Tác giả |
|
Simon Hội viên
Đă tham gia: 10 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 114
|
Msg 1 of 10: Đă gửi: 12 February 2007 lúc 10:46am | Đă lưu IP
|
|
|
Hầu như những người xem số nghiệp dư đều đến với bói toán từ mong muốn biết được số mệnh của ḿnh. Thế mà “thế thượng ác nhân đa”, người có số tốt th́ ít mà trắc trở, khó khăn th́ nhiều. Do vậy mà ước muốn cải sửa số mệnh luôn là nỗi băn khoăn, khắc khoải của những người tự xem số cho ḿnh.
Ở đây tôi nhấn mạnh là tự xem cho ḿnh v́ sửa số cho chính ḿnh đă là quá khó, đừng nói chi đến sửa cho người khác. Bài viết này cũng chỉ mong đề ra một vài ư hướng để được nghe các bậc cao nhân chỉ giáo thêm.
Điểm lại trong các sách vở về lư số, bài viết về sửa đổi số mệnh của Nguyễn Phát Lộc trong quyển Tử vi tổng hợp là sát và có lư luận chặt chẽ nhất. Thế nên những ǵ bậc đại tiền bối đă nói tôi chỉ xin nhắc qua và thêm thắt vào chút ít, mục đích của bài viết này là bàn đến phần thực nghiệm, nghĩa là trả lời câu hỏi “lư thuyết đă là như thế, c̣n thực hành th́ sao?”
Cách đặt vấn đề của NPL phải nói là đă cực kỳ hoàn hảo (tử vi tổng hợp, trang 55):
- Số mệnh là ǵ? Nên hiểu số mệnh như thế nào?
- Hạnh phúc là ǵ? Nên đặt tiêu chuẩn hạnh phúc ra sao?
- Làm thế nào để cải sửa số mệnh và mưu cầu hạnh phúc.
- Biết được số mệnh như thế, con người cần có lập trường ǵ trước số mệnh.
Có thể hiểu cách đặt vấn đề này đại khái như sau:
Mục đích rốt ráo là hạnh phúc hơn, chứ không thể cụ thể là giàu hơn, quyền cao chức trọng hơn …. Nên cái đoạn hạnh phúc là ǵ là hết sức quan trọng. Trên 2 nền tảng “số mệnh” và “hạnh phúc” đó mà t́m cách để có hạnh phúc nhiều hơn. Và cuối cùng, nếu không sửa nỗi th́ cần có thái độ như thế nào để có thể có đủ dũng khí tiếp tục sống và đón nhận.
Nếu đi được con đường do Nguyễn Phát Lộc chỉ ra th́ không c̣n ǵ để bàn căi nữa, dưới đây tôi chỉ mạo muội t́m một cách tiếp cận khác mà hy vọng là dễ thực hiện hơn.
I. Có thể sửa số không và sửa được đến mức nào.
Tôi tránh không lao đầu vào khái niệm vốn hay gây tranh căi “Số mệnh là ǵ” mà chỉ xét xem có cải sửa số mệnh được không và từ đó may ra cũng gợi mở cho chúng ta con đường để t́m ṭi cách sửa số.
Thuyết nhân quả và nghiệp báo của phật giáo cho chúng ta những gợi ư gần nhất về số mệnh. Khi nói về tính chất của nghiệp quả, đức phật hỏi “Tỷ như có người cho một muỗng muối vào bát nước. Hỡi này các tỳ khưu, các người nghĩ thế nào? Bát nước có trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là có. Đức phật lại hỏi “Bây giờ, tỷ như người ta đổ muỗng muối ấy xuống sông Hằng. Này hỡi các tỳ khưu, các người nghĩ sao, nước sông có v́ muối ấy mà trở nên mặn và khó uống không?” Các đệ tử phật trả lời là không. (theo “Đức phật và phật pháp” – Chương “Tính chất của nghiệp”)
Theo đó, th́ nếu như số mệnh được tạo ra là từ nghiệp báo, th́ việc cải đổi là rất “khả dĩ”, có thể từ mức rất “mặn” thành ra hầu như không có ǵ.
Có nhiều lư thuyết cho rằng số mệnh hàm chứa trong tâm trí con người. Kinh phật cũng có câu “Này hỡi các tỳ khưu, Như Lai xác nhận rằng chính Tác Ư là nghiệp”. Nhiều trường phái tâm lư cũng cho rằng, có ǵ đó trong tâm con người như là thiên hướng, dẫn dắt người ta hành động theo chiều hướng nào đó. Đáng chú ư nhất là học thuyết của Sigmond Freud về vô thức. Nếu quả như vậy, việc cải sửa số mệnh là nằm ở chỗ hiểu được chính ḿnh.
II. T́m cách thay đổi vận số trong tương lai nh́n thấy được bằng xem số
Nguyễn Phát Lộc cho rằng hạnh phúc là sự cân bằng giữa ư muốn và năng lực thực hiện. Hai thứ này càng gần th́ người ta càng hành phúc và cuối cùng rốt ráo là người ta phải tiết chế ham muốn, tự rèn luyện tâm trí để việc tự chế dễ dàng và thoải mái hơn đồng thời nuôi dưỡng một lối sống đạo đức. Khi làm được những điều trên, nói chung là người ta sẽ hạnh phúc hơn.
Nguyên tắc trên là cực kỳ đúng đắn chỉ có điều đó là nguyên tắc chung trong toàn cục. C̣n cụ thể th́ sao? Ví dụ, nếu tôi thấy trước trong vài năm tới tôi sẽ gặp đại nạn và vấn đề đặt ra là làm sao tránh hay chí ít là giảm nhẹ, th́ có cách nào hay con đường nào cho tôi chút hy vọng không?
Gốc rễ vấn đề việc hạn chế ham muốn và sống cuộc đời đạo đức. Nhưng bàn về đề tài này th́ khó quá mà NPL cũng đă nói rồi. Ở đây, tôi chỉ xin nói phần trên một chút thôi, nghĩa là từ phần “thân cây” trở lên.
Theo tôi có mấy con đường sau khả dĩ có thể cải sửa chút ít số mệnh nếu như chúng ta đă nh́n thấy nó mờ mờ trong tương lai:
- Lời nhắc nằm ngay trong kỹ thuật xem số, bát tự hà lạc là kỹ thuật có được những lời nhắc có ích nhất
- Chu kỳ sinh học, nhịp sinh học.
- Nh́n kỹ vào ḷng ḿnh để t́m giải pháp.
III. Bát tự và tử vi trong việc sửa số:
Muốn sửa được số bằng cách xem bát tự th́ phải hiểu rơ thuyết “thời và vị” trong kinh dịch. Như trong sách “Kinh dịch - Đạo của người quân tử” học giả Nguyễn Hiến Lê đă giảng giải rất rơ về chuyện này. Ví dụ rơ nhất là quẻ Sư. Thời của quẻ Sư là chinh chiến, các vị (hào) có đủ cả các h́nh thái có thể có của một cuộc chiến, từ thắng trận được ban khen (hào 2) đến “xe chở xác quy về” (hào 3), kể cả thành công nhờ rút lui chiến thuật (hào 4) … Cái cần là xem ḿnh ở vị nào, thời nào và tại sao. V́ vậy mà việc nghiên cứu dịch một cách thấu đáo là hết sức cần thiết. Ít nhất là hiểu rơ tượng của từng quẻ, tránh tính trạng quá chú ư tiểu tượng (ư hào).
Như quẻ Đại quá là chỉ thời của cây cột chống đỡ 1 vật nặng trong thế chênh vênh. Nghĩa là ít nhiều ǵ cũng có gian nan. Có hào chỉ ra vị là cây cột yếu có thể đổ (hào 3), có hào chỉ ra là chống đỡ được nhưng vất vả mà nhân việc này có tiềm ẩn sai lầm, nguy hiểm (Hào 4).
Quẻ Hằng cũng vậy, nam nhân mà gặp quẻ này th́ thường là không tốt. V́ Hằng là lâu bền, chỉ trong cái thế bề tôi trung với vua, vợ chung thủy với chồng th́ mới tốt thôi c̣n lại chỉ ra là t́nh thế kẹt, không nên ở lâu mà cứ nấn ná, tŕ trệ.
Quẻ Đỉnh là tượng chỉ sự hưởng lộc vị, nhưng lên đến hào 6 th́ là lúc tàn cuộc, phải ngưng thôi.
Xin lấy một vài ví dụ có thật trong xem bát tự.
VD1: Một quan chức có các tuế vận như sau:
Đại vận là Thuần khảm - hào 3.
2000: Trạch phong đại quá - hào 4
2001: Lôi pḥng hằng – hào 5.
2002: Hỏa phong đỉnh – hào 6.
2003: Hỏa thiên đại hữu – Hào 1.
Năm 2000, v́ thấy đại vận xấu và ư hào rơ ràng là phải chống đỡ vất vả tôi khuyên nên vừa phải, thận trọng, không nghe tiểu nhân (Hào 4 quẻ Đại quá khuyên không quá nghe bọn tiểu nhân) nhưng ông này đang đắc thời không hề chú ư lời khuyên này. Đúng như ư hào, ông cũng chống đỡ thành công. Đến năm sau, tôi bắt đầu khuyên ông nên thuyên chuyển, rút lui ra khỏi vị trí hiện tại nhưng ông cũng không nghe để đến cuối năm vướng vào một chuyện bê bối, ầm ĩ. Tuy nhiên, ông cũng qua được. Đầu năm 2002, ông gọi tôi đến mà nói rằng tôi đă nói đúng những nạn của ông nhưng nay ông thoát hết rồi, bây giờ ông muốn tôi xem tiếp. Tôi thấy hay tuế vận 2002 và 2003 đều nói rằng không được ham lộc vị nên thoái nhàn. Tôi nói thẳng là nếu ông không tự lui th́ sẽ bị mất chức. Tôi nói nếu rút lui th́ đến 2005 ông có cơ phục chức và như vậy sẽ tốt hơn nhiều so với để bị cách chức. Ông không tin và nói rằng sóng gió như thế mà ông c̣n chống chọi được, qua được th́ không việc ǵ phải sợ.
Đến cuối năm, trong cuộc họp cấp cao nhất, thượng cấp của ông bị chất vấn dữ dội về chuyện của ông đến nỗi giờ giải lao, vị thượng cấp gọi điện về bảo soạn ngay lệnh cách chức ông.
Ông bạn tôi nhận lệnh thật bất ngờ, ra đi cũng hết sức bất ngờ và đến nơi mới trong tư thế kẻ vừa bị cách chức, bơ vơ, ngơ ngác (hào 1 quẻ Đồng nhân). Không chuẩn bị trước, lại ở trong thế khó khăn như vậy nên khi ra khỏi đại vận hào 3 quẻ khảm, ông này có được bổ nhiệm lại nhưng không mấy ǵ hay.
Qua câu chuyện trên, ta thấy nếu ông này tin tưởng hơn, dũng cảm ra đi từ khi đang quẻ Hằng – hào 5 th́ hay hơn nhiều. Đến quẻ Đỉnh hào 6 mà ra đi th́ chí ít cũng không bị cách chức, có nhiều thời gian hơn để vận động một vị trí khác, không bị bất ngờ và bị động như đă nói ở trên.
Dù sao th́ ví dụ trên cũng cho ta thấy Bát tự đă cho ra hàng loạt lời nhắc chỉ có điều ta có dám nghe hay không thôi.
VD2: Khi tôi gặp người này th́ ông đang ở đại vận hào 3 quẻ Khôn (cũng là nguyên đường biến quẻ), tiểu vận Thiên sơn độn hào 3. Ông đang trong thế phải ẩn nhẫn đợi thời, lại có nhiều chuyện buồn phiền trong gia đ́nh. Nh́n thế quẻ Khôn lại là hào 3, vị cương nhưng hào nhu không hợp, ông lại quá nóng tính, cương liệt nhưng lại quá ủy mị trong cư xử nên không phát tác được cái hay của quẻ Khôn. Trước mặt là đại vận kế hào 4 quẻ Khôn, không lấy ǵ làm hay. V́ thế, nếu không có những sửa đổi cho hợp với vị của nguyên đường và biến quẻ th́ đến hào 4 quẻ Khôn sẽ rất khó khăn. Tôi bèn khuyên ông đại khái có 2 ư: đă không gặp thời mà phải trốn th́ cứ ung dung bực tức làm ǵ, sắp hết thời độn rồi. Thứ 2 là ở quẻ Khôn là nhờ đức âm, vậy nên làm ḥa với vợ con, làm tṛn vai tṛ người chồng người cha. Nếu làm được như vậy th́ đến đại vận hào 4 quẻ Khôn, tiểu vận Lôi địa Dự hào 4 sẽ có thành đạt mà sau c̣n nhờ vợ nhiều.
Ông nghe theo, ung dung tu thân, tề gia, mấy năm sau được giải thưởng lớn và thành danh. Sau bị ốm nặng trong đại vận hào 4 quẻ khôn, nếu không nhờ vợ tận t́nh chăm sóc th́ chắc khó qua khỏi.
Ví dụ này cho ta thấy không những phải xem tiểu vận, đại vận mà c̣n phải xem rất kỹ chính quẻ và biến quẻ, hiểu rỏ lẽ cương nhu. Từ đó mà “Thuận thủy thôi xa” (theo chiều nước mà đẩy thuyền) th́ mới phát huy hết cái tốt, cản bớt cái xấu.
VD3: Một người có tiểu vận là Thiên hỏa đồng nhân – hào 2. Đồng nhân vốn là tượng tốt nhưng hào 2 th́ không hay v́ thời đồng nhân mà cứ khư khư với người nhà là không hợp. Tôi khuyên người này là nên mở rộng quan hệ, không phân biệt thân sơ. Người này quả là trong thế rất khó làm như vậy v́ vốn bị người ta nghĩ là được ưu đăi, lập dị. Nhưng anh này đă phá bỏ được cái thế đó bằng cách cố gắng lui tới, vui vẻ với tất cả mọi người. Sau này, khi người thân không c̣n làm to nữa, gặp tiểu vận là thiên phong cấu – hào 6 (gặp nhau trên cái sừng, tức là đấu đá nhau) anh ta mới có đồng minh và thành công, tránh được t́nh thế xấu vốn có của hào 6 quẻ cấu (cô độc, không người giúp, tranh đấu vất vả).
Qua ví dụ này ta thấy phải nh́n cả quá tŕnh và suy đoán. Hào 2 quẻ Đồng nhân là không đi lại với người ngoài, rồi tiếp tới sau vài năm là quẻ cấu hào 6, cô đơn không người giúp, nó cho ta thấy sự diễn biến tất nhiên và tất nhiên cũng chỉ cho ta thấy cách giảm nhẹ cái xấu đi.
*Vài ḍng về tử vi: V́ đây là forum dành cho Bát tự nên chỉ xin nói ngắn gọn về tử vi thôi. Hy vọng có lúc sẽ bàn chi tiết hơn tại forum tử vi.
Trong tử vi có hệ thống ảnh hưởng qua lại giữa các cung là tam hợp và xung chiếu. Tam hợp là bổ trợ cùng lên cùng xuống.
Xung chiếu là hoặc hổ trợ, hoặc bù trừ. Tôi thấy nên đặt biệt chú ư cái quan hệ này nếu muốn cải thiện vận số:
Cung phối và cung quan xung chiếu, “vợ khôn chồng ắt có ngày làm quan” nhưng nếu quá ham công việc, chuyện gia đ́nh nhiều khi hỏng bét.
Tài và phúc xung chiếu: Muốn có tiền th́ phải bớt t́nh, bớt nhân hậu đi, tuy nhiên phải có phúc mới làm giàu lâu bền
….
Có thể nói nhiều nữa về các mối quan hệ này. Ta có thể lợi dụng các mối tương quan đó mà lựa chọn trong ṿng hẹp những kịch bản khác nhau cho cuộc đời ḿnh.
C̣n một kiểu quan hệ nữa cũng có ích cho việc sửa số. Đó là các cḥm tinh đẩu. Ví dụ kinh điển mà tôi từng được dạy như sau:
Giả sử hạn có Đà la + Thiên mả + Song hao th́ rơ ràng là chỉ tay nạn tay chân. Nhưng mả + hao cũng có nghĩa là đi xa và tốn kém. Nếu người có lá số có cung thiên di đẹp (có hóa khoa càng hay), mả tốt th́ có thể tránh né được bằng cách đi xa và chủ động chi nhiều tiền cho chuyến đi. Người ta vẫn hay nói “của đi thay người”, có khả năng Đà la sẽ giảm nhẹ chỉ c̣n là điều tiếng qua lại hay bực bội qua loa thôi. Cách này cũng có cái nguy là nếu chủ động đi xa th́ cũng là tạo cái duyên để bị tai nạn xe cộ. Biết sao được, cái ǵ cũng có hệ số rủi ro của nó vả lại nếu không đi th́ liệu có tránh được không.
* Như ta biết, có những tai nạn bất ngờ như đang đi bị vật nặng rơi trúng đầu, phạm sai lầm ǵ đó khi thao tác như sai lầm khi lái xe, sử dụng thiết bị điện … hoặc nói lỡ một câu làm cho người khác thù ghét … vv. Nếu vẫn duy tŕ niềm tin rằng không có ǵ là ngẫu nhiên th́ có thể nói những sự cố này là có thể tránh được. 2 phần tiếp theo bàn về cách cải đổi số mệnh liên quan đến những sự cố nêu trên.
IV. Chu kỳ sinh học:
Nhiều chuyên gia cho rằng vào những giai đoạn chuyển tiếp nhất định, con người hay gặp tai nạn. Các bác sĩ tâm thần cho rằng vào những đêm trăng, dù bị giam trong những căn pḥng kín mít, các bệnh nhân tâm thần vẫn gào thét dữ dội hơn do thần kinh con người vào thời kỳ này mẫn cảm hơn. Ngược lại, binh pháp Tôn tử cũng dạy rằng không nên hành quân vào những ngày cuối tháng v́ lúc đó tâm trạng binh lính âm u, kém hưng phấn và kém nhạy bén.
Nếu muốn dụ địch để phục kích th́ tốt nhất là làm vào sáng sớm v́ “Sáng hứng khởi, trưa mệt mỏi, chiều u buồn, tối suy tư”. Lúc đang hứng khởi mà thắng th́ tất nhiên kẻ thù sẽ hăng hái truy kích và trúng kế.
Qua những ví dụ trên th́ ta thấy người xưa đă hiểu rất rơ chu kỳ sinh học của con người. Có nhiều software tính toán chu kỳ sinh học và cảnh báo những ngày nguy hiểm, tuy nhiên, cách tính đó quá thô sơ so với những chu kỳ có trong lá số tử vi và cách tính của phương đông.
Nếu nh́n tử vi như là sự chồng chất lên nhau của nhiều chu kỳ và điểm trùng phùng của nhiều điểm nguy hiểm của các chu kỳ khác nhau là một hạn nguy hiểm th́ chúng ta thấy có thể tránh được nếu hiểu rơ các chu kỳ đó.
Ví dụ có sách cho rằng vào thời điểm tuần triệt (tiểu hạn tuần triệt hay đại hạn tuần triệt) tuyến tụy của con người hoạt động mạnh lên và làm cho con người trở nên bạo dạn hơn. Đối với người tính t́nh bất cẩn th́ những lúc này thường dễ gây tai nạn. Như vậy, nếu ta tập trung hơn, ăn uống đúng cách để điều ḥa nội tiết trong cơ thể (ngày nay việc này thật dễ dàng) th́ có thể tránh được trục trặc này.
Như chúng ta đă biết, tinh đẩu không chỉ vượng tướng hưu tù trên lá số mà nó cũng vượng tướng hưu tù theo thời gian. Ví dụ mùa hè hay năm có nạp giáp hành hỏa th́ sao Vũ khúc thuộc kim sẽ yếu, những ai Vũ khúc thủ mạng th́ dễ dàng mắc sai lầm vào mùa này. Vậy nên thận trọng vào những lúc này và t́m cách bồi bổ hành kim.
Những thầy tướng, tử vi mà xuất thân từ đông y rất mạnh kỹ thuật này.Trong khuôn khổ bài này tôi không dám bàn rộng v́ sợ múa ŕu qua mắt các vị này.
V. Tâm lư học:
Trong lời tựa quyển “Freud thật sự đă nói ǵ” có đoạn đại khái như sau: giả sử bạn bước chân ra khỏi nhà để làm một chuyện quan trọng mà bị vấp chân, suưt ngă và bạn quay vào quyết định không đi nữa. Một số người sẽ cho là bạn mê tính và chê cười bạn. Nhưng Freud sẽ cho là bạn có lư. Nguyên nhân là v́ Freud cho rằng có ǵ đó không ổn trong tiềm thức của bạn và sâu thẳm trong vô thức, bạn biết rằng bạn khó mà thành công được.
Như phần mở đầu đă nói, Phật từng xác nhận ư là nghiệp. Nếu ta có thể nh́n thẳng vào ḷng ḿnh, hiểu rơ chính ḿnh và đối chiếu với những ǵ thấy được bằng xem số, có thể ta sẽ ṃ được cái ǵ trong tâm tưởng ta có thể là nguyên nhân gần của những thời vận không tốt của ḿnh. Cách này rất tốt và dễ làm đối với người biết Thiền. Nhưng với những người khác th́ quả là khó.
Thế nên tôi đề nghị một cách nữa là nghiên cứu kỹ và tự hiểu chính ḿnh. Phân tâm học cho rằng có những bản năng cơ bản chi phối hành động con người từ trong tiềm thức. Cơ bản nhất là tính dục, bản năng sống và bản năng chết. Trong quyển tử vi tổng hợp, Nguyễn Phát Lộc cho rằng đến hơn 60% các sao trong tử vi có liên quan dục tính. Xem ra th́ điều này quả thật không có ǵ là đáng ngạc nhiên. Nếu như hiểu được tâm lư của ḿnh và giải phóng năng lượng tâm lư một cách phù hợp th́ ta sẽ làm chủ được một phần đáng kể số mệnh của ḿnh.
VI. Kết luận:
Để sửa đổi số mệnh hay phần nào tránh được những cái xấu trong tương lai th́ có thể theo những gợi ư trong kinh Dịch mà chúng ta có được qua quẻ Hà lạc.
Những người rành về chu kỳ sinh học và đông y có thể t́m thấy sự liên quan giữa tử vi và những chu kỳ của đời người. Ngày nay với những thông tin đầy đủ và y học hiện đại, người ta có khả năng thay đổi đáng kể những ảnh hưởng của các chu kỳ này.
Những người có khả năng thiền định có thể chỉ ra được nhân duyên của những nghiệp chướng mà ḿnh phải gánh và có thể có cách tu thân phù họp. Trường hợp hiểu biết sâu xa về tâm lư th́ đây cũng là một gợi ư hay để biết phải làm ǵ để tránh những rủi ro trong tương lai.
Những điều nêu ra ở trên thật sự không dễ làm và cũng chưa đâu vào đâu. Người viết chỉ mong nêu được vấn đề để mọi người cùng nghiên cứu và những cao nhân đă từng nghiên cứu sâu xa hơn chỉ giáo thêm cho ở những chỗ đúng, vạch cho thấy những chỗ sai lầm, người viết sẽ vô cùng cảm kích.
__________________ Simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
nguyenhoacai01 Hội viên
Đă tham gia: 07 January 2007 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 488
|
Msg 2 of 10: Đă gửi: 12 March 2007 lúc 10:04pm | Đă lưu IP
|
|
|
simon quả là bậc thức giả.
HC
|
Quay trở về đầu |
|
|
dungabdick Hội viên
Đă tham gia: 18 April 2007
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 54
|
Msg 3 of 10: Đă gửi: 18 April 2007 lúc 10:55am | Đă lưu IP
|
|
|
sáng mắt, sáng mắt đọc những bài simon viết rất thú vị khai sáng nhận thức cho kẻ hèn này
Một lần nữa Vô cùng cảm ơn simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
Simon Hội viên
Đă tham gia: 10 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 114
|
Msg 4 of 10: Đă gửi: 23 September 2009 lúc 4:48am | Đă lưu IP
|
|
|
Sau khi đọc xong quyển "Những kẻ xuất chúng" của Malcolm Gladwell, tôi thấy nó khá hay(trừ hai đoạn viết thêm vào của 2 ông tên B́nh) nên có ư định tóm lượt ra đây cho mọi người cùng tham khảo. Nhân tiện cũng đưa ra vài ư kiến cá nhân.
1. Trong phần đầu cuốn sách, tác giả cho rằng con người dù thế nào cũng không thể tách khỏi môi trường sống của ḿnh mà trái lại là sản phẩm của môi trường. Từ đó, có thể nói theo kiểu phương đông là “thời thế tạo anh hùng”.
Tác giả dẫn chứng trường hợp đội tuyển khúc khôn cầu Canada mà trong đó những người sinh tháng 1, 2 và 3 chiếm đa số trong khi chỉ có 2 người sinh tháng 8 và 9 và không có người nào sinh sau tháng 9. Vấn đề là người ta tuyển chọn theo lứa tuổi. Những đứa bé 10 tuổi nhưng sinh đầu năm dĩ nhiên là vượt trội so với đứa sinh cuối năm. Sự chênh lệch nhỏ nhặt này dẫn đến sự khác biệt to lớn là những đứa sinh đầu năm được vào đội tuyển. Mà khi đă vào đội tuyển, thời gian tập nhiều hơn, đồng đội giỏi hơn, huấn luyện viên tốt hơn và nhiều chế độ ưu đăi khác khiến cho sau 10 năm, sự khác biệt giữa 1 đứa vào đội tuyển và những đứa c̣n lại là cực kỳ lớn. Như vậy, sự xuất chúng trong trường hợp này là do may mắn tạo ra từ sự bất hợp lư xă hội chứ không phải xuất phát hoàn toàn từ tài năng của tuyển thủ.
2. Trong chương kế tiếp, tác giả khẳng định là không một thiên tài nào có thể vượt qua “qui luật 10.000 giờ”. Ngay như thiên tài âm nhạc Mozart, người bắt đầu sáng tác từ năm 6 tuổi cũng phải mất gần 14 năm, tức khi 20 tuổi mới tạo ra kiệt tác đầu tiên của ḿnh. Thiên tài th́ cũng phải đổ mồ hôi nước mắt, cái này th́ nhiều người nói, nhưng cái mới mà tác giả nêu được ra đây là, không phải ai chỉ cần chăm chỉ th́ có thể có được 10.000 giờ làm việc. Điển h́nh như trường hợp các tuyển thủ nói tới ở trên, nếu anh không được nhận vào đội tuyển, anh không thể có sân, đồng đội và huấn luyện viên để có thể chơi đủ 10.000 giờ cho tới khi anh đủ tuổi vào đội U21. Nhiều tên tuổi lớn trong ngành tin học, đă lớn lên rất đúng thời điểm, tức là vào lúc khoa học máy tính vừa bước sang giai đoạn có bàn phím chứ không phải thẻ đục lỗ như trước. Nhiều người trong số họ thú nhận, nếu c̣n phải sài thẻ đục lỗ th́ có lẽ họ đă từ bỏ ngành này từ lâu. Đó là lư do Bill Gate, Bill Joy, Steve Jobs …. và nhiều tên tuổi nữa trong ngành công nghệ thông tin đều sinh ra trong khoảng những năm từ 1953 tới 1955, tức là khi họ tầm 18 hay 21 tuổi th́ thời kỳ thẻ đục lỗ chấm dứt. Những kẻ sinh sau thời kỳ này th́ tuy có thuận lợi về thiết bị nhưng môi trường cạnh tranh đă khốc liệt và cũng không c̣n cơ may chiếm lấy vai tṛ tiên phong nữa.
Tác giả c̣n dẫn ra nhiều tên tuổi nữa của các ngành khác nhau để chứng minh rằng không có những may mắn kỳ lạ, người ta khó gom đủ 10.000 giờ làm việc tích cực để trở thành xuất chúng dù họ có cần cù và chịu khó đến mấy đi nữa.
3. Tác giả cũng chỉ ra sai lầm của những người kỳ vọng quá nhiều vào số IQ (hệ số thông minh). Tác giả chứng minh rằng, IQ có thể khẳng định một người có chậm phát triển tâm thần không (IQ < 70), có thể vào đại học không (IQ>115), có thể thành nhà khoa học không (IQ từ 130 trở lên) nhưng không thể khẳng định những người có IQ cao hơn th́ sẽ thành đạt hơn sau ngưỡng IQ 130. Điển h́nh là Einstein có trị số IQ là 150 trong khi có người trị số này 200 mà hiện đang nuôi ngựa ở làng quê.
Vậy cái ǵ làm nên sự khác biệt? Tác giả cho rằng đó là truyền thống gia đ́nh, xă hội và vận may.
Tác giả phân tích cách giáo dục con của giới trung lưu và thượng lưu. Những đứa bé trong các gia đ́nh này biết ḿnh có quyền ǵ, biết thương lượng, nói chung là biết ḥa nhập thành công với thế giới xung quanh.
Ngược lại, những đứa bé trong các gia đ́nh nghèo thường rơi vào hai thái cực, một là quá nổi loạn thành ngỗ ngáo và ngược lại, quá rụt rè, bi quan và không biết giao tiếp.
Nh́n sâu hơn, tác giả cho rằng, lư do những người Do thái thành công vượt bậc ở châu Âu và Mỹ là v́ họ có nền tảng văn hóa mạnh mẽ và người Do thái khi di cư sang Mỹ th́ đă có nghề nghiệp như buôn bán, thợ thủ công chứ không phải là gốc nông dân như nhiều dân di cư khác.
4. Lư thuyết chủng tộc của những vụ rơi máy bay và tính cần cù của những người từ nền văn minh lúa nước.
Cũng theo mạch suy luận đó, tác giả phân tích các vụ rơi máy bay của Korean Airline và thấy là những sự cố máy bay của hăng này xuất phát từ truyền thống phân chia thứ bậc dữ dội trong xă hội Hàn quốc. Phân tích băng ghi âm, người ta thấy các cơ phó nhiều lần cảnh báo về nguy cơ với cơ trưởng nhưng cơ trưởng lờ đi hay không hiểu chỉ v́ cơ phó quá cung kính với cấp trên, nói giảm nhẹ đến mức lời cảnh báo chỉ c̣n là những gợi ư lờ mờ khó hiểu. Thêm vào đó, với truyền thống phân cấp như vậy, người trưởng phải gồng ḿnh lên dù đă kiệt sức c̣n người phó th́ không có ư thức trách nhiệm đủ lớn.
Trong nền văn minh lúa nước, khác với nông dân lúa ḿ, họ phải làm việc quần quật 360 ngày một năm. Chính v́ truyền thống này mà những sinh viên gốc Á phần lớn học rất giỏi. Làm việc từ sáng tới tối mịt suốt năm là chuyện mà người châu Âu thấy khó h́nh dung nổi.
Sau khi chỉ ra các truyền thống đó, tác giả cho rằng truyền thống văn hóa thấm sâu vào máu thịt chúng ta bền bỉ hơn nhiều so với những ǵ chúng ta tưởng. Những kẻ xuất chúng thường là thụ hưởng những thuộc tính hợp thời, hợp vị (không thể nói là tốt hay xấu mà chỉ là đúng lúc, đúng chỗ) từ gia đ́nh, văn hóa xuất thân và sự khác biệt nhỏ này đôi khi tạo đà cho những thành công rực rỡ.
Người học số và muốn cải số có lẽ cảm thấy thất vọng khi đọc cuốn sách này. Rơ ràng không chỉ nhờ vào bản thân mà những người xuất chúng rơ ràng có những cơ may đặc biệt, truyền thống gia đ́nh, dân tộc đặc biệt phù hợp, những thứ mà sức lực con người khó ḷng mà tự kiến tạo được.
Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ những thành tố giúp người ta trở nên thành đạt đă cho chúng ta nhiều gợi ư và hy vọng. Chí ít nó cũng cho ta thấy, sự khác biệt ban đầu có khi rất mong manh (như trường hợp các cầu thủ khúc khôn cầu), miễn là ta ư thức được, ta sẽ vượt qua được. Đây chắc là những người có 1 hay 2 đại vận đầu không tốt dẫn đến khó có cơ hội về sau. Nếu là vậy, trong những đại vận đó, càng cố gắng nhiều chừng nào th́ phần sau hy vọng khởi sắc càng cao.
Kế đến là chuyện 10.000 giờ, nếu ta có thể chọn được lĩnh vực mà ḿnh có thể kiếm ra 10.000 tập luyện, th́ ta có thể hy vọng nhiều thành công và những ai chưa thành công, phải kiểm tra lại thời gian làm việc của ḿnh. Hảy tranh thủ tất cả thời gian của đại vận tốt để làm điều này, nếu như bạn chỉ có 1 đại vận tốt. 10.000 giờ th́ chỉ tương đương 3 năm nếu mỗi ngày làm việc khoảng 10 giờ.
Những ai có tuần triệt trong cung quan hay tài, phải hiểu là bản thân ḿnh có những hạn chế chết người trong cá tính xuất phát từ thành phần xuất thân hay truyền thống gia đ́nh, xă hội. Khi ư thức được điều này, việc tự hoàn thiện là khả dĩ có thể làm được, bằng chứng là vấn đề của Korean airline đă được khắc phục 3 năm sau khi người ta phát hiện ra tầm quan trọng của nó.
__________________ Simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
htruongdinh Hội viên
Đă tham gia: 02 June 2009 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 275
|
Msg 5 of 10: Đă gửi: 31 October 2009 lúc 1:11am | Đă lưu IP
|
|
|
Chào Simon, chủ đề cải sửa số mệnh này rất hay. HTD có vấn đề về việc cải sửa số mệnh, muốn hỏi ư kiến của Simon. Lá số tử vi của HTD đều có Mệnh Thân trong tam hợp Thái tuế.
Mr HoaCai01 từng nói : "Thái Tuế là vị thế ngạo nghễ của danh dự khoa truơng v́ vậy Thái Tuế
xem là lời nói của kẻ cả, c̣n xuất từ miệng vua lại là Kim Khẩu giá trị
bằng vàng. Nh́n lá số của HTD không thấy nhiều dấu hiệu căn cơ chủng tử tu hành
(ngoại trừ cung Phúc và cung Tật có dấu ấn của tiền kiếp và của cha mẹ
để lại), cho dù 3 ngày 1 tuần đi chùa nghe kinh cũng không gọi là tu
thật sự. Bởi v́ như đă nói, người Thái Tuế thế chính danh vẫn c̣n chấp
ngă khi đánh trống to vang trước cửa Thiền mà chưa chịu bước vào". Lá số của HTD đúng của HTD thật. HTD là người Thái Tuế,
nhưng rất thích tu học Phật Pháp. Hiện nay HTD đang ở vận Thiên Không nên đi chùa, tu
học được, nhưng
vận 10 năm tới lại đắc thời "Thái Tuế". HTD không thích sự ồn ào, phức tạp xă hội, không muốn tranh đoạt quyền lợi. Vậy trong vận Thái Tuế năm sau, HTD đóng cửa ở nhà tu được không, như vậy là cải sửa số mệnh phải không? HTD nghỉ sự cải sửa này cũng tốt, v́ nếu lo việc tu học sẽ tránh những phiền phức của bộ sao Tuế Đà Cự Kỵ và hợp với quẻ bát tự hà lạc : Địa Lôi Phục (Tiên Thiên) và Thuần Chấn (Hậu Thiên).
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
Simon Hội viên
Đă tham gia: 10 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 114
|
Msg 6 of 10: Đă gửi: 31 October 2009 lúc 5:08am | Đă lưu IP
|
|
|
HTD kính,
Lập luận đến vận thái tuế hay là người thái tuế th́ đắc thời đều theo học thuyết của Thiên Lương. Cũng theo thuyết này, những người có Hồng loan ở dần thân tị hợi mới có xu hướng tu hành.
Có điều, nếu tôi nhớ không lầm th́ đă là người thái tuế th́ đâu có xét vận thái tuế hay không nữa (không nhớ có đúng không). Mà dù là dạng người nào trong 4 dạng người của Thiên Lương, theo tôi, việc bứt ra khỏi ṿng thế sự để đi tu cũng cực kỳ khó khăn. Đồng thời, một khi đă đủ dũng khí để quyết đi tu, đâu cần bàn lư số nữa.
Dù sao th́ theo tôi, việc xét có nên hay có thể đi tu hay không là cực kỳ khó. Tử vi vốn không xem được cho người tu hành. Nếu anh đă và đang đi trên đường tu trong những năm qua và đă đạt một tŕnh độ nhất định trong tu tập, th́ ảnh hưởng của tử vi lên anh đă không c̣n mạnh mẻ nữa. Nếu anh thường tỉnh thức, nh́n sự vật như là bản thân sự vật, th́ không phải lo ǵ “vận thái tuế”. C̣n nếu chưa được vậy th́ giờ nổ lực cũng chưa muộn, đâu cần phải xem tử vi.
__________________ Simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
htruongdinh Hội viên
Đă tham gia: 02 June 2009 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 275
|
Msg 7 of 10: Đă gửi: 31 October 2009 lúc 7:24am | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn Simon. HTD là nữ, chứ không phải là nam. HTD đă quyết tâm và nổ lực theo con đường tu học. Nếu ảnh hưởng tử vi không c̣n mạnh th́ tốt quá. HTD có số phận là "người của công chúng", nhưng quyết mai danh ẩn tích để tu tập. Có lẽ quẻ Địa Lôi Phục (Tiên Thiên) và Thuần Chấn (Hậu Thiên) cũng phù hợp với sự chọn lựa của HTD.
http://huyenkhonglyso.com/attachment.php?attachmentid=45& ;d=1247823923
Sửa lại bởi htruongdinh : 31 October 2009 lúc 7:25am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Simon Hội viên
Đă tham gia: 10 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 114
|
Msg 8 of 10: Đă gửi: 31 October 2009 lúc 9:12pm | Đă lưu IP
|
|
|
Thành thật xin lỗi. Lúc này tôi đang đọc nhiều sách nên đầu óc lơ đảng, nh́n lá số mà không thấy HTD là nữ.
Trong đoạn dài ḍng ở trên, giờ xin nói thẳng, thật ra chỉ có 2 ư:
- Nếu đă định đi tu th́ chỉ cần hỏi chính ḿnh.
- Đă thắc mắc hỏi han đến thế th́ chắc khó tu rồi.
Quẻ địa lôi phục trong sách của Học năng, có 2 câu thơ rất hay:
Một đời danh lợi thực hư
Quay đầu chỉ thấy thân cô mộng tàn
Số dương và số âm của HTD rất cân, rất nhập thế. Nếu có Độn th́ cũng chỉ nhất thời (Thiên sơn độn hào 1) và không trọn vẹn. Mà độn th́ cũng chưa phải tu.
Chắc phải qua nhiều thăng trầm nữa mới quay đầu lại thấy bờ.
__________________ Simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
htruongdinh Hội viên
Đă tham gia: 02 June 2009 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 275
|
Msg 9 of 10: Đă gửi: 31 October 2009 lúc 9:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cám ơn Simon. Theo lá số tử vi : Mệnh Thân trong tam hợp Thái Tuế. Theo Bát tự hà lạc : số dương và số âm rất nhập thế. Chính v́ vậy HTD phải đấu tranh giữa tư tưởng xuất thế và nhập thế : xuất thế tu tập cho bản thân hay nhập thế giúp đời. Chính v́ vậy phải đi HỎi. Tâm đă hiểu Đạo Pháp, ḷng đă quyết tu, nhưng sẽ phải vất vả chống lại những cám dỗ ngoài đời, nhất là người Thái Tuế càng khó đến bờ hơn dù đă nh́n thấy bờ rồi.
Sửa lại bởi htruongdinh : 31 October 2009 lúc 9:38pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
Simon Hội viên
Đă tham gia: 10 September 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 114
|
Msg 10 of 10: Đă gửi: 12 January 2010 lúc 8:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bàn về hạnh phúc
Dưới đây là vài nghi nhận của tôi sau khi đọc quyển “Bàn về hạnh phúc” của Matthieu Ricard. Ông này là tiến sĩ sinh học người Pháp nhưng sau khi nhận bằng tiến sĩ đă bỏ tất cả qua Tây tạng học đạo và giờ đă ở đấy hơn 30 năm.
Cũng như những cuốn khác cùng chủ đề, tác giả đă dành nhiều trang sách nói về bản chất của đau khổ và chứng minh rằng, hạnh phúc là một cách sống mà người ta phải lựa chọn nó chứ không phải t́m kiếm ở bên ngoài. Ông đă có một diễn giải rất hay về những khoái cảm khi được thỏa măn tham dục: Cái khoái cảm này giống như sự khoan khoái khi găi ngứa. Tất nhiên là rất đă khi ngứa mà được găi, nhưng càng găi th́ càng ngứa và đôi khi nó làm người ta găi cho đến bật máu.
Xuất thân là nhà khoa học, ông diễn đạt những vấn đề gai góc của đạo học một cách sáng sủa mà lại không quá nôm na, sai lạc. Trong phần nói về “phá bỏ bản ngă” ông đă định nghĩa một cá thể gồm 3 phần: “cái tôi”, “con người” và “bản ngă”.
“Cái tôi” sống trong hiện tại, chính nó nghĩ “tôi đói”, “tôi đang tồn tại”. Đó là cái tôi thông qua kinh nghiệm hiện trạng của bản thân, cái tôi bản năng, cái tôi của “Ngă thức”.
Khái niệm “con người” rộng răi hơn nhiều, nó là cái liên tục và năng động nối liền quá khứ, hiện tại và cả tương lai nữa. “Con người” cũng là tổng ḥa các mối tương quan xă hội, thân thể, ư thức. Khái niệm về “con người tôi” này là lành mạnh nếu nó chỉ dừng lại ở mức khái niệm có tính ghi nhớ. Nó trở thành không lành mạnh nếu xem đó là thực thể tự chủ. Chỗ này khó hiểu, tôi xin mạn phép lấy ví dụ: “Tôi đă từng nghiên cứu lư số, từng xem cho nhiều người và được một số hoan nghênh” … đó là “con người tôi” như một bản ghi nhớ, nó không phải là thực thể. Nếu phát triển lên thành “tôi đă từng xem lư số rất hay và được kính trọng, tôi là cao nhân … và những ǵ tôi nói là chân lư …” th́ thành mầm mống của đau khổ.
“Bản ngă” th́ rắc rối hơn, nó là tổng thể không nh́n thấy được của chúng ta, là danh hiệu chung cho tất cả liên quan tới “tôi” như “tiếng tăm của tôi”, “tay chân tôi”, “gan ruột của tôi” … . Dù hết sức kính phục tác giả, tôi phải nhận là, ông ta cũng đă không làm sáng tỏ ǵ hơn một phần rất khó nhằn là chứng minh rằng, không tồn tại một cái ǵ như là cái “ngă” thực thể trong mỗi chúng ta. Ông ta chỉ chỉ ra được, cái ngă không có ở bất kỳ đâu trong chúng ta và chỉ là khái niệm nhưng được chúng ta nuôi dưỡng và tin tưởng là có thật. Tuy nói th́ nghe dễ vậy, việc lănh hội được điều này là vô cùng khó, mà chắc cũng khó ḷng mà lănh hội được chỉ qua con đường đọc sách đơn thuần.
Phần hay nhất của cuốn sách là phần nói về những nghiên cứu xă hội học để t́m hiểu mức độ hạnh phúc và những yếu tố ảnh hưởng tới nó.
Trong suốt 30 năm qua, có hơn 2000 công tŕnh nghiên cứu về hạnh phúc tại hơn 70 quốc gia. Ruut Veenhoven đă tổng kết hầu hết các nghiên cứu và đưa ra 3 kết luận chính:
- Gen quyết định khoảng 50% khả năng hạnh phúc của một cá nhân.
- Những yếu tố như giáo dục, gia đ́nh, xă hội có ảnh hưởng đến hạnh phúc nhưng không nhiều, chỉ vào khoảng 10 tới 15%.
- Phần c̣n lại là do thái độ và sự lựa chọn của chính cá nhân đó.
Trước tiên phải dừng lại và nói cho rơ là, để biết cái nào là do di truyền cái nào là do ngoại cảnh, người ta đă tập trung nghiên cứu các cặp sinh đôi. Những cặp sinh đôi cùng trứng có gen và môi trường nuôi dưỡng như nhau nếu được nuôi chung. Nhiều đôi, được tách ra từ nhỏ và sống với cha mẹ khác nhau th́ là cùng gen nhưng khác môi trường nuôi dưỡng. Ví dụ như nghiên cứu của Tellegen, quan sát hàng trăm trường hợp sinh đôi được nhận nuôi riêng biệt, đă kết luận rằng, những đứa trẻ này có những đặc điểm tâm lư giống cha mẹ đẻ hơn (dù họ không nuôi chúng) cha mẹ nuôi. Hàng ngh́n nghiên cứu tương tự đă được tiến hành và đă đưa đến kết luận như nêu ở trên.
Cái này cũng hết sức có ư nghĩa cho người học lư số. Những cặp song sinh, dĩ nhiên là không kể một xác suất rất nhỏ là sinh vào giao điểm 2 giờ, có cùng một lá số. Thế mà, theo nghiên cứu, gen chỉ quyết định 50%, 15% nữa là do môi trường, cũng có thể hiểu là cũng do vận số và có thể phát biểu lại là nếu cùng lá số, cùng môi trường nuôi dưỡng th́ mới triệt buộc chưa đến 65% khả năng hạnh phúc, c̣n khoảng hơn 35% c̣n lại vẫn là do chúng ta lựa chọn và quyết định. Tỉ lệ này không phải nhiều nhưng cũng không ít. Tóm lại, trong khi cụm từ cải sửa số mệnh có thể chưa chính xác th́ việc cá nhân có nhiều lựa chọn trong khuông khổ số mệnh là điều không c̣n nghi ngờ ǵ nữa (qua các nghiên cứu tâm lư học nêu trên).
__________________ Simon
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|