Tác giả |
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 1 of 14: Đă gửi: 19 March 2006 lúc 8:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bí Quyết Khống Chế Vọng Tưởng
Ḥa Thượng Tuyên Hóa
Tư thế lúc ngồi cần phải ngay ngắn, thẳng lưng. Đầu phải thẳng, không cúi xuống, không ngửa lui, không nghiêng trái, không quẹo phải. Sau đó, bắt tréo hai chân theo thế kiết-già-lấy chân trái bỏ lên đùi phải, kế đó lấy chân phải bỏ lên đùi trái-đó là tiêu chuẩn. Bởi v́ tư thế kiết-già phu tọa khiến chúng ta dễ nhập Định, cho nên c̣n gọi là thế hàng ma tọa, thế kim-cang tọa, hay thế liên hoa tọa. Tư thế này có thể giúp tiêu trừ nghiệp chướng trong vô lượng kiếp, khiến liễu sanh thoát tử, tạo được vô lượng công đức.
Lúc bắt đầu ngồi Thiền, quư vị cần phải luyện tập tư thế căn bản này. Kế đến, quư vị hăy điều chỉnh thân thể-mắt nh́n xuống chót mũi, từ mũi nh́n xuống miệng, từ miệng nh́n xuống tâm. Đó là bí quyết để khống chế vọng tưởng. Sau đó mới điều ḥa hơi thở-đừng mau, đừng chậm-hăy thở một cách tự nhiên. Lúc này quư vị mới tham cứu câu "Ai là kẻ niệm Phật?" Trải qua một thời gian lâu dài, việc tham Thiền sẽ có tác dụng.
Việc dụng công tham Thiền cũng giống như "gà mẹ ấp trứng" vậy. Gà mẹ lúc nào cũng nghĩ đến gà con, cứ chuyên tâm hết ḷng ấp trứng. Chẳng phải ấp được năm phút là chạy đi, rồi một lúc sau lại trở về ấp tiếp, ấp chưa tới năm phút lại chạy mất...; bởi làm như vậy th́ vĩnh viễn không bao giờ trứng nở ra gà con đặng. Tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải dụng công miên mật. Đừng sợ đau lưng, đừng sợ nhức chân, đừng sợ khổ cực, đừng sợ gian nan. Hăy một ḷng một dạ tham Thiền. Tham cái ǵ? Tham câu "Niệm Phật là ai?" Tham cho tới khi "sông cạn, núi cùng, nước dừng, đá hiện" th́ lúc đó mới khai ngộ được.
Tham Thiền lại cũng giống như "rồng ấp ủ hạt châu." Rồng lúc nào cũng ôm giữ bảo châu, chẳng hề lơ là hoặc không cẩn thận chú ư. V́ vậy, hạt châu ngày một sáng, c̣n rồng th́ ngày đêm canh giữ hạt châu. Người tham Thiền cũng phải như thế-trong mỗi phút mỗi giây đều không khởi tạp niệm. Cổ nhân nói:
"Nhất niệm bất sanh, toàn thể hiện."
Nghĩa là khi một niệm không sanh khởi th́ chân tâm, Phật-tánh hiện bày. Cũng có thể nói rằng:
"Vọng niệm bất sanh, toàn thể hiện."
Hễ vọng niệm không sanh khởi th́ lúc ấy toàn thể sẽ hiện rơ. Khi ngừng bặt vọng tưởng, quư vị sẽ có cơ hội thành tựu.
Người tham Thiền không nên nghĩ đến việc thành Phật, đừng để tâm tới chuyện khai ngộ, cũng chớ nghĩ tới chuyện đắc trí huệ. Cứ nỗ lực dụng công, cần cù chăm chỉ tu hành. Khi thời gian chín muồi th́ sẽ khai ngộ. Ở trong Thiền-đường, quư vị cứ ngồi Thiền, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi kinh hành, rồi ngồi tiếp, xong lại đi tiếp... Cứ như vậy, tu một thời gian lâu dài th́ quư vị sẽ có cơ hội thành tựu, bởi v́ "cửu tọa hữu Thiền," ngồi lâu th́ sẽ có Thiền.
Tham Thiền lại cũng giống như "mèo ŕnh chuột." Mèo phải định thần chú ư ŕnh tại ổ chuột, chờ chuột chui ra là chụp ngay. Mèo không thể giải đăi; hễ tâm tán loạn th́ không c̣n chú ư đặng. Người tham Thiền cũng thế-lúc nào cũng phải giữ chặt chánh niệm, không được sanh vọng niệm. Đó là kiến thức vào Đạo sơ cấp nhất của việc tham Thiền.
Người tu Đạo chớ xuống Nam-sơn cũng chớ lên Bắc-hải mà t́m Đạo. Đạo vốn ở ngay thân ta. Nếu quư vị có thể ngồi kiết-già phu tọa, chuyên tâm chú ư tham Thiền, th́ đó là Đạo. Không nên có tâm thích chuyện cao siêu diệu vợi, hướng tâm ra ngoài t́m Đạo; v́ như thế th́ vĩnh viễn không t́m ra được đâu. Nếu quư vị bỏ cái gần kề để chạy đi t́m cái xa xôi, th́ tới đâu quư vị cũng gặp toàn chuyện khó khăn, phiền toái. Đó là tự ḿnh chuốc lấy rắc rối, tự ḿnh rước khổ vào thân!
(Thiền-thất, 12/1980)
|
Quay trở về đầu |
|
|
vic chuo Hội viên
Đă tham gia: 25 July 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 69
|
Msg 2 of 14: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 4:37am | Đă lưu IP
|
|
|
ông muốn chống chế vọng tưởng th́ ông phải biết vọng tưởng do đâu mà sanh ra.thật ra vọng tưởng hay chánh niệm đều từ tâm ông mà sanh ra thôi.tai v́ tâm ông c̣n phân biệt nên mới có vọng,chân.nhưng khi đă nhận ra thể tánh vốn thanh tịnh th́ vọng tưởng sẻ không c̣n.ngay cả chánh niệm cũng không c̣n trong tâm ông.
ông hăy nh́n thẳng vào tâm của ông đi.bệnh ông khỏi rồi hả.
người bạn củ.
|
Quay trở về đầu |
|
|
vuithoi Hội viên
Đă tham gia: 08 April 2005 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 375
|
Msg 3 of 14: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào vic chuo,
Nói là nói vậy thôi chứ nếu bạn không c̣n vọng tưởng và chánh niệm th́ chính bản thân bạn thế nào ?
Hiểu trên nguyên tắc th́ rất nhiều người hiểu chỉ có người hành mới thấy chỗ khó như thế nào thôi.
Nếu bạn thấy tâm bạn rỗng không, an tịnh, không vọng tưởng cũng không chánh niệm th́ đó chính là vọng tưởng.
Không vọng tưởng , không chánh niệm th́ làm sao mà sống chứ
Chúc bạn an lạc,
vuithoi
__________________ vui thoi ma
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 4 of 14: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 8:44pm | Đă lưu IP
|
|
|
Chào tất cả các bạn!
*Tôi đưa ra bài khai thị về Bí Quyết Khống Chế Vọng Tưởng của HT.Tuyên Hoá để mọi người cùng tham bác. Đây là một vị Bồ Tát thành tựu trong thời đại của chúng ta gần đây, v́ vậy chúng ta cần nên lưu tâm và học hỏi những ǵ mà Ngài đă khai thị cho chúng ta trên bước đường tu tập bằng chính cả cuộc đời tu hành cuả Ngài đă trăi qua mà ta có thể gặp phải để mà biết cách ứng phó.
*Tất cả những ǵ Ngài đă khai thị hoàn toàn cao xa và nhiều ẩn mật. Có thể nói rằng Ngài đang khai thị pháp môn thiền-tịnh song tu dành cho những bậc căn cơ trí huệ thông đạt,theo lối duy tâm tịnh độ có thể thành phật tác tổ ngay trong đời hiện tại. Đây là vô thượng thậm thâm vi diệu thiền vậy.
*Ah! lối nói của Vic chuo không hợp lắm trong bài khai thị cuả HT, đồng ư tất cả vọng niệm hay chánh niệm đều từ tâm cả, tâm là chủ cuả vạn pháp, tất cả thiên đàng hay địa ngục cũng do tâm tạo. Chúng ta không cần phải xem chi vọng tưởng phát xuất từ đâu để mà diệt nó, đây là cách của thiền tông; chúng ta chỉ cần dẫn tịnh niệm về thay vọng niệm th́ tự tánh Di Đà sẽ khai ngộ trong ta, lúc đó ta và phật sẽ một không sai khác. Đây là lời khai thị cuả Bồ Tát Quảng Đức, Ngài c̣n nói giữa thiền và tịnh không có sự khác biệt, lúc đầu chỉ là phương tiện chia ra 2 lối khác nhau nhưng rốt cuộc cũng đến điểm đích là chơn Như vắng lặng niết bàn tịch tịnh. Chỗ rốt ráo là đây. Đối với chúng ta là kẻ phàm phu tục tử trong đời mạt pháp này không ǵ hay hơn là dùng câu niệm phật để thay vọng niệm lúc đó tự tánh Di Đà sẽ bừng khai, lúc đó ta với phật tương ưng là một. Chúng ta nói theo lư thuyết là nh́n thẳng vào tâm, vậy bạn biết tâm là ǵ? bạn nên biết rằng ngoài tâm vương c̣n có tâm sở nưă và biết bao thứ tâm nưă biết đâu mà bạn t́m để trừ diệt nó để tâm ta rỗng rang vắng lặng thấy được tự tánh chính ḿnh thấy con người thật cuả ḿnh đây là lối cuả thiền tông khó lắm bạn ạ! Đối với vọng tưởng chúng ta không cần trừ nó không cần phải t́m nó mà cứ dẫn tịnh niệm về thay vọng niệm là được, bạn cứ thế mà tiến tu sẽ đến chỗ nhất tâm thôi và thấy được tự tánh của chính ḿnh đồng phật không khác vậy. Không nên chấp thiện ác nhơn quả giới luật cứ an nhiên tự tại tu tập miễn sao ḷng ta không hổ thẹn với những việc ḿnh làm là được rồi, ta nên biết mỗi hành động của ḿnh đều có chư Phật chư Bồ Tát và chư vị chứng giám đừng làm càng sai quấy là được.
*Bạn Vic Chuo viết: " v́ tâm ông c̣n phân biệt nên mới có vọng,chân.nhưng khi đă nhận ra thể tánh vốn thanh tịnh th́ vọng tưởng sẻ không c̣n.ngay cả chánh niệm cũng không c̣n trong tâm ông ",thể tánh vốn thanh tịnh th́ vọng tưởng sẻ không c̣n điều này hoàn toàn đúng, nhưng bạn bị lệch ở chỗ "ngay cả chánh niệm cũng không c̣n trong tâm ông", khi tâm tánh thanh tịnh chính là chánh niệm là tịnh niệm là chơn như vắng lặng là niết bàn tịch tịnh. Thế mà bạn nói trong tâm thanh tịnh lại không có chánh niệm. Bạn không đúng ở chỗ này nên xem kĩ lại.
Chân thành Cảm ơn Vic chuo nhe! bệnh tôi cũng đỡ rồi cho nên giờ tôi mới có thời gian với bạn và các bạn thảo luận nè!
Kính chúc các bạn thân tâm thường tinh tấn.
Phổ Quảng
thânchào
|
Quay trở về đầu |
|
|
vic chuo Hội viên
Đă tham gia: 25 July 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 69
|
Msg 5 of 14: Đă gửi: 26 March 2006 lúc 5:41am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Phổ Quảng,
Nếu ông nói vậy th́ tôi có một câu hỏi muốn hỏi ông. Trong kinh Đại Bửu Tích, phẩm 42 có nói: Ở cơi Hương Tích, có Đức Phật hiệu là Hương Tích Như Lai. Ở cơi đó người ta chỉ dùng mùi hương mà đưa chúng sanh thấy được tự tánh. C̣n ở cơi Ta Bà này th́ nói tự tánh là Như như bất động. Theo ông chẳng lẽ đạo Phật có sai khác. Phật này nói giáo pháp khác Phật khác hay sao. Nếu ông hiểu được chỗ này th́ ông mới biết được Niết bàn Tịch tịch là ǵ. Chánh niệm vọng niệm là ǵ. C̣n bây giờ chỉ là trích trong sách mà thôi, mà phải t́m thực chứng từ nơi tâm ḿnh.
Thân chào.
Vic chuo
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 6 of 14: Đă gửi: 27 March 2006 lúc 2:51am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào vic chuo,
Bạn cần chi phải dẫn chứng xa xôi vậy? quốc độ của các chư phật tạo lập đều như nhau, đều do công quả tṛn đầy khi thực hành hạnh nguyện bồ tát viên măn vậy. Nếu cơi phật Hương Tích có loại cơm có mùi thơm th́ cơi Tây Phương Cực Lạc cũng có nước bát công đức thuỷ vậy, c̣n biết bao cơi chư phật khác cũng có phương tiện trợ duyên cho chúng sanh tu hành vậy. Về sắc thái th́ có khác nhau nhưng mục đích chính là giúp cho chúng sanh thấy được tự tánh của chính ḿnh, tự ḿnh khai ngộ cho ḿnh tự ḿnh tu tập cho ḿnh thôi, phật chỉ là vị thầy chỉ bảo và hướng dẫn thôi, chứ không thay ḿnh được. Mười phương chư phật thuyết pháp giáo hoá độ sanh không có sự phân biệt, giáo pháp đồng nhất như nhau nhưng về chúng sanh có sự phân biệt chấp trước cho nên cho là có sự khác biệt, chứ thực ra chúng sanh tuỳ theo căn cơ thượng trung hạ trí mà phật là bậc đại y vương nên biết cân nhắc và cho thuốc đúng bệnh thôi. Tỷ dụ: trăm sông đổ về biển cả th́ giáo pháp cũng vậy thôi chỉ có nhất thừa không sai khác. Mà đa phần chúng ta chấp ngôn từ cho nên chúng ta sẽ tự ḿnh buột ḿnh thôi. Phật không hề dùng văn tự. Theo mỗi người có cách nh́n nhận liễu ngộ vấn đề khác nhau không ai giống nhau tuỳ căn cơ của mỗi người thôi. Nhưng tôi thấy rằng sự liễu nhập và chứng ngộ vào thời này thật nhỏ nhoi. Nếu tự lực th́ khó mà được kết quả, chi bằng ta tự lực + tha lực là hay hơn hết để tiến tu. Nên để tâm thanh tịnh niệm phật là hay hơn lư luận tánh tướng trong khi đó tâm chưa khai ngộ, chưa thấy được con người thực của ḿnh.
Vài lời góp ư, mong vic chuo hiểu.
chúc vic chuo luôn khoẻ
Phổ Quảng
thânchào
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên
Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 7 of 14: Đă gửi: 27 March 2006 lúc 7:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào thầy phoquang,
Con cám ơn thầy đă post nhiều bài Pháp để cho chúng sinh có cơ hội học hỏi thêm về Đức Phật và Giáo lư của Ngài. Con biết Phật qua h́nh tướng trong các ngôi chùa từ thuở nhỏ nhưng con chỉ nghiên cứu Phật Pháp gần đây thôi. Con có 1 thắc mắc muốn hỏi, xin thầy chỉ điểm cho:
Đức Phật Thích Ca đă thuyết Pháp từ khi Ngài Giác Ngộ đến lúc Nhập diệt. Ngài có nói Pháp của Ngài ban cho chúng sanh chỉ như nắm lá trong ḷng bàn tay của Ngài.
Vậy các CHÂN tôn giáo hiện nay có phải là vài chiếc lá trong rừng mà Đức Phật ám chỉ không? C̣n nếu không phải th́ Phật Pháp đâu thể nắm hết toàn bộ CHÂN LƯ được? Đám lá trong rừng biết đi đâu mà kiếm đây?
Xin cám ơn thầy rất nhiều.
Kính chào thầy,
Learner
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 8 of 14: Đă gửi: 28 March 2006 lúc 8:06am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính chào bạn Learner !
Nam mô A Di Đà Phật!
Thiện tai! Thiện tai! Tội lỗi! Tội lỗi!
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát
Sao bạn lại gọi tôi là Thầy thế? Bạn có biết rằng tiếng Thầy mang ư nghĩa bao la và rộng lớn lắm không? và có nhiều trách nhiệm nữa. Tôi không dám nhận làm Thầy của bạn đâu, cũng có thể bạn sẽ làm Thầy của tôi th́ sao? bỡi lẽ tất cả chúng sanh đều có phật tánh như nhau, việc thành phật sớm hay muộn là điều không thể biết được. Do đó, tôi chỉ muốn là một người bạn gần gũi để trao đổi và thảo luận cùng các bạn mà thôi.
Sadhu!Sadhu!Lành thay! Hạnh phúc thay chư phật giáng sinh. Đức phật ra đời không ngoài mục đích khai thị ngộ nhập phật tri kiến cho tất cả chúng sanh. Bạn nên biết rằng Đức Thế Tôn trăi qua vô lượng kiếp tu hành, có khi Ngài làm súc sanh, có khi Ngài làm người, có khi Ngài đoạ địa ngục, có khi Ngài làm Tiên, cho đến khi Ngài làm tṛn Bồ Tát Hạnh th́ Ngài mới chứng quả vị phật. Do đó, các chân tôn giáo nào mà Ngài không học hỏi và tu tập qua chứ? v́ thế các pháp thế gian và xuất thế gian Ngài đều thông đạt cả. V́ thế Ngài mới có danh hiệu " Thiên Nhơn Sư " tức là thầy của chúng trời người vậy. Đây là một trong mười hiệu bất cứ vị nào khi chứng quả vị phật đều có đủ mười hiệu cả.
Khi xưa, Đức Phật cầm nắm lá Simcapa-và hỏi chúng đệ tử: "Lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng nhiều?. Các đệ tử đáp:" Lá trong rừng nhiều ", Ngài bèn nói:" Những điều ta biết cũng như lá trong rừng, nhưng những điều ta dạy được cho các con chỉ bằng nắm lá cầm trong tay ". Đức Phật không thể dạy nhiều v́ trí phàm non nớt quá, nhiều việc không hiểu nổi. Chỉ khi nào chúng ta chứng quả vị phật như Ngài th́ lúc đó chúng ta mới thông đạt tất cả các pháp mà thôi.
Mục đích các tôn giáo xuất hiện trên thế gian này không ngoài mục đích dạy cho chúng ta đạo làm người. Mà trong các Đạo, Đạo Hiếu là trên hết vậy, trong đó phật giáo cũng không ngoại lệ. Tất cả các chân tôn giáo đều có mức độ cao thấp và giải thoát khác nhau không đồng đều, nhưng trong đó phật đạo là trên hết bỡi lẽ đây là con đường trung đạo mà Đức Thế Tôn t́m ra và khai sáng cho chúng ta vậy. Tại sao lại nói như vậy chứ? bỡi v́ trong tất cả các tôn giáo xuất hiện trên thế gian này, không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ dám đặt vị trí của người đệ tử ngang hàng với vị trí của người thầy, trong khi đó Đức Thế Tôn của chúng ta lại hùng hồ tuyên bố rằng:"Ta là Phật đă thành, chúng sanh là phật sẽ thành sau ta ". Đây là điểm khác biệt nhất so với các chân tôn giáo khác. Đức Thế Tôn không kêu gọi chúng ta phải tin Ngài mà Ngài khuyến tấn chúng ta nên thực hành những ǵ mà Ngài đă chứng ngộ để được giải thoát như Ngài. Sự sùng bái kính ngưỡng Ngài là do chúng ta thể hiện ḷng tôn kính của ḿnh đối với vị thầy đă khai sáng cho chúng ta mà thôi.
Qua những ǵ bạn đă viết, tôi cũng phần nào hiểu về bạn. Bạn nên suy gẫm câu này: " Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu, Trăm ngàn ức kiếp khó t́m cầu " mà sớm liệu quyết định cho ḿnh đi. Vào thời này, các tôn giáo và các giáo phái mới sẽ xuất hiện và xưng là chân tôn giáo, tối tôn tối thượng vô biên mà Đức Thế Tôn đă huyền kí, do đó chúng ta phải dùng trí huệ mà quán xét để khỏi lầm kế mỵ tà, ngàn kiếp đoạ lạc khó mà siêu thoát.
Kính mong bạn hiểu những ǵ tôi nói.
Kính chúc bạn sớm t́m được pháp môn và hướng đi thích hợp cho riêng ḿnh.
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát, Tác Đại Chứng Minh
Nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho toàn thể chúng con.
Phổ Quảng
kính
Sửa lại bởi phoquang : 28 March 2006 lúc 8:18am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên
Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 9 of 14: Đă gửi: 28 March 2006 lúc 8:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thầy Phổ Quang,
Con cảm ơn thầy đă phúc đáp cho con.Thầy post bài pháp mới của Ḥa thượng Thiện Hoa quá hay, rất thực tế và dễ hiểu. Hoan hô thầy một cái.
Trên bàn học của con có 3 Thánh vật: H́nh ảnh Đức phật ở bên trái cho con một cái nh́n về sự từ bi, thánh thiện, b́nh an, thoát tục, giải thoát và giác ngộ. C̣n h́nh ảnh của cây thánh giá ở bên phải cho con cái nh́n suy tư về sự hy sinh, đau khổ và sự chết. C̣n Con Mắt của bên Cao Đài Giáo ở chính giữa cho con cái cảm giác là luôn luôn có một Đấng Tối Cao luôn quan sát ḿnh từng giờ từng phút trong từng ư nghĩ, lờ́ nói, việc làm. Hiện tại bây giờ con đang yêu thích cả 3. Không biết trong tương lai sau khi nghiền ngẫm các bài pháp của thầy con sẽ quyết định ra sao đây?
Đức Phật tuyên bố, ta là Phật đă thành, chúng sinh là Phật sẽ thành, nhưng con thấy từ lúc Phật nhập diệt cho đến nay hơn 2500 năm rồi mà trong sác vở chỉ thấy nói đến giáo lư của Ngài mà thôi. C̣n chúng sinh hễ ai sắp sửa thành Phật đều bị bà con hè nhau kéo xuống không hà. Vậy th́ thành Phật cũng không phải là dễ thầy hỉ.
Thầy Phổ Quang nói:
Đức Thế Tôn không kêu gọi chúng ta phải tin Ngài mà Ngài khuyến tấn chúng ta nên thực hành những ǵ mà Ngài đă chứng ngộ để được giải thoát như Ngài. Sự sùng bái kính ngưỡng Ngài là do chúng ta thể hiện ḷng tôn kính của ḿnh đối với vị thầy đă khai sáng cho chúng ta mà thôi.
Learner đáp: quá đúng!
Thầy tiếp: trong tất cả các tôn giáo xuất hiện trên thế gian này, không có tôn giáo nào mà vị giáo chủ dám đặt vị trí của người đệ tử ngang hàng với vị trí của người thầy,
Learner thưa: dạ trong Thánh kinh của bên Đạo Thiên Chuá có những đoạn viết như sau:
* Ta là Thầy mà ta c̣n rửa chân cho các con, vậy các con phải rửa chân cho nhau.
* Ta không gọi các con là đầy tớ v́ đầy tớ không biết việc của chủ làm. Ta gọi các con là bạn hữu...
* Có người thưa với Đức Jesus rằng...Lạy thầy tốt lành...nhưng Ngài đáp lại là không có ai tốt lành ngoại trừ...Ư Ngài muốn nói, Ta cũng không là ǵ cả.
" Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu, Trăm ngàn ức kiếp khó t́m cầu " mà sớm liệu quyết định cho ḿnh đi.
Learner đáp: Thầy nói chí phải.
Con Xin chào Thầy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
tuvils Hội viên
Đă tham gia: 24 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 286
|
Msg 10 of 14: Đă gửi: 28 March 2006 lúc 10:26pm | Đă lưu IP
|
|
|
Kính Bác PhoQuang và Các Bác ,
Tôi hiểu ư Bác muốn chỉ rơ gương hạnh b́nh đẳng tuyệt đối của Đức Phật . Một Đức Giáo Chủ siêu Giáo Chủ , thể hiện bằng lời dạy hết sức giản dị là :
* Đừng vội TIN vào lời thuyết giảng của Ngài và Các Đệ Tử của Ngài , mà hăy chiêm nghiệm và thể nghiệm lời dạy đó vào thực tế cuộc sống . Nếu điều Ngài và các đệ tử của Ngài dạy thực sự mang đến sự An Lạc và Giải Thoát cho ḿnh_cho người , th́ điều nầy nên tin theo và nên làm . NIỀM TIN đối với Đạo của Đức Phật luôn là cái thứ yếu, luôn đi kèm với " điều kiện thực chứng " , không giống như các Vị Giáo Chủ khác , luôn đặt NIỀM TIN VÀO VỊ GIÁO CHỦ LÀ YẾU TỐ HÀNG ĐẦU !
* Vị Trí của Đức Phật là vị trí của MỘT ĐẠO SƯ THỰC SỰ , Ngài không BAN PHÁT cho bất kỳ chúng sanh nào điều ǵ , không hứa khả cho bất cứ ai một chổ nào đó trên Thiên Đường , Địa Ngục..., mà thông qua những phương tiện mà Ngài chỉ dạy , mọi chúng sanh đều phải có nổ lực riêng , đều chịu trách nhiệm về NHÂN_QUẢ mà ḿnh đă gieo . Và tự ḿnh thưởng phạt cho ḿnh về những tư tưởng , hành động ... mà ḿnh đă tạo tác trong quá khư_hiện tại_vị lai !
Trong cái Đồng của các Đấng Giáo Chủ , vẫn có cái Dị_đặc trưng riêng của con đường giải thoát_giác ngộ của Đạo Phật .
Kính các Bác .
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên
Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 11 of 14: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 1:24am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào các bác,
Learner nghe nói Phật pháp có đến thiên kinh vạn quyển và cũng có đến 8 vạn 4 ngàn Pháp môn. Vậy có bác nào ở đây cho hỏi có ai liệt kê ra chỉ phân nửa hoặc 1/4, tức là 21000 Pháp môn để learner mở rộng tầm hiểu biết được không? Thành thật cám ơn các bác nhiều.
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 12 of 14: Đă gửi: 30 March 2006 lúc 2:29am | Đă lưu IP
|
|
|
PHẢI LẠY PHẬT TRONG NỘI TÂM
(Ḥa Thượng Tuyên Hóa giảng ngày 11 tháng 10 năm 1989, tại thành phố Hoa Liên, Đài Loan)
“Tâm chỉ niệm tuyệt, chân phú quư,
Tư dục đoạn tận, chân phước điền.”
(Tâm dừng niệm bặt, giàu sang thật
Tư dục đoạn sạch, ruộng phước thật.)
Chúng ta ngày ngày tu Phật, song lại chẳng biết học theo vị Phật chân chánh, mà chỉ vận dụng công phu trên h́nh tướng bên ngoài, không truy t́m nguồn gốc của Phật trong tự tánh. T́m nguồn gốc của Phật tức là đoạn sạch hết thảy tư dục (những ham muốn riêng tư) để hiển lộ trí huệ quang minh vốn có. Có tư dục th́ không có trí huệ, có trí huệ th́ không có tư dục—trí huệ không thể tách rời tư dục, tư dục không thể tách rời trí huệ.
Phiền năo chính là Bồ Đề, sanh tử chính là Niết Bàn; nếu quư vị có thể trong phiền năo mà không sanh phiền năo, th́ quư vị sẽ có tâm Bồ Đề. Quư vị muốn chấm dứt sanh tử, th́ quư vị đừng tạo thêm sanh tử nữa; và đó chính là Niết Bàn. Người người đều có sanh, do đó ai nấy đều có tử. Nếu quư vị có thể cắt đứt tư dục, th́ sự sanh tử của quư vị cũng sẽ chấm dứt theo; tư dục của quư vị chưa dứt sạch, th́ sự sanh tử của quư vị chưa thể kết thúc được!
“Tư” là riêng tư, điều mà chỉ một ḿnh ḿnh biết chứ người khác không thể nào biết được. Người có ḷng tư dục chỉ muốn phô bày cái tốt ra cho người khác biết, c̣n cái xấu th́ che đậy giấu giếm, hy vọng như thế sẽ làm cho người khác có cảm tưởng tốt về ḿnh. Tư dục xui khiến quư vị nói dối, điên đảo thị phi, không phân biệt được thẳng cong phải trái, trắng đen hỗn loạn—tất cả chỉ v́ quư vị để cho ḷng tư dục chi phối, sai khiến.
Nếu quư vị không có tư dục th́ trí huệ quang minh vốn có của quư vị sẽ hiển hiện, bất tất phải t́m kiếm bên ngoài, mà tự ḿnh t́m cầu nơi chính ḿnh. Chúng ta sống ở cơi đời này, mọi cử chỉ hành động, lời nói việc làm, đều cần phải phản tỉnh, phải quay lại t́m cầu nơi chính ḿnh.
Quư vị cần phải: “Những ǵ ḿnh không muốn th́ chớ đem cho người khác.” Những ǵ chính bản thân quư vị không thích th́ cũng đừng đem trút lên đầu lên cổ người khác. Cổ nhân có nói:
“Nhân tuy chí ngu,
trách nhân tắc minh,
thứ kỷ tắc hôn.”
Có nghĩa là người ta tuy ngu xuẩn đến cực điểm, nhưng đối với thói hư tật xấu của kẻ khác th́ lại có thể kể ra rất rơ ràng, rành rẽ. Người ấy nói chuyện thị phi của kẻ khác th́ thao thao bất tuyệt, có bài có bản, “biện tài vô ngại”; nhưng đối với việc của chính ḿnh th́ lại mê muội hồ đồ, tùy tiện cẩu thả, không thể biện biệt rơ ràng, phạm sai sót cũng chẳng quan tâm, thậm chí c̣n che giấu lỗi lầm nữa—đây là do bị ḷng tư dục chi phối, xúi giục, khiến người ấy gây ra những điều sai trái, và luôn luôn tự tha thứ cho chính ḿnh!
“Cẩu hữu thông minh
dĩ trách nhân chi tâm trách kỷ,
dĩ thứ kỷ chi tâm thứ nhân,
hà hoạn bất chí Thánh Hiền địa vị.”
tức là nếu người thông minh, lấy tâm trách người để trách ḿnh, lấy tâm tha thứ ḿnh để tha thứ người, th́ lo ǵ chẳng đạt được địa vị của Thánh Hiền!
Giả sử quư vị thật sự có thông minh tài trí, có thể “lấy tâm trách người để trách ḿnh”—tức là biết phản tỉnh, quay lại t́m cầu ở chính ḿnh, dùng ḷng khoan dung tha thứ cho chính ḿnh mà khoan dung tha thứ cho người khác—lại có thể “những ǵ ḿnh không muốn th́ chớ đem cho người khác,” và thấy việc nghĩa th́ dũng cảm đứng ra gánh vác; như thế, nhất định quư vị sẽ đạt được địa vị của Thánh Hiền; thậm chí nếu quư vị làm việc chân chánh nữa, th́ sẽ được “tức thân thành Phật.”
Cho nên, này quư vị! Quư vị hướng về vị Phật ở bên ngoài mà đảnh lễ, th́ chẳng bằng hướng về vị Phật của chính ḿnh mà đảnh lễ! Quư vị cần phải cung kính đối với chính ḿnh, thời thời khắc khắc đều giống như đối với Phật, hoặc như đối với Bồ Tát Quán Thế Âm vậy—có như thế th́ mới là chân chánh lạy Phật, chân chánh lạy sám hối, và chân chánh niệm Phật. Trái lại, nếu quư vị không như thế, th́ quư vị chỉ là học những “lời cửa miệng,” người ta nói sao th́ ḿnh lặp lại y như vậy—người ta lạy Phật th́ ḿnh cũng lạy Phật, người ta niệm Phật th́ ḿnh cũng niệm Phật, người ta ăn cơm th́ ḿnh cũng ăn cơm; thế nhưng, việc sanh tử của người ta th́ ḿnh không thể nào chấm dứt được!
Quư vị cần phải “chân dẫm trên đất thật,” cần phải chân chánh thực hành. Tôi nghe kể rằng lúc trước tại Đài Loan có một vị Tỳ Kheo Ni tên là Phước Huệ. Vị Tỳ Khưu Ni này, năm hai mươi tuổi th́ kết hôn và sanh được hai người con; đến năm cô hai mươi lăm tuổi th́ chồng chết. Nh́n thấu chuyện hồng trần, cô bèn xuất gia đi tu. Cô không ăn thức ngon, chẳng mặc đồ tốt, cũng chẳng ở nhà cao cửa rộng; mà thường lui tới các chùa chiền để làm công việc lau chùi quét dọn, lại chẳng cho ai biết họ tên ḿnh là ǵ cả. Cô thường hay bố thí nước “Đại Bi” cho người ta để chữa bệnh; đă không nói chuyện, cũng chẳng nhận tiền; cứ như thế mà tu hành. Quư vị phải tu hành như thế th́ mới là chân chánh tu hành; bằng không th́ chùa dù to, tiền dù nhiều, nhưng sanh tử vẫn chẳng thể dứt được!
Cho nên, quư vị có bổn phận phải vận dụng công phu, xem tâm tham của ḿnh đă bị trừ khử chưa, tâm sân đă bị loại bỏ chưa, và tâm si đă bị quét sạch chưa.
Người xuất gia chúng ta cần phải:
Siêng tu Giới, Định, Huệ,
Dứt sạch tham, sân, si.
Thế th́, rốt cuộc quư vị có làm được chăng? Nếu làm được, th́ mới không hoài phí một kiếp được làm người, không uổng công một phen xuất gia, và không phải là một đệ tử vô dụng của Phật!
Chúng ta cần phải “hồi quang phản chiếu,” trở về t́m lại nơi chính ḿnh. Muốn quay ngược lại để t́m cầu công phu nơi chính ḿnh th́ phải:
Thật nhận nơi ḿnh sai,
Đừng nói lỗi của người,
Lỗi người là lỗi ḿnh,
Đồng thể tức Đại Bi.
V́ sao tôi nói như thế? V́ tôi gặp rất nhiều người bị bệnh tật, đặc biệt là những người mắc phải các chứng bệnh lạ lùng kỳ quái. Những người này khi cơn bệnh hoành hành th́ “oán trời trách người”—trách móc ông Trời không được công bằng: “Tại sao chỉ khiến một ḿnh tôi mắc bệnh? Tại sao không bắt những người khác bị bệnh?” Họ chỉ biết sanh ḷng phẫn hận bất b́nh như thế, mà không biết rằng đó chẳng qua đều là “tiền nhân, hậu quả” cả! Bởi đời trước họ đă giết hại quá nhiều sinh vật—đi săn, đi câu, đi đánh cá, giết gà, giết ḅ, giết dê, giết chó… —chính v́ họ đă sát sanh quá nhiều, cho nên trong đời hiện tại này họ mới bị mắc phải nhiều chứng bệnh kỳ quái như thế!
|
Quay trở về đầu |
|
|
Learner Hội viên
Đă tham gia: 09 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 673
|
Msg 13 of 14: Đă gửi: 30 March 2006 lúc 4:29am | Đă lưu IP
|
|
|
Bài Pháp trên được sánh như 1 viên ngọc quí trong kho tàng của Alibaba. Cám ơn thầy Phổ Quảng
|
Quay trở về đầu |
|
|
phoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 511
|
Msg 14 of 14: Đă gửi: 01 April 2006 lúc 10:50pm | Đă lưu IP
|
|
|
Lư do phân phái và t́nh h́nh phân phái trong đạo Phật
Giáo sư: Minh Chi
A- T́nh h́nh chung
Sự phân phái đă từng xảy ra hai lần trong thời kỳ Phật c̣n tại thế. Lần phân phái thứ nhất ở Kausambi được giải quyết nhanh chóng. Lần phân phái thứ hai, do Devadatta chủ xướng, dẫn tới thành lập một bộ phái riêng rẽ, mà đến thế kỷ thứ VII, khi Huyền Trang qua Ấn Độ vẫn c̣n ghi tiếng vang. Dưới thời vua Asoka (300 trước CN), Phật giáo tuy đại thịnh, nhưng nội bộ Phật giáo đă có sự chia rẽ nghiêm trọng, mà Asoka có nói tới trong các trụ đá ở Kosambi, Sanchi và Sarnath.
Trong các trụ đá, Asoka đe dọa sẽ tẩn xuất khỏi Tăng chúng tất cả những ai chủ xướng chia rẽ và phân phái. Nhưng cũng dưới thời Asoka đă xảy ra lần phân phái nghiêm trọng và lớn nhất, khiến tách ra bộ phái Đại chúng bộ (Mahasanghika) chiếm số đông, tán thành 5 điểm của Mahadeva (Đại Thiên), đối lập với Thượng tọa bộ, thiểu số và có tư tưởng bảo thủ. Ngay ở Sri Lanka, nơi truyền giáo của Mahinda cũng không tránh được sự phân phái. Các Tăng sĩ của tu viện lớn Mahavihara, dưới triều vua Dutthagamani tách khỏi bạn đồng tu mà lập ra ở Abhayagira một đồ chúng mới, cắt đứt mọi quan hệ với Tăng chúng ngày trước do chính Mahinda thành lập.
Thời ấy, người ta phân biệt rơ hai khái niệm: phân phái (samghabheda) và chia rẽ (samgharaji). Sự phân phái xảy ra khi có ít nhất là 9 Tỷ kheo, sinh hoạt trong một hội chúng tại cùng một địa phương, nhưng có một số quan điểm khác biệt về Luật hay Pháp, so với quan điểm truyền thống của hội chúng, và sau một cuộc bỏ phiếu tổ chức theo đúng Luật, bèn tách khỏi hội chúng đó và tiến hành riêng rẽ lễ bố tát và một số Phật sự khác. Nếu số Tỷ kheo không đến 9 người, th́ không phải là phân phái mà là chia rẽ.
Chính thể theo một cuộc bầu phiếu đúng luật mà Đại chúng bộ h́nh thành và tách khỏi Thượng tọa bộ. Và sau một thời gian, cả hai bộ phái chính nói trên lại tách ra nhiều bộ phái khác với những quan điểm khác nhau về một hay một vài điểm trong Luật và Pháp. Không bao lâu, con số bộ phái lên đến 20, kể cả hai bộ phái chính Đại chúng bộ và Thượng tọa bộ. Quá tŕnh phân phái nhiều khi xảy ra một cách tự phát, do địa bàn Phật giáo mở rộng ra khắp đất nước Ấn Độ, rồi vượt biên giới Ấn Độ, lan rộng nhiều vùng khác nhau trên thế giới.
Có thể nói, phân phái là hệ quả không thể tránh của sự phát triển của đạo Phật trong không gian và thời gian. Không gian mới, thời gian mới khiến nảy sinh ra những nhu cầu mới về tâm linh, về tri thức trong dân chúng nói chung cũng như trong Phật giáo đồ nói riêng. Sự phân phái thể hiện yêu cầu cập nhật hóa và bản địa hóa của Phật giáo. Để khỏi bị lạc hậu so với thời thế, đạo Phật phải cập nhật hóa, hiện đại hóa. Để tránh khỏi mâu thuẫn, xung đột với truyền thống văn hóa, tập tục và tín ngưỡng địa phương, Phật giáo bắt buộc phải bản địa hóa. Hoàn cảnh địa lư, chính trị xă hội, kinh tế rất đa dạng của các vùng mà Phật giáo mới du nhập vào đặt ra cho những người lănh đạo Tăng chúng ở các vùng khác nhau hàng loạt vấn đề mới phải giải quyết. Thí dụ có những vùng điều kiện sinh hoạt dễ dàng. Tăng chúng có thể rất đông đảo và sống dựa một chiều vào sự cúng dường của thập phương; nhưng cũng có những vùng điều kiện sinh hoạt rất khó khăn, Tăng chúng phải tự tăng gia và nuôi sống ḿnh, hoặc một phần hoặc toàn bộ. Có những vùng và quốc gia, trong đó chính quyền ủng hộ Phật giáo. Nhưng có những vùng chính quyền công khai chống đối Phật giáo. Cũng có những vùng chính quyền giữ thái độ trung lập đối với các tôn giáo và hệ tín ngưỡng khác nhau. Có những nước, những vùng vốn là cái nôi của một nền văn minh và văn hóa lâu đời, có tiếng tăm, như Trung Quốc, v.v... Nhưng cũng có những vùng, dân chúng sống rất lạc hậu, mù chữ, có thể nói là trong t́nh trạng dă man, hay bán khai. Có những vùng có khí hậu rất khắc nghiệt, quanh năm chỉ là băng tuyết, hay là có địa h́nh hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, hay chỉ là sa mạc cát nóng v.v... Đạo Phật muốn du nhập và tồn tại, phát triển tại những vùng khác nhau như thế, chắc chắn là không thể giữ nguyên t́nh trạng và tổ chức như khi c̣n ở vùng trù phú của trung châu sông Hằng.
Ở Ấn Độ, thời bấy giờ, tuy có t́nh trạng phân phái, thế nhưng giữa các bộ phái, quan hệ vẫn là quan hệ giữa những người đồng đạo, những người con Phật. Khi Huyền Trang qua Ấn Độ vào thế kỷ VII Tây lịch, ông có nhận xét là các Tăng sĩ Tiểu thừa giáo và Đại thừa giáo có thể ở cùng trong một chùa, một tu viện mà không xảy ra xích mích ǵ. Chỉ có điều khác là Tăng sĩ Tiểu thừa th́ tụng các kinh sách Tiểu thừa, c̣n các Tăng sĩ Đại thừa giáo th́ tụng các kinh Đại thừa. Tăng sĩ bất cứ thuộc bộ phái nào, đều được các chùa và tu viện Phật giáo tiếp đón tử tế lịch sự, theo đúng nghi thức của Tăng đoàn.
Ngày nay, chúng ta có thể biết các t́nh h́nh bộ phái Phật giáo ở Ấn Độ vào đầu Tây lịch qua các tác phẩm lịch sử Phật giáo, đặc biệt là cuốn "Samayabhado paracanacakra" (Dị bộ tôn luận) của Vasumitra, hay là cuốn Kathavathu, đối với một thời kỳ phân phái sớm hơn.
B- Về những lư do đặt tên các bộ phái
1. Dựa vào nội dung của quan điểm giáo lư:
như Sthaviravada - Thượng tọa bộ - tức là bộ phái của các vị Trưởng lăo, Thượng tọa. Lokottaravada - Thuyết xuất thế bộ - là bộ phái thuyết minh những pháp siêu thế, Ekavya vaharika - Nhất thuyết bộ, Prajnaptivadin - Thuyết giả bộ - phân biệt giữa thực giáo và giả danh, Sautrantika - Kinh lượng bộ - chỉ thừa nhận giáo lư chính thống ghi trong kinh tạng.
2. Dựa vào cơ cấu của Hội chúng thành lập bộ phái:
Mahasanghika - Đại chúng bộ khẳng định tính đại chúng của hội chúng thành lập. Bahusratva (Đa văn) là bộ phái mà hội chúng thành lập gồm toàn những bậc học rộng đa văn. Dharmottarya - (Pháp thượng bộ) là bộ phái của những người đề cao giáo pháp. Bhadrayaniya - Hiền vị bộ, bộ phái của các bậc trí giả v.v...
3. Dựa vào địa bàn hoạt động của bộ phái:
Haimavata (Tuyết sơn bộ) địa bàn hoạt động là vùng núi Tuyết Sơn (Himalaya), Caityasaila (Chế đa sơn bộ) có địa bàn hoạt động tại vùng núi Kaitya (ở xứ Andhra) Aparasaila - Tây sơn trụ bộ, có địa bàn hoạt động ở phía Tây dăy núi (xứ Andhra).
4. Dựa vào tên vị cao tăng sáng lập ra bộ phái:
Vatsiputrya - (Độc tử bộ), dựa vào tên vị A la hán có tên như vậy. Mahisasaka (Hóa địa bộ), tên một người Bà la môn sáng lập có tên như vậy. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) được sáng lập bởi một đệ tử của Maudgalyayana, tên là Dharmapupta. Và Sammatiya (Chánh lượng bộ) do Sammita sáng lập v.v...
C- Số bộ phái thật sự có bao nhiêu?
Lịch sử h́nh thành các bộ phái đă trải qua nhiều năm, th́ các sử gia Ấn Độ cũng như Trung Hoa mới bắt đầu công việc thu thập tài liệu để viết về lịch sử truyền thừa các bộ phái, cũng như nội dung chủ thuyết của các bộ phái. V́ thiếu tài liệu, cho nên cái gọi là sử liệu các bộ phái, do các sử gia Ấn và Trung Hoa viết không tránh khỏi có những phần hư cấu. Các sử gia chú trọng nhiều tới lịch sử truyền thừa của các bộ phái, lịch sử đó do chính người của các bộ phái viết, do đó mà tùy theo bộ phái, lịch sử truyền thừa có điểm khác nhau. V́ ai cũng muốn nói tốt cho bộ phái ḿnh.
a/ Bảng hai bộ phái chính của sử gia Tây Tạng Taranatha:
Trong cuốn lịch sử Phật giáo Ấn Độ, xuất bản 1968, Taranatha công bố bảng hai bộ phái chính, mà ông cho là do Thượng tọa bộ soạn:
A- Mahasanghika: phân thành 8 bộ:
1. Nulamahasanghika;
2. Ekavyavaharika;
3. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ).
4. Bahusrutya (Đa văn bộ);
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ);
6. Caitika (Chế đa sơn bộ);
7. Purvasaila (Đông sơn trụ bộ);
8. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ).
B- Sthavira: phân thành 10 bộ:
1. Mulasthavira;
2. Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ);
3. Vatsiputrya (Độc tử bộ);
4. Dharmottarya (Pháp thượng bộ);
5. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ);
6. Sammatiya (Chánh lượng bộ);
7. Mahisasaka (Hóa địa bộ);
8. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ);
9. Suvarsaka (Ấm quang bộ);
10. Uttariya (Mật lâm bộ).
Bảng phân phái trên đây mà Taranatha cho là thuộc bộ phái Sthavira (hay Theravada), trùng hợp với các bảng của Vasumitra được La Thập và Chân Đế (Paramartha) dịch ra chữ Hán, với đầu đề Dị bộ tôn luận. Bộ luận của Vasumitra cũng được Huyền Trang dịch. Bản Hán dịch của Huyền Trang được Masuda dịch ra tiếng Anh: Origin and Doctrines of Buddhist Schools (Asia Major II 1925, p.I-78, cũng được A.Barreau dịch ra tiếng Pháp Trois traités sur les sectes bouddhiques. J.A 1954 P.235-266).
Đệ tử của Huyền Trang là Khuy Cơ có viết cuốn "Dị bộ tôn luận thuật kư" là bản sớ giải về bản dịch của Huyền Trang, được viết theo những chỉ dẫn của Huyền Trang. Theo bản dịch của Huyền Trang th́ Vadumitra phân chia các bộ phái như sau:
b/ Bảng Vadumitra:
A- Mahasanghika:
1. Ehavyavaharika (Nhất thuyết bộ),
2. Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ),
3. Kaukutika (Kê dẫn bộ),
4. Bahusrutya (Đa văn bộ),
5. Prajnativa (Thuyết giả bộ),
6. Caityasala (Chế đa sơn bộ),
7. Aparasaila (Tây sơn trụ bộ),
8. Uttarasaila (Đông sơn trụ bộ).
B- Sthaviravada:
1. Sarvastivada hay là Hetuvada, phân phái thành,
2. Vataiputrya (độc tử bộ),
3. Dharmottariya (Pháp thượng bộ),
4. Bhadrayaniya (Hiền vị bộ),
5.Channagarika (hay Sannagarika) (Mật lâm bộ),
6. Mahisasaka (Hóa địa bộ),
7. Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ),
8. Kasyapiya hay Sauvaraika (Ấm quang bộ),
9. Sautrantika hay Samkrantivadin (Kinh lượng bộ),
10. Mulasanrvastivada hay Haimavata (Tuyết sơn bộ).
Cũng theo Vasumitra, chính thuyết năm điểm do Mahadeva (Đại thiên) đề xuất vào năm 116 sau Niết bàn đă dẫn tới sự phân phái giữa Thượng tọa bộ (Sthavira) và Đại chúng bộ (Mahasanghika). Đại chúng bộ rút về phía Bắc thành Vương xá (Rajagrha), và đến thế kỷ II sau Niết bàn th́ chia thành 4 bộ phái: Ekavyavaharika (Nhất thuyết bộ), Lokottaravadin (Thuyết xuất thế bộ), Kaukuttika (Kê dẫn bộ) và Bahusrutya (Đa văn bộ). Bốn bộ phái này đều tôn luận chủ Yajnava kya làm thầy. Đến thế kỷ III sau Niết bàn, một cuộc chia rẽ mới dẫn tới thành lập tại vùng núi Andhra bộ phái Caityasaila (Chế đa sơn bộ), và bộ phái này lại chia làm hai Tây sơn trụ bộ và Đông sơn trụ bộ.
Trong thời gian hai thế kỷ sau Niết bàn, Thượng tọa bộ vẫn giữ được sự thống nhất nội bộ dưới sự hướng dẫn của các vị Thượng thủ tiếng tăm như các Ngài Kasyapa (Ca Diếp) Ananda (Anan), Madhyantika, Sanavasin, Upagupta, Purna, Mecaka và Katyayaniputra. Sau khi Ngài Katyayaniputra tịch, vào đầu thế kỷ III sau Niết bàn, th́ Thượng tọa bộ phân làm hai nhánh:
1). Nhánh các vị trưởng lăo, trung thành với truyền thống Kinh tạng, rút về vùng dăy núi Tuyết Sơn và lấy tên là Tuyết Sơn bộ (Haimavata) và
2). là nhóm theo luận chủ Katyayaniputra, chủ trương phát triển Luận tạng Abhidharma, và có những đổi mới được phái Thượng tọa bộ chính thống xem là nguy hiểm. Nhóm này mang tên Sarvastivadin (Nhất thiết hữu bộ).
Trong thế kỷ III và vào đầu thế kỷ IV sau Niết bàn, th́ Hữu bộ Sarvastivada sinh ra bốn bộ phái mới là Vatsiputrya (Độc tử bộ) Mahisasaka (Hóa địa bộ), Kasyapiya (Ấm quang bộ) và Sautrantika (Kinh lượng bộ). Thành lập bộ phái Độc tử bộ là một Bà la môn tên là Vataiputrya, học tṛ của Rabula. Chính Rahula đă truyền bộ luận A Tỳ Đàm của Xá lợi Phất (Sariputra abhdharma Vatsiputrya. Sau đó, từ Độc tử bộ lại nảy sinh ra bốn bộ phái mới là Dharmottarya (Pháp thượng bộ), Bhadrayaniya (Hiền vị bộ), Sammatiya (Chánh lượng bộ) và Channagirika (Mật Lâm bộ).
Bộ phái Mahisasaka được thành lập bởi một Bà la môn, trước khi xuất gia có làm quan chức về địa bạ, địa chính, sau đó xuất gia, chứng quả A la hán. Một bộ phái mới, Dharmaguptaka (Pháp tạng bộ) sinh ra từ bộ phái Mahisasaka (Hóa địa bộ).
C̣n bộ phái Kasyapiya hay Sauvarsaka (Ấm quang bộ) là do A la hán Suvarsaka Kasyapiya thành lập.
Bộ phái Kinh lượng bộ (Sautrantika) theo tên gọi của nó cho biết, chỉ công nhận tính chính thống của Kinh tạng, do Phật đích thân thuyết giảng mà thôi.
c/ Bảng phân phái của Đại chúng bộ:
Bảng này thuộc Đại chúng bộ, nhưng không rơ tác giả là ai. Bản này được dịch ra chữ Hán, giữa các năm 317 và 420.
I. Đại chúng bộ:
1.Ekavyavahara (Nhất thuyết bộ)
2. Lokottara (Thuyết xuất thế bộ)
3. Kukukklika (Kê dẫn bộ)
4. Bahusrutaka (Đa văn bộ)
5. Prajnativadin (Thuyết giả bộ)
6. Mahadeva - thế kỷ III sau Niết bàn.
7. Caitika (Caitra) (Chế đa sơn bộ)
8. Matara (Uttarasaila)
II. Thượng tọa bộ:
1. Sarvastivada (Hữu bộ)
2. Mahisasaka (Hóa địa)
3. Dharmaguptaka (Pháp tạng)
4. Suvarsa (Ấm quang)
5. Vatsiputrya (Độc tử)
6. Dharmottarika (Pháp thượng)
7. Shadrayanya (Hiền vị)
8. Sammatiya (Chánh lượng)
9. Sannagarika (lâm sơn bộ)
10. Kasyapiya
11. Sutravadin
12. Samkrantika (Kinh lượng bộ)
d/ Bảng phân phái, lập ra từ các kinh sách chữ Pàli:
Trong tư liệu dẫn chứng, có thể kể: Dipavamsa (đảo sử), Mahavamsa, cuốn Kathavattu v.v...
I. Mahasanghikas:
1. Cokulika
2. Pannati
3. Bahussutaka hay Bahulika
4. Cetya
5. Bkavyoharika
II. Theravada:
1. Mahimsasaka
2. Sabbatthivada
3. Kassapiya
4. Samhantika
5. Suttavada
6. Dhammaguttika.
7. Vajjiputtaka
8. Dhammuttarya
9. Bhadrayanika
10. Chandagarika
11. Sammitya
Về thời điểm phân phái, các tài liệu Tích Lan cho biết:
1. Trong thế kỷ đầu tiên sau Niết bàn (486-386), hiện tượng phân phái chưa xảy ra.
2. Trong thế kỷ II, tức là giữa Đại hội kiết tập lần thứ hai, (386 trước CN hay là 100 sau NB), và Đại hội Kiết tập lần thứ ba (256 trước CN hay 236 sau NB) có 18 bộ phái xuất hiện.
3. Trong thế kỷ III sau NB, tức từ 286 đến 186 trước CN, có 6 bộ phái mới xuất hiện và phát triển ở Ấn Độ: Hemavata, Rajagirya, Siddhatika, Pubbaseliya Aparaseliya và Vajiriya.
Có thể đây là sáu bộ phái nhánh, tách khỏi Đại chúng bộ năm 255 sau NB (236 trước CN), rồi sau đó tạo thành ba bộ phái mới là: Vetulya, Andhaka và Anya-Mahasamghika.
4. Năm 236 sau NB, tức 250 trước CN, Thượng tọa bộ du nhập vào Xây Lan, dưới sự chỉ đạo của Mahinda. Đại biểu của Thượng tọa bộ ở Xây Lan là các du sĩ thuộc tu viện Mahavira, kể cả tu viện mới Mahameghavana, do vua Devanampiyatissa tặng họ. Trong khuôn viên của tu viện mới này có bảo tháp Thuparama, do vua Devanampiyatissa xây, và cây bồ đề lớn lên từ một nhánh của cây bồ đề ở Caya, do em gái của Mahinda là Sanghamitta đem sang. Có pḥng làm lễ bố tát (Uposatha) do vua Dutthagamani xây cũng như bảo tháp nổi tiếng Mahathupa hay là Dagoba Ruvanveli cũng do vua này tạo dựng. Hiện nay các tu sĩ thuộc tu viện Mahavira cũng tự xem ḿnh là đại biểu uy quyền nhất của Kinh và Luật tạng Phật giáo nguyên thủy.
Thế nhưng, ngay ở Xây Lan, sự thống nhất của Thượng tọa bộ cũng không giữ vững được.
Dưới triều vua Vattagamani, tức năm 454 sau NB hay năm 32 trước CN, một số tu sĩ tách khỏi bạn đồng tu của ḿnh ở tu viện Mahavira và đến tu viện Abhayagira, phía Bắc thủ đô Anuradhapura, lập ra bộ phái Dhammarucika.
Dưới triều vua Vcharikatissa, 746-768 sau NB, tức 260-262 TL, một nhánh Đại thừa gọi là Vetullavada xuất hiện ở Xây Lan, gặp sự chống đối của Kapila, một Thượng thư trong triều, nhánh Đại thừa này vẫn c̣n một số Tăng sĩ trung thành trong bộ phái Dhammarucika.
Dưới triều vua Gothakabhaaya (785-798 sau NB, tức 299-317 TL) một số Tăng sĩ thuộc bộ phái Dhamamrucika tách ra sang ở chùa Dakhinavihara, lập ra bộ phái mới gọi là Sangaliya. Sự phân phái này do Thượng tọa Sagala chủ xướng xảy ra vào năm 795 sau Niết bàn.
Dưới triều vua Mahasena (322-349 TL) bộ phái mới này chiếm tu viện mới Jevatana ở Anuradhapura. Từ đó, bộ phái đổi tên là Jetavaniya.
e/ Bảng của Manjusriparipracchha:
Bảng phân phái này được dịch ra chữ Hán bởi Sanghabhara, năm 518.
I. Mahasanghika:
- Ekavyavaharika
- Lokottaravada
- Kaukulika
- Bahusrutya
- Caitika
- Purvasaila (Tây sơn trụ)
- Uttarasaila
II. Sthavira:
- Sarvastivada
- Haimavata
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayarmya
- Sammatiya
- Sangdagatika
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Kasyapiya
- Sautrantika
g/ Bảng phân phái của Bhavya:
Shavya có thể là tu sĩ kiêm nhà văn lớn Bhavaviveka, sống vào hậu bán thế kỷ VI, là người sáng lập ra nhánh Svatantrika - Sautrantika của trường phái Trung quán. Bảng này mở đầu bằng lời ghi nhận cuộc phân phái lớn thứ nhất xảy ra dưới triều vua Asoka, khoảng 160 năm sau Niết bàn, dẫn tới thành lập hai bộ phái chính là Sthavira và Mahasanghika.
I. Mahasanghika:
- Malamahasanghika
- Ekavyavaharika
- Lokottaravadin
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
- Prvasaila
- Aparasaila
II. Sthavira:
- Mulasthavira hay là Haimavata
- Sarvastivada hay là Vibhajyavadin, Hetuvadin, Muruntaka.
- Vatsiputrya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sammatiya cũng gọi là Avantaka hay Kurukulla
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka hay Kasyapiya
- Uttariya hay Samkrantivadin.
h/ Bảng của bộ phái Sammatiya:
I. Mahasanghika
- Ekavyavaharika
- Gokulika
- Bahusrutya
- Prajnaptivadin
- Caitika
II. Sthavira
- Malasthavira
- Sarvastivadin
- Vibhajyavadin
- Mahasisaka
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya
- Kasyapiya
- Samkrantivadin
- Vassiputrya
- Mahagirya
- Dharmattariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika
- Sammatiya
- Haimavata.
i/ Bảng phân phái của Đại chúng bộ, theo sử gia Tây Tạng Taranatha:
I. Sthavira
- Sarvastivadin
- Mulasarvastivadin
- Sautrantika
- Vatsiputriya
- Sammatiya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
II. Mahasanghika:
- Mulamahassanghika
- Purvasaila
- Aparasaila
- Pajagirika
- Haimavata
- Siddharthika
- Cokulika
III. Vibhajyavadin:
- Mahisasaka
- Kasyakiya
- Dharmaguptaka
- Tamrasatiya.
Bảng phân phái này chắc là ra đời muộn, cho nên có ghi thêm nhiều bộ phái mới. Thí dụ, bộ phái Tamrasatiya, c̣n gọi là Tamrasarniya chính là các tu sĩ ở vùng Xây Lan Taprobane, bao gồm nhiều luậạn sư nổi tiếng với các chủ thuyết từng được các luận sư Vasubandhu và Asanga bàn tới.
k/ Bảng năm bộ phái:
Không rơ tác giả lập ra bảng 5 bộ phái. Nhưng h́nh như năm bộ phái này là nổi tiếng nhất và c̣n tồn tại khi Huyền Trang tới Ấn Độ vào thế kỷ VII. Năm 630, khi Huyền Trang tới Uddiyana, th́ có được năm bộ Luật, thuộc năm bộ phái: Dharmaguptaka, Mahisasaka, Kasyapiya, Sarvastivada và Mahasanghika. Ở Trung Quốc vào năm 587, có bản dịch Hán văn của 5 tiểu sử Phật Thích Ca, nhưng khác biệt nhau và thuộc về năm bộ phái khác nhau: Mahasanghika, Sarvastivada, Kasyapiya, Dharmaguptaka và Mahisasaka.
Sau đây là bảng năm bộ phái chính cùng với những bộ phái nhánh:
I. - Sarvastivada
- Vatsiputriya
- Dharmottariya
- Bhadrayaniya
- Sannagarika.
II. - Mahisasaka
III. - Kasyapiya
- Samkrantika
- Sammatiya
IV. - Mahasanghika
- Ekavyavaharika
- Bahusrutya
- Prajnaptinvada
- Caitika
- Aparasaila
- Uttarasaila
V. - Dharmaguptaka.
l- Nhận xét của Huyền Trang khi đến Ấn Độ, về t́nh trạng các bộ phái:
Trong cuốn Tây du kư, Huyền Trang mô tả ở Ấn Độ vào thời ông đến, có các loại Tỷ kheo như sau:
1. Số Tỷ kheo không thuộc bộ phái nào nhất định. Họ sống thành những nhóm nhỏ.
2. Tỷ kheo theo Tiểu thừa giáo, nhưng thuộc bộ phái nào không rơ.
3. Các Tỷ kheo thuộc Đại chúng bộ và Thuyết xuất thế bộ (Lokottavaradin).
4. Các Tỷ kheo thuộc Hữu bộ (Sarvastivadin).
5. Các Tỷ kheo Thượng tọa bộ và những Tỷ kheo Trưởng lăo, chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đại thừa.
6. Tỷ kheo thuộc bộ phái Sammitiya.
7. Những Tỷ kheo thuộc Đại thừa giáo, sống tập trung đông đảo ở các vùng Uddhiyana, Gharni, Magadha và miền Nam Kosala.
8. Số Tỷ kheo Đại thừa giáo, nhưng sống trong những tu viện trước đây thuộc Tiểu thừa, do đó, họ cũng nghiên cứu Kinh và Luật thuộc Tiểu thừa.
Theo các số liệu của Huyền Trang, th́ ở Ấn Độ cũng như ở Trung Á, số Tỷ kheo theo Đại thừa và Tiểu thừa xấp xỉ nhau, không chênh lệch mấy: khoảng 134.000 Tỷ kheo Tiểu thừa đối lại với 119.430 Tỷ kheo Đại thừa giáo.
m/ Bảng bốn bộ phái chính của Nghĩa Tịnh:
Một thế kỷ sau Huyền Trang, Pháp sư Nghĩa Tịnh đi thăm Ấn Độ và các đảo vùng Nam Hải. Ông cho biết thêm những chi tiết sau về t́nh h́nh các bộ phái:
Nói chung chỉ c̣n lại bốn bộ phái chính:
1- Bộ phái Đại chúng bộ phân thành năm bộ phái nhỏ. Mỗi tạng của ba tạng của bộ phái này, gồm 100.000 câu kệ. Tổng cộng ba tạng có 300.000 câu kệ.
2- Bộ phái Sthavira phân thành ba bộ phái nhánh.
3- Bộ phái Hữu bộ phân thành bốn bộ phái nhánh: Dharmaguptaka, Mahisasaka, Kasyapiya...
4- Bộ phái Sammitya chia thành bốn bộ phái nhánh.
n/ Bảng của Vinitadeva thuộc Hữu bộ:
I. Mahasanghika:
- Purvasaila
- Aparasaila
- Haimavaita
- Lokottaravadin
- Prajnajtivadin.
II. Sarvastivadin:
- Mulasarvastivada
- Kasyapiya
- Mahisasaka
- Dharmaguptaka
- Bahusrutya
- Tamrasatiya
- Vibhagyavadin.
III. Sthavira:
- Jevataniya
- Abhayagirivasin
- Mahaviharavasin.
IV. Sammitiya:
- Kaurukullaka
- Avantaka
- Vatsiputrya.
Trên đây là t́nh h́nh phân phái qua các thời kỳ. Trong một bài sau (*) chúng ta sẽ nghiên cứu chủ thuyết khác biệt của các bộ phái./.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|