thangcutang Hội viên

Đã tham gia: 03 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 169
|
Msg 1 of 1: Đã gửi: 25 October 2009 lúc 10:56pm | Đã lưu IP
|
|
|
MINH TRIẾT VIỆT (2):
NGUỒN GỐC MINH TRIẾT VIỆT THÔNG QUA LỐI DẪN CỦA VĂN HÓA VIỆT
NGUYỄN VIỆT NHO
I. NGUỒN GỐC MINH TRIẾT VIỆT THÔNG QUA VĂN HÓA TRIẾT TÒAN:
Tìm về nguồn cội Minh Triết Việt qua sử, cổ sử, khảo cổ, nhân chủng học,ngôn ngữ học… đã được nhiều tác giả người Việt và người ngọai quốc bàn đến khá nhiều, ở đây tôi không có gì để đóng góp thêm mà chuyển hướng tìm nguồn cội của nó qua lối dẫn của văn hóa.
MINH TRIẾT VIỆT xuất phát từ Văn hóa cổ Việt, có nguồn gốc rất xa xưa, có khi trước khi có chữ viết, có thể xuất hiện trong các thời huyền sử được huyền thọai nhắc đến như Hồng Bàng, Xích Qủy… với biểu tượng của con Lý Số LI nằm phương Nam…. Nền Minh Triết Việt, đến hôm nay khó tìm ra vết tích bởi chủ trương tiêu diệt văn hóa phương Bắc. Điều nầy được thực sử nhắc đến như việc làm của Mã Viện: “một mảnh giấy không cho, một mộ bia không để” (theo Tiến Sĩ Cao Thế Dung), hoặc như “đốt sách giết học trò” của Tần Thủy Hòang, hoặc việc quân Minh, quân Mông gôm sách của ta để đốt hoặc mang về Tàu. Ngòai ra, việc mất dấu tích của nó cũng vì suốt dọc dài lịch sử, phương Bắc còn tạo ra ngụy thư, ngụy sử nhằm mục đích sóan đọat chủ quyền trước tác, không khác việc làm của Trung Cộng và bọn văn hóa vong nô bản xứ theo Trung Cộng hôm nay đã và đang làm …
Điểm đặt biệt so với các nền văn hóa khác, Văn Hóa Việt được trình bày dưới hai dạng thức: dạng dùng ngôn ngữ để diễn ý và dạng lý số hay tóan lý số viết bằng triết tự văn hóa để dẫn vào Minh Triết. Hai lối dẫn sẽ đưa đến hai lọai triết khác nhau, sẽ được lần lựợt trình bày dưới đây:
I.1. Văn Hóa Diễn Đạt Bằng Ngôn Ngữ (Qui Ước): Dẫn đến triết lý, triết thuyết.
Ngôn ngữ là phương tiện thông dụng nhất để truyền đạt tư tưởng: Thiếu ngôn ngữ chắc chắn nhân lọai sẽ không truyền thừa kinh nghiệm và sẽ không thể văn minh tiến bộ như hôm nay, chính vì thế mà mọi nền văn hóa đều sử dụng nó và Văn Hóa Việt cũng không ngọai lệ.
Dùng ngôn ngữ để hình thành văn hóa, trên lãnh vực triết, không làm cho ta trực diện, trực ngộ Chân Lý mà nó chỉ mô tả hay nói về Chân Lý mà thôi, vì ngôn ngữ vốn là sản phẩm của lý trí của con người và nền tảng của lọai triết nầy cũng được đặt trên cơ sở tư duy của con người trên sự vật, như lời phán bất hủ của Protagoras: “Người là thước đo mọi sự”., nên nền triết học được xây dựng bằng ngôn ngữ chưa là Minh Triết vì tảng của nó đã bị đặt sai, thiếu hẳn tính khách quan mà Minh Triết cần phải có.
Điều nây cũng có nghĩa là ngôn ngữ chỉ dẫn đến triết lý, triết thuyết đặt trên cơ sở nhận thức dựa vào ý niệm thuần lý “cái gì có lý là thực và cái gì thực là hợp lý” (Hegel), nó vẫn chưa là Chân Lý nên chưa thể gọi là Minh Triết được, do đó những phán xét của hàng triết gia là chưa đáng tin cậy: “học gỉa” chưa là “học thiệt”:
“Rằng học gỉa chưa là học thiệt
Thế cho nên càng viết, càng sai”
Hai câu thơ trên không phải nhằm xem thường học giả (những người học rộng) mà nhằm nói lên ý là: Đi vào Minh Triết không thể dùng ngôn ngữ qui ước đời thường mà phải sử dụng triết tự hay Đạo tự như việc Ông Cha ta đã làm:
“Thời gian rồi cứ qua hòai
Bây giờ mới thấy rõ tài Ông Cha
Không dùng một chữ viết ra
Chỉ dùng hình số Ông (___), Bà (_ _, Âm Dương
Viết lên tất cả luật Thường (*)
Để cho mọi thứ làm gương soi vào
Mấy vần thơ muốn cao rao
Mong cho con cháu tự hào dòng ta
Và mong lập lại an hòa
Để người “núi” “biển”(**) vẫn là anh em
Trở về văn hóa nhất nguyên (***)
Đưa con người lại một miền trời xưa
Vô ngôn viết mấy cho vừa
Viết nhiều càng thấy như chưa viết gì
Lối Thường (*) mời bạn thử đi” Thơ TĐ Nguyễn Việt Nho
____________
(*): Luật Thường, Lối Thường là con đường Minh Triết dẫn vào Đạo Thường Hằng
(**): Người núi, biển: Kẻ lên núi theo Mẹ, người theo Cha xuống biển đều là anh em cùng Cha Mẹ Rồng Tiên
(***): Văn hóa nhất nguyên: Nền Văn Hóa Minh Triết đặt trên nền tảng “âm dương lưỡng nhất, thống nhất mâu thuẫn
Bởi căn cứ trên cái nhìn bằng mắt trần đầy tính chủ quan và lệch lạc mà không dựa vào chủ thể sự vật (object) tự nó hiển lộ ra, khiến ta sẽ không biết được đâu là chân lý (vérité) đâu là ngụy biện (sophistique) … Đây là hướng đi làm cho triết Tây bị tắt nghẽn trong suốt 25 thế kỷ qua, trên con đường tìm đến Chân Lý khách quan của Minh Triết. Vào thời cận đại, các ông như Jung, Lévi Strauss … đã cố điều chỉnh để sửa sai bằng ý niệm như hữu thức (conscient), tiềm thức cộng thông (inconscient collectif), vô thức (inconscient), tiềm thức cá nhân (subconscient), cơ cấu (structure) và cơ cấu luận (structurism)… cũng không khai thông được bế tắt, bởi, một điều rất dễ hiểu là hướng đi trên cũng đều y cứ trên lý trí, vẫn là ý-thức-về, chứ không là của cái từ sự vật hiển lộ ra… Lời nói về nó không là cái chính nó, sức nóng của ngôn ngữ không đủ sức làm cho Chân Lý tỏa sáng! Cũng bởi sự bế tắt và gây lắm tai hại của triết Tây mà bốn năm chục năm gần đây người ta bắt đầu lại phải dò dẫm, lần mò tìm Minh Triết nơi phương Đông.
I.2. Văn Hóa Sử Dụng Triết Tự, Triết Tóan Dẫn Đến “Sách Ước” Minh Triết Việt
Triết tự là một bộ phận của Triết Văn của văn hóa Minh Triết, nó có khả năng làm cho sự vật hiển lộ ra như chính nó vì Triết Văn Minh Triết không nhằm nói về sự vật mà mô phỏng theo tượng hình và tượng ý trong tự thiên nhiên của sự vật mà hình thành theo hướng dẫn của Đạo Dịch: “Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên”. (Chữ pháp có nghĩa là làm theo hay theo dấu… Trong nghĩa nầy câu trên có thể hiểu là: Con người phải mô phỏng theo những gì xảy ra trên Trái đất; Trái đất thì dựa vào qui luật Thiên Nhiên; Qui luật Thiên Nhiên dựa nơi Chân Lý (tức Đạo) và Đạo dựa vào Tự Nhiên (chứ không do một ai đặt ra, chế ra).
Con người dựa vào Địa (đất) là gì? Địa đây có nghĩa là Địa cầu hay qủa đất chúng ta đang sống: Dựa vào qủa đất là dựa vào Đạo Vật Lý Địa Cầu. Địa Cầu quay quanh Mặt Trời tạo ra tối sáng, ngày đêm mang trong nó khí âm dương, lạnh nóng để từ đó mà sinh nẩy muôn vật, muôn lòai. Dựa vào Địa cầu cũng còn có nghĩa là dựa vào những gì ta quan sát thấy xảy ra trên trái đất mà chung qui lại là từ hai yếu tố và yếu tính của Âm Dương, Khôn Càn hay lý tính của Đất Trời, mẹ cha, cái đực… có tượng hình của nọc nòng hay nét liền (___), đứt (_ _), là tượng hình của bộ phận sinh dục của nữ nam, cái đực của hết thảy muôn thể, muôn lòai.
Lấy tượng “nòng” tròn (0), “nọc” cọc (I) hay Âm nhu, khe, kẽ đứt (_ _) và dương cương, cứng, cường, Càn (___) là mô phỏng theo (pháp địa) của cái dương cụ và âm hộ của các lòai đực cái có mặt khắp mọi nơi trên trái đất. Làm thế là bước đầu ta đã làm việc “bỏ lời lấy tượng” trong tiến trình cần làm của Đạo Dịch (Minh Triết) là: “bỏ lời lấy tượng, bỏ tượng lấy ý, bỏ ý lấy Đạo”, để cho sự vật hiển lộ ra như chính nó mà không phải theo cách áp đặt nhận thức mang tính chủ quan của người quan sát lên trên sự vật như cách của triết Tây.
Nhưng hai tượng Khôn âm (_ _), Càn dương (___) cũng chỉ mới là hai chữ số đơn giản tựa như con không (0) và một (I) của môn điện tóan của hệ nhị phân (binary do Libnitz, triết gia kiêm nhà tóan học Đức khám phá từ Dịch). Hai tượng số Khôn (_ _) Càn (___) nầy nếu được sử dụng để viết Dịch Số hay Lý số (Cái lý nằm trong con số chỉ ra Đạo Biến Dich) thì ta có được hệ Tứ Tựong (dùng hai chữ số) là các con Thái âm ( ), Thiếu Âm ( ), Thiếu Dương (&n bsp; ), Thái dương ( ) (tương đương với các con trong hệ thập phân là 0, 1, 2, 3 và hệ nhị phân là 00, 01, 10 và 11). Còn nếu ta sử dụng ba chữ số triết tự thì sẽ có được 8 con số hay Bát Quái và dùng 6 chữ số sẽ có được 64 quái Dịch trong Kinh Dịch (tương đương với các con số từ 0 đến con 63 của hệ thập phân (Nguồn: Ba Hệ Số Tóan Số trong Văn Hóa Cổ Việt của cùng tác giả XB 2004). 64 quái Dịch này đã làm nên quyển “Sách Ước Trinh Nguyên Không Một Chữ” và đây cũng chính là Sách Minh Triết của nòi Việt mà các lãnh vực của nó bao trùm lên cả Thiên Đạo và Nhân Đạo. Đây là 64 con tóan hàm chứa cái lý trong nó cho nên các con số nầy, gọi là các con lý số chỉ ra đạo biến dịch của sự vật, nên còn được gọi là các con Dịch số.
I.3. “Chứng Mách” Về Nguồn Gốc “Sách Ước” Minh Triết Việt
Dân gian Việt có câu: “Nói có sách, mách có chứng”, phần 1.2 ở trên đề cập việc nói có sách là Sách Ước, phần 1.3 nầy xin “mách có chứng” về nguồn gốc sách Ước (sách Minh Triết), là của dòng giống Tiên Rồng 100 trứng, nghĩa là sách của ta.
Kinh huyền thọai Sách Ước nói đại khái rằng: “Thần tảng Viên là Nguyễn Tuấn, là một trong 50 người con theo Cha Lạc Long Quân trong lần chia tay và chia con với Mẹ Âu Cơ. Khi xuống Long Cung, Ông vì qúa nhớ Mẹ nên đòi trở về và được Long Vương tặng cho Sách Ước (có 3 trang nhưng chỉ có hai trang đọc được và trang 3 thì trống không) và cây gậy thần 9 đốt với lời nhắn nhủ ghi tâm rằng: “Sách Ước Trinh Nguyên không một chữ, gậy thần đốt trúc có hai đầu””
Trước khi đi vào gỉai mã huyền thọai này, nghĩ cũng cần thưa qua về ý nghĩa từ huyền thọai trong văn hóa cổ Việt: Ngày nay, một số đông, nhất là những người chịu ảnh hưởng của Tây học, Tàu học, không hiểu huyền thọai, đã đánh đồng từ huyền thọai và huyễn thọai, để rồi cho rằng huyền thọai trong dòng huyền sử Việt là chuyện huyễn hoặc, chuyện vu vơ, chuyện không đáng tin, không đáng để tâm đến… Cũng từ sự không hiểu biết về huyền thọại, những chuyện đáng ra phải viết là huyyễn (dấu ngã) lại viết là huyền (thọai) như nhiều tên sách viết về ông Minh: Thay vì phải viết là Huyễn Thoại *** (vì đây là chuyện huyễn hoặc, đặt điều, phịa…, phải liệt nó vào huyễn thọai chứ không thể như nhiều người (Luật sư Nguyễn Hữu Thống, LM Nguyễn Hữu Lễ… viết là Huyền Thọai ***). Viết thế là sai, vì:
@_ Huyền: vốn nghĩa là khép lại, dấu kín, cất dấu… Dịch số nó là con Thiên Sơn Độn, là con huyền số 15 chứa trong Lạc Thư (cọng chiều nào cũng 15, viết ra chữ nòng nọc hay binary là 001111; đổi sang Dịch là Thiên Sơn Độn; nghĩa đen là trốn trong núi, nghĩa bóng là cát dấu, che dấu một điều gì)
@ _ Thọai: là kể, hay chuyện kể
Tóm lại, huyền thọai là chuyện kể dấu kín những điều huyền nhiệm cần moi tìm, nhưng tại sao phải là chuyện kể mà không là chuyện viết ? Thưa có ba lý do:
_ Thứ nhất: Những chuyện nầy xuất hiện, có khi trứơc cả chữ viết và được dân gian truyền miệng từ đời trước sang đời kia: ông bà kể cho cha mẹ, cha mẹ kể cho con cháu… và cứ thế truyền dòng, gọi là kể chuyện đời xưa…
_ Thứ hai: Truyền miệng sẽ không bị hủy diệt bởi thời gian, nhất là trong bối cảnh chính trị Việt Nam, tránh được ác tâm tiêu diệt văn hóa của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc:
“Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” Ca dao.
_ Thứ ba: Có lẽ lý do thứ ba mới là lý do chính. Văn hóa (văn hóa chứ không phải văn chương) phương Đông nói chung và Nam Việt nói riêng, không muốn rậm lời, muốn càng cô đọng càng tốt, càng hàm súc; càng nhiều lời ý càng thu hẹp lại và nếu bỏ được lời đi càng tốt hơn. Dùng lối kể, lối thuật bằng miệng là nhằm không bám vào lời, nhằm nhắc nhở nên quên lời mà chỉ lấy ý “bỏ lời lấy ý” (Dịch), để con cháu nhiều ngàn năm đừng bám vào lời mà cần nghe để cốt lấy ý. Dùng lời chỉ là chuyện chẳng đặng đừng, “tạm dụng, cưỡng dụng” (Lão Tử)…
Mỗi người có thể kể chuyện mỗi khác nhưng điều quan trọng, không thể khác là các huyền tự và huyền số nằm trong huyền thọai như: Chuyện chia con vẫn 100 con của Tiên Rồng, 50 theo Mẹ lên núi, 50 theo cha xuống biển, vẫn gậy thần 9 đốt, vẫn là gậy trúc chứ không thể gậy gì khác, vẫn Sách Ước ba chương hai chương đọc được, chương ba (2/3) không đọc được. Ngàn đời truyền lại vẫn là như thế… Đây là bí mật truyền dòng, tuyệt nhiên không để “người lạ” biết: Có thể xem những cái “huyền” nầy là cái chìa khóa hay là những cái “password”: Không có mã ngữ, không biết mã số thì không thể mở vào!
Các từ Tiên Rồng, gậy thần bằng trúc, lên núi, xuống biển và các con số 100 (con), 50 (ltheo Mẹ, theo cha), 9 (đốt), 3 (chương), 2 (đọc được), “chương” 3 (không đọc được)… Chuyện kể được xem là huyền thọai, dù ở vào đời nào, suốt dọc dài hơn 4.000 năm, các chữ và số đặc biệt đó vẫn được kể không khác … Nhờ vào huyền tự và huyền số nầy mà ta mới hiểu huyền thọai, thiếu nó ta không thể mở lối bước vào huyền thọai được.
Tóm lại, một chuyện kể được xem là huyền thọai thì, chuyện kể ấy phải có chứa trong nó những huyền tự, huyền đồ, huyền số, nếu không nó chỉ là huyễn thọai.
@ Những điều cần lưu tâm trong huyền thọai Sách Ước Gậy Thần:
• Nói: “sách được Long Vương (Lạc Long Quân) tặng” là ý rằng: Nguồn gốc sách là của dòng Việt
• Nói: “sách không chữ” là muốn chỉ phần 64 qủe Dịch trong Kinh Dịch, là phần nguyên thủy “trinh nguyên”, chưa chua lời Thóan vào Hào từ vào, về sau.
• Nói: “gậy trúc” mà không là gậy gì khác là muốn gợi hai ý: 1) Trúc là biểu tượng của người quân tử, cả Hán Nho lẫn Việt Nho. 2) Đạo do gậy trúc hình thành là Đạo Nho, là Đạo Biến Dịch của Âm Dương Dịch Số (sẽ được làm rõ ở các phần dưới)
• Nói: “gậy trúc” nhằm gợi ý các chấm và vạch nơi đốt trúc để gợi ra nét của hai chữ số Khôn (_ _) và Càn (___) sử dụng trong “Sách Ước trinh nguyên”.
• Nói: “đốt trúc có hai đầu”: Nhắc đến cái lưỡng hợp: Hai phần chẵn, lẻ, âm dương trên gậy được đành dấu trên các tiết (lóng, đốt) của gậy trúc mang tính lưỡng-phân-nhưng-không -tách rời (Xem các hình phần dưới). Chính gậy trúc nầy, tùy theo cách sử dụng gậy, sẽ hình thành Hà Đồ hay Lạc Thư (Xem phần giải dưới), là hai đồ hình căn bản hình thành Dịch Trinh nguyên, tức sách Minh Triết Việt.
• Nói: 100 (con), 50 theo Cha, 50 theo Mẹ là nhằm chỉ số chấm tròn đen trắng trên hai hình Hà Đồ và Lạc Thư và khi gộp lại thành con Rùa Thần vật tổ (Xem hình)
• @ Giải mã huyền thọai Sách Ước Gậy thần:
Câu: “Sách Ước Trinh nguyên không một chữ” nhằm mô tả hình thức cấu trúc của sách Ước nguyên sơ (trinh nguyên), là không dùng chữ theo thông lệ (mà dùng triết tự), đã được làm sáng tỏ như các phần viết trên; còn câu “Gậy thần đốt trúc có hai đầu” chỉ ra sự hình thành hai hình Hà Lạc làm nền tảng của sách. Ta sẽ làm rõ điều này qua phần giải mã dưới:
a/ Gậy Thần 9 đốt tạo Hà Đồ: Hãy đánh dấu từ 1 đến 9 trên mỗi đốt của cây gậy trúc và nhớ sắp các số chẵn về một bên, số lẽ về bên kia, số 5 đặt giữa gậy, như hình dưới:
8 ; 6 &nbs p; 4 2 ;5 1 &nb sp; 3 7 ; 9
Gậy thần 9 đốt tạo Hà Đồ
Xong, hai bàn tay nắm vào giữa gậy, mỗi bàn để mỗi bên con 5 và bắt đầu khoa gậy nửa vòng tròn từ vị trí ban đầu được đặt nằm ngang, nghĩa là để gậy ở vị trí thẳng góc với vị thế ban đầu và nhớ đổi các con số chẵn bằng số lượng của chấm đen và lẻ bằng số lượng của chấm trắng như trên hình, ta sẽ có được:
_ Vòng lõi trong cùng có 5 chấm trắng, do đốt được đánh dấu bằng số 5 tạo ra
_ Vòng 1 (từ trong kể ra) là vòng chứa 10 chấm đen, do 10 đầu ngón tay tạo nên
_ Vòng 2 có một chấm trắng nằm phía dưới và hai chấm đen phía trên
_ Vòng 3 có 3 chấm trắng nằm phía trái và 4 chấm đen phía tay phải
_ Vòng 4: 6 chấm đen phía dưới và 7 chấm trắng phía trên
_ Vòng 5: 8 chấm đen phía tả và 9 chấm trắng phía hữu, như đồ hình dưới: &n bsp; &n bsp; &n bsp;
7 ; ; ;
2
110 &nb sp;
8 ; 3 5 ; 4 9
1
6
Hình Hà Đồ do Gậy Thần hình thành
2/ Gậy Thần Tạo Lạc Thư:
Lần nầy, gậy trúc được đánh dấu từ 1 đến 9, như hình bên dưới:
1 2 ; 3 &nbs p; 4 5 ;6 7 ; 8 9
Hình gậy tthần 9 đốt tạo Lạc Thư
Lần nầy, thay vì dùng hai tay múa gậy như trước, hãy sắp gậy đặt vào 4 vị trí: ngang dọc thẳng thước thợ (Tạo thẳng góc 90 độ) và rồi lại sắp chéo góc (chia với hình gậy lần trước với góc 45 độ); nhớ ghi lại bốn lần đặt gậy và cũng không quên đổi các con số trên gậy sang chấm đen, trắng tùy theo nó là lẻ, chẵn như lần trước, ta sẽ có được hình Lạc Thư như bên dưới:
9
4 ; ; 2 d &nbs p; &nbs p; 4 &nb sp; 9 ; 2
a
3 ; 5 &nbs p; &nbs p; &nbs p; 3 ; 5 ; 7
8 ; b 6 c 1
8 ;1 &nbs p; 6
Ghi chú: a, b, c, d ghi vị thế 4 lần đặt gậy
Phần I.2 và I.3 trên minh chứng rõ ràng rằng: Chuyện Phục Hi nhìn thấy Long Mã, thấy rùa Thần xuất hiện là chuyện huyễn thọai, nhằm đọat quyền trước tác và chuyện như là viễn vông, là huyễn thọai, còn chuyện Sách Ước Gậy Thần khi được giải mã, sẽ thấy được ý nghĩa và giá trị của nó, nó xứng đáng được gọi là huyền thọai.
Dưới đây xin tiếp tục giải mã con Rùa Thần theo tinh thần Văn hóa Việt để biết nó là gì, nguồn gốc từ đâu, để làm gì …
I.4. Nguồn Gốc và Ý Nghĩa Rùa Thần Dẫn Vào Minh Triết việt:
I.4.1. Rùa Thần là gì?
Điều cần để ý trong văn hóa cổ Viết, chữ Thần không mang ý duy thần của Thần quyền, mà thần trong ý thần bí, thần kỳ, kì diệu do âm dương giao hòa tạo ra. Dịch nói: “Âm Dương bất trắc vị chi thần” (âm dương không đồng điều tương tác với nhau mà tạo ra sự thần diệu, kỳ diệu như thần). Rùa thần ở đây mang ý là biểu tượng của hình rùa do hình âm và hình dương liên kết lại mà thành. Hai hình nầy chính là hình Hà đồ (tròn, dương) chồng lên Lạc thư (vuông, âm) mà thành hình Rùa Thần.
I.4.2. Sự Hình Thành Rùa Thần:
Hà Lạc do gậy thần tạo thành, Rùa Thần do Hà lạc chồng lên nhau mà có. Hà Lạc là Hà Đồ và Lạc Thư: Một hình tròn, một hình vuông nên khi chồng lên nhau các số sẽ không trùng lập mà bốn số nằm bốn góc của hình vuông Lạc Thư, sẽ nằm lọt ra ngòai mang hình thù như thể bốn chân rùa, xin xem cách chồng hình bên dứới:
Hà Đồ ; ; ; Lạc Thư &nbs p; &nbs p; Rùa Thần Vật Tổ
I.4.3. Tôn rùa lên làm Rùa Thần Vật Tổ mang ý gì ?
Khác với các nền văn hóa khác, dòng Việt con tôn vật nào đó lên làm vật tổ không mang nghĩa là lòai vật đó linh thiên ta phải thờ cúng nó, mà mang nghĩa là nhắc về nó để gợi nhớ một tượng đồ nào đó của Dịch (như trong trường hợp chọn con rùa), họăc nhằm truyền ý (như dòng Việt nhận mình là dòng Hồng Lạc là một giống thiên di trốn tuyết, xuôi Nam để lánh nạn và sẽ trở về khi mùa Xuân nắng ấm…)
Tôn lòai rùa làm Rùa thần là nhằm nhắc về đồ hình Rùa Thần như hình vẽ trên: Chính đồ hình nầy cho ta thấy trong cấu trúc của nó, có 50 chấm đen và 50 chấm trắng (Hà Đồ: 25 trắng và 30 đen, tổng số là 55; Lạc Thư có 25 trắng và 20 đen, tổng số là 45. 55+45 = 100; 100 nầy tương ứng với số con của Bọc Âu cơ là con của Mẹ Tiên Cha Rồng (tức Âm Dương).100 trứng..
Nhắc đến đồ Rùa thần là nghĩ đến bọc 100: Điểm đặc biệt chiếc bọc 100 nầy có số âm dương ngang bằng, gồm 50 âm Khôn (tượng trưng bằng chấm đen) và 50 dương Càn (tượng trưng bằng 50 chấm trắng) và nếu đem số 100 đen trắng nầy viết ra ta sẽ có ba dạng số của tóan số:
1/ Dạng thập phân (không kể đen trắng âm dương), là những số đếm hay số thứ tự
2/ Dạng 0, 1 trong hệ nhị phân (binary): Viết số lẻ hay chấm trắng là con 1; số chẵn hay chấm đen là con 0. Hệ số này ngày nay đã phát triển rất sâu rộng để trở thành môn điện tóan, áp dụng vào khoa vi tính (computer science), đưa nhân lọai vào bước một kỷ nguyên mới…
3/ Dạng thứ ba được viết với hai chữ số Khôn (_ _), Càn (___), sử dụng trong môn Lý Số Học (Học cái lý nằm trong con số) để khám phá Đạo Biến Dịch của vật chất, gọi tắt là Đạo Dịch. Chính hệ số thứ ba đã hình thành Sách Ước Trinh Nguyên hay Kinh Dịch nguyên thủy cũng là Sách Minh Triết Việt mà ta đang bàn đến!
“Thương thay than phận con rùa
Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia” Ca dao
Trên đây là hình rùa đội bia còn hình rùa đội hạc ngày nay có thể tìm thấy được thờ ở các thánh thất Cao Đài, là tôn gíao bản địa Nam phần VN mà giáo thuyết phần lớn dựa vào Việt Dịch. Trong nghĩa bong chữ đội ở đây có nghĩa là hổ trợ cho…, Rùa Thần hổ trô cho nền Nho học và Phật học
II. NGUỒN GỐC MINH TRIẾT VIỆT THẤY ĐƯỢC QUA ĐẠO VẬT LÝ ĐỊA CẦU
Đạo, như đã nói ở phần đầu, là Con Đường, khác với Giáo (hay Tôn Giáo) là phương tiện bằng ngôn ngữ nhằm trình bày cái Đạo. Ngày nay người ta thường đánh đồng nghĩa của Đạo và Gíao làm một: Người ta gọi Phật Giáo là Đạo Phật, Thiên Chúa Giáo là Đạo Thiên Chúa, Hồi Giáo là Đạo Hồi… Thật ra, để đi đến cùng triết (triết), ta gọi như thế là không chỉnh: Một đàng là cái chính nó, “nó-như-là-nó-là” (Đạo, Chân Lý, Con Đường…). còn cái kia (Giáo) là phương tiện nhằm thuyết giảng về, nhằm nói về...
Đạo Vật Lý Địa Cầu sử dụng hai triết tự Khôn (_ _), Càn (___), để làm cho con đường Biến Dịch nầy tự nó hiển lộ ra chứ không phải bằng ý niệm được trình bày thông qua ngôn ngữ. Gọi là Vật Lý Địa Cầu vì chính tự sự vận hành của Địa cầu chưng ra cái Đạo Lý Biến Dịch xảy ra trên Địa cầu,mà không thông qua ngôn ngữ ý niệm: Đạo nầy có được do Địa cầu quay chung quanh mình nó và quay xung quanh Mặt Trời tạo ra tối sáng, đêm, ngày và tạo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông… luân lưu mãi không ngừng nghỉ, ta có thể trực nhận qua tóan triết lưỡng phân như lời giải thích và hình minh họa của anh Nguyên K. bên dưới:
LƯỠNG PHÂN
LƯỠNG PHÂN LÀ CHIA 2 CÁI MỘT
MÀ KHÔNG TÁCH HAI RA ĐƯỢC
Nam châm
hình ảnh Thái Cực nhập thể
dẫu chia phân mà không phân chia được tánh
Âm Dương không chia lìa hai tánh bất lìa nhau.
Sự chia mà không lìa
ấy là phân lưỡng.
HỎI SỰ PHÂN LƯỠNG BỞI ĐÂU
Xin thưa tự ĐẤT tự TRỜI.
Địa cầu là CÁI MỘT luôn bị - được mặt trời chia hai nửa SÁNG TỐI. Chia theo mặt chứa trục thành vòng kinh với hai nửa tối sáng. Chia theo mặt cắt trục thành vòng vĩ với hai nửa sáng tối. Lưỡng phân là tất yếu, là sự đương nhiên của cái được - bị nhận sáng phải lưỡng phân thành nhị thể. Địa cầu với hai thể tánh tối sáng cùng có, không chia lìa, không tách biệt, phát sanh từ sự lưỡng phân nên chi lưỡng phân là định luật tự nhiên của đia cầu phải xảy ra trước tiên kể từ lúc địa cầu có. Người địa cầu là thành phần cái có của địa cầu bị được mô thức nên chi biết:
THÁI CỰC sanh lưỡng NGHI
LƯỠNG NGHI sanh tứ TƯỢNG
TỨ TƯỢNG sanh bát QUÁI
Thái Cực là gì thì lời giải thích không thể rõ, nhưng Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bát Quái mang phương vị địa lý của địa cầu __vậy theo đấy mà suy THÁI CỰC là ĐỊA CẦU nên chi mới có biểu tượng nầy :
Người gọi đấy là THÁI CỰC ĐỒ, người gọi đấy là ĐỒ LƯỠNG NGHI, chung qui cũng chỉ là danh từ mô tả hiện thực địa cầu nửa sáng nửa tối. Hỏi DỊCH LÀ GÌ là ý muốn tìm hiểu nhưng lại hướng vọng đâu xa mà không từ bình diện địa cầu là sự không thiết thực, phi khoa học. Nặng văn chương nhẹ toán pháp, bỏ qua tích dấu âm dương địa cầu thì làm sao biết được tánh lý bốn quái
KIỀN - CHẤN - KHẢM - CẤN
dương thể
KHÔN - TỐN - LY - ĐOÀI
âm thể
Học qua môn Hóa rõ biết tánh của khí dương nhẹ bay lên, tánh của khí âm nặng bay xuống. Học DỊCH, xét QUÁI mà bỏ qua CHIỀU HƯỚNG thì làm sao thấu ý. Coi kìa hai quái KIỀN - KHÔN với Kiền Dương hướng lên, Khôn âm hướng xuống : Khôn trên Kiền dưới để hai chiều giao hợp mới có cái sanh ra là THÁI ; Kiền trên Khôn dưới là bế BỈ vì hai chiều bất tương phùng.
Địa cầu BIẾN DỊCH để đêm trên ngày dưới rồi đêm dưới ngày trên
ĐẠO LÝ CỦA ĐỊA CẦU
Đổi trắng thay đen
Thay đen đổi trắng
Trời đất có vậy thử hỏi thế gian không vậy sao được mà than với thở.
Nhưng mà
không sự gì thái mà thông thái hoài
không việc gì bỉ mà bế bỉ mãi
là lời của TOÁN LÝ vậy
(Nguồn: www.nguyenk.com vào trang web nầy rồi click “Lưỡng Phân”)
III. LỜI TẠM KẾT CHO BÀI MINH TRIẾT VIỆT 2
Trên đây là phần đại cương của việc dùng “triết tự và triết văn” nhằm làm thõa mãn những người đòi hỏi “nói có sách mach có chứng”. Thật ra ngòai chứng tích về nguồn gốc của sách được nêu lên ở mục 1.3.còn rất nhiều chứng tích được minh chứng qua cổ vật, qua kiến trúc, qua tổ chức xã hội, qua huyền thọai… đã được nêu lên bỏi nhiều, rất nhiều người khác như triết gia Kim Định, các nhà Việt học: Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Cung Thông, Trúc Lâm Đòan Vũ, Đỗ Thành, Nguyễn Thiếu Dũng, Hà Văn Thùy, Nguyễn Anh Tuấn, Phạm Trần Anh, Nam Thiên, Đông Lan, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Công Bình …. và nhiều nhiều nữa, đã làm cái việc gọi là “mach có chứng” cho nền Minh Triết Việt là của dòng Việt.
Trong lúc đi tìm chứng và sách, ta cũng thấy được rằng Sách Ước Minh Triết Việt đã không sử dụng ngôn ngữ ý niệm, nên đã không bị vướn vào tính chủ quan của cảm tính như các nền triết lý khác: Các con Khôn (_ _), Càn (___) vốn là những con tóan số chẳng khác với các con số của hệ nhị phân (binary) hay hệ thập phân (decimal), nên nó mặc nhiên mang lấy tính khách quan của khoa học. Các con số được thiết lập bởi chữ số gọi là triết tự mang cái lý trong nó và nó tự chưng cái lý nầy ra qua tượng hình và tượng ý của nó để cho ta đạt lý của sự vật mà con số nó biểu trưng chứ không phải do ta áp đặt cái lý của minh lên trên sự vật như thể dùng ngôn từ.
Qua khoa học Lý số Minh Triết như phần trinh bày trên, nhiều hy vọng việc phục sinh Minh Triết Việt sẽ chẳng những làm ngọn đuốc dẫn đường cho VN hôm nay mà còn nhằm tránh được cái điều mà Lê Việt Thường nói là: “những Ý NIỆM được “khuôn đúc” theo khuôn mẫu của Sự Vật, rồi được hệ thống hoá thành Ý THỨC HỆ đã gieo không biết bao nhiêu tang tóc cho Nhân Loại cho đến tận hôm nay” (Con Dường Về Với Dân Tộc của Lê Việt Thường trên mạng anviettoancau.net tháng 10/10/09), của triết Tây.
Một chút tư duy còn nhiều lộn xộn và thô thiển về Minh Triết Việt xin sẽ được trình bày tiếp trong những bài đến để làm sáng tỏ thêm vấn đề nầy.
(Còn tiếp)
Email liên lạc: tdnguyenvietnho@yahoo.com
|