Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 179 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Địa Lư Phong Thủy (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Địa Lư Phong Thủy
Tựa đề Chủ đề: KHÁI QUÁT PHONG THUỶ - ASVN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
soida
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 321
Msg 1 of 31: Đă gửi: 09 September 2004 lúc 12:58am | Đă lưu IP Trích dẫn soida

Kính gửi tất cả các hội viên yêu thích môn phong thuỷ.

Được sự đồng ư của anh ASVN, chúng tôi mở ra TOPIC này đặt dưới sư phụ trách của anh ASVN, để giúp những hội viên ham học hỏi bộ môn này có những căn bản ban đầu.

Yêu cầu tất cả các hội viên không post bất kỳ bài viết nào chen vào các Ư KIẾN mà anh ASVN đang tŕnh bày. Những câu hỏi mà các hội viên hỏi anh AVSN liên quan đến chủ đề này, xin post ở mục BÀN LUẬN - KQPT

Kính
SD

Sửa lại bởi soida : 09 September 2004 lúc 1:17am
Quay trở về đầu Xem soida's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi soida
 
soida
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 29 August 2002
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 321
Msg 2 of 31: Đă gửi: 09 September 2004 lúc 1:12am | Đă lưu IP Trích dẫn soida

Sau đây là những bài đầu tiên của anh ASVN mà tôi đă copy sang cho liên tục:

Nhân thấy có nhiều bạn muốn học phong thuỷ nên tôi xin có mấy ư kiến như sau :

Tôi thấy trên diền đàn phong thuỷ cũng như ngoài đời mỗi người một lư. Mỗi người đều mang một trường phái ḿnh học ra coi nó là độc tôn rồi chê bai phái khác là bàng môn ngoại đạo, Điều này vô cùng tai hại cho hậu học. Họ chẳng biết phải theo ai học ai, vô h́nh đă làm cho môn phong thuỷ càng trở nên huyền bí hoặc làm cho nhiều người thấy nghi hoặc không đủ tin tưởng vào môn này. Thật là buồn lắm lắm !

Tôi viết bài này nhằm hai mục đích, Một là muốn khẳng định phong thuỷ là một môn khoa học đă được chứng nghiệm từ hàng ngh́n năm. Hai là dùng chút kiến thức ít ỏi của tôi cung cấp một trong hàng ngh́n cách tiếp cận môn phong thuỷ qua sách vở, ngơ hầu có thể giúp các bạn yêu thích môn này đi sâu nghiên cứu

1- Phong Thuỷ là một môn Khoa Học : Gồm ba phần
    - Cơ sở lư luận
    - Các chứng nghiệm
    - Tại sao lại có người nghi hoặc môn phong thuỷ

a- Cơ sở lư luận : Từ hàng ngh́n năm nay triết học phương đông, triết học cổ đại, triết học phương tây và cả triết học của chủ nghĩa cộng sản ... cũng đều khẳng định rằng vạn vật đều h́nh thành và phát triển do sự tồn tại của hai mặt "đối lập" hay nói khác đi là "âm và dương". Tuy vậy duy chỉ có triết học phương đông hiểu rơ vật là ǵ , coi nó như một "vũ trụ" vận hành theo qui luật của tự nhiên và qui nó về một hệ cơ sở là "Ngũ Hành"


ASVN

Bài viết của tôi về "cơ sở lư luận" để viết đầy đủ sẽ rất dài không những thế bản thân tôi thấy không cần thiết v́ rất nhiều khái niệm cơ bản các bạn có thể tham khảo trong tác phẩm " Ứng dụng trường khí trong đời sống và kiến trúc" cũng như các bài viết của các vị khác về "khí công", "Thiền", "Bùa chú" ....trong mục khoa học huyền bí của diễn đàn này do vậy tôi sẽ chỉ đề cập các vấn đè mấu chốt. Với tinh thần như vậy tôi xin tiếp tục

Nói là hệ cơ sở v́ nh́n chung trên trái đất này có thể qui vạn vật vể năm hành cũng giống như trong thương mại quốc tế người ta qui mọi đồng tiền của các nước về hệ cơ sở là đông đô la Mỹ vậy. Xét đến đối tượng nghiên cứu cũng như các vấn đề cần giải quyết của khoa hoc phương đông th́ với hệ cơ sở nay là đủ.

Bản thân "vật" là một thực thể tồn tại khách quan,hoàn toàn không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không v́ "vật" tồn tại ở hai dạng "H́nh và Khí". "Vật" cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ" nên khí cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ". Đây chính là vấn đề mấu chốt của phong thuỷ.

C̣n nữa


ASVN

Từ xa xưa cũng như ngày nay các khí công sư, các bậc chân tu...có thể nh́n thấy khí (trường năng lượng), hơn nữa là với mọi màu sắc khác nhau. Xem khí của người để đoán mệnh, bệnh, Nh́n khí của hiện trường để phá án . Các bạn chớ có kinh ngạc v́ đó là nguyên lư "Có h́nh tất có khí" và "đă có khí rồi th́ có h́nh". các bậc cao nhân xưa đă nắm được đặc điểm khí có h́nh mà phát minh ra phép "Vọng Khí" dùng để lựa chọn một cách tốt nhất trường khí của môi trường, chọn nơi tốt nhất để ở hoặc táng người thân.

Bây giờ chúng ta hăy tưởng tượng trong cả vũ trụ này "khí" tồn tại ở khắp mọi nơi nó chính là "hạt" cơ bản cấu tạo nên vũ trụ. Bước tiếp theo ta xét đến trái đất "khí" tồn tại trong bầu khí quyển, Khí tới từ vũ trụ xa sôi. Bản thân khí cũng chỉ là "vật" do vậy nó bao gồm khí âm và khí dương mà ta có thể qui về hệ cơ sở "Thất sắc cửu khí" :

- Khí nhất bạch tham lang
- Khí nhị hắc cự môn
- khí tam bích lộc tồn
- khí tứ lục văn khúc
- khí ngũ hoàng liêm trinh
- khí lục bạch vũ khúc
- khí thất xích phá quân
- khí bát bạch tả phụ
- khí cửu tử hữu bật

Theo qui luật "có h́nh tất có khí" khí mang tính âm sẽ bị hấp thụ bởi các dỉnh núi cao rồi "thẩm thấu" theo các mạch núi mà sau này ta gọi là "long"...


ASVN

Cũng theo qui luật "có khí tất có h́nh" mà các long này sẽ dần biến đổi h́nh dạng cho phù hợp với "Khí" ở trong nó chính v́ thế mà các cao nhân xưa mới đưa ra các khái niệm "ngũ tinh ,cửu tinh..." trong phong thuỷ khi xét về h́nh thế. Như vậy Khái niệm "khí" là mấu chốt của phong thuỷ xem ra là chưa đủ mà c̣n phải xét đến h́nh v́ cả h́nh lẫn khí mới là hai mặt của một vấn đề (nhất âm nhất dương chi vị đạo)

Một vấn đề lớn nữa phải chú ư là tính chất của "khí". Khí bị nước hấp thụ hay nói khác đi "khí" gặp nước th́ dừng. Như người viết đă đề cập một lần "Khí" là dương th́ "h́nh" là âm. Bản thân h́nh gồm núi (long) và nước th́ núi là âm mà nước là dương (phù hợp qui luật trong âm có dương trong dương có âm) do vậy phong thuỷ địa đạo luôn luôn phải nhớ câu "sơn thuỷ hữu t́nh"

ASVN

Theo qui luật "cô âm bất sinh thuần dương bất phát" th́ chỉ khi có đủ âm dương th́ mới động dục mà sinh sản nên những nơi "sơn hoàn thuỷ băo" th́ nhiều khả năng có địa "kết", nói nhiều khả năng v́ vẫn chưa đủ điều kiện. Tại sao vậy? V́ như đă nói ở trên "khí" mang tính âm thẩm thấu qua "long" đi măi cho đến nơi kết sẽ đột (âm) khởi kết huyệt và rất nhiều các ứng "tinh". Các ứng tinh này sẽ có vai tṛ "ăng ten" thu các khí mang tính dương trên không trung. Kết quả âm dương thiên địa giao hoà mà kết huỵêt. Các cao nhân xưa quả thật vô cùng thâm sâu khi đưa ra nhận định "chứng ứng" ứng với thiên tinh trên trời khiến cho nhiều hậu học không đủ cơ duyên chẳng biết đâu mà lần....

Tương tự như vậy "Khí" mang tính dương cũng thẩm thấu... và kết huyệt theo cơ chế tương tự song thể kết có khác nhau ở chỗ "Nhũ đột" và "oa kiềm"

ASVN

Tiếp

"Dương giáng âm thăng" phu gặp phụ kết thúc một chu tŕnh của sự vân động.

Xét việc trong vũ trụ này ngoài "Thiên Địa" c̣n phải xét đến "Nhân" v́ Thiên địa nhân là hợp nhất. Như đă đề cập ở trên con người là "vật" là tiểu vũ trụ do vậy con người có h́nh có khí chỉ có khác là khí của con người có tính "hữu cơ", có nguồn gốc từ tế bào, axit amin, albumin,nhân tế bào và đặc biệt là có nguồn gốc từ axit deoxiribonucleic tức là mật mà di truyền ADN. Chính v́ thế phong thuỷ không chỉ đề cập đến khí của một cá nhân mà c̣n nói đến khí của cả một ḍng họ

Xương sống của "trường khí ḍng họ" cũng chính là mật mă di truyền của ḍng họ đó.

Đặc điểm của "trường khí hữu cơ" ngoài các đặc điểm có tính chất sóng,hạt,năng lượng và định hướng c̣n có hai đặc điểm rất rơ nét một là tính có thể khống chế, tức là chịu ư niệm khống chế. Đặc điểm này có thể nh́n thấy được trong các thí nghiêm đo đạc trường năng lượng nhân thể, Trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến độ mạnh yếu của của trường nhân thể. Hai là mức độ "thanh" hay "trọc" của "trường nhân khí" là phụ thuộc vào bản tính "thiện" hay "ác" của cá nhân người có trường khí đó và cũng từ dó có ảnh hưởng đến trường khí của ḍng họ mà anh ta được sinh ra . Theo kinh nghiệm quan sát nhiều năm của người viết các vị chân tu đă từ bỏ được tham sân si thường trông rất phúc hậu, sắc khí tươi nhuận, rất dễ gần và đặc biệt trường khí của họ rất lớn có thể cải tạo được khí xấu của nơi mà họ sinh sống.

ASVN


Sửa lại bởi soida : 09 September 2004 lúc 1:19am
Quay trở về đầu Xem soida's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi soida
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 3 of 31: Đă gửi: 09 September 2004 lúc 2:05am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Tiếp

Các bài viết ở trên người viết đă dần dần hé mở hai trung tâm năng lượng

Một là "Huyệt" theo khái niệm phong thuỷ là nơi thiên gặp địa, âm và dương của vũ trụ giao hoà. Hai là trung tâm nhân thể chính là con người tạo vật bậc cao của vũ trụ. Hai trung tâm này có một đặc điểm quan trọng là vừa thu vừa phát "sóng" năng lượng (khí). Điều này là hoàn toàn có cơ sở v́ bản thân con người có thể hút "chân khí" của người khác, khí của tự nhiên và cũng có thể cho người khác "chân khí" của ḿnh.Đây là việc có thực người viết xin được miễn giải thích thêm.Trung tâm thứ hai (Huyệt) cũng hoạt động với cơ chế như vậy "thu và phát". Người viết và một số đồng đạo đă nghiên cứu và thực nghiệm trên một số cuộc đất phát hiện ra rằng có những nơi sau khi khảo sát cảm thấy vô cùng mệt mỏi, "chân khí" bị mất đi. Nhưng cũng có nhiều nơi đến đây cảm giác rất dễ chịu, sảng khoái thậm chí khi đi mà bị ốm khi về đă khỏi bệnh. Xin đừng ngạc nhiên có vùng quê (Sơn Tây) có cuộc đất vô cùng tốt hễ có ai ốm qua loa đến đây "thắp hương" khi về đă khỏi bệnh nên dân trong vùng gọi đó là " mô thần y ".


ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 4 of 31: Đă gửi: 10 September 2004 lúc 12:28am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến cơ chế của sự kết phát. Theo người viết cơ chế của sự kết phát có hai giai đoạn :

Giai đoạn 1 : Người viết gọi giai đoạn này là giai đoạn hấp thụ trực tiếp, xẩy ra khi bản thân con người (trường nhân thể) hấp thụ được khí tốt của môi trường "huyệt".Trung tâm "huyệt" đóng vai tṛ như một "máy phát sóng truyền h́nh" và trường nhân thể đóng vai tṛ của "máy thu h́nh". Trường nhân thể nào có cùng tần số lập tức bắt được sóng năng lượng của trung tâm huyệt một cách trực tiếp, như vậy càng ở gần trung tâm huyệt sóng bắt được càng rơ nét và tương ứng mức độ kết phát càng lớn và càng dễ kết phát. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng không phải ai cũng có thể nhận được năng lượng này thậm chí là ở ngay trung tâm phát sóng. Thêm nữa thường trung tâm phát sóng càng "tốt" năng lượng sóng càng "thanh" do vậy trường nhân thể phải "thanh" mới có thể nhận được sóng tốt, điều này giải thích câu "tiên tích đức hậu tầm long" cũng như qui luật nhân quả một cách rơ ràng

Giai đoạn 2 : người viết gọi là giai đoạn gián tiếp hấp thụ
Đối với người sống sau khi nhận được năng lượng sóng từ các trung tâm năng lượng truyền đến sau khi hấp thụ một phần bản thân sẽ trở thành một trạm phát chuyển tiếp để truyền năng lượng đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống khác trên cơ sở mật mă di truyền. Dĩ nhiên là các trường nhân thể càng "non trẻ" càng dễ dàng hấp thụ năng lượng
Đối với người đă chết Xương, tóc.... là những thứ tồn tại ở dạng h́nh trong một thời gian dài sẽ là các trung tâm tiếp nhận sóng và phát tiếp đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống cũng trên cơ sở mật mă di truyền.

Với cơ chế như vậy to có rút ra hai nhận xét quan trọng sau :

1- Không nhất thiết phải đặt nhà,sống, táng ... tại trung tâm huyệt mới có sự kết phát ( tất nhiên thực tế lại có khác không tiện giải thích). Tuy vậy nếu đặt đúng huyệt sự kết phát sẽ dễ dàng và lớn hơn rất nhiều.Thêm nữa sự tiếp nhận sóng có giới hạn về không gian

2- Không phải ai, ḍng họ nào cũng đều kết phát thậm chí đăt...tại huyệt mà chỉ có sự ứng hợp mới đẫn đến kết phát cụ thể là huyệt tốt sẽ t́m nhừng trường nhân thể tốt của một ḍng họ mà cho năng lượng

ASVN

Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 5 of 31: Đă gửi: 12 September 2004 lúc 11:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Tiếp

Khoa học hiện đại ngày nay khi nghiên cưú các vấn đề thực tiễn thường dùng phương pháp mô h́nh hoá, đơn giản hoá sau đó phát triển dần cho gần với mô h́nh thực tế rồi đem ra áp dụng. Các bài viết về phong thuỷ cũng vậy, người viết thực ra từ đầu đến giờ đă đưa ra một mô h́nh đơn giản để dễ dàng cho việc nghên cứu c̣n trong thực tế mô h́nh phong thuỷ c̣n phức tạp hơn gấp bội phần. Sự phức tạp của nó thể hiện ở các điểm sau :

Một là "trường nhân thể" không đơn thuần chỉ là một trung tâm thu và phát năng lựơng sóng mà nó là một "trường hữu cơ" với đầy đủ các tính chất phức tạp của nó mà người viết không dám và cũng không đủ hiểu biết để có thể tŕnh bày ở trên diễn đàn này. Hy vọng rằng một ngày nào đó, một ai đó có đủ "cơ duyên" dể làm việc này

Hai là sự vận động của vũ trụ là không ngừng "không ai có thể tắm hai lần trên một ḍng sông" do vậy các "trung tâm năng lượng" là biến đổi không ngừng lúc mạnh, lúc yếu, lúc cát, lúc hung.... do vậy phong thuỷ mới có khái niệm "vận" và "Mở huyệt, đóng huyệt"

Ba là sự kết hợp của hai "trung tâm năng lượng huyệt và trường nhân thể" là một cơ chế phức tạp không đơn thuần như đă mô tả ở trên

Bốn là có tồn tại một cơ chế điều khiển của các trung tâm năng lượng

Năm là các trung tâm năng lượng có trung tâm "sống" và các trung tâm "chết"

....vv

ASVN

Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 6 of 31: Đă gửi: 13 September 2004 lúc 10:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Một câu hỏi được đặt ra là với mô h́nh trên, cách tiếp cận của phong thuỷ có khoa học không? Xin thưa là hoàn toàn khoa học v́ nó có cơ sở là qui luật, thực nghiệm và chứng nghiệm. Trước khi phân tích tiếp tính khoa học của nó người viết xin nhắc lại một "tiên đề" vô cùng cũ kỹ đó là hà đồ và lạc thư với hai cơ số thông suốt cả quá tŕnh nghiên cứu của học thuật phương đông là cơ số 2 và 3. Ngày nay hầu như ai cũng biết có hai khái niệm là qui luật phổ biến và qui luật xă hội trong đó qui luật phổ biến bao trùm qui luật xă hội, nó tồn tại và vận động khách quan chi phối vạn vật trong vũ trụ không có giới hạn này. Khi xuất hiện con người th́ h́nh thành các qui luật xă hội, nó chi phối con người trong khuôn khổ củ vũ trụ quan (Qui luật phổ biến). Quay lại với hà đồ và lạc thư, Hà đồ lấy cơ số 2 là cơ sở đại diện cho âm và dương (nhị nguyên)chi phối mọi hoạt động của vũ trụ. Lạc thư lấy cơ số 3 là cơ sở đại diện cho thiên ,địa, nhân (tam tài) chi phối mọi hoạt động của con người trong vũ trụ v́ thế người xưa cho rằng Hà đồ ứng vói thiên tiên là thể (là viên gạch), lạc thư ứng với hậu thiên là dụng ( là nhà, là trường học..) do vậy cơ số 3 được dùng là cơ sở cho mọi ngiên cứu về phong thuỷ nói riêng và các môn học phương đông nói chung (VD :cửu cung hay can vi thiên, chi vi địa, âm vi nhân ..). Nói như vậy không có nghĩa chúng ta loại bỏ cơ số 2 mà trong quá tŕnh nghiên cứu chúng vẫn không thể tách dời nhau.

Với hai tiên đề có tính phổ quát trên người xưa cho rằng xem và nghiên cứu phong thuỷ phải trên cơ sở :

   H̀NH LƯ KHÍ SỐ MỆNH

ASVN

Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 7 of 31: Đă gửi: 16 September 2004 lúc 3:19am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Người viết sẽ lần lượt đi qua các cấu phần của H̀NH- LƯ KHÍ-SỐ-MỆNH

H̀NH : Phái h́nh thế ra đời từ rất lâu tại Trung Quốc mà người đại diện là Dương Quân Tùng với luận thuyết nổi tiếng "âm dương thư hùng". Người viết xin trích một đoạn trong sách của ông " Thư (giống cái ) là âm, Hùng ( giống đực ) là dương có hai khí . Nói về thư hùng cũng giống như vợ chồng vậy, vợ chồng giao hợp th́ sinh ra con cái. Thư hung giao hợp th́ sinh ra vạn vật, đó là đại cơ – cơ hội lớn hoá sinh của trời đất. v́ vậy trước tiên phải xem thư hung của long gia". Qua đây ta có thể rút ra cơ sở của phái h́nh thế chính là "dương hoá khí âm tạo h́nh","nh́n h́nh đoán khí". H́nh và khí như bóng với h́nh như vợ với chồng quấn quít bên nhau không rời đan xen chia xẻ động dục mà sinh con đẻ cái.
Phái h́nh thế đă xây dựng được một khối lượng lớn các luận thuyết tương đối hệ thống đồng thời đưa các quan niệm "tôn tộc ", "thiên phụ, địa mẫu" và h́nh tượng người phụ nữ. Họ coi quả đất là mẹ của muôn vật và h́nh tượng hoá khu vưc kết huyệt bằng h́nh tượng của người phụ nữ ( huyệt ví như nơi sinh sản của phụ nữ): " Núi non vạn dặm, nơi nào cũng có tổ tông, nếu gặp cha mẹ dực dục,thai tức sau đó h́nh thành. Nhận h́nh lấy huyệt, biết rơ nơi cha sinh thành, nơi mẹ dưỡng dục.Thiên môn tất phải mở ra sơn thuỷ sẽ đến. Địa hộ tất phải đóng lại sơn thuỷ sẽ về.Thiên môn là nơi nước đến, địa hộ là nơi nước đi. Huyệt ở nơi đó, không ở nơi khác. Trong chỗ nhô lên vẫn có hang hốc, ở nơi cao có thấp,trong hang hốc vẫn có chỗ nhô cao, trong chỗ thấp vẫn có chỗ cao…" " Đạo lư của thiên hạ, âm dương ngũ hành không thoát ra ngoài một cái ṿng. Ṿng này là huyệt của sinh tử. Giữa trời đất có ṿng nhỏ, ṿng lớn, hiểu được ṿng này đâu đâu cũng là ṿng. Trời đất xoay chuyển, ai hiểu được trăm ngàn điều lư thú trong ṿng này là tiên giữa trần gian….. Ṿng này là ṿng thiên ṿng địa, tṛn cùng không tṛn, vuông cũng không vuông, dẹt cũng không dẹt, dài cũng không dài, ngắn cũng không ngắn, rộng cũng không rộng, nhọn cũng không nhọn, trọc cũng không trọc, trong ư thức con người như có như không đó là ṿng tự nhiên. Âm dương đứng ở trong đó, ngũ hành sinh ra ở trong đó. Trong ṿng hơi lơm xuống như nước mà không phải nước. Ngoài ṿng hơi nhô nên như cát mà không phải cát.."
Để có thể nghiên cứu sâu và chi tiết phái h́nh thế đưa vô vàn khái niệm như Long, thuỷ, huyệt, án, sa, thanh long , bạch hổ, huyền vũ, chu tước, thai tức, thiềm ,cầu , hà tu , hợp khâm, , ỷ chi, sứ huyệt tất , thiên tâm thập tự…. Từ đó lại phân loại nhiều loại long , thuỷ…. Ôi! Vô cùng công phu và phức tạp nhưng nguyên lư xét cho cùng không ngoài đưa chúng về hai hệ cơ sở âm dương ngũ hành và hệ cửu tinh như đă đề cập để dễ bề nghiên cứu. Tuy vậy cũng không quên nhắc nhở hậu học rằng thực tế th́ vô cùng phức tạp h́nh thù là muôn h́nh vạn trạng (V́ không phải là khí thuần nhất), nên khi nghiên cứu khảo sát thần lực phải tinh tường chớ có nhầm lẫn. Người viết và các đồng đạo khác đă bỏ ra rất nhiều công sức để đi t́m cũng như xem lại các cuộc đất trứ danh phải thừa nhận rằng thực tế khác xa với sách vở nó đ̣i hỏi một sự nhậy bén trong tâm trí một thần lực tinh tường và quan trọng là chữ " Ngộ" của đạo. Có lẽ v́ vậy mà học địa lư bị ngừơi ta cho là khó chăng? Nhưng có đủ "căn, duyên và nghiệp" th́ chắc chắn sẽ thành công.

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 8 of 31: Đă gửi: 17 September 2004 lúc 3:13am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Xét cho cùng mục đích của phái h́nh thế là t́m ra ngũ quyết địa lư bao gồm Long , huyệt, sa, thuỷ, hướng tức là nghiên cứu địa khí của khu vực cần phải khảo sát hay nói rộng ra là đi t́m trung tâm "phát sóng"

LƯ KHÍ : Trái với phái h́nh thế nhấn mạnh "Khí hành tuỳ theo thế đất", phái lư khí cho rằng vạn vật, thiên địa đều do khí sinh ra " tất cả mọi vật đều là khí", "núi sông thuỷ thổ đều có chứa khí là đại trạch của tạo hoá v́ vậy khí lưu hành đầy trong vũ trụ. Thiên địa vạn vật đều là một thể". Vạn vật của thiên địa đều là một thể do vậy giữa chúng phải có một điểm chung, đó chính là "lư". "Lư" tồn tại hiện thực nhưng lại vô h́nh, sự kết hợp của "lư" và "h́nh" chính là tượng của khí. "Lư" sinh ra từ khí, "lư" của vạn vật trong tự nhiên có quan hệ mật thiết với loài người đó chính là qui luật của thời gian và không gian, qui luật của vũ trụ về phương vị của thời gian và không gian. Dựa trên cái "lư" đó phái lư khí đă xây dựng một khối lượng đồ sộ các hệ thống lư thuyết trên cơ sở của ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh, bát môn, thập nhị bát tú, thập nhị tứ sơn, 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa, 24 huyệt châu bảo….với hai trọng điểm lư luận

-     Lấy phương vị là chính tức khí ở phương vị khác nhau th́ tốt xấu khác nhau
-     Lấy thời gian làm chủ tức cùng một phương vị th́ tại các thời điểm khác nhau th́ tốt xấu khác nhau

Xét cho cùng mục đích của phái lư khí là t́m ra hướng và thời gian tức là nghiên cứu thiên khí của cả một vùng hay nói rộng ra là nghiên cứu làm sao có thể nhận sóng tốt nhất ng̣ai trung tâm phát sóng

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 9 of 31: Đă gửi: 21 September 2004 lúc 3:38am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Xét về tổng thể hai phái "h́nh thế" và "lư khí" là không thể tách rời, mặc dù cả hai phái đều xây dựng trên cơ sở lư luận riêng của ḿnh. Phái lư khí so với phái h́nh thế có cơ sở lư luận tương đối hoàn chỉnh hơn. Phái h́nh thế từ rất sớm đă lựa chọn địa h́nh, địa thế và điều kiện môi trường làm điểm xuất phát xây dựng nên hệ thống học thuyết của ḿnh. Phái lư khí xuất phát từ quan hệ của khí, số, lư mong muốn t́m được qui luật và mối liên hệ nào đó giữa con người và "thiên lư" nhằm đạt được sự thông đạt của khí, lư giữa con người và môi trường, từ đó t́m ra môi trường lư tưởng có lợi cho nhân sinh. Nh́n trên tổng thể có thể nói sự truy t́m chiều sâu lư luận của phái lư khí cao hơn phái h́nh thế. Tuy vậy ranh gới giữa chúng là không rơ ràng, hai phái đều có những điểm chung về thực chất đó chính là "khí", "sinh khí" và người xưa cũng đă dần dần nhận rơ điều này xin trích một đoạn sách cổ : "Người không biết về loan đầu không thể nói đến lư khí. Người không biết về lư khí không thể nói đến loan đầu. Người tinh thông loan đầu cuối cùng sẽ tự hợp với lư khí. Người tinh thông lư khí cuối cùng sẽ tự hợp với loan đầu. Loan đầu không chỉ có long, huyệt, sa, thuỷ đó mới chỉ là nội dung sơ lược. Cần phải t́m hiểu rơ về địa thế cao thấp , nguồn nước tụ tán, hướng thế của sa pháp, long khí dầy mỏng, thời khắc hưng vượng …". Điều này càng nói rơ lên rằng h́nh thế và lư khí là một tổng thể, là hai mắt xích không thể tách rời. Câu chuyện này cũng giống câu truyện dài và ly kỳ của khoa học phương tây đưa dến kết luận : " Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt" tức vừa là h́nh (hạt) vừa là khí (sóng)

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 10 of 31: Đă gửi: 22 September 2004 lúc 11:20pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

SỐ : Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (hệ cơ số 2 âm và dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái có thể biểu diễn mọi sự kiện, sự vật từ nhỏ vô cùng đến lớn vô cùng. Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về phạm trù "khí và h́nh" nên đương nhiên không vượt qua sự chi phối của qui luật phổ biến với hệ cơ số 2 do vậy việc áp dụng kinh dịch vào phong thuỷ đă được người xưa chú ư và theo người viết đây chính là phương pháp nhiên cứu phong thuỷ đỉnh cao mà ít người biết tới. Điểm lại sách cổ của phái h́nh thế ta bắt gặp nhiều đến quái, tượng trong việc luận đoán cát hung cho một cuộc đất. Tuy vậy về mặt lư luận vẫn c̣n sơ sài so với phái lư khí đă h́nh thành một hệ thống lư luận áp dụng kinh dịch đến độ tinh vi thể hiên ở ba điểm sau :

Một là : Về mặt phương hướng người xưa đă tiến hành đưa quẻ vào từng phương vị của lục thập thấu địa long, thất thập nhị xuyên sơn hổ và địa nguyên qui tàng quái phân kim sau đó tiến hành đưa quẻ vào đến từng long khí rồi dựa trên hai nguyên tắc "Có động mới có dụng" và "cùng tất biến" để diễn quái kết hợp với mệnh chủ biến theo không gian, thời gian cùng hoạ phúc của họ mà luận cát hung…

Hai là : Về mặt thời gian trên cơ sở của huyền không phi tinh kết hợp với huyền không đại quái đă mang lại đỉnh cao cho huyền không học – Môn môn phong thuỷ bí truyền mới được phổ biến ra dân gian từ đời Thanh

Ba là : Việc ứng dụng của Mai hoa dịch số, Bốc phệ, quẻ Khổng Minh … vào phong thuỷ tạo thêm một cơ sở kiểm chứng cũng phát triển mới đưa phong thuỷ nên một tầm cao mới nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 11 of 31: Đă gửi: 27 September 2004 lúc 11:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

MỆNH (Người viết tự thấy cần đưa vào) : Con người là chủ nhân của quả đất, là tinh hoa của vũ trụ, là linh trưởng của van vật. Tất cả những ǵ mà con người nghiên cứu là nhằm mục đích phục vụ cho chính họ. V́ vậy không nằm ngoài - con người cũng là một đối tượng nghiên cứu chính của phong thuỷ.

Con người từng giờ từng phút đều chịu ảnh hưởng tốt xấu của các nguyên tố, tín hiệu và năng lượng của thiên nhiên bao la là quả đất và vũ trụ. Thêm nữa con người c̣n chịu ảnh hưởng của các tín hiệu,năng lượng… của các thành viên trong gia đ́nh, ḍng họ,banh bè, cộng đồng… nên việc nghiên cứu qui luật ảnh hưởng của những năng lượng, tín hiệu ấy đối với sinh mệnh con người từ đó t́m ra phương pháp cầu lợi bỏ hại, t́m cát bỏ hung là điều tối cần thiết

Theo người viết con người là một sinh mệnh hữu cơ cao cấp nhất do nhiều nguyên tố hoá học cấu thành, bản thân cơ thể con người cùng sinh ra các tín hiệu và năng lượng hữu cơ. Những tín hiệu và năng lượng này phải hiệp đồng, đồng bộ với tín hiệu, năng lượng của thiên nhiên, môi trường mới có thể đạt tới hiệu ứng cùng rung động, con người mới càng phát triển. Nh́n lại phong thuỷ cổ ta thấy người xưa cũng đă tiến hành nghiên cứu mệnh trong phong thuỷ (cung phi, yếu tố phúc đức, tâm linh…) tuy vậy có thể nói là sơ sài hoặc không viết ra hết. Tuy vậy các bạn vẫn có thể t́m ra hướng đi cho ḿnh trong quá tŕnh nghiên cứu phong thuỷ tín hiệu sinh mệnh con người ( mà sau này có thể mở rộng ra cho ḍng họ, dân tộc..) trên cơ của đông y học ( Linh qui bát pháp, thời châm học, ngũ vận lục khí..), Cảm xạ học (Cơ chế của rung động), Mệnh học ( Tửvi, Tử b́nh, Tướng học..), Khí công học, Đạo lăo, Phật học…

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 12 of 31: Đă gửi: 05 October 2004 lúc 12:28am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Tiếp

Trên đây ASVN đă cung cấp cho các bạn một cái nh́n mới về phong thuỷ trên cơ sở các qui luật và nguyên tắc cụ thể, đồng thời cũng đă giới thiệu khái quát với các vị phương pháp tiếp cận nghiên cứu và thực hành của phong thuỷ cổ xưa như một minh chứng cho tính "khoa học" của nó nhưng do thời gian có hạn người viết không thể tiếp tục đi sâu thêm. Trước khi kết thúc phần cơ sở lư luận tôi xin đưa ra một luận điểm tổng quát hơn khi nghiên cứu phong thuỷ trong thế giới hiện đại và theo người viết đây cũng là hướng đi mà phong thuỷ học cần hướng tới đó là nghiên cứu phù hiệu học với hai chủ đề chính :

1- Phù hiệu học vô cơ : Một cuộc đất đẹp long tới phải trường viễn có tống có nghinh, long phải biến từ già sang trẻ ngũ hành luân phiên mới có sinh khí, thuỷ phải uốn lượn đi theo hữu t́nh chồng vợ.Khi kết huyệt phải đúng cách thanh long như đùa dỡn, bạch hổ như phục qú, huyền vũ cao dầy như cúi đàu c̣n chu tuớc như đang nhẩy múa.... vậy thực chất là ǵ?. Cả cuộc đất là một "Phù" vô cơ khổng lồ tích khí của vũ trụ hàng ngh́n, triệu năm. "Phù hiệu học vô cơ" chuyên nghiên cứu qui luật tích tụ năng lượng tốt xấu (khí) của h́nh sông thế núi,kiến trúc nhà cửa đường xá... về mặt thời gian và không gian nói khác đi là phong thuỷ cơ bản

2.Phù hiệu học hữu cơ : Chúng ta thường nghe trận đồ chấn yểm,phù chú, bùa ngải, âm binh phù thuỷ ... tất cả đều liên quan tới trường khí hữu cơ mà đặc tính của chúng có tính điều khiển theo ư niệm và tính tồn trữ. "Phù hiệu học hữu cơ" chuyên nghiên cứu quiluật điều khiển,sinh tồn...của trường năng lượng hữu cơ về mặt thời gian và không gian

Chỉ khi chúng ta nắm được hai khía cạnh trong cùng một vấn đè đă nêu th́ phong thuỷ mới có thể phất triển nên tầm cao của khoa học


ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 13 of 31: Đă gửi: 13 October 2004 lúc 11:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Tiếp

b- Các Chứng Nghiệm Phong Thuỷ :
   
   1- Ba miền quê của các nhân tài đất bắc :

       Người viết xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Tŕ ( Về mặt Phong thuỷ). Hà đông là tỉnh ở bắc bộ do pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là tỉnh cầu Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lư do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhưng có lẽ những người đặt tên tỉnh lấy lư do là tỉnh này là đất văn vật như đất Hà Đông bên Trung Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xă, tỉnh lị ở trên ḍng sông Nhuệ và chín huyện : Chương Mỹ, Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Tŕ, Thường Tín, Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông . Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba V́ và một phần huyện Chương Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hương của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xưa nay :
Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lương Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dương bá Cung , Ngô Đ́nh Chất, Phạm Giao, Ngô Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Như Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều, Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dương Khuê, Dương Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu liêu , Đặng Đ́nh Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang Nhiêu, Lư Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lư Trần Quán, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện, Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lư tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm Tu, Đặc Đ́nh Tướng, Nguyễn Công Thái , Tŕnh Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần , Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thường, Bùi Xương Trạch ,Nguyễn Trăi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lưu nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay c̣n có rất nhiều các nhân vật đang tại chức mà người viết không muốn nêu tên tại đây.
Nói về huyện Thanh Tŕ : huyện thuộc phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trước là châu Thượng Phúc về đời Lư sau là huyện Long Đàm. Đời Lê v́ kị huư tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Tŕ. Huyện bắc giáp quận Hai bà Trưng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn Giang. Nam giáp Thường Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh Đường, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trước có 60 người thi đỗ đại khoa. Đ́nh ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đ́nh trong thờ Chu Văn An, đ́nh Đông Phù Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đ́nh Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đ́nh Quí Đô thờ Tô Hiến Thành, đ́nh Triều Khúc thờ Phùng Hưng. Quê của Lê Đ́nh Diên, Bùi Huy Bích, Chu văn An , Bạch Thái Bưởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, Nguyễn Phương Đỉnh, Nguyễn Như Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lưu Tiệp, Bùi xương Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ, Nguyễn Đ́nh trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lưu nguyên Uân, Cung Đ́nh Vận, Nguyễn Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sư, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đă sinh ra Vua...

Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thưa đó là phong thuỷ hợp cách.


ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 14 of 31: Đă gửi: 17 October 2004 lúc 11:59pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Trước khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng đất thứ hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn.

Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lư), huyện Tiên Du, huyện Vơ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia B́nh, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, th́ gặp sông Đuống với sông Thương. Vùng Lạng Giang th́ núi non hiểm trở, c̣n vùng Bắc Ninh th́ ruộng đồng bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử như : núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất của cả nước, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lư, Nguyễn Quan Quang trạng nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê hương của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lănh Điềm, Hai Tước, Đốc Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lănh Giới, Lănh Giám , Lănh Thiết, Cai B́nh, Cai Biên, Đề hoàng, Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự Cường, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cư Đạo, Nguyễn Tư Giản, Trương hát, Trương Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sư Huyền Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm, Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quưnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dương Trọng Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh, Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tư, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lư Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh …
Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng, trước là châu Cổ Lăm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lư đổi là phủ Thiên Đức, tên Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 người đỗ đại khoa đến hết triều Lê và 174 người hết triều Nguyễn). Quê hương của rất nhiều nhân sĩ như Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cường, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tư Giản, Quách Giai, Nguyễn Công Hăng, Nguyễn Đ́nh Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phương, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lư Công Uẩn, Vạn thế Thiền Sư…đây cũng là đất phát chín đời vua lư đặt dấu ấn cho thời kỳ hưng vượng của đất Việt

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 15 of 31: Đă gửi: 18 October 2004 lúc 9:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Miền quê thứ ba mà người viết muốn đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dương mà trung tâm là huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.

Hải Dương là tỉnh ở bắc bộ, xưa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên c̣n gọi là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dương). Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương, Vua tương Dực đổi là trấn Hải Dương. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái B́nh thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải Dương v́ là quê hương của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn Hải Dương trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương gồm phủ Thượng Hồng sau đổi là Phủ B́nh Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Hải Dương, trừ huyện Đông Triều có dẫy Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao mấy c̣n ra toàn đồng bằng được tưới tiêu bằng các sông Thái B́nh chảy qua giữa tỉnh và các chi lưu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái B́nh. Tỉnh Hải Dương là tỉnh giầu có về sản xuất lương thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có nhiều người thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hương của nhiều nhânvật lịch sử : Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bưởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lư Tử Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên Đán, Vũ Phương Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhă Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đ́nh Hổ, Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân, Phạm chí Hương ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự Lượng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sư Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ Quang, Phạm quỳnh, Vơ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quư Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển Tích, Đốc Tít, Nhữ Đ́nh Toản, Vũ Như Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái Thuận, Trần Đ́nh Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quư Thích, Đoàn Thượng, Phạm Đ́nh Trạc, Phạm Đ́nh Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đă phát bá nghiệp cho nhà Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây.
Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái B́nh, Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trước, có 165 người đỗ đại khoa, nhiều nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 người là huyện đỗ đật cao nh́ nước sau huyện Đông Ngàn 130 người.

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 16 of 31: Đă gửi: 19 October 2004 lúc 3:41am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Trên đây là ba miền quê mà người viết muốn cùng các bạn phân tích v́ chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất đặc trưng không vùng nào giống vùng nào . Từ xưa đến nay các phong thuỷ sư thực thụ đều phải bắt đầu từ đại cục - nh́n đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nước trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, nó gắn liền với sự hưng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới trung cục để định rơ sự thịnh vượng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nh́n nó mà thấu hiểu vận mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con người, nói th́ tác bạch như vậy nhưng luận th́ chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính v́ lư do như vậy mà khi luận long kết huyệt ta phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nước. "Trung tụ thích hợp cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho tạo làng đặt xóm hay dương cơ và âm phần.
Nh́n tổng thể h́nh sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải tại mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó), vận mệnh của quốc gia phần nhiều được quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông , Bắc Ninh và Hải Dương là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh tŕ, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên c̣n nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy được sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lượt tiến hành phân tích h́nh sông thế núi của ba khu vực này :

Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Tŕ toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lưng dựa núi mặt hướng thuỷ là nơi long đ́nh khí chỉ của một một long mạch tới từ Trung Quốc. Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung b́nh chạy theo hướng tây bắc đông nam ( kẹp bởi hai đại giang là Đà giang và Mă Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân Nam Trung Quốc hướng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với các dăy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà B́nh Trung cán long này thúc yết rồi phân ra làm ba nhánh
Tả chi tạo thành tay long quay ngược lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dăy Ba v́ hùng vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản Viên có h́nh thắt cổ bồng, trên toả ra như cái tán ( long mạch đại quí cách).
Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bưởi. Chi ngoài cùng c̣n rất hùng hậu đột khởi nên dăy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mă và sông Bưởi. Chi giữa long đi trường viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con song Bưởi và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hương nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của hai con song Bồi và Đáy.
Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua song đáy thoát hết sát khí hướng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Tŕ. Tại nơi kết thúc này hàng loạt các g̣ đống đột khởi như một hệ thống mà phía trước là một loạt các đầm nước tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Tŕ với sông Hồng là rốn nước của thành phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục". Tới đây chắc các bạn đă rơ v́ sao nơi này chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi.


ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 17 of 31: Đă gửi: 19 October 2004 lúc 3:52am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Tỉnh Bắc Ninh tương tự như tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nước biển , lưng dựa núi mặt nh́n núi xa xa về phía đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nước Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi long này trẻ hoá. Trên đường đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra chạy theo hướng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa hai song Thao và Cầu) chuyển hướng đông nam đột khởi lên dăy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên liền nhau gần Thác Bạc, như ba ḥn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tương ứng 1250m, 1420m, 1591m . Dăy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam khởi núi Sóc Sơn trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dư khí c̣n tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dăy núi chay theo hướng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đường trước mặt. Thế của long gia th́ thật là kém xa so với Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có nhiều các chi long khác chầu về như cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng th́ sinh khí chầu tụ xem ra lại nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông.
Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng ph́ nhiêu lưng dựa vào dăy Tam Đảo có h́nh "thương khố", phía trước hướng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dăy núi Tiên Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nước trong phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Người viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trước địa huỵêt không có thuỷ lưu, không t́m thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn lấp minh đường là đại quí địa nếu hành long có h́nh thương khố". Đến đây th́ chắc ai cũng hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều người đơ đạt cao đến như vậy, thêm nữa v́ hành long có h́nh "thương khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn nói là cả nước có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Người viết đă có dịp ghé thăm Đền Đô thời tám vị vua nhà Lư ( vua thứ chín được thờ tại nơi khác) được nghe câu truyện ḍng họ Lư được ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ già c̣n thuật lại xưa kia khi cụ c̣n bé khi trời mua to quả là có nhiều ḍng nước chầu về một khu đất) mà phát ra chín đời vua Lư lưu danh sử sách , ngẫm th́ cũng không sai v́ trung cục đại quí cách c̣n thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp.

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 18 of 31: Đă gửi: 05 November 2004 lúc 2:10am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN

Tiếp

Tỉnh Hải Dương toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính : S. Thái B́nh, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh c̣n có các sông như : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hương, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lượn hữu t́nh. Tỉnh có hai trung tụ là Nam Sách và B́nh Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng

Xét về sơn, địa mạch của Hải Dương là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang

Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vượng khí lớn cho cả vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tượng

1.     Lục đầu mang tượng âm v́ lục tượng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tượng dương v́ cửu là dương, tản ra ở miền nam nơi dương sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm dương hợp khắc của nước Việt ( tượng này nói lên rất nhiều điều …)
2.     Âm lục, dương cửu, đầu dương , đuôi âm nên thấy rơ nguyên lư của vũ trụ trong âm có dương , trong dương có âm.
3.     Lục Đầu Giang nếu nh́n qua th́ thực chất chỉ có 4 ḍng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S. Thương, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) c̣n hai sông là S. Thái B́nh và S. Kinh Thầy là hai ḍng thuỷ khứ. Như vậy sao gọi là Lục Đầu được ? Tuy vậy trong lịch sử có hai lần triều cường qua cửa Thái B́nh và Bạch Đằng làm đổi ḍng của hai con sông này tạo ra những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 ḍng nước đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó là địa tượng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là hai vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ thống này là Ngô Quyền và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn

Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dương được bao bọc bởi hai con sông Thái B́nh và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là hoành thuỷ cục ( thuỷ thành uốn lượn bao bọc). Phần lớn vượng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vược này tạo ra hàng ngh́n g̣ đống lớn nhỏ đột khởi như một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xưa đến nay nhân tài sinh ra măi không hết.

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 19 of 31: Đă gửi: 30 November 2004 lúc 9:38pm | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Kính chào toàn thể các anh chị em trong diễn đàn.Thời gian qua cũng như sắp tới tôi sẽ khó tiếp tục bài viết của ḿnh do không có thời gian, do vậy mong anh em lượng thứ. Tôi sẽ quay lại viết tiếp trong một thời gian thích hợp. Nhân đây tôi cũng gửi lại toàn bộ bài viết đă có chỉnh sửa và thêm nhiều phần giải thích cho dễ hiểu hơn

Kính chúc ban quản trị cùng toàn thể anh em sức khoẻ, tiếp bộ trên con đường nghiên cứu học thuật

ASVN

BƯỚC ĐẦU LÀM QUEN VỚI PHONG THUỶ


Người Viết : ...
Dưới bút danh ASVN

Tặng các bạn yêu thích môn phong thuỷ

Nhân thấy có nhiều bạn muốn học phong thuỷ nên tôi xin có mấy ư kiến như sau :

Tôi thấy trên các diễn đàn phong thuỷ cũng như ngoài đời mỗi người một lư. Mỗi người đều mang một trường phái ḿnh học ra coi nó là độc tôn rồi chê bai phái khác là bàng môn ngoại đạo, điều này vô cùng tai hại cho hậu học. Họ chẳng biết phải theo ai học ai, vô h́nh chung đă làm cho môn phong thuỷ càng trở nên huyền bí hoặc làm cho nhiều người thấy nghi hoặc không đủ tin tưởng vào môn này.

Tôi viết bài này nhằm hai mục đích, một là muốn khẳng định phong thuỷ là một môn khoa học đă được chứng nghiệm từ hàng ngh́n năm, hai là dùng chút kiến thức ít ỏi của tôi cung cấp một trong hàng ngh́n cách tiếp cận môn phong thuỷ qua sách vở, ngơ hầu có thể giúp các bạn yêu thích môn này đi sâu nghiên cứu

PHẦN MỘT : Phong Thuỷ là một môn khoa học gồm ba phần

    - Cơ sở lư luận
    - Các chứng nghiệm
    - Tại sao lại có người nghi hoặc môn phong thuỷ

a- Cơ sở lư luận :

Từ hàng ngh́n năm nay triết học phương đông, triết học cổ đại, triết học phương tây và cả triết học của chủ nghĩa cộng sản ... cũng đều khẳng định rằng vạn vật đều h́nh thành và phát triển do sự tồn tại của hai mặt "đối lập" hay nói khác đi là "âm và dương". Tuy vậy duy chỉ có triết học phương đông hiểu rơ vật là ǵ , coi nó như một "vũ trụ" vận hành theo qui luật của tự nhiên và qui nó về một hệ cơ sở là "ngũ hành"

Bài viết của tôi về "cơ sở lư luận" để viết đầy đủ sẽ rất dài không những thế bản thân tôi thấy không cần thiết v́ rất nhiều khái niệm cơ bản các bạn có thể tham khảo trong các tác phẩm "Kinh Dịch", "Địa Lư Tả Ao", "Địa Lư Toàn Thư"," Ứng dụng trường khí trong đời sống và kiến trúc"… cũng như các bài viết của các vị khác về "khí công", "Thiền", "Bùa chú" ....trong mục khoa học huyền bí của diễn đàn lysodongphuong.com do vậy tôi sẽ chỉ đề cập các vấn đề mấu chốt. Với tinh thần như vậy tôi xin tiếp tục

Nói là hệ cơ sở v́ nh́n chung trên trái đất này có thể qui vạn vật vể năm hành "kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ" cũng giống như trong thương mại quốc tế người ta qui mọi đồng tiền của các nước về hệ cơ sở là đông đô la Mỹ vậy. Xét đến đối tượng nghiên cứu cũng như các vấn đề cần giải quyết của khoa hoc phương đông mà cụ thể là môn phong thuỷ th́ với hệ cơ sở nay là đủ.

Bản thân "vật" là một thực thể tồn tại khách quan, hoàn toàn không phụ thuộc vào việc con người có nhận biết được nó hay không v́ "vật" tồn tại ở hai dạng "h́nh và khí". "vật" cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ" nên khí cũng tồn tại ở hai dạng "hữu cơ và vô cơ", đây chính là vấn đề mấu chốt của địa lư phong thuỷ.

Từ xa xưa cũng như ngày nay các khí công sư, các bậc chân tu...có thể nh́n thấy khí (trường năng lượng), hơn nữa là với mọi màu sắc khác nhau, xem khí của người để đoán mệnh, bệnh, nh́n khí của hiện trường để phá án . Các bạn chớ có kinh ngạc v́ đó là nguyên lư "Có h́nh tất có khí" và "đă có khí rồi th́ có h́nh". Các bậc cao nhân xưa đă nắm được đặc điểm khí có h́nh mà phát minh ra phép "Vọng Khí" dùng để lựa chọn một cách tốt nhất trường khí của môi trường, chọn nơi tốt nhất để ở hoặc táng người thân.

Bây giờ chúng ta hăy tưởng tượng trong cả vũ trụ này "khí" tồn tại ở khắp mọi nơi nó chính là "hạt" cơ bản cấu tạo nên vũ trụ. Bước tiếp theo ta xét đến trái đất "khí" tồn tại trong bầu khí quyển, "khí" tới từ vũ trụ xa xôi. Bản thân khí cũng chỉ là "vật" do vậy nó bao gồm khí âm và khí dương mà ta có thể qui về hệ cơ sở "Thất sắc cửu khí" :

- Khí nhất bạch tham lang ngũ hành mộc sắc xanh
- Khí nhị hắc cự môn ngũ hành thổ sắc vàng
- khí tam bích lộc tồn ngũ hành thuộc thổ sắc vàng
- khí tứ lục văn khúc ngũ hành thuộc mộc sắc xanh
- khí ngũ hoàng liêm trinh ngũ hành thuộc thổ sắc vàng
- khí lục bạch vũ khúc ngũ hành thuộc kim sắc trắng
- khí thất xích phá quân ngũ hành thuộc kim sắc trắng
- khí bát bạch tả phụ ngũ hành thuộc thổ sắc vàng
- khí cửu tử hữu bật ngũ hành thuộc hoả sắc đỏ

Theo qui luật "có h́nh tất có khí" khí mang tính âm sẽ bị hấp thụ bởi các đỉnh núi cao rồi "thẩm thấu" theo các mạch núi, đất mà sau này ta gọi là "long"...

Cũng theo qui luật "có khí tất có h́nh" mà các long này sẽ dần biến đổi h́nh dạng cho phù hợp với "khí" ở trong nó chính v́ thế mà các cao nhân xưa mới đưa ra các khái niệm "ngũ tinh ,cửu tinh, cửu diệu..." trong phong thuỷ khi xét về h́nh thế. Như vậy khái niệm "khí" là mấu chốt của phong thuỷ xem ra là chưa đủ mà c̣n phải xét đến h́nh v́ cả h́nh lẫn khí mới là hai mặt của một vấn đề (nhất âm nhất dương chi vị đạo)

Một vấn đề nữa phải chú ư là tính chất của "khí", khí bị nước hấp thụ hay nói khác đi "khí" gặp nước th́ dừng. Như người viết đă đề cập một lần trong diễn đàn lysodongphuong.com "khí" là dương th́ "h́nh" là âm. Bản thân h́nh gồm núi (long) và nước th́ núi là âm mà nước là dương (phù hợp qui luật trong âm có dương trong dương có âm) do vậy phong thuỷ địa đạo luôn luôn phải nhớ câu "sơn thuỷ hữu t́nh"

Theo qui luật "cô âm bất sinh độc dương bất phát" th́ chỉ khi có đủ âm dương th́ mới động dục mà sinh sản nên những nơi "sơn hoàn thuỷ băo" th́ nhiều khả năng có địa "kết", nói nhiều khả năng v́ vẫn chưa đủ điều kiện. Tại sao vậy? v́ như đă nói ở trên "khí" mang tính âm thẩm thấu qua "long" đi măi cho đến nơi kết sẽ đột (âm) khởi hoặc b́nh (dương) oa kết huyệt với rất nhiều các ứng "tinh". Các ứng "tinh" này sẽ tạo ra một vùng ḷng chảo có vai tṛ "ăng ten" thu các khí mang tính dương trên không trung tụ lại trong thuỷ . Kết quả âm dương thiên địa giao hoà mà kết huỵêt. Các cao nhân xưa quả thật vô cùng thâm sâu khi đưa ra nhận định "chứng ứng" ứng với thiên tinh trên trời khiến cho nhiều hậu học không đủ cơ duyên chẳng biết đâu mà lần....

Song song với quá tŕnh trên "khí" mang tính dương cũng thẩm thấu vào nước và ánh sáng tạo thành các ḍng sông con suối đi sát bên "long" như vợ với chồng tới nơi long đ́nh khí chỉ,"địa hộ" đóng lại, âm trữ dương tồn th́ tạo ra địa "kết" , song thể kết có khác nhau ở chỗ "nhũ ,đột" và "oa, kiềm". Theo qui luật " dương hấp âm hô" th́ khí âm sẽ kết kiểu "oa, kiềm" c̣n khí dương th́ kết kiểu "nhũ, đột" , đó là nói về sự "kết" ở vùng sơn cốc. C̣n về hai khái niệm sơn cốc và b́nh điền th́ theo qui luật " Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng" th́ sơn cốc núi cao nên gọi là lăo âm, thung lũng bằng phẳng ở đây gọi là thiếu dương tương tự như vậy b́nh điền cả một bằng phẳng không biến đổi nên gọi là lăo dương, các g̣ đồi đột khởi tại đây gọi là thiếu âm. Nơi sơn cốc âm khí th́ thu lại c̣n nơi b́nh điền khoáng dă dương khí th́ tản ra do vậy huyệt kết nơi sơn cốc cần rộng răi c̣n nơi b́nh điền th́ lại cần thu lại không ngoài nguyên lư của trời đất là "lấy cái thừa bù cái thiếu"

Với cơ chế tương tự khí dương theo nước mưa, ánh sáng… thẩm thấu xuống đất bằng cả một vùng b́nh nguyên đồng bằng rộng lớn (lăo dương). Long mạch ở b́nh nguyên dẫn khí dương đi , những nơi khởi cao hơn dù là chút ít (cao nhất thốn vi sơn, đê nhất thốn vi thuỷ) là dấu tích của long đó v́ có dấu hiệu của âm dương giao hoà sinh khí, đến khi khởi lên một loạt tinh phong quần tụ cũng là lúc thuỷ đổ dồn về th́ có kết tác v́ thuỷ tích khí dương c̣n các tinh phong (ứng tinh) đột khởi nơi b́nh địa thu khí âm thật là một nơi "thiên tạo địa thiết" dành cho người có đủ cơ duyên.

"Dương thăng âm giáng" phu gặp phụ kết thúc một chu tŕnh của sự vân động của thiên và địa.

Xét việc trong vũ trụ này ngoài "thiên địa" c̣n phải xét đến "nhân" v́ thiên địa nhân là hợp nhất. Như đă đề cập ở trên con người là "vật" là tiểu vũ trụ do vậy con người có h́nh có khí chỉ có khác là khí của con người có tính "hữu cơ", có nguồn gốc từ tế bào, axit amin, albumin,nhân tế bào và đặc biệt là có nguồn gốc từ axit deoxiribonucleic tức là mật mà di truyền ADN. Chính v́ thế phong thuỷ không chỉ đề cập đến khí của một cá nhân mà c̣n nói đến khí của cả một ḍng họ và cao nữa là khí của cả một dân tộc. Ta sẽ xem xét một chút về trường nhân khí, trường nhân khí có hai loại "dương và âm" đàn ông thuộc dương c̣n đàn bà thuộc âm, dù là âm hay dương th́ trường nhân khí cũng có thể qui về tập hợp của cửu khí và năm ngũ hành v́ thế trong đông y người ta có thể chia các bộ phận ra âm dương và ngũ hành . Cửu khí trong cơ thể vận hành theo các kinh mạch. Bản thân các kinh mạch lại chia ra thành âm dương , chính phụ và giao của các kinh mạch chính là nơi âm dương giao hoà hay c̣n gọi là huyệt đạo. Huyệt đạo cũng chia ra âm dương chính phụ nó là nơi tiếp nhận tín hiệu của môi trường (người viết có biết một số vị luyện cảm xạ một thời gian các huyệt đạo được khai mở, khi đến các khu vực có trường khí xấu ,huyệt " trường cường" của họ có cảm giác đau nhói). Các cao nhân xưa qua quá tŕnh khổ luyện khi đă đả thông các kinh lạc, huyệt (mở các Luân Xa) th́ có thể cảm nhận được khí.

Xương sống của "trường khí ḍng họ" cũng chính là mật mă di truyền của ḍng họ đó.

Đặc điểm của "trường khí hữu cơ" ngoài các đặc điểm có tính chất sóng, hạt, năng lượng và định hướng c̣n có hai đặc điểm rất rơ nét một là tính có thể khống chế, tức là chịu ư niệm khống chế, đặc điểm này có thể nh́n thấy được trong các thí nghiệm đo đạc trường năng lượng nhân thể, trạng thái tinh thần có thể ảnh hưởng đến độ mạnh yếu của của trường nhân thể. Hai là mức độ "thanh" hay "trọc" của "trường nhân khí" là phụ thuộc vào bản tính "thiện" hay "ác" , tham sân si của cá nhân người có trường khí đó và cũng từ dó có ảnh hưởng đến trường khí của ḍng họ mà anh ta được sinh ra . Theo kinh nghiệm quan sát nhiều năm của người viết các vị chân tu đă từ bỏ được tham sân si thường trông rất phúc hậu, sắc khí tươi nhuận, rất dễ gần và đặc biệt trường khí của họ rất lớn có thể cải tạo được khí xấu của nơi mà họ sinh sống. Các ḍng họ lớn có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xă hội thường thế lực, trường tồn và sản sinh ra những nhân tài xuất chúng.

Đến đây người viết đă dần dần hé mở hai trung tâm năng lượng , một là "huyệt" theo khái niệm phong thuỷ là nơi thiên gặp địa, âm và dương của vũ trụ giao hoà. Hai là trung tâm nhân thể chính là con người tạo vật bậc cao của vũ trụ. Hai trung tâm này có một đặc điểm quan trọng là vừa thu vừa phát "sóng" năng lượng (khí). Điều này là hoàn toàn có cơ sở v́ bản thân con người có thể hút "chân khí" của người khác, khí của tự nhiên và cũng có thể cho người khác "chân khí" của ḿnh, đây là việc có thực người viết xin được miễn giải thích thêm ( tham khảo các đề tài về khí công , thiền).Trung tâm thứ hai (Huyệt) cũng hoạt động với cơ chế như vậy "thu và phát". Người viết và một số đồng đạo đă nghiên cứu và thực nghiệm trên một số cuộc đất phát hiện ra rằng có những nơi sau khi khảo sát cảm thấy vô cùng mệt mỏi, "chân khí" bị mất đi. Nhưng cũng có nhiều nơi đến đây cảm giác rất dễ chịu, sảng khoái thậm chí khi đi mà bị ốm khi về đă khỏi bệnh. Xin đừng ngạc nhiên có vùng quê (Sơn Tây) có cuộc đất vô cùng tốt hễ có ai ( không phải là tất cả) ốm qua loa đến đây "thắp hương" khi về đă khỏi bệnh nên dân trong vùng gọi đó là " mô thần y ". Giải thích sự việc này là v́ trong cơ thể con người sự cân bằng âm dương là tối quan trọng, mọi sự mất cân bằng đều dẫn đến bệnh tật và việc chữa bệnh thực chất là làm cho âm dương cân bằng. Trong tự nhiên có sự tồn tại những nơi mà trường khí của nó kích thích các kinh mạch của con người trợ giúp nó thông xuốt dẫn đến sự cân bằng về mặt năng lượng do vậy mà nó không chỉ giúp một số người khỏi bệnh mà c̣n giúp các bậc chân tu nhanh chóng đả thông hai ṿng tiểu , đại chu thiên hay nói khác đi là khai mở các "luân xa" một các dễ dàng.

Bây giờ chúng ta sẽ xem xét đến cơ chế của sự kết phát. Theo người viết cơ chế của sự kết phát có hai giai đoạn

Giai đoạn 1 : Người viết gọi giai đoạn này là giai đoạn hấp thụ trực tiếp, xẩy ra khi bản thân con người (trường nhân thể) hấp thụ được khí tốt của môi trường "huyệt".Trung tâm "huyệt" đóng vai tṛ như một "máy phát sóng truyền h́nh" và trường nhân thể đóng vai tṛ của "máy thu h́nh". Trường nhân thể nào có cùng tần số lập tức bắt được sóng năng lượng của trung tâm huyệt một cách trực tiếp, như vậy càng ở gần trung tâm huyệt sóng bắt được càng rơ nét và tương ứng mức độ kết phát càng lớn và càng dễ kết phát. Qua đây chúng ta có thể thấy rằng không phải ai cũng có thể nhận được năng lượng này thậm chí là ở ngay trung tâm phát sóng. Thêm nữa thường trung tâm phát sóng càng "tốt" năng lượng sóng càng "thanh" do vậy trường nhân thể cũng phải "thanh" mới có thể nhận được sóng tốt, điều này giải thích câu "tiên tích đức hậu tầm long" cũng như qui luật nhân quả một cách rơ ràng

Giai đoạn 2 : người viết gọi là giai đoạn gián tiếp hấp thụ
Đối với người sống sau khi nhận được năng lượng sóng từ các trung tâm năng lượng truyền đến sau khi hấp thụ một phần bản thân sẽ trở thành một trạm phát chuyển tiếp để truyền năng lượng đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống khác trên cơ sở mật mă di truyền (đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu) . Dĩ nhiên là các trường nhân thể càng "non trẻ" càng dễ dàng hấp thụ năng lượng
Đối với người đă chết xương, tóc.... là những thứ tồn tại ở dạng h́nh trong một thời gian dài sẽ là các trung tâm tiếp nhận sóng và phát tiếp đến các trường nhân thể có quan hệ huyết thống cũng trên cơ sở mật mă di truyền. Con cháu của người trong mộ tự nhiên sẽ hấp thụ khí tốt này mà trở nên"thanh, phú ,quí" mà dân gian gọi là mộ "phát"

Với cơ chế như vậy ta có rút ra hai nhận xét quan trọng sau :

1- Không nhất thiết phải đặt nhà,sống, táng ... tại trung tâm huyệt mới có sự kết phát ( tất nhiên thực tế lại có khác không tiện giải thích). Tuy vậy nếu đặt đúng huyệt sự kết phát sẽ dễ dàng và lớn hơn rất nhiều.Thêm nữa sự tiếp nhận sóng có giới hạn về không gian điều này giải thích tại sao có nhiều người sống tai quê hương rất vất vả nhưng khi đi xa ( Mỹ) lại học hành thành đạt, trở nên giàu có đó là v́ không chịu sự tác động xấu của trường khí ḍng họ ở quê lại hấp thụ được vượng khí tại nơi ở mới

2- Không phải ai, ḍng họ nào cũng đều kết phát thậm chí là đăt nhà, mộ tại huyệt mà chỉ có sự ứng hợp mới đẫn đến kết phát, cụ thể là huyệt tốt sẽ t́m nhừng trường nhân thể tốt của một cá nhân, ḍng họ mà cho năng lượng

Khoa học hiện đại ngày nay khi nghiên cưú các vấn đề thực tiễn thường dùng phương pháp mô h́nh hoá, đơn giản hoá sau đó phát triển dần cho gần với mô h́nh thực tế rồi đem ra áp dụng. Các bài viết về phong thuỷ cũng vậy, người viết thực ra từ đầu đến giờ đă đưa ra một mô h́nh đơn giản để dễ dàng cho việc nghiên cứu c̣n trong thực tế mô h́nh phong thuỷ c̣n phức tạp hơn gấp bội phần. Sự phức tạp của nó thể hiện ở các điểm sau :

Một là "trường nhân thể" không đơn thuần chỉ là một trung tâm thu và phát năng lựơng sóng mà nó là một "trường hữu cơ" với đầy đủ các tính chất phức tạp của nó ( có sự sinh trưởng và phát triển, có ư niệm) mà người viết không dám và cũng không đủ hiểu biết để có thể tŕnh bày ở trên diễn đàn này, hy vọng rằng một ngày nào đó, một ai đó có đủ "cơ duyên" để làm việc này

Hai là sự vận động của vũ trụ là không ngừng "không ai có thể tắm hai lần trên một ḍng sông" do vậy các "trung tâm năng lượng" là biến đổi không ngừng lúc mạnh, lúc yếu, lúc cát, lúc hung.... do vậy phong thuỷ mới có khái niệm "vận" và "mở huyệt, đóng huyệt" điều này cũng tương đồng với học thuyết " Linh qui bát pháp, tư ngọ lưu chú" trong đông y khi nghiên cứu con người

Ba là sự kết hợp của hai "trung tâm năng lượng huyệt và trường nhân thể" là một cơ chế phức tạp không đơn thuần như đă mô tả ở trên v́ nó c̣n chịu sự tác động của rất rất nhiều trường khí hữu cơ khác mà một tong số đó người xưa gọi là "long thần hộ vệ"…

Bốn là có tồn tại một cơ chế điều khiển của các trung tâm năng lượng do vậy mà các môn chấn yểm bùa ngải … ra đời

Năm là các trung tâm năng lượng có trung tâm "sống" và các trung tâm "chết" . Sống th́ tự sinh có thể dùng lâu dài mà không hết c̣n chết th́ chỉ dùng trong khoảng thời gian ngắn là cạn kiệt

Sáu là khí là không thuần khiết một hành mà có thể vừa mang tính mộc vừa mang t́nh thổ...v́ thế thực tế phong thuỷ càng khó hơn nhiều so với lư thuyết.

Đồng ư như vậy rồi, một câu hỏi được đặt ra là với mô h́nh trên, cách tiếp cận của phong thuỷ có khoa học không? Xin thưa là hoàn toàn khoa học v́ nó có cơ sở là qui luật, thực nghiệm và chứng nghiệm. Trước khi phân tích tiếp tính khoa học của nó người viết xin nhắc lại một "tiên đề" vô cùng cũ kỹ đó là "hà đồ" và "lạc thư" với hai cơ số thông suốt cả quá tŕnh nghiên cứu của học thuật phương đông là cơ số 2 và 3. Ngày nay hầu như ai cũng biết có hai khái niệm là qui luật phổ biến và qui luật xă hội trong đó qui luật phổ biến bao trùm qui luật xă hội, nó tồn tại và vận động khách quan chi phối vạn vật trong vũ trụ không có giới hạn này. Khi xuất hiện con người th́ h́nh thành các qui luật xă hội, nó chi phối con người trong khuôn khổ củ vũ trụ quan (Qui luật phổ biến). Quay lại với hà đồ và lạc thư, Hà đồ lấy cơ số 2 là cơ sở đại diện cho âm và dương (nhị nguyên)chi phối mọi hoạt động của vũ trụ. Lạc thư lấy cơ số 3 là cơ sở đại diện cho thiên ,địa, nhân (tam tài) chi phối mọi hoạt động của con người trong vũ trụ v́ thế người xưa cho rằng hà đồ ứng vói thiên tiên là thể (là viên gạch), lạc thư ứng với hậu thiên là dụng ( là nhà, là trường học..) do vậy cơ số 3 được dùng là cơ sở cho mọi nghiên cứu về phong thuỷ nói riêng và các môn học phương đông nói chung (VD : cửu cung hay can vi thiên, chi vi địa, âm vi nhân ..). Nói như vậy không có nghĩa chúng ta loại bỏ cơ số 2 mà trong quá tŕnh nghiên cứu chúng vẫn không thể tách dời nhau.

Với hai tiên đề có tính phổ quát trên người xưa cho rằng : xem và nghiên cứu phong thuỷ phải trên cơ sở :

   H̀NH LƯ KHÍ SỐ MỆNH

Người viết sẽ lần lượt đi qua các cấu phần của H̀NH- LƯ KHÍ-SỐ-MỆNH

H̀NH : Phái h́nh thế ra đời từ rất lâu tại Trung Quốc mà người đại diện là Dương Quân Tùng với luận thuyết nổi tiếng "âm dương thư hùng". Người viết xin trích một đoạn trong sách của ông " Thư (giống cái ) là âm, Hùng ( giống đực ) là dương có hai khí . Nói về thư hùng cũng giống như vợ chồng vậy, vợ chồng giao hợp th́ sinh ra con cái. Thư hùng giao hợp th́ sinh ra vạn vật, đó là đại cơ – cơ hội lớn hoá sinh của trời đất. v́ vậy trước tiên phải xem thư hung của long gia". Qua đây ta có thể rút ra cơ sở của phái h́nh thế chính là "dương hoá khí âm tạo h́nh","nh́n h́nh đoán khí". H́nh và khí như bóng với h́nh như vợ với chồng quấn quít bên nhau không rời đan xen chia xẻ động dục mà sinh con đẻ cái.
Phái h́nh thế đă xây dựng được một khối lượng lớn các luận thuyết tương đối hệ thống đồng thời đưa các quan niệm "tôn tộc ", "thiên phụ, địa mẫu" và h́nh tượng người phụ nữ. Họ coi quả đất là mẹ của muôn vật và h́nh tượng hoá khu vưc kết huyệt bằng h́nh tượng của người phụ nữ ( huyệt ví như nơi sinh sản của phụ nữ): " Núi non vạn dặm, nơi nào cũng có tổ tông, nếu gặp cha mẹ dực dục,thai tức sau đó h́nh thành. Nhận h́nh lấy huyệt, biết rơ nơi cha sinh thành, nơi mẹ dưỡng dục.Thiên môn tất phải mở ra sơn thuỷ sẽ đến. Địa hộ tất phải đóng lại sơn thuỷ sẽ về.Thiên môn là nơi nước đến, địa hộ là nơi nước đi. Huyệt ở nơi đó, không ở nơi khác. Trong chỗ nhô lên vẫn có hang hốc, ở nơi cao có thấp,trong hang hốc vẫn có chỗ nhô cao, trong chỗ thấp vẫn có chỗ cao…Đạo lư của thiên hạ, âm dương ngũ hành không thoát ra ngoài một cái ṿng. Ṿng này là huyệt của sinh tử. Giữa trời đất có ṿng nhỏ, ṿng lớn, hiểu được ṿng này đâu đâu cũng là ṿng. Trời đất xoay chuyển, ai hiểu được trăm ngàn điều lư thú trong ṿng này là tiên giữa trần gian….. Ṿng này là ṿng thiên ṿng địa, tṛn cùng không tṛn, vuông cũng không vuông, dẹt cũng không dẹt, dài cũng không dài, ngắn cũng không ngắn, rộng cũng không rộng, nhọn cũng không nhọn, trọc cũng không trọc, trong ư thức con người như có như không đó là ṿng tự nhiên. Âm dương đứng ở trong đó, ngũ hành sinh ra ở trong đó. Trong ṿng hơi lơm xuống như nước mà không phải nước. Ngoài ṿng hơi nhô nên như cát mà không phải cát.."
Để có thể nghiên cứu sâu và chi tiết phái h́nh thế đưa vô vàn khái niệm như Long, thuỷ, huyệt, án, sa, thanh long , bạch hổ, huyền vũ, chu tước, thai tức, thiềm ,cầu , hà tu , hợp khâm, , ỷ chi, sứ huyệt tất , thiên tâm thập tự…. Từ đó lại phân loại nhiều loại long , thuỷ…. Ôi! Vô cùng công phu và phức tạp nhưng nguyên lư xét cho cùng không ngoài đưa chúng về hai hệ cơ sở âm dương ngũ hành và hệ cửu tinh như đă đề cập để dễ bề nghiên cứu. Tuy vậy cũng không quên nhắc nhở hậu học rằng thực tế th́ vô cùng phức tạp h́nh thù là muôn h́nh vạn trạng (V́ khí không phải là thuần nhất), nên khi nghiên cứu khảo sát thần lực phải tinh tường chớ có nhầm lẫn. Người viết và các đồng đạo khác đă bỏ ra rất nhiều công sức để đi t́m cũng như xem lại các cuộc đất trứ danh phải thừa nhận rằng thực tế khác xa với sách vở nó đ̣i hỏi một sự nhậy bén trong tâm trí một thần lực tinh tường và quan trọng là chữ " ngộ" của đạo. Có lẽ v́ vậy mà học địa lư bị ngừơi ta cho là khó chăng? Nhưng có đủ "căn, duyên và nghiệp" th́ chắc chắn sẽ không phụ ḷng người.

Xét cho cùng mục đích của phái h́nh thế là t́m ra ngũ quyết địa lư bao gồm Long , huyệt, sa, thuỷ, hướng tức là nghiên cứu địa khí của khu vực cần phải khảo sát hay nói rộng ra là đi t́m trung tâm "phát sóng" trong tự nhiên

LƯ KHÍ : Người đại diện là Lại Văn Tuấn hay c̣n gọi là Lại Bố Y thầy của Lưu Cơ (Đại Quân Sư của Chu Nguyên Chương thái tổ nhà Minh), trái với phái h́nh thế nhấn mạnh "Khí hành tuỳ theo thế đất", phái lư khí cho rằng vạn vật, thiên địa đều do khí sinh ra " tất cả mọi vật đều là khí", "núi sông thuỷ thổ đều có chứa khí là đại trạch của tạo hoá v́ vậy khí lưu hành đầy trong vũ trụ. Thiên địa vạn vật đều là một thể". Vạn vật của thiên địa đều là một thể do vậy giữa chúng phải có một điểm chung, đó chính là "lư". "Lư" tồn tại hiện thực nhưng lại vô h́nh, sự kết hợp của "lư" và "h́nh" chính là tượng của khí. "Lư" sinh ra từ khí, "lư" của vạn vật trong tự nhiên có quan hệ mật thiết với loài người đó chính là qui luật của thời gian và không gian, qui luật của vũ trụ về phương vị của thời gian và không gian. Dựa trên cái "lư" đó phái lư khí đă xây dựng một khối lượng đồ sộ các hệ thống lư thuyết trên cơ sở của ngũ hành sinh khắc, âm dương bát quái, cửu tinh, bát môn, thập nhị bát tú, thập nhị tứ sơn, 72 long xuyên sơn, 60 long thấu địa, 24 huyệt châu bảo, tử phụ tài quan quí nhân lộc mă, thiên địa nhân qui tàng quái phân kim….với hai trọng điểm lư luận

-     Lấy phương vị là chính tức khí ở phương vị khác nhau th́ tốt xấu khác nhau
-     Lấy thời gian làm chủ tức cùng một phương vị th́ tại các thời điểm khác nhau th́ tốt xấu khác nhau

Xét cho cùng mục đích của phái lư khí là t́m ra hướng và thời gian tức là nghiên cứu thiên khí của cả một vùng hay nói rộng ra là nghiên cứu làm sao có thể nhận sóng tốt nhất dù ở trong hay ng̣ai trung tâm phát sóng

Xét về tổng thể hai phái "h́nh thế" và "lư khí" là không thể tách rời, mặc dù cả hai phái đều xây dựng trên cơ sở lư luận riêng của ḿnh. Phái lư khí so với phái h́nh thế có cơ sở lư luận tương đối hoàn chỉnh hơn. Phái h́nh thế từ rất sớm đă lựa chọn địa h́nh, địa thế và điều kiện môi trường làm điểm xuất phát xây dựng nên hệ thống học thuyết của ḿnh. Phái lư khí xuất phát từ quan hệ của khí, số, lư mong muốn t́m được qui luật và mối liên hệ nào đó giữa con người và "thiên lư" nhằm đạt được sự thông đạt của khí, lư giữa con người và môi trường, từ đó t́m ra môi trường lư tưởng có lợi cho nhân sinh. Nh́n trên tổng thể có thể nói sự truy t́m chiều sâu lư luận của phái lư khí cao hơn phái h́nh thế. Tuy vậy ranh giới giữa chúng là không rơ ràng, hai phái đều có những điểm chung về thực chất đó chính là "khí", "sinh khí" và người xưa cũng đă dần dần nhận rơ điều này : "Người không biết về loan đầu không thể nói đến lư khí. Người không biết về lư khí không thể nói đến loan đầu. Người tinh thông loan đầu cuối cùng sẽ tự hợp với lư khí. Người tinh thông lư khí cuối cùng sẽ tự hợp với loan đầu. Loan đầu không chỉ có long, huyệt, sa, thuỷ đó mới chỉ là nội dung sơ lược. Cần phải t́m hiểu rơ về địa thế cao thấp , nguồn nước tụ tán, hướng thế của sa pháp, long khí dầy mỏng, thời khắc hưng vượng …". Điều này càng nói rơ lên rằng h́nh thế và lư khí là một tổng thể, là hai mắt xích không thể tách rời. Câu chuyện này cũng giống câu truyện dài và ly kỳ của khoa học phương tây đưa dến kết luận : " Ánh sáng vừa có tính chất sóng vừa có tính chất hạt" tức vừa là h́nh (hạt) vừa là khí (sóng)

SỐ : Vô cực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi (hệ cơ số 2 âm và dương), lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái có thể biểu diễn mọi sự kiện, sự vật từ nhỏ vô cùng đến lớn vô cùng. Phong thuỷ là một môn khoa học nghiên cứu về phạm trù "khí và h́nh" nên đương nhiên không vượt qua sự chi phối của qui luật phổ biến với hệ cơ số 2 do vậy việc áp dụng kinh dịch vào phong thuỷ đă được người xưa chú ư và theo người viết đây chính là phương pháp nhiên cứu phong thuỷ đỉnh cao mà ít người biết tới. Điểm lại sách cổ của phái h́nh thế ta bắt gặp nhiều đến quái, tượng trong việc luận đoán cát hung cho một cuộc đất. Tuy vậy về mặt lư luận vẫn c̣n sơ sài so với phái lư khí đă h́nh thành một hệ thống lư luận áp dụng kinh dịch đến độ tinh vi thể hiện ở ba điểm sau :

Một là : Về mặt phương hướng người xưa đă tiến hành đưa quẻ vào từng phương vị của lục thập thấu địa long, thất thập nhị xuyên sơn hổ rồi từ đó tạo ra ba ṿng thiên nguyên, địa nguyên và nhân nguyên qui tàng quái phân kim sau đó tiến hành đưa quẻ vào đến từng long khí rồi dựa trên hai nguyên tắc "Có động mới có dụng" và "cùng tất biến" để diễn quái kết hợp với mệnh chủ biến theo không gian, thời gian cùng hoạ phúc của họ mà luận cát hung…

Hai là : Về mặt thời gian trên cơ sở của huyền không phi tinh kết hợp với huyền không đại quái đă mang lại đỉnh cao cho huyền không học – Môn môn phong thuỷ bí truyền mới được phổ biến ra dân gian từ đời Thanh

Ba là : Việc ứng dụng của Mai hoa dịch số, Bốc phệ, quẻ Khổng Minh … vào phong thuỷ tạo thêm một cơ sở kiểm chứng cũng phát triển mới đưa phong thuỷ nên một tầm cao mới nhất là trong cuộc sống hiện đại ngày nay


MỆNH (Người viết tự thấy cần đưa vào) : Con người là chủ nhân của quả đất, là tinh hoa của vũ trụ, là linh trưởng của van vật. Tất cả những ǵ mà con người nghiên cứu là nhằm mục đích phục vụ cho chính họ. V́ vậy không nằm ngoài - con người cũng là một đối tượng nghiên cứu chính của phong thuỷ.

Con người từng giờ từng phút đều chịu ảnh hưởng tốt xấu của các nguyên tố, tín hiệu và năng lượng của thiên nhiên bao la là quả đất và vũ trụ. Thêm nữa con người c̣n chịu ảnh hưởng của các tín hiệu,năng lượng… của các thành viên trong gia đ́nh, ḍng họ,banh bè, cộng đồng… nên việc nghiên cứu qui luật ảnh hưởng của những năng lượng, tín hiệu ấy đối với sinh mệnh con người từ đó t́m ra phương pháp cầu lợi bỏ hại, t́m cát bỏ hung là điều tối cần thiết

Theo người viết con người là một sinh mệnh hữu cơ cao cấp nhất do nhiều nguyên tố hoá học cấu thành, bản thân cơ thể con người cùng sinh ra các tín hiệu và năng lượng hữu cơ. Những tín hiệu và năng lượng này phải hiệp đồng, đồng bộ với tín hiệu, năng lượng của thiên nhiên, môi trường mới có thể đạt tới hiệu ứng cùng rung động, con người mới càng phát triển. Nh́n lại phong thuỷ cổ ta thấy người xưa cũng đă tiến hành nghiên cứu mệnh trong phong thuỷ (cung phi, yếu tố phúc đức, tâm linh…) tuy vậy có thể nói là sơ sài hoặc không viết ra hết. Tuy vậy các ta vẫn có thể t́m ra hướng đi cho ḿnh trong quá tŕnh nghiên cứu phong thuỷ tín hiệu sinh mệnh con người ( mà sau này có thể mở rộng ra cho ḍng họ, dân tộc..) trên cơ của đông y học ( Linh qui bát pháp, thời châm học, ngũ vận lục khí..), Cảm xạ học (Cơ chế của rung động), Mệnh học ( Tửvi, Tử b́nh, Tướng học..), Khí công học, Đạo lăo, Phật học…


Trên đây ASVN đă cung cấp cho các bạn một cái nh́n mới về phong thuỷ trên cơ sở các qui luật và nguyên tắc cụ thể, đồng thời cũng đă giới thiệu khái quát với các vị phương pháp tiếp cận nghiên cứu và thực hành của phong thuỷ cổ xưa như một minh chứng cho tính "khoa học" của nó nhưng do thời gian có hạn người viết không thể tiếp tục đi sâu thêm. Trước khi kết thúc phần cơ sở lư luận tôi xin đưa ra một luận điểm tổng quát hơn khi nghiên cứu phong thuỷ trong thế giới hiện đại và theo người viết đây cũng là hướng đi mà phong thuỷ học hiện đại cần hướng tới đó là nghiên cứu phù hiệu học với hai chủ đề chính :

1- Phù hiệu học vô cơ : Một cuộc đất đẹp long tới phải trường viễn có tống có nghinh,thượng sa hậu vệ, long phải biến từ già sang trẻ ngũ hành luân phiên ( có âm có dương) mới có sinh khí, thuỷ phải trong, sâu, uốn lượn đi theo hữu t́nh chồng vợ. Khi kết huyệt phải đúng cách long đ́nh khí chỉ thanh long như đùa dỡn, bạch hổ như phục qú, huyền vũ cao dầy như cúi đàu c̣n chu tuớc như đang nhẩy múa, minh đường phải ngay ngắn, nước phải khuất khúc trong xanh, thuỷ khẩu phải có thần tinh trấn giữ.... vậy thực chất là ǵ?. Cả cuộc đất chính là một "Phù" vô cơ khổng lồ tích khí của vũ trụ hàng ngh́n, triệu năm. Như vậy "Phù hiệu học vô cơ" chuyên nghiên cứu qui luật tích tụ năng lượng tốt xấu (khí) của h́nh sông thế núi,kiến trúc nhà cửa đường xá... về mặt thời gian và không gian nói khác đi là phong thuỷ cơ bản

2.Phù hiệu học hữu cơ : Chúng ta thường nghe trận đồ chấn yểm, phù chú, bùa ngải, âm binh phù thuỷ ... tất cả đều liên quan tới trường khí hữu cơ mà đặc tính của chúng có tính điều khiển theo ư niệm, tính tồn trữ và tính sinh trưởng. Như vậy "Phù hiệu học hữu cơ" chuyên nghiên cứu qui luật điều khiển,sinh tồn...của trường năng lượng hữu cơ về mặt thời gian và không gian

Nếu coi âm là tĩnh dương là động th́ hữu cơ là âm c̣n vô cơ là dương. Hữu cơ nương vào vô cơ mà sinh, vô cơ nương vào hữu cơ mà phát triển vậy th́ chỉ khi chúng ta nắm được hai khía cạnh trong cùng một vấn đè đă nêu th́ phong thuỷ mới có thể phất triển nên tầm cao của khoa học


b- Các Chứng Nghiệm Phong Thuỷ :
    
   1- Ba miền quê của các nhân tài đất bắc :

       Người viết xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Tŕ ( Về mặt Phong thuỷ). Hà đông là tỉnh ở bắc bộ do pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lư do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhưng có lẽ những người đặt tên tỉnh lấy lư do là tỉnh này là đất văn vật như đất Hà Đông bên Trung Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xă, tỉnh lị ở trên ḍng sông Nhuệ và chín huyện : Chương Mỹ, Đan Phượng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Tŕ, Thường Tín, Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông . Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba V́ và một phần huyện Chương Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hương của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xưa nay :
Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lương Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dương bá Cung , Ngô Đ́nh Chất, Phạm Giao, Ngô Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Như Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều, Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dương Khuê, Dương Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu liêu , Đặng Đ́nh Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang Nhiêu, Lư Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lư Trần Quán, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện, Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lư tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm Tu, Đặc Đ́nh Tướng, Nguyễn Công Thái , Tŕnh Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần , Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thường, Bùi Xương Trạch ,Nguyễn Trăi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lưu nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay c̣n có rất nhiều các nhân vật đang tại chức mà người viết không muốn nêu tên tại đây.
Nói về huyện Thanh Tŕ : huyện thuộc phủ Thường Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trước là châu Thượng Phúc về đời Lư sau là huyện Long Đàm. Đời Lê v́ kị huư tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Tŕ. Huyện bắc giáp quận Hai bà Trưng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn Giang. Nam giáp Thường Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh Đường, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trước có 60 người thi đỗ đại khoa. Đ́nh ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đ́nh trong thờ Chu Văn An, đ́nh Đông Phù Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đ́nh Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đ́nh Quí Đô thờ Tô Hiến Thành, đ́nh Triều Khúc thờ Phùng Hưng. Quê của Lê Đ́nh Diên, Bùi Huy Bích, Chu văn An , Bạch Thái Bưởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao, Nguyễn Phương Đỉnh, Nguyễn Như Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lưu Tiệp, Bùi xương Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ, Nguyễn Đ́nh trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lưu nguyên Uân, Cung Đ́nh Vận, Nguyễn Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sư, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đă sinh ra "Vua"...

Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thưa đó là phong thuỷ hợp cách.

Trước khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng đất thứ hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn.

Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lư), huyện Tiên Du, huyện Vơ Giàng, Quế Dương, Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia B́nh, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, th́ gặp sông Đuống với sông Thương. Vùng Lạng Giang th́ núi non hiểm trở, c̣n vùng Bắc Ninh th́ ruộng đồng bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử như : núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất của cả nước, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lư, Nguyễn Quan Quang trạng nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê hương của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lănh Điềm, Hai Tước, Đốc Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lănh Giới, Lănh Giám , Lănh Thiết, Cai B́nh, Cai Biên, Đề hoàng, Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự Cường, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cư Đạo, Nguyễn Tư Giản, Trương hát, Trương Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sư Huyền Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm, Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quưnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dương Trọng Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh, Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tư, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lư Công Uẩn, Sư Vạn Hạnh …
Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng, trước là châu Cổ Lăm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lư đổi là phủ Thiên Đức, tên Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 người đỗ đại khoa đến hết triều Lê và 174 người hết triều Nguyễn). Quê hương của rất nhiều nhân sĩ như Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cường, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tư Giản, Quách Giai, Nguyễn Công Hăng, Nguyễn Đ́nh Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phương, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh, Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lư Công Uẩn, Vạn thế Thiền Sư…đây cũng là đất phát chín đời vua lư đặt dấu ấn cho thời kỳ hưng vượng của đất Việt


Miền quê thứ ba mà người viết muốn đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dương mà trung tâm là huyện Thanh Lâm phủ Nam Sách.

Hải Dương là tỉnh ở bắc bộ, xưa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên c̣n gọi là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dương). Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dương, Vua tương Dực đổi là trấn Hải Dương. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái B́nh thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải Dương v́ là quê hương của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn Hải Dương trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dương gồm phủ Thượng Hồng sau đổi là Phủ B́nh Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, nay lại tách ra như cũ. Tỉnh Hải Dương, trừ huyện Đông Triều có dẫy Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao mấy c̣n ra toàn đồng bằng được tưới tiêu bằng các sông Thái B́nh chảy qua giữa tỉnh và các chi lưu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái B́nh. Tỉnh Hải Dương là tỉnh giầu có về sản xuất lương thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có nhiều người thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hương của nhiều nhânvật lịch sử : Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bưởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lư Tử Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dư, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên Đán, Vũ Phương Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhă Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đ́nh Hổ, Lương Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân, Phạm chí Hương ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự Lượng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sư Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ Quang, Phạm quỳnh, Vơ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quư Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển Tích, Đốc Tít, Nhữ Đ́nh Toản, Vũ Như Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái Thuận, Trần Đ́nh Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quư Thích, Đoàn Thượng, Phạm Đ́nh Trạc, Phạm Đ́nh Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đă phát bá nghiệp cho nhà Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây.
Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái B́nh, Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trước, có 165 người đỗ đại khoa, nhiều nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 người là huyện đỗ đật cao nh́ nước sau huyện Đông Ngàn 130 người.

Trên đây là ba miền quê mà người viết muốn cùng các bạn phân tích v́ chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất đặc trưng không vùng nào giống vùng nào . Từ xưa đến nay các phong thuỷ sư thực thụ đều phải bắt đầu từ đại cục - nh́n đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nước trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai, nó gắn liền với sự hưng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới trung cục để định rơ sự thịnh vượng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nh́n nó mà thấu hiểu vận mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con người, nói th́ tách bạch như vậy nhưng luận th́ chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính v́ lư do như vậy mà khi luận long kết huyệt ta phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nước. "Trung tụ thích hợp cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho tạo làng đặt xóm hay dương cơ và âm phần.
Nh́n tổng thể h́nh sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long, xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải tạo mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó, bản thân Thăng Long cũng có rất nhiều phá cách), vận mệnh của quốc gia phần nhiều được quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông , Bắc Ninh và Hải Dương là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh tŕ, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên c̣n nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy được sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lượt tiến hành phân tích h́nh sông thế núi của ba khu vực này :

Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Tŕ toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lưng dựa núi mặt hướng thuỷ là nơi long đ́nh khí chỉ của một một long mạch tới từ Tây Tạng Trung Quốc. Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung b́nh chạy theo hướng tây bắc đông nam ( kẹp bởi hai đại giang là Đà giang và Mă Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân Nam Trung Quốc hướng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với các dăy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà B́nh Trung cán long này thúc yết rồi phân ra làm ba nhánh
Tả chi tạo thành tay long quay ngược lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dăy Ba v́ hùng vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản Viên có h́nh thắt cổ bồng, trên toả ra như cái tán ( long mạch đại quí cách chỉ tiếc càn long khởi tổ đến khi kết huyệt lại chuyển từ hướng ly do vậy kiền long bị lửa đốt lúc phát th́ lớn mà chẳng bền có lẽ vậy mà đất Đường Lâm sinh hai Vua hiển hách mà chỉ trụ được có một đời thật là tiếc quá).
Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bưởi. Chi ngoài cùng c̣n rất hùng hậu đột khởi nên dăy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mă và sông Bưởi. Chi giữa long đi trường viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con sông Bưởi và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hương nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của hai con sông Bồi và Đáy.
Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua sông Đáy thoát hết sát khí hướng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Tŕ. Tại nơi kết thúc này hàng loạt các g̣ đống đột khởi như một hệ thống mà phía trước là một loạt các đầm nước tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Tŕ với sông Hồng là rốn nước của thành phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục" với ngoại cục là con sông Hồng bao bọc. Tới đây chắc các bạn đă rơ v́ sao nơi này không những đă phát vua ( vua là ai xin miễn bàn) mà c̣n chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi.


Tỉnh Bắc Ninh tương tự như tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nước biển , lưng dựa núi mặt nh́n núi xa xa về phía đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nước Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi long này trẻ hoá. Trên đường đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra chạy theo hướng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa hai song Thao và Cầu) chuyển hướng đông nam đột khởi lên dăy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên liền nhau gần Thác Bạc, như ba ḥn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tương ứng 1250m, 1420m, 1591m . Dăy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hướng đông nam khởi núi Sóc Sơn băng qua sông Cà Lồ, trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dư khí c̣n tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dăy núi chay theo hướng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đường trước mặt. Thế của long gia th́ thật là kém xa so với cuộc đất Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có nhiều các chi long khác chầu về như cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng th́ sinh khí chầu tụ xem ra lại nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông.
Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng ph́ nhiêu lưng dựa vào dăy Tam Đảo có h́nh "thương khố", dăy Sóc Sơn và vùng Cổ Loa, phía trước hướng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dăy núi Tiên Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nước trong phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Người viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trước địa huỵêt không có thuỷ lưu, không t́m thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn lấp minh đường là đại quí địa nếu hành long có h́nh thương khố". Đến đây th́ chắc ai cũng hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều người đơ đạt cao đến như vậy, thêm nữa v́ hành long có h́nh "thương khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn nói là cả nước có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt Nam. Người viết cũng đă có dịp ghé thăm Đền Đô thờ tám vị vua nhà Lư ( vua thứ chín được thờ tại nơi khác) được nghe câu truyện ḍng họ Lư được ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ già c̣n thuật lại xưa kia khi cụ c̣n bé khi trời mua to quả là có nhiều ḍng nước chầu về một khu đất) mà phát ra chín đời vua Lư lưu danh sử sách , ngẫm th́ cũng không phải là vô lư v́ trung cục đại quí cách c̣n thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp.


Tỉnh Hải Dương toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh được bao bọc bởi các con sông chính : S. Thái B́nh, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh c̣n có các sông như : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hương, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lượn hữu t́nh. Tỉnh có hai trung tụ là Nam Sách và B́nh Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng

Xét về sơn, địa mạch của Hải Dương là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang

Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vượng khí lớn cho cả vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tượng

1.     Lục đầu mang tượng âm v́ lục tượng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tượng dương v́ cửu là dương, tản ra ở miền nam nơi dương sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm dương hợp khắc của nước Việt ( tượng này nói lên rất nhiều điều …)
2.     Âm lục, dương cửu, đầu dương , đuôi âm nên thấy rơ nguyên lư của vũ trụ trong âm có dương , trong dương có âm.
3.     Lục Đầu Giang nếu nh́n qua th́ thực chất chỉ có 4 ḍng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S. Thương, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) c̣n hai sông là S. Thái B́nh và S. Kinh Thầy là hai ḍng thuỷ khứ. Như vậy sao gọi là Lục Đầu được ? Tuy vậy trong lịch sử có ba lần triều cường qua cửa Thái B́nh và Bạch Đằng làm đổi ḍng của hai con sông này tạo ra những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 ḍng nước đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó là địa tượng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là ba vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ thống này là Ngô Quyền, Lư Thường Kiệt và Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn . Trải qua hàng ngh́n năm bồi đắp nay cửa sông đă lùi ra xa hiện tượng lục đầu chầu tụ có lẽ không xảy ra nữa.

Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dương được bao bọc bởi hai con sông Thái B́nh và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là "hoành thuỷ cục" ( thuỷ thành uốn lượn bao bọc). Phần lớn vượng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vưc này tạo ra hàng ngh́n g̣ đống lớn nhỏ đột khởi như một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xưa đến nay nhân tài sinh ra măi không hết.

   2- Một ḍng họ vượng phát bởi hai cuộc đất một âm (mộ Tổ) một dương (nhà thờ họ) như một cặp "thư hùng".

Ai qua Hải Dương nhiều lần chắc không thể không biết câu chuyện về ḍng họ Vũ nổi tiếng khoa bảng trong các giai đoạn phát triển của lịch sử Việt Nam 1200 năm qua. Là một người họ Vũ tác giả không muốn đi quá sâu phân tích phong thuỷ của hai cuộc đất này mà chỉ muốn nhắc đến nó như là một chứng nghiệm mà thôi.

Ngược ḍng lịch sử khoảng 1200 năm về trước nước Việt khi đó đang bị đô hộ bởi nhà Đường Gia phả của ḍng họ c̣n chép lại :

     Trải bao đời thanh bạch có nhau
     Cụ Vũ Huy ở bên tàu
     Thuộc tỉnh Phúc Kiến - Thường Châu là nhà
     Vốn nho gia lại là nhà địa lư
     Sang Việt Nam chủ ư tầm long
     Đi đến Nam Sách tỉnh Đông
     Thấy đất bách nhạn bay trông hồi sào
     Đem mộ tổ táng vào chính huyệt
     Đất công khanh phát tiếp muôn đời
     …….
     Một miếng đất như ch́m như nổi
     Trăm nhạn bay tụ hội hồi sào
     Giữa đồng g̣ đống nổi cao
     Địa danh Nam Sách huyệt giao toàn tài
     Qua ngày một ngày hai ấn định
     Đưa tổ về chính huyệt tang treo
     Rằng như sách dạy mang theo
     Đất này măi măi phát nhiều công khanh


C̣n nữa

ASVN




Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 
ASVN
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 22 March 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 188
Msg 20 of 31: Đă gửi: 15 February 2005 lúc 2:03am | Đă lưu IP Trích dẫn ASVN


Do không muốn là kinh động tới tiên tổ nên phần này người viết xin dừng tại đây mong quí vị bỏ quá cho

    3- Những Làng khoa bảng nổi tiếng Việt Nam :

Xin được trích dẫn một số bài viết của các tác giả khác để làm dẫn chứng :

a- Thôn Linh khê, Xă Thanh Quang huyện Nam Sách

Thật khó có thể t́m được một làng quê có vẻn vẹn 1075 nhân khẩu, với 300 hộ gia đ́nh, mà trong đó có đến 150 cử nhân các ngành, 7 thạc sĩ, hơn 80 giáo viên các cấp, 50 sinh viên đại học, 1 tiến sĩ tương lai đang làm luận án tại Nhật Bản. Đó là thôn Linh Khê, xă Thanh Quang (Nam Sách - Hải Dương).
Linh Khê, một làng quê bé nhỏ nằm nép ḿnh bên ḍng sông Kinh Thầy, nơi cách đây mấy chục nǎm đă ghi nhận sự trưởng thành của thần đồng thơ Trần Đǎng Khoa; và cách xa hơn 7 thế kỷ là sự xuất hiện lừng lẫy của Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.


Cạnh tấm bia cổ của di tích, ông Đỗ Minh Hoàng, một nhà giáo về hưu cho biết, từ xa xưa dân làng Linh Khê đă có ước muốn được đem cái chữ, kiến thức của đạo làm người dạy bảo học sinh. Chính v́ thế, hết thế hệ này nối tiếp thế hệ kia mà đến nay trong cả thôn đă có tổng cộng 85 người làm nghề dạy học ở mọi cấp, mọi nơi.

Lướt nhanh ngón tay, nhà giáo Đỗ Minh Hoàng đă bấm được sơ sơ gần chục gia đ́nh có tới ba đời làm nghề dạy hoc như gia đ́nh cụ Lương Quang Diễn, những gia đ́nh có từ hai giáo viên trở lên th́ không thể nhớ hết.... Cá biệt có gia đ́nh cụ Đỗ Vǎn Dần có tổng cộng 10 người làm nhà giáo.

Nǎm nay, cả thôn có hơn mười người đi thi th́ có tới 7 em đỗ đại học với số điểm cao vào các trường “rắn” như: ĐH Bách Khoa, ĐH Xây Dựng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền,...

Làng Linh Khê đă chứng kiến rất nhiều câu chuyện cảm động đến chảy nước mắt về các gia đ́nh nuôi con học đại học. Nào th́ nhà bán ruộng, bán đất; nào th́ nhà bố mẹ làm lụng vất vả, bữa cơm chỉ có quả cà bát canh để c̣n dành dụm từng đồng, tháng tháng gửi cho các con; có nhà th́ ông bố sẵn sàng đi đào mộ thuê vào dịp cuối nǎm cũng chỉ với một mục đích duy nhất là để kiếm tiền cho con ǎn học.

Khó khǎn là vậy, nhưng dân làng Linh Khê cũng v́ thế mà ngày càng toả sáng hơn với thế hệ trẻ hôm nay. Những tấm bằng kĩ sư, cử nhân mà con em quê hương đạt được ngày một nhiều.

b- Bắc Cổ Am nam Hành Thiện

Quê hương Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm
Quê hương Vương Quốc Chính, thủ lĩnh Tín nghĩa hội 1879 chống Tây cứu nước.

Tôi cùng kiến trúc sư Phạm Vũ Hội về Cổ Am, theo con đường mà có lẽ ngày xưa Trạng Tŕnh đă đi từ kinh đô về quê để ở ẩn, khi ông chán ngấy cái triều đ́nh nhà Mạc suy đốn. "Thôi thôi mặc lũ thằng hề/Gió mây ta lại t́m về gió mây" (Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm - NBK).
Phạm Vũ Hội là một người đa tài. Anh thiết kế kiến trúc, làm thơ, soạn nhạc và nặn tượng. Anh nặn tượng, danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm và nghiên cứu về Trạng Tŕnh với ḷng sùng kính một thiên tài. Phạm Vũ Hội c̣n là tác giả của dự án tôn tạo khu di tích Trạng Tŕnh thuộc vực Cổ Am - Lư Học.
Chúng tôi đến bến phà Khuể. Con sông Văn Úc sóng cuồn cuộn đổ ra biển Đông. Ḷng sông rộng, nước vàng đục màu phù sa diễu quanh thân phà - Thuỷ sắc ngưng hoàng lục nhiễu hàng (Quá thao Giang – NBK). Cứ theo thơ văn của Trạng Tŕnh mà suy th́ có lẽ khi qua sông này cũng đă cảm khái nhớ tới Xích xích tuyệt xướng của Tô Đông Pha với câu mở đầu: "Đại Giang Động Thứ, lăng đào tận, thiến cổ phong lưu nhân vật..."- Sông lớn chảy về Đông, cuốn trôi hào kiệt ngh́n đời...".
Bên kia sông Văn Úc là huyện Tiên Lăng, có làng An Tử Hạ, quê vị khoa bảng Nhữ Văn Lan, ông ngoại Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là vị tố của họ Nhữ, đỗ tiến sĩ năm 1463, đời Lê, làm đến chức Thượng thư bộ Hộ; sau được thờ ở đ́nh miếu làng An Tử Hạ. Họ Nhữ c̣n có nhiều người đỗ đại khoa. Ngôi đền An Tử Hạ thờ Nhữ Văn Lan đă bị giặc Pháp đốt phá, nhưng tượng và biển tiến sĩ của ông vẫn c̣n. Một người con của Nguyễn Bỉnh Khiêm sang quê ngoại lập nghiệp, thành một chi họ Nguyễn lớn ở Tiên Lăng. Ở đây c̣n có khu Mả Nghè, nơi an táng vợ chồng Nhữ Văn Lan và con gái Nhữ Thị Thục (mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Qua thị trấn Tiên Lăng, đến bến Hàn, nhưng không phải đi đ̣ như ngày xưa mà có cây cầu phao bắc qua sông. Sông Hàn c̣n gọi là Tuyết Giang. Xưa, bên sông này có quán Trung Tân, nơi Trạng Tŕnh ngồi ngâm vịnh, viết những bài Ngụ hứng và nghiền ngẫm thế cuộc, thiên cơ, quốc vận.
Chợt nhớ câu thơ của Tuyết Giang phu tử (NBK): "...Phong ổn phàm quy hàn phố nguyệt/Thiên t́nh long hiện viễn sơn vân..." (Gió lặng buồm xuôi về bến lạnh/Trời mây rồng hiện đỉnh non xa. - Trung Tân quán ngụ hứng).
Qua sông Hàn, chúng tôi đi dọc theo đường số 354 đến địa phận Lư Học - Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, vùng đất nổi danh. Phạm Vũ Hội bảo tôi:
- Cụ Trạng tiên lượng việc vị lai như thần. Cái câu ''Bao giờ Tiên Lăng chia đôi, sông Hàn nối lại th́ tôi lại về", đến bây giờ mới rơ. Cái năm cầu phao sông Hàn được bắc nối hai huyện Tiên Lăng - Vĩnh Bảo; con sông đào cổ xưa chảy ngang qua Tiên Lăng bị bỏ lấp từ lâu được khơi lại; th́ ngay sau đó rộ lên hội thảo, sưu tầm khảo cứu về danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm. Rồi văn thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm được in ra, cả ''Sấm Kư Trạng Tŕnh'' nữa. Thiên tài của Người đă được công nhận và tôn vinh. Thế là Người đă về đúng với ngôi vị của ḿnh. Một thời Sấm Kư bị coi là sách mê tín dị đoan. Bây giờ dùng Lư học mà suy th́ có nhiều việc đă xảy ra rất linh nghiệm.
Phạm Vũ Hội giao thiệp với hoạ sĩ Giang Phiếm, là cháu đời thứ mười sáu của Trạng Tŕnh đă đổi thành họ Giang. Một thời cả ḍng tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm phải thay tên đổi họ, ly tán thập phương.
Cổ Am nổi tiếng v́ vùng đất này sinh nhiều bậc tài danh ở mọi thời. Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà khi ra đời, theo giai thoại, quan chiêm bốc chuyên theo dơi thiên tượng của triều đ́nh Bắc phương đă dâng biểu tấu: ''Có ngôi sao lạ to bằng cái đấu xuất hiện ở phương Nam, ứng với một chân nhân đă ra đời''. Sau này, Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước Tŕnh Tuyền hầu (nên mới gọi là Trạng Tŕnh), Chu Sán, danh sĩ đời nhà Minh nhận xét: ''An Nam Lư học hữu Tŕnh Tuyền'' - Nước Nam có Tŕnh Tuyền hầu thông hiểu Lư số. Có lẽ v́ thế mà đất Trung Am, nơi có Đền Trạng bây giờ được gọi là Lư học.
Cổ Am trước khi Trạng Tŕnh xuất thế, có nhiều địa danh mang những tên nôm na để quy ước, chỉ dùng cho mỗi việc định vị địa điểm, như ở nhiều các làng quê khác. Vậy mà khi Trạng Tŕnh về quê ở ẩn th́ xuất hiện những tên văn chương: quán Trung Tân, Am Bạch Vân, sông Tuyết Giang, g̣ Bút Ḱnh Thiên, Nghiên Long Đồ, băi Lư Ngư Quần Ngọc, cầu Trường Xuân... Về cây cầu Trường Xuân, Phạm Vũ Hội kể: Trước khi phong Trạng nguyên cho thí sinh đỗ đầu khoa thi Đ́nh, vua Tự Đức sát hạch thêm; Ngài hỏi về cầu Trường Xuân. Thí sinh này quê đất Vĩnh Lại, Đông Hải, kinh sử thuộc làu làu, nhưng lại không biết ǵ về cầu Trường Xuân. Vua hỏi thí sinh đỗ thứ hai quê ở miền Trung. Người này thưa rằng cây cầu đá ấy ở Cổ Am do Trạng Tŕnh cho xây cất để dân đi làm đồng áng đỡ vất vả, trên thân cầu có chữ ''Thường Xuân Kiều'' do chính tay Trạng viết. Sĩ tử đỗ đệ nhất khoa bị giáng xuống thứ ba v́ không thâm hiểu về bản quán của ḿnh và về Trạng Tŕnh, phải nhường lại danh khôi nguyên cho anh chàng miền Trung nọ. Vua không vui, cho rằng làm quan mà không thấu hiểu quê hương đất nước th́ trị dân sao được. (Phiến đá khắc chữ 'Trường Xuân Kiều'' nay vẫn c̣n).
Phạm Vũ Hội nói tiếp:
- Cả vùng đất này xưa là Cổ Am thuộc huyện Vĩnh Lại tỉnh Hải Dương. Thập bát trang Am, có mười tám trang mang tên Am. Thượng Am, Hạ Am, Trung Am, Đông Am, Nam Am, Lạng Am, Tiền Am, Liên Am, Ngăi Am, Hội Am v.v... Trạng Tŕnh về quê ở ẩn, xây quán Trung Tân ở bến Trung Lệ bên bờ Tuyết Giang, dựng Am Bạch Vân. Người làm hàng ngh́n bài thơ Hán, Nôm và Bạch Vân thí tập, Tŕnh Quốc công thi tập... Người c̣n chủ trương xây chùa tôn thờ các danh nhân; bắc cầu giúp dân. Cổ Am khi ấy rất nghèo. Trạng mở trường dạy học. Người đọc sách thánh hiền đều biết: Kiệt, Trụ ác vương vô đạo ngược đăi trung thần, chí sĩ; chà đạp lễ nghĩa khiến trăm họ ngu hèn để dễ bề cai trị, muôn đời sau c̣n oán hận. Nghiêu, Thuấn khuyến nông, huấn học làm cho thiên hạ được sống trong thái b́nh thịnh trị, tiếng thơm ngàn năm. Nhân tài chẳng tự nhiên mà có như hoa dại bên đường. Để khuyến học, Trạng Tŕnh cho dựng một trụ đá cao trên đỉnh cái g̣ đầu làng, đặt tên là Bút Ḱnh Thiên.
Chúng tôi đứng lặng ngắm g̣ đất có những cây sà cừ, bạch đàn đứng thẳng tắp với dáng những ''quản bút chống trời". Trụ đá nay không c̣n nữa nhưng vẫn c̣n ngôi miếu cổ tôn nghiêm.
Những cái tên ở Cổ Am thoạt nghe thấy có vẻ chữ nghĩa quá; không nôm na cụ thể như những vùng quê khác để dân quê dễ nhớ. Nhưng ngẫm ra Trạng đâu phải là người khoe chữ. Cổ Am đáng được đặt những tên như thế lắm v́ đất này có không ít các bậc khoa bảng đỗ đạt cao ở mọi thời. Trần Lương Bật đỗ tiến sĩ năm 1664, đời Hậu Lê, làm đến chức Hữu thị lang bộ Binh, khi mất c̣n được truy phong chức Tả thị lang. Trần Công Hân đỗ tiến sĩ năm 1733, thời Hậu Lê; giữ chức Đăi chế Viện Hàn lâm; đi dẹp giặc bị tử trận, được truy phong Đông Các Đại học sĩ. Lê Huy Thái đỗ Phó bảng năm 1846, đời nhà Nguyễn.. .
Sau này Cổ Am c̣n có hai nhà văn nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam một thời, đó là hai anh em Trần Tiêu, Trần Khánh Dư (tức Khái Hưng trong Tự Lực văn đoàn). Chùa Đông A ở đây do Trần Mỹ, phụ thân của hai nhà văn bỏ công tạo dựng.
Theo các thần phả, thần tích và Từ đĩển Bách khoa Địa danh Hải Pḥng th́, cùng với những làng xă thuộc Vĩnh Bảo, Cổ Am thờ nhiều vị thần làm thành hoàng v́ có công chống giặc ngoại xâm trong các cuộc b́nh Chiêm, chinh Man, cự Nam Hán, phá Tống, diệt Nguyên - Mông. Dân Cổ Am dù nghèo nhưng cũng lập đền miếu khang trang để tôn thờ những người bảo hộ dân, những vị quan thương dân như con. Đ́nh, miếu Cổ Am thờ bốn vị thành hoàng trong đó có Không Hoàng đại vương, một vị quan đời Lư, bỏ của riêng phát chẩn cho dân vào năm mất mùa. Nam Hải đại vương tức quan Thái uư Tô Hiến Thành đời Lư, đi tuần qua làng đă ban ơn cho dân chúng. Cổ Am có chùa Mét là công tŕnh kiến trúc đẹp do Trần Khắc Trang chủ xưởng xây cất Hai nhà văn Trần Tiêu và Khái Hưng đều là di duệ của Trần Khắc Trang.
Cổ Am có những ḍng họ nổi tiếng. Ngoài họ Nguyễn với Trạng Tŕnh Lưỡng quốc anh hùng không đối thủ, như các môn đệ tôn vinh ông sau này; c̣n có họ Trần, một họ lớn vốn ở Tức Mạc (Nam Hà) di đến đây khai hoang lập ấp. Theo gia phả họ Trần ở Cổ Am, một vọng tộc có nhiều nhà khoa bảng, th́ thủy tổ họ Trần là một vị tướng chỉ huy cánh quân phía Bắc trong trận Hàm Tử nổi tiếng năm 1407, bị trọng thương, được đưa về Cổ Am dưỡng thương rồi sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Cổ Am vào thời nào cũng có hào kiệt. Vương Quốc Chính, đời nhà Nguyễn năm 1879 lập Tín nghĩa Hội, chủ trương b́nh Tây phục quốc, từng đem nghĩa quân đến tận thành Hà Nội tiến công tập kích quân Pháp. Đầu năm 1930, Trần Quang Diệu, Đào Văn Thê khởi nghĩa chống Pháp, giết tri phủ, đánh chiếm huyện lỵ, khí thế ngùn ngụt. Robin, thống sứ Bắc Kỳ đă cho máy bay ném xuống Cổ Am đến năm mươi bảy quả bom (một con số đáng kinh hoàng vào thời đó), rồi dàn quân càn quét, đốt phá; nhưng đă không khuất phục được vùng đất phát tích những bậc kiệt hiệt song toàn văn vơ.
Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nếu ở quê ngoại của Trạng Tŕnh nổi danh "Tiên Lăng chống càn", th́ Vĩnh Bảo - Cổ Am quê nội của Người cũng lừng lẫy với những chiến công diệt giặc trên đường số 10. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không thể thống kê những chiến tích, những hy sinh của người Cổ Am trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của dân tộc sau này bằng những con số đáng thán phục được viết bởi những bàn tay chuyên cửi canh dệt vải, dệt chiếu, trồng trọt và làm sơn mài...
Nghề dệt chiếu ở đây đă có từ lâu đời và rất phát đạt. Cho dù chiếu ni-lông, chiếu tre, chiếu gỗ đă từng được coi là thời thượng, th́ rồi người ta vẫn cứ nằm chiếu gon dệt cói. Biết đâu cái cô gái bán chiếu gon xưa ở Tây Hồ đă làm Ức Trai tiên sinh cảm động sinh t́nh ở tuổi bảy mươi lại có dây mơ rễ má với đất Cổ Am này? Tôi đă nh́n thấy cảnh những cô gái dệt chiếu. Động tác luồn cói, giật khung, rồi đặt khuôn hoa phết màu; cứ thoăn thoắt nhịp nhàng, mạnh mẽ mà uyển chuyển; bền bỉ thường nhật, nên thân h́nh các cô rất thẩm mỹ. Khi một mẻ chiếu hoa được đồng loạt phơi dưới nắng, màu sắc rực rỡ bừng lên như ngày hội.
Kiến trúc sư Phạm Vũ Hội nói với tôi về cái dự án tâm huyết của anh:
- Tôi muốn tu tạo những di tích Trạng Tŕnh ở vùng Cổ Am và bên quê ngoại của Người như nó đă từng có theo cảnh sắc của một vùng quê đồng bằng Bắc Bộ, và phải giữ vững "chân long'' với những nguyên tắc về Phong thủy. Nên đầu tư một cách tinh tế vào khu Đền Trạng. Thế nhưng người ta đă mở ra một quy hoạch bề rộng, dùng hệ thống giao thông bàn cờ; lại thêm những cột đèn cao áp h́nh tàu chuối. Nhiều cây cối bị chặt quang làm mất đi vẻ u tịch. Lại c̣n đào một cái hồ rất lớn, xây kè bờ, lát gạch lá dừa lối đi quanh hồ như một công viên thành phố, theo xu hướng ''đô thị hoá'' hiện nay. Có lẽ lại phải chờ cho đến khi người ta hiểu ra được rằng phải giữ lấy cái tinh thần đạm bạc mà thanh cao của Tuyết Giang phu tử.
*
Chúng tôi đi qua cánh đồng trồng thuốc lào. Những cây thuốc thân thấp mập mạp lá to đang kỳ bánh tẻ, mùi thuốc lá thoảng lẫn trong vị ngọt ngào của ngô non và đ̣ng đ̣ng quanh đấy, như một sự tẩm ướp tinh tế.
Tôi sực nhớ: Cổ Am thuộc xứ thuốc lào. Ai cũng biết câu ca dao: ''Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đă chôn điếu xuống lại đào điếu lên". Một hơi thuốc rút đến kiệt lửa đóm, rồi phả khói mù mịt làm cảnh vật trước mắt chập chờn ẩn hiện như thực như ảo: ''Thoáng bóng ai về trong khói thuốc/Mắt cười lúng liếng lá răm tươi...”
Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quư Đôn và tập Đồng Khánh dư địa chí lược gọi cây thuốc lào là Tương tư thảo.
''Tương tư thảo'' - Cổ Am, vùng đất văn nhân hào kiệt có Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm - bậc kỳ tài, và có một loài cây kỳ thú mang cái tên gợi thương nhớ như vậy.

ASVN
Quay trở về đầu Xem ASVN's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ASVN
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.2852 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO