Tác giả |
|
thanhtinh Hội viên
Đă tham gia: 14 November 2005 Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 37
|
Msg 1 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:11am | Đă lưu IP
|
|
|
Đối trị tâm sân hận
1. Sân hận là ǵ?
Sân hận hay giận dữ là một trạng thái t́nh cảm rất thông thường của con người. Hầu như ai cũng từng nổi giận, trong một thời điểm nào đó, với một mức độ nào đó, khi đối diện với một người hay một điều kiện không vừa ḷng. Dù vậy cũng nên xem các bậc hiền triết xưa nay định nghĩa sân hận như thế nào.
Chí Tôn Ca định nghĩa như sau: "Tham ái sinh ra từ sự dính mắc, và sân hận sinh ra từ tham ái. Cả tham ái lẫn sân hận đều là sản phẩm của tâm. Sân hận là cánh cửa mở vào địa ngục v́ nó dẫn đến sự huỷ diệt bản ngă."[1]
Sankara cho rằng sân hận phát sinh do tham muốn bị cản trở bởi một tác nhân nào đó, dù là hữu thức hay vô thức.[2]
Samkhiya cũng đồng quan điểm, rằng khi một người gặp phải sự chống đối, sự cản trở, hay bị đánh bại bởi một người nào đó th́ trở nên giận dữ. Sân hận là biểu hiện cho năng lượng của tâm khi tham ái không được thoả măn.[3]
Trong Bộ Pháp Tụ, sân hận được định nghĩa là "sự nóng nảy, sự hăm hại, sự đối lập, sự chống đối, sự hung dữ, sự lỗ măng, sự không hoan hỷ của tâm". [4]
Theo cách hiểu thông thường, sân hận là trạng thái cảm xúc mạnh mẽ mà ta cảm thấy khi cho rằng người khác đă cư xử một cách bất công, độc ác, và không thể chấp nhận được.[5]
Trong một cuốn sách nghiên cứu về sân hận[6], R.L. Richmond cho rằng sân hận là cảm giác chống lại một người hay vật nào đó. Đó là thứ cảm xúc thù địch khiến cho con người chống đối lẫn nhau, và có khi chống đối cả chính ḿnh. Ông cũng nói thêm rằng dù giận dữ là một phản ứng tâm lư tự nhiên khi bị xúc phạm hay nhục mạ, nhưng tự nhiên không có nghĩa là tốt cho chúng ta. Chẳng hạn, chất độc cũng là một chất tự nhiên, nhưng chất độc lại gây chết người.[7] Và v́ vậy giận dữ không phải là cách tốt nhất để phản ứng lại với sự xúc phạm hay nhục mạ. Từ anger (giận dữ) trong tiếng Anh có cùng gốc với từ anguish (có nghĩa là đau khổ, buồn bực) và từ angst (có nghĩa là sợ hăi, lo lắng).[8]
Dù rất mạnh mẽ, sân hận là một cảm xúc thứ sinh, nghĩa là sân hận thường phát sinh sau những cảm xúc khác như đau đớn hay sợ hăi.
Là danh pháp, sân hận không có h́nh thức, nhưng rất dễ nhận biết khi người ta sân hận, v́ sân hận biểu hiện rất rơ trên thân. Như một số nhà tâm lư học mô tả, "sân hận được biểu hiện với cặp mắt đỏ ngầu, mặt mày dữ tợn, nghiến răng, bặm môi, siết tay, đấm ngực, đập phá, gây gỗ, đâm chém, giết chóc, v.v…"[9] Cũng có một số người biểu hiện sự giận dữ một cách thâm trầm bằng cách im lặng mặc dù đang sôi sục trong ḷng. Nhưng cả trong trường hợp đó, người sân hận cũng không hề thân thiện và dễ chịu chút nào, và điều này ảnh hưởng không ít đến quan hệ của người đó đối với người xung quanh.
2. Những điểm lợi và bất lợi của sân hận:
Mặc dù biết sân hận là một thứ cảm xúc rất tai hại, nhưng hầu như chúng ta ai cũng nổi giận, và thậm chí c̣n ưa thích với nó nữa. Bởi v́ nổi giận cũng có những điểm lợi nào đó. Khi người ta nổi giận, người ta cảm thấy có sức mạnh và có thể chế ngự người khác. Chẳng hạn một bà mẹ có quát lên th́ mấy đứa con mới chịu im lặng, không quậy phá. Nổi giận với chính những khuyết điểm của chính ḿnh có thể giúp chúng ta thay đổi và phát triển nội lực. Bất b́nh trước những bất công hay ngược đăi cũng giúp chúng ta đứng lên đấu tranh cho quyền lợi của người khác. Ngoài ra, nổi giận cũng là cách để giải toả bớt bức xúc và căng thẳng. Ngài Dalai Lama nói rằng nếu quan sát tâm sân hận, ta sẽ có cảm tưởng sân hận khởi lên như một người bảo hộ, một người bạn để gíup chúng ta trả thù lại ngững người đă hăm hại chúng ta, nhưng thật ra đó chỉ là một ảo tưởng. Đó là một ảo giác đánh lừa mà thôi[10]. Chính v́ vậy mà Đức Phật nói rằng sân hận có một cái ngọn tẩm mật (madhuragga) và một cái rễ tẩm thuốc độc (visamula)[11]. Chú giải giải thích thêm rằng sân hận có rễ độc v́ nó tạo nên đau khổ, và nó có ngọn tẩm mật v́ có sự khoái trá khi người ta ăn miếng trả miếng với nhau. V́ vậy nếu suy xét sâu xa, chúng ta sẽ thấy rằng nổi giận không phải là một biện pháp tốt về lâu về dài mà có rất nhiều biện pháp khác để có thể cảm thấy an toàn, mạnh mẽ và được người khác tôn trọng.
Về sự tai hại của sân hận, trong kinh Sân Hận, Phẩm Không Tuyên Bố, Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật có nói đến 7 điều xảy đến cho một người hay sân hận:
"Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu cho người ấy khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, rồi người ấy cũng trở thành xấu xí; dầu có nằm trên giường nệm, chăn len, họ vẫn ngủ một cách khổ sở ;thâu hoạch bất lợi, lại nghĩ rằng: "Ta được lợi ích", thâu hoạch điều bất lợi ích, lại nghĩ rằng: "Ta không được lợi ích". Những pháp này được nắm giữ khiến người khác trở thành thù địch, đưa đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài; những tài sản nào của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần, cất chứa do sức mạnh của cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp, thâu hoạch hợp pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua; nếu có được danh tiếng ǵ nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng ấy lánh xa họ; nếu người đó có những bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ǵ, họ sẽ xa lánh, từ bỏ người đó, v́ người đó bị phẫn nộ chinh phục; người đó làm ác hạnh với thân, người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến điều ác hạnh với ư, khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục."[12]
Bằng kinh nghiệm bản thân, và bằng cách quan sát người khác, chúng ta có thể thấy rằng khi nổi giận trông ta thật xấu xí. Khi cơn giận lên cao, ta có thể hất tung tất cả mọi thứ, và muốn xa lánh ngay cả những người mà ta thương yêu nhất. Bởi v́ lúc đó cơn sân đă lấn át và phá huỷ sự b́nh an trong tâm hồn ta. Sự giận dữ của ta khiến cho người khác nh́n ta một cách thiếu thiện cảm, và tạo nên một ấn tượng rất xấu trong ḷng họ. Sự giận dữ của chính ta sẽ làm bùng dậy sự giận dữ ở người khác, và là nguyên nhân cho sự bạo động, trả thù hay phá hoại từ họ. Sân hận ảnh hưởng đến cách giải quyết vấn đề , làm hỏng sự suy xét của chúng ta, làm cho người khác xa lánh và các mối quan hệ trở nên căng thẳng. Nó khiến cho nhữnng người xung quanh chúng ta không dám phát biểu ư kiến hữu ích của họ v́ sợ chúng ta nổi giận, và dần dà nó đưa đến sự xung đột với người khác. Sân hận tước mất đi niềm vui, hạnh phúc, sự b́nh yên và hoà hợp. Đôi khi do thiếu kiềm chế, sân hận có thể dẫn đến tội lỗi, khiến cho chúng ta phải ăn năn, hối tiếc, khiến ḷng tự trọng của chúng ta bị tổn thương, và tệ hơn, là chúng ta đă nêu một tấm gương xấu cho con cái hay đệ tử của ḿnh. Nổi giận thường xuyên c̣n ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Những người hay nổi giận, nóng nảy và bạo động thường dễ bị huyết áp cao, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, tai nạn lao động, và chết bất đắc kỳ tử. Họ cũng có nguy cơ bị đau đầu, đau lưng, ung thư, và rối loạn tiêu hoá. Họ dễ bị sa vào nghiện ngập và mắc bệnh tâm lư.[13] C̣n có thể kể ra nhiều điều tai hại của sân hận, nhưng chúng ta có thể kết luận với một lời nhận xét ngắn gọn của Shantideva, là "không ai có thể sống hạnh phúc với sân hận"[14]. V́ vậy chúng ta cần phải chiêm nghiệm để thấy hết những tai hại của sân hận, để nhận ra rằng sân hận chính là một sai lầm, một nguồn tai hoạ trong đời sống chúng ta. Đức Phật đă ví sân hận với một kẻ thù. Bất cứ những điều tai hại nào mà kẻ thù muốn đem đến cho chúng ta, sân hận có thể đem lại một cách rất là hữu hiệu.
3. Tại sao chúng ta nổi giận?
Sau khi đă thấy rơ những tai hại của sân hận, chúng ta muôn chấm dứt nó, nhưng muốn làm vậy, trước hết chúng ta phải truy cho ra nguồn gốc của sân hận. Thông thường chúng ta nổi giận khi cảm thấy chính bản thân chúng ta hay là người thân của chúng ta bị đối xử bất công. Và bởi v́ chúng ta quan tâm đến những người thân của ḿnh, chúng ta không chịu nổi sự bất công đó, và cơn giận khởi lên từ ư muốn bảo vệ người thân và bảo vệ chính ḿnh. Cho nên có thể thấy rằng quan tâm đến người khác tuy là một đức tính tốt, nhưng nếu không biết hướng nó đúng cách cũng có thể dẫn đến những phản ứng không lành mạnh. Sân hận thường là hậu quả của việc bị tổn thương t́nh cảm, bị đe doạ, hay thất vọng. Chúng ta nổi giận khi chúng ta cảm thấy bị từ chối, khinh thường, bất lực và tổn thương. Và do đó chúng ta có một khát khao muốn làm tổn thương người khác như chúng ta đă từng bị thương tổn. Đôi khi những đ̣i hỏi không thực tế cũng là nguyên nhân của sân hận. Chúng ta mong muốn quá nhiều từ bản thân, đồng nghiệp, con cái, hay hoàn cảnh sống, và khi sự việc xảy ra không như chúng ta mong mỏi, chúng ta cảm thấy buồn bực và bất măn. Đôi khi sự căng thẳng ảnh hưởng đến t́nh cảm của chúng ta - những người chịu quá nhiều áp lực thường rất dễ nổi giận. Và một lư do nữa, có thể đó là do cá tánh, v́ chúng ta có tánh t́nh nóng nảy, có cảm xúc quá mạnh mẽ do yếu tố sân tuỳ miên quá sâu dày trong tâm của chúng ta.
Mặc dù nói một cách khách quan th́ sân hận khởi lên là để phản ứng với những người hay hoàn cảnh bất như ư, nhưng nguồn gốc thực sự của nó lại là chủ quan và ở bên trong chúng ta, đó chính là ảo tưởng về bản ngă trong tâm chúng ta. Sân hận khởi lên từ chính bản ngă, chứ không ǵ khác. Như Ajahn Jagaro[15] đă nhận xét một cách chính xác, chúng ta chỉ thích những cái ǵ làm thoả măn và tâng bốc cái bản ngă của chúng ta. Ngược lại, chúng ta không thich bất cứ cái ǵ thách thức, đe doạ, xúc phạm hay hạ bệ cái bản ngă của ḿnh. Bản ngă không thích điều đó nên nó phản ứng lại bằng sân hận và giận dữ. Nếu không có bản ngă sẽ th́ không có vấn đề ǵ cả. Đức Phật không c̣n bản ngă nên ngài luôn luôn an tịnh và là một nguồn an lạc cho tất cả chúng sanh, cho toàn thế giới.
4. Đối trị tâm sân hận:
Đôi khi chúng ta nghĩ rằng nếu chúng ta không nổi giận th́ chúng ta không khác ǵ cây cỏ vô tri, rằng không làm ǵ cả mà chỉ chịu đựng tất cả những bất công đến với ḿnh là một thái độ tiêu cực. Nhưng sự thật th́ sân hận hay giận dữ không phải là vũ khí tốt nhất để đấu tranh cho sự công bằng, bởi v́ chúng ta đă biết sân hận đă đem đến bao nhiêu tai hại cho chính chúng ta và người khác. Trong một vài trường hợp, khi cần thiết, chúng ta có thể hành động để điều chỉnh những sai trái, nhưng chúng ta nên hành động với sức mạnh của tâm từ ái, trầm tĩnh, chứ không phải với tâm phá hoại. Nói cách khác, có thể dùng biện pháp mạnh, nhưng không phải với ác ư và thù hận.
Một vài nhà tâm lư học cho rằng chúng ta nên bộc lộ sự giận dữ của ḿnh để khỏi bị ức chế dẫn đến bệnh hoạn. Nhưng một số nhà tâm lư học khác lại đúng hơn khi cho rằng bộc phát cơn giận không giải quyết được vấn đề. Mặc dù việc bộc lộ sự giận dữ của ḿnh có thể đem lại sự thoả măn tức thời – có thể bằng cách la hét, muá may, đập phá đồ đạc, chửi rủa, v.v… - nhưng cách đó không thể xua tan cơn giận. Ngược lại, nó chỉ kích thích thêm những khuấy động t́nh cảm và thậm chí c̣n kéo dài nó.
Có lẽ cách thông thường nhất để đề pḥng tâm sân hận là tránh những người hay t́nh huống khó chịu. Nếu chúng ta cảm thấy chúng ta không thể chịu nổi một người hay một t́nh huống nào đó, mà nếu gặp chúng ta dễ nổi giận, th́ tốt hơn nên tránh xa họ. Sự tránh xa này phải ở cả thân lẫn tâm, nghĩa là chúng ta không nên để cho những đối tượng đó hiện diện ngay cả trong tâm chúng ta và quấy nhiễu sự b́nh an trong tâm hồn ḿnh. Dù đây là một cách khá dễ dàng để khỏi nổi sân, không phải khi nào chúng ta cũng làm được điều đó, và chúng ta cũng phải công nhận rằng đó không phải là biện pháp tốt nhất để diệt trừ tâm sân hận. Trái lại chúng ta nên học cách làm sao để có thể sống chung hoà b́nh với những ǵ mà chúng ta không thích. Chúng ta nên trang bị cho ḿnh với một tư tưởng rằng trên đời này không có một cái ǵ hay một người nào hoàn hảo, rằng con người không thể hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu, mà là một sự kết hợp của các thuộc tính tốt và xấu ở các mức độ khác nhau. Chúng ta cần phải chấp nhận rằng đă là con người th́ đều có thể mắc sai lầm, và phải cho người ta có quyền khác với ḿnh, có quyền phạm sai lầm, bởi v́ bất toàn là đặc tính chung của toàn nhân loại. Chấp nhận những sai sót và khuyết điểm của chính ḿnh và của người khác là một dấu hiệu của ḷng nhẫn nại và bao dung, vốn là một thứ thuốc giải độc cho tâm sân hận.
Một trong những vấn đề liên quan đến sân hận là chúng ta cảm thấy ḿnh đúng khi nổi giận, và bởi v́ chúng ta thấy ḿnh đúng, nên chúng ta hoàn toàn đồng hoá ḿnh với cơn giận. V́ vậy, điều đầu tiên chúng ta cần phải làm để đối trị tâm sân hận là không đồng hoá với nó. Chúng ta nên cảm nhận nó một cách rơ ràng như một cảm giác, xem nó khởi lên, lớn dần và biến mất như thế nào. Phương pháp chánh niệm trên cảm thọ như vậy giúp chúng ta theo dơi cơn sân với tư cách là một người quan sát khách quan, không c̣n bị nó đồng hoá hay sai sử nữa. Bởi vậy khi nào chúng ta nổi giận, hăy dừng lại và quan sát. Hăy cố gắng có một giây phút chánh niệm để xem cảm giác đó là thế nào. Do ảnh hưởng của chánh niệm cơn sân sẽ mất sức mạnh và dần dần giảm đi. Chúng ta không đè nén cơn sân mà chỉ quan sát và để cho nó biến mất. Phương pháp này có thể coi là trung đạo giữa sự bộc phát vá sự đè nén.
Chúng ta cũng có thể dùng lư luận để chặn bớt sân hận. Chúng ta nên tự hỏi là nếu ḿnh giận một người nào th́ ḿnh có thể làm ǵ được họ. Chúng ta không thể huỷ hoại đức hạnh hay các phẩm tính tốt của họ. Đức Phật thường nói rằng giận dữ với người khác cũng như cầm phân, than nóng, hay sắt nung đỏ để đánh người khác. Chính chúng ta sẽ là người đầu tiên bị vấy bẩn hay bị thương. Cũng như vậy, nếu người khác nổi giận với ta th́ họ sẽ làm ǵ được ta? Họ có thể huỷ hoại đức hạnh và các phẩm tính tốt của ta chăng?
V́ vậy tự trọng là một vũ khí khác để đối trị tâm sân hận. Tự trọng được định nghĩa là "một cái nh́n thực tế và trân trọng đối với chính ḿnh"[16]. Có nghĩa là chúng ta nh́n chính ḿnh một cách chính xác và trung thực, không đề cao mà cũng không hạ thấp giá trị hay tầm quan trọng của chính ḿnh. Chúng ta ư thức được những ưu điểm và nhược điểm của ḿnh, và cảm thấy thoải mái với chính bản thân chúng ta. Ngài Ajahn Cha, một thiền sư nổi tiếng của Thái Lan, thường dạy các đệ tử của ngài: "Nếu người ta chửi con là chó, th́ con hăy nh́n lui xem ḿnh có cái đuôi không. Nếu con có cái đuôi th́ họ nói đúng rồi. C̣n nếu con không có đuôi, th́ cũng đừng lo lắng làm ǵ. Con không phải là con chó, vậy th́ đâu có vấn đề?"[17] V́ vậy, nếu chúng ta biết rơ giá trị của chính ḿnh, chúng ta không cần phải tranh đấu để tự khẳng định lại ḿnh khi bị người khác lăng mạ. Lúc đó chúng ta sẽ b́nh an dù có bị tấn công cách mấy, bởi v́ tận sâu thẳm trong ḷng chúng ta biết rằng không một điều ǵ mà người khác nói hay làm có thể làm thay đổi giá trị và nhân cách của chúng ta.
Một phương pháp nữa để tránh xa tâm sân hận là sự đồng cảm. "Đồng cảm là thấy được quan điểm của người khác và cảm nhận được những điều họ đang cảm nhận"[18]. Với tâm đồng cảm, chúng ta hiểu rằng những người hay gây hấn chính là những người đang bị tổn thương, rằng những người cố ư hại người khác là do tâm họ không được an lành. Với tâm đồng cảm, chúng ta biết rằng những người đang xúc phạm chúng ta đều có những vết thương chưa được hàn gắn, rằng họ đang có những bất an và sợ hăi trong ḷng, và nên thú nhận rằng nếu chúng ta gặp những vấn đề tương tự, có lẽ chúng ta cũng hành động như họ mà thôi. Có thể họ không phải là người ích kỷ hay vô tâm, mà đôi lúc chỉ v́ họ bị rối trí và tán loạn mới cư xử như vậy, và v́ thế chúng ta không nên buộc tội họ làm ǵ.
Để ngăn ngừa tâm sân hận, chúng ta nên thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta nên thay đổi lối suy nghĩ của ḿnh từ thái độ tiêu cực và thù ghét sang một thái độ tích cực và b́nh thản. Hăy cố gắng đừng tập trung vào những khía cạnh tiêu cực mà nên nh́n vào cả những khía cạnh tích cực của một vấn đề. Khi một việc ǵ không được "xuôi chiều mát mái", hăy t́m xem có biện pháp nào để khắc phục được không. Nếu có th́ theo đó mà hành động, bằng không, th́ cứ chấp nhận và cho qua. Ngài Shantideva đă đặt ra một câu hỏi rất khôn khéo: "Tại sao phải buồn bực với một điều ǵ nếu điều đó có thể thay đổi được? Và lợi ích ǵ khi buồn bực với những điều mà ḿnh không thể thay đổi?"[19]
Ngài cũng chỉ ra một phương pháp để ngăn ngừa tâm sân hận, đó là xem xét cả yếu tố trực tiếp lẫn yếu tố gián tiếp gây nên một hành động hay một sự thương tổn. "Chẳng hạn, nếu một người dùng gậy đánh một người khác, th́ thật ra người đó nên giận cây gậy mới đúng. Hay cũng có thể nói là nên giận chính cái gốc bên trong tâm của người đánh mới phải. Tức là nên nổi giận với chính tâm sân của người đó. Vậy th́ tại sao chúng ta lại đi chọn cái trung gian giữa nguyên nhân trực tiếp gây thương tích, là cây gậy, và nguyên nhân gián tiếp, là sân hận, cái gốc rễ bên trong? Chúng ta gạt bỏ hai nguyên nhân này ra một bên, và chỉ chọn vật trung gian, là con người, để mà nổi giận, và dồn hết tất cả sự giận dữ vào người đó."[20] Bằng sự quán xét này chúng ta sẽ nhận ra rằng không phải là một người nào khác, mà chính bản chất của con người đang làm tổn thương chúng ta, và v́ vậy mà chúng ta có thể rải tâm bi đến người đó và tha thứ cho họ. Một trong những lời khuyên của Đức Phật là "Nếu người nào dùng tay, dùng đá, dùng gậy, dùng dao để đánh con, th́ con hăy từ bỏ hết những ư muốn trả thù thông thường của người thế tục. Và con nên tự nhủ rằng "tâm ta sẽ không bị khuấy động, và ta sẽ không thốt lên một lời xấu ác nào. Ta sẽ an trú vào tâm bi, vào tâm từ, để không khởi lên một niệm thù ghét nào, v́ lợi ích của người kia."[21]
Tâm từ (metta) là liều thuốc tốt nhất để trị tâm sân hận. Tâm từ là t́nh thương không chiếm hữu mà chỉ muốn giúp đỡ, sẵn sàng hy sinh những quyền lợi riêng của chính ḿnh cho hạnh phúc và sự an vui của tất cả chúng sanh. Tâm từ không lựa chọn hay chối bỏ một đối tượng nào. Nếu chúng ta chỉ thương yêu một số bạn hữu và xa lánh những người xấu, tức là chúng ta chưa thực hành tâm từ. Có một phương pháp thiền gọi là thiền tâm từ (metta bhavana), là phương pháp "làm phát sanh một tư tưởng mạnh mẽ, một t́nh thương rộng lớn đến vô lượng, làm cho tâm trở nên vô biên và phổ cập, mong cho tất cả chúng sanh trở nên hiền hoà, không thù oán lẫn nhau, hạnh phúc, an vui, không bị buồn khổ hay hiểm nguy."[22] Hành tâm từ sẽ làm giảm đi khuynh hướng hay giận dữ và rốt ráo có thể diệt sân hận tận gốc rễ.
Tâm Bi (karuna) là một pháp hành cao thượng mà Đức Phật thường khuyên các đệ tử của ngài tu tập. Tâm bi là tâm cảm nhận được sự đau khổ và mong muốn làm giảm bớt sự đau khổ của chính ḿnh và của người khác. Đau khổ tồn tại dưới rất nhiều h́nh thức. Khi một người cau có, cay nghiệt, ưa gây sự và cư xử một cách vô lư, th́ chắc chắn là người đó đang đau khổ trong ḷng, và không biết nên cư xử làm sao. Với tâm bi, chúng ta thông cảm với nổi khổ của người khác và không phản ứng lại bằng cách tương tự để cho t́nh trạng càng xấu thêm. Thay v́ xúc phạm người đă xúc phạm ḿnh, chúng ta quan tâm đến họ và cố gắng làm điều ǵ đó để giúp họ vơi bớt niềm đau khổ.
Tha thứ là một liều thuốc tuyệt diệu cho sân hận, và thường được xem là "viên kim cương trên vương miện của các pháp đối trị tâm sân hận", theo như một số người nhận định. "Tha thứ có nghĩa là chúng ta quyết định bỏ đi tất cả sự oán giận, ganh ghét, cay nghiệt, và ḷng khao khát muốn trả thù cho những điều sai trái đă xảy đến với chúng ta. Đó là cách làm hoà b́nh với quá khứ."[23] Chúng ta có thể tha thứ thật sự khi chúng ta biết rằng người khác xúc phạm chúng ta bởi v́ họ là nạn nhân của chính những phiền năo trong tâm họ và của hoàn cảnh bên ngoài, và nổi giận với họ th́ chính chúng ta cũng đánh mất đi sự b́nh an trong tâm hồn ḿnh. Chúng ta tha thứ để chúng ta thoát khỏi những phiền năo của chính ḿnh và bớt đau khổ. Một cách rốt ráo th́ tha thứ là sự lựa chọn cá nhân của chúng ta, không cần người khác phải ăn năn, xin lỗi, hay xứng đáng để được tha thứ.[24] Mặc dù đôi lúc tha thứ thật là khó khăn, nhưng chúng ta nên cố gắng thục tập nó v́ tha thứ chính là ch́a khoá cho sự hài hoà tốt đẹp của gia đ́nh và xă hội.
Khi cảm thấy hành tâm bi quá khó khăn, hay khi khả năng tha thứ của chúng ta c̣n quá yếu, th́ một phương pháp khác có thể sử dụng, đó là phát triển tâm xả. "Tâm xả nghĩa là nhận thức, hiểu biết, chấp nhận, và bằng ḷng với sự thật là có một giới hạn nhất định trong những việc ta có thể làm hay thành tựu đuợc. Ta phải chấp nhận rằng người đó là như vậy, và rồi bước qua một bên".[25] Để phát triển tâm xả, chúng ta cần hiểu và chấp nhận định luật về nghiệp. Tất cả hành động thiện và bất thiện đều cho quả. Không ai có thể tránh khỏi những quả mà ḿnh đă gieo. V́ vậy khi một người lăng nhục hay lừa gạt chúng ta, nếu chúng ta phản ứng bằng cách tương tự th́ chính chúng ta cũng đă phạm vào một hành vi bất thiện. Ngược lại, chúng ta nên tin rằng dù chúng ta có trả thù hay không th́ người đó cũng không tránh khỏi nghiệp của họ. Có người cho rằng thái độ này quá tiêu cực, rằng ít nhất chúng ta cũng nên làm ǵ để tự bảo vệ ḿnh, nhưng đôi lúc chúng ta không thể làm được điều ǵ, và trong trường hợp đó, tâm xả là phương pháp tốt nhất giúp chúng ta khỏi nổi sân.
Câu chuyện của ngài Sariputta là một tấm gương sáng cho tất cả chúng ta, nhũng người muốn học hạnh từ bi, khoan dung va khiêm tốn. Một hôm khi Đức Phật đang ở gần thành Xá Vệ, một vị tỳ kheo đến và thưa với Đức Phật rằng ngài Sariputta đă xúc phạm tới ông mà không hề xin lỗi, và đă bỏ đi du hành nơi khác. Đức Phật bảo một vị tỳ kheo đi thỉnh ngài Sariputta đến trước Đức Phật và chư tăng. Khi được hỏi có phải là ngài đă xúc phạm một vị tỳ kheo và không xin lỗi mà bỏ đi nơi du hành nơi khác chăng, ngài Sariputta trả lời rằng chỉ có một người thiếu chánh niệm mới làm điều đó, và ngài tŕnh bày tiếp ngài đă tu tập và cư xử như thế nào trong đời sống hàng ngày. Ngài đă sống học hạnh khiêm cung như đất, như nước, như lửa, như gió, v.v… :
"Ví như, bạch Thế Tôn, trên đất, người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ bất tịnh, quăng phẩn uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không xấu hổ, hay không nhàm chán. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm như đất, rộng răi, rộng lớn, vô lượng, không hận, không sân. Bạch Thế Tôn, với ai không an trú thân niệm, người ấy ở đây, sau khi xúc phạm một vị đồng Phạm hạnh, có thể bỏ đi du hành, mà không có xin lỗi.
Cũng vậy, nước rửa sạch các thứ tịnh và bất tịnh; tuy vậy nước không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán; lửa đốt các thứ tịnh và bất tịnh, tuy vậy lửa không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán; gió thổi các đồ tịnh và bất tịnh, tuy vậy gió không lo âu, không xấu hổ, không nhàm chán. Với một tâm như đất, như nước, như lửa, như gió vậy, th́ làm sao lại có thể xúc phạm người khác?"[26]
Nghe xong những lời nói hùng hồn như sư tử hống của ngài Sariputta, vị tỳ kheo đó quỳ dưới chân Đức Phật và thú nhận rằng ông đă v́ ngu si, v́ vô minh, v́ bất thiện mà đă xuyên tạc Tôn giả Sàriputta một cách không ư thức, trống không, vọng ngôn, không thật. Đức Phật tha thứ cho ông và yêu cầu ngài Sariputta cũng nên tha thứ cho ông ta.
*
Trong đời sống cá nhân, gia đ́nh và xă hội, chúng ta đều đă có những kinh nghiệm riêng về sức tàn phá của tâm sân hận. Nó có sức huỷ hoại hơn bất cứ một thứ vũ khí nào. Sân hận gây nên sự cáu gắt, căng thẳng, và đau khổ, và khi sân hận có mặt th́ hạnh phúc không thể hiện diện trong tâm. Và v́ khuynh hướng của con người là mong cầu hạnh phúc và loại bỏ đau khổ, chúng ta nên tu tập để diệt trừ tâm sân hận. Đó không phải là vấn đề cá nhân mà c̣n là vấn đề xă hội, bởi v́ sự thật th́ "Nếu chúng ta muốn thay đổi xă hội, trước hết hăy thay đổi chính ḿnh". Nếu chúng ta muốn thế giới này trở nên nhân ái hơn, trước hết chúng ta phải đến với người bằng ḷng nhân ái, nếu chúng ta muốn mọi người bớt bạo động th́ trước hết chúng ta phải an hoà và trầm tĩnh. Sự thật này đă được Đức Phật nhắc đến trong bài kệ số 5 của Kinh Pháp Cú:
"Nếu ai lấy oán báo thù
Oan oan tương báo, thiên thu hằng sầu
Từ tâm định luật nhiệm mầu
Lấy ân báo oán, c̣n đâu oán thù?"[27]
Nguyện cho tất cả chúng sanh sớm thoát khỏi tâm sân hận, và sống an vui vượt ngoài ṿng kềm toả của hằn thù và sân hận
|
Quay trở về đầu |
|
|
saohom Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 2 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:15am | Đă lưu IP
|
|
|
T́m Pháp Ở Đâu?
Theo Phật Học Từ Điển th́ danh từ Pháp có rất nhiều nghĩa, mà rộng nhất và bao trùm nhất là định nghĩa: "Quỹ sinh vật giải, nhậm tŕ tự tánh" dịch nghĩa là những h́nh dáng cấu tạo, giải thích rơ một vật, nắm giữ tự tánh của nó, không cho lầm lẫn với vật khác. Theo định nghĩa này th́ Pháp là tất cả mọi sự vật ở trên thế gian, dù có h́nh dáng hay không có h́nh dáng, dù có thật hay tưởng tượng, người, thú, cây cỏ cũng đều là Pháp, Luân Hồi Nhân Quả cũng là Pháp, Tư Tưởng, Hành Động cũng là Pháp. Nhưng theo định nghĩa được dùng nhiều nhất, dễ hiểu nhất, th́ Pháp là những lời Phật dạy các đệ tử, sau đó được ghi chép bằng chữ của người đời, gọi là Kinh, Luật. C̣n Luận là những lời bàn của các vị Đại Bồ Tát, đệ tử Phật làm sáng tỏ thêm những lời Phật dạy. Kinh, Luật và Luận được gọi là Tam Tạng Pháp Bảo.
Vậy câu hỏi: "T́m Pháp ở đâu?" thoạt nghe thật dễ trả lời: T́m Pháp trong các cuốn kinh Phật, trong Tam Tạng Pháp Bảo, mà kinh Phật th́ nhiều lắm, dễ t́m. Cứ đến các chùa, thư viện, các nhà Phật tử th́ thấy ngay. Câu này thật ra chỉ đúng một phần thôi, đó là về mặt Sự, c̣n thiếu mặt Lư nữa. Người xưa đă dạy: "Đọc Kinh cầu Lư"; khi đọc kinh đừng đọc như con vẹt, chẳng hiểu ǵ cả, đừng đọc cho lấy lệ hoặc để người khác kính nể, mà c̣n phải t́m ra nghĩa lư câu Kinh, Lư đây là nghĩa ẩn, nghĩa bóng, chữ không phải nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó.
Cuốn Kinh Phật nào cũng quư báu cũng dạy chúng sinh đường lối tu hành để được thoát khổ, được vui, được giác ngộ và giải thoát, ra khỏi vùng luân hồi trong ba cơi, sáu đường. V́ vậy, các đệ tử Phật, sau khi quy y Phật rồi, th́ phải quy y Pháp là tuân theo lời dạy của Phật, hiểu rơ và thực hành những lời Phật dạy, sống theo Pháp, ḥa ḿnh trong Pháp, nhập làm một với Pháp.
Tất cả mọi sự vật đều có h́nh tướng riêng biệt, nhưng đều chung một bản thể, đó là Pháp Tánh. Những ai thâm nhập được bản thể ấy, thấu hiểu Pháp Tánh th́ đạt đến Sự Thật, chứng ngộ Chân Lư. Pháp Tánh đó không h́nh, không tướng, chỉ bàng bạc trong không gian và thời gian, và được thể hiện qua các luật thiên nhiên như Luân Hồi, Nhân Quả, Duyên Khởi. Những ai thuận với thiên nhiên, sống với luật thiên nhiên, và nhất là không làm trái với luật đó th́ được coi là người thực hành Chánh Pháp; c̣n những ai không tuân theo Chánh Pháp mà sống ngược với luật Phật, luật thiên nhiên th́ người đó thực hành Tà Pháp. Nếu đă biết cùng chung một bản thể, một nguồn gốc, th́ tất cả chúng sinh đều có liên hệ với nhau, tất nhiên phải yêu thương lẫn nhau, ḥa thuận với nhau, d́u bước nhau tiến đến chỗ sáng suốt an vui, không c̣n chia rẽ hận thù, tất cả được ví như con một nhà, chim một tổ.
Trước khi nhập Niết Bàn, Phật có căn dặn các đệ tử cứ theo Chánh Pháp mà tu th́ cũng như Phật c̣n tại thế. Nhưng trong kinh điển Đại Thừa Phật giáo có câu: "Chánh Pháp c̣n phải bỏ huống chi Tà Pháp." Như vậy có mâu thuẩn không? Tà Pháp th́ dĩ nhiên phải bỏ rồi, nhưng Chánh Pháp sao cũng phải bỏ? Đây là lời Phật dạy các Đại Đệ Tử, những vị đă dày công tu hành, chứng quả, đừng chấp nê vào danh từ, ngôn ngữ, ôm chặt những ǵ đă có, mà c̣n phải vươn lên nữa, vượt qua những danh từ, ngôn ngữ là những ước lệ tương đối để đạt đến chỗ tuyệt đối, mà danh từ ngôn ngữ không sao diễn tả nổi. Chánh Pháp được ví như chiếc bè đưa người qua sông, rất quư báu và hữu ích, nhưng qua sông rồi th́ không cần dùng đến bè nữa; nếu cứ ôm bè theo th́ sẽ trở ngại cho việc đi đường. Người tu theo tinh thần Đại Thừa luôn luôn cố gắng vượt qua ngôn ngữ, văn tự để đạt tới lư "KHÔNG", tới chỗ nhiệm mầu của Trí Tuệ Bát Nhă, đó là phương pháp của các Thiền sư "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, dĩ tâm ấn tâm...".
Đó cũng là diệu nghĩa của câu "Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan". Nếu y như kinh, chữ đâu nghĩa đó mà giảng giải ư nghĩa th́ oan cho ba đời chư Phật, v́ những bài kinh, những câu chuyện chỉ là nghĩa đen, là những tỷ dụ (Paraboles) dẫn dắt đến những nghĩa bóng ẩn đằng sau, đó mới là Chân lư mà chư Phật muốn đề cập đến. Cũng như chúng ta thường được đọc các câu chuyện cổ tích hoặc ngụ ngôn của La Fontaine, nếu cứ chấp nhận con cáo và con quạ biết nói, con rùa chạy nhanh hơn con thỏ... th́ thật là ấu trĩ và không có lợi bao nhiêu. Nhưng nếu suy ra những bài luân lư ẩn sau những câu chuyện ngụ ngôn, rồi thực hành bài luân lư đó, th́ chắc chắn được lợi ích rất nhiều.
Trong truyện Tây Du, có tiểu thuyết hóa sự tích ngài Huyền Trang sang Tây Trúc thỉnh kinh, bị ngài A Nan đưa cho những bộ kinh không có chữ (Kinh Vô Tự), sau phải xin đổi lấy những bộ kinh có chữ. Kinh Vô Tự chính là Sự Thật tuyệt đối mà không ngôn ngữ, văn tự nào có thể diễn tả nổi, đó mới là chân lư vượt qua ra ngoài ṿng tương đối và phân biệt. Đấy mới chính là Chánh Pháp mà ngài Duy Ma Cật lặng thinh, ngài Ca Diếp mỉm cười, ngài Đạt Ma quay vào vách chín năm không nói. Chánh Pháp này chỉ có thể dùng Tâm mà chứng, dùng Tánh mà nhập, chứ không thể dùng văn chương, chữ nghĩa mà diễn tả, tŕnh bày. Nhưng đối với chúng sinh c̣n mê muội, có mắt như mù, có tai như điếc, th́ chư Phật phương tiện dùng lời nói và danh từ để giảng giải, mở rộng và chỉ bày (Khai, Thị) cho chúng sinh thấu hiểu sâu vào (Ngộ, Nhập) Chân Lư; v́ vậy cho nên ngài Huyền Trang phải thỉnh kinh có chữ để đem về truyền bá tại Trung Quốc.
Tụng đọc kinh Phật cần phải vượt qua nghĩa đen, bỏ qua danh từ tầm thường để thâm nhập nghĩa bóng, t́m ra Sự Thật ẩn náu bên trong, rồi đem ra thực hành, thuận theo lời Phật dạy, ḥa hợp với luật thiên nhiên, quên ḿnh, lợi người, tự giác giác tha, th́ đó là người đă t́m ra Pháp và sống với Pháp.
Vậy trở lại câu hỏi "T́m Pháp ở đâu?", chúng ta có thể t́m ra Chánh Pháp của Phật, nghĩa là Chân Lư, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ t́m trong kinh điển, Luật thiên nhiên đă có từ vô thủy, dù Phật ra đời hay không th́ luật vẫn có, vô thường vẫn hiển nhiên, nhân quả vẫn rơ ràng. Trong thời kỳ không có Phật ra đời, những ai thấy lá rụng hoa rơi mà suy gẫm ra lẽ vô thường, theo đó mà tu hành giác ngộ th́ được gọi là Độc Giác Phật, những vị đó t́m ra Chánh Pháp, mặc dù không được nghe lời Phật dạy. Như vậy th́ Chánh Pháp sẵn có từ ngàn xưa, lá rụng hoa tàn, trăng tṛn rồi khuyết, lửa cháy, nước trôi, sinh lăo bệnh tử, hợp rồi lại tan... tất cả đều là những h́nh tướng của luật hiên nhiên, của Pháp.T́m ra Pháp rồi th́ phải sống theo Pháp, nghĩa là phải tu, phải sửa sao cho thuận với Pháp, từ lời nói đến việc làm đều đúng với Chân Lư, hợp với bản thể của muôn loài, th́ chắc chắn sẽ được giác ngộ và giải thoát.
oOo
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
saohom Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 3 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:21am | Đă lưu IP
|
|
|
Chánh Hạnh Niệm Phật
Cội gốc sanh tử tức là các thứ vọng tưởng hàng ngày của chúng ta, các thứ nghiệp phiền năo thương ghét, tham lam, giận hờn của chúng ta, nếu c̣n một mảy may không dứt th́ tức là c̣n gốc rễ sanh tử. Nay muốn tham thiền đốn ngộ liễu thoát sanh tử, hăy tự suy nghĩ xem có thể một niệm dứt ngay phiền năo của nhiều kiếp như chặt đứt một cuộn chỉ hay chăng ? Nếu chẳng thể dứt sạch phiền năo th́ dẫu cho đốn ngộ, cũng thành nghiệp ma, đâu nên xem thường ? Các vị tổ xưa kia đốn ngộ, cũng nhiều đời tích lũy công phu tu tập dần dần (tiệm tu) mà được, cho nên “đốn ngộ” này nói th́ dễ mà thật ra là rất khó. Nếu không có hai, ba mươi năm hạ thủ công phu, th́ làm sao có thể ở trong chốn phiền năo lẫy lừng mà được một niệm đốn ngộ. Điều thiết yếu là phải tự biết căn khí ḿnh như thế nào ? Đến như một môn niệm Phật, người đời không biết sự nhiệm mầu của nó, xem là thiển cận, kỳ thật mỗi bước thực hành cho đúng th́ như thế nào ? Chúng ta từ khi có sanh tử đến nay, niệm niệm vọng tưởng phan duyên tạo nghiệp sanh tử, đâu từng có một niệm quay trở về soi lại tự tâm, đâu từng một niệm chịu đoạn dứt phiền năo. Nay nếu có thể đem tâm vọng tưởng chuyển làm niệm Phật th́ niệm niệm dứt phiền năo. Nếu niệm niệm dứt được phiền năo th́ niệm niệm ra khỏi sanh tử.
Nếu một niệm niệm vững chắc không đổi dời nhất tâm bất loạn, so với tham thiền c̣n có kết quả hơn. Tóm lại, chỉ do một niệm thiết tha chân thực mà thôi. Nhưng tham thiền nhất định cần phải chết đi hết tâm thế tục không c̣n một niệm vọng tưởng, c̣n niệm Phật là lấy tưởng tịnh chuyển tưởng nhiễm, dùng tưởng trừ tưởng, là Pháp Hoán Chuyển, cho nên đối với căn khí của chúng ta ngày nay dễ thực hành hơn.
Tu tịnh độ không cần phải kiến tánh, chỉ chuyên lấy niệm Phật làm chánh hạnh và lấy bố thí, trai tăng, tu các công đức phước điền làm trợ nhân trang nghiêm cơi nước Phật trong tâm niệm Phật, tuy phát nguyện văng sanh, nhưng cần phải biết trước tiên chặt đứt cội gốc sanh tử mới có hiệu quả. Cội gốc sanh tử tức là sự tham lam, hưởng thụ vật chất thế gian tất cả đều là gốc khổ và mọi thứ tâm suy ấy chấp trước giận hờn, cùng các thứ giáo pháp do tà sư tà ma ngoại đạo thuyết, đều phải tận ḿnh mửa ra cho hết, chỉ tin một pháp môn Niệm Phật tâm không lúc nào quên danh hiệu Phật. Phật là Giác, nếu niệm Phật không quên Phật, tức là niệm niệm minh giác. Tâm nếu quên Phật liền là Bất Giác. Nếu niệm đến trong mộng cũng niệm được tức là thường giác không mê muội ! Hiện tại nếu tâm nầy không mê muội th́ lúc lâm chung tâm nầy không mê muội, ngay chỗ tâm nầy không mê muội tức là kết quả, nay công việc bận rộn không thể tham thiền, duy có niệm Phật là tốt nhất, bất kể rỗi rảnh, bận rộn, chỗ nào cũng niệm được, chỉ cần một ḷng không quên, không c̣n có pháp nào hay hơn !.
Tham thiền cần phải ĺa tưởng, niệm Phật chú trọng vào chuyên tưởng, v́ chúng sanh từ lâu nay ch́m trong vọng tưởng, đây là lấy độc trị độc, là pháp hoán chuyển mà thôi. Cho nên thâm cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành. Nếu tâm thiết tha muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử, đem tâm tham cứu đổi thành tâm niệm Phật, th́ lo ǵ một đời nầy không liễu thoát sanh tử ?.
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền năo, tham, sân, si, buông bỏ đến chỗ không c̣n ǵ để buông bỏ, chỉ để khởi một câu “A DI ĐÀ Phật”, rơ rành phân minh trong tâm không gián đoạn như sợi chỉ xỏ xâu chuỗi. Dụng công như thế, bất cứ cảnh riêng nào, cũng không bị lôi kéo đánh mất, hàng ngày như vậy trong cảnh náo đông không tạp, không loạn, thức ngủ như một, dụng tâm như thế, niệm đến lúc mạng chung, nhất tâm bất loạn, đó là thời tiết Siêu Sanh Tịnh Độ.
Nếu tâm tha thiết v́ việc sanh tử niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e một phen mất thân người muôn kiếp khó được lại, cần phải cắn chặt lấy một câu danh hiệu Phật nầy, nhất định phải chiến thắng vọng tưởng, bất cứ chỗ nào cũng niệm niệm hiện tiền, chẳng v́ vọng tưởng ngăn che. Hạ thủ công phu thiết tha như thế lâu ngày thuần thục tự nhiên tương ưng chẳng cầu thành khối mà tự thành khối.
Phương pháp tu niệm Phật cũng có thứ lớp, người tại gia không cần câu chấp theo thời khoá của chư Tăng trong tự viện, chỉ cần lấy niệm Phật làm chính, mỗi ngày buổi sáng sớm lễ Phật, tụng một quyển kinh Di Đà, lần chuỗi niệm Phật A Di Đà hoặc ba ngh́n, năm ngh́n, mười ngh́n, rồi hồi hướng phát nguyện văng sanh về cơi nước Cực Lạc. Khoá buổi tối cũng như vậy lấy đây làm định khoá, hàng ngày nhất định không có thiếu sót. Pháp nầy có thể áp dụng phổ thông cho mọi người, nếu v́ việc lớn sanh tử th́ công phu cần phải khẩn thiết hơn, mỗi ngày trừ hai thời khoá kể trên, suốt ngày đêm chỉ đem một câu “A Di Đà Phật” đặt trong ḷng, niệm niệm không quên, tâm không mê muội, tất cả việc đời đều không nghĩ tưởng, chỉ lấy một câu niệm Phật làm mạng sống của ḿnh, cắn chặt không buông, cho đến trong các sinh hoạt hàng ngày, một câu Phật nầy vẫn luôn luôn hiện tiền. Nếu gặp lúc tâm bất an do các cảnh giới nghịch thuận phiền năo buồn vui quấy nhiễu, chỉ cần đề khởi một câu niệm Phật nầy lập tức thấy phiền năo tiêu diệt. V́ niệm niệm phiền năo là gốc khổ sanh tử, nay dùng niệm Phật tiêu diệt phiền năo, ấy là Phật độ chỗ khổ sanh tử. Nếu niệm Phật tan được phiền năo th́ có thể thoát sanh tử. Nếu niệm Phật đến tŕnh độ làm chủ được trên phiền năo th́ ở trong mộng làm được chủ. Nếu ở trong mộng làm được chủ th́ ở trong lúc bệnh khổ làm được chủ th́ lúc lâm chung rơ ràng biết được chỗ đi. Việc nầy không khó làm, chỉ cần một niệm tâm tha thiết v́ sanh tử, nắm chặt một câu Phật không c̣n nghĩ ngợi ǵ khác, lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc, cái vui ngũ dục thế gian không thể sánh được. Ngoài pháp môn Tịnh Độ nầy, không c̣n có pháp môn nào thẳng tắt giản dị hơn..
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
saohom Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 4 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:22am | Đă lưu IP
|
|
|
KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Thật Hiền tôi, một sư tăng phàm phu, hư hèn ngu muội, dập đầu lạy khóc, rớm máu quanh mi, van xin đại chúng hiện tiền, cùng tín hữu nam nữ mai hậu, cúi xin quư vị thương xót, ghé tai nghe xét.
Từng nghe: Cửa yếu vào đạo lấy sự phát tâm đứng hàng đầu, việc cấp thiết tu hành lấy sự lập nguyện làm bước trước. Nguyện có lập th́ chúng sanh mới độ nổi, tâm có phát th́ đạo mới tựu thành. Nếu tâm rộng lớn không phát, nguyện kiên cố không lập, th́ dù trải qua trăm kiếp ngàn đời vẫn cứ quanh quẩn trong ṿng luân hồi măi măi. Dù có gia công tu hành cũng chỉ có nhọc công vô ích, đắng cay vẫn hoàn đắng cay. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp, gọi là hành động của ma. Quên mất mà c̣n như thế, huống nữa là chưa phát? Cho nên biết rằng, muốn học đạo Như Lai trước hết phải phát nguyện Bồ đề. Không thể hoăn đăi được.
Nhưng tâm nguyện có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không tŕnh bày, biết đâu mà hướng tới? Nay v́ đại chúng, xin nói tóm lược. Tướng trạng tâm nguyện có tám. Đó là tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên.
· Đời có người tu, sau khi vào chùa chẳng xét tâm ḿnh, chuyên lo ngoại vụ. Hoặc cầu sướng thân, hoặc tham nổi tiếng, hoặc ưa thích dục lạc thế gian, hoặc mong cầu quả vui mai hậu. Phát tâm như thế gọi là tà.
· Danh lợi không ham, quả vui chẳng thiết, chỉ mong giải thoát, đạt đạo bồ đề. Phát tâm như thế được gọi là chánh.
· Niệm niệm liên tục, ngước lên th́ cầu Phật đạo, cúi xuống th́ độ chúng sanh. Nghe Phật đạo cao siêu không sanh sầu lo thoái chí, thấy chúng sanh khó độ, không sanh mệt mỏi sờn ḷng. Như trèo núi cao muôn trượng, quyết lên thấu đỉnh, như leo tháp lớn chín tầng phải leo tận nóc. Phát tâm như thế được gọi là chân.
· Có tội không sám hối, có lỗi không dứt trừ. Ngoài sạch trong dơ, trước siêng sau nhác. Tâm tuy tốt đấy nhưng phần lớn bị danh lợi giao xen, pháp tuy hay đấy, nhưng oan uổng bị vọng nghiệp nhuốm bẩn. Phát tâm như thế đích thị là ngụy.
· Cơi chúng sanh hết, nguyện ta mới hết, đạo bồ đề thành, nguyện ta mới thành. Phát tâm như thế được gọi là đại.
· Xem ba cơi như lao ngục, nh́n sanh tử như oan gia. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người. Phát tâm như thế đích thị là tiểu.
· Ngoài tâm nếu thấy có chúng sanh cần độ, có Phật đạo mong thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như thế đích thị là thiên.
· Nếu biết tự tánh là chúng sanh, nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu hành. Không thấy pháp nào ngoài tâm riêng có. Đem tâm hư không phát nguyện hư không, tu hạnh hư không, chứng quả hư không. Cũng không có tướng hư không có thể chứng đắc. Phát tâm như thế được gọi là viên.
Biết được tám tướng khác nhau trên đây là biết cứu xét. Biết cứu xét là biết lấy bỏ. Biết lấy bỏ là biết phát tâm. Cứu xét như thế nào? Cứu xét tâm ḿnh phát ra, so với tám tướng nói trên, là chánh, là tà, là chân, là ngụy, là đại, là tiểu, là thiên hay viên. Lấy bỏ thế nào? Bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên. Lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như thế mới gọi chân chánh phát tâm bồ đề.
Tâm bồ đề này là pháp lành hàng đầu trong các pháp lành. Phát khởi được tâm ấy hẳn phải có nhân duyên. Nhân duyên phát khởi tóm lược có mười. Một là nhớ nghĩ ơn nặng của Phật. Hai là nhớ nghĩ công ơn cha mẹ. Ba là nhớ nghĩ công ơn sư trưởng. Bốn là nhớ nghĩ công ơn thí chủ. Năm là nhớ nghĩ công ơn chúng sanh. Sáu là nhớ nghĩ khổ đau sanh tử. Bảy là tôn trọng tánh linh của ḿnh. Tám là sám hối nghiệp chướng đă gây. Chính là cầu văng sinh Tịnh độ. Mười là làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ ÂN NẶNG CỦA PHẬT?
Đức Thế Tôn Thích Ca Như Lai chúng ta, khi mới phát tâm, v́ tất cả chúng ta mà tu hành đạo Bồ Tát: trải qua vô lượng kiếp, nếm đủ mọi mùi cay đắng gian lao. Khi ta gây nghiệp, Ngài rất xót xa, t́m cách giáo hóa, nhưng ta u mê, chẳng chịu nghe. Ta đọa địa ngục, Ngài càng xót đau hơn, muốn thay ta chịu khổ, nhưng nghiệp ta quá nặng cứu vớt thật vô phương. Ta sinh cơi người. Ngài dùng phương tiện giúp ta trồng gieo căn lành. Đời đời kiếp kiếp Ngài theo dơi ta không lúc nào bỏ. Khi Ngài xuất thế, ta c̣n đắm ch́m, nay được làm người th́ Phật đă diệt. Tội lỗi ǵ khiến ta sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào đưa ta vào hàng ngũ xuất gia? Nghiệp chướng nào khiến ta không được thấy thân vàng của Phật, may mắn nào xui ta được cung chiêm xá lợi của Ngài? Suy nghĩ như thế th́ mới rơ lẽ: Giả sử quá khứ ta không trồng thiện căn, th́ sao hôm nay được nghe Phật pháp? Không nghe Phật pháp th́ làm sao biết ḿnh thường thọ Phật ân? Ân ấy đức ấy non khâu khó sánh. Trừ phi tự ḿnh phát tâm rộng lớn, hành đạo bồ tát, xây dựng pháp tràng, cứu độ chúng sanh, dù cho bị thịt nát xương tan, cũng khó mà đền đáp cho xứng. Đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHA MẸ?
Thương thay cha mẹ, sanh ta nhọc nhằn. Mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm. Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn. Ngậm đắng nuốt cay, ngọt bùi chẳng tưởng. Khổ công nhường ấy, ta mới thành người. Hy vọng về sau, tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Vậy mà nay ta lại đi xuất gia. Lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn. Ngọt bùi không cung cấp, giỗ chạp chẳng thừa đương. Lúc c̣n sống ta đă không chu toàn được miếng cơm manh áo, khi chết rồi ta lại chẳng đủ sức tiếp dẫn giác linh. Đối với thế gian ta là kẻ ăn hại, về mặt xuất thế ta cũng chẳng được ích chi. Hai đường đều mất tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế th́ chỉ có một cách là thường hành Phật đạo trong trăm kiếp ngàn đời, độ khắp chúng sinh trong mười phương ba cơi. Như vậy không những cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều kiếp đều được siêu thăng, không những cha mẹ một người mà cha mẹ của tất cả đều được cứu vớt. Đó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN SƯ TRƯỞNG?
Cha mẹ ta tuy sinh ra và nuôi ta khôn lớn, nhưng nếu không có sư trưởng thế gian th́ lễ nghĩa không biết, không có sư trưởng xuất thế th́ Phật pháp không hay. Không biết lễ nghĩa khác ǵ cầm thú, không tin Phật pháp tương đồng phàm phu. Chúng ta ngày nay Phật pháp có hiểu sơ qua, lễ nghĩa có biết tạm đủ. Thân phủ cà sa, ḿnh được giới phẩm. Công ơn lớn ấy chính nhơ sư trưởng mà có.
Nếu cầu quả nhỏ chỉ được lợi ḿnh. Nay theo Đại thừa, nguyện đem lợi lạc đến khắp quần sanh, th́ sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế, cả hai đều được lợi ích, do ta cung hiến. Đó là nhân duyên thứ ba của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN THÍ CHỦ?
Chúng ta ngày nay, nhu dụng hằng ngày chẳng phải do ta tự cấp. Cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa. Thuốc men trị bệnh, chi phí linh tinh. Hết thảy đều do sức lực kẻ khác làm ra, mang đến cho ta chi dùng. Họ th́ dốc sức cày cấy, bụng chẳng đủ no, ta th́ ngồi không an hưởng, ḷng vẫn chưa thỏa. Họ th́ dệt đan không ngừng tay mà suốt đời gian khổ, ta th́ may mặc đến thừa mứa mà đâu biết tiếc thương. Họ th́ nhà tranh cửa lá, nghèo khó suốt đời, ta th́ sân rộng nhà dài, thong thả quanh năm. Đem sức lao nhọc của họ để cung cấp cho cái sống an nhàn của ta, ḷng sao yên được. Lấy cái lợi của người để bồi dưỡng thân ta sung sướng, lư có thuận không? Nếu chẳng phải ḿnh vận dụng hai đức bi trí trang nghiêm hai quả phước tuệ, để tín thí nhờ ơn, chúng sanh thọ sủng, th́ dù gạo chỉ một hột, vải chỉ một ô, mà ḿnh đă thọ cúng trước kia đến nay đều phải trả đủ, không th́ ác báo khó trốn. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ CÔNG ƠN CHÚNG SANH?
Ta với chúng sinh từ bao kiếp trước, hết đời nọ qua đời kia, từng làm cha mẹ của nhau. Ơn nghĩa qua lại, nhiều kiếp nhiều tầng. Nay v́ cách đời cho nên hôn mê không nhận ra nhau. Cứ lư mà suy há không đền đáp. Nay là loài mang lông đội sừng (1), biết đâu xưa kia không là con cái ta? Nay là loài ḅ bay máy cựa (2), biết đâu xưa kia chẳng là cha mẹ ta? Thường thấy bao kẻ, trẻ ĺa gia đ́nh, lúc lớn trở về, dung mạo đổi khác, không thể nhận ra. Huống nữa là cha mẹ ta đời trước, ngày nay, kẻ họ Trương người họ Vương, làm sao nhớ được? Họ đang gào thét trong địa ngục, hoặc đang ngất ngư trong chốn ngạ quỷ. Khổ đau ai biết, đói khát kêu ai? Ta tuy không thấy không nghe, họ hẳn xin cứu xin vớt. Nếu chẳng phải kinh không đâu nói rành việc ấy, nếu chẳng phải Phật không ai tả rơ cảnh này. Hạng người tà kiến làm sao biết nổi! Cho nên bồ tát nh́n sâu kiến thấy toàn cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai thường nghĩ cách giúp đỡ để báo đền ơn chúng. Đó là nhân duyên thứ hai của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ NHỚ NGHĨ KHỔ ĐAU SINH TỬ?
Ta cùng chúng sanh từ bao kiếp trước sanh tử quẩn quanh chưa hề thoát khỏi.
Khi ở cơi trời, lúc sanh cơi người.
Nơi kia chốn nọ, vào ra muôn mối, lên xuống nửa giây.
Thoắt đâu làm trời, thoắt đâu làm người.
Thoắt đâu chui vào địa ngục ngạ quỷ súc sanh.
Cổng đen sáng ra chiều vào, hang sắt mới khép đă mở.
Leo lên núi dao th́ không c̣n mảnh da nguyên vẹn.
Vịn vào cây kiếm th́ các ô thịt đều bị rách bươm.
Hoàn sắt nóng không trừ được đói, nuốt vào rồi gan ruột nát tan.
Nước đồng sôi không giải được khát, uống vào rồi thịt xương nhừ ngấu.
Cưa bén xẻ thây, đứt xong liền nối.
Gió nghiệp thổi mặt, chết rồi lại sanh.
Trong thành rực lửa, thảm thê tiếng hét rú lên.
Trên bàn ngào nướng, tê tái tiếng gào vang vọng.
Băng giá đông lại th́ thân h́nh xanh như sen xanh kết nhụy.
Máu thịt rửa ra th́ ḿnh mẩy đỏ tựa sen đỏ trổ hoa.
Trong chốn địa ngục một đêm chết sống kể cả vạn lần.
So với nhân gian một buổi thọ h́nh lâu tṛn thế kỷ.
Bao phen lính ngục ra tay nhọc mệt, nào ai chịu tin lời Diêm chúa răn khuyên.
Lúc thọ báo mới kêu van khổ, nhưng dù hối cũng chẳng kịp nào.
Khi thoát rồi th́ vội quên ngay, vẫn nghiệp cũ lại gây như trước.
Đánh lừa văng máu đâu hay chính mẹ ḿnh đang khóc thảm.
Xua heo vào ḷ đâu ngờ cha ḿnh sắp ră thây.
Ăn thịt con mà không biết, Văn Vương c̣n như thế.
Ăn thịt cha mà chẳng hay, phàm phu cũng thế thôi.
Năm xưa ân ái nay thành oan gia, hôm qua oán cừu nay thành ruột thịt.
Đời trước là mẹ mà nay là vợ, thuở xưa là cha nay lại là chồng.
Lấy trí túc mạng mà soi th́ đáng hổ thẹn biết mấy.
Lấy mắt thiên nhăn mà nh́n th́ đáng chán đáng cười biết bao!
Trong bụng đầy phẫn, mười tháng rúc chui.
Hết c̣n chịu nổi, qua đường ngập máu.
Một phen chúi xuống, thương thật là thương!
Nhỏ dại biết chi, mô tê chẳng rơ.
Lớn khôn dần hiểu, tham dục bèn sanh.
Loáng thoáng mới đó mà già đau đă tới kiếm.
Th́nh ĺnh xuất hiện gă vô thường lại hỏi thăm.
Gió lửa trong lúc giao tranh, thần thức tơi bời rối loạn.
Khí huyết bên trong vơi cạn, xương thịt bên ngoài teo khô.
Không một kẻ chân lông nào không bị kim đâm,
Không một khiếu huyệt nào không bị dao cắt.
Rùa già đem nấu, lột được vỏ ra, tưởng e c̣n dễ,
Thần thức sắp đi, phải ĺa khỏi xác, khó gấp bội phần.
Tâm là ông chủ vô thường, giống chú lái buôn khắp nơi bôn tẩu.
Thân là cái h́nh vô định, khác nào pḥng ốc rày đổi mai thay.
Chỉ như mảy bụi ở cơi ba ngàn, thân nọ quay cuồng qua lại vô tận vô cùng.
Nhấp nhô như sóng bốn biển, nước mắt ly biệt trào tuôn, kể sao cho xiết!
Cao quá núi cao chất ngất xương chồng, dày hơn đất dày, rậm rịt thây sắp .
Giả sử không được nghe lời Phật, việc ấy ai thấy ai nghe.
Không được xem kinh Phật, lư đó ai hay ai biết?
Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê không bỏ.
Chỉ e ngàn đời muôn kiếp mới được làm người.
Một lầm hai lỡ rây rưa trăm kiếp.
Thân người khó được mà dễ mất, vận may dễ qua mà khó t́m.
Đường đời mờ mịt, ly biệt dài lâu.
Ác báo ba đường, rồi phải tự thọ.
Khổ hết chỗ nói, ai chịu thay đây?
Nhân hứng mà nói dông dài, đến đây không thể không thấy ḷng ḿnh giá buốt.
Cho nên phải dứt ḷng sanh tử, vượt nẻo ái hà,
Ḿnh người cùng thoát, bờ giác cùng lên.
Công lao muôn kiếp, chính được bắt đầu từ buổi hôm nay.
Đó là nhân duyên thứ sáu của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ TÔN TRỌNG TÁNH LINH CỦA M̀NH?
Tâm của chúng ta trong hiện tiền, so với Đức Thế Tôn Thích Ca, không hai không khác. Thế th́ v́ sao, Thế Tôn đă thành chánh giác từ vô lượng kiếp, c̣n chúng ta th́ điên đảo hôn mê vẫn làm phàm phu? Lại nữa, Thế Tôn th́ đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm, c̣ chúng ta th́ chỉ có vô lượng phiền năo, nghiệp chướng sanh tử buộc chặt. Tâm tánh chỉ một mà mê ngộ trời vực cách xa. Cứ im lặng mà suy, há chẳng đáng xấu hổ sao? Ví như ngọc báu vô giá, rơi xuống bùng dơ, xem đồng ngói gạch, chẳng được quư yêu. Cho nên phải dùng vô lượng thiện pháp, mà đối trị vô lượng phiền năo. Có gia công tu đức th́ tánh đức mới sáng ra. Như ngọc báu được lau chùi, treo trên phướn cao, ánh sáng rực chiếu, che lấp tất cả. Thế mới đáng gọi là không phụ sự giáo hoá của Phật, chẳng phụ tánh linh của ḿnh. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG?
Kinh dạy phạm một cát la (3) bị đọa địa ngục lâu bằng năm trăm tuổi thọ của cơi trời Tứ thiên vương. Cát la tội nhỏ mà c̣n như thế, huống nữa tội nặng, báo lớn đến đâu? Chúng ta ngày nay trong nếp sống, nhứt cử nhứt động thường trái luật Phật! Khi ăn lúc uống phạm giới bao phen. Kể cả các vi phạm trong một ngày cũng đă vô lượng, huống nữa trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi gây ra, khó mà nói hết. Chỉ lấy riêng ngũ giới, cứ mười giữ đă hết chín người phạm. Phát lộ th́ ít, ém nhẹm th́ nhiều. Ngũ giới là giới tại gia, c̣n không giữ nổi, huống nữa là các sa di, tỳ kheo, bồ tát, thôi khỏi bàn chi! Hỏi đến danh nghĩa th́ ta đây là tỳ kheo, hỏi về thực chất th́ chưa xứng để làm một tại gia đệ tử. Há chẳng đáng hổ thẹn sao? Nên biết rằng giới Phật đă không thọ th́ thôi, đă thọ th́ không được huỷ phạm, không phạm th́ thôi, đă phạm th́ khó tránh đọa sa. Nếu không v́ xót ḿnh thương người mà miệng van lơn, thân quỳ lạy, khóc lóc thảm thiết, cùng với chúng sanh, cầu xin sám hối, th́ dù ngàn đời muôn kiếp ác báo khó bề tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ CẦU SANH TỊNH ĐỘ?
Tu ở cơi này sự tiến đạo quá khó, nhưng văng sanh cơi kia, việc thành Phật cũng dễ thôi. Dễ cho nên một đời có thể đạt được, khó cho nên muôn kiếp chưa chắc tựu thành. V́ vậy mà thánh hiền đời trước, ai ai cũng thú hướng về đây, ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng giải bày nghĩa này. Việc tu hành trong thời mạt pháp, không pháp nào hơn được pháp ấy. Song le kinh c̣n chua thêm: Điều lành nhỏ khó khiến sanh lên, phước đức dày mới đưa đến đó. Mà nói phước đức dày, th́ không chi bằng chấp tŕ danh hiệu, nói điều lành nhiều th́ phát tâm rộng lớn chiếm ưu tiên. Cho nên chấp tŕ danh hiệu trong chốc lát, hơn hẳn công đức bố thí cả trăm năm, phát dược tâm bồ đề rộng lớn, vuợt trội công đức tu hành trong nhiều kiếp. Bởi vậy niệm Phật là mong được làm Phật, nếu tâm lớn không phát th́ niệm cũng chẳng ích chi. Phát tâm là nhằm mục đích tu, nếu tịnh độ không sanh th́ tuy có phát nhưng cũng dễ thoái. Thế th́ gieo giống bồ đề, phải cày bằng cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng trưởng, cởi thuyền đại nguyện, vào được biển lớn Tịnh độ, Tây phương quyết định văng sanh. Đó là nhân duyên thứ chín của sự phát tâm bồ đề.
THẾ NÀO LÀ LÀM CHO CHÁNH PHÁP TỒN TẠI LÂU DÀI?
Thế Tôn chúng ta từ vô lượng kiếp, v́ tất cả chúng ta mà tu đạo bồ đề. Ngài làm được việc khó làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Cho nên khi nhân tṛn quả đủ, Ngài mới thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hoá hoàn tất, Ngài vào niết bàn. Nay th́ chánh pháp tượng pháp đă qua. Chúng ta đang ở trong đời mạt pháp. Phật pháp c̣n đó mà không có người tu hành. Tà chánh lộn xộn phải trái khó phân. Ganh đua nhân ngă toàn phường lợi danh. Ngước mắt nh́n quanh mọi người đều vậy, chẳng ai thoát khỏi. Mịt mù chẳng biết Phật là ông nào? Pháp nghĩa ra sao? Tăng là cái ǵ? Suy tàn đến nói ra bất nhẫn. Nhưng mỗi khi nghĩ đến bất giác lệ tuôn. Ta là con Phật mà không thể đền đáp công ơn Phật? Trong không ích cho ḿnh ngoài chẳng ích cho người. Sống không ích cho đương thời, chết chẳng ích cho hậu thế. Trời tuy cao không che nổi ta, đất tuy dày không che nổi ta. Cái đứa cực ác, không ta th́ ai? Do đó ḷng đau không thể chịu nổi, mà toan tính th́ cũng chẳng đề xuất được kế ǵ. Bỗng nhiên vụt quên rằng ḿnh quê mùa, vụt phát tâm chí rộng lớn. Tuy chưa thể văn hồi mạt vận ngay trong lúc này, nhưng quyết định phải hộ tŕ được chánh pháp mai sau. Cho nên cùng các thiện hữu dắt nhau đến đạo tràng soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này. Phát bốn mươi tám đại nguyện, nguyện nào cũng nhằm hóa độ chúng sinh, cầu trăm ngàn kiếp thâm tâm, tâm nào cũng hướng tiêu đích làm Phật, Kể từ hôm nay cho đến tận cùng đời vị lai, phải thanh toán cho xong cái h́nh hài này, và thề quyết phải sanh về An dưỡng. Sau khi lên xong chín phẩm lại lùi về Ta bà. Mặt trời Phật pháp sẽ được sáng lại, cửa vào chánh pháp phải được mở toang. Biển ḷng tăng giới lặng trong ở cơi này, nhân dân đông độ được tiếp hóa ngay tại chỗ. Vận hội nhờ đó mà kéo dài ra thêm, chánh pháp nhờ đó mà tồn tại lâu dài. Đây là tâm nguyện chân thành, từng được thiết tha ấp ủ. Đó là nhân duyên thứ mười của sự phát tâm bồ đề.
Như vậy là mười duyên đă biết, tám hướng đă rơ. Thú hướng có lối, khai phát có nơi. Chúng ta đă được làm người được ở đất có văn hóa, sáu căn không thiếu, cơ thể khỏe mạnh, đầy đủ tín tâm, may mắn không gặp ma chướng. Huống nữa c̣n được xuất gia, được gặp đạo tràng, được thọ cụ giới, được thờ xá lợi, được tu sám pháp, được gặp bạn lành, được đủ duyên may. Như thế mà nếu hôm nay không chịu phát tâm rộng lớn th́ đợi đến bao giờ?
Cúi xin đại chúng xót đau cho tấm ḷng thành ngu muội của tôi, tiếc thương cho cái chí nguyện khổ sở của tôi, để cùng nhau cùng lập nguyện ấy, cùng phát tâm này. Ai chưa phát th́ nay phát. Ai phát rồi th́ kích thích tăng trưởng. Ai tăng trưởng rồi th́ nay cứ tiếp tục. Đừng sợ khó mà sợ hăi lùi bước. Đừng cho dễ mà khinh thường chậm bước. Đừng ham mau mà không giữ được bền lâu. Đừng lười nhác mà mất đi dơng mănh. Đừng rụt rè mà giảm khí thế đang lên. Đừng v́ chần chờ mà hẹn rày hẹn mai. Đừng tự cho ḿnh ngu mà buông thả tất cả. Đừng v́ căn cơ chậm lụt mà tự ti rằng ḿnh không được dự phần. Ví như trồng cây trồng lâu th́ rễ càng ngày càng ăn sâu. Lại ví như mài dao, mài hoài th́ dao đùi cũng phải bén. Há nên v́ cạn mà không trồng, để mặc cho cây khô héo, hay v́ đùi mà không mài để mặc cho dao sét rỉ, thành vật vô dụng. Lại nữa nếu bảo tu là khổ th́ lười lại càng khổ. Tu th́ chỉ khó nhọc nhứt thời mà an vui vĩnh viễn, lười th́ tạm thong thả một đời, mà chịu khổ muôn kiếp. Huống nữa, lấy pháp môn Tịnh độ làm tàu thuyền th́ lo ǵ thoái chuyển, lại thêm có trí tuệ vô sanh làm sức đẩy th́ ngại ǵ gian nan. Nên biết tội nhân ở địa ngục mà c̣n phát tâm bồ đề từ kiếp trước, huống nữa con Phật trong nhân luân, há lại không lập đại nguyện ngay trong đời này.
V́ hôn mê từ bao kiếp trước, những ǵ qua rồi th́ không thể cản ngăn, nhưng ngày nay đă tỉnh ngộ, những ǵ sắp đến c̣n có thể đón bắt. Nhưng mê mà tỉnh đương nhiên là việc đáng thương, c̣n biết mà không làm th́ mới thật là điều đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục th́ tinh tấn tự sanh, nếu nghĩ cái chết gần kề th́ lười nhác không dấy.
Lại nữa, phải lấy Phật pháp làm roi giục, lấy bạn lành làm tay dắt. Vội mấy cũng không rời, trọn đời bám chặt vào. Như vậy th́ không c̣n lo ǵ thoái chuyển nữa. Chớ bảo rằng một niệm chẳng đi đến đâu, đừng cho rằng niệm rỗng chẳng có ích ǵ. Tâm chân th́ sự việc thật, nguyện rộng th́ công hạnh sâu xa. Hư không đâu có lớn, cái tâm mới là lớn, kim cương đâu có rắn, sức nguyện mới thật rắn.
Nếu đại chúng thật tâm, không vứt bỏ lời tôi, th́ quyến thuộc bồ đề từ đây kết hợp, liên minh sen vàng từ đây tương giao.
NGUYỆN RẰNG:
Cùng sanh Tịnh Độ
Cùng thấy Di Đà
Cùng độ chúng sanh
Cùng thành Chánh Giác.
Biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này, chẳng phải bắt đầu từ buổi phát tâm lập nguyện hôm nay! Nguyện cùng đại chúng cùng nhau gắng sức.
RẤT MONG LẮM THAY! RẤT MONG LẮM THAY!
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
bachngoc Hội viên
Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 46
|
Msg 5 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Niệm Phật Tâm Địa Công Phu
A. XÂY DỰNG TÂM LƯ TRONG PHẬT THẤT
a. Sanh tâm ‘Vô trụ’
1. Mục đích của Phật thất
Phật thất là phương pháp tu hành [mà hành giả] đặt ra kỳ hạn để cầu chứng, nghĩa là đặt mục tiêu phải thành công, trong 7 ngày này phải đạt được ‘nhất tâm bất loạn’ nói trong kinh A Di Đà. Công phu đến ‘nhất tâm bất loạn’ thường được chia ra ba hạng: thượng, trung, hạ. Công phu mức thượng gọi là ‘Lư nhất tâm bất loạn’ có cùng một cảnh giới với mức ‘Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật’ trong Tông Môn. Kế đó là ‘Sự nhất tâm bất loạn’: đoạn dứt kiến tư phiền năo, công phu này tương đương với bậc Tiểu thừa A La Hán. Mức thấp nhất gọi là ‘Công phu thành phiến’ (thành khối). Rất ít người có thể đạt được công phu mức thượng và mức trung, nhưng ‘công phu thành phiến’ đích thật là ai cũng có thể đạt được.
Trong ṿng 24 giờ đồng hồ trong tâm chỉ có A Di Đà Phật, ngoài ra không khởi lên một vọng niệm ǵ khác, đây gọi là ‘công phu thành phiến’. Từ điểm này [chúng ta] có thể biết kết thất niệm Phật có mục đích thù thắng như vậy. Giảng khai thị trong Phật thất được gọi là ‘xen tạp, xía vô’, v́ giảng khai thị làm cho tâm người ta loạn lên và không đạt được công phu thành phiến. Tại sao chúng ta không những giảng khai thị trong Phật thất mà c̣n giảng đến một giờ rưỡi? Nói chung cũng v́ lúc dự Phật thất vọng tưởng, tạp niệm [của các bạn] quá nhiều, đạt không được công phu thành phiến, bất đắc dĩ phải làm vậy.
2. ‘Đạo’ ở trong sanh hoạt hằng ngày.
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là v́ không nh́n thấu, không buông xả, và cũng v́ chưa hiểu rơ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tất cả kinh điển Đại thừa như Lăng Nghiêm, Lăng Già, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa đều đă thảo luận đến những vấn đề này. Tuy kinh Kim Cang không dài nhưng nội dung nhất định không kém những kinh luận Đại thừa khác, mỗi chữ mỗi câu trong kinh đều hàm chứa vô lượng nghĩa cho nên kinh Kim Cang trong Phật giáo Trung Quốc đă vượt qua [ranh giới] giữa các tông phái, không kể tu học pháp môn nào hầu như không ai không đọc kinh Kim Cang.
Sự việc mà Phật pháp truy cầu là trí huệ rốt ráo, trí huệ cứu cánh viên măn. Chỉ có trí huệ mới có khả năng giải quyết tất cả vấn đề, [vấn đề] lớn như sanh tử luân hồi, thành Phật làm Tổ, [vấn đề] nhỏ như thân tâm an lạc ngay trong hiện tại. Tâm thanh tịnh th́ thân sẽ thanh tịnh, trăm bịnh không sanh; mỗi năm thân thể càng khỏe và dung mạo trẻ trung thêm.
Trong Phật pháp không kể Đại Thừa, Tiểu Thừa, Hiển Giáo, Mật Giáo đều dạy chúng ta đạt được niềm vui ‘pháp hỷ sung măn’ trong sanh hoạt thường ngày. [Vậy th́] tại sao đời sống của chúng ta hiện nay lại khổ năo như vậy? Nguyên nhân là không có trí huệ. [Khi tôi] đọc Lục Tổ Đàn Kinh rất ngưỡng mộ Huệ Năng đại sư, lúc gặp Ngũ Tổ Ngài nói: ‘Trong tâm đệ tử thường sanh trí huệ’, đủ thấy được Ngài luôn sanh hoạt trong trí huệ; [ngược lại] chúng ta th́ ‘trong tâm đệ tử thường sanh phiền năo’, chúng ta luôn sanh hoạt trong phiền năo!
Làm thế nào để chuyển phiền năo thành bồ đề?
H́nh dáng của bồ đề tức là niềm vui ‘pháp hỷ sung măn’, tức là trí huệ viên măn. Kim Cang Bát Nhă là trí huệ viên măn và rốt ráo nhất. Cho nên ngay đoạn đầu trong kinh Kim Cang đức Phật Thích Ca Mâu Ni liền biểu hiện sự đại tự tại, đại viên măn trong đời sống, dạy cho chúng ta thể hội và học theo. Phần đông các kinh điển đều dùng việc [đức Phật] phóng hào quang, hiện tướng lành để mở đầu, nhưng [đoạn mở đầu] trong kinh Kim Cang đức Phật Thích Ca Mâu Ni ‘đắp y, cầm b́nh bát, đi vào thành Xá Vệ khất thực’. Đây là để nói rơ trí huệ cứu cánh viên măn vốn là ở trong sanh hoạt hằng ngày. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đắp y, cầm b́nh bát, ăn cơm đều là ‘kim cang bát nhă’; từ sáng đến tối, sanh hoạt, làm việc, tiếp xúc với người và việc, tất cả đều là trí huệ cứu cánh viên măn. Trong kinh Hoa Nghiêm, những Pháp Thân Đại Sĩ trong 53 lần tham vấn thị hiện làm nam, nữ, già, trẻ, các ngành nghề, tại gia, xuất gia, đời sống của họ đều giống sự thị hiện của đức Phật Thích Ca trong kinh Kim Cang, đều sanh hoạt trong trí huệ cứu cánh viên măn. Đây là sự thọ dụng chân thật mà Phật pháp đem lại cho mọi người, không có ǵ là mê tín.
Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Thế Tôn nói đến ba thứ chân thật:
1. ‘Chân thật chi tế’ tức là bản tánh chân như, tức là mục tiêu của sự học Phật
2. ‘Trụ chân thật huệ’ tức là Kim Cang Bát Nhă
3. ‘Huệ dĩ chúng sanh chân thật chi lợi’ (Ban cho chúng sanh lợi ích chân thật). Tự ḿnh trụ trong trí huệ chân thật th́ mới có khả năng dạy tất cả chúng sanh đạt được trí huệ chân thật. Chúng ta phải làm ra h́nh tướng tốt cho người ta thấy, làm cho người ta cảm động, muốn học và bắt chước, [làm cho họ] cũng có thể đạt được đời sống viên măn trí huệ giống như chư Phật, Bồ Tát, đó tức là ‘huệ dĩ chân thật chi lợi’.
Chư Phật, Bồ Tát thị hiện ở thế gian làm gương tốt nhất cho chúng sanh, chúng ta noi theo các Ngài mà học tập, như vậy gọi là ‘học Phật’. Cùng một đạo lư này, làm một đệ tử của Phật, khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, hành vi trong đời sống chúng ta đều phải làm gương tốt cho tất cả mọi người. Phật pháp không phải dùng để đàm huyền thuyết diệu mà phải áp dụng vào sự sanh hoạt thường ngày. Nguyên nhân chúng ta học Phật mà không đạt được thọ dụng [lợi ích] của Phật pháp, khuyết điểm của chúng ta là ‘không buông xả’ và ‘không nh́n thấu’. Giống như lăo ḥa thượng Hư Vân trong Thiền Tông cận đại, đại sư Ấn Quang trong Tịnh Tông, những ǵ họ thị hiện hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc tu học dạy trong kinh Kim Cang. Sau khi nghe hai câu ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ (nên không trụ vào đâu để sanh cái tâm ấy) trong kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng [liền] khai ngộ; thiệt ra mỗi chữ mỗi câu trong kinh đều quan trọng như hai câu này.
Chúng ta học Phật rốt cuộc là để làm ǵ?
Học cái ǵ?
Đạt được cái ǵ?
Thường thường phản tỉnh như vậy th́ mới có cơ hội giác ngộ, không những phải vượt hơn Lục Tổ, mà c̣n phải vượt ra khỏi thập pháp giới. Nếu không phản tỉnh th́ cứ tiếp tục mê hoặc và kẹt măi trong sáu nẻo luân hồi. Trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật dạy: ‘Tất cả chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, nhưng v́ vọng tưởng chấp trước nên không chứng được’, đây là một lời nói chỉ rơ nguồn gốc của thập pháp giới. Khởi vọng tưởng làm ‘Nhất Chân Pháp Giới’ biến thành thập pháp giới; có chấp trước th́ tạo thành lục đạo luân hồi. V́ vậy phá chấp trước sẽ ra khỏi lục đạo; đoạn dứt vọng tưởng sẽ ra khỏi thập pháp giới.
‘Tam Quy Y’ là tổng cương lĩnh, mục tiêu chung của sự học Phật. ‘Quy’ nghĩa là quay lại, ‘y’ nghĩa là nương vào, ‘Phật’ nghĩa là ‘giác’. Từ trong mê hoặc điên đảo quay lại nương nhờ vào ‘giác’, từ đây về sau luôn ‘giác mà không mê’ tức là ‘quy y Phật’. Pháp nghĩa là chánh tri chánh kiến (sự hiểu biết, cái nh́n đúng đắn), từ tất cả tà tri tà kiến (sự hiểu biết, cái nh́n sai lầm) quay lại nương vào tri kiến Phật tức là ‘quy y Pháp’. Tăng có nghĩa là thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh một mảy trần cũng không nhiễm. Hiện nay chúng ta thường nói đến tâm lư, tinh thần, tư tưởng, và kiến giải ô nhiễm, thậm chí đến sinh lư, hoàn cảnh ô nhiễm …., chúng ta từ trong tất cả nhiễm ô quay lại nương vào thanh tịnh. Tâm thanh tịnh th́ thân thanh tịnh; thân tâm thanh tịnh th́ hoàn cảnh sẽ thanh tịnh. Đó mới là ‘quy y Tăng’.
Phật pháp [dạy chúng ta] tu cái ǵ?
Tu ‘giác, chánh, tịnh’.
Dùng phương pháp ǵ để tu?
Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn.
‘Pháp’ là phương pháp, môn là lối vào; vô lượng vô biên phương pháp đường lối đều tu ‘giác, chánh, tịnh’. Nếu phương pháp đường lối [nào đó] không có tu ‘giác, chánh, tịnh’ mà ngược lại là ‘mê, tà, nhiễm’ th́ đó không phải là Phật pháp. Nếu mỗi ngày chúng ta sinh hoạt, làm việc, tiếp xúc với người và sự việc mà không tương ứng, phù hợp với giác, chánh, tịnh th́ pháp chúng ta học không phải là chánh pháp.
Kinh Kim Cang nói: ‘[Chánh] pháp c̣n phải xả, huống hồ là phi pháp’. Pháp thế gian do nhân duyên sanh, duyên khởi tánh không; Phật pháp cũng do nhân duyên sanh, cũng là ‘đương thể giai không, liễu bất khả đắc’ (bản thể đều là không, không thể nào [nắm lấy] được). Đây là điều mà đức Phật dạy chúng ta đừng nên chấp trước thế pháp và Phật pháp, ‘Ưng vô sở trụ’, ‘trụ’ tức là chấp trước. Nhưng không phải dạy người ta ‘không nên chấp trước thế pháp, rồi chấp trước Phật pháp’. Trong kinh nói rất rơ ràng, Phật pháp cũng không được chấp trước, cũng phải buông xả. Hôm nay tại sao chúng ta không thể buông xả? V́ không hiểu rơ chân tướng sự thật. Đời sống của đức Phật Thích Ca Mâu Ni vô cùng tự tại siêu thoát, nguyên nhân là v́ đối với tất cả các pháp Ngài có thể làm được ‘ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’ (nên không trụ vào đâu để sanh cái tâm ấy). Chúng ta học Phật, học Bồ Tát th́ phải học cho tâm thanh tịnh, một tí bụi cũng không nhiễm; khi tiếp xúc với mọi cảnh giới đều phải có trí huệ viên măn, sanh hoạt được tự tại là pháp hỷ sung măn, có thể làm cho người khác hâm mộ. Mỗi ngày đức Thế Tôn đều biểu diễn như vậy, chưa từng gián đoạn, nhưng chưa có ai đề cập đến chuyện này.
Một hôm giữa đám đông, tôn giả Tu Bồ Đề tán thán đức Phật Thích Ca Mâu Ni ‘Hiếm có, Thế Tôn’. Pháp giới cứu cánh viên măn của Thế Tôn đă tu chứng được từ lũy kiếp (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề) vốn là được dùng trong sanh hoạt thường ngày: mặc áo, ăn cơm; từng ly từng tí đều là ‘Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’, và cũng là ‘Trí huệ vô thượng, rốt ráo, cứu cánh, viên măn’. Điều này mới thật sự là hiếm có!
Ngài Tu Bồ Đề nói tiếp: ‘Như Lai thiện hộ niệm chư Bồ Tát, thiện phó chúc chư Bồ Tát’. Bồ Tát là học tṛ. Đức Phật làm sao hộ niệm học tṛ? [Bằng cách] làm [gương mẫu] cho học tṛ thấy, để học tṛ thể nghiệm, học tập, thực hiện trong đời sống. Đây là sự hộ niệm và phó chúc thật sự. Phó chúc có nghĩa là giao trọng trách, nhắn nhủ. Quư vị hiểu rơ, làm được rồi, lại phải dạy và làm gương tốt cho tất cả chúng sanh, hy vọng mọi người đều giác ngộ, ai cũng sống một cuộc đời chân thật, mỹ măn, trí huệ; đây là bổn nguyện của đức Phật.
Chư Phật, Bồ Tát ở trong thế gian không nhất định phải thị hiện làm pháp sư hay cư sĩ trong Phật môn, mà cũng thường thị hiện làm người trong tôn giáo khác. Thắng Nhiệt Bà La Môn và Biến Hành Ngoại đạo trong kinh Hoa Nghiêm đều là các người lănh đạo tôn giáo. Những nguyên lư và nguyên tắc dạy dỗ chúng sanh của họ không khác với những ǵ Phật dạy, nhưng phương pháp không giống nhau. Họ là chư Phật, Bồ Tát ứng hóa thị hiện, như trong kinh có nói: ‘Tuỳ tâm chúng sanh, mà ứng hoá theo tri lượng như vậy’. Thật là vĩ đại!
Ngày 1 tháng 2 năm nay, Cục trưởng Cục Sự Vụ Dân tộc Thiểu Số ở Queensland, Úc Châu, ông Uri Themal OAM tổ chức một buổi luận đàn ‘Đa Nguyên Văn Hóa’ ở Queensland và mời tôi đến nói chuyện. Mục đích của buổi luận đàn này vô cùng quư báu, theo cái nh́n của Phật pháp th́ người này là Phật, Bồ Tát. Ông này là người Do Thái, nhập tịch Úc, theo đạo Do Thái. Mục đích của buổi họp ‘Đa nguyên văn hoá’ là hy vọng tập hợp tất cả tôn giáo trên thế giới lại với nhau và thảo luận làm thế nào để đoàn kết, làm thế nào để xoá bỏ sự cách biệt giữa mọi chủng tộc, bối cảnh văn hoá, và tôn giáo tín ngưỡng khác nhau. V́ ngày nay chính phủ Úc có chính sách mở rộng, mọi người từ khắp nơi trên thế giới di dân đến Úc càng ngày càng nhiều, làm sao có thể sanh hoạt hài hoà với nhau, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau, để đạt đến mục đích xă hội phồn vinh, an định, hưng thạnh, phú cường. Điều này là quan niệm của Phật, Bồ Tát [trong việc] hoằng pháp lợi sanh.
Hôm đó tôi họp mặt cùng với người lănh đạo của 14 đoàn thể tôn giáo, tôi khen ngợi họ là những Bồ Tát thật sự, hoàn toàn buông bỏ thành kiến cá nhân để mưu cầu cho xă hội an định, hạnh phúc thực sự cho mọi người. Tôi hy vọng cuộc đàm luận này có thể mở rộng đến mọi thành phố, và hy vọng có thể phát triển đến khắp mọi nơi trên thế giới. Mục tiêu của buổi họp là hoà b́nh thế giới. Tuy nhiên ḥa b́nh không phải chỉ dùng miệng hô hào là được, nhất định phải tiêu trừ hết tất cả những mối hiềm khích lẫn nhau, ư kiến khác nhau; t́m ra điểm tương đồng giữa quan niệm của mọi người. Thí dụ trong các tôn giáo có nói đến ‘Chúa thương yêu người đời’, nói đến ‘bác ái’, trong Phật pháp nói đến ‘từ bi’, đây là điểm tương đồng.
Tất cả mọi tôn giáo đều có điểm tương đồng, chúng ta tạm thời gạt những điểm dị biệt qua một bên, phát huy những điểm tương đồng trước, từ điểm này xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau. Kinh Phật thường nói vạn pháp đều từ ‘Tự tánh biến hiện’ ra, không có đạo lư ‘không thể dung hoà lẫn nhau’. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘lư sự vô ngại, sự sự vô ngại’, đây là chân lư. Nếu có trí huệ, tất cả những sự cách biệt, hiểu lầm đều có thể hoá giải, thế giới, nhân sanh đều biến thành tốt đẹp.
3. Làm thế nào ‘an tâm đoạn vọng’.
Tôn giả Tu Bồ Đề trong hội giảng kinh Kim Cang Bát Nhă nh́n thấy sanh hoạt, việc làm, cách đối người, tiếp vật đều là ‘Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật’, nghĩa là ‘trí huệ cứu cánh viên măn’, và cũng là ‘A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề’ (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác). V́ thế Ngài hỏi đức Phật: ‘Thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề’. ‘Thiện nam tử, thiện nữ nhân’ ở đây chỉ các bạn đồng học. Điểm này vô cùng trân quư – các bạn đồng học phát tâm rồi, nhưng không thể làm được tự tại rốt ráo như đức Phật. Nguyên nhân ở tại chỗ nào?
Ngài Tu Bồ Đề vô cùng khéo léo, thay mặt mọi người nêu ra hai câu hỏi, hỏi đúng ngay chỗ bí, chỗ gút mắc [của mọi người], câu hỏi thứ nhất là:
‘Ưng vân hà trụ’ (Nên trụ ở đâu), câu thứ nh́:
‘Vân hà hàng phục kỳ tâm’ (Làm sao để khuất phục tâm này?)
Câu thứ nhất, không biết phải an trụ tâm ở đâu?
Câu thứ hai, vọng niệm vọng tưởng quá nhiều, làm sao để đoạn dứt?
‘Hàng phục kỳ tâm’ tức là ‘khuất phục phiền năo’. Từ điểm này có thể biết, không biết nên an trụ tâm ở đâu tức là vọng tưởng, ư niệm quá nhiều, tất cả đều là phiền năo. Thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn (kiêu mạn, kiêu căng) là ‘vọng tưởng, chấp trước’ nói trong kinh Hoa Nghiêm. ‘Ưng vân hà trụ’ là dạy người ta giải quyết [dẹp trừ] vọng tưởng; ‘vân hà hàng phục kỳ tâm’ nghĩa là làm sao phá trừ chấp trước. Nếu hai vấn đề này được giải quyết th́ có thể vượt ra khỏi mười pháp giới, như vậy mới biết ư nghĩa của của câu hỏi này vô cùng sâu rộng, nghệ thuật hỏi cũng rất cao minh.
Hai câu hỏi này thực ra là hai mặt của một vấn đề, đức Phật trả lời cụ thể rằng Bồ Tát làm thế nào để khuất phục tâm này. Phật dạy Bồ Tát, tức là dạy chúng ta. ‘Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại…., ngă giai linh nhập Vô Dư Niết Bàn nhi diệt độ chi’ (Tất cả mọi loài chúng sanh…, ta đều khiến cho nhập vào Vô Dư Niết Bàn ḥng diệt độ), nếu có thể sanh tâm như vậy tức là tâm Phật, tức là chân tâm. Chúng ta phải có tâm niệm giống như chư Phật, Bồ Tát; Phật dạy chúng ta dùng tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng, tâm đại từ bi để đối xử với tất cả chúng sanh. Kinh nói: ‘Phật không độ người chẳng có duyên’, chịu tiếp nhận dạy dỗ tức là có duyên, không tiếp nhận tức là chẳng có duyên. Trong nhà Phật không bỏ một người nào cả, chư Phật, Bồ Tát chân thành từ bi, sẽ không buông bỏ một người nào cả; vấn đề là chúng ta có chịu y theo lời dạy mà thực hành hay không? Khi chúng ta giúp đỡ chúng sanh không chỉ giúp đỡ họ trong một thời gian ngắn mà phải giúp họ đạt đến cứu cánh rốt ráo, tức là ‘đều giúp cho nhập vào Niết Bàn Vô Dư rồi diệt độ’. Nói một cách khác phải luôn luôn giúp đỡ chúng sanh chứng được ‘Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’, câu này là để dạy chúng ta ‘nhi sanh kỳ tâm’ (để sanh cái tâm ấy).
‘Sanh tâm’ phải ‘vô trụ’ mới được, nên đức Phật nói tiếp: ‘Như thị diệt độ vô lượng vô số vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả’ (Độ vô lượng vô số chúng sanh nhiều như vậy nhưng thực sự không có chúng sanh được diệt độ). Tâm của Phật, Bồ Tát thanh tịnh như thế! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mặc áo chỉnh tề, sạch sẽ, không trước tướng; tŕ bát [khất thực] mỗi ngày, ăn uống cũng không chấp tướng. Hết thảy lời nói, hành động, cử chỉ đều để làm gương cho tất cả chúng sanh, trong tâm trống rỗng, cho đến mảy trần chẳng nhiễm, nhất định không có tí phân biệt chấp trước ǵ cả. Phật, Bồ Tát giúp đỡ chúng sanh hoàn toàn không nghĩ rằng ḿnh ban ân huệ cho họ, nên mới gọi là ‘vô duyên đại từ’. Vô duyên nghĩa là không đặt điều kiện. Như vậy mới biết được chỗ cao cả, vĩ đại của chư Phật, v́ tâm lượng của các Ngài đă mở rộng, tận hư không khắp pháp giới đều là một thể cả. V́ tất cả chúng sanh và ḿnh đều là một thể cho nên người thực sự giác ngộ nhất định sẽ từ bi, thương yêu chăm sóc vô điều kiện cho tất cả chúng sanh. Nhưng chúng sanh mê hoặc điên đảo không biết tận hư không, khắp pháp giới đều là một, cho rằng người khác không có liên can ǵ với ḿnh, ḿnh tốt đẹp là được rồi, lo cho người khác làm ǵ.
Thế Tôn đặc biệt nhắc nhở chúng ta: ‘Nếu Bồ Tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, tức không phải là Bồ Tát’. [Ngài] dùng câu này để dạy chúng ta ĺa bốn tướng và cũng là ĺa tất cả pháp tướng thế và xuất thế gian. ‘Ngă tướng’ là chấp trước ‘tôi’, cứ tưởng thân này là của ḿnh, cứ tưởng [cái] có thể tư duy, tưởng tượng là tôi. Thiệt ra đó là ‘tứ kiến’ (ngă kiến, nhân kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến) và đem những thứ này xem là ‘tôi’, đây là nguyên nhân của tất cả sai lầm. Những ǵ đối lập với ‘tôi’ đều xưng là ‘người’ (nhân); tất cả chúng sanh hữu t́nh trong chín pháp giới đều ở trong phạm vi ‘người’ này. Thế mới biết phạm vi của ‘nhân tướng’ (tướng người) vô cùng rộng lớn, chư Phật, Bồ Tát cũng dùng ‘người’ làm đại biểu.
Đức Phật nói với chúng ta tất cả hiện tượng thế gian và xuất thế gian, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới (người thế gian dùng danh từ ‘vũ trụ vạn hữu’) từ đâu đến? H́nh thành ra sao? Diễn biến như thế nào? Phật nói là do: ‘Chúng duyên hoà hợp nhi sanh’ (do các nhân duyên hoà hợp mà sanh ra), tức là ‘tướng chúng sanh’. V́ do các nhân duyên ḥa hợp mà tạo thành, hàm ư thật sự trong đó là ‘không có tự thể’, ‘đương thể giai không, liễu bất khả đắc’ (bản thể của nó là không, trọn chẳng thể nắm lấy)--- tướng hữu, thể không, liễu bất khả đắc (Tướng th́ có, nhưng bản thể là không, trọn chẳng thể đạt được). ‘Thế pháp’ (pháp thế gian) là do nhiều [nhân] duyên [hợp lại] mà sanh ra, kinh Bát Nhă nói ‘duyên khởi tánh không’; ‘Phật pháp’ cũng là ‘duyên khởi tánh không’, trong chân tâm bản tánh không có Phật pháp. Lục Tổ nói rất hay: ‘Bổn lai vô nhất vật’ (vốn chẳng có một vật), Phật pháp cũng là một vật, vốn cũng không có. Thế mới biết hàm ư của ‘chúng sanh tướng’ sâu xa vô cùng!
‘Thọ giả tướng’ chỉ thời gian tồn tại dài ngắn của các hiện tượng. Kệ cuối cùng trong kinh Kim Cang nói:
‘Nhất thiết hữu vi pháp &n bsp; (Tất cả pháp hữu vi
Như mộng huyễn bào ảnh, Như mộng huyễn, bọt, ảnh,
Như lộ diệc như điển &nb sp; Như sương cũng như chớp
Ưng tác như thị quán’ & nbsp; Nên quán sát như vậy)
‘Như mộng, huyễn, bọt, ảnh’ tức là chúng sanh tướng; ‘như sương cũng như chớp’ tức là thọ giả tướng, thời gian nó tồn tại [rất ngắn] như giọt sương, như ánh chớp. Sương thí dụ cho tướng tương tục (tướng tiếp nối), người ta trên thế gian có thể sống được mấy chục năm, thí dụ ‘như sương’. Điện chớp thí dụ cho ‘tướng chân thật’. Trong kinh ‘Nhân Vương Bát Nhă’ đức Phật nói ‘một cái khảy ngón tay có 60 sát na, một sát na có 900 lần sanh diệt’, tức là ‘như chớp’. Hiện tượng đích thật không tồn tại, từ ‘chúng sanh tướng’ và ‘thọ giả tướng’ liền hiểu rơ được chân tướng sự thật của vũ trụ nhân sanh, mới hiểu được ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’ (bản thể của nó đều là không, chẳng thể đạt được). Thế nên kết luận là ‘vạn pháp giai không, nhân quả bất không’ (vạn pháp đều là không, nhân quả chẳng không).
4. Vạn pháp là tướng tương tục (tiếp nối) của nhân quả
Nhân quả cũng ở trong vạn pháp, tại sao nói nhân quả chẳng không? Nhân quả là căn nguyên của hiện tượng năng biến; ‘nhân’ là năng biến (chủ thể thực hiện động tác biến hiện), ‘quả’ là sở biến (cái được biến hiện ra). Tại sao có mười pháp giới? Có ‘nhân’ của Phật, th́ sẽ hiện pháp giới Phật; có ‘nhân’ Bồ Tát th́ sẽ hiện pháp giới Bồ Tát. Cùng nghĩa lư này, có ‘nhân’ ngạ quỷ th́ sẽ hiện ra pháp giới của quỷ; có ‘nhân’ địa ngục th́ sẽ hiện pháp giới địa ngục. Những hiện tượng này đều là tự tâm biến hiện ra. Cũng như mỗi ngày nằm mộng, toàn là do ư niệm của ḿnh biến hiện, cũng là tâm ư thức biến hiện ra. Tâm địa lương thiện, từ bi th́ mỗi ngày đều nằm mộng tốt lành; mỗi ngày từ sáng đến tối đều tham, sân, si, mạn, đố kỵ chướng ngại th́ mỗi ngày đều có ác mộng. Y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là hiện tượng do tự tánh tuỳ theo duyên của nghiệp nhân biến thành. Từ điểm này có thể biết: ‘tất cả vũ trụ nhân sanh đều là tướng tiếp nối của nhân duyên quả báo biến thành’ mà thôi. Sau khi nh́n thấy và hiểu rơ như vậy th́ tại sao không buông xả chứ? Đối với tất cả người ác, nghịch cảnh, tự nhiên có thể nh́n thấu, tự nhiên có thể buông xả. V́ hiểu được [tất cả] hiện tượng đều là nghiệp nhân quả báo tiếp nối liên tục, bản thể của nó đều là không, không thể nắm giữ lấy được. Lúc đó trí huệ chân thật hiện ra, tâm đó nhất định phải chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, chánh giác, từ bi, hết thảy đều biểu hiện trong sanh hoạt như lời của Lục Tổ: ‘Nếu là người tu đạo chân chánh, không nh́n thấy lỗi lầm của thế gian’, chỉ nh́n thấy sự sanh diệt từng sát na của tướng nhân quả tiếp nối.
Nhất Chân pháp giới (Thật Báo độ) là nơi chư Phật Như Lai trụ và cũng từ tự tánh biến hiện ra. Tâm thanh tịnh, tâm thuần tịnh biến ra cảnh giới ‘Thật Báo Độ’. Tâm thanh tịnh nhưng không thuần tịnh biến hiện ra ‘Tứ Thánh tịnh độ’. ‘Tứ thánh’ là pháp giới Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác trong mười pháp giới. Tâm không thanh tịnh th́ biến thành báo độ của lục đạo, thế mới biết tâm chúng ta là nhiễm mà không tịnh [v́ chúng ta đang ở trong lục đạo].
Phân biệt, chấp trước bốn tướng th́ không phải là Bồ Tát. Tiêu chuẩn của Bồ Tát rất nhiều, nếu chúng ta đă thọ giới Bồ Tát, th́ [hiểu ḿnh] là Bồ Tát cũng không sai, nhưng [như vậy] chưa đúng với tiêu chuẩn Bồ Tát của kinh Kim Cang. Tiêu chuẩn Bồ Tát của kinh Kim Cang cũng tức là tiêu chuẩn của kinh Hoa Nghiêm, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là Bồ Tát đă vượt ra khỏi mười pháp giới. Thế nên [trong câu] ‘nếu Bồ Tát có ngă tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng’ thêm vào vài chữ liền rơ ràng, ‘tức không phải Bồ Tát (trong Nhất Chân pháp giới)’.
Trong mười pháp giới có Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Phật nói ở đây cũng không bằng Bồ Tát nói trong kinh Kim Cang (c̣n chưa vượt ra khỏi mười pháp giới). Tông Thiên Thai giảng tứ giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Tạng Giáo Phật, Thông Giáo Phật đều ở trong mười pháp giới, chưa minh tâm kiến tánh, một phẩm vô minh cũng chưa phá trừ. Biệt Giáo Phật vượt khỏi mười pháp giới, bằng địa vị Nhị Hạnh Bồ Tát của Viên Giáo, đă phá trừ 12 phẩm trong 41 phẩm vô minh. (1)
Nếu hiểu rơ chân tướng sự thật th́ có thể nh́n thấu; sau khi nh́n thấu rồi th́ tự nhiên sẽ buông xả, không cần người khác khuyên. Nếu không nh́n thấu, khuyên cách nào cũng chẳng được. Trong tâm không có những nỗi niềm âu sầu, nhớ nhung, lo lắng, mới thật sự thong dong tự tại, mới đúng là đáng sống. Đức Phật dạy chúng ta nguyên lư và nguyên tắc của đời sống: ‘Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí’ (Bồ Tát đối với tất cả các pháp không nên chấp trước, [nên] làm việc bố thí). Phạm vi của bố thí rất rộng, tức là như người ta thường nói: ‘lấy được, buông được’. ‘Ư pháp ưng vô sở trụ’ là thế pháp, Phật pháp cũng ‘vô sở trụ’. ‘Vô trụ’ nghĩa là không chấp trước. Đối với thế pháp, Phật pháp đều không phân biệt, không chấp trước, tức là ‘ưng vô sở trụ’. Ngày nay chúng ta không hiểu rơ chân tướng, chuyện ǵ cũng phân biệt, tính toán, đương nhiên sẽ phải chịu khổ nạn.
Trong kinh đức Phật nói rất rơ, kinh Kim Cang không phải nói cho người tầm thường, mà là để nói cho người căn tánh đại thừa, tối thượng thừa (‘vi phát đại thừa giả thuyết, vi phát tối thượng thừa giả thuyết’). Chỉ có người căn tánh đại thừa, tối thượng thừa, căn tánh viên đốn, ngay một đời này liền giải quyết rốt ráo vấn đề, không cần phải tu 3 a tăng kỳ kiếp.
5. Đoạn ác tu thiện trong đời sống.
Người [tu theo] Đại thừa phải giữ ǵn nguyên tắc, đối với tất cả các pháp đều không phân biệt, chấp trước, nhưng phải thực hành ‘đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện’ và bắt đầu từ việc mặc áo, ăn cơm. Không giặt quần áo sạch sẽ là ‘ác’; tại sao không giặt sạch sẽ? Không xếp quần áo chỉnh tề là ‘ác’? Tại sao không xếp chỉnh tề? Không lau bàn sạch sẽ là ‘ác’; không bày chén đũa ngăn nắp lúc ăn cơm là ‘ác’.
Ngày nay chúng ta học Phật, đối với cha mẹ chưa làm hết bổn phận là ác; gia đ́nh không thể làm gương tốt cho láng giềng cũng là ác. Làm gương tốt cho con cái là thiện; h́nh dáng không tốt tức là ác; Đoạn ác tu thiện bắt đầu từ những việc này, đó mới là học Phật thực sự. Nếu tách rời việc đoạn ác tu thiện ra khỏi đời sống hằng ngày th́ chẳng có ích lợi chi cả, người như vậy đúng là ‘không hiểu rơ chân thiệt nghĩa của Như Lai’.
Một người từ lúc sanh ra đến lúc ĺa đời, từ sáng đến tối, từng ly từng tí, hai chữ ‘bố thí’ bao gồm hết thảy. Ư nghĩa của ‘hành ư bố thí (làm việc bố thí)’ rất sâu rộng, làm thế nào biến đời sống của ḿnh thành kim cang bát nhă, đem công việc, giao tiếp với người và sự việc làm giống như Phật, Bồ Tát. Phật, Bồ Tát không phải để cúng ở Phật Đường, Phật, Bồ Tát tức là bản thân ḿnh, như vậy mới là học Phật, trong Phật pháp người này mới đạt được sự thọ dụng chân thật.
__________________ không c̣n yêu ai nũa !
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
bachngoc Hội viên
Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 46
|
Msg 6 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:26am | Đă lưu IP
|
|
|
b. Ảo tướng của duyên sanh, đương thể tức không
1. Bố thí vô trụ.
‘Ưng vô sở trụ, hành ư bố thí’. Tuy ngôn ngữ ngắn gọn, nội dung lại vô cùng sâu xa. Hai câu này không những dạy chúng ta làm người, mà c̣n bao gồm đời sống mỹ măn của chín pháp giới chúng sanh. Nếu có thể y giáo phụng hành, thật sự làm được th́ người này là Bồ Tát, là học tṛ chân chánh của đức Phật, đệ tử của Như Lai.
Ư nghĩa của ‘bố thí’ là ‘xả’. Thí dụ người nội trợ từ sáng đến tối bận việc gia đ́nh, nếu hiểu được Phật pháp th́ là tu ‘Bố Thí Ba La Mật’.
Loại bố thí này vô cùng rộng lớn, đừng tưởng là ḿnh chỉ phục vụ cho vài người trong nhà, tâm lượng như vậy quá hạn hẹp, nhăn quang quá nhỏ, chỉ nh́n thấy một chút này mà không biết ảnh hưởng của nó bao lớn. Làm những việc trong nhà này đ̣i hỏi thể lực; khi suy nghĩ nên làm thế nào th́ phải dùng trí huệ, thân và tâm đều làm việc bố thí. Chăm sóc đời sống cho cả nhà được thoải mái, đó là hành Bồ Tát Đạo. Gia đ́nh như thế là một đạo tràng, người nhà là đối tượng để bạn độ hóa.
Kinh Hoa Nghiêm nói bố thí gồm có ‘ngoại tài’ và ‘nội tài’. Lao lực và trí huệ thuộc về nội tài; những vật ngoài thân thuộc về ngoại tài. Nội tài và ngoại tài đều nên xả. Cho nên mỗi ngày đi làm, làm công việc của ḿnh cho đến nơi đến chốn là bố thí cho công ty; công ty phục vụ cho đại chúng là bố thí cho xă hội. Như vậy mới biết việc này cũng giống như những làn sóng trên mặt nước. Liệng một cục đá xuống nước tạo thành những làn sóng h́nh tṛn, càng lan rộng càng lớn. Gia đ́nh cũng giống vậy, một gia đ́nh hạnh phúc sẽ ảnh hưởng đến láng giềng, xă hội, quốc gia, thế giới, Phật dạy chúng ta làm một gương tốt cho mọi người trong thế gian này: gia đ́nh chúng ta là gương tốt cho mọi gia đ́nh, công ty là một công ty tốt nhất, gương mẫu cho mọi công ty trên thế giới, thế mới là Phật pháp. Trong Phật pháp thứ nào cũng hạng nhất cho nên Phật pháp rất b́nh đẳng.
Pháp môn tu hành của 25 vị Bồ Tát trong 25 Chương Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm đều khác nhau, [nhưng] pháp môn nào cũng là hạng nhất. Đây là ‘chư pháp như nghĩa’, [nghĩa là] ‘các pháp b́nh đẳng, không có cao thấp’ nói trong kinh Kim Cang. Có cao thấp tức không phải là Phật pháp, có cao thấp tức là ‘nhị pháp’, Phật pháp là pháp bất nhị (pháp không hai). Nghĩa lư của việc này sâu rộng vô cùng, trong kinh đức Phật nói đến việc này rất nhiều, rơ ràng, và minh bạch.
Tu bố thí là tu nhân, nhân nhất định có quả báo, cho nên ‘nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định’ (một miếng ăn một miếng uống đều có định sẵn từ trước). [Vận] ‘Mạng’ từ đâu đến? Từ nhân đă tạo ở đời trước, đời này nhận lấy quả báo. Nhân quả nhất định tương ứng [lẫn nhau], -- nhân duyên quả báo tơ hào chẳng sai -- Trồng nhân ǵ th́ sẽ được quả báo đó. Muốn biết nhân tạo đời trước, những ǵ ḿnh nhận chịu đời này là nó (nhân đời trước). Muốn biết quả đời sau, những ǵ ḿnh làm đời này là nó (quả đời sau). Đây là chân lư.
‘Thế gian’ là ‘tướng tương tục, tiếp nối của nhân duyên quả báo’ mà thôi, cho nên trong kinh đức Phật nói ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả’. Bồ Tát là người giác ngộ, chúng sanh là người mê hoặc. Người mê không sợ tạo nghiệp, khi quả báo hiện ra th́ mới sợ; người giác ngộ không sợ quả báo, quả báo vừa đến, khó khăn trở ngại đến th́ tùy thuận theo mà nhận chịu. Khi khởi tâm động niệm, đối xử với người và tiếp xúc với mọi vật đều không khởi tâm niệm ác, ư nghĩ ác, được vậy th́ quả báo nhất định sẽ tốt lành, viên măn. Niệm niệm đều v́ lợi ích, phước lợi của tất cả chúng sanh, không nghĩ đến ḿnh, thân tâm thanh tịnh, tự tại vui vẻ, như vậy mới là phước báo chân thật.
‘Bố thí pháp’ là nhân, thông minh trí huệ là quả báo. Khoẻ mạnh sống lâu là quả báo của sự tu bố thí vô uư. Bố thí vô uư là ǵ? Đó là từ bi, quan tâm, thương mến tất cả chúng sanh, làm cho tất cả chúng sanh được thân tâm an ổn, vĩnh viễn xa ĺa lo buồn, sợ sệt. Trong định luật nhân quả, tuyệt đối không có việc chịu thiệt tḥi, bị lường gạt, và cũng không có việc lợi dụng. Nếu bạn tưởng là chịu thiệt tḥi và bị lường gạt, [nhưng thực ra đó] chỉ là quả báo của những việc ḿnh làm đời trước. Hiểu rơ đạo lư và chân tướng sự thật th́ tâm chúng ta sẽ định, cho dù bị người khác lường gạt, sỉ nhục, th́ cũng có thể nh́n thấu và buông xả. V́ hóa giải oan trái gút mắc xong th́ khi gặp nhau sẽ vui vẻ. Nên giải trừ oán thù chứ không nên kết, người có thông minh trí huệ chân thật nhất định sẽ không kết oán thù với bất cứ người nào, tương lai trên con đường bồ đề sẽ được thuận buồm xuôi gió.
Lư do chúng sanh kết oán thù không ngoài hai nguyên nhân, nguyên nhân thứ nhất là căn bịnh tập khí (thói quen) của ḿnh, nh́n không quen th́ chịu không nổi, không nhất định [việc đó] có liên quan ǵ với ḿnh. Trong [Pháp Bảo] Đàn Kinh, Lục Tổ Đại sư nói: ‘Nếu là người tu đạo chân thật th́ sẽ không nh́n thấy lỗi lầm của thế gian (người khác)’. Lỗi lầm của người khác không liên can ǵ với ḿnh, nên dùng tâm thanh tịnh, từ bi đối xử với tất cả chúng sanh.
Nguyên nhân thứ hai là ‘lợi hại xung đột’ (đụng chạm quyền lợi), đây là nguyên nhân lớn nhất làm cho chúng sanh kết oán thù, trong Phật pháp gọi là ác duyên. Thiệt ra chẳng có lợi hại, tất cả đều do vận mạng an bài. Nếu hiểu được đạo lư này, cũng như ‘Liễu Phàm Tứ Huấn’ có nói: ‘Quân tử vui làm người quân tử, tiểu nhân làm người tiểu nhân oan uổng’. Những ǵ đạt được khi dùng tất cả những thủ đoạn không chính đáng, không lương thiện, cũng là vốn sẵn có trong vận mạng, nhất định không phải dùng thủ đoạn mà có thể đạt được, nếu không như vậy th́ sẽ trái ngược với định luật nhân quả. V́ vậy nếu hiểu được đạo lư và chân tướng sự thật này, tâm [chúng ta] sẽ vĩnh viễn b́nh [an, thanh] tịnh. Tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ, kinh Kim Cang nói: ‘Ḷng tin thanh tịnh ắt sanh thật tướng’.
Phật dạy ‘Ưng vô sở trụ’. ‘Trụ’ là chấp trước; ‘vô sở trụ’ nghĩa là không chấp trước. Chấp trước là căn bịnh. Vũ trụ, vạn vật, sanh mạng, lục đạo do đâu mà có? Trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật trả lời cho câu hỏi này, đó là: ‘vọng tưởng, chấp trước’. V́ có vọng tưởng nên biến hiện ra thập pháp giới, v́ có chấp trước nên biến hiện ra lục đạo luân hồi. V́ vậy nếu phá chấp trước th́ sẽ vượt ra khỏi lục đạo; đoạn trừ vọng tưởng th́ sẽ vượt ra khỏi thập pháp giới. Từ xưa đến nay các khoa học gia, triết học gia trong và ngoài nước đều muốn t́m kiếm nguồn gốc của vũ trụ vạn vật, họ có thể t́m đến bờ mé nhưng t́m không được nguồn gốc chân thật. V́ họ dùng đầu óc suy nghĩ, suy nghĩ tức là vọng tưởng, chấp trước, cả hai đều có giới hạn, không thể phá tan giới hạn của ư thức.
Đức Phật dạy chúng ta khi đoạn vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước th́ giới hạn của tâm ư thức sẽ bị phá tan; sau khi phá tan mới có thể nh́n thấy bộ mặt thật của vũ trụ nhân sanh, mới hiểu rơ chân tướng sự thật. Cho nên sự tu học trong Phật pháp bất cứ pháp môn, tông phái nào cũng đều tu ‘thiền định’. Niệm Phật đạt được ‘nhất tâm bất loạn’ là ‘thiền định’. Giáo Hạ tu ‘chỉ quán’ cũng là ‘thiền định’. Tuy danh từ và phương pháp không giống nhau nhưng tất cả đều tu ‘thiền định’. ‘Giới’ là phương pháp chính xác; y theo phương pháp chính xác mới có thể nhập ‘định’; sau khi nhập định th́ sẽ khai ‘trí huệ’; có trí huệ th́ mới có thể hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Chúng ta chuyên cần tu tập ba thứ bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô uư, và không trước tướng (chấp tướng), như vậy rất đúng. Nếu trước tướng mà tu 3 thứ bố thí này, quả báo sẽ chỉ là phước báo trong cơi người và trời, làm vua, thiên vương, người trời, người trưởng giả giàu có, không thể thoát ra khỏi tam giới, đương nhiên cũng không ra khỏi thập pháp giới. Phật dạy chúng ta ‘ưng vô sở trụ’, không trụ ‘chấp trước’ th́ ra khỏi lục đạo; không trụ ‘vọng tưởng’ th́ ra khỏi thập pháp giới. Nhưng không trụ ‘chấp trước’ (không trước tướng) rất khó làm được, cần phải dụng công thiết thực nơi ‘nh́n thấu’, ‘buông xả’, ‘niệm Phật’.
2. Quy hướng Cực Lạc Tịnh Độ.
Trong phẩm thứ 10 ‘Giai Nguyện Tác Phật’ (Đều Nguyện Làm Phật) của kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật nói nhóm 500 người cùng vua A Xà Thế trong đời quá khứ đă từng cúng dường 400 ức Phật. Khi nghe đức Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Vô Lượng Thọ xong, họ sanh tâm hoan hỷ, hy vọng sau này thành Phật cũng giống như đức Phật A Di Đà, nhưng không phát khởi ư niệm tín nguyện cầu văng sanh. Thế mới biết khi nghe danh hiệu của đức Phật A Di Đà rồi sanh tâm hoan hỷ, cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới, người này trong đời quá khứ tu tập tích lũy thiện căn nhất định vượt hơn vua A Xà Thế cúng dường chư Phật Như Lai, nhất định không chỉ [cúng dường] 400 ức chư Phật. V́ chúng ta có thể phát tâm cầu sanh Cực Lạc thế giới nhưng họ chưa từng phát lên tâm niệm này.
Cho nên trong kinh nói pháp môn Tịnh Độ đều được tất cả chư Phật tuyên nói, không phải chỉ có 1 hay 2 đức Phật nói mà thôi, thiệt là pháp khó tin. Kinh A Di Đà dạy ‘không thể dùng ít thiện căn, phước đức, nhân duyên được sanh nước đó’, thế mới biết được thiện căn của chúng ta sâu dày bao nhiêu, vô cùng hiếm có! Đời này chúng ta gặp được pháp môn Tịnh Độ và sanh tâm hoan hỷ, tín nguyện cầu văng sanh, việc này rất đáng vui mừng và hân hạnh.
Đức Phật giáo hoá chúng sanh đích thật là chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, đại từ, đại bi. Thiện căn của chúng sanh không sâu dày th́ phải vun bồi từ từ, từng đời từng đời giúp đỡ họ. Thiện căn đă thành thục (chín muồi) th́ giúp họ tín nguyện niệm Phật, văng sanh Tây phương. Nếu chưa thành thục th́ giúp họ trồng thiện căn của Di Đà Tịnh Độ. Công đức danh hiệu không thể nghĩ bàn, một phen đă lọt vào tai th́ vĩnh viễn là hạt giống đạo. Ngày nay họ nghe đến danh hiệu đức Phật A Di Đà, đọc đến ‘Tịnh Độ Tam kinh’, nh́n thấy h́nh tượng của đức Phật A Di Đà, trong A Lại Da Thức đă trồng được hạt giống Tây phương Cực Lạc thế giới. Tuy đời này không thể văng sanh, nhưng đời sau khi gặp được nhân duyên th́ họ sẽ văng sanh. Chúng ta không thể khinh rẻ bất cứ người nào, không thể khinh mạn vô lễ đối với họ.
Việc chư Phật Như Lai giúp đỡ chúng ta [chỉ] là nói ra chân tướng sự thật, giảng giải phương pháp phá mê khai ngộ, và kinh nghiệm tu hành chứng quả của các Ngài để cho chúng ta tham khảo. Bản thân chúng ta phải tự ḿnh thực hành, muôn ngàn xin chớ tưởng rằng ḿnh nương nhờ chư Phật, Bồ Tát, quư Ngài sẽ pḥ hộ cho ḿnh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n không thể pḥ hộ cho A Nan. A Nan lúc đầu vốn là đang khởi vọng tưởng: ‘Đức Phật Thích Ca là anh họ của ḿnh, người khác phải tu khổ nhọc, không tu th́ không thể thành tựu; c̣n ḿnh th́ không quan hệ ǵ cả, anh họ rất thương ḿnh, Ngài sẽ truyền dạy Thiền Định và Bát Nhă cho ḿnh’. Sau khi gặp nạn mới biết đức Phật không thể giúp ḿnh. Chư Phật, Bồ Tát gia tŕ cho chúng ta chỉ bằng những lời dạy trong kinh điển. Chúng ta muốn Phật gia tŕ th́ chỉ có cách y giáo phụng hành, [và như vậy] th́ sẽ được ‘sự pḥ hộ’ của chư Phật.
Đức Phật từ bi khổ nhọc khuyên chúng ta buông xả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, nhưng chúng ta buông xả không nổi. Nguyên nhân là không hiểu rơ chân tướng sự thật, cứ tưởng ‘thân’ là thiệt, cứ tưởng ‘cảnh giới trước mặt’ là thiệt, mà không biết đây chỉ là quan niệm, cách suy nghĩ, và cái nh́n sai lầm. Nếu khi đối xử với người, sự việc, và vật, trong tâm có mê hoặc, có đụng chạm quyền lợi, có sân giận, hăy nghĩ đến lời đức Phật dạy ‘Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng’ (Hễ những ǵ có tướng đều là hư vọng) niệm vài lần, trong tâm sẽ b́nh tịnh trở lại. Tất cả mọi hiện tượng đích thật đều là hư vọng, thực tế không tồn tại.
3. Chư pháp đều không, nhân quả chẳng không.
Nửa phần sau của kinh Kim Cang nói: ‘Chư pháp đều không, nhân quả chẳng không’. “Chư pháp đều không” nghĩa là tất cả những pháp thế gian và xuất thế gian đều là hư vọng, không thật; ‘nhân quả’ cũng là chư pháp, cũng là hư vọng, nhưng ‘nhân quả bất không’ (nhân quả chẳng không).
Tại sao Tánh Tông nói ‘nhân quả chẳng không’? Pháp Tướng Duy Thức nói: ‘Tướng là giả có, thức là chân thật’. ‘Thức’ là năng biến (cái có thể biến), ‘tướng’ là sở biến (cái bị biến). Sở biến là giả, năng biến là thật. Nhân quả tức là duy thức, nhân là năng biến, quả là sở biến. Thập pháp giới là hiện tượng tương tục (tiếp nối) của nghiệp nhân quả báo. V́ vậy người giác ngộ sợ nhân, điều này rất hợp lư. Hiểu rơ nghĩa lư này, trong thế gian khi gặp bất cứ người nào có ác ư với ḿnh cũng không màng đến, và đều vui vẻ tiếp nhận. Tôi tu nhân tịnh, quả báo nhất định tốt. Nếu người khác làm hại tôi, tôi liền khởi tâm động niệm báo phục (trả thù) người đó. Những sự trả thù này nhất định càng ngày càng gia tăng, tàn khốc, tội ác càng tạo càng nặng, sau cùng hai bên đều đọa địa ngục A Tỳ (hại ḿnh, hại người). Không kể người ta dùng thủ đoạn ǵ để đối [xử] với ḿnh, ḿnh liền biết trong thời quá khứ đại khái chắc cũng đă dùng thủ đoạn như vậy để đối [xử] với họ, hôm nay họ đối với ḿnh như vậy, một trả một, nợ nần được trả hết, tâm khai ư giải, như vậy [mọi người đều] vui vẻ hết! Không có việc chịu thiệt tḥi và cũng không có việc lợi dụng. Gút mắc đă được mở ra, khi ḿnh thành Phật th́ phát nguyện sẽ độ họ trước nhất .
Trong kinh Kim Cang có một công án (câu chuyện ngắn) -- chuyện của Ca Lợi vương lóc thịt trên thân thể. Ca Lợi là tiếng Phạn, dịch nghĩa ra là ‘tàn khốc, vô đạo’, ‘vương’ là ông vua, Ca Lợi vương có nghĩa là ‘ông vua tàn bạo’. [Lúc bấy giờ] có một người đang tu hành trong núi sâu bị vua Ca Lợi xử tội lăng tŕ (lóc thịt). Vị tu hành này là tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tuy Ngài bị xử tội như vậy nhưng không có chút ǵ oán hận, lại c̣n phát nguyện tương lai khi thành Phật sẽ độ vua Ca Lợi trước nhất. Đến lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, người đầu tiên được độ là tôn giả Kiều Trần Như, tiền thân của tôn giả là vua Ca Lợi, lời thệ nguyện của đức Phật năm xưa đă được thực hiện. [Đức Phật] chịu đựng sự hành hạ tàn bạo như vậy mà không sanh tâm oán hận, vả lại sau khi thành Phật lại độ người hại ḿnh trước nhất để báo đền thâm ân; báo ân ǵ vậy? Sự lăng tŕ vô cùng tàn khốc nhưng lại giúp Bồ Tát thành tựu viên măn Nhẫn Nhục Ba La Mật. Bồ Tát xem xét vấn đề như thế này: ‘Vua Ca Lợi giúp đỡ tôi thử xem ḷng nhẫn nhục của tôi đă thành tựu chưa’. Người khác đều nghĩ việc này là tàn bạo, thân thể chịu đựng sự đau khổ đến cùng cực, nhưng Bồ Tát lại nghĩ rằng vua Ca Lợi có ân đức vô cùng to lớn đối với ḿnh, giúp ḿnh thành tựu Nhẫn Nhục Ba La Mật, nên sau khi thành Phật liền độ người này trước nhất.
Từ điểm này có thể thấy thị phi, thiện ác không có tiêu chuẩn nhất định và không có giới hạn, chỉ ở trong một niệm. Một niệm cực ác [nhưng] vừa chuyển th́ liền trở thành cực thiện, như vậy mới nhập vô pháp môn Đại Thừa Bất Nhị --thiện ác bất nhị, tà chánh không hai, đúng sai không hai. Đây là trí huệ cao nhất! ‘Tướng’ là hư vọng, ‘thân’ là hư vọng, ‘chặt chém’ cũng là hư vọng, hư vọng đối với hư vọng nên không có đau khổ. Phàm phu cứ cho rằng ‘thân’ là của ḿnh, chấp trước thân kiến, cho nên chịu một chút đau khổ th́ chịu không nổi. Nếu không chấp trước thân là của ḿnh th́ ai chịu đau khổ? Ai biết đau khổ?
Cho nên khi ĺa 4 tướng th́ chẳng c̣n đau khổ nữa. V́ có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mới có khổ thọ (nhận chịu khổ); Bồ Tát không có thọ (nhận chịu). Khổ, lạc, buồn, vui, xả đều buông xả hết, được như vậy gọi là ‘chánh thọ’, và cũng gọi là ‘tam muội’, và cũng là sự hưởng thụ ‘chánh thường’. Tất cả những cảm thọ của phàm phu gồm có: ‘khổ, lạc, ưu, hỷ, xả’ (khổ, sướng, buồn, vui, xả), đức Phật quy nạp vào năm loại như trên và [hết thảy] đều không phải là sự hưởng thụ ‘chánh thường’.
4. Hễ những ǵ có tướng đều là hư vọng.
Đức Phật dạy: ‘Hễ những ǵ có tướng đều là hư vọng’. Nếu trong đời sống, trong mọi cảnh giới chúng ta thực chứng được những ǵ Phật nói đều không sai, chúng ta liền khế nhập vào cảnh giới. Cũng v́ chúng ta chẳng thực chứng cho nên không đạt được lợi ích; sau khi thực chứng th́ sẽ đạt được lợi ích to lớn. Phật lại nói: ‘Nhược kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như Lai’ (Nếu thấy các tướng mà không phải tướng, tức là thấy Như Lai). ‘Như Lai’ nghĩa là ‘bản tánh chân như’, và cũng là ‘minh tâm kiến tánh’ trong Thiền Tông. Thực chứng được ‘Hễ những ǵ có tướng đều là hư vọng’ tức là minh tâm kiến tánh.
Làm sao biết được ḿnh có thực chứng hay không? Kinh Kim Cang là tiêu chuẩn, nên trong Thiền Tông kể từ Ngũ Tổ về sau đều dùng kinh Kim Cang làm ấn chứng. ‘Ấn chứng’ tức là lấy làm tiêu chuẩn, mực thước để chứng minh. Nếu đạt được cảnh giới giống với lư luận trong kinh Kim Cang, cảnh giới hoàn toàn phù hợp, tức là minh tâm kiến tánh, nếu không th́ cảnh giới đó chẳng phải là cảnh giới của chư Phật, Bồ Tát.
Phật thường nói đến sự ‘khai ngộ’, mọi người nghe xong cảm thấy rất là ‘huyền’ (sâu thẳm, không thể h́nh dung hết được), h́nh như rất là hiếm hoi kỳ diệu, thực ra ‘khai ngộ’ là một danh từ vô cùng b́nh thường. Biết được lỗi lầm của ḿnh tức là ‘khai ngộ’; sửa đổi sai lầm cho đúng th́ gọi là ‘tu hành’. ‘Tu’ là tu chánh, sửa cho ngay, ‘hành’ là hành vi sai lầm; sửa đổi cách suy nghĩ, cái nh́n, cách nói, cách làm tức là tu hành. Tất cả những việc gơ mơ, niệm kinh mỗi ngày, miệng niệm ‘A Di Đà Phật’ đều là ‘h́nh tướng’, chưa phải là ‘chân tu’ (tu hành chân chánh). ‘Chân tu’ là phải sửa đổi tâm hạnh sai lầm của ḿnh. Nếu miệng niệm Di Đà mà trong tâm vẫn c̣n ‘thị phi nhân ngă’ (tôi đúng người sai) , tham, sân, si, mạn th́ đúng như cổ đức có câu: ‘hét bể cuống họng cũng luống công’.
Không thể nh́n thấu buông xả pháp thế gian rồi nghĩ Phật pháp rất tốt th́ có thể chấp trước [Phật pháp]. Phật pháp đích thật rất tốt, cũng như thuốc hay có thể chữa bịnh, nhưng nếu uống lầm thuốc, không những không chữa hết bịnh mà c̣n có thể mất mạng. Phật pháp cũng vậy, tu học Phật pháp nếu không khế cơ th́ làm tổn thương đến pháp thân huệ mạng; cho nên Đại Trí Độ Luận và kinh Hoa Nghiêm đều nói: ‘Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải’ (Nếu không có ai thuyết giảng Phật pháp, tuy có trí huệ cũng không thể hiểu nổi).
Người thông minh trí huệ trong thế gian cũng không thể lư giải Phật pháp v́ người trong thế gian không ĺa khỏi ‘tâm ư thức’. Không rời khỏi ‘tư duy tưởng tượng’ th́ không thể giải được ư nghĩa chân thực của đức Phật, v́ tất cả những kinh Phật nói đều phát xuất từ chân tâm bổn tánh chớ không dùng suy nghĩ; nếu phải suy nghĩ th́ lạc vào trong ư thức, thế th́ hoàn toàn sai. Cho nên tham Thiền, học Giáo đều cần phải rời khỏi ‘tâm ư thức’. ‘Tâm’ là ‘A lại da thức’; ‘ư’ là ‘Mạt na thức’, ‘thức’ là ‘Ư thức thứ sáu’. Tác dụng của thức thứ sáu là phân biệt, tác dụng của ‘Mạt na thức’ là chấp trước, tác dụng của ‘A lại da thức’ là lưu giữ ấn tượng.
Làm thế nào để rời khỏi tâm ư thức? Không chấp trước th́ không dùng ‘Mạt na thức’, không lưu giữ ấn tượng th́ không dùng ‘A lại da thức’, được như thế th́ học Giáo mới đạt được ‘đại khai viên giải’, tham Thiền mới được đại triệt đại ngộ. Tông Môn dạy người ta rời khỏi tâm ư thức mà ‘tham’, đây gọi là ‘tham thiền’. Giáo Hạ nói ‘tham cứu’ chứ không nói ‘nghiên cứu’. Nghiên cứu là dùng tâm ư thức, dùng phân biệt chấp trước; tất cả những cảnh mà ḿnh tiếp xúc gọi là ‘lục trần’; ‘tham cứu’ không dùng phân biệt chấp trước, dùng chân tâm tự tánh, tất cả những cảnh mà ḿnh tiếp xúc gọi là ‘tánh cảnh’ chứ không gọi là ‘lục trần’.
5. [Chánh] pháp c̣n nên xả, huống hồ là phi pháp
Trong kinh này (Kim Cang) đức Phật đặc biệt dạy chúng ta: ‘Tri ngă thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp’ (Biết ta thuyết pháp thí dụ như chiếc bè, [chánh] pháp c̣n phải xả, huống hồ là phi pháp). Đức Phật v́ chúng ta thuyết pháp cũng như ngồi bè qua sông. ‘Bè’ dùng cây trúc kết thành, cũng có khi dùng gỗ làm thành (mục bài, bè gỗ). [Nghe đức] Phật giảng kinh thuyết pháp cũng như ngồi bè qua sông, khi đến bờ bên kia th́ không cần bè nữa (phải xả bỏ). Kinh A Hàm nhắc đến thí dụ này rất nhiều lần. Kinh Kim Cang cũng dùng câu này nhưng ư nghĩa tượng trưng không giống nhau. Pháp Tiểu Thừa nói sau khi qua sông không cần bè nữa, không nên chấp trước. Pháp Đại Thừa nói đang lúc trên bè cũng đừng chấp trước, ư nghĩa c̣n thâm sâu hơn Tiểu Thừa, tức là hai bên ‘không’ và ‘hữu’ (có) đều không chấp; hai bên ‘có’ và ‘không’ đều đồng thời, thiệt là được đại tự tại.
Kinh Bát Nhă nói ‘tức tướng’ và ‘ly tướng’ là đồng thời. ‘Ưng vô sở trụ’ [là] ‘ly tướng’; ‘nhi hành bố thí’ [là] ‘tức tướng’. Phật học không tách rời khỏi hành vi sinh hoạt hằng ngày, đời sống càng thoải mái dễ chịu, công việc làm càng được tiến triển. Lúc trước chúng ta sinh sống và làm việc chỉ là v́ riêng ḿnh, ngày nay chúng ta sinh sống và làm việc đều là v́ tất cả chúng sanh, tạo phúc lợi cho xă hội, làm trang nghiêm pháp giới, v́ tự tánh lưu xuất, hiện tượng không c̣n như cũ nữa. Nếu v́ ḿnh mà làm việc th́ làm sơ sài một chút cũng không sao; nếu v́ đại chúng mà làm việc không tốt th́ có lỗi đối với họ, cách dụng tâm không giống nhau. Tuy tận tâm tận lực làm việc nhưng không trước tướng (chấp trước). ‘Ưng vô sở trụ’, trong tâm dường như không có việc đó [xảy ra] thế mới là ‘đại từ đại bi’, không có bất cứ một điều kiện nào. Đời sống và công việc đều v́ tất cả chúng sanh, đều là không đặt điều kiện; đây là cương yếu và tinh thần của Đại Thừa Phật pháp, đích thật khế nhập cảnh giới ‘lư sự vô ngại, sự sự vô ngại.’
‘[Chánh] Pháp c̣n nên xả, huống hồ là phi pháp’. Chúng ta muốn [học] Phật pháp, nhưng trong lúc tu học không nên chấp trước. Đừng nên vừa nghe ‘pháp c̣n nên xả’ liền đem bỏ Phật pháp và thế gian pháp hết, thế th́ hiểu lầm ‘Như Lai chân thật nghĩa’, và c̣n biến thành tiêu cực, vô trách nhiệm. Phật pháp nhất định phải học, phải hành, nhưng không được chấp trước. Phật pháp như vậy, thế gian pháp cũng như vậy. Thân thể chúng ta c̣n sinh sống trên thế gian này, mỗi ngày cần phải ăn cơm, mặc áo, làm việc, xă giao, thứ nào cũng bỏ không được. Đặc biệt là Bồ Tát Đại Thừa nếu xả bỏ hết những công việc này th́ làm sao độ chúng sanh được? Bồ Tát độ chúng sanh cần phải tiếp xúc với đại chúng, cùng tất cả chúng sanh ‘hoà quang đồng trần’.
Tu hành phải thật t́nh ráng sức, h́nh thức là để nhắc nhở ḿnh, quan trọng nhất là khóa lễ thường lệ sáng và tối; khóa lễ buổi sáng nhắc nhở ḿnh, khoá lễ tối là để phản tỉnh, tụng niệm lễ sáng tối như vậy mới có công đức chân thật. Nhất định không phải buổi sáng niệm kinh chú một lần cho Phật, Bồ Tát nghe, buổi tối lại niệm thêm một lần cho quư ngài nghe, nếu không biết ư nghĩa [và mục đích] của hai buổi lễ này th́ hoàn toàn không thể y giáo phụng hành. Cũng giống như con nít trả bài trước mặt cha mẹ vậy, buổi sáng trả bài xong đến tối lại trả thêm một lần nữa. Nếu tụng niệm sáng tối kiểu này th́ có vô lượng tội lỗi. V́ bạn thờ phượng tượng Phật, Bồ Tát bằng nhựa hoặc gỗ, buổi sáng gạt họ một lần, buổi tối gạt thêm lần nữa, c̣n tưởng là ḿnh có công đức!
Lúc chúng ta tụng niệm trong Phật đường (chùa) nh́n thấy tượng Phật cũng giống như nh́n thấy đức Phật vậy. Buổi sáng niệm kinh là để nhắc nhở ḿnh hôm nay phải làm theo [lời dạy trong kinh]. Buổi tối tụng niệm để phản tỉnh, kiểm điểm xem hôm nay có làm theo lời dạy của chư Phật, Bồ Tát không? Nếu làm được rồi, ngày mai phải tiếp tục; nếu chưa làm được, ngày mai phải làm cho bằng được. Như vậy mới gọi là ‘buổi sáng nhắc nhở, buổi tối phản tỉnh’.
‘Pháp’ và ‘phi pháp’ cùng lúc, không có trước sau. ‘Vô trụ’ và ‘sanh tâm’ cùng lúc, ‘sanh tâm’ tức là ‘vô trụ’, ‘vô trụ’ tức là ‘sanh tâm’. Sanh tâm đại bồ đề, tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, tâm ‘hành lục độ vạn hạnh’. ‘Vô trụ’ là không trước tướng, cùng với ‘sanh tâm’ cùng lúc, không có phân ra hai giai đoạn. Nếu xem là hai giai đoạn th́ đă sai, đó không phải là lời Phật nói. Đức Phật nói pháp có khi nói bên này, chúng ta phải hiểu ư nghĩa của phía bên kia.
Câu ‘Pháp c̣n nên xả, huống hồ là phi pháp’ nói rơ không được chấp trước Phật pháp, huống chi là tất cả pháp trong thế gian. Mười pháp giới được sanh ra từ vọng tưởng, lục đạo luân hồi sanh ra từ chấp trước, [tất cả đều] có nhân có quả. Hễ những pháp sanh ra từ nhân quả đều không có tự tánh, bản thể vốn không, trọn chẳng nắm giữ được! (giai vô tự tánh, đương thể tức không, liễu bất khả đắc!).
c. Ĺa khỏi bốn tướng, tin nhân quả
1. Rộng kết thiện duyên và pháp duyên
Nghĩa lư trong kinh Kim Cang rất sâu xa, nếu hiểu sai th́ không những không đạt được ích lợi, mà có thể c̣n chịu thiệt hại. Đây cũng là điểm khó khăn của sự giảng giải kinh Bát Nhă, thế nên từ xưa đến nay rất ít người giảng kinh Bát Nhă, nhưng không thể không giảng. Lúc giảng nhất định phải giảng rơ ràng, thấu suốt, làm cho người nghe không đến nỗi hiểu sai, đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng.
Tứ Nhiếp Pháp là 4 nguyên tắc mà Phật dạy Bồ Tát dùng để nhiếp thọ (giúp đỡ) chúng sanh. Thứ nhất là ‘bố thí’, kết pháp duyên và thiện duyên với tất cả chúng sanh. Đức Phật không độ người chẳng có duyên; chúng sanh gặp bạn th́ vui mừng, chịu nghe lời bạn chỉ bảo, như vậy gọi là ‘có duyên’. Nếu bạn rất sẵn ḷng giúp đỡ nhưng họ lại từ chối, như vậy th́ gọi là duyên chưa đến.
2. Đức Phật vạn đức vạn năng
Lúc tôi bắt đầu học Phật, đối với Phật pháp có rất nhiều thắc mắc, [tôi có] một câu hỏi rất quan trọng là: ‘Đức Phật có trí huệ và năng lực viên măn (rốt ráo) hay không?’ Chúng ta thường tán thán đức Phật là ‘vạn đức vạn năng’; câu này chỉ là lời tán thán hay là sự thật? Chúng ta có thể đă nghe đến chuyện đức Phật cũng ‘có việc không thể làm được’, ư này nói ‘vạn đức vạn năng’ là lời tán thán, chứ không phải thiệt. Nếu lời tán thán đó không phù hợp với sự thật th́ lời này không đáng tin; những lời không đáng tin th́ thuộc về phạm vi của vọng ngữ (nói dối). Đức Phật dạy chúng ta không được vọng ngữ, đặc biệt là trong kinh Kim Cang có nói: ‘Như Lai thị chân ngữ giả, thật ngữ giả, như ngữ giả, bất cuống ngữ giả, bất dị ngữ giả’ (Như Lai là người nói lời chân thật, lời đúng như vậy, người không nói lời lừa gạt, không nói lời khác biệt)’ Từ điểm này mà quan sát trong Phật pháp lời tán thán đức Phật nhất định phải [phù hợp với câu] ‘lời nói đi đôi với hành động’, không có khoa trương phóng đại th́ mới hợp lư.
Giả sử có một chúng sanh tạo ra tội ngũ nghịch thập ác, lúc lâm chung nhất định đọa địa ngục A Tỳ, đối với người tạo tội này đức Phật có năng lực làm cho người này tức khắc thành Phật hay không? Nếu đức Phật có năng lực th́ chúng ta đồng ư và khẳng định rằng Phật có ‘vạn đức vạn năng’. Nếu đức Phật có thể giúp người tạo tội này rời khỏi 3 đường ác và sanh đến 3 cơi thiện, chuyện này không có ǵ đáng kể. Xin hỏi đức Phật có thể dạy người đó lập tức thành quả vị Phật cứu cánh viên măn hay không?
Trong các kinh Kim Cang, kinh Vô Lượng Thọ, và kinh A Di Đà đều có câu trả lời rơ ràng, đích thật đức Phật có năng lực này. Nếu như vậy th́ tại sao những chúng sanh tạo tất cả nghiệp tội không thể được độ? Điều này không thể trách Phật mà phải trách chúng sanh không nghe lời, không chịu tiếp nhận [sự dạy dỗ]. Kinh Lăng Nghiêm nói rất triệt để (cặn kẽ): ‘Tâm cuồng [loạn] không dứt, dứt tức bồ đề [nghĩa là Nếu dứt được tâm cuồng loạn th́ chính là Bồ Đề]. Cuồng tâm là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; buông xả tâm cuồng loạn này tức là cứu cánh viên măn Phật. Đức Phật giáo hoá chúng sanh, nhưng chúng sanh không chịu tin, không chịu buông xả, cho nên trách nhiệm không ở tại đức Phật mà ở tại chúng sanh. Đức Phật đích thật có trí huệ viên măn và năng lực rốt ráo. Kinh Kim Cang dạy chúng ta tin Phật, đây không phải là niềm tin tầm thường. Nửa phần đầu nói ‘ḷng tin thanh tịnh, ắt sanh thật tướng’ là từ ‘lư’ mà nói; nửa phần sau nói: ‘tín tâm bất nghịch’ (ḷng tin không chống trái) là từ ‘sự’ mà nói, lư và sự là một không phải hai. ‘Bất nghịch’ nghĩa là không làm theo lời dạy của đức Phật th́ không được. Người ‘tín tâm bất nghịch’ nhất định sẽ thành tựu. Nguyện thứ 18 trong 48 lời nguyện [của đức Phật A Di Đà] trong kinh Vô Lượng Thọ nói: ‘Tất cả chúng sanh trong thập phương lúc lâm chung một niệm hay mười niệm đều có thể văng sanh’. Người không văng sanh không thể vượt thoát khỏi lục đạo luân hồi. Lục đạo luân hồi là do một niệm cuối cùng lúc lâm chung quyết định; lúc lâm chung khởi lên một niệm thiện th́ sanh đến 3 cơi thiện, khởi lên một niệm ác th́ sanh đến 3 cơi ác. Một niệm cuối cùng lúc lâm chung vô cùng quan trọng. Hằng ngày chúng ta dụng công niệm Phật là huấn luyện, thật sự là để dốc sức vào một niệm lúc lâm chung, hy vọng giữ được chánh niệm phân minh, tín nguyện cầu sanh Cực Lạc thế giới, thấy Phật A Di Đà, th́ nhất quyết văng sanh bất thoái thành Phật.
Phật được xưng là ‘Nhị Túc Tôn’, ‘túc’ nghĩa là viên măn, ‘tôn’ nghĩa là tôn quư, ‘nhị túc’ là cả hai ‘trí huệ’ và ‘phước đức’ đều viên măn. Đức Phật dạy chúng ta cùng tu phước và huệ, không thể không tu phước. Người không có phước báo có rất nhiều chướng ngại trên con đường tu tập; người có phước báo có ít chướng ngại, cho nên phước và huệ đều quan trọng như nhau. ‘Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm’, trong tâm không có lo âu, băn khoăn (vướng mắc, lo lắng không dứt được), tất cả đều buông xả th́ tâm [được] thanh tịnh; tâm thanh tịnh sẽ sanh trí huệ, cho nên ‘vô trụ’ là tu huệ, ‘sanh tâm’ là tu phước. ‘Nhi hành bố thí’, bố thí là tu phước. Hưởng phước là việc vô cùng nguy hiểm nên trong kinh này đức Phật dạy Bồ Tát ‘bất thọ phước đức’ (không hưởng phước đức). Quan sát kỹ lưỡng người hành Bồ Tát đạo tu phước và không hưởng phước. V́ hưởng phước rất dễ mê hoặc, khi mê hoặc th́ không thể nào không tạo tội nghiệp, thế nên phước báo phải chia xẻ cho chúng sanh hưởng [chung].
Đức Phật v́ tất cả chúng sanh mà thuyết pháp, chẳng thuyết một pháp nhất định, tất cả pháp đều là duyên sanh. Lúc đức Phật Thích Ca Mâu Ni c̣n tại thế giảng kinh thuyết pháp không chuẩn bị hôm nay phải giảng pháp nào, ngày mai phải giảng đề mục ǵ. Nếu có chuẩn bị th́ mới là định pháp. Thầy tṛ tụ tập một chỗ, khi không có câu hỏi hoặc vấn đề ǵ th́ mọi người tĩnh tọa; lúc có vấn đề, đức Phật tùy thời giải đáp cho đại chúng, sau này ghi chép lại thành kinh điển.
Lúc đức Thế Tôn c̣n tại thế có rất nhiều học tṛ, trong kinh nói 1250 người là thường tuỳ chúng (nhóm học tṛ luôn luôn đi theo và ở cạnh đức Phật). Nhóm thường tuỳ đệ tử này bao gồm luôn những người hộ pháp tại gia, hết thảy đều là chư Phật, Bồ Tát ‘đáo giá từ hàng’ (thả chiếc bè từ) mà đến. Họ giúp đỡ đức Phật Thích Ca giáo hoá chúng sanh, đúng như câu nói: ‘Nhất Phật xuất thế, thiên Phật ủng hộ’ (Một vị Phật ra đời, ngàn Phật ủng hộ). Phật làm một gương tốt cho chúng ta, đức Phật và chư Phật không có đố kỵ, không có trở ngại lẫn nhau. Đức Phật Thích Ca thị hiện thành Phật, những vị cổ Phật cũng đến thị hiện làm học tṛ của Ngài (Phật Thích Ca), giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, mục đích là như vậy.
Cũng giống như tuồng hát [trên sân khấu], người nào đóng vai chánh, những người c̣n lại đóng vai phụ, cùng nhau hợp tác thành tựu viên măn. Trước khán đài và sau khán đài khác nhau, trước khán đài có thể đóng vai phụ, thậm chí đóng vai gánh nước, kéo cờ, [nhưng] phía sau khán đài [có thể] là thầy của người đóng vai chánh. Trên khán đài thường thấy người học tṛ đóng vai chánh, chư Phật, Bồ Tát giáo hoá chúng sanh đúng là ‘du hí’. Thế nên, những người đệ tử nổi tiếng nhất như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đều là cổ Phật tái lai. Trong số cư sĩ, trưởng giả Duy Ma là Kim Túc Như Lai tái lai thị hiện làm đệ tử tại gia của đức Phật Thích Ca. Chỗ này có thể gợi ư cho chúng ta, phải từ đây học tập rút tỉa kinh nghiệm --Phật pháp không những chỉ bao gồm tứ chúng, tất cả chúng sanh trong tận hư không, khắp pháp giới đều là một nhà cả. Nếu hiểu được đều là một nhà, không những trong tứ chúng không bài xích lẫn nhau, đối với [những người] thuộc tôn giáo khác cũng không bài xích.
3. Ĺa bốn tướng, hiểu rơ sự lư, tin nhân quả
Tâm lượng của Phật giáo rất rộng lớn, đối với tất cả tôn giáo thậm chí những người có ác ư phỉ báng, phê b́nh, Phật, Bồ Tát cũng không để ư, cũng đều dùng ái tâm để quan tâm và giúp đỡ họ. Đối với người ngoại đạo c̣n như vậy, huống hồ là đồng tham đạo hữu! Phật thị hiện dùng thân ḿnh làm tiêu chuẩn mực thước để chúng ta noi gương theo, không chỉ dùng lời nói để khuyên chúng ta mà thôi. Kinh Kim Cang nói: ‘Không có tướng ta, không có tướng người, không có tướng chúng sanh, không có tướng thọ giả’, không những Phật pháp Đại thừa, kể cả Tiểu thừa cũng bao gồm trong đó luôn. Tiểu thừa Tứ Quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán đều ly tướng, phá trừ phân biệt, chấp trước. Không kể công phu tu hành tốt đến đâu, nếu chưa buông xả ‘ngă tướng’ th́ không thoát ly ra khỏi luân hồi. Đây là một vấn đề vô cùng nghiêm trọng, tuyệt đối không được xem thường.
Chúng ta đời đời kiếp kiếp xoay vần trong lục đạo, đời sống không dễ dàng. Cho dù tu phước th́ đời sống cũng không dễ [hơn được bao nhiêu]. Hăy quan sát kỹ lưỡng người trong thế gian, giàu và nghèo đều khổ. Người nghèo khổ [th́ đă đành rồi nhưng] người giàu c̣n khổ hơn nữa. Làm tổng thống, làm vua chúa có ai không cực nhọc? Trong đời sống có ai được đại tự tại! Chư vị nên lắng ḷng quan sát, tâm sẽ b́nh tĩnh [sáng suốt], sẽ khai trí huệ, mới thật sự xoi thấu được chân tướng sự thật.
Trong thế pháp tất cả chúng sanh đều không thể vượt ra ngoài định luật nhân quả. ‘Một miếng ăn, một miếng uống đều đă định sẵn’. Chữ ‘định’ này là định luật nhân quả, đó là sự thật, nhất định không tí ǵ hư dối. Người đối với người không nên có oán hận, không nên có xích mích [lẫn nhau]. Một niệm sân hận, tâm niệm trả thù tuy nhỏ bé, phải biết đời đời kiếp kiếp không bao giờ chấm dứt [trả thù, báo phục]. Hơn nữa mỗi lần trả thù sẽ không chỉ trả vừa đủ, cũng sẽ trả hơn một chút. Đối phương không phục, oán hận trong tâm, đời sau gặp lại cũng sẽ báo thù tiếp tục, cứ như thế không bao giờ dứt. Sau cùng trở thành dữ dội tàn khốc, hai bên đều đọa địa ngục A Tỳ. Các trận chiến tranh trong lịch sử thế giới đều bắt đầu từ oán hận báo thù lẫn nhau. Hiểu được đạo lư và sự thật chúng ta phải nên phát tâm đại từ đại bi để hoá giải hết tất cả những xích mích này. Không những phải sống chung ḥa b́nh với tất cả chúng sanh, mà c̣n giúp đỡ hợp tác lẫn nhau; thêm một bước giúp họ phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui, như vậy mới là Bồ Tát đạo, Bồ Tát hạnh.
Lúc đạo tràng mới thành lập, chúng ta nhất định phải giảng kinh Địa Tạng trước nhất. Có đất đai rồi, trên miếng đất này mới xây dựng Phật pháp. Chữ ‘địa’ trong ‘kinh Địa Tạng’ là ‘tâm địa’; tạng tức là kho tàng chứa tất cả công đức của Như Lai, cũng tức là tự tánh vốn sẵn có đầy đủ vô lượng trí huệ, đức năng, đó là nghĩa của chữ ‘Địa Tạng’. Làm sao khai mở trí huệ đức năng? Kinh Địa Tạng dạy chúng ta hai chữ ‘hiếu kính’, -- hiếu thuận cha mẹ, tôn kính sư trưởng. Sự giáo dục từ xưa đến nay ở Trung quốc chú trọng ‘Tôn sư trọng đạo’. Kinh Địa Tạng dạy chúng ta ‘hiếu thân tôn sư’, hàm nghĩa [của điều này] vô cùng sâu rộng, bao gồm toàn bộ Phật pháp. Thí dụ bài vở học sinh không giỏi, làm cho cha mẹ, thầy giáo đều bận tâm, đó tức là không hiếu kính cha mẹ, không tôn kính sư trưởng; học sinh siêng năng học hỏi, tiếp nhận sự dạy dỗ của thầy giáo tức là hiếu kính. Trong gia đ́nh anh em không ḥa thuận là bất hiếu, chị em dâu bất hoà là bất hiếu. Một nhà ḥa thuận th́ cha mẹ vui mừng, được mọi người kính trọng, cha mẹ, thầy giáo mới vui vẻ. V́ vậy khi khởi tâm động niệm, ngôn ngữ hành động, nhất định phải nghĩ đến ân đức của cha mẹ và lời dạy dỗ của thầy giáo; học Phật là phải bắt đầu từ chỗ này, rồi sau đó nâng cao cảnh giới từng tầng từng tầng đi lên.
‘Sự’ vô lượng vô biên, ‘lư’ vô lượng vô biên, Phật, Bồ Tát tùy duyên thuyết pháp, cho nên không có một định pháp có thể nói. Đức Phật lại nói với chúng ta: ‘Nhất thiết hiền thánh, giai dĩ vô vi pháp, nhi hữu sai biệt’ (Tất cả thánh hiền đều do vô vi pháp mà có sự sai khác), đây là nói rơ Tứ quả Tứ hướng Tiểu thừa, 51 vị thứ của Bồ Tát Đại thừa đều xây dựng từ ‘vô vi pháp’. ‘Vô vi pháp’ là chân tâm bổn tánh, tức là tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Lúc trước chúng tôi cứ nghĩ là tâm của Đại thừa giáo Bồ Tát mới thanh tịnh và b́nh đẳng. Nhưng trong kinh Kim Cang, đức Thế Tôn nói với chúng ta, người chứng được quả Tiểu thừa Tu Đà Hoàn đă có tâm thanh tịnh b́nh đẳng. Tuy tâm địa thanh tịnh b́nh đẳng nhưng tŕnh độ thanh tịnh b́nh đẳng của mỗi người không giống nhau. Tiểu thừa Tứ quả Tứ hướng có tám cấp bực; Đại thừa từ quả Sơ Tín đến Đẳng Giác gồm có 51 cấp bực đều là mức độ cao thấp của tâm thanh tịnh và tâm b́nh đẳng.
Tự ḿnh tạo ra nhân th́ tự ḿnh phải gánh chịu quả báo; chư Phật, Bồ Tát cũng không thể thay đổi nghiệp nhân quả báo. Khi Địa Tạng Bồ Tát đến cơi địa ngục cứu độ chúng sanh th́ cũng độ những chúng sanh có duyên đầy đủ, duyên chín muồi. Chúng sanh ở địa ngục tràn đầy tâm sân hận, tâm trả thù rất mạnh, Bồ Tát khuyên họ buông xả, khuyên họ phát tâm từ bi, họ phải chịu tiếp nhận, đồng ư [th́ mới được độ], nhưng rất ít chúng sanh [ở địa ngục] có thể tiếp nhận. Trong sáu nẻo luân hồi chỉ có loài người là dễ giác ngộ nhất, dễ chịu nghe lời khuyên dạy của Phật, Bồ Tát nhất. Cơi trời vui nhiều khổ ít, hưởng lạc quen rồi nên rất khó nghe lời khuyên dạy, đây là ‘phú quư học đạo nan’ (giàu sang học đạo khó). Ba cơi ác quá khổ, tâm sân giận, đố kỵ, trả thù quá mạnh nên cũng không chịu tiếp nhận lời khuyên dạy. Tại sao chư Phật phải thị hiện thành Phật ở cơi người? Là v́ cơi người khổ đau nhiều, vui sướng ít, dễ giác ngộ hơn, dễ nghe theo lời răn dạy của Phật, Bồ Tát hơn các cơi khác.
Cụ Châu Kính Trụ kể lại nhân duyên học Phật của ông cho tôi nghe. Trong thời kỳ kháng chiến [chống Nhật] ông lo việc kiểm soát thuế vụ của hai tỉnh Tứ Xuyên và Tây Khang. Sau khi kháng chiến thắng lợi ông đă từng đảm nhiệm chức Ty Trưởng Tài chánh tỉnh Triết Giang, lúc bấy giờ thủ đô [được dời về] Trùng Khánh. Ông nói có một đêm nọ ông ở Trùng Khánh đánh bài đến 2, 3 giờ khuya mới về nhà. Lúc bấy giờ những người làm quan không có xe chuyên chở nên phải đi bộ về nhà một ḿnh. Trong thời kỳ kháng chiến đường lộ rất gồ ghề, cách thiệt xa mới có một ngọn đèn đường, ánh đèn rất yếu, chỉ sáng cỡ chừng 20 nến (đơn vị đo lường ánh sáng, candle), chỉ đủ nh́n thấy bóng lờ mờ mà thôi. Trên đường đi ông nh́n thấy bóng của một người đàn bà đi phía trước ông cỡ chừng 50 bước. Lúc ban đầu ông không để ư, cứ tiếp tục đi trên cùng đường. Đi được khoảng nửa giờ đồng hồ ông bỗng nhiên giựt ḿnh suy nghĩ tại sao nửa đêm nửa hôm lại có người đàn bà đi ngoài đường một ḿnh như vậy? Ư nghĩ này vừa khởi lên làm cho ông rởn da gà. Nh́n kỹ lại ông thấy người đi phía trước chỉ có phân nửa thân phía trên, không thấy nửa người phía dưới. Ông sợ quá! Không phải ông bị mờ mắt, quáng gà. Từ đó trở về sau ông mới bắt đầu tin Phật pháp. Ông nói nữ quỷ đó có thể là Quán Thế Âm Bồ Tát hoá thân để độ ông; nếu ông không nh́n thấy tận mắt, chứng minh được Phật pháp một tí ǵ cũng không phải giả th́ ông chẳng đời nào bước chân vào cửa Phật cả.
Cụ Châu thường dùng những chuyện thật về nhân quả báo ứng để khuyên người tin sâu nhân quả, khi khởi tâm động niệm đều phải cẩn thận đừng tạo nhân ác. Nhân cần phải có duyên mới có thể kết thành quả. Cả đời này ḿnh chấm dứt làm việc ác, chuyên làm việc thiện; cắt đứt duyên ác rồi, tuy có nhân ác cũng không thể thành quả ác. Chúng ta hăy tích lũy công đức càng nhiều, bồi đắp thiện duyên cho tử tế. Nhân tốt đời trước cộng với duyên thiện đời này, dĩ nhiên sẽ thành ra quả báo thiện.
__________________ không c̣n yêu ai nũa !
|
Quay trở về đầu |
|
|
bachngoc Hội viên
Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 46
|
Msg 7 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:27am | Đă lưu IP
|
|
|
d. Tôn đức Phật A Di Đà làm thầy
1. Pháp môn b́nh đẳng:
Những nguyên lư và nguyên tắc mà đức Thế Tôn nói trong các kinh điển Đại thừa, không có ǵ khác nhau, những ǵ khác nhau chỉ là phương pháp mà thôi. Nhà Phật thường nói tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, do đó có thể thấy chư Phật, Bồ Tát không có pháp nhất định ǵ để nói, c̣n phương hướng và mục tiêu đều giống nhau hết. Sự khác nhau giữa Tông Môn, Giáo Hạ, Hiển Giáo, Mật Giáo rất lớn, tuy nhiên phương hướng đều là ‘Giác, Chánh, Tịnh’, mục tiêu đều là ‘Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác’, cho nên nói ‘pháp môn b́nh đẳng, không có cao thấp’.
Kinh Kim Cang nói: ‘Nhất thiết chư Phật, cập chư Phật A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề pháp, giai tùng thử kinh xuất’ (Hết thảy chư Phật và các pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề của chư Phật đều từ kinh này ra). Do đó có thể thấy tất cả chư Phật đều y cứ vào nguyên lư và nguyên tắc trong kinh này mà thành Phật; Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng đạt được từ kinh này. Bộ kinh này cao tột cùng, những kinh khác cũng cao tột cùng, v́ mỗi bộ kinh điển đều là chỗ xuất xứ của chư Phật và Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của chư Phật. Nếu đức Phật chỉ nói về một pháp môn duy nhất th́ chẳng phải ‘không có định pháp ǵ để nói’.
Đức Phật nói pháp nhất định y theo nguyên tắc Nhị Đế -- Chân đế và Tục đế -- và nhất định phải khế cơ. Khế cơ và khế lư đều không vượt ra ngoài Nhị đế. ‘Khế cơ’ là không trái ngược với Tục đế. ‘Khế lư’ là không trái ngược với Chân đế. Căn tánh của chúng sanh sai khác quá nhiều, không thể chỉ dùng một phương pháp để phổ độ chúng sanh, cho nên đức Phật nói vô lượng pháp môn, đây là noi theo Tục đế mà nói. Tuy pháp môn vô lượng nhưng mục tiêu, phương hướng đều không trái ngược với Chân đế. Nếu chúng ta có thể nhận biết điều này rơ ràng th́ học Phật không khó, vả lại nội trong một thời gian ngắn sẽ đạt được lợi ích. Sau ba tháng, sáu tháng sẽ có hiệu quả rất rơ ràng. Hiệu quả ǵ? Tiêu trừ nghiệp chướng, tự ḿnh sẽ cảm thấy nghiệp chướng giảm bớt, trí huệ từ từ khai mở.
Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật thí dụ nghiệp chướng như giặc cướp, chúng nó giựt pháp tài công đức của ḿnh. Nếu không nhận ra giặc cướp th́ làm thế nào bắt chúng được! Cho nên nhất định phải nhận biết nghiệp chướng th́ mới tiêu hết nghiệp chướng được. Nghiệp là sự nghiệp, đang lúc làm ra th́ gọi là ‘sự’, kết quả của việc này khi làm xong th́ gọi là ‘nghiệp’. Tạo ra nghiệp th́ nhất định có chướng ngại. Trên căn bản cứu cánh th́ chướng ngại tự tánh của người, chướng ngại pháp thân, bát nhă, giải thoát. Đối với sanh hoạt của con người th́ chướng ngại tâm thanh tịnh, làm thân tâm không an ổn; chướng ngại gia đ́nh, làm gia đ́nh này không hoà hợp; chướng ngại sự nghiệp làm cho công việc làm không thuận lợi, những thứ này đều là chướng ngại. Học Phật, bái sám (lạy sám hối) có thể tiêu trừ nghiệp chướng không? Chỉ cần chúng ta b́nh tĩnh quan sát, không những không thể tiêu trừ, càng bái sám th́ nghiệp chướng càng nhiều, càng học Phật th́ phiền năo càng nhiều. Tu mù luyện đui th́ làm sao được!
2. Thân cận thiện tri thức:
Trong kinh luận Đại thừa và Tiểu thừa đức Phật đều dạy rơ cho chúng ta, điều kiện đầu tiên của việc học Phật là nhất định phải theo học một vị thầy tốt (Tùng minh sư thọ giới, chuyên tín bất phạm). Nếu muốn thành tựu, không hiểu đạo lư th́ không làm được. Trong vài ngàn năm qua ở Trung quốc, sự trao truyền (truyền thừa) thế pháp và Phật pháp đều chú trọng ở chữ ‘sư thừa’, tức là học tập theo một vị thầy. Đúng đạo lư thầy tṛ, từ xưa đến nay chuyện này rất khó gặp. Đây không phải duyên phần trong chỉ một đời này, mà là duyên phần trong nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta dựa vào kinh nghiệm tu học của thầy mà nâng cao [tŕnh độ của ḿnh], đây là việc rất quan trọng trong ‘sư thừa’. Trong Tông Môn thường nói ‘Đi trên đảnh của Tỳ Lô’. Tỳ Lô Giá Na Phật là pháp thân Như Lai. Trong kinh Hoa Nghiêm nói đến ba thân Như Lai, Tỳ Lô Giá Na là ‘Pháp thân Phật’, Lô Xá Na Phật là ‘Báo thân Phật’, Thích Ca Mâu Ni Phật là ‘Ứng thân Phật’, đây là ‘một thể ba thân’ của Phật. Phật là thầy giáo của chúng ta, chúng ta nương nhờ vào ngài, nương theo vai của ngài, nương theo và đạp trên đảnh (nghĩa là nương nhờ vào) [th́] học sinh mới có thể vượt qua thầy, người sau vượt trội hơn người trước, có câu nói: ‘thanh xuất ư lam, nhi thắng ư lam’ (màu xanh lá cây có từ màu xanh lam mà vượt trội hơn xanh lam) (2). Nếu không noi theo phương pháp tu hành này mà phải xây dựng lại từ đầu, đến ngày nào mới có thể thành tựu! Sự giáo học trong thế pháp và Phật pháp đều có chung đạo lư này.
Người xưa học Phật không kể tại gia hay xuất gia, lúc vào cửa Phật phải bắt đầu ‘học giới 5 năm’, đây là cơ sở, nền tảng. Câu này rất đơn giản, nếu y theo lời văn mà giải nghĩa, rất có thể sẽ giải thích sai ư tứ, cứ tưởng rằng chỉ học những thứ như năm giới, mười giới, Bồ Tát giới, Bát quan trai giới, mà không biết chữ giới ở đây chỉ ‘giáo giới’ (lời dạy, khuyên răn) của thầy giáo. Trong ṿng 5 năm phải tuân theo lời khuyên dạy của thầy giáo, chứ không phải chỉ giới điều.
Thời xưa sư đạo tôn nghiêm, trong xă hội không ai chẳng tôn trọng người dạy học. Thế pháp c̣n như vậy huống hồ là Phật pháp. Cho nên quan trọng nhất là thân cận thiện tri thức. Ai là thiện tri thức? Chúng ta xem ngữ lục của người xưa, quan sát kỹ càng th́ sẽ hiểu ngay. Thiệt ra thiện tri thức không có tiêu chuẩn nhất định, điều kiện quan trọng nhất là người học tṛ phải ngưỡng mộ, kính phục vị thiện tri thức này nhất, người này đúng là thiện tri thức. Nếu bạn có thể hoàn toàn phục tùng theo lời nói của người đó 100% th́ đó là thiện tri thức của bạn. Cho dù đức hạnh của người đó cao đến đâu, học thức giỏi cách mấy, nếu bạn không phục họ, không chịu nghe lời, th́ họ không phải là thiện tri thức của bạn. Cho dù chư Phật, Bồ Tát tới, nếu bạn không tôn kính họ, không có tâm niệm phải y giáo phụng hành, Phật, Bồ Tát cũng không phải là thiện tri thức của bạn. Người khác nói cùng một lời nói như vậy, bạn không thể tin nhận; nếu có một người nói [như vậy] mà bạn có thể hoan hỷ nghe theo, làm theo, th́ người này là thầy giáo tốt của bạn.
Có câu nói: ‘thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam’, thầy giáo có thể dùng chánh pháp dạy dỗ bạn, bản thân của thầy chưa chắc đă làm được, nhưng nếu học tṛ phục tùng một trăm phần trăm (100%), học tṛ [có thể] làm được nên học tṛ [nhiều lúc] vượt trội hơn thầy giáo. Cho dù thầy có giỏi cách mấy, nếu học tṛ không chịu nghe và làm theo lời dạy, thế th́ việc dạy học này không có hiệu quả, học tṛ đi theo ông thầy này cả đời cũng không thành công. V́ vậy tiêu chuẩn lựa chọn thầy giáo là ở điểm này.
Ngữ lục của các tông phái trong Phật giáo có ghi chép không kể là tại gia hay xuất gia, khi người học tṛ đi tham vấn các vị đại đức, những vị đại đức này thường sẽ cho biết duyên phần của người học tṛ ở địa phương nào, đi đến đâu tham vấn, học hỏi th́ người này sẽ thành tựu. Người học tṛ nghe theo lời chỉ dẫn này mà đi tham vấn, quả nhiên sau 3 năm, 5 năm liền khai ngộ, liền thành tựu. Chúng ta suy nghĩ kỹ càng, không lẽ người học tṛ này không thể khai ngộ ở đạo tràng của người giới thiệu, chỉ đường này hay sao? Người này có năng lực chỉ dẫn người đến cầu học đi đến đâu, đi học với người nào th́ sẽ thành tựu, không lẽ tự ḿnh không có khả năng dạy học? Văn tự Trung Quốc đơn giản, vắn tắt, người đó đi tham vấn vị lăo hoà thượng này chắc chắn đă nói chuyện rất lâu, có thể đă lưu lại ở đó rất nhiều ngày, nhưng trong sách chỉ ghi lại hai ba câu nói, thiệt ra [họ đă nói] chuyện rất dài, rất lâu, liễu giải rất sâu. Lăo pháp sư biết rơ căn cơ, thói quen của học tṛ, biết trong tâm học tṛ không mến mộ đạo tràng này và cũng không phải là [học tṛ] của ḿnh, cho nên giới thiệu vị đại đức khác phù hợp với lư tưởng của học tṛ; đi học người thầy mà học tṛ ngưỡng mộ th́ dễ hoàn toàn nghe lời và phục tùng, cho nên trong ṿng 3 đến 5 năm th́ có thể thành tựu. Thiệt ra đạo đức, học vấn, và tu tŕ của ‘vị chỉ đường’ này không thua người mà ngài giới thiệu, chỉ là căn tánh và cơ duyên khác nhau mà thôi.
Thí dụ có người đến chỗ này để niệm Phật, tuy niệm nhưng tâm không thể an định v́ người này rất thích Thiền, đối với Thiền cứ ghi nhớ trong ḷng. Họ ở đây niệm Phật cũng niệm không xong, tham thiền cũng tham không đến đâu, như vậy chỉ làm mất thời giờ của họ mà thôi. Không bằng giới thiệu cho họ một vị thầy giỏi, chuyên tham thiền, có công phu. Họ đến đó chẳng khởi vọng tưởng, một ḷng một dạ siêng năng tu tập th́ rất dễ thành công. Cho nên mỗi đạo tràng chỉ tu một pháp môn. Từ xưa đến nay, có câu ‘xây đạo tràng, lập pháp tràng (dựng bày pháp nghĩa và chỉ bày rơ ràng cho chúng sanh)’, giải hành chuyên nhất. Gom những người có cùng ư chí, đạo hiệp tu tập chung với nhau th́ mọi người đều dễ thành tựu. Mỗi vị thiện tri thức trong 53 lần tham vấn trong kinh Hoa Nghiêm tu học theo một pháp môn [riêng rẽ], họ đón mừng những người cùng chung ư hướng đến để tu tập; người nào thích tu pháp môn khác đều được giới thiệu đến đạo tràng khác, giới thiệu với các pháp sư khác, giúp tất cả chúng sanh có thể thành tựu. Cho nên ‘pháp môn b́nh đẳng, thù đồ đồng quy’ (pháp môn b́nh đẳng, đường nào cũng về đến đích). Nhất định phải giữ hảo tâm muốn giúp người khác thành tựu, đừng gây chướng ngại cho họ, không thôi th́ tội lỗi rất nặng.
Đạo tràng thời xưa rất giống như phân khoa chuyên ngành trong trường đại học bây giờ, tạo phương tiện thuận lợi cho đại chúng tham học. Mỗi đạo tràng có tông chỉ tu học riêng rẽ, có nơi y cứ vào kinh luận, có chỗ dùng phương pháp tu tập đặc biệt. Cùng một tông phái, những đạo tràng khác nhau đều có chỗ đại đồng nhưng tiểu dị (điềm khác nhau nhỏ). Thí dụ trong Niệm Phật Đường [có hai người] niệm Phật theo những giai điệu và tốc độ nhanh chậm khác nhau, hai người này sẽ làm cho những người đồng tu sanh phiền năo, v́ vậy phải phân ra hai đạo tràng riêng biệt.
Trong kinh Kim Cang, đức Phật Thích Ca và chư Phật, Bồ Tát làm gương cho chúng ta. Đệ tử Phật phải làm gương tốt cho tất cả chúng sanh, làm người hạng nhất trong mọi hoàn cảnh [và nơi chốn]. Phải làm cho gia đ́nh trở thành gia đ́nh gương mẫu trên toàn thế giới. Những người làm ăn buôn bán phải làm cho công ty của ḿnh thành công ty hạng nhất trên thế giới, như vậy mới đúng là đệ tử của đức Phật. Trong Phật pháp không có hạng nh́, môn nào cũng là hạng nhất, mọi thứ đều hạng nhất, như vậy mới đúng như pháp. Cho nên ‘học Phật’ [đúng theo nghĩa của chữ này] rất khó, quan trọng nhất là ‘trí huệ tăng trưởng, thân tâm thanh tịnh’. Muốn đạt đến mức thân tâm thanh tịnh không thể không buông xả, không thể không nh́n thấu (thấy rỗng toang), phải biết rơ chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
3. Đừng lôi kéo tín đồ, đừng hóa duyên
Đạo tràng không thể lôi kéo tín đồ, không thể hóa duyên, nếu làm như vậy th́ sẽ tạo nghiệp tội, nhất định sẽ có lỗi lầm. Chúng ta tin Phật [sẽ lo lắng] và duy tŕ đạo tràng [cho chúng ta]. ‘Tin Phật’ vô cùng quan trọng! Điều này là do thầy Lư dạy tôi. Sau khi tôi xuất gia, thọ giới xong, đến Đài Trung thăm thầy, vừa gặp mặt th́ thầy liền dạy cho tôi hai chữ ‘Tin Phật’. Sau đó thầy giải thích: “Ông học Phật đă bao nhiêu năm nay, đă xuất gia và thọ giới, c̣n đi giảng kinh ở nhiều nơi, tôi dạy cho ông hai chữ này, ông không cảm thấy kỳ lạ hay sao?”
‘Tin Phật rất khó!’. Những ǵ đức Phật dạy chúng ta làm th́ chúng ta phải làm theo lời dạy, những ǵ đức Phật dạy chúng ta đừng làm th́ chúng ta nhất định không làm, như vậy mới gọi là ‘tin Phật’. Nhất định phải giải đúng nghĩa chân thật của những lời Phật nói, y theo đó mà làm, như vậy mói gọi là ‘tin Phật’. Đạo tràng có chư Phật hộ niệm, long thiên ủng hộ, v́ vậy [chúng ta] nhất tâm hướng về đạo, ngoài ra không cần phải lo lắng. Từ xưa đến nay những người chân tâm hướng về đạo đều tu tâm thanh tịnh, chắc thật niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, giúp các bạn đồng tu phá mê khai ngộ.
Pháp vận của đức Phật Thích Ca dài một vạn hai ngàn năm, tất cả đệ tử từng đời tiếp nối truyền đến đời sau; trong kinh điển Đại thừa nói hào quang từ bạch hào [của đức Phật] có một phần công đức dùng để cúng dường cho những người xuất gia đời sau này măi cho đến khi pháp diệt. Chúng ta có thể tin và tiếp nhận điều này hay không?
4. Pháp môn vô lượng chỉ chọn một môn
Việc mà Phật pháp theo đuổi, t́m cầu là trí huệ cứu cánh viên măn, trí huệ này có sẵn trong tự tánh, không phải đến từ bên ngoài. Tổng cương lĩnh của việc tu hành là ‘giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm’. Mê, tà, nhiễm đều là nghiệp chướng. Kinh Kim Cang dạy chúng ta ‘Ưng vô sở trụ’, trụ tức là nhiễm, chấp trước, phân biệt. Đức Phật dạy chúng ta làm bất cứ việc ǵ cũng phải tuỳ duyên, đừng phan duyên.
Phật pháp là ‘Giác, Chánh, Tịnh’. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đến sau cùng đều đi vào từ ba cửa này. Thiền Tông, Tánh Tông vào từ cửa ‘Giác’, cho nên đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Giáo Hạ vào từ cửa ‘Chánh’, như Hiền Thủ, Thiên Thai, Pháp Tướng, Tam Luận Tông noi theo kinh điển Đại thừa để sửa đổi tri kiến của ḿnh, nhập Phật tri kiến, chánh tri chánh kiến. Tịnh Tông và Mật Tông vào từ cửa ‘Tịnh’, [cả hai đều] đặc biệt coi trọng tâm thanh tịnh – tâm tịnh th́ cơi nước tịnh. Lúc chưa bước vào cửa th́ ba cửa này không giống nhau, sau khi vào trong th́ ba cửa vốn là một. Tâm địa thanh tịnh làm sao lại không giác ngộ được chứ? Người giác ngộ không thể nào có tri kiến bất chánh. ‘Giác, Chánh, Tịnh’, ba là một, một là ba. Đạt được một th́ cả ba đều đạt được, hiểu như vậy th́ [chúng ta] mới có một phương hướng rơ ràng cho sự tu học của ḿnh.
Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy cho chúng ta rất nhiều thứ, đặc biệt là câu: ‘Thiện nam tử, thiện nữ nhân ư thử kinh trung năi chí thọ tŕ tứ cú kệ đẳng, vị tha nhân thuyết, nhi thử phước đức thắng tiền phước đức’ (Người thiện nam, người thiện nữ y theo [lời dạy] trong kinh, nhận lấy và làm theo cho dù chỉ bốn câu kệ, giảng thuyết cho người khác th́ phước đức này c̣n thù thắng hơn những phước đức kể trước), những câu giống câu này [được lập lại] đến 7, 8 lần, thế mới biết câu này quan trọng đến mức nào. Điểm quan trọng nhất là ‘thọ tŕ’, ‘thọ’ là tiếp nhận. Tôi hoàn toàn tiếp nhận lời dạy của Phật, y theo lời dạy mà làm, nhất định không làm ngược lại; ‘tŕ’ là bảo tŕ, giữ ǵn vĩnh viễn không mất. Phân nửa phần sau nói đến ‘tín tâm bất nghịch’ (ḷng tin không chống trái), nhất quyết phải làm theo y như vậy.
Nhiều bạn đồng tu hỏi tôi: ‘Đọc kinh nào tốt?’. [Chúng ta] phải biết bộ kinh nào cũng tốt cả; nếu thích bộ kinh nào th́ đọc kinh đó, nhưng phải nhớ kỹ cả đời chỉ đọc một bộ kinh th́ mới có thể thành tựu. Nếu nghĩ bộ kinh này tốt, kinh kia cũng tốt, [kinh nào cũng đọc] th́ là tham. Phật dạy chúng ta phải đoạn trừ tâm tham chứ không dạy tăng trưởng tâm tham.
Học một bộ kinh là ‘nhất môn thâm nhập’ (đi sâu vào một môn), một ḷng một dạ theo học một pháp môn mà thôi, như vậy th́ tâm sẽ định, tâm sẽ thanh tịnh. Phật nói rất nhiều kinh điển nhưng không dạy chúng ta học hết toàn bộ, mà trong số kinh này chỉ chọn một bộ kinh thích hợp với căn tánh của ḿnh. Đi sâu vào một môn mới có thể thành công. Câu ‘Pháp môn vô lượng thệ nguyện học’ trong Tứ hoằng thệ nguyện đứng vào hàng thứ ba. Câu thứ nhất là ‘Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’, câu thứ nh́ là ‘Phiền năo vô lượng thệ nguyện đoạn’, nhất định phải làm được hai câu đầu rồi sau đó mới học nhiều pháp môn.
Học một pháp môn là cắt đoạn phiền năo, nhưng trước đó phải phát tâm bồ đề, được vậy tri kiến (sự hiểu biết) mới chánh, tâm lượng mới lớn. Tâm lượng của chúng ta phải độ tận tất cả chúng sanh, không những độ những người học Phật mà c̣n phải độ tất cả những tín đồ tôn giáo khác, tâm lượng như vậy mới b́nh đẳng. Những tín đồ tôn giáo khác đối với chúng ta có thành kiến, ḿnh đối với họ không có thành kiến, họ phỉ báng ḿnh, ḿnh đối với họ chỉ có lễ kính, tán thán. Phật là ‘tâm bao thái hư, lượng châu sa giới’, tâm lượng nhỏ hẹp là nghiệp chướng sâu nặng. Chúng ta muốn tiêu trừ nghiệp chướng th́ bước đầu tiên phải mở rộng tâm lượng, dùng tâm hoan hỷ đối đăi với tất cả chúng sanh.
5. Lối dạy học nghệ thuật hóa trong Phật giáo
H́nh tượng của Phật, Bồ Tát đều chứa đựng ư nghĩa thâm sâu, nếu chúng ta xem Phật, Bồ Tát như thần thánh th́ sai rồi. Kể cả kiến trúc Phật giáo cũng biểu thị pháp (tượng trưng pháp), thí dụ nh́n từ phía ngoài th́ đại điện trong chùa có hai tầng, đi vào phía trong th́ chỉ có một tầng: hai tầng ở phía ngoài tượng trưng cho nhị đế, một tầng ở trong tượng trưng nhị đế viên dung [hoà đồng với nhau]. [Thông thường theo] kiến trúc chánh quy của các tự viện vừa vào cửa th́ gặp Điện Thiên Vương, ở chính giữa điện là tượng Di Lặc Bồ Tát, tượng này hướng về cổng chính, có h́nh dáng giống ‘Bố Đại ḥa thượng’ và tượng trưng cho tâm b́nh đẳng, tướng vui vẻ. Đệ tử Phật phải có đủ điều kiện này: b́nh đẳng đối với tất cả chúng sanh, cười tươi đón tiếp người, thường sanh tâm hoan hỷ, pháp hỷ sung măn, như vậy mới đi vào cửa Phật được. Hai bên có Tứ Đại Thiên Vương hộ pháp, chữ hộ ở đây không phải hộ (bảo vệ) người khác, không phải hộ tự viện, không phải hộ đạo tràng, mà là hộ tŕ pháp của chính ḿnh.
Một trong bốn vị thiên vương là ‘Đông Phương Tŕ Quốc Thiên vương’, vị này tượng trưng cho ‘phụ trách tận phận (làm tṛn trách nhiệm)’. Chúng ta sinh hoạt trong thế gian ai cũng có trách nhiệm, bổn phận, ḿnh phải làm tṛn bổn phận của ḿnh cho thật hoàn hảo. Làm thế nào để làm cho thật hoàn hảo? Cây đàn tỳ bà trên tay của Tŕ Quốc Thiên Vương cũng có ư nghĩa tượng trưng, dây đàn quá căng th́ sẽ đứt, dây quá lỏng th́ đàn không kêu, nhất định phải căng đến mức thích hợp vừa phải. Ư nghĩa tượng trưng là ǵ? Trong đời sống hằng ngày, trong công việc, khi đối xử với người, với việc phải làm đến mức vừa phải, không thể quá lố, không thể quá thấp. Đây gọi là ‘trung đạo’ trong nhà Phật, hoặc là ‘trung dung’ trong nhà Nho .
Vị thứ hai là ‘Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương’, vị này tượng trưng cho tiến bộ. Nhà Nho dạy: ‘cẩu nhật tân, nhật nhật tân’ (càng ngày càng đổi mới). Phật pháp dạy ‘tinh tấn’. Cây kiếm trên tay tượng trưng cho trí huệ, chỉ có trí huệ mới có thể tiến bộ, không kể trên đức hạnh, học vấn, sanh hoạt, phẩm chất đều đ̣i hỏi mỗi ngày phải tiến bộ thêm.
Vị kế là ‘Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương’, ‘Bắc Phương Đa Văn Thiên Vương’. Hai vị này dạy chúng ta phương pháp làm thế nào để làm hai điều trên được viên măn? Phải học tập -- nh́n nhiều, nghe nhiều, quán sát, học hỏi nhiều, khảo sát nhiều. Tay của Quảng Mục Thiên Vương cầm rồng hoặc rắn, rồng, rắn tượng trưng cho biến hoá. Nhân t́nh, sự lư trong xă hội đều rất phức tạp, luôn luôn thay đổi, chúng ta cần phải quan sát kỹ càng, nắm chắc cơ hội và không lầm lạc. Tay của Đa Văn Thiên Vương cầm cây lọng, cây lọng tượng trưng cho ‘ngăn ngừa ô nhiễm’. Trong hoàn cảnh xă hội nhân t́nh phức tạp, trược ác, chúng ta phải giữ vững được không mê lầm, không ô nhiễm. Nếu hiểu được những ư nghĩa này th́ vừa bước vào cửa chùa liền học được bài học đầu tiên, lập tức tự nhắc nhở, tự cảnh tỉnh.
Người đời nay ưa thích nghệ thuật hoá, mấy ngàn năm trước giáo học và nghệ thuật trong Phật pháp đă kết hợp thành một thể. Khi thăm viếng mỗi ngôi chùa, ngắm nh́n mỗi tôn tượng của Phật, Bồ Tát, không cần nói ǵ cả th́ cũng cảm thấy niềm vui pháp hỷ sung măn, liền đạt được sự lợi ích của sự giáo dục trong Phật pháp, thật làm cho người ta khâm phục đến năm vóc sát đất. Hiện nay những người chân chánh hiểu được sự giáo học của nghệ thuật trong Phật giáo quá ít, hầu hết đều xem tượng Phật như thần thánh, dập đầu khấn vái, như vậy là mê tín. Chúng ta nhất định phải nhận định rơ ràng th́ mới biết tiếp nhận và tu học như thế nào [cho chính xác].
6. Tôn Phật làm thầy.
Học Phật nhất định phải ‘đi sâu vào một môn’ th́ mới có thể thành tựu. Nếu chúng ta không thiệt t́nh hết ḷng khâm phục những đại đức đời nay, không thể 100% y giáo phụng hành th́ nên t́m người đời xưa. Cho nên tôi giới thiệu với quư vị một vị thầy giỏi nhất, đó là đức Phật A Di Đà. Tôi đă giảng kinh Vô Lượng Thọ hết 9 lần, đều khuyên mọi người tôn đức Phật A Di Đà làm thầy. Những ǵ đức Phật A Di Đà dạy chúng ta đều nằm trong kinh Vô Lượng Thọ. Nếu có thể thông suốt, hiểu rơ lời dạy trong kinh Vô Lượng Thọ, y theo đó mà làm th́ chúng ta đúng là học sinh giỏi của đức Phật A Di Đà. Đức Phật Thích Ca tán thán đức Phật A Di Đà là ‘Quang trung cực tôn, Phật trung chi vương’ (tôn quư nhất trong các quang minh, là vua trong các vị Phật), chúng ta t́m vị thầy này nhất định sẽ không lầm!
Hồi trước lúc tôi đến Đài Trung cầu học, thầy Lư vô cùng khiêm tốn, thầy nói với tôi: ‘Năng lực của tôi chỉ có thể dạy cho ông 5 năm, năm năm sau tôi không có năng lực để dạy ông nữa’. Thầy giới thiệu cho tôi một người thầy, đó là Ấn Quang đại sư, kêu tôi học theo Ấn Quang đại sư. Ấn Quang đại sư không c̣n trụ thế, [chúng ta có thể] tu tập theo [Ấn Quang] ‘Văn Sao’, nhất định sẽ không sai lầm. Hôm nay tôi giới thiệu đức Phật A Di Đà cho quư vị, so với Ấn Quang đại sư c̣n cao minh hơn.
Ngẫu Ích đại sư trong nhà Phật là một vị tổ Tịnh Độ Tông nổi tiếng vào cuối đời nhà Minh. Ngài cũng học theo người xưa, thầy của Ngài là Liên Tŕ đại sư. Lúc bấy giờ Liên Tŕ đại sư đă văng sanh, Ngẫu Ích đại sư bèn chuyên đọc những trước tác (sách vở) của Liên Tŕ đại sư, học tập theo lời dạy [trong sách] của ngài. Trong ṿng 5 năm không xem sách của người khác, phải học theo lời dạy của một người duy nhất th́ mới có thể thành tựu. Điều này gọi là đạp lên vai, đi trên đầu của người xưa (nghĩa là nương nhờ vào người xưa). Nếu học theo rất nhiều người, đạp lên như vậy sẽ té đau.
Trong Tịnh Độ Ngũ kinh, kinh A Di Đà sâu nhất và khó nhất. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật bổ sung và giảng rơ cho kinh Vô Lượng Thọ, bổ sung về lư luận và phương pháp. V́ trong kinh Vô Lượng Thọ chỉ giảng về ‘Ba Bậc văng sanh’ c̣n Quán Kinh nói đến ‘16 thứ quán’ và nói rơ nhân quả của Chín phẩm. Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật bổ sung ba điểm này một cách tường tận, rơ ràng. Phải nên đọc kỹ, suy nghĩ kỹ, phá tan nghi hoặc, sanh ḷng tin để có thể đạt được ‘tín tâm bất nghịch’ (ḷng tin sâu không chống trái).
Tiểu bổn kinh A Di Đà nói về phương pháp tu hành, ư nghĩa trong đó thật là vô cùng vô tận, đừng xem thường kinh này, đây là tinh hoa của Tịnh Tông. Từ xưa đến nay mọi người đều lấy kinh A Di Đà làm khoá tụng [thường nhật], việc này rất hợp lư. Không những Tịnh Tông tụng kinh A Di Đà, Thiền Tông cũng tụng kinh này trong khoá lễ tối, Giáo Hạ không cần phải nói, v́ vậy nên chúng ta phải coi trọng kinh này. Nếu không có ḷng tin đối với kinh A Di Đà, không hiểu rơ sự lư trong đó, đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ cũng tốt. Kinh Vô Lượng Thọ giảng ở mức thấp hơn và rơ hơn. Xây dựng ḷng tin từ kinh Vô Lượng Thọ xong rồi thọ tŕ kinh A Di Đà sẽ không khó nữa.
e. Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào ảnh
1. Thọ tŕ một câu kệ hơn cả bố thí thất bảo
Kết luận cuối cùng trong kinh Kim Cang vô cùng quan trọng. Những đoạn trong kinh này càng về sau càng ‘hấp dẫn’, những ư nghĩa quan trọng đều ở nửa phần sau, đặc biệt kết luận này không những là kết luận của kinh Kim Cang, thiệt ra là tổng kết hết thảy 22 năm giảng kinh Bát Nhă của Thế Tôn. Năm xưa đức Phật giảng kinh thuyết pháp 49 năm, hội kinh Bát Nhă đă chiếm hết 22 năm. Nếu dùng [cách phân đoạn thông thường của kinh điển] ba phần: Tựa, Chánh tông, Lưu thông để xem xét một đời giáo hoá của đức Phật, th́ Bát Nhă là phần Chánh tông của toàn bộ Phật pháp, là trung tâm của cả đời giáo hoá của đức Thế Tôn. Kết luận này không những là tổng kết của Bát Nhă mà cũng có thể nói là tổng quy kết hết thảy 49 năm thuyết pháp của đức Phật, tức là hai câu và một kệ cuối cùng của kinh này.
Thái tử Lương Chiêu Minh chia kinh này ra thành 32 đoạn, đây cũng giống như làm việc phân khoa, phán giáo. Có câu rằng ‘Nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí’ (Người nhân thấy điều nhân, người trí thấy điều trí, ư nói: Từ nội tâm ảnh hưởng đến kiến giải, quan điểm, cách xử sự), từ xưa đến nay cái nh́n của các vị đại đức không giống nhau. Cách phân thành 32 đoạn của thái tử Chiêu Minh là để đọc tụng, tiện lợi cho việc thảo luận; tạm thời không bàn thích hợp, thỏa đáng hay không, nhưng phải nói cách phân đoạn này rất tiện lợi nên sách phân đoạn theo cách này thường được phổ biến rất rộng răi. Đoạn cuối cùng tổng kết toàn quyển kinh. Đoạn kinh này vừa mở đầu Thế Tôn gọi ông Tu Bồ Đề. Trong kinh mỗi khi đức Phật kêu tên một người nào đó, phía sau nhất định sẽ có lời dạy quan trọng, mục đích là nhắc đại chúng phải chú ư, đây là một kiến thức phổ thông.
Đức Phật dạy: giả sử có người bố thí hết bảy thứ báu trong vô lượng a tăng kỳ thế giới. Con số này không thể tính toán được, a tăng kỳ là một đơn vị trong thời cổ Ấn Độ, chúng ta ngày nay gọi nó là con số thiên văn (con số này quá lớn). Dùng đơn vị này lại thêm chữ vô lượng nữa. Không những là vô lượng mà c̣n là bảy báu trong vô lượng a tăng kỳ thế giới! Chỉ nói đến bảy thứ báu trên quả địa cầu này thôi th́ đă không thể tính nổi [huống ǵ là vô lượng a tăng kỳ thế giới!]
Chữ thế giới nói trong kinh là chỉ khu vực giáo hoá của một đức Phật, là một đại thiên thế giới. Gần đây lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đưa ra một cách nh́n mới, cụ cho rằng những ngân hà như chúng ta biết hiện nay không phải là một đại thiên thế giới, mà chỉ là một đơn vị thế giới. Nếu tính [ngân hà là một] đơn vị thế giới th́ một đại thiên thế giới lớn vô cùng, không thể tưởng tượng nổi. Thông thường trong một tiểu thiên thế giới có một ngàn đơn vị thế giới, nói một cách khác 1000 hệ ngân hà mới là một tiểu thiên thế giới. Lại dùng một tiểu thiên thế giới làm đơn vị, 1000 tiểu thiên thế giới bằng 1 trung thiên thế giới, 1000 trung thiên thế giới bằng 1 đại thiên thế giới. Nếu dùng cách tính này th́ 1000x1000x1000 bằng 10 ức hệ ngân hà, đây mới là một đại thiên thế giới.
Phước đức của việc bố thí hết thảy ‘bảy báu trong vô lượng a tăng kỳ thế giới’ bao lớn? Thiệt là không thể tính đếm nổi. Có rất nhiều bạn đồng tu muốn bố thí tu phước, cho dù bố thí hết thảy báu vật trên trái đất này th́ cũng quá ít [so với bảy báu trong vô lượng a tăng kỳ thế giới]! Đức Phật nói ‘Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân phát bồ đề tâm’; dựa trên ‘Tam phước’ nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật th́ tiêu chuẩn của ‘thiện’ là phải thực hiện được ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát [hại sanh vật], tu thập thiện nghiệp’, đây là thiện nam tử, thiện nữ nhân ở cơi nhân, thiên. Từ cơ sở này cộng thêm ‘Thọ tŕ tam quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi’ tức là thiện nam tử và thiện nữ nhân [theo tiêu chuẩn] của Tiểu thừa. Thiện nam tử và thiện nữ nhân nói trong kinh Đại thừa phải thêm bốn câu: ‘Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả’. Kinh này là kinh Đại thừa, phải làm đầy đủ 11 điều trong Tam Phước nói trên th́ tức là ‘thiện nam tử, thiện nữ nhân’ nói trong kinh Kim Cang. [Tóm lại] chữ thiện nam tử và thiện nữ nhân trong kinh điển Tiểu thừa và Đại thừa đều có tiêu chuẩn đàng hoàng chứ không phải nói bừa.
‘Người thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát Bồ Đề tâm’ tức là phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ Đề và cũng là phát tâm rộng lớn ‘chúng sanh vô biên thệ nguyện độ’. Hiện nay chúng ta học Phật là rất tốt, rất hiếm có, nhưng phải nhận thức rơ trong thế gian và xuất thế gian cái ǵ mới là chơn, cái ǵ là giả. Phải có đủ khả năng phân biệt tà chánh, thị phi, thiện ác, lợi hại th́ mới gọi là người giác ngộ. Chữ ‘ngu si’ thường được dùng trong kinh nghĩa là ‘điên đảo’, xem đồ giả thành đồ thiệt, xem điều ác thành điều thiện. Không những không thể phân biệt những vấn đề lớn, thậm chí đến những quan hệ, lợi hại nhỏ nhoi cũng không thể phân biệt, trong kinh dùng danh từ ‘người đáng thương hại’ để mô tả những người này. Chúng ta có thiệt t́nh phản tỉnh không, có phải là người đáng thương này không, có phát tâm Bồ Đề chân thật không?
Tôi nhớ lúc học lớp 2, lớp 3 trong trường tiểu học, v́ phá phách nên bị thầy phạt, bị thầy đánh, c̣n bị phạt quỳ nữa, đương nhiên cũng khóc sướt mướt. Lúc về nhà ba má tra hỏi nên biết ở trường tôi bị thầy giáo xử phạt. Hôm sau cha tôi đem lễ vật đến thăm thầy, cám ơn thầy đă dạy dỗ cho tôi. Tôi nh́n thấy nên sau này khi bị thầy giáo phạt, khi về nhà không đời nào chịu nói ra. Hiện nay sự giáo dục thay đổi rồi, nếu học tṛ bị thầy giáo trừng phạt, cha mẹ học sinh sẽ đi thưa cảnh sát, c̣n muốn thưa ra toà, thế nên ngày nay làm thầy giáo không ai dám răn dạy học sinh, không c̣n kiếm được những thầy giáo thật ḷng dạy học sinh. Ngày nay đạo lư thầy tṛ không c̣n nữa, đây là sự đau buồn đáng tiếc của tất cả chúng sanh trong thời đại này; trẻ em, thiếu niên không được sự dạy dỗ đàng hoàng th́ không phải là một chuyện tốt. Những lời dạy của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc thời xưa viết bằng lối văn ‘Văn Ngôn’, người đời nay xem không hiểu; những lời dạy và kinh điển của Phật, Bồ Tát cũng xem không hiểu, như vậy phải làm sao? Chúng ta phải phản tỉnh kỹ càng, phải nên giác ngộ!
Phật dạy: ‘Người thiện nam tử, thiện nữ nhân, phát tâm Bồ Đề phải nên tŕ kinh này’, cho dù không thể thọ tŕ hết bộ kinh này, th́ cũng nên ‘thọ tŕ chỉ bốn câu kệ’, quan trọng ở chữ ‘thọ tŕ’. ‘Thọ tŕ, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phước báo đó vô cùng thù thắng’. Câu kinh này vô cùng quan trọng và cũng khẳng định nếu có thể hiểu được và phụng hành, phước báo tu được sẽ lớn hơn người bố thí thất bảo khắp vô lượng a tăng kỳ thế giới. Đích thật là to lớn hơn, không giả dối tí nào.
‘Thọ’ tức là tiếp thọ; ‘tŕ’ nghĩa là giữ ǵn, đừng đánh mất. Ư nghĩa của chữ ‘Thọ’ bao gồm hiểu rơ, hiểu đúng đắn ư nghĩa của kinh điển, đồng thời có thể ứng dụng nghĩa kinh vào đời sống sanh hoạt thường ngày, nghĩa là sanh hoạt trong ‘Trí Huệ Kim Cang Bát Nhă’, phước báo này to lớn dường nào! Cho dù phước báo của người trong thế gian có lớn đến mấy, họ cũng chỉ sinh sống trong phiền năo, không thể nào sánh bằng. Người có phiền năo th́ tương lai vô cùng đen tối, đầy đủ Trí Huệ Kim Cang Bát Nhă th́ tương lai xáng lạn. ‘Thọ tŕ’ tức là y giáo phụng hành, làm được hoàn toàn trong đời sống sanh hoạt thường ngày. Thí dụ đức Phật Thích Ca biểu diễn ăn cơm, mặc áo đều là Kim Cang Bát Nhă. Lúc xử thế, đối người, tiếp vật, từng ly từng tí đều áp dụng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật. Được vậy mới gọi là ‘thọ tŕ Kim Cang Bát Nhă’, sanh sống một đời sống ‘Kim Cang Bát Nhă’.
‘Diễn thuyết cho người khác’: diễn và thuyết là hai việc khác nhau, dụng ư đều là để giáo hoá chúng sanh. Diễn là biểu diễn, làm gương tốt cho người ta xem, làm cho người ta ngưỡng mộ, ưa thích và nhờ vậy phát tâm học Phật pháp. Thuyết là thuyết minh, giải thích cho người khác. Người ta nh́n thấy đời sống của bạn hạnh phúc vui vẻ như vậy, nhất định sẽ lại hỏi thăm, nhân dịp này bạn giới thiệu Phật pháp cho họ, làm cho họ cũng có thể phá mê khai ngộ, ĺa khổ được vui. Phật pháp là ‘sư đạo’, chỉ nghe nói việc đi học chứ chưa nghe nói việc [thầy] đi dạy. Học là học sinh đi cầu học; nếu bạn không cầu mà ông thầy đến dạy bạn, như vậy là sai lầm (không hợp lư). Chúng ta phải làm gương tốt cho người ta xem, đây tức là ‘duyên’, tức là giới thiệu, phát triển rộng ra.
__________________ không c̣n yêu ai nũa !
|
Quay trở về đầu |
|
|
bachngoc Hội viên
Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 46
|
Msg 8 of 9: Đă gửi: 21 March 2006 lúc 5:28am | Đă lưu IP
|
|
|
2. Hoằng pháp phải địa phương hóa và hiện đại hóa
Chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp tùy theo căn cơ, căn cơ của chúng sanh không giống nhau, sai khác rất lớn, cho nên Phật mới mở vô lượng pháp môn để phù hợp cho mỗi loại căn cơ khác nhau. Nếu không biết điểm này, không những tự ḿnh học Phật đến nỗi sai lầm, nếu dạy người ta th́ cũng sẽ dạy sai. Trong suốt 37 năm giảng kinh tôi thường thường nhắc đến điểm này nhưng nhiều người cũng không thể hội, không giác ngộ. Kinh Kim Cang nói rất rơ ràng: ‘Phật không có pháp nhất định nào để nói, Phật không có pháp để nói’. Phật đều ‘ứng cơ nhi thuyết’ (tuỳ theo trường hợp, căn cơ mà thuyết), ‘nói mà không nói’.
V́ thời xưa và thời nay khác nhau, đông tây chẳng đồng, nên Phật pháp cần phải ‘hiện đại hóa’ và ‘địa phương hóa’, được vậy mới có thể đem lại lợi ích cho đa số chúng sanh hiện nay. Hơn 2000 năm trước (năm 67 sau công nguyên), Phật giáo chính thức truyền đến Trung Quốc, lúc đó Hán Minh Đế phái sứ giả đến Tây Vực, đón mời 2 vị cao tăng Ấn Độ: Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đến Trung Quốc. Hai vị pháp sư này rất có trí huệ, sau khi đến Trung Quốc họ liền Trung Quốc hoá (thay đổi để thích hợp với người Trung Quốc). Họ ăn mặc và sinh sống theo kiểu dân bản xứ, đây gọi là sinh hoạt Trung Quốc hoá. Lúc đó nếu họ vẫn sanh hoạt theo cách thức và văn hoá Ấn Độ, người Trung Quốc sẽ không tiếp nhận một cách dễ dàng. Do đó khi họ vừa đến Trung Quốc liền thay đổi, họ hiểu được [sự quan trọng của nguyên lư] ‘bổn thổ hoá’ và ‘hiện đại hoá’. Kiến trúc của đạo tràng được xây dựng bắt chước theo cung điện vua chúa, người Trung Quốc nh́n thấy rất ưa thích! Người Trung Quốc thời xưa rất tôn trọng vua chúa, đạo tràng Phật giáo được xây giống cung điện th́ không ai chẳng thích đi vào.
Chúng ta hăy xem những năm gần đây Phật giáo từ Trung Quốc được truyền đến Mỹ, kiến trúc [của đạo tràng] vẫn c̣n dùng kiến trúc của cung điện Trung Quốc thời xưa làm cho người Tây phương vừa nh́n thấy liền tránh né v́ họ nghĩ đây là văn hoá ngoại lai, không muốn chấp nhận. [Cho nên] ở Mỹ phải xây đạo tràng giống ṭa Bạch Cung vậy, người Âu Mỹ nh́n thấy sẽ vui thích đi vào; tượng Phật phải đúc giống gương mặt của người Mỹ, cũng như tượng Phật ở Trung Quốc giống người Trung Quốc, ở Nhật giống người Nhật, ở Tây Tạng giống người Tây Tạng, tượng Phật ở Thái Lan có cằm nhọn nhọn giống người Thái Lan.
Mấy năm trước tôi giảng kinh ở Miami, có người Mỹ đến nghe, tôi nói với họ: ‘Phật giáo chưa truyền đến Mỹ quốc’. Họ rất ngạc nhiên! Tôi giải thích [bằng câu hỏi]: ‘Quư vị xem có tượng Phật nào có gương mặt giống người Mỹ không?’. Chư Phật, Bồ Tát không có gương mặt nhất định, biến hoá tùy theo tâm niệm của chúng sanh, chúng sanh chịu dùng thân ǵ để được độ th́ Bồ Tát sẽ hiện ra thân đó, như vậy mới có thể phổ độ chúng sanh. Chúng ta đến chỗ này nếu chỉ độ người Trung Quốc hoặc Hoa kiều không th́ chẳng có ư nghĩa ǵ cả. Xây dựng đạo tràng ở chỗ nào th́ phải độ hoá chúng sanh ở nơi đó, thế mới là hoằng pháp lợi sanh. Cho nên chúng ta xây dựng đạo tràng ở đây phải dùng kiến trúc của Mỹ. Chúng ta xây dựng đạo tràng như vậy nếu không có sự biểu quyết của hội đồng thành phố (city hearing), những người hàng xóm chung quanh cũng sẽ vui vẻ, không phản đối. Chúng ta dùng phương pháp dễ hiểu rơ ràng, giới thiệu Phật pháp cho người địa phương th́ họ sẽ hoan hỷ tiếp nhận.
3. Cành cũ lá mới, tuỳ duyên thuyết pháp
Từ xưa đến nay số người viết chú giải cho kinh Kim Cang không dưới 500 người, mỗi người viết chú giải đều không giống nhau. Nếu hết thảy đều giống nhau th́ làm sao lưu truyền đến đời sau? Chú giải không giống nhau tức là dùng cách nói khác nhau. Hết thảy 500 cách chú giải kinh Kim Cang đều không sai v́ Phật không có định pháp có thể nói. Cho nên chúng ta xem chú giải phải biết cách xem, trong chú giải đời Đường sẽ dùng cách giải thích cần thiết cho [người] đời Đường. Kinh Phật là toa thuốc, người đương thời có bịnh ǵ, viết toa thuốc này có thể chữa lành bịnh cho họ (phá mê khải ngộ) th́ đó là pháp dược hạng nhất. Bịnh của người đời Tống khác người đời Đường. Phương pháp chữa cho người đời Đường chữa không hết bịnh của người đời Tống, thế nên những đại đức đời Tống cần phải có một cách nói khác để chữa bịnh cho người đời Tống. Nếu quư vị hiểu đạo lư này th́ sẽ biết tật bịnh, tập khí của chúng sanh trong mỗi thời đại khác nhau nên phương pháp chữa trị cũng khác nhau. Ngày nay nếu chúng ta đọc chú giải thời xưa không đạt được lợi ích là v́ ḿnh không biết đọc; nếu biết đọc th́ khi đọc chú giải thời xưa sẽ kiếm được ư nghĩa mới, từ ư cũ t́m ra ư mới, như vậy gọi là ‘khai ngộ’.
Kinh Kim Cang giống như một cây cổ thụ, một cây cổ thụ mấy ngàn năm luôn luôn sống măi, mỗi năm mọc ra cành mới, năm nào cũng mọc ra hoa mới, trái mới. Cành lá cũ thuộc về đời trước, cành lá mới thuộc về đời hiện nay; nhờ cách giải thích cũ t́m ra phương pháp mới. Nếu không hiểu đạo lư này, th́ làm sao hiểu kinh, làm sao có thể giải thích cho người khác. Cho nên thời đại, địa phương khác nhau sẽ có cách giải thích, cách nói khác nhau. Đối với người Trung Quốc tôi có cách nói như vầy, nhưng đối với người Mỹ th́ tôi có cách nói khác, đối với người Nhật th́ lại có cách nói khác nữa. Cùng một bộ kinh gặp người th́ nói tiếng của người, gặp quỷ th́ nói tiếng của quỷ, thế th́ người và quỷ đều đạt được lợi ích. Những ǵ dùng để giải thích và nói cho người nghe th́ không độ được quỷ, những ǵ dùng để giải thích và nói cho quỷ th́ không độ được người (không thể dùng để giải thích cho người được).
Thí dụ rơ ràng nhất là cùng một kinh Kim Cang khi tôi giảng giải cho tín đồ Cơ Đốc giáo hoàn toàn phù hợp với ‘Tân Cựu Ước’ của họ; khi tôi giảng giải cho tín đồ Hồi giáo nhất định phải phù hợp với kinh Coran của họ. Pháp không có đối nghịch lẫn nhau, vô cùng hoạt bát uyển chuyển. Ai nghe xong cũng đều vui vẻ và tiếp nhận, đây là chỗ mà Phật pháp đáng cho người ta khâm phục. Phật pháp là pháp viên dung, đối với tất cả chúng sanh, tất cả chủng tộc, thậm chí tất cả tôn giáo tín ngưỡng đều không có xung đột. Nếu có xung đột là v́ bạn không hiểu rơ Phật pháp. Tu học Phật pháp phải hiểu rơ lư luận th́ mới đạt được lợi ích, mới có thể phát triển, đem ích lợi đến cho tất cả chúng sanh.
4. Ăn chay vệ sinh, vệ tánh, vệ tâm (bảo vệ sinh thái, bảo vệ tánh đức, bảo vệ tâm tánh)
Hiện nay nhiều người thường gặp phải khó khăn trên phương diện ăn uống. Khi bạn học Phật, đă ăn chay trường, nhưng người nhà chưa học Phật. Lúc bạn chưa học Phật cả nhà đều hoà thuận nhưng sau khi bạn học Phật, trong nhà mỗi ngày đều v́ vấn đề ăn uống mà căi lộn làm cho cả nhà không vui. Người hàng xóm nh́n thấy như vậy sẽ khuyên mọi người đừng học Phật và nói rằng học Phật sẽ phá hoại hạnh phúc gia đ́nh. [Người ăn chay này do vậy đă] phá hoại Phật pháp mà cứ tưởng ḿnh có công đức. Tam Phước dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ là cơ sở cho người học Phật; ‘hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng’ tức là hiếu thuận, nếu không thể tùy thuận theo cha mẹ th́ là bất hiếu. Học Phật phải có trí huệ trong lúc tuỳ thuận phải giải thích rơ, làm cho họ thay đổi, cần phải có sức nhẫn nại lớn lao, cần phải có phương pháp khéo léo. Nếu vừa mở miệng liền nói: ‘Quư vị ăn thịt, tương lai phải trả nợ này’, người ta vừa nghe liền sanh phản cảm, làm sao có thể nghe theo lời khuyên được!
Ăn chay đối với việc vệ sinh đích thực có rất nhiều lợi ích. Đặc biệt là hiện nay chất độc trong thịt cá rất nhiều nên người ta thường mắc phải nhiều bịnh kỳ quái. [Người xưa có câu:] ‘Bịnh từ miệng vào’; những tâm niệm tham, sân, si, mạn, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước đều là nguồn gốc của bịnh tật. Thức ăn là duyên. Có nghiệp nhân lại cộng thêm nghiệp duyên th́ sẽ sanh ra bịnh tật (tất cả bịnh tật là quả báo). Từ đời Lương Vơ Đế trở về trước, người xuất gia ở Trung Quốc cũng ăn thịt. Việc ăn chay là do Lương Vơ Đế đề xướng, ông dùng oai quyền của ông vua nhiệt tâm khởi xướng chuyện ăn chay cho nên từ đó những người theo Phật giáo ở Trung Quốc bắt đầu có thói quen ăn chay. Ăn chay đích thật có nhiều ích lợi, nhưng chẳng phải không ăn chay th́ không thể thành Phật.
Lúc trước thầy Lư ở Đài Trung dạy chúng tôi khi tiếp dẫn người sơ cơ phải ghi nhớ 2 việc: việc thứ nhất tuyệt đối không khuyên người ta ăn chay, thứ hai tuyệt đối không khuyên người ta thọ giới. V́ khi nghe nói học Phật phải ăn chay sẽ gây chướng ngại cho rất nhiều người không dám học Phật, như vậy sẽ cắt đứt cơ duyên học Phật của họ mất hết, tội này rất nặng. Thọ giới rồi nếu phá giới th́ tội tăng thêm một bậc. Nếu không thọ giới th́ sẽ không phạm tội phá giới; nếu thọ giới xong tự nhiên kết tội nặng hơn. [Phương pháp] đức Phật dạy chúng ta đều có thứ tự đàng hoàng, khi cảnh giới nâng cao lên một bậc th́ giới cấm cũng khai mở thêm một chút, giống như khi học trong trường vậy. Quy tắc, quy củ của lớp tiểu học rất nhiều, đến trung học th́ giảm bớt một chút v́ trí huệ [của học sinh trung học] đă phát triển; đến đại học th́ hầu như hoàn toàn mở rộng, hết giới cấm, v́ [học sinh đại học] đă hiểu chuyện rồi, rất nhiều việc g̣ bó, quản thúc đă được bỏ [v́ không cần thiết nữa], Phật pháp cũng giống như vậy. Trong ngũ thừa Phật pháp: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, tinh thần của giới Bồ Tát và giới Tỳ Kheo hoàn toàn khác nhau.
Học Phật phải hiểu lư, pḥng ngừa không bị bịnh, thân tâm khỏe mạnh, tự tại vui vẻ. Thân tâm của bạn khỏe mạnh th́ người nhà sẽ vui thích v́ họ không cần phải đặc biệt lo lắng cho bạn. Nếu người học Phật mà cứ bị bịnh hoài, khi người nhà nh́n thấy bạn nhăn nhó, âu sầu, làm cho người ta sợ không dám học Phật, thế th́ rất sai lầm.
Không cần phải đề cập đến lợi ích và nhân quả báo ứng của việc ăn chay, đây là một chuyện mà nhiều người bắt đầu học Phật thường gặp phải khó khăn và chống đối. Chúng ta có thể giải thích rơ ràng bằng những lư do [thông thường] mà họ có thể chấp nhận. Phần đông người ta đ̣i hỏi việc ăn uống phải vệ sinh, không ăn những thức ăn dơ bẩn và hư thối. Không những chúng ta đ̣i hỏi vệ sinh mà c̣n phải ‘vệ tánh’. Tánh tức là tánh t́nh lương thiện. Người theo Hồi giáo (Islam) dạy người ta không ăn những động vật có tánh t́nh không tốt, sự lựa chọn của họ kỹ càng hơn phần đông người khác. Sự ăn uống trong Phật giáo c̣n cao minh hơn Hồi giáo, đệ tử Phật phải có tâm từ bi, không ăn thịt tất cả chúng sanh, v́ vậy việc ăn uống trong Phật giáo là vệ sinh, vệ tánh, và vệ tâm. Họ có thể hiểu những lư luận này mà không khởi lên phản cảm. Thói quen của việc ăn uống trong Phật giáo rất tốt, rất uyển chuyển hoạt bát, và ‘thông quyền đạt biến’ -- có thể biến chuyển tùy theo trường hợp mà không phải chỉ là những giới điều cứng ngắc.
‘Diễn thuyết cho người khác’ có một nguyên tắc rất quan trọng, trong kinh đức Phật đă dạy chúng ta ‘bất thủ ư tướng, như như bất động (không chấp vào tướng, như như bất động)’, ư nghĩa này vô cùng sâu rộng. Trong sinh hoạt thường ngày bất cứ chuyện ǵ chúng ta đều không chấp tướng. Phần trước trong kinh này dạy chúng ta ‘ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm’, thế pháp và Phật pháp đều không nên chấp trước, không nên giữ chặt trong tâm. Không chấp vào tướng là ‘tu đức’, như như bất động là ‘tánh đức’. Nếu không có công phu tu tập th́ làm sao kiến tánh được? Chúng ta dùng phương pháp ‘không chấp vào tướng’ để chứng được chân tâm ‘như như bất động’. Đây là cương lĩnh tu học mà đức Phật dạy chúng ta từ lúc sơ phát tâm măi cho đến khi thành Phật.
5. Vũ trụ nhân sanh chỉ là mộng huyễn bào ảnh
Lúc chúng ta khởi tâm động niệm, vọng tưởng, chấp trước đều là trước tướng, thủ (nắm giữ) tướng. Tại sao không nên thủ tướng, không chấp tướng?
Đoạn cuối kinh này đức Phật dùng 4 câu kệ để giải đáp vấn đề, nói rơ đạo lư tại sao như vậy:
Nhất thiết hữu vi pháp, & nbsp; (Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng huyễn bào ảnh, Như mộng huyễn, bọt, ảnh
Như lộ diệc như điển, &n bsp; Như sương cũng như chớp
Ưng tác như thị quán &n bsp; Nên quán sát như vậy)
‘Hữu vi pháp’ là những pháp ‘có sanh có diệt’. Tất cả động vật có sanh, lăo, bịnh, và tử, thực vật có sanh, trụ, dị, và diệt, khoáng vật có thành, trụ, hoại, và không, tất cả đều là hữu vi pháp. Nếu chúng ta b́nh tĩnh quan sát [th́ sẽ thấy] hầu như những ǵ sáu căn tiếp xúc đều là pháp hữu vi. Nếu quư vị học Duy thức th́ có thể giải thích những vấn đề này rất dễ dàng. Trong quyển Bách Pháp Minh Môn Luận của Duy thức nhập môn, Thiên Thân Bồ Tát quy nạp tất cả các pháp thành 100 loại. Nói thật ra 100 pháp này bao gồm tất cả vô lượng vô biên pháp trong thế gian và xuất thế gian, và lại có thể chia thành 5 loại.
Loại thứ nhất là ‘Tâm pháp’, có 8 thứ gọi là tám thức, tám tâm vương.
Loại thứ nh́ là ‘Tâm sở hữu pháp’, tức là tác dụng tâm lư, hiện tượng tâm lư, lại chia thành 51 thứ.
Loại thứ ba là ‘Sắc pháp’, tức là vật chất, gồm có 11 thứ. Những ngoại cảnh mà sáu căn tiếp xúc: những ǵ mắt thấy, những ǵ tai nghe, thân cảm nhận, lưỡi nếm, mũi ngửi, tất cả những cảnh giới đều dùng ‘sắc’ để tượng trưng.
Loại thứ tư là ‘Tâm bất tương ưng hành pháp’, triết học ngày nay gọi là khái niệm trừu tượng, gồm có 24 thứ. Tổng cộng những thứ trên thành 94 thứ, đều gọi là ‘pháp hữu vi’.
Loại thứ năm là ‘Vô vi pháp’, gồm có 6 thứ. ‘Tất cả hữu vi pháp’ là chỉ 94 thứ này, bao gồm tất cả pháp trong thế gian và xuất thế gian. Thế gian là chỉ lục đạo, xuất thế gian là chỉ Tứ Thánh pháp giới – Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, và Phật. Lục đạo và thập pháp giới đều không vượt ra ngoài phạm vi này. Không những pháp thế gian giống như mộng huyễn, bọt, ảnh, mà pháp giới của Tứ Thánh cũng như mộng huyễn, bọt, ảnh, thế nên mới dạy chúng ta Thế pháp và Phật pháp đều không thể trụ, và cũng không thể thủ (nắm lấy). Nếu trụ vào Phật pháp, bám víu Phật pháp th́ cũng sai luôn. Thí dụ trong bài kệ này có 6 chữ: ‘mộng’ là thí dụ chung. Không những đời người như mộng, trời cũng như mộng, Phật, Bồ Tát trong thập pháp giới cũng như mộng. Nếu bạn cho là thật th́ sai lầm quá đỗi.
Tại sao có sự khác biệt to lớn giữa y báo, chánh báo trang nghiêm của thập pháp giới?
Kinh nói: ‘Nhất thiết thánh hiền, giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt’ (Hết thảy thánh hiền đều v́ pháp vô vi mà có sự sai khác). Câu này nói rơ Phật, Bồ Tát, thập pháp giới, lục đạo luân hồi từ đâu đến, đến như thế nào. Lục đạo luân hồi là v́ ‘pháp hữu vi’ mà có sự sai khác. Tứ thánh pháp giới từ Pháp Thân Đại Sĩ, Viên Giáo Sơ Trụ cho đến Diệu Giác, 41 vị Pháp Thân Đại Sĩ đều là v́ ‘pháp vô vi’ mà có sự sai khác. Do đó có thể biết lục đạo, thập pháp giới là v́ pháp hữu vi mà có sự sai khác. Pháp hữu vi tức là ‘nhân duyên quả báo’. Vạn pháp đều không, chỉ có nhân quả chẳng không, đây là chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
Tại sao lại nói ‘nhân quả chẳng không’?
Nhân là năng biến, thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm là quả báo sở biến. Hết thảy sự khởi tâm động niệm đều là đang tạo nhân, đều là đang tạo tác. Đừng nói đến ngôn ngữ, động tác, [chỉ cần] động một tâm niệm cực kỳ nhỏ bé th́ đă có tạo tác rồi. Đức Phật dùng ‘mộng’ để thí dụ, trong mộng có những sự việc này, có hiện tượng nọ, nhưng sự việc và tướng trong mộng đều là giả. Nếu chúng ta có thể xem tất cả pháp như mộng, huyễn, bọt, ảnh th́ sẽ không tạo nghiệp, tâm sẽ định, sẽ thanh tịnh. Định có thể sanh huệ, ‘ḷng tin thanh tịnh ắt sanh thật tướng’, tánh đức của tự tánh tự nhiên xuất hiện, mới đạt được sự thọ dụng chân thật trong sanh hoạt thường ngày.
‘Huyễn’ ví như hư không. Hư không như huyễn, chẳng phải chân thật. Nhà Phật thường nói ‘minh tâm kiến tánh’, người kiến tánh không có đen tối. Nếu đă nh́n thấy toàn là ánh sáng th́ đă kiến tánh; nếu mở mắt ra mà nh́n thấy đen tối th́ chưa kiến tánh, tại v́ c̣n kẹt trong vô minh. Sau khi phá vô minh rồi th́ thiệt là nh́n thấy ‘đại quang minh tạng’. Tự tánh là quang minh, tự tánh mê mờ th́ biến thành một màn đen tối, cho nên xưng là ‘vô minh’.
Hư không là cảnh giới trong mộng. Lúc chúng ta nằm mộng, trong mộng cũng có hư không, lúc tỉnh dậy, chẳng thấy hư không, thế nên hư không chẳng phải thiệt. Khoa học gia ngày nay rất thông minh, cũng đă thể hội được rằng hư không là có giới hạn; ngày xưa cứ tưởng rằng ánh sáng đi theo đường thẳng, ngày nay biết được ánh sáng là có cường độ. Có cường độ tức là có sai biệt, tức là không phải lớn vô hạn, nghĩa là có giới hạn, có phạm vi. Thế nên đức Phật dùng ‘huyễn’ ví cho hư không.
‘Bọt’ ví cho thế giới. Thí dụ tinh cầu rất yếu mềm, cũng giống như bọt nước, rất dễ vỡ tan. [Khoa học gia] dùng viễn vọng kính hiện đại để quan sát, mỗi ngày đều phát hiện thấy tinh cầu mới và cũng thấy rất nhiều tinh cầu bị huỷ diệt, thế giới này không phải thật. Trong kinh Bát Đại Nhân Giác đức Phật nói ‘quốc độ mong manh’, [thế th́] có ǵ phải tranh giành, tính toán, chấp trước nữa? Nếu nh́n thấy và hiểu rơ chân tướng sự thật th́ tự nhiên sẽ buông xả. Sau khi buông xả rồi, cái niềm vui vẻ khinh an (thong dong, thảnh thơi), tự tại, khoái lạc, cho dù tôi có thể diễn tả được th́ quư vị cũng không thể tưởng tượng ra. Nhất định phải buông xả th́ mới thể hội (nhận biết) được; nếu không chịu buông xả th́ vĩnh viễn sẽ không thể hội được niềm vui sướng chân thật. [Hết thảy] sự khổ đều do ḿnh tự tạo ra, buông xả được th́ sẽ có trí huệ chân thật, th́ mới hiểu rơ ràng chân tướng sự thật.
‘Ảnh’ (bóng) ví như thân thể. Ảnh là giả, không thật.
‘Mộng, huyễn, bọt, ảnh’ mỗi chữ ví cho một sự vật và đều nói rơ tất cả hư không, thế giới, thân thể đều là giả tạo, không có một thứ nào là thiệt. Mỗi ngày v́ cái thân giả này tạo nghiệp, bạn nói có oan uổng hay không? Tại sao chúng ta lại làm cái việc ngu xuẩn này! Thí dụ như trong việc ăn uống, rất nhiều người thích ăn sinh vật sống. Chỉ v́ ba tấc lưỡi, thiệt ra sau khi nuốt vô cuống họng rồi th́ không biết mùi vị chi nữa, nhưng v́ mùi vị của cái lưỡi này mà tạo ra tội nghiệp nặng nề, vả lại mỗi ngày đều tạo nghiệp nặng, tạo măi cho đến hết cuộc đời! Sau khi chết đi, đến đời nào kiếp nào mới có thể trả hết? Đây đều là chân tướng sự thật, người thế gian không tin, mê hoặc điên đảo. Học Phật ở mức độ thấp nhất phải hiểu rơ ràng, thấu suốt những lư luận, trạng huống của nghiệp nhân, quả báo. Không những phải rơ ràng trong đời này, mà c̣n biết quá khứ, vị lai, chuyện này không phải là thần thông. Nếu tâm có thể đạt được vài phần thanh tịnh, th́ tự nhiên sẽ minh liễu (hiểu rơ), không cần phải hỏi người ta. Hỏi người ta rất đáng sợ v́ đời nay rất ít người nói thiệt mà gạt người th́ rất nhiều. Nói láo th́ bạn vui vẻ [thích nghe], nói thiệt th́ bạn nổi giận không thích nghe, không chịu nghe. V́ vậy cho nên ai chịu nói thiệt với bạn? Đây là sự bi ai của người đời nay.
‘Như sương cũng như chớp’ thí dụ cho thời gian tồn tại của hiện tượng dài hay ngắn. ‘Sương’ là hơi nước đọng lại [vào buổi sáng sớm] có thời gian tồn tại khá dài, cỡ khoảng mấy chục phút, sau khi mặt trời mọc th́ sương sẽ tan. Đây là thí dụ cho sự tương tục, tiếp nối của các pháp, h́nh dung thời gian tồn tại không lâu dài. Một người từ lúc sanh ra đến lúc mất đi, sinh sống trên thế giới này được vài chục năm ngắn ngủi, thọ mạng ngắn th́ khoảng hai ba chục năm, dài th́ bảy tám chục năm; [ai có thể sống đến] trăm tuổi th́ rất hiếm hoi, đều là những người trong đời quá khứ và hiện tại đă tạo ra rất nhiều nghiệp thiện. Chớp tức là điện chớp, h́nh dung cho tướng sanh diệt trong từng sát na, rất ngắn. Thí dụ như màn ảnh chiếu phim, từ lúc bắt đầu cho đến kết thúc kéo dài 2 giờ đồng hồ đều là tướng tương tục tiếp nối.
‘Như chớp’ cũng giống như từng tấm phim trong cuồn phim. Phần đông máy chiếu phim hiện nay chớp 24 tấm phim trong một giây (ống kính mở ra, chiếu một tấm xong rồi đóng lại, mở ra chiếu tấm kế tiếp rồi đóng ống kính lại, …) tốc độ rất nhanh, chúng ta bị ảo tưởng này gạt và có cảm giác như [những màn ảnh này] là thiệt [là liên tục]. Đức Phật xem tất cả thế giới, thập pháp giới chúng sanh đều là tướng liên tục, của từng chút từng chút tiếp nối lại, đều không phải thiệt, thế nên mới nói ‘đương thể tức không, liễu bất khả đắc’ (bản thể ngay lúc đó tức là không, không thể [giữ lấy] được). Thân thể chúng ta đến đây nghe kinh, trải qua một giờ rưỡi đồng hồ không biết đă thay đổi hết bao nhiêu tấm phim! Hiện nay không phải là tấm phim lúc ban đầu, tấm ban đầu đă biến mất tiêu rồi, đó tức là ‘như chớp’.
Trong kinh Nhân Vương đức Phật nói với chúng ta một cái khảy ngón tay có 60 sát na. Thời gian khảy ngón tay rất ngắn, một phần sáu mươi của thời gian khảy ngón tay gọi là ‘sát na’; một sát na có 900 lần sanh diệt, đây là h́nh dung ảo tượng sanh diệt nhanh như chớp. Chân tướng của những tướng hiện ra trong thập pháp giới y báo, chánh báo trang nghiêm đều là ‘tướng sanh diệt từng sát na’. Nếu khảy ngón tay thật nhanh, trong một giây có thể khảy 4 lần; 4 x 60 x 900 bằng 216.000. Màn ảnh trên phim điện ảnh một giây đồng hồ sanh diệt 24 lần nên chúng ta không cảm giác nó là giả, huống hồ những hiện tượng trước mắt chúng ta mỗi giây có đến hai trăm mười sáu ngàn lần sanh diệt. Đức Phật nói ‘vạn pháp giai không liễu bất khả đắc’ (vạn pháp đều là không, không thể [nắm giữ] được), như thị như thị (đúng là như vậy). Sau khi hiểu rơ chân tướng sự thật th́ tự nhiên không tạo nghiệp nữa, tâm tự nhiên sẽ định trở lại. Tâm định được th́ mới sanh trí huệ chân thực, mới hiểu rơ ràng minh bạch chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Tuy đức Thế Tôn nói một sát na có 900 sanh diệt, nhưng v́ thời gian sanh diệt quá nhanh, nh́n không thấy sự sanh diệt này nên đức Phật mới nói ‘chẳng sanh, chẳng diệt’. Thiệt ra có phải là chẳng sanh, chẳng diệt hay không? Đích thực là có sanh có diệt đấy; nhưng tốc độ quá nhanh – ‘sanh diệt đồng thời’, v́ vậy nên dùng ‘điện’ để thí dụ cho việc này.
Vận tốc của điện cùng vận tốc ánh sáng gần bằng nhau. Vận tốc ánh sáng là 300 ngàn km một giây, nghĩa là [ánh sáng] đi qua một kí lô mét cần một phần 300 ngàn của một giây. Từ đây mà suy đoán [thời gian đi qua] 1 mét, 1 cm, 1 mm, một phần mười mm, một phần trăm mm, một phần ngàn mm, một phần vạn mm, [cứ thế mà tính] th́ mới thể hội được việc ‘sanh diệt từng sát na’ nói trong kinh Phật, mới hiểu được danh từ ‘không sanh không diệt’ nói trong kinh Phật, -- nó đích thực có sanh có diệt, nhưng v́ thời gian quá ngắn, chúng ta không thể nào phát hiện được. Trong kinh điển Đại thừa đức Phật nói người có thể quan sát được hiện tượng này là ‘Bát Địa Bồ Tát’. Định công sâu và tâm thanh tịnh như Bát Địa Bồ Tát mới có thể nh́n thấy những ba động vi tế (làn sóng nhỏ bé) này (hiện tượng sanh diệt từng sát na). Phật pháp nói y báo, chánh báo trang nghiêm trong thập pháp giới đều chỉ là hiện tượng của những làn sóng mà thôi. Tŕnh độ càng lên cao th́ làn sóng từ tâm của chư Phật, Bồ Tát càng nhỏ bé, càng đi xuống th́ tần số của những làn sóng trong tam ác đạo càng lớn. Không kể tần số lớn hay nhỏ, tất cả đều là hiện tượng tương tục của làn sóng với vận tốc một phần ức vạn của một giây, đây mới là chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Lời nói của đức Phật câu nào cũng chân thật. Thế giới này không chân thật, nếu coi tất cả hiện tượng đều là chân thật th́ là mê hoặc điên đảo, sai lầm quá đỗi. Hiểu rơ chân tướng mới chịu buông xả, mới không c̣n để những thứ này trong tâm; tất cả mọi sự việc đều tùy duyên chớ không phan duyên, nhất quyết không làm những chuyện điên rồ này. Nếu cứ tưởng là ḿnh làm chuyện tốt, nhưng đây vẫn là chuyện không tốt. Chư Phật, Bồ Tát làm tất cả việc nhưng trong tâm coi như không có việc ǵ cả, hoàn toàn không khởi tâm, không động niệm, như vậy mới thiệt là làm việc thiện. Hễ những ǵ [lọt vào trong] tương đối đều không cứu cánh viên măn. Xa ĺa cả hai bên thiện và ác mới là chân thiện.
__________________ không c̣n yêu ai nũa !
|
Quay trở về đầu |
|
|
kimlong Hội viên
Đă tham gia: 21 October 2005 Nơi cư ngụ: Australia
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 71
|
Msg 9 of 9: Đă gửi: 22 March 2006 lúc 4:44am | Đă lưu IP
|
|
|
Vài Lời Cảnh Tỉnh
Danh lợi ở đời cũng hệt như xiềng xích, cột trói thân tâm ta. Ai chẳng bị danh lợi buộc ràng, người ấy mới thật là tự tại.
Tu hành phải khế (hợp) duyên để tu tâm, dựa vào sự việc để luyện tâm, tùy hoàn cảnh mà dưỡng tâm.
Ở trên đời ở trong mọi thời mọi nơi, mọi sự việc xung quanh ta đều thuyết pháp cho ḿnh. Pháp ấy thông thường không có âm thanh tiếng nói; song lời pháp vô thanh ấy, nhiều khi làm người nghe có ấn tượng sâu sắc hơn cả pháp thốt ra lời nữa.
Chớ nên hễ mở mắt nh́n là chỉ thấy lỗi lầm của kẻ khác, mà chẳng tự thấy lỗi lầm của chính ḿnh.
Trong Kinh có dạy rằng: Sắc dục là gông cùm trong cơi thế, là tai họa của cơi đời. Song kẻ phàm phu trọng sắc, cam thân làm nô lệ cho nó, suốt đời đeo đuổi v́ nó mà khổ sở. Suy nghĩ cho kỷ th́ thân người bẩn thỉu, thường thải ra đồ dơ dáy, có ǵ đẹp đẻ đáng nói đâu!
T́nh thương cần phải không ích kỷ; phải có ḷng thương rộng lớn trùm phủ hư không khắp cùng pháp giới th́ mới là rốt ráo được. Không nên để t́nh thương giống như bùn lầy: ướt át dính rít, bôi vào mặt ai th́ dính rít vào đó.
Có được th́ phải có mất. Phàm phu th́ truy cầu tài vật, song thánh nhân th́ theo đuổi chân lư.
Cái đẹp của ngoại vật qua mắt ta rồi th́ hết. Vẽ đẹp của tâm địa th́ cả đời ta khó quên.
Nghiệp thật ra chỉ là nghiệp chướng; hễ giàu sang có tiền th́ sẽ có phiền năo.
Tiến bộ của xă hội là thành quả của mọi người cùng chung sức nổ lực đóng góp. Nếu toàn thiên hạ chỉ có một ḿnh bạn th́ bạn chẳng (tạo được hoàn cảnh như bây giờ và do đó chẳng) có phước đức ǵ để hưởng thụ nó. V́ thế phải nên xem ḿnh là kẻ tầm thường, chẳng thể đơn độc hưởng thụ; đối với kẻ khác phải có ḷng cung kính. Phải biết tôn trọng người, cảm ơn người.
Tiền tài của cải không được khéo dùng th́ chúng cũng như lửa đốt thân. Con cái không được khéo dạy th́ chúng sẽ thành loài cọp beo hại người.
Phải có những kẻ có ḷng thương, từ bi giúp đỡ chúng sinh chịu khổ nạn th́ nhân sinh mới không biến thành quá tàn nhẫn.
Lúc mê chấp chẳng ngộ th́ phiền năo theo đó hiện khởi, như mây giăng, phủ khuất. Lúc chuyển mê thành ngộ th́ bồ đề theo đó lộ bày, như mây tan, trăng hiện.
Cha mẹ trong nhà là Phật sống. Không hiếu thảo săn sóc cha mẹ th́ không thể có phước đức đặng.
Nghịch cảnh giống như viên đá mài ngọc, có thể làm cho viên ngọc chưa chuốt biến thành sáng rực óng ánh.
Bởi v́ có chúng sinh khổ nạn nên mới có bồ tát cứu khổ cứu nạn. Bồ tát có mắt hiền từ nh́n chúng sinh; Ngài luôn tâm niệm rằng: "Nếu ḿnh không đi cứu giúp chúng sinh th́ ai cứu giúp họ?" Đó là tinh thần đại từ đại bi, bạt khổ ban vui của bồ tát.
Bịnh của tâm th́ sâu hơn bịnh của thân. Tâm có thể làm sinh bịnh mà cũng có thể làm bịnh đừng khởi.
Trách nhiệm của thầy là chỉ dạy hướng dẫn. Nhưng đường đạo tu hành chắc chắn cần ḿnh tự bước.
Cái muỗng canh suốt ngày múc canh nhưng chẳng biết đặng mùi vị ǵ cả. Cũng vậy, người ngu suốt ngày phụng sự kẻ trí huệ nhưng chẳng thấy đặng chân pháp.
Đừng khinh thường việc thiện nhỏ, cho rằng nó chẳng có phước báu ǵ. Nước chảy tuy rỉ rả từng giọt, song từ từ có thể tràn đầy cả hồ. Phước báu mà được sung măn cũng là do tích lũy từng ly từng tư mà thành.
Những ai xem việc ḿnh hy sinh (cho kẻ khác) là một h́nh thức vui sướng, rồi từ đó phát sinh ḷng thương xót (muốn giúp người), th́ sẽ vĩnh viễn lúc nào cũng sung sướng.
Đem so sánh: xuất gia th́ dễ, tu hành mới khó; cạo tóc th́ dễ, cạo (làm sạch) tâm mới khó.
Khi ḿnh thấy kẻ khác thành tựu, ḿnh cần phải vui vẻ hoan hỷ, lập chí học theo gương ấy. Khi thấy kẻ khác gặp khổ nạn, ḿnh phải cần sinh ḷng thương xót bi mẫn, t́m cách giúp đỡ.
Đức tin cần phải có trí huệ. Chẳng nên ai nói ǵ cũng gật đầu làm theo, khiến tâm trí bị mê loạn. Rồi do mê mờ nên mới sinh ra ưu lo, sợ hăi. Một khi hiểu rơ chân lư, th́ ḿnh sẽ không có ǵ quái ngại.
Chỉ có thật sự dụng công chân thật tu hành, nổ lực từ từ tiến bước th́ mới đạt được kết quả. Chớ nên vọng tưởng rằng cất một bước chân mà ḿnh vọt lên tới trời được.
Nếu như thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia th́ chẳng thà tâm xuất gia nhưng thân không xuất gia.
Cứ luôn than khổ, th́ chẳng bỏ được khổ. Càng than văn khổ sở th́ khổ càng dồn dập thêm, càng bức bách hơn.
Chỉ cần trưởng dưỡng khí chất cho tốt, chẳng cần phải tranh thể diện. Thứ ǵ do tranh mà được đều là giả, những ǵ do trưởng dưỡng mà thành mới là thật.
Có giúp được người hay không chẳng phải do ḿnh có hay chẳng có năng lực mà do ḿnh có hay chẳng có tâm giúp người.
Phải luôn đoan chính đàng hoàng, chớ đùa giởn bởn cợt. Nên thường nghiêm cẩn thận trọng, chớ bê bối cẩu thả.
Pháp mà Phật thuyết ra th́ ít như nắm đất trong tay, c̣n pháp Phật chưa thuyết th́ nhiều như đất trên địa cầu vậy. Những pháp ấy phải được thể nghiệm từ kinh nghiệm sống và từ quá tŕnh tôi luyện thật tu mà thành. Đó gọi là trí huệ chân chính.
Khi thương ai, bạn phải làm cho tinh thần cao thượng của kẻ ấy sống măi, và truyền đến kẻ khác.
Tiết kiệm đương nhiên là một mỹ đức, song nếu tiết kiệm quá mức th́ biến thành nô lệ cho tài vật, rằng chỉ biết tích tụ tài sản mà không biết xử dụng.
Nếu khéo dùng đời ḿnh th́ dù có chết, ḿnh cũng là "người sống." Không biết khéo léo dùng đời ḿnh th́ dù có sống, ḿnh cũng chỉ là "người chết."
Dùng tâm Phật để nh́n người, th́ ai cũng là Phật. Dùng tâm quỷ để nh́n người th́ ai ai cũng đều là quỷ.
Người có ḷng tin, có nghị lực, có dũng khí mới là người kiện toàn.
Nhận chịu ân huệ của người dù nhỏ như giọt nước, ḿnh phải biết đền đáp bằng suối bằng thác. Bố thí rộng răi cho người mà muốn trọn vẹn, th́ chớ hối tiếc những thứ nhỏ bé lẻ tẻ.
Sửa đổi cách nh́n về thế giới th́ thế giới thật bao la vô cùng. Thay đổi lập trường để đối đăi với người với việc th́ người việc không chuyện ǵ chẳng yên ổn thoải mái.
Thiên tai bắt nguồn từ nhân họa. Khi việc lành tích tụ th́ sẽ phá trừ được mọi thứ tai nạn.
Mĩm cười là biểu hiện nơi mặt; cau mày cũng là biểu hiện ngoài mặt. Song mĩm cười th́ có thể giải quyết rắc rối, c̣n cau mày th́ chỉ thắt chặt thêm rắc rối.
Đức Phật thường giảng rằng: "Cha mẹ c̣n sống gọi là giàu; cha mẹ mất đi gọi là nghèo. Khi cha mẹ c̣n sống gọi là mặt trời lên cao; khi cha mẹ khuất bóng gọi là mặt trời sụp lặn. . . . Bởi thế các con phải siêng năng tu tập, hiếu thảo với cha mẹ." Ai làm được vậy th́ sẽ hoạch phước nhiều như phước đức do cúng dường Phật vậy.
Nhẫn chịu bịnh của thân th́ làm cho nghiệp tiêu hết. Buông lung bịnh của tâm th́ quyết gây thêm tội nghiệp.
Khi bị kẻ khác xúc phạm, rồi ḿnh bực bội ôm hận trong ḷng, th́ đó chỉ là ngu si. Nếu trong sinh hoạt hàng ngày mà ḿnh lúc nào cũng có thể quan sát đặng nhân duyên mọi chuyện th́ sẽ có trí huệ.
Không bị bịnh làm khổ tâm ḿnh th́ tức là ḿnh chẳng có bịnh khổ.
Tu đạo trong khi sống trong cơi trần đầy nhiễm ô th́ thường phải giữ tâm sao cho tuy nh́n mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nhiễm, như đui như điếc.
Mỗi ngày ngủ dậy, bước chân xuống giường, bắt đầu ngày mới, hăy sinh ư nghĩ cảm ân (cha mẹ, trời đất, tam bảo, thầy bạn...). Càng có thái độ biết cảm ân th́ sẽ càng bớt đi thái độ bất măn, thù hằn.
Cái khổ của nhân gian là một tấm gương tốt để ḿnh nhờ đó mà thấy được khổ trạng của trần thế. Do vậy mới khởi được ḷng cảnh tỉnh, thái độ biết cảm ân, và sự tinh tấn tu đạo.
Chớ nên để trong ḷng những tư tưởng, t́nh cảm đen tối. Hăy để cơi ḷng trong sáng chiếu soi, th́ cuộc sống đời ḿnh mới đầy ư nghĩa.
Kinh dạy rằng: "Dù cho ngàn vạn kiếp, nghiệp tạo chẳng hề mất, nhân duyên tới đủ rồi, ḿnh vẫn chịu quả báo." Nếu ḿnh có thể không có tâm th́ mới có thể không tạo nghiệp; không tạo nghiệp th́ mới không có quả báo.
Kẻ phàm phu chỉ có thể thấy được cái xấu của kẻ khác chớ không nh́n thấy rơ rác rưỡi trong đáy ḷng ḿnh.
Cha mẹ là gốc rễ của con cái. Gốc rễ mà lộ ra th́ cành nhánh phải khô lạnh.
Cái họa hoạn lớn của người ta là cứ cho rằng ḿnh đúng, ḿnh phải, ḿnh hay giỏi nhất, thậm chí khoe khoan tự đại. Làm người cho phải đạo th́ ḿnh phải biết khiêm tốn, lễ mạo, biết nhường nhịn, biết thu nhỏ tự ngă, tôn trọng kẻ khác, th́ mới thành công được.
Người quân tử bên trong tâm lượng rộng răi, kẻ tiểu nhân th́ t́nh khí hào nhoáng bề ngoài. T́nh khí hào nhoáng th́ gặp nghịch cảnh, ḷng sinh bức bách mâu thuẫn, rồi cuối cùng khí tận thân tàn. Tâm lượng rộng răi th́ gặp nghịch cảnh, vẫn an nhiên nhận chịu, mà chung cuộc th́ khí lực đầy đủ sung túc.
Nơi mỗi trang giấy trắng của cuốn sách đời ḿnh, mỗi ngày chư thánh hiền đều đặt ra một đề tài thật hay về nhân sinh, song kẻ phàm phu chúng ta cứ gấp gấp lật qua mấy trang giấy trắng ấy.
Phật dạy: Kẻ biết ân thầy ḿnh khi gặp thầy th́ phụng sự, không gần thầy th́ tư duy về điều thầy dạy bảo; phải có tấm ḷng như người con hiếu nhớ nghĩ cha mẹ, như kẻ đói khát nghĩ tới chuyện ăn uống.
Học Phật th́ phải học thứ Phật sống động. Tu thiền cũng phải tu thứ thiền sống động. Mỗi ngày trong sinh hoạt b́nh thường đi đứng nằm ngồi, ḿnh phải học thiền. Thiền ấy mới chính là thiền sống động.
Hăy tự kiểm thảo hành vi chính ḿnh, đừng ỷ lại, dựa vào thế lực bên ngoài như phong thủy.
Muốn được đời an b́nh, trước phải có ḷng an tịnh.
Coi nhẹ chính ḿnh th́ tức là trí huệ; có trí huệ th́ sẽ tự tại. Coi trọng chính ḿnh th́ tức là chấp trước; hễ chấp trước th́ sinh phiền năo.
Khi xả bỏ được lợi lạc cá nhân, th́ sẽ thành đạt được công ích.
Bảo vật không dùng th́ sẽ thành phế vật. Kẻ trí huệ không những biết dùng nó, mà c̣n biết dùng nó để tạo phước đức.
Kinh có kể chuyện: Có người bị con voi điên rượt chạy trong rừng. Trong lúc sợ hăi chạy trốn, anh chợt thấy một cái giếng hoang, với rễ cây đan thành giây, tḥng xuống giếng. Anh liền thuận tay leo xuống. Tới gần tới đáy, anh chợt phát hiện có một con rồng độc nằm cuộn dưới đáy. Rồng ta giương vuốt, há mồm chờ anh xuống gần. Bốn bên tường giếng là bốn con rắn độc, cũng phồng mang muốn cắn. Sợ quá, anh ta lập tức trèo ngược trở lên. Nào ngờ bên trên một cặp chuột, con trắng con đen, đang cắn đứt dần giây leo. Lúc ấy anh ta thật chẳng biết phải làm sao cho ổn. Ngay lúc nguy cấp vô cùng như thế, từ trên tàng cây bên trên miệng giếng, hốt nhiên một giọt mật từ nơi hoa rớt xuống miệng anh ta. Mùi vị của giọt mật thật ngọt ngào làm sao! Anh ta trong phút chốc, mê mẩn với mùi vị, bỗng quên bẵng mọi chuyện xung quanh, quên cả việc mau mau t́m cách thoát hiểm.
Chúng sinh sống trong sự nguy hiểm của cái giếng Tam Giới, bị vô thường (con voi điên) bức bách, ngày đêm (hai con chuột) mạng sống giảm lần. Thân thể do đất nước gió lửa tạm bợ hợp thành này cũng giống như bốn con rắn độc, sẽ có lúc làm thân thể này tan ră, mất mạng. Nếu chẳng chịu t́m cách xuất ly, cứ bị khoái lạc tạm thời (giọt mật ngọt) của cơi đời làm mê hoặc, lấy cái giả làm thật, cho cái khổ là sướng, th́ sẽ khó thoát đọa lạc địa ngục (con rồng độc).
Người sống trong hạnh phúc, chẳng hề có việc ǵ phải rên rỉ than văn, là v́ họ không hiểu thấu bịnh hoạn thống khổ chân chính là ǵ.
Giúp người chính là giúp ḿnh, bởi v́ không ai có thể sống một ḿnh, tách rời đoàn thể.
Con cái vui cười: đối với cha mẹ cũng ấm áp như là mặt trời mùa đông.
Nếu có thể mượn cảnh để luyện tâm th́ mới có thể tiết chế được sự khao khát không ngằn mé của tâm linh, đồng thời sẽ thể nghiệm được sự sung sướng và đầy đủ.
"Tôi có một hạt ngọc, đă lâu bụi bám đầy, ngày kia bụi hết; quang sinh, sáng soi non sông vạn cảnh." Chẳng biết kho châu báu trí huệ của tự tâm, chỉ biết cầu pháp bên ngoài tâm, đó chính là chẳng có trí huệ.
Trước không vun trồng ḷng từ bi và ḷng nhẫn nại, sau học Phật khó thành.
Khi người ta đau khổ thường thốt lên rên siết. Rên siết là một âm thanh, mà cười cũng là một âm thanh. Rên siết th́ khiến người buồn bả ưu sầu, c̣n cười th́ đem lại niềm vui hoan hỉ.
Vẻ tươi cười trong lúc bịnh th́ giống hệt như ánh dương quang sau khi mây đen tản tận. Sự tươi mát ấy làm người ta cởi mở vui vẻ.
Kẻ ngu si th́ thường xây trong ḷng ḿnh một bức tường kiên cố ngăn rào chính ḿnh lại. Người trí huệ th́ chắc chắn phá bỏ bức tường ấy, giải phóng người ở trong ấy ra.
Lúc khổ mà có thể buông bỏ cái khổ ấy, lúc đau mà cũng có thể buông bỏ cái đau ấy th́ tự nhiên không c̣n đau khổ nữa.
Tha thứ cho người là mỹ đức, tha thứ cho ḿnh là tổn đức. Càng tha thứ cho người th́ càng có phước.
Đừng xem bịnh hoạn đau đớn quá quan trọng, khi xem chúng quá quan trọng, ta sẽ xem nhẹ chính ḿnh. Khi xem nhẹ chính ḿnh, ta sẽ không thể siêu việt được bịnh khổ.
Đức tin, nghị lực và dũng khí: khi bạn có đủ ba đức tính này th́ thiên hạ chẳng chuyện ǵ khó nữa.
Mỗi giây mỗi phút đều là khởi đầu và cũng là sự kết thúc của sinh mạng. Chết đi cái cũ, sinh ra cái mới. Quan trọng là phải tạo ra cái mới.
Kẻ có sức mạnh lớn lao là kẻ có khả năng nhẫn nại mọi sự lăng nhục. Có thể nhẫn nhục là có thể không khởi ác ư, không nuôi ḷng ác, nên được người tôn kính, và thành tựu mọi sự.
Người ngu th́ luôn cho ḿnh là đúng. Người trí th́ khéo biết xoay chuyển cái ư niệm đúng đó.
Lời dối trá th́ như một đóa hoa tươi đẹp, bên ngoài tuy xinh xắn nhưng sinh mệnh th́ ngắn ngủi.
Người trí huệ th́ vui với thiên nhiên non nước. Người chẳng có trí huệ th́ thường bỏ gốc theo ngọn, truy cầu theo những việc hư huyễn (giả dối, dường như thật có).
Một bà cụ 74 tuổi hàng ngày sáng sớm tinh sương là ra đường quét tước, dọn sạch nơi công cộng. Ai thấy bà, họ cũng vui vẻ thích thú. Bửa nọ mấy chú thanh niên lân la hỏi bà năm nay bao nhiêu tuổi. Bà đáp rằng chỉ mới bốn tuổi. Nghĩ rằng nghe lầm, họ hỏi lại, song bà vẫn đáp rằng bốn tuổi. Họ hỏi: "Cụ nay tuổi bảy bốn hay là tám bốn?" Bà đáp rằng: "Nói về tuổi tác th́ tôi bảy bốn. Nói về làm người th́ tôi chỉ mới bốn tuổi. Đó là bởi: "Bảy mươi năm đầu tôi sống trong mê mờ, chẳng biết đạo lư. Từ khi hiểu đạo, tới nay chỉ mới bốn năm, tôi mới cảm nhận sâu xa đạo lư chân chính làm người, biết rằng ḿnh phải phục vụ nhân quần, lợi ích chúng sinh. Do đó tôi mới nói rằng ḿnh chỉ mới bốn tuổi." Ngày nào ḿnh biết thể hội đạo lư làm người, phục vụ nhân quần, th́ ngày đó mới chính là ngày sinh nhật của ḿnh.
Nhẫn chịu đau khổ, th́ khổ hết vui sướng tới. Hưởng thụ phước báo, th́ phước hết bi thương t́m.
Có một cô tới chùa nói với tôi rằng: "Thưa sư cô, hễ con tới chùa tu hành là chồng con phản đối, khiến con vạn phần khổ sở." Tôi nói với cô rằng: "Nếu cô cứ ngày ngày bận rộn chuyện chùa, hết lạy Phật, nghe kinh; bỏ bê chẳng lo lắng việc nhà cho vẹn tṛn, th́ sao chẳng khiến chồng cô bực dọc, không vui. Chẳng làm tṛn trách nhiệm với gia đ́nh trước, lại bỏ đi lo giúp đở việc ngoài, hay người ngoài th́ tức là trước sau đảo lộn, chẳng hợp t́nh lư. V́ thiếu trí huệ, giúp bên ngoài trước khi tṛn bổn phận bên trong, nên chồng cô mới phản đối. Bây giờ cô hăy về nhà, sửa đổi tánh t́nh, đối xử ôn hoà nhu thuận với chồng cô. Đàn bà đẹp là ở tánh t́nh ôn nhu, thành công cũng do ôn nhu hiền lành, làm tṛn bổn phận người vợ người mẹ." Ḿnh chớ nên yêu cầu người khác cho (làm theo) ḿnh điều ǵ, phải nghĩ ḿnh phải làm ǵ giúp người khác.
Một nơi nọ, có anh nọ chuyên môn bẫy chim để bán. Khi chim mắc bẫy, bị thộp cổ, chúng thường vùng vẫy cố t́m lối thoát. Nếu có ai muốn ăn chim, th́ anh liền bắt chim ra khỏi lồng, cạo lông, cắt cổ, nấu ngay tại chỗ để khách thưởng thức. Thật là bất nhẫn lắm thay. Thường nếu đi ngang qua chỗ ấy, tôi nhất định sẽ mua hết mấy chú chim đó. Lúc đầu anh ta bán bảy đồng một con, sau anh ta tăng giá thành 15 đồng một con, nhưng tôi cũng mua hết chẳng để sót con chim nào. Chờ khi xe chạy rồi th́ tôi thả hết mấy chú chim đó đi. Cứ như vậy, hễ có đủ năng lực là có bao nhiêu chim tôi cũng mua hết để phóng sinh. Có người thấy nhiều động vật khác bị bắt, th́ hỏi rằng: Thưa sư cô! Chúng con có thể mua những động vật ấy về phóng sinh chứ? Tôi đáp rằng: Đương nhiên! Song, khi mua, các con phải mua hết, không được chừa một con nào cả. Đồng thời phải xem, những thứ ḿnh mua về phóng sinh, chúng có đủ sức sống hay không. Đó mới là điều quan trọng nhất.
Hiện tại có nhiều người hiểu rằng phóng sinh là việc tạo công đức lớn lao, do đó cứ mồng một và rằm là họ phóng sinh. Họ nói với những người bán cá rằng, vào rằm và mồng một, hăy đem cá tới bán cho tụi tôi làm lễ phóng sinh. Người bán cá mỗi ngày chỉ bán 50 cân cá, song v́ có người đặt cá như vậy, nên họ bắt thêm 50 cân cá nữa để bán! Khi cá ra khỏi nước th́ chúng đau đớn vô cùng. Dù biết rằng ḿnh sẽ đem cá phóng sinh, song bạn có biết khi cá ra khỏi nước trong khoảnh khắc thôi, chúng đă đau khổ đến dường nào. Chỉ cần nh́n cá vùng vẫy là ta đă biết chúng khổ, hà huống sau khi bị câu lên, chúng lại bị đưa đi chỗ khác phóng sinh, thử hỏi mạng sống của chúng mỏng manh đến dường nào.
Phóng sinh phải chăng biến thành phóng tử. Cứ mỗi năm, khắp tỉnh không biết ta phải hao phí bao nhiêu tiền mua cá phóng sinh? Mỗi vị ngư phủ, không biết đă tạo bao nhiêu sát nghiệp? Nếu các bạn muốn phóng sinh, tuyệt đối không nên "đặt hàng", v́ làm vậy là gieo nhân duyên, cơ hội khiến người buôn tạo nghiệp. Khi bạn thấy (động vật), sức của bạn có bao nhiêu th́ giúp bấy nhiêu; (nếu đủ sức để mua hết các động vật), bạn nhất định phải mua hết để phóng sinh. Ngoài chuyện phóng sinh các động vật, chim cua rùa cá... ḿnh phải nghĩ tới những người bịnh khổ, đang vùng vẫy trong ṿng sinh tử. Nếu bạn có thể giúp họ trị lành bịnh, hết thống khổ, sống vui vẻ, th́ chẳng phải đây mới thật là phù hợp với ư nghĩa phóng sinh?
Bảo vệ môi sinh (ecology) khiến cho không bị ô nhiễm, cần kiệm phước duyên th́ mới thật là phóng sinh.
Thời gian có thể dùng để tích lũy đạo nghiệp, thành tựu sự nghiệp, hoàn thành học nghiệp cũng như vun bồi công đức.
Lúc xă hội cần đến ta, ḿnh phải mau mau hiến ḿnh ra sức. Ngày nay mà ḿnh c̣n bước đi được th́ ḿnh phải mau mau dấn bước.
__________________ Muốn kiếp phù sinh sau khỏi luỵ .Quyển kinh câu kệ chớ nài công
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|