuộc sống trong đau khổ, bạn phải giải quyết cách nào?. Bạn có thể làm ǵ tùy bạn muốn. Trong đạo Phật chúng ta được đối xử bằng tinh thần tôn trọng chứ không phải như con nít, bắt phải thuần phục; chúng ta không bị bắt buộc, hay cưỡng ép. Tôi không cố ư chê trách một tôn giáo nào, bởi v́ Phật Giáo quá cao vời, tôi chỉ tế nhị nêu lên một vài dị biệt, bởi v́ cách hay nhất để chúng ta có thể so sánh, đánh giá là đặt chiều cao của một vật khổng lồ gần bên chú lùn nhỏ xíu, lúc đó, chúng ta mới nhận ra được sự khác biệt của chúng. Chúng ta không khôn khéo dụ đạo bất cứ ai mà chỉ tŕnh bày Chân lư, sau khi phô diễn về sự thật. Công việc như vậy là xong, cho dù người ta có chấp nhận hay bác bỏ, chúng ta hoàn toàn tự tại và công việc truyền đạt Chân lư coi như đă kết thúc.

Ta nên bằng ḷng với chính người vợ của ḿnh; cần loại trừ các tham ái trong mọi h́nh thức. Nh́n một đối tượng nào đó với ḷng thèm muốn coi như bạn đă phạm Tà hạnh “dâm tâm”. Nếu toàn thế giới đều trở thành một đại tu viện th́ quả là thiên đường cho trần gian này.

Nếu mọi người nam nữ vào rừng xuất gia tu tập th́ trần gian này sẽ là thiên đường, toàn thế giới đầy những cây cối. Chúng ta có nhiều rừng khắp nơi và khí hậu vùng nhiệt đới sẽ tươi mát hơn. Nhưng vấn đề chặt đốn cây rừng thật bất lợi, chúng ta tự làm tổn hại cho chính ḿnh, bức khổ v́ nóng. Sức nóng như thiêu đốt của vùng nhiệt đới làm cho thế giới giống như sa mạc; thiếu bóng cây che mát; dân chúng lại quá đông. Thế nên nếu người ta chịu chấn chỉnh và điều phục tham vọng của ḿnh, vào rừng xuất gia th́ toàn thế giới là một cảnh rừng Thiền an lạc. Dân chúng lại ít, v́ đi tu, ít sinh sản ... bạn hiểu chứ?

Các vị tại gia thân mến! Bạn đang ăn cướp cây cối của chúng tôi, bởi v́ cây cối đều thuộc về những ai muốn tu Thiền định. Chặt đốn cây rừng nghĩa là các bạn đang cướp đoạt cây che bóng mát của những ẩn sĩ mong muốn tu Thiền, nhập định nơi đó.

Có lần khi tôi c̣n ở Ấn Độ, một anh chàng cùng đứng với tôi tại nhà ga xe lữa Patve, anh ta nói: “Ông là người tu theo phạm hạnh, Chúa sẽ giận ông đấy!”. Tôi hỏi: “Giận ǵ?”. Anh ta trả lời: “V́ ông đă theo hạnh của Phạm Thiên”. Tôi nói: “Chúa của bạn mới kỳ lạ chứ”. Anh ta lại nói: “Chúa ban cho sự sống, c̣n ông đang hủy diệt trần gian”. Tôi hỏi lại: “Làm sao tôi có thể hủy diệt thế gian này được”. Ông ta dơng dạt: “V́ ông không sinh sản chứ sao! Ông không sản xuất các thanh thiếu niên chứ sao!”. Tôi tiếp lời: “Ôi Chúa của bạn quả là V́ Trời đáng thương! lại cần đến sự trợ giúp của tôi mới duy tŕ được sự sáng thế của Ngài, Chúa tạo nên thế gian này chứ có phải tôi đâu. Tại sao tôi lạ́ bận tâm đến sự sáng thế. Ngài tạo ra thế gian này, hăy để cho Ngài tiếp tục duy tŕ thế gian nếu Ngài muốn như vậy. Nếu Chúa muốn tạo dựng thế gian th́ chắc chắn Ngài phải có năng lực để duy tŕ nó chứ. Nếu Ngài dừng lại không cần sự trợ giúp của tôi, th́ tại sao tôi lại phải chịu trách nhiệm? Nó không phải là thế giới của tôi, tại sao tôi tạo ra nó”. Rồi sau đó, tôi hỏi thêm anh ta rằng: “Anh giải thích cách nào bằng sự kiện thực tế rằng người không sáng thế lại được sùng kính tôn thờ?”. Anh ta im lặng v́ không thể trả lời.

Tham tạo tác!

Sân hủy diệt!

Si tạo tác và hủy diệt!

Đức hạnh không tạo tác!

Từ bi không hủy diệt

Trí tuệ ban cho tự tại, không sinh, không diệt!

Bậc Chân Thánh không hủy diệt. Ngài đơn giản từ chối ḷng tham hay tạo tác. Theo triết học Phật Giáo, bạn đang tạo tác thế giới này hàng triệu lần trong mỗi khoảnh khắc. Nếu bạn dập tắt ḷng tham th́ thế giới của bạn cũng không c̣n v́ rằng đời sống là một tiến tŕnh trôi chảy liên tục, nó động chứ không tịnh. Ngày xưa thế giới này không phải được tạo nên trong 6 ngày mà nó được tạo nên hàng triệu lần trorng mỗi khoảnh khắc. Không có bắt đầu và kết thúc sáng tạo; mục tiêu duy nhất cho sáng tạo là hủy diệt nguyên nhân. Cái gọi là Vô minh đă tận diệt th́ sự sáng tạo không c̣n, bởi v́ Vô minh làm sinh khởi tham ái. Tham ái đưa đến chấp thủ. Chấp thủ làm phát sinh hữu–cái đang trở thành. Hữu đưa đến sinh. Sinh làm cho có già, bệnh, chết, buồn rầu, kêu ca, phiền năo, đau khổ và tuyệt vọng. Nếu vô minh và tham ái tận diệt th́ toàn bộ tiến tŕnh bị bế tắt và do đó không c̣n sự sinh nữa. V́ vậy chính tham ái đă tạo tác; c̣n đức hạnh th́ tận diệt. Nhưng tham ái tạo tác điều xấu chứ không phải điều tốt. Đức hạnh hủy diệt điều xấu chứ không tiêu trừ điều thiện. Tham ái tận diệt trần gian thống khổ này, chính nó chỉ là một tiến tŕnh trống rỗng. Trí tuệ diệt trừ si mê, phát sinh cái thực tại cao siêu nhất của chân lư Vô thường. Nếu bạn ưa thích trần gian này th́ bạn buộc phải ghét bỏ Niết Bàn. Nếu bạn ưa thích Niết Bần th́ bạn sẽ chán ghét trần gian. Bạn không thể ghét bỏ cả hai. Nếu bạn muốn trần gian th́ bạn phải goodbye Niết Bàn. Nếu bạn muốn thực tại th́ bạn phải goodbye trần gian– thế giới không thực này. Vậy ai từ bi nhiều hơn? Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia từ bỏ ǵ? Vị đó từ bỏ thế giới trống rỗng–không mà có. C̣n người tại gia từ bỏ ǵ? Anh ta từ bỏ thực tại Niết Bàn để lấy cái không, v́ trần gian trống rỗng này. Vậy ai là người từ bỏ vĩ đại nhất? Người tại gia hay xuất gia? Người xuất gia không từ bỏ ǵ, duy chỉ có trần gian trống rỗng này. Người xuất gia không từ bỏ nhiều nhưng người tại gia th́ từ bỏ Niết Bàn và là người từ bỏ lớn lao nhất, thiệt tḥi nhất.



* HỌC GIỚI THỨ TƯ

(Không đựơc nói sai, nói xâu, nói ác, nói phiếm)

Tránh nói vọng ngữ, có bốn loại: nói láo, nói vu khống, nói thô bạo hay vô lễ, nói chuyện phù phiếm, vô nghĩa, chuyện tầm phào, vô ích cần phải từ bỏ. Tại sao bạn là người đa ngôn, nhiều chuyện? Bạn không nhận ra rằng thế giới đang bốc lửa hay sao? Bạn vẫn c̣n ngồi tán gẫu chuyện trời mây trong ngôi nhà đang cháy. Đa ngôn, đa sự là chứng bệnh của thời đại. Các chủ biên báo chí đều là những người phóng đại to nhất. Sống một ḿnh là điều thuận lợi cho nhà tu. Yên tĩnh là cuộc sống tu học thiêng liêng của tôi, không ai có thể lấy đi đươc. Tôi sẽ sống độc cư và tận hưởng cái KHÔNG nơi hang động tâm hồn của ḿnh.

Bạn hăy dùng thức ăn bồi dưỡng tâm linh hằng ngày. Tại sao ta đói khát tinh thần. Nếu bạn bị mất một bữa ăn, chấc chắn bạn sẽ la hét, quạu quọ đủ điều. Nhưng khi ta mất nhiều bữa ăn tinh thần th́ không thấy ai kêu ca ǵ cả. Hăy bồi dưỡng thức ăn tinh thần cho tâm thức. Toàn thế giới đau khổ v́ đói khát thức ăn tinh thần. Món ăn tinh thần sẽ đưa đến an lạc cho thế giới. Vậy món bồi dưỡng tinh thần là ǵ? Hăy giữ năm học giới. Chúng ta cần thức ăn trong sạch cho tâm hồn. Chúng ta hăy tẩy chay các chủ hiệu sách buôn bán các truyện giết người, tội phạm, t́nh dục, bởi v́ họ đă dần dần biến nhân loại thành thùng rác. Do đọc các đồ phế thải nhơ bẩn đó bạn cũng bị ô nhiễm cùng khắp. Chúng ta nên đọc những bản kinh lợi lạc thù thắng nhất và nhờ vậy được tịnh hóa chính ḿnh, bởi v́ kinh Phật linh diệu có tác dụng như xà pḥng tâm linh làm trong sạch bổn tâm chúng ta.



* HỌC GIỚI THỨ NĂM.

(không được uống rượu hay những chất làm say)

Tránh bất cứ trạng thái uể oải, suy nhược nào phát sinh do sử dụng các chất say. Tôi đă lưu ư rằng giới điều này không có trong mười điều răn. Chúng ta nên loại bỏ các thức uống có tính chất say sưa làm uể oải, ngủ nhiều, kể cả cần sa, á phiện.

Uống rượu là tự phá vỡ toàn phần các học giới. V́ dưới ảnh hưởng của rượu, một người say có thể giết hại, lấy cắp, nói láo, tà dâm và càng uống nhiều hơn nữa.

Phật Giáo là một phương pháp điều tâm hoàn hảo nhất. Trong Phật Giáo, tâm sở hữu mọi thứ nên phải luôn luôn duy tŕ mức độ có hiệu năng cao nhất, bởi v́ chỉ có tâm tư duy trong sạch mới có đủ năng lực phát huy trí tuệ để một ngày nào đó trí tuệ mới đẩy lùi được mọi si mê ám chướng và ban cho ánh sáng Giác Ngộ. Vậy th́ không phải hoàn toàn điên khùng sao khi bạn làm mờ tâm trí, gây chết người do uống rượu, hậu quả là đốn phá con đường thẳng tiến đến Niết Bàn của chúng ta. Đây là năm học giới trong Phật Giáo. Chỉ có năm chứ không phải mười. Theo học giới thứ nhất, chúng ta không được phép giết hại ngay đến con vật nhỏ bé nhất. Và theo học giới thứ năm, chúng ta không được phép uống rượu, cần sa, ma túy và các chất say tương đương.

Những nhà truyền giáo từ phương Tây có vẻ tốt ḷng với người phương Đông, họ đang đẩy hết tốc lực đưa hàng triệu đô la để hóa đạo đám bất trung, tà giáo, ngoại đạo, chạy theo đường lối tư duy của họ. Có thể họ cống hiến điều ǵ đó tốt đẹp hơn điều chúng ta đă có rồi. Chúng ta có năm giới, khi các nam sinh là Phật tử, họ không được phép sát hại hay uống rượu. Dù sao chúng ta cũng phải ngưỡng mộ cái năng lực kinh khủng của các nhà truyền giáo Thiên Chúa để rồi giờ đây chúng ta bị tiêm nhiễm với năng lực dụ đạo kinh hồn của họ. Nay chúng tôi đang di chuyển về phương Tây để đáp lại ḷng bao dung rộng lượng đó. V́ cần phải có sự trao đổi văn hóa song chiều như vậy. Chỉ có sự trao đổi chân t́nh này mới tạo sự hiểu biết thông cảm lẫn nhau hơn giữa các quốc gia, đưa đến ḥa b́nh, thiện chí khắp các nước trên trái đất này. Và chính v́ vậy mà chúng tôi sắp sang nước Mỹ. Singapore chỉ là chặng đường tạm dừng. Đó là chặng đường thứ ba. Chúng tôi đă đi Ragoon, Penang, Kuala Lum pur và giờ đây là Sigapore, Manila, Hong Kong, Honolulu và sau cùng là San-Francisco. Đây là chuyến đi Hoằng pháp, cứ ba ngày ở đây năm ngày ở kia. Chúng tôi sắp đến các bang dạy họ về năm học giới để họ biết sống thương yêu cả loài vật với ḷng từ bi vô lượng vô biên. Thật là sai lầm nếu ai có tâm yêu thương con vật này mà ghét bỏ con vật kia. Chúng ta phải vô tư tất cả, yêu thương bạn bè và kẻ thù như nhau. Khi Đức Phật được hỏi Ngài thương yêu ai nhất giữa Devadatta- kẻ gây chia rẽ và Rahula con trai của Ngài. Đức Phật trả lời Như Lai yêu quư cả hai như nhau.

T́nh yêu của người chồng đối với người vợ vẫn là vị kỷ. Anh ta chẳng khác ǵ con ếch ngồi đáy giếng. Gia đ́nh là giếng của anh ta. Lẽ ra anh ta phải yêu thương và bảo vệ toàn khắp thế giới bao la này, coi toàn thể vũ trụ này là một gia đ́nh vĩ đại. V́ vậy Đức Phật đă dạy: “Thật khó mà t́m được một chúng sanh duy nhất chưa từng là mẹ, cha, con trai, con gái ḿnh trong những kiếp qua”.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh đức Thế Tôn dạy: “Đệ tử ḍng cao quư phải quán tâm như vầy: ở đây ta đang yêu đời, không muốn chết, ta thích lạc thú và không thích đau khổ. Giả sử có người nào đó cướp lấy đời sống của ta (người ấy cũng thích sống như ta, không muốn chết, thích mọi lạc thú và không thích khổ đau). Đó không phải là điều thú vị làm cho ta phấn khởi”.

Đến lượt ḿnh, nếu ta cướp đoạt cuộc sống của người cũng thích sống và không muốn chết, người thích lạc thú và không thích đau khổ, đó không phải là điều thú vị làm cho anh ấy phấn khởi. V́ t́nh trạng như vậy không làm ta hài ḷng hay phấn khởi, đối với anh ấy cũng tương tự. Làm sao ta có thể gieo đau khổ như thế cho người khác, nhờ thành quả của sự quán niệm như vậy, vị đó tự tránh sát hại chúng sanh và khuyến khích người khác tránh sát hại. Đồng thời tán thán hành động không sát sanh. Được vậy coi như đă giữ được tịnh giới về thân, vị đó hoàn toàn trong sạch. Đệ tử gịng cao quư lại quán niệm như vầy: nếu ai lấy cắp của ta hẳn điều đó không làm ta hài ḷng. Nếu ta lấy cắp của anh ấy, điều đó hẳn không làm anh ấy vui ḷng. Điều ǵ không làm cho ta hoan hỷ th́ cũng sẽ không làm cho người khác hoan hỷ. Hăy đặt ḿnh vào vị trí giống như người khác, ta sẽ tránh được tội lấy cắp. Do vậy vị đó trở nên hoàn toàn trong sạch (v.v... đối với các học giới khác).

Tôi vừa nêu lên đạo lư rất sơ đẳng của Phật Giáo (5 học giới). Người ta có thể phàn nàn: “Bộ Ngài Giảng Sư tưởng chúng tôi là học tṛ mẫu giáo trong vườn trẻ chăng? Chúng tôi đang ở Sigapore, người dân đa phần là trí thức muốn học hỏi triết lư cao siêu. Ở Sigapore không cần đạo lư sơ cấp”. Thế nhưng những điều tôi nói là căn bản, nếu khộng thực hành năm học giới th́ làm sao quư vị có thể nhận thức được tŕnh độ cao cấp hơn. Hăy nhớ 99% chúng nhân đang ở lớp sơ cấp Phật học; rất ít người đạt đến ở mức độ cao hơn, và c̣n ít hơn nữa, người đă tốt nghiệp. V́ vậy đa số những bài học ở vườn trẻ họ đều măn nguyện với những ǵ có trong vườn trẻ.

Nhân đây chỉ nêu lên cho quư vị một ư chính ngắn gọn về triết học Phật Giáo như tôi đă đề cập trước kia. Trong Phật Giáo các sự vật đều coi như đang biến động trôi chảy liên tục. Các triết gia Hy Lạp cũng nói mọi vật đều trôi chảy. Khoa học cũng khẳng định tương tự và Đức Phật cũng dạy như vậy, Ngài nói các Pháp đều là một ḍng biến động liên tục. Bạn có những nguyên tử, điện tử và Proton có điều là Đạo Phật không chấp nhận có linh hồn. Đời sống là tiến tŕnh của sự liên tục trở thành. Chúng ta mỗi lúc mỗi trở thành và chẳng bao giờ trở thành. Vậy th́ ai là người trở thành? Bậc Alahán đă trở thành. Trở thành ǵ? Trở thành một thực tại, một trạng thái bất biến. Chúng ta không bao giờ trở thành mà vẫn đang trở thành. Một khi tiến tŕnh trở thành dừng lại, lúc đó ta mới trở thành. Và ở đó không c̣n có sự đang trở thành nữa cho vị đó. Đức Phật đă trở thành một lần và xong tất cả. Ngài không bao giờ trở lại thế gian này. Ngài có thể không bao giờ tiếp tục trở thành. Tiến tŕnh trở thành đă vĩnh viễn ngưng hắn. Ngài đă trở thành một hiện thực (bản chất có thực) và sự thực có thể không bao giờ nhập lại thế gian nữa.

Bạn phải nhận thức rằng Đức Phật chỉ thị hiện khi nhân loại hân hoan tiếp nhận thông điệp của Ngài. Không thể tiêu phí thời gian mà không được ǵ. Ngài không định ném những hạt ngọc trai vào đàn heo. Ngài chỉ ném những viên ngọc cho những ai trân trọng, đánh giá được nó. Ngài rất tiết kiệm thời giờ. Thật là vô ích cho những ai giẫm đạt những viên ngọc đó dưới chân ḿnh. Đức Phật sẽ trở lại, không phải vị Phật tương tự mà là Đức Phật Gautama, một vị Phật mới. Khi Đức Phật xuất hiện cách đây 2500 năm, Ấn Độ bấy giờ đă vào thời kỳ văn minh, tịnh lạc ở đỉnh cao. Nhớ rằng cách đây 2500 năm toàn Đông Phương tràn ngập trí thức. Ở Ấn Độ có Đức Phật Thích Ca, ở Trung quốc có Khổng Tử và Lăo Tử, ở Hy Lạp có Platon và Socrates và nhiều Thánh nhân khác. Đó là thời kỳ trăm hoa đua nở. Vậy th́ tại sao Đức Phật xuất hiện. Rơ ràng Ngài chỉ đến khi nhân gian xứng đáng được sự hiện diện của Ngài, khi họ không đánh mất nhân tính của ḿnh. Trong Phật Giáo, chúng ta nói rằng Đức Phật thị hiện khi nhân gian có đủ duyên lành chân thiện và quốc độ này có đủ khả năng nhận thức được hào quang chân lư của Ngài.

Quư vị phải nhớ rằng gương mặt của tôi có thể là gương mặt của một người ngoạ́ quốc, có màu da khác. Nhưng có lẽ tôi c̣n “Ấn Độ” hơn cả người Ấn Độ nữa. Để tặng quư vị một ví dụ nhỏ: Ông A và bà B ǵ đó đang mặc y phục Tây Phương, y phục của người Âu Châu. Tôi đang khoát y phục cổ Ấn Độ. Bạn là một người Đông Phương lại ăn mặc kiểu Tây phương. Tôi là người Tây phương lại ăn mặc kiểu Đông Phương. V́ vậy thế giới h́nh như ngược đảo cả, đủ minh họa cho tính cách phức tạp, lộn xộn của trần gian. Xin quư vị đừng phật ư v́ đây chỉ là tṛ vui đùa trong câu chuyện. V́ có khôi hài mới làm sáng lên cái triết lư sâu xa, lại nữa, h́nh như quư vị đang buồn ngủ.

Do thành quả công đức vô lượng mà quư vị đă đạt được nhờ kham nhẫn lắng nghe bài Pháp thật dài này. Nguyện cầu tất cả ước vọng cao đẹp của quư vị được hoàn thành viên măn. Nguyện cầu tất cả thính chúng sớm đạt được Niết Bàn tối thượng.



BẤT BẠO ĐỘNG

Thật rơ ràng hôm nay chỉ có một số người đến đây nghe bài Pháp bất bạo động này. Tôi biết, “Bất Bạo Động” không phải là đề tài được ưa chuộng lắm. Bởi v́ nếu như tôi nói về một đề tài khác chắc chắn sẽ có 400 hay 500 người đến nghe, nhưng v́ đây là đề tài “Bất Bạo Động” chủ đề không hấp dẫn đối với số đông, bởi v́ chỉ có một số ít người có được tập khí từ bi vô lượng. Nếu đa số tràn ngập t́nh thương bao la th́ hẳn thế giới sẽ không c̣n chiến tranh nữa.

Vấn đề ăn thịt: ăn thịt là độc ác, thế nên ta đừng giết hại và xúi xử giết hại. Mua thịt cửa hàng tức là tạo nên những đồ tể. Bởi v́ cung cấp là một phần do yêu cầu. Loài chó ít khi bị giết v́ ít có người đ̣i ăn thịt chó. Người nào bằng ḷng giết hại, đánh đập, làm thịt, người nào mua, nấu phục vụ hay ăn thịt...Tất cả đều là kẻ sát nhân. Đây là lời của Hiền giả Manu, một triết gia Ấn Độ. V́ vậy mọi người đều là kẻ đồng lơa trong tṛ chơi chém giết, khởi đầu là người hàng thịt và kết thúc nơi người ăn thịt.

Có đoạn được chép trong Kinh, Đức Phật dạy: “Thuở xa xưa chỉ có ba chứng bệnh, nghĩa là dục vọng, đói khát và suy tàn. Tuy nhiên do sát hại loài vật mà ba chứng bệnh lần lần tăng lên măi. Thế nên chúng ta hăy tránh sát sanh, tránh tạo điều kiện cho sự giết thịt. Chúng ta hăy phản tỉnh–trở thành những người thọ trai suốt đời. Được vậy tất cả bệnh tật sẽ không c̣n hiện diện nhiều trên mặt đất trần gian này.

Vấn đề cần xét lại: có một tín điều chung trong các nước Phật Giáo là bất cứ ai cũng có thể ăn thịt miễn là vị đó không giết hại sinh vật bằng chính bàn tay của ḿnh. Nhưng không phải vậy, bởi v́ ăn thịt chính là nguyên nhân của sự giết thịt, nghề của đồ tể. Nếu chúng ta đều nhất trí ăn chay th́ những người bán thịt sẽ phải đóng cửa hiệu và chuyển đổi ngành nghề khác tốt đẹp, phước đức hơn. Do cứ tiếp tục ăn mạng chúng sanh nên khiến chúng ta cứ duy tŕ một lớp người hành nghề chém giết đáng thương đó. Thật là không công bằng chút nào khi ta cưỡng bức những tên đồ tể vào địa ngục chỉ v́ sự hưởng thụ khoái khẩu của chúng ta. Nếu chúng ta trở thành người ăn chay, lúc đó toàn thế giới sẽ sống ḥa b́nh. Có người lo cúng tế cho Thánh Thần, có người cúng tế cho bao tử của họ. Theo tôi, bao tử của họ chính là vị thần của họ, chúng ta hăy thực hành ḷng từ bi vô lượng, không thể phát biểu rằng: hăy để mọi chúng sanh an lạc. Bởi v́ ngưởi ăn thịt nói: “Cầu xin cho mọi chúng sanh an lạc”, trong khi vị đó đang nghiến thịt giữa hai hàm răng. Điều này quả là hoàn toàn ngụy đạo đức. V́ lẽ đó, nếu người ăn thịt muốn biện chứng sự cố trong khi ăn thực phẩm thịt, vị đó phải nói: “Nguyện cầu cho tất cả sinh vật được hạnh phúc, ngoại trừ những sinh vật mà tôi đang nhai nghiến trong răng”. Và tôi dám cam đoan rằng, tất cả sinh vật đang bị nhai nghiến không thể nào hạnh phúc được, hoặc không thể nào có an lạc khi chúng bị sát hại chỉ v́ những kẻ ăn thịt. Như vậy vị đó không thể nào thực hành ḷng từ bi khi vị đó c̣n ăn thịt, bởi v́ do ăn mạng của chúng sanh, vị đó tự động yêu cầu một phần tương xứng với thân mạng sinh vật trên thế gian này phải chết v́ họ. Đó là giáo điều vị kỷ mà người ta phải sống trên thịt da xương máu của kẻ khác. Khi một cây này sống nhờ một cây khác, nó được gọi là cây kư sinh. Tương tự khi một con vật sống nhờ con vật khác, nó được gọi là vật ăn bám. Một vương quốc không bao giờ sống tự ḿnh mà vương quốc lớn phải luôn luôn sống nhờ vào vương quốc nhỏ hơn, vương quốc thú vật sống nhờ vào vương quốc thực vật Nếu vương quốc thực vật sống nhờ vào chính ḿnh, kết quả là sự ăn bám.

V́ vậy mỗi người ăn thịt đều là kẻ ăn bám, bởi v́ họ sống nhờ vào nhân viên của vương quốc họ. Do đó chúng ta không nên sống kư sinh bằng cách ăn các món thịt, mà chúng ta phải ăn bằng các món chay vô hại và nhờ vậy tránh được mọi sứ phê phán làm tổn hại phước đức chúng ta.

Tinh thần Phật Ǵáo là tinh thần từ bi, từ bi, từ bi!! Bất Bạo Động là Giáo Pháp cao thượng nhất. Nếu bạn lật từng trang trong Đại Tạng, chúng ta sẽ thấy chữ TỪ BI được in ấn bằng chữ to trên mỗi trang giấy.

Ăn thịt làm cho con người thô bạo, hung dữ. Ăn rau làm cho con người hiền ḥa, trầm lặng. Tại sao ngoài mặt trận họ lại cấp thịt làm thức ăn cho chiến sĩ? Mục đích để làm cho họ sung sức, hung hăng thêm. Nếu các chiến sĩ được ăn chay, sẽ không c̣n chiến tranh bởi v́ họ không muốn gây hại cho ai giống như con linh dương. Hăy nh́n con nai, con cừu, con linh dương, chúng trầm lặng, hiền từ làm sao. V́ vậy chúng ta hăy giữ an lạc theo tự nhiên bằng cách nuôi mạng sống bằng thức ăn vô hại, tạo sự tĩnh lặng cho thân tâm. Người giết hại loài vật sẽ đưa đến giết hại loài người. Bởi v́ nếu chúng ta có thể giết hại một con ḅ th́ chúng ta cũng có thể giết hại một con người. Vậy tại sao chúng ta lại nô lệ cho cái lưỡi hay cái tâm? Thật không công bằng chút nào khi chúng ta lấy thịt của một con vật nào đó mà lại không xin phép con vật đó. V́ con ḅ là chủ nhân xương thịt của nó. Con cừu, con cá là chủ nhân xương thịt của nó. V́ vậy Phật dạy chúng ta không được lấy của không cho. Chúng ta phải được phép chấp thuận mới lấy vật đó, bằng không, nó trở thành lấy vật không cho. Nếu chúng ta muốn dùng thịt của một con vật, chúng ta phải nói: ông, bà X, Y vui ḷng cho chúng tôi thịt trên lưng ông, bà. Nếu con vật đồng ư cho phép và nói: “Lấy thịt ta đi”. Lúc đó chúng ta mới lấy thịt không bị phạm tội ăn cắp. Hăy chỉ cho tôi con vật nào cho phép bạn lấy thịt nó. Không bao giờ có được t́nh huống như vậy. Không thể nào được trừ phi con vật đặc biệt đó xuất hiện là một vị Bồ Tát. V́ vậy một con vật không bao giờ cho phép ta lấy thịt nó, th́ chúng ta chớ nên lấy mà không được sự đồng ư Chúng ta không bao giờ cho phép ḿnh phạm tội lấy cắp như vậy.

Đức Phật dạy: “Bạn có thể ăn thịt nếu bạn không trông thấy, không nghe, không nghi rằng con vật đó sở dĩ bị giết là v́ ḿnh. Hăy tin tôi, tôi không thấy, không nghe nhưng tôi luôn luôn nghi ngờ rằng con vật đó bị giết là v́ tôi, bởi v́ thịt đem cho người nào đó nên đồ tể mới ra tay sát hại những con vật này. Đồ tể không bao giờ giết con vật cho chính ḿnh. Họ giết cho người mua, người tiêu dùng. Bởi vậy bất cứ ai ăn thịt hay mua thịt chính là đối tượng khiến cho những con vật bị giết và vị đó đă sinh nghi và nghĩ rằng con vật đó bị giết là do ḿnh, vị đó chớ nên đụng vào. Do đó, theo lời Phật dạy, chúng ta thực hành Pháp “Bất Bạo Động” và không nên ăn thịt loài vật. Tại sao vậy? Bởi v́ như lời viết trong Kinh Pháp Cú: “Dưới làn roi, mọi loài đều run rẩy, mọi loài đều sợ chết. Hăy đặt ḿnh trong hoàn cảnh này, thế nên chớ giết, chớ bảo giết”. Đó là quy luật quư như vàng. (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân–điều ḿnh không muốn chớ phiền người khác). Bạn cảm thấy thế nào khi bị người khác ăn thịt bạn? Bạn cảm thấy không được yên vui. V́ vậy nên đặt ḿnh trong t́nh huống này. Chúng ta chấm dứt việc ăn thịt. Nếu bạn thực hiện Pháp Bất Bạo Động với ḷng nhân từ, độ lượng, mạng sống của bạn sẽ được trường thọ, bởi v́ do bạn muốn kéo dài sinh mạng của người khác, đương nhiên bạn kéo dài tuổi thọ của ḿnh. Đây là quy luật nhân quả vô song muôn đời.

Trong một bài Kinh, một đệ tứ hỏi Đức Phật: “Tại sao có số người sống lâu, c̣n số khác lại yểu mạng”. Đức Phật trả lời: “Những người sống lâu v́ họ luôn luôn kéo dài mạng sống của loài vật, không giết hại chúng. C̣n những người yểu mạng là do liên tục đoản mạng loài vật bằng cách giết hại và ăn thịt chúng”. V́ vậy nếu bạn muốn sống lâu, hăy tránh việc sát sanh, tránh bảo người khác giết. Nhiều người muốn hy vọng sống lâu, hy vọng cải lăo hoàn đồng bằng cao cốt con khỉ hoặc nhiều cách giải phẫu khác. Nhưng những cách giải phẫu này đều bất nhân, vô ích. Bạn sẽ sống lâu nếu bạn chỉ cần cho phép mọi sinh vật sống lâu bằng cách đừng quấy rầy, sát hại chúng, đừng rút ngắn mạng sống của chúng để ăn thịt.

Tại sao ta lại làm nô lệ cho cái lưỡi. Cái nào mạnh hơn? Cái lưỡi và cái tâm. Hăy nhớ rằng cũng v́ hai tấc lưỡi mà người ta ăn nuốt không chính đáng. Theo Phật Giáo cảm giác chỉ là một niệm tưởng, nếu bạn đặt một miếng thịt nhỏ trên lưỡi th́ lưỡi sẽ không hề biết có thịt ở đó. Thịt cũng không biết có thịt ở đây. Vậy th́ ai biết thịt ở trên lưỡi? Đó là tâm. Nhớ rằng cảm thọ chỉ là một ư tưởng, và v́ là một ư tưởng nhỏ nhoi nên người ta ăn nuốt không chính đáng. Nhưng ư tưởng là ǵ?. Ư tưởng là một năng lượng tâm linh nhỏ bé. Tại sao người ta phải làm điều không chính đáng v́ một ư tưởng gọi là năng lượng tâm linh? Nếu người nào muốn ăn thịt, bảo anh ấy hăy ăn thịt chính ḿnh. Chúng ta sẽ không phạm tội lấy vật không cho. Nếu chúng ta cắt lấy một miếng thịt nơi tay hay chân chúng ta bởi v́ nó thuộc tài sản riêng của chúng ta và chúng ta có thể ăn thịt của chính ḿnh mà không bị phạm tội lấy vật không cho. Đây là cách lập hạnh tốt đẹp để trở thành người ăn chay. Hăy nhớ rằng thịt mau hư thối và hay gây bệnh. Gần một phần năm sinh vật bị giết đều gây bệnh, ăn cá tạo nên bệnh ung thư, viêm ruột thừa.v.v...

Ở bên Mỹ có một nơi mà trẻ em mới sinh được giải phẫu để cắt đi khúc ruột thừa. Tại sao vậy? V́ người Mỹ tin rằng nếu lấy ruột thừa của em bé ngay từ lúc đầu th́ tốt hơn là để các em lớn lên cứ lo sợ ḿnh vẫn c̣n ruột thừa. Không phải là kinh hoàng sao nên một trẻ em mới vào đời liền khóc la như cảm nhận được nỗi khổ đầu tiên, nó phải chịu giải phẫu y học ngay lúc mới sinh ra? V́ vậy nếu trẻ em buộc trở thành người ăn chay và ăn chay suốt cả đời, chúng không c̣n lo sợ về ruột thừa. Và các cuộc giải phẫu y học chắc bị thặng dư.

Khi một con vật tự nhiên chết, người ta chôn ngay xuống đất. Nhưng khi nó chết không b́nh thường bằng con dao của đồ tể, con vật đó được chôn ngay trong bao tử của chúng ta. Thế nên bao tử của chúng ta đều là những nghĩa trang và con người là những nghĩa trang biết đi. Thật là buồn cười, dù bao tử kích thước quá nhỏ nó vẫn có khả năng chôn được quảng đời 60 năm không kém 200.000 sinh vât. Ư muốn nói 200.000 sinh vật được chôn trong một bao tử nhỏ xíu khoảng 60 năm. Bao tử con người là băỉ tha ma lớn nhất trên thế giới. Tại sao chúng ta lại trở thành những nghĩa trang biết đi của 200.000 xác chết sinh vật? Mọi chúng sinh đều là bà con của chúng ta. Tất cả cuộc sống là một. Ở đây bản thống kê cho thấy rằng 200 ngàn sinh vật được chôn trong bao tử trong quảng đời duy nhất. Người ta tiêu thụ 20.000 chim, 60.000 trứng sắp nở, 120.000 cá, 3000 loài vật khác, tổng kết thành 203.000 sinh vật. Thế nên nếu ta biết tự trọng, nếu ta có một chút cảm xúc về tâm từ th́ ta nên từ bỏ ham muốn ăn thịt để cứu vớt mạng sống của 200.000 sinh vật Nếu hôm nay một người độc thân nào phát nguyện ăn chay th́ chính nhờ giảng bài Pháp này mà chúng ta cứu sống được 200.000 sinh vật. Nếu 20 người phát nguyện ăn chay th́ chúng ta cứu sống được 400 ngàn sinh vật. Nếu có 100 người phát nguyện ăn chay, chúng ta sẽ cứu mạng được 20 triệu sinh vật. V́ vậy chúng ta hăy hy vọng rằng hạt giống nhỏ mà chúng ta gieo trồng hôm nay sẽ chín muồi và phát triển kết thành quả Bất Bạo Động cứu vớt bao sinh linh đang gần gũi chúng ta.

Bất cứ khi nào ta ăn, nên nhớ rằng đói khát là một chứng bệnh và thức ăn là dược thực sẽ tạm thời làm êm dịu bệnh đói. Chúng ta phải nhớ: ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Chúng ta ăn cốt để duy tŕ sự sống, để bước đi trên Đạo lộ BÁT CHÁNH đưa thẳng tới Niết Bàn.

Cá lớn nuốt cá bé. Họ nói rằng Chúa tạo ra loài vật để cho con ngườ́ dùng, nhưng thực sự đây là giáo thuyết vị kỷ. Nếu tôi là con vật và được nói rằng Chúa sinh ra tôi cho bao tứ của con người, làm thế nào tôi vẫn yêu vị Chúa đă tạo ra tôi để phục vụ cho bao tử của người khác. Một người sáng thế như vậy không thể nào có được t́nh thương thuần tịnh giải thoát được. V́ vậy thật là sai lầm nói rằng những sinh vật được tạo ra cho bao tử chúng ta. Những con vật được tạo ra để sống với kiếp sống b́nh thường, giống như chúng ta được sinh ra để sống một cuộc sống b́nh yên. Đức Phật dạy: “Khó có thể t́m được một sinh vật nào đó, chưa từng là cha, mẹ, anh, chị, em vào một thời điểm này hay khác”. Bởi v́ chúng ta vẫn đến từ vô lượng kiếp, mọi h́nh thái kết hợp có thể xảy ra; do vậy mà giờ đây khó có thể t́m được một sinh vật nào chưa từng là bà con ḿnh trong quá khứ. Đây là cơ hội, hăy nhớ rằng bất cứ lúc nào bạn ăn thịt tức là bạn nhai thịt của người nào đó là họ hàng bà con trong kiếp trước, và thật là sai lầm bất nhân khi phải sống trên xương thịt của kẻ khác giống như loài ăn thịt người.

Chúng ta ăn rau trong sạch chứ không dùng thịt bất tịnh. Vào mùa khí hậu nóng, thịt bị hư thối rất mau. V́ vậy đặc biệt ở vùng nhiệt đới, chúng ta nên sống bằng thức ăn chay, nó hư thối chậm hơn so với thức ăn thịt, bởi v́ thức ăn hư thối dễ gây bệnh. Những độc tố ngấm vào máu và vận chuyển khắp cơ thể làm xáo trộn các bộ phận. Có một số người ăn thịt thực sự đă nói an ủi ḿnh rằng Đức Thế Tôn tịch diệt là do ăn thịt heo. Điều này quả là nhận xét sai lầm. Đức Phật được gọi là đấng Đại Từ Bi, Ngài thọ trai suốt đời, làm sao Ngài có thể tịch diệt bằng món thịt heo được, không bao giờ xảy ra. Thật là vô lư khi nghĩ rằng Đấng Từ Bi hằng nêu gương phạm hạnh lại ăn thịt heo ở tuổi đời sau cùng. Ngài thọ trai đến suốt đời và tịch diệt do một số nấm độc.

Một lần khi đang du hành trên đường biển, vị thuyền trưởng nói với tôi: “Chúa tạo nên loài cá dưới biển. Vậy th́ có hại ǵ khi ta ăn cá?” Tôi trả lời rằng: “Chúa tạo nên loài cọp trong rừng, vậy th́ có hại ǵ khi cọp ăn thịt vị thuyền trưởng chiếc tàu này”. Một hôm có một nông gia người Mỹ ngồi trên xe ḅ do hai con ḅ kéo. Anh ta có tà kiến cho rằng xương thịt khỏe mạnh là do ăn thịt nhiều. Trong khi đang tư duy với ư niệm của ḿnh, hai con ḅ bỗng nhảy giật lên, vị nông gia gần rớt khỏi chỗ ngồi. Lúc đó anh ta chợt nhận ra những con ḅ có xương to khỏe này có được là do ăn cỏ. V́ vậy cỏ là sản phẩm thực vật đă tạo cho loài ḅ có xương to chứ không phải thịt. Thế nên xương khỏe không phải do ăn thịt mà do ăn cỏ, ăn rau.

Đạo sĩ Krishanandji có kinh nghiệm với các loài sư tử con. Ngài thấy rằng do nuôi chúng bằng thực phẩm cơm và lúa th́ chúng mau lớn, hoàn toàn dễ thuần phục và không có tính hung dữ. Bằng chứng là Ngài ra thị trấn Vicely với một trong những con sư tử của ḿnh, ngồi trên xe do Ngài kéo đưa đi tham quan tại vườn thượng uyển Thái Lan. Bạn thấy đó, ăn chay có thể chuyển hóa sư tử con thành con vật hiền lành. V́ vậy nếu bạn muốn tiến bộ ở đạo lộ cao hơn, bạn nên ăn chay. Điều đó sẽ giúp bạn tiến bộ tinh thần, bởi v́ đường đạo càng trèo lên cao càng gặp nhiều chướng ngại. Chúng ta không nên tạo thêm nhiều chướng ngại trên đường mà nên cố gắng làm cho cuộc hành tŕnh tầm đạo càng nhẹ nhàng càng tốt. Nhờ ăn chay, tất nhiên chúng ta tự giúp ḿnh được yên tịnh, trầm lặng và hưởng được sự b́nh tâm tự tại; đó là mục đích của Phật Giáo. Thế nên hăy làm cho ḿnh thanh tịnh không bị khởi dục bởi các món ăn kích thích. Cũng v́ sống trên xương thịt của chúng sanh, tất nhiên chúng ta làm tăng trưởng tư tưởng sân hận trong bản thân, làm bành trướng ư tưởng vị kỷ, sống bám vào xương thịt của kẻ khác. Nói một cách khác, nhờ sống bằng thực vật, chúng ta làm giảm đi tính ích kỷ, chúng ta bớt sân si, sung măn t́nh thương và thích phát huy nhân cách, v́ mục đích của loài người là làm thăng hoa nhân phẩm. Chúng ta là người thành công chỉ khi nào nhân cách chúng ta được phát huy, chúng ta sẽ thất bại chỉ v́ nhân cách chúng ta bị suy đồi. V́ thành công hay thất bại trong đời này được đo lường bằng sự thăng hoa hay suy đồi nhân cách. Không phải bao nhiêu tiền mà một người đó kiếm được mới gọi là thành công. Anh ta có thể kiếm được một triệu đô la mà vẫn là kẻ thất bại bởi v́ anh ta đă đánh mất nhân cách của ḿnh trong những mưu đồ t́m ra số tiền đó. Mặt khác, anh ta có thể đánh mất một triệu đô la mà vẫn là người thành công, v́ anh ta phát huy tốt đẹp nhân cách của ḿnh. Bởi v́ nhân cách là tài sản cao quư nhất của một người. Tôi nhớ rất rơ khi tôi c̣n là đứa bé trai 8 tuổi sống trong tổ ấm gia đ́nh, bất ngờ một con chim bồ câu ở đâu bay đến đậu vào tay tôi. Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy con chim bồ câu rất dễ thương đă thuần hóa. Tôi vui mừng đi xuống lầu báo cho cha mẹ tôi biết con chim bồ câu đẹp đó, v́ tôi không hề chờ đợi điều ǵ sắp xảy ra. Cha mẹ tôi bắt đầu phát lên nụ cười nham hiểm với ư nghĩ: “Đêm nay chúng ta sẽ có món ḿ ống bồ câu sốt cà ngon hết ư”. Tôi nào có biết, bởi v́ đây chỉ là một ư tưởng thoáng qua trong tâm và tôi không phải là người đọc được tâm. Trong thời điểm này mẹ tôi nhanh chóng bắt con chim bồ câu nhận nó ngay vào trong nước làm chết nghẹt con vật yêu quư của tôi. Khi tôi chứng kiến kẻ sát hại con vật, tôi vô cùng hốt hoảng. Đây là một bằng chứng nữa tôi đă là phật tử trong kiếp trước. Nhưng đây là một bằng chứng đáng chú ư. Tôi quá kinh hoàng kẻ sát hại con chim bồ câu của tôi đến nỗi tôi muốn chết thay cho nó. V́ vậy tôi bắt đầu nhịn ăn. Tôi nói với cha mẹ rằng tôi không ăn uống ǵ nữa cả. Tôi nói: “V́ mẹ đă giết con chim bồ câu của con, con sẽ đổi mạng con cho nó”. Cha mẹ nghĩ tôi nói đùa và cho rằng đây là lời dọa của con nít, nhưng tôi quyết giữ lời.

Một ngày trôi qua, tôi không ăn ǵ cả. Rồ́ ngày thứ hai, ngày thứ ba tôi không ăn ǵ cả dù tôi là trẻ em mới 8 tuổi Nhớ rằng trẻ em không sống lâu, nếu không ăn uống; trẻ em không phát triển được. Sau ba ngày, mẹ tôi phát điên lên v́ bà nhận ra đă không tác động ǵ được đến tôi. Tôi bỏ thói quen trở về nhà sau giờ học để dùng bữa ăn trưa như những trẻ khác. Tôi thường chờ qua giờ nghỉ trưa rồi trở lại trường mà không ăn ǵ. Mẹ tôi ra hiệu bánh mua bánh sữa nóng, bánh ngọt, chờ tôi đi học về để cho tôi. Bà bắt đầu năn nỉ, giọng rất thương tâm, bảo tôi ăn đi những chiếc bánh sữa nóng c̣n trong bao giấy. Tôi nói: “Không đâu! Con sẽ không ăn ǵ cả. Mẹ đă giết con chim của con, con phải chết thôi”. Bà bắt đầu khóc kể rất đau khổ. Và lúc đó khi nghe mẹ tôi khóc tội nghiệp quá, ḷng tôi trở nên mềm yếu. Lại nữa, bà đưa ra những chiếc bánh sữa nóng mà bản tính trẻ nít như tôi khó mà kháng cự được. Sau cùng tâm tôi đă tan dần v́ ḷng từ bi, v́ thương mẹ và cũng v́ cái bụng đói của tôi. Tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi! Mẹ đừng làm vậy nữa nhé !”. Mẹ tôi vui hứa: “Không! Mẹ sẽ không bao giờ tái diễn điều đó”. Và lần nữa tôi lặp lại: “Mẹ đừng bao giờ giết hại con vật nữa nhé”. Mẹ tôi trả lời: “Không đâu con, mẹ sẽ không bao giờ giết hại con vật nữa”. Mẹ tôi lặp lại lần thứ ba. Tôi nói: “Được rồi, mẹ đă hứa với con, con bỏ lỗi cho mẹ lần này”. Và rồi bà cho tôi những chiếc bánh sữa nóng, tôi bắt đầu ăn ngốn nghiến dữ dội...

Trước khi Đức Phật xuất hiện, Ấn Độ là một nước có nhiều người ăn thịt. Sau đó, Đức Phật ra đời, v́ ḷng từ bi của Ngài, Ấn Độ là một quốc gia từ bỏ ăn thịt. Cho đến ngày hôm nay, dù là Phật Giáo đă rời khỏi Ấn Độ, người dân Ấn vẫn thực hành pháp ăn chay. Vậy th́ Phật tử chúng ta sao lại không thể thực hành ăn chay như người Ấn Độ. Vua Asoka là vị Đại Hoàng Đế cũng đă trở thành người ăn chay khi Ngài được Phật Đạo chuyển hóa. Ngày xưa trước thời ASOKA, loài ḅ bị giết bán nhưng suốt thời đại ASOKA, giết ḅ được coi là một xúc phạm lớn đối với Thánh Thần. Đó là lư do ở Ấn Độ hôm nay, ai giết ḅ bị người Ấn Độ nh́n với con mắt căm ghét, v́ họ coi ḅ như bà mẹ của họ. Khi ăn thịt, chúng ta phải nhai kỹ thức ăn. Người đó sống trường thọ là do ăn ít. Người nào ăn quá nhiều như vậy sẽ bị giảm thọ. Thức ăn cũng nên đơn giản. Hăy ngắm trẻ em mới sinh, chúng chỉ sống nhờ sữa. Nó mau lớn làm sao. Thế nên thức ăn cần giản dị để các hóa chất sinh lư trong nội tạng của chúng ta có thể phân tán những hợp chất thức ăn một cách an toàn không gây nguy hiểm.

Tôi sung sướng v́ đă xuất gia, được miễn đi bầu cử hay đóng thuế. Vậy nên khi một tội ác nào do nhà nước tạo ra, chẳng hạn như tuyên bố chiến tranh hay xử treo cổ tội nhân. Những sai trái này không trút lên vai tôi, v́ tôi đă ở ngoài thế gian. V́ thế tôi không chia sẻ phần sai lầm nào do luật pháp h́nh thành. Quy luật nhân quả là quan ṭa công minh nhất và sẽ xử tử bất cứ khi nào cần thiết. Con người chỉ là nhân vật xét xử tầm thường, có thể thường gặp sai lầm, và một khi con người vô tội bị treo cổ, người này không thể lấy mạng lại được, con người làm quan ṭa thường xử sai lầm. Luật nhân quả mới không sai lầm và không bao giờ tạo nên lầm lỗi. Tội giết người thường bị vi phạm là do ảnh hưởng của dục vọng, và kẻ sát nhân không bao giờ chùn bước v́ sợ tử h́nh. Từ đó tội tử h́nh nhằm làm thối chí tội ác không thàng công trong mục đích của nó nên tội tử h́nh cần dẹp bỏ.

Đức Phật là người đứng gần ta sau cùng không hề tạo nên một ngoại lệ nào cho cluy luật nhân quả. Lầm lỗi là con người, tha thứ là thánh thần. Đức Phật dạy ḷng bao dung tha thứ chớ không phải gieo oán kết thù. Mắt đổi mắt, răng đổi răng, mạng đổi mạng. Đó là quy luật của những người dă man kém văn minh.

Trong nhà tù, kẻ sát nhân có thể phát triển thành một vị thánh. V́ vậy không cần phải giết anh ta. Chúng ta không nên giết những người đang đau khổ v́ chứng ung thư thể xác. Tại sao chúng ta lại giết những tội nhân đó khi họ đang đau khổ v́ ung thư tâm hồn. Chúng ta kỳ thị và cô lập kẻ ung thư tâm hồn–những tội nhân? Chúng ta hăy gởi họ ra côn đảo thật xa, nơi mà họ không thể làm nguy hại cho xă hội. Ở đó, họ có thể kiếm sống, họ không c̣n là gánh nặng cho xă hội và họ sẽ được cải tạo tốt đẹp. H́nh phạt tử h́nh dập tắt t́nh thương và một khi t́nh thương không c̣n nữa th́ ḥa b́nh cũng đi luôn. V́ thế có chiến tranh. Thù oán đưa đến chiến tranh, tha thứ đưa đến ḥa b́nh. Chúng ta hăy xóa bỏ án tứ h́nh để măi măi tận hưởng ḥa b́nh thế giới. Có nhiều nước Thiên chúa giáo đă xóa bỏ án tử h́nh. Họ thấy họ có thể chuyển hóa một cách toàn hảo mà không cần có biện pháp tử h́nh. Vậy th́ tại sao các nước Phật Giáo chúng ta lại không thực hiện được tương tự như vậy. Người ta luôn luôn có thói quen đổ lỗi cho ngựi khác. Đây là bản tính của con người. Chẳng hạn người phụ trách treo cổ, anh ta không chịu trách nhiệm việc treo cổ cho con người. Vậy th́ ai chịu trách nhiệm? Cai tù bảo tôi lấy dây, cai tù lại nói rằng anh ta không chịu trách nhiệm. Vậy th́ ai? Ṭa tối cao ra lệnh cho vị đó bị treo. Nếu chúng ta hỏi ṭa tối cao, vị đó sẽ nói ngài không chịu trách nhiệm. Vậy th́ ai? Những nhà làm luật! Nếu chúng ta hỏi những nhà làm luật, họ trả lời họ không chịu trách nhiệm. Những nhà làm luật trả lời: “Đó là bổn phận của chúng tôi để bảo vệ xă hội thoát khỏi bàn tay những kẻ sát nhân”. Tôi ứng phó nghiêm túc: “Nhưng chúng tôi c̣n có khả năng bảo vệ xă hội tốt đẹp nếu chúng tôi gởi tội nhân ra côn đảo. Và lúc đó họ giữ im lặng. Hăy nhớ rằng nếu vị toà tối cao độc nhất nào phải kéo sợi dây bằng chính bàn tay ḿnh, chắc chắn ông ta không bao giờ tuyên án một tội nhân bị tử h́nh. Nhưng giản dị chỉ v́ ṭa tối cao có thể luôn luôn t́m thấy các ác quỷ đáng thương kéo dây treo cổ thay thế cho ḿnh, c̣n vị quan ṭa, ông ta dửng dưng lặng lẽ ngồi dựa lưng trên chiếc ghế bành êm ái với giọng nói hoàn toàn khác thường, phát âm câu nói đầy tàn ngược: “Hắn sẽ bị treo cổ cho đến khi chết”. Và sau khi tuyên đọc những lời nói khủng khiếp như vậy, quan ṭa về nhà chơi quần vợt hay giải trí khác với vợ con, hoàn toàn không quan tâm hay suy nghĩ ǵ về hành động độc ác mà ông đă làm trong ngày hôm ấy.

Đến đây, nhờ quả lành vô lượng mà tất cả quư vị đă đạt được hôm nay do kiên tŕ lắng nghe bài Pháp khá dài này. Nguyện cầu tất cả quư vị hoàn thành viên măn tinh thần Bất Bạo Động thù thắng mà Đức Thế Tôn đă từ bi khai thị. Cầu mong tất cả thính chúng sớm an tịnh tâm thức và chứng đắc Niết Bàn tối thượng.

Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
Hoangdat
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 109
Msg 4 of 8: Đă gửi: 17 March 2006 lúc 7:08am | Đă lưu IP Trích dẫn Hoangdat

Cám ơn tác giả tranthanh03
Đọc những bài pháp này ko mệt chút nào
Rất sâu sắc .


"Đức Phật dạy: “Bạn có thể ăn thịt nếu bạn không trông thấy, không nghe, không nghi rằng con vật đó sở dĩ bị giết là v́ ḿnh. "

Hôm nay tôi mới hiểu được ư nghỉa lời dạy trên của Đức Phật .chỉ khi nào ḿnh thật sự ko ăn .mới có thể nghi rằng con vật đó ko phải v́ ḿnh mà nó bị giết.

Chúc tác giả thân tâm an lạc


Quay trở về đầu Xem Hoangdat's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Hoangdat
 
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 5 of 8: Đă gửi: 17 March 2006 lúc 8:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

"Tất cả không là chơn
Đừng mong thấy là chơn
Nếu như thấy là chơn
Đều là kiến, không chơn
Nếu tự đắc được chơn
Ĺa giả, tức chơn tâm
Tự tâm không ĺa giả
Không chơn, đâu là chơn
Hữu t́nh ắt biết động
Vô t́nh không biết động
Nếu tu hạnh bất động
Bất động giống vô t́nh
Nếu ngộ chơn bất động:
Là bất động trên động
Bất động là không động
Vô t́nh vô Phật chủng
Khéo phân biệt cạc tướng
Đệ nhất nghĩa bất động
Nếu ngộ được điểm này
Đó là chơn như dụng
Nhắc các người học đạo
Phải nỗ lực dụng tâm
Đừng nơi Đại thừa pháp
Chấp trước sanh tử trí
Tương lai gặp người hợp
Phải cùng luận lời Phật
Nếu thật người không hợp
Chắp tay khuyên làm thiện
Giáo này vốn không tranh
Tranh tức mất ư đạo
Chấp mê tranh pháp môn
Tự tánh nhập sanh tử".

Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 
saodem
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 18 January 2006
Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 36
Msg 6 of 8: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:11am | Đă lưu IP Trích dẫn saodem

PHÁP TU CĂN BẢN CỦA HỆ NAM TÔNG VÀ PHÁP TU CĂN BẢN CỦA HỆ BẮC TÔNG
(TTT)




Hôm nay, tôi giảng buổi cuối năm với đề tài Pháp tu căn bản của hệ Nam tông và pháp tu căn bản của hệ Bắc tông. Qua đó, đối chiếu cho quí vị thấy mỗi phái có một hướng nh́n khác nhau, v́ vậy chia thành Nam tông, Bắc tông riêng khác.

Hệ Nam tông lấy Tứ đế làm pháp tu căn bản. Trong Tứ đế, phần Đạo đế tức ba mươi bảy phẩm trợ đạo, th́ Bát chánh đạo là phần căn bản tu hành. Bắc tông có nhiều pháp nhưng lấy Lục độ làm căn bản tu hành. Như vậy chúng ta đối chiếu pháp Lục độ của Bắc tông và Bát chánh đạo của Nam tông, để thấy tinh thần khác nhau của mỗi bên.

Nói về Nam tông, Bát chánh đạo là pháp căn bản, v́ vậy người tu phải nắm vững pháp này. Tôi hiểu và dịch Bát chánh đạo là tám đoạn đường ngay thẳng đưa chúng ta đến Niết-bàn. Tám đoạn đường chớ không phải tám nẻo đường. V́ mỗi một đoạn đường là một chặng, chúng ta đi từ chặng số một đến chặng số hai số ba, cuối cùng đến chặng số tám th́ viên măn sự tu hành, tức viên măn con đường đi đến Niết-bàn. Cho nên tôi gọi là tám đoạn đường đưa đến Niết-bàn.

Tám đoạn đường đó là ǵ ? Thứ nhất là Chánh kiến, thứ hai là Chánh tư duy, thứ ba là Chánh ngữ, thứ tư là Chánh nghiệp, thứ năm là Chánh mạng, thứ sáu là Chánh tinh tấn, thứ bảy là Chánh niệm, thứ tám là Chánh định.

Chánh kiến là nhận định đúng đắn chân chánh. Nhận định đúng đắn từ đâu mà ra, hàng phàm phu có nhận định này không, muốn có chánh kiến phải làm sao ? Chỗ này lâu nay nhiều người lúng túng khi nghiên cứu nó. Ai cũng có thể nhận định thế này thế kia, nhưng làm sao biết đó là nhận định đúng đắn. Nếu không nắm vững chỗ này, tự nhiên chúng ta sẽ lúng túng, không biết thế nào là nhận định đúng đắn, tư duy đúng đắn. Nếu nhận định sai lầm th́ tư duy cũng sai lầm. Vậy nhận định đúng đắn phát nguồn từ đâu ?

Chúng ta nhớ trong Tam tuệ học, thứ nhất là Văn tuệ. Có Văn tuệ rồi mới tới Tư tuệ. Ở đây cũng vậy, muốn có nhận định đúng đắn trước hết phải học Kinh tức lời Phật, Tổ dạy. Nhờ học kinh, chúng ta thấm nhuần giáo pháp chân chánh, từ đó nhận định mới đúng, tư duy mới đúng. Đó là điều hết sức rơ ràng. Nếu không học kinh Phật th́ khó có chánh kiến được. Pháp tu này thuộc về Thanh văn thừa, nên bước đầu là nghe lời Phật dạy. Văn là nghe, thanh là âm thanh, nghe được âm thanh Phật dạy mới thấu hiểu. Nhờ thấu hiểu mới có trí tuệ nhận định đúng đắn.

V́ vậy muốn tu theo Nam tông, trước hết chúng ta phải học kinh tức có Văn tuệ, rồi mới đến Tư duy tuệ, và sau cùng là Tu tuệ. Thế nên Văn tuệ là bước đầu để có Chánh kiến. Chúng ta tu, làm việc, phải có nhận định đúng đắn mới suy nghĩ đúng đắn. Suy nghĩ đúng đắn mới có ngôn ngữ đúng đắn, tức Chánh ngữ.

Suy nghĩ đúng là suy nghĩ như thế nào ? Có phải suy nghĩ làm ăn thế này mau giàu, thế kia mau phát tài không ? Không phải vậy. Giáo lư căn bản trong hệ A-hàm luôn chỉ cho chúng ta thấy tất cả pháp là vô thường, khổ, không, vô ngă. Nghĩ như thế là suy nghĩ đúng với những ǵ Phật dạy. Đó là Chánh tư duy. Nhờ có chánh kiến nên mới có Chánh tư duy.

Suy nghĩ đúng rồi, chúng ta nói năng hay dạy bảo ai cũng đúng với chánh pháp của Phật dạy, đó là Chánh ngữ. Hành động đúng như chánh pháp là Chánh nghiệp. Sống cuộc đời an lành giải thoát không bị các nghiệp ác trói buộc là Chánh mạng. Từ Chánh mạng chúng ta cố gắng tinh tấn tiến lên là Chánh tinh tấn. Từ Chánh tinh tấn, chúng ta chuyên tâm niệm các pháp như Tứ niệm xứ… là Chánh niệm. Có Chánh niệm mới đi tới Chánh định. Trong chánh định, định cuối cùng là Diệt tận định. Được Diệt tận định, cũng gọi là Diệt thọ tưởng định, tức giải thoát sanh tử chứng Niết-bàn.

Ngoại đạo cũng có những thứ định như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ, nhưng không có Diệt tận định. Chỉ những người tu Phật, sắp chứng A-la-hán mới đi tới Diệt tận định. Diệt tận định th́ nhập Niết-bàn, vô sanh, giải thoát sanh tử.

Cho nên Chánh kiến là chặng đường ban đầu, chặng đường học Phật. Chúng ta học được chánh pháp của Phật, hiểu đúng rồi mới suy nghĩ đúng. Nhưng không phải học như con vẹt, học rồi c̣n suy gẫm, t́m hiểu. Suy gẫm thấy đúng chúng ta mới có lời nói và hành động đúng. Người đến với đạo Phật, tu theo Thanh văn th́ sở nguyện phải chứng quả Niết-bàn, giải thoát sanh tử. Muốn thế cần có đủ tám điều này: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Mỗi một điều là một chặng đường. Đó là đại cương giáo lư căn bản của hệ Nam tông.

Bắc tông th́ lấy Lục độ làm căn bản. Lục độ tức sáu điều cứu thoát: Bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Sáu điều này có công năng chuyển dở xấu thành hay tốt nên gọi là Lục độ. V́ vậy dùng Lục độ để độ lục tệ. Lục tệ tức là sáu điều xấu: san tham, phá giới, sân nhuế, giải đăi, tán loạn, ngu si. Bố thí độ san tham, tŕ giới độ phá giới, nhẫn nhục độ sân nhuế, tinh tấn độ giải đăi, thiền định độ tán loạn, trí tuệ độ ngu si. Kiểm lại chúng ta có đủ cả sáu tệ, cho nên phải dùng Lục độ để cứu ḿnh từ xấu tệ trở thành hay tốt.

Tôi sẽ đối chiếu Bát chánh đạo của Nam tông và Lục độ của Bắc tông cho quí vị thấy. Bát chánh đạo mở đầu là chánh kiến, c̣n Lục độ mở đầu là bố thí. Hai bên khác nhau thế nào ? Nam tông là phải thấy đúng như chánh pháp của Phật, c̣n Bắc tông đầu tiên phải có đủ ḷng từ bi. Có từ bi mới bố thí, không có từ bi làm sao bố thí.

Như vậy với Bắc tông, bước đầu phải có ḷng từ bi thương người. Bởi thương người nên ai khổ ḿnh giúp, ai đói ḿnh cho cơm gạo. Nhưng đói có đói của thân và đói chánh pháp. Người muốn nghe chánh pháp mà không được nghe là đói chánh pháp, hạng này phải bố thí chánh pháp. Đói cơm th́ cho cơm, đói pháp th́ cho pháp, nên nói bố thí tài, bố thí pháp. Bố thí pháp thuộc về tinh thần, bố thí tài thuộc về vật chất. Người cần những điều thiết yếu nào chúng ta giúp thứ ấy, đó là tâm bố thí. Tâm bố thí đó phát nguồn từ ḷng từ bi. Do thương người nghèo thiếu, ta chịu không nổi nên cứu giúp.

Bố thí trừ bệnh bỏn sẻn tham lam. Ta có tiền của, người ta đói không cho là bỏn sẻn. Ta biết pháp biết đạo, người ta thèm khát muốn được nghe, mà không chịu giảng dạy là bỏn sẻn. Cho nên nhờ có tâm từ bi, chúng ta giúp người bằng những phương tiện vật chất cho người được an ổn. Kế đến giúp phần tinh thần là chánh pháp. Như vậy là chúng ta tu hạnh bố thí, để tiêu diệt ḷng tham lam.

Ví dụ quí Phật tử mỗi tháng làm được một triệu bạc, nuôi sống ḿnh khoảng bảy tám trăm, c̣n dư vài trăm. Có người đói thiếu quá, họ cần một trăm để qua cơn đói, ḿnh nghĩ sao ? Ta dư để dành khi bệnh hoạn có tiền xài nên không giúp. Như vậy là tâm keo kiệt, ích kỷ chỉ biết nghĩ tới ḿnh. Ta chưa đau đă lo để dành, người ta đói không thèm cho. Người đang đói và ḿnh chưa đau, việc nào cần hơn ? Cứu người hết đói là một nhu cầu cấp bách. C̣n ḿnh chưa đau mà để dành th́ xa quá, như vậy là ích kỷ, keo kiệt rồi. Ta có dư, thấy người khác đang cần ḿnh giúp. Nhờ thế tâm tham lam của ḿnh không c̣n. Nếu cứ lo để dành, tích lũy hoài, được một đ̣i hai, được hai đ̣i ba, cho tới trăm ngàn muôn ức, để dành hoài không chán, đó là đại tham. Nên bố thí để diệt tâm tham lam keo kiệt. V́ vậy nói bố thí độ san tham. Đó là pháp tu thứ nhất của Lục độ.

Thứ hai, Tŕ giới độ phá giới. Nghĩa là chúng ta giữ giới để tiêu diệt lỗi phá giới của ḿnh. Bởi v́ người tu thọ giới rồi, tuy có giữ nhưng tương đối thôi, chứ không trọn vẹn tuyệt đối. Thí dụ hàng xuất gia thọ Sa-di, chiều Phật không cho ăn cơm. Nhưng đói quá cũng lén ăn cháo hoặc mua bánh ḿ, như vậy có phá giới không ? Có. C̣n hàng cư sĩ tại gia có giữ tṛn năm giới không ? Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Giả sử giữ được các giới khác, nhưng tới giới nói dối th́ sao ? Nhiều Phật tử làm ăn buôn bán bảo muốn có lời phải nói dối, như vậy có phá giới không ?

Quí vị mới thấy chúng ta thọ giới của Phật là để khuôn ḿnh trong ṿng đạo đức, để thoát khỏi những khổ đau, nhưng thật sự chúng ta khuôn trong đó không nổi, nên cứ xé rào hoài. Xé rào gọi là phá giới, v́ giới là hàng rào. Thường trong luật dạy “pḥng phi chỉ ác” tức là ngừa đón lỗi lầm, xấu ác. Cho nên giới là hàng rào bao bọc để chúng ta đừng rớt vào hố tội lỗi. Nhưng nếu ḿnh xé rào th́ phải rớt thôi.

Phật v́ thương nên dạy chúng ta tu để đạt được bản nguyện giải thoát sanh tử, chấm dứt khổ đau. Nhưng chúng ta tu th́ tu, mà những điều Phật răn Phật cấm cũng cứ lén lén làm. Lén lén chứ không phải công khai, song cũng gọi là phá giới. Phá giới th́ nhất định rơi vào hố tội lỗi. Bởi giới này phá được th́ giới khác cũng phá. Như phá giới nối dối được, lâu lâu có tiệc tùng ai mời uống rượu, ḿnh tự nghĩ uống chút chút chắc không sao, nên phá thêm giới thứ hai nữa. Đó là lư do khiến chúng ta rơi vào hố tội lỗi.

Giới là nền tảng bảo bọc chúng ta không rơi vào tội lỗi. Nếu người tu rơi vào tội lỗi th́ làm sao bố thí lợi ích chúng sanh. Cho nên muốn bố thí tốt chúng ta phải giữ giới, giữ giới th́ không có lỗi phá giới. Cho nên độ thứ hai là tŕ giới.

Thứ ba là Nhẫn nhục. Trong chúng ta có ai không nóng giận đâu. Nóng giận là bệnh phổ thông, ai cũng có hết. Bởi vậy Phật dạy phải tu nhẫn nhục để trị bệnh nóng giận, nên nói nhẫn nhục độ sân nhuế. Bố thí phá được tệ tham lam, giữ giới phá được tệ phá giới. Nhẫn nhục phá được tệ nóng giận. Ai cũng biết nóng giận là tệ, nhưng sao lại chứa, nó là tệ th́ bỏ đi.

Chúng ta thường tự cho rằng ḿnh làm chủ ḿnh, vậy những ǵ tệ sao không đuổi nó ra, những ǵ tốt mới nên nuôi dưỡng. Ḿnh làm chủ mà cái tệ th́ chứa, như vậy ông chủ này đă dung ăn trộm trong nhà. Nóng giận là tệ mà chúng ta dung dưỡng th́ làm sao về Cực Lạc, làm sao được Niết-bàn. Muốn được Niết-bàn, muốn về Cực Lạc phải bỏ nóng giận. Muốn bỏ nó phải có phương pháp. Phương pháp ấy là nhẫn nhục.

Sao gọi là nhẫn ? Không giận là nhẫn. Làm sao để không giận ? Ví dụ người ta chửi ḿnh, lúc đó chúng ta nổi nóng lên miệng sắp la. La th́ hiền hay dữ. Vừa nổi nóng lên mở miệng nói là dữ. Bây giờ muốn nhịn làm sao đây ? Có người bảo nóng, uống ly nước lạnh cho nó mát lại. Như vậy được chưa ? Uống vô mát, một lát nóng lại nữa th́ sao ? Chẳng lẽ uống cả chục ly nước sao, như vậy chắc bể bụng. Có người bảo nóng quá niệm Phật. Niệm Phật một hồi hết niệm, nhớ lại nổi nóng nữa. Như vậy niệm Phật th́ bớt, buông ra th́ nóng lại. Đó là điều rất khó giải quyết.

Theo tôi th́ thế này. Có hai trường hợp, khi chúng ta nổi nóng lên trước nhất là phải nhịn. Làm sao để nhịn ? Lúc đó quí vị thử đọc câu thần chú này “Nói là dại, nhịn là khôn”. Nghĩa là khi nóng trong bụng quá, sắp la th́ đọc câu thần chú trên. “Nói là dại, nhịn là khôn”… đọc một hồi quên giận. Chớ lúc đó mở miệng ra th́ nói bậy, nói bậy là gây chuyện thương tổn với nhau, là dại rồi.

Đọc như thế để qua cơn nóng, nhưng muốn tẩy hết nóng giận phải khởi “Quán Từ Bi”. Quán từ bi là quán thế nào ? Ta nên xem xét như vầy, người đang nổi nóng chửi ḿnh, gương mặt dễ thương không, lời nói dễ nghe không ? Mặt họ đỏ, miệng nói bậy. Mặt đỏ nói sàm có phải là người điên chưa ? Họ đang điên.

Chúng ta khởi nghĩ họ đang bệnh, đang điên cuồng; mà người bệnh, người điên cuồng đáng thương hay đáng giận ? Ḿnh tỉnh sáng, người ta bệnh th́ phải thương mà tha thứ họ. Như vậy nhờ khởi ḷng từ bi, chúng ta bỏ qua được hết. Chứ cứ nghĩ họ nói như thế là gác ḿnh, nói nặng ḿnh th́ không bao giờ bỏ được. Nghĩ tới họ là người đáng thương nên hết giận luôn. Đó là lấy nước từ bi tẩy sạch lửa hận trong tâm ḿnh, không trách, không hờn ǵ cả.

Cho nên đối trị nóng giận, trước dùng nhẫn nhục cho qua cơn, đừng nói bậy. Qua cơn nóng giận rồi phải khởi quán từ bi để dẹp sạch ḷng nóng giận. Đó là chúng ta khéo tu, biết tu. Đa số người tu nghe nói nhịn không biết nhịn làm sao ? Có người nhịn và bảo “tôi nhịn một lần rồi nghen”, người kia vẫn tiếp tục mắng chửi th́ bảo “tôi nhịn hai lần rồi nghen”, tới lần thứ ba hết nhịn nổi th́ nổ tung. Như vậy chỉ là kềm chế, chứ chưa biết nhẫn. Kềm chế th́ có giới hạn, tới mức nào đó chịu hết nổi th́ nổ tung. Cho nên chúng ta phải khéo tu. Chúng ta biết nhẫn nhục, biết quán từ bi th́ tâm sân hận sẽ không c̣n, nên nói nhẫn nhục độ sân nhuế. Đó là độ thứ ba.

Thứ tư là Tinh tấn. Tất cả chúng ta ai cũng có bệnh lười biếng, không nhiều th́ ít. Người lười biếng nhiều tới giờ tụng kinh, nhất là buổi khuya nghe đánh kiểng, lăn qua trở lại cựa ḿnh không nổi nên nằm ngủ luôn. Người lười biếng ít lăn qua trở lại năm lần mười lượt rồi cũng ráng trổi dậy, nhưng uể oải lắm. Người tinh tấn nghe kiểng th́ trổi dậy liền, không chần chờ, chậm lụt.

Phật tử mỗi tối có một thời kinh hoặc sám hối, nhưng hôm nào trong ḿnh hơi uể oải một chút th́ nghĩ bữa nay mệt quá, thôi để mai sẽ sám hối bù. Đó là hiện tượng giải đăi, lười biếng. Khi thấy trong người uể oải, ḿnh cố gắng thức dậy súc miệng rửa mặt, mặc áo vô lễ Phật sám hối hoặc tụng kinh. Nhờ mạnh mẽ vậy, xuất hạn mồ hôi hết mệt. Ngược lại, vừa uể oải liền trùm mền là sẽ nằm luôn.

V́ vậy căn bản của sự tu là phải tinh tấn, nhờ tinh tấn chúng ta tiến mới nhanh. Trong kinh kể rằng, đức Di Lặc hồi xưa là bạn đồng tu với Phật Thích Ca. Nhưng ngài Di Lặc bị một lỗi là cầu danh, thường đến nhà quan tướng giáo hóa để được danh lợi, nên việc tu hành chậm trễ. C̣n Đức Phật Thích Ca rất tinh tấn, Ngài nỗ lực tu nên thành Phật đă hơn hai ngàn năm rồi, mà đức Di Lặc chưa thành Phật.

Như vậy tinh tấn là gốc để chúng ta đạt được đạo. Đă là người tu th́ phải cố gắng, tinh tấn, đừng chần chờ, đừng giải đăi. Giải đăi làm cho ḿnh tốn rất nhiều thời giờ, trải qua nhiều đời nhiều kiếp vẫn chưa đạt đạo. Chúng ta đừng sợ tinh tấn sẽ sanh bệnh hoạn. Tinh tấn đúng thời đúng tiết th́ không bệnh hoạn ǵ hết. Trừ những người tinh tấn quá đáng mới sanh ra bệnh hoạn.

Chúng ta tu phải cố gắng tinh tấn, không nên lười trễ. Bởi v́ con ma lười nó đă nằm sẵn trong tâm ḿnh, chờ có cơ hội nó liền lôi kéo, xúi giục ḿnh ngủ cho ngon, chơi cho khỏe, không chịu cố gắng tu. Nhờ tinh tấn mà ma lười không thể lôi kéo được chúng ta. Nên Tinh tấn là độ thứ tư.

Thứ năm là thiền định độ tán loạn. Người tu Thiền khi ngồi lại tâm nghĩ tứ tung, người tu niệm Phật cũng thế. Do tâm không chuyên nhất nên vọng tưởng dẫn đi tứ tung. Cho nên phải dùng thiền định để phá tệ tán loạn. Thiền định là thế nào ? Đức Phật dạy người niệm Phật muốn Phật Di Đà đón về Cực Lạc th́ phải niệm Phật đến nhất tâm. Trong kinh Di Đà nói rơ từ một ngày cho tới bảy ngày, niệm Phật nhất tâm bất loạn, th́ khi lâm chung Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng hiện ở trước mặt đóm ḿnh về Cực Lạc.

Nhất tâm bất loạn là không c̣n một chút loạn tưởng nào, chỉ có nhất tâm. Có một số người niệm Phật c̣n lầm lẫn nhất tâm với nhất niệm. Nhất niệm là chỉ c̣n một niệm Nam mô A Di Đà Phật, không có niệm nào chen vô đó cả. Nhưng c̣n niệm th́ chưa phải nhất tâm. Kinh nói niệm tới chỗ vô niệm, nghĩa là không c̣n một niệm nào nữa hết. Nhờ câu niệm Phật ta dứt được những niệm khác, đến khi câu niệm Phật cũng lặng luôn, đó mới gọi là nhất tâm. Được nhất tâm th́ Phật A Di Đà và Thánh chúng mới hiện tiền.

Chư Tổ nói pháp tu Tịnh độ là dùng phương tiện đạp gai lấy gai mà lể. Người lỡ đạp gai trong chân, nên mượn cái gai khác bén hơn để lể bỏ gai cũ. Gai cũ đă bỏ rồi, nếu c̣n để cây gai mới ở đó th́ sao ? Th́ cũng như không. Cho nên gai cũ lể được rồi, gai mới cũng phải ném luôn. Hai cây gai ném hết lúc đó chân mới lành. Niệm Phật là dùng câu niệm Phật để trị tâm tán loạn. Tán loạn hết rồi th́ câu niệm Phật cũng buông luôn. Nên nói niệm đến chỗ vô niệm.

Người tu Thiền, theo kinh Đại tứ niệm xứ của Nam tông dạy rằng: Người quán Tứ niệm xứ từ một ngày, hai ngày, ba ngày đến bảy ngày mà tâm không dời đổi, không xao lăng, người đó sẽ chứng từ tam quả A-na-hàm đến tứ quả A-la-hán. A-la-hán là vô sanh. Muốn được quả vô sanh, chứng Niết-bàn th́ cũng phải trụ tâm nơi Tứ niệm xứ. Trụ tâm nơi Tứ niệm xứ tới không c̣n chỗ trụ nữa, đó là Niết-bàn. C̣n người tu theo Thiền tông buông xả tất cả những niệm loạn tưởng. Buông xả tới chừng nào, suốt ngày đi đứng nằm ngồi không c̣n một niệm loạn tưởng, mới ngộ được lư Thiền. Chỗ cứu kính cũng giống pháp môn niệm Phật.

Tóm lại, phương pháp tu nào cũng phải dẹp hết loạn tưởng. Nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta ngộ đạo, nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta được Niết-bàn, nhờ dẹp bỏ loạn tưởng chúng ta được về Cực Lạc.

Loạn tưởng xấu dở ở chỗ nào mà chúng ta phải dẹp bỏ ? Như chuyện xấu bậy th́ bỏ được, c̣n chuyện hay tốt bỏ uổng quá. Ḿnh nghĩ mai đi làm từ thiện, mốt đi nghe pháp, tốt quá bỏ sao đành. Nhưng c̣n nghĩ là c̣n loạn tưởng. Bởi v́ trong kinh Phật dạy, chúng ta sanh tử luân hồi trong sáu đường, thấp nhất là địa ngục, kế đó là ngạ quỹ, súc sanh, rồi người, a-tu-la, trời. Trong sáu đường đó, ba đường ác, ba đường thiện. Nếu nghĩ xấu ác, tạo tội nặng th́ đoạ địa ngục. Nghĩ xấu ác với tâm gian xảo, keo kiệt th́ đọa ngạ quỷ. Nghĩ xấu ác với tâm si mê th́ đọa súc sanh. Đó là ba đường ác. Nếu nghĩ phải, xứng đáng tư cách con người th́ sanh làm người. Nghĩ lành nhưng c̣n nóng giận th́ sanh làm A-tu-la. C̣n nghĩ làm mười điều lành trọn vẹn th́ được sanh cơi trời. Đó là ba đường lành.

Riêng người dứt hết các thứ nghĩ th́ đi đường nào ? Đó là chỗ tôi muốn nêu lên để chúng ta nắm cho thật vững. C̣n nghĩ là c̣n niệm, c̣n niệm th́ c̣n tạo nghiệp hoặc nghiệp xấu ác, hoặc nghiệp lương thiện. Nghiệp ác th́ đi ba đường dữ, nghiệp luơng thiện th́ đi ba đường lành, nghĩa là c̣n đi trong lục đạo luân hồi. Bây giờ muốn ra khỏi lục đạo luân hồi th́ phải làm sao ?

Chỗ này Lục Tổ Huệ Năng đă bảo với Thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?”. Ngay câu đó Thượng tọa Minh liền ngộ đạo. Như tôi đă nói nghĩ ác th́ đi đường ác, nghĩ thiện th́ đi đường thiện. C̣n đi tức là c̣n ở trong lục đạo luân hồi. Bây giờ dừng hết nghĩ thiện, nghĩ ác th́ “bản lai diện mục” muôn đời của ḿnh hiện ra. Như vậy dứt nghĩ thiện, dứt nghĩ ác th́ tâm không c̣n sanh diệt, tâm không c̣n sanh diệt th́ cái chân thật bất sanh bất diệt hiện tiền.

Chúng ta đă sẵn có cái chân thật ấy gọi là Phật tánh, chân tâm nhưng v́ nghĩ thiện, nghĩ ác che phủ nên ḿnh không thấy. Bây giờ dừng được hai thứ này th́ nó hiện ra. V́ vậy nghe Lục Tổ nói câu ấy, ngài Huệ Minh liền ngộ. Rơ ràng Tịnh độ hay Thiền Đại thừa, Thiền tông, Thiền nguyên thủy… đều đi tới chỗ dừng hết các niệm nghĩ tưởng. Tuy phương tiện ứng dụng có khác nhưng chỗ cứu kính không hai. Đó là điểm gặp nhau giữa các pháp tu.

Nhiều người không biết, cứ chỉ trích nhau mà không biết ḿnh đang tu thế nào. Đó là sai lầm lớn. Trong đạo Phật, cứu kính không hai đường. Khi nào tâm bặt hết những niệm nghĩ tưởng, bặt hết phải quấy hơn thua, đối đăi th́ cái chân thật hiện ra. Nên nói tu giải thoát sanh tử là vậy, v́ cái đó không sanh không diệt th́ đâu c̣n đi trong Lục đạo. Không đi trong Lục đạo tức là nhập Niết-bàn, là giải thoát sanh tử.

Thiền định cốt dừng tán loạn, nên niệm Phật được nhất tâm cũng là Thiền định, tu Tứ niệm xứ tới nhất tâm cũng là Thiền định. Khi dứt hết tán loạn th́ được Niết-bàn, không nghi ngờ ǵ nữa. Đó là độ thứ năm, Thiền định tán loạn.

Thứ sáu là Trí tuệ độ si mê. Si mê tức là vô minh, nó khiến chúng ta tạo nghiệp rồi luân hồi trong sanh tử. V́ vậy muốn hết luân hồi sanh tử phải có trí tuệ. Bởi chỉ có trí tuệ mới phá tan mê lầm, không mê lầm th́ không c̣n đi trong sanh tử nữa. Bát chánh đạo không nói trí tuệ mà nói chánh kiến. Chánh kiến này từ học mà có, nên thuộc văn tuệ tức hữu sư trí. C̣n trí tuệ từ Thiền định phát sanh của Lục độ thuộc về trí vô sư. mỗi bên có một hướng khác nhau.

Hệ Nam tông vào đạo bằng trí tuệ hữu sư, nên trong kinh Pháp Cú Phật dạy: “Các ngươi phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Chúng ta mở sáng trí tuệ bằng cách nương theo chánh pháp của Phật. Hệ Bắc tông khai triển trí tuệ vô sư, nên từ Thiền định mà có.

Đức Thích Ca giác ngộ sau khi thiền định dưới cội Bồ-đề, bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng Ngài chứng được tam minh v.v… Giác ngộ do định mà được nên sự giác ngộ đó không có thầy. V́ vậy Phật tuyên bố “Ta học đạo không có thầy”. Không có thầy th́ ai dạy ? Do trí vô sư sẵn có vậy. Khi tâm thanh tịnh th́ trí này tự sáng, không phải do học mà được. Trí vô sư là trí bất sanh, bất diệt, c̣n trí hữu sư là trí sanh diệt. Trí vô sư mới cứu chúng ta giải thoát sanh tử. Thượng tọa Minh ngộ được bản lai diện mục là nhờ đi tới chỗ không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức dừng tâm đối đăi, bấy giờ trí vô sư hay Phật tánh mới hiện ra, rơ ràng như vậy.

Người tu Phật nói tới giải thoát sanh tử là phải dứt hết hai bên, c̣n trong ṿng đối đăi, làm thiện tu phước th́ không bao giờ giải thoát sanh tử, chỉ đi trong ba đường lành thôi. Nam tông tu tới A-la-hán là Diệt tận định th́ nhập Niết-bàn. Các Ngài chỉ mong một đời tu chứng được vô sanh, c̣n Bắc tông tu để nhận được trí vô sư sẵn có. V́ vậy Bồ-tát tu Lục độ lấy trí tuệ tức giác ngộ làm mục đích cứu kính. Đă giác ngộ rồi Bồ tát thấy mọi chúng sanh đều có tánh Phật, nhưng v́ quên thành ra mê. Do đó Bồ-tát phát nguyện vào đời độ sanh, giúp tất cả chúng sanh ngộ được tánh Phật sẵn có của ḿnh. C̣n A-la-hán được Diệt tận định rồi thấy chúng sanh mê lầm khó giáo hóa hết được, nên nhập Niết-bàn cho yên. V́ vậy trong kinh thường trách: Tu theo hạnh Thanh văn là tiêu cực. Đó là v́ các Ngài đến được chỗ an lành rồi, an trú một ḿnh mà không phát nguyện vào đời độ sanh.

Tinh thần nhập thế của Bắc tông v́ thế được gọi là tinh thần Đại thừa. Chúng sanh nào cũng có của báu nhưng lại quên. Bồ-tát thấy biết mà không chỉ th́ cảm thấy ḿnh không xứng đáng là người tốt, là người đi trước, nên các Ngài đem hết khả năng, sức lực của ḿnh chỉ mọi người cùng thấy cùng biết, cho tṛn bổn phận của ḿnh. V́ vậy Bồ-tát không chấp nhận nhập Niết-bàn.

Chẳng những Bồ-tát mà một vị A-la-hán như ngài A-nan cũng phát nguyện: “Như nhất chúng sanh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ nê hoàn”, nếu c̣n một chúng sanh chưa thành Phật, con trọn không nhập Niết-bàn. V́ các Ngài thấy ḿnh có ḥn ngọc quí, người khác cũng có mà chưa thấy, th́ nỡ nào làm thinh bỏ đi. Cho nên phải lăn lộn, phải chỉ bảo cho mọi người cùng thấy, cùng biết như ḿnh. Chừng đó thảnh thơi muốn đi đâu th́ đi, muốn nhập hay không nhập Niết-bàn cũng được.

V́ vậy tâm Bồ-tát khác tâm Thanh văn. Thanh văn chứng Diệt tận định rồi nhập Niết-bàn. Bồ-tát chứng ngộ chân lư rồi, luôn luôn giáo hóa không ngừng nghỉ để tất cả chúng sanh cùng ngộ như ḿnh, đó là bản nguyện của các Ngài. Nam tông chú trọng sạch phiền năo được vô sanh, nên lấy Chánh định làm gốc. Bắc tông chú trọng giác ngộ, nhận ra tánh Phật sẵn có của ḿnh, nên lấy trí tuệ vô sư làm gốc. Như vậy hai lối tu có những điểm khác nhau, v́ vậy tâm hạnh cũng khác nhau.

Chúng ta học kinh điển Phật, phải hiểu cho tường tận mới thấy đường tu hết sức rơ ràng, không có ǵ nghi ngờ hết. Phật dạy giải thoát không có đâu xa hết. Ngay nơi cơi này mà không bị vướng mắc, sống được với cái chân thật của chính ḿnh đó là giải thoát, là vô sanh. Thế gian thích sống, nên nghe Phật nói chứng được Niết-bàn vô sanh, buồn quá. C̣n tu Tiên, luyện được thuốc trường sanh bất tử, sống hoài không chết nên người ta ham. Nói trường sanh bất tử, nhưng chúng ta xem ngày nay c̣n ông Tiên nào không ? Bất tử sao không c̣n, như vậy đâu phải là chân lư.

Phật nói Niết-bàn là vô sanh, không sanh th́ làm ǵ có tử, nếu có sanh th́ có tử. Tử sớm là năm bảy mươi năm, tử muộn là vài trăm năm, cũng tử thôi. Chỉ vô sanh mới là bất tử. Đó là lẽ thực, là chân lư.

Hôm nay tôi giảng về đề tài này để quí vị xét kỹ hai đường lối tu căn cứ vào hai phần giáo điển, một lấy Bát chánh đạo, một lấy Lục độ làm căn bản nên có những điểm sai biệt. Như vậy để nhận ra Bắc tông khác hơn Nam tông ở chỗ nào. Nhiều người nói Tiểu thừa là cổ xe nhỏ, Đại thừa là cổ xe lớn. Nói vậy đúng chưa ? Nếu cho rằng Tiểu thừa là cổ xe nhỏ ít độ người, Đại thừa là cổ xe lớn độ nhiều người, như vậy không đúng.

Nhiều vị tu theo Nguyên thủy ngộ đạo, độ cũng rất nhiều người. C̣n vị tu theo Đại thừa mà không tới đâu th́ có độ được ai, làm sao nói nhiều ít. Chỉ khác nhau ở chỗ, người tu chứng Diệt tận định nhập Niết-bàn, ngang đó nghỉ vĩnh viễn không độ sanh th́ mang tinh thần Tiểu thừa. C̣n người tu ngộ được Pháp thân rồi, lăn lộn trong đời để độ chúng sanh không cùng, th́ mang tinh thần Đại thừa. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy giá trị đường lối tu của mỗi bên. Nhưng phải tu tới nơi ḱa, chớ c̣n tu lơ mơ cũng không thấy không biết được ǵ. Giá trị ở sự tu chớ không phải giá trị ở chỗ học nhiều. Học nhiều mà không tu th́ cũng không có kết quả.

V́ vậy tôi mong mỏi tất cả cố gắng hiểu, ứng dụng tu cho được tốt. Như vậy là tự cứu ḿnh và cứu được mọi người. Nếu không chịu tu, bản thân chúng ta không tự cứu được th́ mong ǵ cứu ai. Mong tất cả cố gắng thực hiện tu hành đúng như lời Phật tổ dạy.




__________________
Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
Quay trở về đầu Xem saodem's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi saodem
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 7 of 8: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:23am | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc



AN TRÚ BÂY GIỜ VÀ Ở ĐÂY


Phật giáo Việt Nam ngày nay phát triển đa dạng, nhưng chúng ta thấy có những pháp môn chính là Thiền và Tịnh độ, cũng có một số người tu Mật tông. Cần phải khẳng định nếu chúng ta tu Thiền th́ phải thế nào, tu Tịnh độ th́ cần làm ǵ, hoặc tu Mật tông ra sao ?

Về vấn đề tu Thiền, điều quan trọng là phải t́m được Thiền sư ngộ đạo hướng dẫn chúng ta đi lên. Không có Đạo sư, chúng ta sẽ bị lạc, không cứu được, v́ lạc đường ở thế giới tâm linh th́ không ai vào đó cứu được; chỉ có Thiền sư ngộ đạo đồng hành với chúng ta trên con đường tâm linh mới d́u dắt được. Khi thầy nhập định, ta cũng nhập định, đời sống tâm linh của chúng ta phát triển nhịp nhàng theo đời sống tâm linh của thầy. Theo vị thầy không chứng Thiền, những ǵ họ nói nhưng chưa thực hành được, chúng ta nghe và làm theo chắc chắn không đạt kết quả tốt. Tu pháp môn Tịnh độ cũng vậy, nhiều người theo, nhưng niệm Phật được văng sanh th́ không có mấy người.

Và nhiều người thường nói rằng tu th́ phải chuyên một pháp môn nào đó, thí dụ chuyên niệm Phật, hay chuyên tu Thiền; không chuyên th́ không đạt hiệu quả. Theo tôi, nhận xét như vậy chưa hẳn đúng hoàn toàn. Thật vậy, chuyên tu sẽ đúng trong trường hợp nào thôi, c̣n trường hợp khác th́ không đúng nữa. Thực tế cho thấy có người chuyên tu một pháp môn nào đó suốt đời, nhưng họ không đạt kết quả khởi sắc nào cả.

Tôi thấy nhiều người tu hành theo câu : “Quá khứ không truy t́m, vị lai th́ chưa đến, chỉ an trú hiện tại”. Nhưng an trú hiện tại là thế nào ? Có vị chủ trương rằng an trú hiện tại nghĩa là thân đâu tâm đó.

An trú hiện tại, thân đâu tâm đó, th́ chúng ta thực hành cách nào ? Ai cũng biết trên bước đường tu, nhiều khi thân ở đây nhưng tâm ở chỗ khác. Thân tâm như vậy th́ làm việc không thành công. Ḥa thượng Bửu Huệ dạy chúng ta đối trị bằng cách kéo tâm về một niệm bây giờ và ở đây. Phải luôn suy nghĩ bây giờ và ở đây cần làm ǵ, thí dụ hiện giờ quư vị đang ở giảng đường Thiên Bảo tháp th́ phải lắng nghe pháp, nhưng sau đó, trở về chùa th́ để tâm làm việc ở chùa. Làm bất cứ việc ǵ, chúng ta nhứt tâm vào việc đó. Tôi thành công cũng nhờ thực hiện tinh thần thân đâu tâm đó, an trú bây giờ và ở đây.

Tuy nhiên, điều cần nhận thức là “Bây giờ và ở đây” của mỗi người đều khác nhau, v́ suy nghĩ và việc làm của mỗi người không thể giống nhau. Chúng ta biết rơ cuộc đời này, thế giới này là hiện tượng giới th́ nhất định muôn sự, muôn vật phải khác biệt và sanh diệt, nên c̣n gọi là sai biệt giới và sanh diệt giới. Tất cả pháp sanh diệt không ngừng lại và không ai giống ai. Mỗi người đều có việc làm khác nhau, nhưng phải thích ứng với hoàn cảnh của chính ḿnh, mới đạt kết quả tốt. Hoàn cảnh của ta bây giờ và ở đây nên làm ǵ th́ làm việc đó, bắt chước làm hay nói giống người khác không thể được, đôi khi c̣n chuốc họa vào thân. Trong hội chúng, mỗi người làm đúng việc, đúng khả năng của ḿnh th́ thành công, người th́ lo giảng kinh, người th́ nghe pháp, người phải dọn bàn, người nấu ăn, v.và

Làm việc thích hợp với ta ngay bây giờ và ở đây nhằm phá trừ tham vọng, chấp trước của chúng ta không thực tế th́ được giải thoát liền. Việc chúng ta làm rồi hăy thả cho nó trôi vào quá khứ và ta lại có việc khác. Riêng tôi, luôn an trú hiện tại và nhận thấy rơ hiện tại cứ trôi dần về quá khứ và chính nhờ cái hiện tại tốt mới có được quá khứ đẹp. C̣n an trú hiện tại mà không làm ǵ lợi ích cho ta và người là điều sai lầm lớn.

Quá khứ tô điểm cho hiện tại và hiện tại làm hạt nhân tốt xây đắp cho tương lai. An trú hiện tại để từng bước chúng ta đi lên, không phải là ở măi trong hiện tại, v́ hiện tại thay đổi từng sát na. Tuệ giác của chúng ta nh́n thẳng vào hiện tại, thấy đúng hiện tại để sống cho thích hợp. Tôi nhắc Tăng Ni tinh thần này v́ nhiều người hay mơ màng, tưởng tượng, nghĩ viễn vông, không thực tế.

An trú hiện tại, nhưng hiện tại là ǵ ? Theo tôi, tuệ quán an trú hiện tại th́ đầu tiên là nh́n thẳng vào xă hội chúng ta đang sống, trong đó chủ yếu là nhân dân và chính quyền. Tôi xem chính sách của Nhà nước như thế nào đối với tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng và chủ trương đó có hợp lư hay không, có chấp nhận được không. Nh́n xa hơn, tôi xem các chùa và Tăng Ni Phật tử cũng như các tôn giáo khác có chấp nhận hay không. C̣n cứ nói “Bây giờ và ở đây” mà mọi việc xảy ra bây giờ ở đất nước này mà không biết là chúng ta ở trên hư không, rơi vào không tưởng, chắc chắn gặt hái điều không lành.

Tôi luôn suy nghĩ xem chính sách Nhà nước đối với tôn giáo, điều nào thích hợp đương nhiên thi hành, không thích hợp th́ phát biểu xây dựng để thay đổi. Tôi quan sát phản ứng của các tôn giáo khác cũng như của Tăng Ni Phật tử đối với những điều không thích hợp, nếu thấy đa số không đồng t́nh với pháp lệnh nào đó và chính tôi cũng thấy điều đó không hợp lư, tôi góp ư với hàng lănh đạo có thẩm quyền rằng nếu được sửa đổi sẽ được nhiều thuận lợi. Dùng tuệ quán nh́n vào cái thực mà nói với tinh thần xây dựng, người dễ chấp nhận. Có những việc sai trái mà phổ biến cho quần chúng sẽ dẫn đến hại nhiều hơn lợi, mà cũng chẳng thay đổi được ǵ.

Chúng ta có tuệ quán nhận rơ những việc nên làm, nên nói và những ǵ không nên làm, không nên nói. Xưa kia Đức Phật cũng đă từng quan sát xă hội, thấy rơ chính sách cai trị của các quốc vương. Ngài hành đạo qua nhiều nước ở Ấn Độ, thấy nước nào có điểm sai lầm, ngài dùng uy đức cảm hóa vua để họ sửa đổi sai thành đúng. Lịch sử đă ghi nhận việc Đức Phật góp ư với nhiều vị nguyên thủ quốc gia thời đó và họ đều kính trọng, quư mến Đức Phật v́ ngài đă giúp họ thay đổi được chính sách phù hợp với ḷng dân, phát triển được sự hùng mạnh của đất nước họ. Chúng ta cần thực hiện tinh thần xây dựng tốt đẹp cho nhiều người giống như Đức Phật đă làm th́ dễ thành công. Trong Phật giáo cũng có những điều phải họp chúng Tỳ kheo mới giải quyết được. Người có tuệ giác thấy cái đáng nói trước đại chúng, những ǵ phải nói riêng. V́ có những việc đưa ra đại chúng, người bị phê phán có tội sẽ khổ sở, bất măn và họ sẽ có những phản ứng không hay, không giải quyết được mà c̣n bất lợi cho tập thể.

             Đặt lại vấn đề “Bây giờ và ở đây”, th́ nếu là Trưởng ban Trị sự tỉnh, quận, huyện, trách nhiệm phải như thế nào ? Nếu không bảo vệ được quyền lợi của Tăng Ni, Phật tử th́ lănh đạo không làm tṛn trách nhiệm. V́ vậy, thực hiện tinh thần “Bây giờ và ở đây” phải kèm thêm chức vụ, trách nhiệm mà ta đang nhận lănh. Thí dụ thầy Chánh đại diện huyện Long Đất tu “Bây giờ và ở đây” th́ phải lo cho Phật giáo và Tăng Ni, tín đồ của huyện này được vững mạnh. C̣n vai tṛ của trụ tŕ là phải thực hiện nghĩa vụ đối với Giáo hội, với Ban Đại diện Phật giáo địa phương cùng với bổn đạo của chùa, với ban ngành đoàn thể, giải quyết sao cho hợp t́nh, hợp lư. Các ban ngành đoàn thể thường quyên góp tiền của, công sức của Phật tử vào các việc công ích, Phật tử của chùa đă thực hiện tṛn nghĩa vụ này, th́ vị trụ tŕ hoặc vị Chánh Đại diện điạ phương cần lưu ư rằng chùa và bổn đạo của ḿnh tất yếu cũng phải được quyền lợi tương xứng. Hoặc Ni sư Hóa chủ áp dụng tinh thần “Bây giờ và ở đây” th́ nghĩa vụ trực tiếp nhất là phải lo việc ăn uống cho đại chúng đầy đủ.

Quan niệm của chúng ta phải đúng đắn, thực tế; tôi thấy đa số chấp pháp, cứ nói an trú hiện tại, nhưng hiện tại của họ trống không, suốt đời không làm lợi ích cho ai làm sao có kết quả tốt.

Phật dạy chúng ta không mơ ước tương lai, không tiếc nuối quá khứ vàng son, v́ mơ ước viễn vông hay tiếc rẽ chẳng giúp ích ǵ, chỉ làm ta sống khổ. An trú hiện tại là giải quyết ngay mối quan hệ giữa ta và người, không phải bỏ tất cả. Sống với hiện tại để có tuệ quán, tuệ giác, giải quyết mọi việc tốt đẹp để được an vui.

An trú hiện tại rồi, Thiền sư nhắc chúng ta phải tùy thuận thế duyên là tùy hoàn cảnh hành đạo, đừng đ̣i hỏi, đừng cố chấp ǵ cả. Tới giờ ăn, có ǵ ăn nấy cho qua bữa. Muốn ăn cao lương mỹ vị cũng không được. Ở huyện Long Đất này, may mắn có khoai môn, muối ớt là quư rồi. Nên suy nghĩ, cân nhắc thực tế cuộc sống để làm đạo theo khả năng ḿnh; mơ ước là điều hoàn toàn xa lạ đối với người tu. Thực tế tôi hành đạo được giải thoát nhờ luôn luôn ứng dụng “Bây giờ và ở đây”. V́ vậy, đến Thiền viện, quan sát thấy rơ đối diện ḿnh là Thiền Tăng đều an trú pháp không, th́ tôi cũng an trú pháp không là thích hợp ngay với đại chúng và được giải thoát liền; đó là an trú hiện tại, c̣n làm khác là thất bại. Nhưng đến chùa Tịnh độ, nghe tiếng tụng kinh, tôi cũng tụng theo là an trú ở đây, bây giờ. Chỉ nghĩ ta tu Thiền thôi, mà vào chùa theo Tịnh độ th́ phải bị khổ sở, nhức óc đinh tai với tiếng tụng kinh, sao giải thoát. Người ta đang quả đường, hay đang tĩnh tâm, đang lao động, ḿnh cũng làm vậy, tôi nghĩ an trú ở đây và bây giờ là như thế.

Tôi được giải thoát và vào sinh hoạt với các đoàn thể hay tôn giáo bạn cũng được giải thoát. Sang Ư họp hội nghị tôn giáo thế giới, tôi ở tu viện của Thiên Chúa, các thầy lo sợ, đến rước tôi về chùa. Tôi nói an trú hiện tại th́ sẽ không thấy khác; ở nhà thờ mà nghĩ chùa th́ mới thấy khác và những vị Giám mục ở nhà thờ tôi đă từng gặp gỡ, quen biết ở các hội nghị tôn giáo, nên sống với họ, tôi thấy b́nh thường. Thấy khác th́ nhất định bức rức, khó chịu. Ở chỗ đó, tôi biết họ nghĩ ǵ, muốn ǵ, tùy theo đó tôi giúp. Họ muốn t́m hiểu Thiền học, tôi chỉ họ những pháp Thiền thích hợp với nếp sống tôn giáo của họ th́ họ cám ơn. Việc cầu nguyện của họ nếu được kết hợp với pháp tĩnh tâm tu Thiền của chúng ta, giúp họ tăng thêm nội lực, phát triển khả năng tu hành của họ là ta đă thành tựu được tinh thần an trú ở đây và bây giờ.

Tôi gợi một số ư như vậy và mong rằng Tăng Ni thực hiện đúng nghĩa tinh thần an trú bây giờ và ở đây để được giải thoát, làm lợi lạc cho bản thân và cho người, đừng ước mơ xa vời mà đau khổ.


__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 8 of 8: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 4:26am | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

CẢM THỌ VÀ L̉NG TRẮC ẨN

Cảm thọ đóng một vai tṛ rất lớn trong đời sống hàng ngày của chúng ta. Sự yên tĩnh tâm hồn trong sáng (Shammarha) hiểu biết những nguyên nhân và điều kiện mà nó phát khởi cũng như hậu quả của nó.

Bây giờ, chúng ta đi xa hơn để nh́n cảm thọ quan trọng và thiết thực ra làm sao. Như đă nói, nền tảng căn bản để nh́n vào cảm thọ là sự an tịnh, sự trong sáng của tâm hồn. Nhưng làm sao chúng ta đạt được tâm thức này? Đây không chỉ là vấn đề về thời gian, sự thực hành thiền định, thiền tịnh. Chỉ riêng việc thiền định sẽ không mang lại cảm thọ đó bởi đây là một vấn đề phức tạp mà vốn dĩ tâm hồn là phức tạp nên chúng ta cần phải nh́n rơ vào cách sống của chúng ta, cách chúng ta sống.

Phật giáo nói về đời sống đạo đức (giới), và xem nó là một nhân tố quan trọng. Không có nó, th́ khó có thể đạt được một tâm hồn an tịnh. Không đặt vấn đề là chúng ta phải trải qua quá tŕnh rèn luyện bao lâu bởi khi sử dụng điều khoản đạo đức ở đây, tôi không ám chỉ đến những qui luật tu viện mà tôi đang nói về những điều căn bản ấy là nguyên nhân gây nên sự khổ đau và khó khăn cho chính ḿnh và những người khác, trực tiếp hay gián tiếp.

Đức Phật nói Tứ Diệu đế, trong đó chân lư là chấm dứt khổ đau (Bát Thánh đạo) – tám cửa ngơ thực hành (có thể chia ra ba nhóm chính – đời sống đạo đức, sự thiền định, sự sáng suốt hay trí tuệ). Tâm hồn chúng ta được kết nối bởi nhiều thứ, mà không đơn điệu phát khởi ra. Một sự phát khởi có thể là ch́a khóa khai phát mạnh lên hoặc yếu đi một cảm thọ, bởi tâm hồn luôn hoạt động trong sự phức tạp. Ở truyền thống Tây tạng, điều này được giảng dạy và minh họa bởi bánh xe pháp, đôi khi chúng ta nh́n thấy nó như là một Kim tự tháp vậy. Chúng ta có thể nói rằng, nền tảng của Kim tự tháp là mô h́nh đạo đức được tạo dựng bởi hai mặt; một mặt là sự thiền định (sự tập trung), mặt khác là sự sáng suốt (trí tuệ). Hai mặt thiền định và trí tuệ chỉ có thể đứng vững nếu có nền tảng căn bản là đạo đức.

Ở đây, hành vi đạo đức c̣n bao hàm những giá trị đạo lư khác. Nếu không có những giá trị khác, rất khó khăn để ta nói về nó như là một cái ǵ đó. Nếu có, chỉ riêng tôi sẽ không có đủ điều kiện để nói về những nh́n nhận hành vi đạo đức. Thí như, Phật tử có năm điều giới cấm hay Tăng Ni, tu sĩ có nhiều giới cấm hơn, nhưng tất cả đều có tương quan với nhau trong đời sống và cảm thọ. Dĩ nhiên, mọi cảm thọ sẽ diễn biến trong tôi như một thứ ǵ đó tôi chiêm nghiệm được, nhưng thực sự nó không đơn lẻ, mà tương quan với những thứ khác. Khi nói đến một số cảm thọ mang lại cho tôi hạnh phúc, vui thú, an b́nh, hay một số cảm thọ khác mang lại sự không như ư , có nghĩa là tôi đang nghiệm thấy những thứ đó, và chúng ta là những cảm thọ của tôi, nhưng chúng cũng có tương quan với những người khác. Để lư giải những cảm thọ, chúng ta cần biết những suy nghĩ và những cảm giác trong quá tŕnh đánh giá, nếu chỉ nh́n nhận nó theo khía cạnh riêng của ḿnh th́ sẽ rất phiến diện.

Đức Phật không phải là người chứng ngộ duy nhất thuyết giảng về đời sống đạo đức sự không năo hại là điều mà ai cũng mong ước. Dĩ nhiên, trong cuộc sống có những người muốn làm hại, nhưng nếu chúng ta cùng ngồi lại với những người này và t́m hiểu thâm tâm của họ, chúng ta thấy họ thực sự không muốn làm tổn thương đến những người khác. Khi nói về những vấn đề đạo đức là chúng ta đang nói một cách phổ quát về những tiêu chuẩn được nhấn mạnh. Chúng ta cần làm sáng tỏ h́nh thức ấy. Nếu chúng ta thực hành, đạo đức sẽ trợ giúp phát triển sự tập trung – không có nghi ngờ ǵ về điều đó. Sau đây là một ví dụ căn bản, chúng ta có thể nhận thấy rằng nếu đánh lừa một ai đó có mục đích rơ ràng, và rồi cố gắng ngồi xuống tập trung thiền định, điều đó thực sự rất khó khăn, bởi trong thực tế, có một số nỗi bất hạnh, một vài thứ cảm giác kỳ lạ... với vẻ bên ngoài giống như là hạnh phúc. Vâng, có một cái ǵ đó tôi muốn ở anh ta, th́ lại có cảm giác chắc thực, ngược lại khi có một cái ǵ đó tôi muốn, th́ cảm giác đó không chắc thực lắm. V́ vậy điều đó rất khó để thực hành thiền định.

Chúng ta cần phải thấy rơ đời sống đạo đức quan trọng đối với bản thân ḿnh ra làm sao và nên hiểu rằng không khó khăn để sống một đời sống đạo đức, cần né tránh những nguyên nhân đem lại khổ đau và khó khăn cho những người khác. Việc né tránh chúng một cách tích cực và phát triển một nền tảng đạo đức thể hiện sự đắn đo suy nghĩ của hành động. Người phương Tây có đời sống phát triển cao, có nền văn hóa giáo dục tốt. Nếu biết đầu tư đúng mức cho đời sống đạo đức cơ bản trong môi trường này, tôi không nhĩ đó là điều không khó khăn.

Đạo đức là nền tảng căn bản giống như h́nh chóp kim tự tháp và hai cạnh của nó là sự sáng suốt hay trí tuệ, và thiền định hay sự tập trung. Hai cạnh này nương tựa vào nhau, không có trí tuệ, thiền định không thể đứng vững được, và ngược lại. Qua kinh nghiệm tôi thấy rằng sự hồi tưởng đơn điệu của tôi làm mọi thứ dễ dàng thay đổi. Theo cách này, sự hiểu biết của trí tuệ hay sự sáng suốt hay bất cứ ǵ bạn thận trọng để gọi nó – thực sự quan trọng trong việc trợ giúp thiền định. V́ vậy, nó trở nên sung măn. Nếu chúng ta có trí tụê, sự tập trung sẽ trở nên dũng mănh, dũng mănh v́ ngay cả khi chúng ta đối mặt với những khó khăn, sự tập trung cũng không biến mất. Tuy nhiên, chỉ riêng sự tập trung sẽ không đủ đối phó với những cảm thọ gây nên cho chúng ta đau khổ và khó khăn. Chúng ta cần có cả hai trí tuệ và sự tập trung.

Hành vi đạo đức, trí tuệ và sự tập trung là ba khía cạnh khác nhau ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của chúng ta. Nó là một câu hỏi để chúng ta t́m hiểu bức tranh bao quát hơn về sự tự nhiên của bản chất cảm thọ – làm sao mổ xẻ nó, làm sao hồi sinh nó và làm sao để tự do với nó? Chúng ta cần khám phá, khôi phục những cảm thọ hữu ích, như ḷng trắc ẩn và t́nh thương. Cảm thọ này cần được mang vào đời sống cụ thể là trong hành động. Vậy, bằng cách nào để chúng ta đưa những cảm thọ này vào đời sống hàng ngày của chúng ta? Bằng cách kết hợp đạo đức trí tuệ và sự tập trung với nhau. Nó không phải là câu hỏi của sự mong đợi cho tới khi chúng ta đạt được một mặt trong đời sống, hơn là trước khi tiếp tục vấn đề kế tiếp. Vâng, có một hệ quả như kim tự tháp – thứ nhất nền tảng đạo đức rồi hai cạnh – trí tuệ và sự tập trung.

Trí tuệ sáng suốt thật hữu ích cho việc đối phó với những cảm thọ của chúng ta. Dĩ nhiên, cảm thọ là ư thức tự phát, nó có thể xảy ra không cần có lư do, giống như kết quả của một vài thứ nhỏ nhặt, đôi khi cảm thọ có thể trở nên to tát, và chúng ta không thể điều khiển nó được. Trong khi đó, trí tuệ là một quá tŕnh tiến triển chậm chạp được dựa trên căn bản quá tŕnh phân tích, phát triển tư duy, nghe ngóng và suy tính. V́ vậy, có thể nói, cảm thọ là ư thức tự phát, dao động liên tục và không dự đoán trước được, c̣n trí tuệ có thể dự đoán trước, không dao động và không có ư thức tự phát. Hầu như chúng hoàn toàn đối lập nhau, nhưng trí tuệ sẽ trợ giúp cảm thọ. Trí tuệ có thể chẳng làm ǵ ở giữa nó. Thí dụ, trong khi chúng ta quá tức giận, tâm hồn bị áp đảo, và không có khoảng trống cho trí tuệ đi vào để nói: “Đừng có làm vậy!”. Chỉ khi không có sự tức giận trí tuệ mới có thể trợ giúp. Vậy chúng ta hăy dành thời gian để nghĩ về những tổn hại bằng một cách đơn giản: Tức giận cái ǵ? Nó khiến ta đánh mất biểu cảm tốt đẹp, trở nên hung hăn và đáng sợ. Trong lúc tức giận không có sự lúng túng bởi v́ mọi thứ bị cuốn theo nó. Chúng ta có thể nói bất cứ điều ǵ, làm bất cứ cái ǵ, nhưng sau một vài giờ hay một vài ngày, chúng ta có thể hiểu ra lúc đó chúng ta đă không thể nh́n thấy những cảm thọ nóng giận. Và như thế cảm giác hỗ thẹn, cảm giác ngượng ngùng sẽ xuất hiện. Chúng ta có thể không cần một ai nói cho chúng ta những ǵ xảy ra trong khi tức giận, bởi chúng ta biết những sự tổn hại và có tất cả kinh nghiệm về nó.

Những cảm thọ này tất cả chúng ta đều được biết, nhưng ở những cấp độ khác nhau. Một số người có tính khi nóng nảy, nhưng không có lo âu riêng bởi những cảm thọ khác. Trong khi một số người khác không để sự tức giận khởi lên một cách dễ dàng, ngay cả khi đối mặt với những vấn đề khó nhẫn chịu khác. Nhưng, bất cứ cái ǵ, nếu chúng ta muốn đối phó, cảm thọ sẽ gây nên cho chúng ta nỗi đau lớn nhất, thế nên, chúng ta cần trắc nghiệm nó ở một trạng thái yên tĩnh và dành thời gian để nh́n vào những kết quả của nó. Đây là cách sử dụng trí tụê, trí tuệ ấy sẽ trợ giúp thực sự khi cảm thọ trỗi dậy. Khi sự tức giận có mặt, trong thực tế sẽ có cảm thọ ở đó, điều này mang lại một kết quả khó chịu. Tôi đánh mất tính khí của tôi do bởi những hoàn cảnh riêng biệt này, nhưng trí tuệ sẽ trợ giúp để đối phó với nó. Cùng với những cảm thọ đích thực, nếu chúng ta muốn khích lệ với một thái độ quan tâm mạnh hơn, bằng t́nh thương, sự tử tế, hay một vài cảm thọ tương quan khác và nếu chúng ta muốn có một vài trạng thái thường hằng, th́ trí tuệ là rất cần thiết.

Như tôi nói, đời sống đạo đức, đời sống đạo lư, luôn luôn được nối kết với nhau, nên những cảm thọ của chúng ta cũng được nối kết với những người khác. Cái “khác” rất quan trọng nhưng điều đó không có nghĩa là những cảm thọ thuộc về của riêng một ai. V́ vậy, hạnh phúc hay khổ đau riêng của cá nhân cũng hoàn toàn gắn liền với những người khác. Có thể nói rằng, hầu như không có sự hạnh phúc nào đối với chúng ta mà không có sự quan tâm bởi cảm thọ của những người khác. Hơn thế nữa, nó c̣n là t́nh thương và ḷng trắc ẩn.

Tất cả chúng ta đều có ḷng trắc ẩn, nhưng nó có thể rất yếu lược, đôi khi khá thiên vị và biệt đăi. Vậy, đâu là câu hỏi để mang ḷng trắc ẩn đến đời sống, và tạo nên tính vô tư của nó. Tất cả chúng ta đều muốn có hạnh phúc, sự ḥa b́nh và ḷng măn nguyện. Đây không phải một quan điểm triết học mà là một sự thật – tất cả chúng ta muốn điều đó. Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta có thể t́m kiếm nó nhưng lại không thể mang đến những ḷng trắc ẩn cho chính chúng ta. Đặc biệt ở phương Tây, có một vần đề xoay quanh sự tự chủ và sự đánh mất tự chủ. Nhưng tất cả ở bên dưới nó, trong thực tế, rơ ràng vẫn có một khả năng của sự khát khao hạnh phúc và ḷng măn nguyện.

Tôi không nghĩ có một cái ǵ đó nhầm lẫn trong sự khao khát tràn đầy với ḷng mong ước sâu xa. Thực tế tôi nghĩ chúng ta có một sự hạnh phúc đáng tôn trọng. Vậy làm sao chúng ta đạt được điều đó? Không ǵ ngoài sự tác động đáng kể của những người káhc. Bởi v́, như đă nói, hành vi đạo đức luôn luôn được nối kết với những người khác cũng như tất cả những trạng thái của nhận thức, cảm thọ không một đối tượng nhận thức riêng lẻ nào có thể vận hành được. Dĩ nhiên đối tượng luôn luôn tồn tại, nhưng chúng ta cũng nghiệm thấy những đối tượng khác – thấy chúng xúc chạm và cảm giác về chúng – nên chính những nhận thức của chúng ta luôn vận hành trong mối tương quan với tồn tại. Như vậy, tôi không nói về ḷng trắc ẩn ở gốc độ của việc nh́n vào những khác biệt nơi người khác, tôi đang ám chỉ đến nó trong những giới hạn của sự thỏa măn những cảm giác sâu thẳm riêng của một người. Đức Phật nói rằng: “Kẻ nào thương yêu chính bản thân ḿnh, th́ không bao giờ gây tác hại cho những kẻ khác”. Nếu chúng ta không biết bằng cách nào để thương yêu chính bản thân ḿnh, th́ khó mà thương yêu đến những người khác. Những người biết được nguyên nhân gây ra khổ đau hay mang lại hạnh phúc cho chính họ – th́ đó không phải là trạng thái của tri thức mà nó xuất phát từ con tim. Thật sự họ sẽ tạm ngừng trong chốc lát khi nhu cầu trỗi dậy để suy xét.

Lúc Đức Phật nói về Diệu đế thứ nhất – Dukkha, không phải Ngài dán lên đầu của ai đó một nỗi đau! Đây là Dukkha! Ngài muốn ám chỉ một điều ǵ sâu xa hơn thế nữa, đó là kêu gọi t́nh thương và ḷng trắc ẩn. Lúc Ngài nói: “kẻ nào yêu thương chính bản thân ḿnh, th́ không bao giờ gây tác hại cho những kẻ khác”, Ngài đang ám chỉ t́nh thương trong sự hiểu biết. Đây là một thứ t́nh thương biểu hiện trong thực tế, không có t́nh thương nào cao quư hơn t́nh thương đó.

Khi chúng ta nghĩ về những điều kiện tồn tại của ḷng trắc ẩn – là chúng ta đang nói đến cái “tôi” bao hàm một cái “tôi”. Chúng ta cần hiểu cái “tôi” này. Điều đó quy định trí tuệ, sự sáng suốt. Trong thực tế, yêu thương bản thân cũng cần sự hiểu biết rộng lớn. Trong ngôn ngữ Sanskrit t́nh thương là “maitri”, ngôn ngữ Pàli là “metta”. Thứ t́nh thương đích thực ấy không thuộc phạm trù cảm thọ mà được thiết lập trên sự hiểu biết. Để tạo nên t́nh thương ấy đối với bản thân, ta cần phải có sự hiểu biết thiết thực về đời sống tự thân đang được tiếp diễn.

Điều đó khá rơ ràng, như Đức Phật nói, đời sống – đời sống của tôi, đời sống của bạn, đời sống tất cả mọi người trên thế giới này – là không hài ḷng (Dukkha), có tính vô thường, vô ngă và không (linh hồn). Lại nữa, sự hiểu biết về ba lĩnh vực ấy rất quan trọng trong việc phát triển t́nh thương cao thượng. Dukkha có ở mọi thời gian, mọi nơi nên nó chi phối mọi mặt của cuộc sống con người kể là phong cách sống nào chúng ta làm ǵ, hay được giáo dục tốt ra làm sao. Mặc dù bạn có thể làm nên những lợi nhuận lớn trong Công ty do công việc kinh doanh trôi chảy tốt, nhưng thực tế, trong lúc ngủ nghỉ ban đêm, có cảm giác lo lắng về điều ǵ đó không chắc chắn.

Tôi có một người bạn trước đây là chủ hăng máy tính ở Mỹ – Bill Gates. Một lần anh ta không chấp nhận luật chia hai Công ty nên anh ta đă kiện tụng trong phiên toa. Anh là một trong những người giàu nhất thế giới, v́ thế anh ta không thể chấp nhận luật của Chính phủ về việc chia hai Công ty của anh ta. Tôi không nói là anh ta sai lầm đối với tham vọng đấu tranh để làm giàu. Có thể nếu ở vào địa vị của anh ta th́ tôi cũng sẽ làm như thế. Nhưng điều đó cho thấy rằng, trong thực tế, giữa anh ta có một khoảng trống. Anh ta có tất cả hàng triệu thứ giống như thế, nhưng rồi anh ta vẫn thấy không đủ. Vậy anh sẽ làm ǵ để tồn tại? Đấy là lẽ tự nhiên của tâm trí. V́ vậy, chúng ta phải biết yêu thương chính bản thân ḿnh. Khi ở trong trạng thái ấy. Điều đó là sự hiểu biết đích thực để nhận ra rằng không có vấn đề nào chỉ đạo cách sống của chúng ta. Trong thực tế có cái ǵ đó không có cảm giác đúng đắn. Sự cảm giác đó được chia sẻ cho tôi, cho bạn, cho mọi người, ở đây, tôi nghĩ, ngoại trừ bạn là một bậc A la hán bằng không ở t́nh huống này tôi xin lỗi bạn. Theo Phật giáo cảm thọ, t́nh thương trong tất cả những sinh vật có tri giác. Như thế, không có sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo, người mạnh và người yếu, người già và người trẻ, Đông và Tây – tất cả đều như nhau. Đẹp biết bao nếu có tự do thật sự từ cảm giác tiếp xúc ấy. Đấy là t́nh yêu, t́nh yêu chân thật. Nó không có sự gượng ép.


__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.1328 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO