Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 184 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Y Học Thường Thức (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Y Học Thường Thức
Tựa đề Chủ đề: Tố Nữ Kinh Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 1 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen


    T́nh dục là bộ môn thuộc, chi phối và bao trùm ngũ dục, nhất là khi đă nhận thức rằng trong mọi bộ môn thuộc khoa học nhân văn, nó luôn hiện diện, ẩn hiện lung linh… càng làm chúng ta thêm khoan dung, tăng thêm hiểu biết. Mà biết thêm rằng cùng tột của tính dục lại là nghệ thuật kềm chế, th́ đó là sự hành dâm cao thượng hơn hết thảy.

     Các cảm quan đủ vẻ do ngũ dục đem lại, nếu hiểu là đáng buồn rầu, th́ là buồn rầu thanh bai. Nếu hiểu (cuốn này) chỉ cốt viết ra để khuyến khích sự đắm đuối dục lạc th́ đấy là loại dục lạc thô trọc. Tính dục được loài người nghiên cứu, viết ra, đă từng lưu hành ở khắp nơi, qua mọi thời đại như Kama-Sutra (Ấn Độ), Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật Truyền, Ngọc Pḥng Bí Kiếp (Trung Hoa), … th́ độc giả sẽ không coi bản dịch này chỉ chứa hậu ư khuyến dâm.

Bản chất của tính dục th́ có một. Cảm quan tính dục th́ khác nhau, tuỳ cách tuỳ người, tuỳ thời: Nếu ăn ngon chả là điều nhân loại luôn tán thưởng, phải chăng nghệ thuật nấu nướng đă chẳng luôn luôn được đề cao? T́nh dục cũng có điểm chung như thế. Xưa, Tố Nữ Bí Truyền được coi là pho sách phải cấm, dành riêng cho tầng lớp thuợng lưu, Trưởng giả phong kiến của Trung Hoa, nay chúng tôi cố thực hiện qua Việt ngữ với thiện ư và cẩn trọng. Cách thế tương quan giữa nhân loại ngày nay ngày càng mật thiết hơn: Đúng, sai, xấu, tốt… không hoàn toàn bị ai độc quyền giải thích, tách bạch giản dị như xưa. Những tàng ẩn, bí truyền cấm kỵ, phải tránh né của một thời, ngày càng được bạch hóa. Tính dục, lâu nay đă là một đề tài nghiêm cẩn, đúng đắn… đến với bất cứ ai muốn t́m hiểu, suy ngẫm…

Nhà xuất bản Xuân Thu
LỜI DỊCH GIẢ

Trung Hoa có nhiều chuyện gợi trí ṭ ṃ của thiên hạ, ngoài pho dịch lư – kho tàng vô giá của Đông Phương – Trung Hoa c̣n có "TỐ NỮ KINH", pho sách nói lên cái tuyệt vời của chuyện lứa đôi vượt hẳn Kama Sutra – pho kinh điển về nghệ thuật yêu đương của xứ Ấn Độ.

Tiếc thay, người xưa cố chấp, mang nặng tinh thần bảo thủ, khăng khăng cho rằng thố lộ chuyện ái ân là hành động làm đồi phong bại tục, phạm điều răn cấm của thánh hiền! Bởi quan niệm hẹp ḥi như vậy mà Tố Nữ Kinh bị giấu kín ở Viện Bảo Tàng đến cả hàng ngàn năm chẳng mấy ai biết đến. (Ngoại trừ các bậc vua chúa, hàng Vương tôn và các quyền thần ở triều nội dành độc quyền hưởng thụ).

Trong khi đó th́ thế giới Tây phương quan niệm ngược lại, cho rằng sinh lư cũng là một trong những nhu cầu cần thiết như đói ăn, khát uống, như không khí và sự sống hàng ngày không thể thiếu được. Thế th́ mang vấn đề sinh lư ra luận bàn ngoài đại chúng cũng như đưa vào học đường đâu phải là sự xấu? Nếu có xấu chăng là bởi ta lạm dụng quá đáng, vượt cả ṿng kỷ cương làm thương tổn đến luân thường đạo lư…

Nhiều người khắt khe cho rằng Tố Nữ Kinh là tập sách trăng hoa dâm dật, hướng dẫn con người đi đến hành động bất chính. Thật là một điều lầm lẫn đáng tiếc, họ có biết đâu rằng chính v́ sự thiếu hiểu biết về nghệ thuật ái ân mà bao nhiêu gia đ́nh phải tan vỡ. Tố Nữ Kinh không phải là một pho kinh " bướm lả ong lơi" mà chính là một hướng đi, một lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị lương y lỗi lạc, một nhà cố vấn tuyệt vời đời sống lứa đôi đến răng long đầu bạc.

Bác sĩ Huệ Hồng Anh.

MỤC LỤC

I. HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH *

II. NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH *

III. CHƠI NHIỀU ÍT MỆT *

IV. CHÍN LẦN CẠN MỘT LẦN SÂU *

V. DƯỠNG SANH VÀ LUYỆN KHÍ *

VI. TƯ THẾ VÀ T̀NH THÚ *

VII. TỨ THỜI VÀ NGŨ TẠNG *

VIII. TÂN HÔN MỘT KHẮC ĐÁNG NGÀN VÀNG *

IX. TÂM B̀NH, KHÍ HOÀ, GIĂ THÁI TỰ NHIÊN. *

X. VUỐT VE MƠN TRỚN *

XI. TRẮC ĐỊNH T̀NH CẢM *

1. NGŨ CHỨNG: *

2. NGŨ DỤC: *

3. THẬP ĐỘNG: *

XII. TỨ HẬU VÀ CỬU KHÍ *

XIII. CỬU PHÁP *
1. THẾ RỒNG UỐN KHÚC *
2. THẾ HỔ: HỔ R̀NH MỒI (thế thứ nh́ trong cửu pháp) *
3. THẾ VUỢN LEO CÂY (phép thứ ba trong cửu pháp) *
4. THẾ VE SẦU: Ve bám cội cây (phép thứ tư trong cửu pháp) *
5. THẾ RÙA: Rùa bay (phép thứ năm trong chín phép) *
6. THẾ PHƯỢNG: Phượng múa *
7. THẾ THỎ: Thế thỏ liếm lông *
8. THẾ CÁ: Cá tiếp vẩy *
9. THẾ HẠC: Hạc gác cổ *

XIV. CÁC PHƯƠNG THỨC YÊU NHAU CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG.
XV. BÁT ÍCH *
1.1     Cố tinh (Bền bỉ tinh khí) *
1.2     An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái nhẹ nhàng) *
1.3     Lợi Tạng (Bổ ích cho ngũ tạng) *
1.4     Cường Cốt (Mạnh xương, gân) *
1.5     Điều Mạch (Thống huyết) *
1.6     Súc Huyết (Nuôi máu) *
1.7     Ích Dịch (Bổ ích các hạch nhờn, tinh khí nam, nữ) *
1.8     Đạo Thể (Thông sạch thân thể) *
XVI.. THẤT TỔN *
2.1 Tuyệt Khí *
2.2 Dật Tinh *
2.3 Đoạt Mạch *
2.4 Khí Tiết *
2.5 Cơ quan hay là Quyết thương *
2.6 Bách Bế *
2.7 Huyết Khuyết *

XVII.BA MƯƠI VỊ THẾ GIAO HỢP *
1. Tự trù mâu *
2. Thân khiển quyển *
3. Bạo tự ngư *
4. Kỳ lân giác *
5. Toản mặc cẩm *
6. Long uyển chuyển *
7. Ngư tỉ mục *
8. Yến đồng tâm *
9. Phỉ thuư giao *
10. Uyên ương hợp *
11. Không phiên diệp *
12. Bối phi cưu *
13. Aùn cái công *
14. Lâm đàn trúc *
15. Loan song vũ *
16. Phượng tương xu *
17. Hải âu Dực *
18. Dă mă đề *
19. hoàng ngạc túc *
20. Mă dao đề *
21. Bạch hổ thắng *
22. Huyền đàn bộ *
23. Sơn dương đối thụ *
24. Côn kê lâm trường *
25. Đơn huyệt phụng du *
26. Huyền minh bằng chứ *
27. Ngâm viên bảo thụ *
28. Miêu thử đồng huyệt *
29. Tam xuân lư *
30. Tam thu cẩu *

XVIII.THẾ GIAO HỢP CƠ BẢN *

1. NAM THƯỢNG VỊ (Nam nhân ở trên) *

1.1 CHÍNH THƯỜNG VỊ (Vị thế cơ bản) *

1.2 THÂN TRIỂN VỊ (Chân kéo thẳng) *

1.3 CAO YÊU VỊ (Vị thế lưng cao) *

1.4 KHUẤT KHÚC VỊ (Vị thêá thu ḿnh) *

2. NỮ THƯỢNG VỊ (Nữ nhân nằm trên). *

2.1 PHẢN VỊ (Vị thế ngược) *

2.2 KỴ THỪA VỊ (Vị thế cởi) *

2.3 KIỂU NẰM NGHIÊNG *

2.3.1 Nghiêng mặt đối *

2.3.2 Nghiêng mặt lưng. *

2.4 VỊ THẾ LƯNG *

2.4.1 Thế nằm *

2.4.2 Thế quỳ *

2.5 TỌA VỊ (vị thế ngồi) *

2.5.1 Ngồi đằng trước. *

2.5.2 Ngồi đằng sau lưng *

2.6 LẬP VỊ (Vị thế đứng) *

XIX. PHƯƠNG PHÁP KHÔNG XUẤT TINH KHI HỨNG T̀NH LÊN TỘT ĐỈNH *

XX. SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU *

XXI.TINH LỰC MẠNH YẾU CỦA NAM NHÂN *

XXII.THỜI GIAN GIAO HỢP TỐT ĐỐI VỚI NỮ NHÂN *

XXIII. LÀM SAO CÓ THAI TỐT *

XXIV. TẠI SAO SẮC ĐẸP LÀM NGƯỜI SAY MÊ? *

XXV. CÁCH HẠN CHẾ XUẤT TINH *

XXVI. DƯỢC LIỆU VÀ TOA THUỐC CƯỜNG DƯƠNG *

XXVII. TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN Đ̉I HỎI XÁC THỊT *

XXVIII. NHỮNG CẤM KỴ KHI GIAO HỢP *







I.     HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Hoàng Đế nói với Tố Nữ rằng: "Ta cảm thấy ḿnh khí suy nhược, khi giao hợp th́ không đồng nhịp với người nữ. B́nh thường th́ ḷng chẳng cảm thấy vui, lại luôn luôn lo sợ hồi hộp như sắp có chuyện ǵ nguy hiểm xảy ra cho ḿnh. Tại sao vậy?"

Tố Nữ đáp: "Tất cả hiện tượng nói trên đều do âm dương không điều hoà mà sinh ra.Âm dương không điều hoà v́ sinh hoạt pḥng sự không đúng cách. Nếu tinh lực của nữ nhân cường thắng hơn nam nhân th́ chẳng khác nào như nước tạt vào ngọn đuốc, đuốc sẽ tắt; nam nhân không kham nỗi nên không c̣n hứng thú.

Nói cách dễ hiểu, sinh hoạt pḥng sự như nấu nương thức ăn phải phối hợp diều ḥa giữa lửa và nước mới có món ăn ngon. Nếu thấu triệt nguyên tắc trên và thực hiện được th́ sẽ hưởng thụ sự lạc thú của nhân gian, bằng không th́ thân thể trở nên suy nhược có thể đến tán mạng nữa. Lúc đó đâu c̣n ǵ vui thú nữa.

Bởi vậy nhân gian phải thận trọng trong việc pḥng the, tránh đi ra ngoài nguyên tắc không đồng điệu nói trên."

GHI CHÚ:

Hoàng Đế là một trong ba vị vua thời thái cổ: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Tương truyền Phục Hy phát minh ra bát quái, nghiên cứu về âm dương ngũ hành. Aâm dương là những thể đối nghịch nhau của sự vật như trời-đất, mặt trời-mặt trăng, nam-nữ, trắng-đen, ngày-đêm…

Phục Hy cũng là vị vua chỉ dạy cho nhân dân sự kết hôn. Trong việc pḥng sự nam nữ, Phục Hy bàn rằng: "Trời (dương) chuyển từ phải sang trái, đất (âm) chuyển từ trái sang phải. Nam nhân trong lúc giao hợp, theo thuộc tính dương đó, chuyển động (sàng) sang trái trong khi nữ nhân chuyển động (sàng) sang bên phải. Nam nhân như trời ở trên trùm phủ xuống dưới. Nữ nhân như đất ở dưới nghinh tiếp lên trên. Vị thế cơ bản của pḥng the giao hợp là vậy, hai bên sàng ngược chiều nhau và trên thúc xuống, dưới hẩy lên".

Hoàng Đế vốn người thuộc lưu vực sông Hoàng Hà, là người lănh đạo của mấy bộ lạc lớn tại đây. Theo sử, ông sanh sống vào khoảng 2.550 trước Công-nguyên, thông tuệ, đă phát kiến ra kim chỉ nam, đă quan sát được sự vận hành của Thái dương hệ. Trên mặt đất th́ ông quan sát về những dấu vết để lại do cầm thú chim muông từ đó xác định phái đực cái của từng con. Về nhân văn, ông thiết lập ra hệ thống chữ viết của người Trung Quốc thời đó. Nhờ sự phát minh này, người Trung Hoa mới bắt đầu ghi lại các chuyện xảy ra chung quanh ḿnh lưu truyền lại cho đời sau.

Về Y khoa, Hoàng Đế và sáu vị y sĩ trong nhóm Chi-Bách hoàn thành một bộ Bách Khoa Y-Học có tên là "Y học trọng điển" mà "Hoàng Đế nội kinh" là một quyển ở trong bộ đó. Chi-Bách và những vị danh sư lúc bấy giờ là những người cố vấn của Hoàng Đế về những vấn đề y dược và là y sĩ của Hoàng Đế.

oOo

Hoàng Đế có nhiều cung nữ nhưng giao hợp không đúng phương pháp cho nên khi niên tuế vào độ ngũ tuần th́ thần sắc suy nhược không c̣n tráng kiện nữa. Ông mới đi hỏi Chi-Bách và Tố Nữ về cách thế giao hợp dúng cách để khỏi suy nhược thân thể. Trong sách Hoàng Đế nội kinh, thiên "Thượng cổ thiên chân luận" có ghi sự vấn kế nầy như sau:

"Trẫm thường nghe người thời xưa sống hàng trăm năm mà động tác (t́nh dục) không suy yếu. Người thời nay tuổi mới vừa khoảng năm mươi mà động tác (t́nh dục) đă suy nhược…".

Chi-Bách đáp rằng: "Người xưa sở dĩ được trường thọ v́ họ hiểu thấu đáo đạo âm dương, từ đó chuyện gối chăn được thực hành hợp lư. Lăo tử nói: "Vạn vật phụ âm nhi băo dương, xung khí dĩ vi ḥa". Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người phải "thuận theo" đó là nguyên tắc cơ bản của sống c̣n, nếu nghịch lại hay vi phạm nguyên tắc tự nhiên này th́ sẽ sinh ra rất nhiều tai hại. Ví dụ như nguyên tắc xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng (muà xuân gieo mạ trồng lúa, mùa hạ lúa lớn, mùa thu gặt lúa, mùa đông gặt lúa cất vào kho). Nếu bây giờ không thuận theo mà mà mùa thu hay đông lại gieo mạ trồng lúa th́ lúa sẽ khô chết, không lớn lên được.

Tố Nữ trả lời như sau: "Vấn đề Hoàng thượng đưa ra đó, giải đáp trả lời có thể căn cứ theo thuyết âm dương ngũ hành. Như tính nước cực mạnh sẽ tiêu diệt được tính lửa, đó là nguyên tắc gây ra thể lực suy yếu ở người nam. Trong trời đất có năm yếu tố chánh (ngũ hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chúng tương khắc nhau là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ… cứ như vậy mà tuần hoàn măi măi.

Vậy th́ nếu thuỷ tính (nữ nhân) quá mạnh th́ dễ hại tới hỏa tính (đàn ông). Mặt khác trong lúc giao hoan cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le th́ cũng gây nên hậu quả không tốt.

Một điều nữa là nam nhân sau khi xuất tinh xong quá mệt lăn ra ngủ, trong khi đó nếu nữ nhân chưa hoàn thành cao trào, c̣n đầy cảm hứng th́ hậu quả sự bất ḥa hợp nầy là một bệnh trạng cần phải sửa đổi hay chữa trị.

Nay Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược động tác (t́nh dục) là v́ không hiểu biết sinh hoạt pḥng sự một cách b́nh thường. Hậu quả là không cảm thấy thống khoái mà là một trạng thái mệt mỏi. Tất cả v́ Hoàng Đế không thông hiểu thuỷ tính và hỏa tính, không thông hiểu tệ quả của bất điều ḥa âm dương."

oOo

GHI CHÚ:

Bác sĩ Kim Soai cho rằng sau khi bắn tinh xong, nam nhân từ trạng thái sung sướng cực độ trở về trạng thái không c̣n cảm giác và rất buồn ngủ. Bởi vậy mới có nhiều trường hợp bẽ bàng trong đêm tân hôn. Trước đó th́ nữ nhân e dè, sợ sệt, nam nhân "hoa ngôn xảo ngữ" để được tiến hành, nhưng khi xong phần ḿnh liền lăn ra ngủ đuốc hoa bỏ đó mặc nàng nằm trơ khiến cho cô dâu từ đó có một tâm trạng chán sợ chuyện chăn gối ái ân, có thể thành bệnh lănh cảm sau nầy.

Bác sĩ Kim Soai cũng cho biết là âm đạo càng được dương vật cọ xát, người đàn bà càng cảm thấy sướng thú hứng t́nh đến nỗi muốn từ chối ái ân v́ một lư do nào đó cũng không thể nào từ chối được. Điều xác định nầy phù hợp với lời của Tố Nữ nam nhân hỏa tính, nữ nhân thủy tính. Khi nước dâng lên cao (nước nôi tràn đầy đầm đ́a) lửa bị tắt (bắn khí, x́u, mệt). Khi nước bị lửa đun sôi (cọ xát, chọc, đâm) th́ nước sôi ào ạt, phùn phụt…

II.     NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH
(Bổ thận và cường dương)

Tố Nữ nói: "Có một người con gái tên Thái Nữ rất thâm hiểu đạo âm dương", Hoàng Đế sai Thái Nữ đi mời Bành Tổ cho ḿnh thỉnh giáo về phương pháp diên niên ích thọ (sống lâu).

Bành Tổ trả lời: "Giữ tinh khí, thu dưỡng tinh thần. uống các thứ thuốc bổ dưỡng th́ có thể trẻ măi không già. Tuy nhiên nếu đă có ba thứ trên mà không biết cách giao hợp cho phải phép th́ cũng vô ích thôi.

Đạo giao hợp là hợp thành nhất thể với người giao hợp. Xem ḱa trời đất liền nhau thành nhất thể nên măi măi trường tồn. Con người cũng vậy, không khác ǵ. Nếu không biết nguyên tắc đó th́ bị thương thân bại thể có khi c̣n táng mạng nữa"

GHI CHÚ:

Hoàng đế v́ trăm công ngàn việc nên người đă mệt mỏi. Thêm chuyện tửu sắc nên thần kinh không nhiều th́ ít bị suy hoại, luôn luôn cảm thấy như ḿnh đang mang bệnh. Để cho Hoàng Đế tin tưởng thuốc thang công dụng, các y sư trong triều mới bàn nhau đi mời Bành Tổ tiên sinh là một vị triết nhân thông hiểu thuật dưỡng sinh. Tương truyền Bành Tổ tiên sinh rất thọ và dùng phương pháp nhiếp bổ (dùng thuốc bổ) và cường tinh (làm cho tinh khí mạnh hơn, cường dương) nên khi đă già mà vẫn thấy như thanh xuân và khí thế giao hợp vẫn không giảm.

Thái Nữ, như Tố Nữ, là người con gái thật đẹp lại thấu hiểu các phương cách pḥng sự. Những điều chỉ dạy của bà ta rất ích lợi cho cuộc dưỡng sinh và đời sống chăn gối.

Sách "Liệt tiên toàn truyện" có ghi lại truyện Thái Nữ vâng lệnh của vua Chân Mục Vương (976 tr. Công nguyên) đi hỏi Bành Tổ tiên sinh về bí thuật pḥng trung để về truyền lại cho vua. Từ đó về sau mục Vương là người hưởng được kết quả diệu kỳ của hành sự giao hoan theo đúng phương pháp.

Sách "Thập di kư" có ghi chuyện Vương mẫu xuống trần ăn ở cùng với Mục Vương của vùng Vị Châu thời Đông Tấn. Lúc nầy Mục Vương đă hơn 50 tuổi. Vương mẫu chỉ dẫn Mục Vương cách giao hoan và hai người đă hưởng một đêm sung sướng tuyệt trần.

Sách có nói thêm là trong đêm dó Vương mẫu lấy ra trong âm đạo một "hạch tổ" bảo vương nuốt đi v́ rất bổ cho việc dưỡng sinh và cường tinh. Sách y học Trung quốc có ghi là hạch nầy dùng chữa bệnh tạng suy, cải lăo. Hạch c̣n trị được bệnh tinh thần không an định, giúp cho người bệnh cảm thấy an định thơ thới tâm hồn.

Từ thời Hán y giới Trung Hoa đă có "Cam mạch đại tổ thang" là thang thuốc an thần trị bệnh cho phụ nữ mà chất chính vẫn là hạch tổ lấy từ trong âm đạo.

Trung quốc vốn nổi tiếng về các thang thuốc cường tinh tráng thể. Các thứ nầy vốn khác xa với các thứ thuốc kích dâm ngày nay. Thuốc kích dâm kích động thần kinh cho hứng t́nh gợi dục mà không giúp thân thể bổ dưỡng, không giúp cho nam nhân tiết khí (tiết giảm xuất tinh). Thuốc cương tinh tráng thể của trung quốc trái lại là thứ giúp thân thể chống lại bệnh suy nhược do các cách giao hợp không đúng phương pháp sanh ra mà vẫn giúp được người dùng cảm thấy thích thú trong khi giao hoan.

III.     CHƠI NHIỀU ÍT MỆT
(Đa ngự, tiểu tiết)

Thái Nữ nói: "Xin Bành Tổ tiên sinh chỉ dẫn thêm về đạo giao hợp để giữ được thân thể tinh tráng."

Bành Tổ nói: "Đạo lư nầy nói ra th́ rất dễ hiểu thôi, chỉ hiềm loài người không theo hoặc theo mà không tin thôi. Hoàng đế hiện tại trăm công ngàn sự, tâm thần mỏi mệt không thể nào thấu đáo các lời giải thích về phép dưỡng sinh. Ta chỉ xin nói về trường hợp Hoàng Đế có thể làm được mà thôi.

Hiện trong cung có nhiều phi thiếp, chỉ cần thâm hiểu cái đạo lư giao hợp th́ cũng đă nắm được phương pháp nhiếp dưỡng rồi. Nguyên tắc là "đa dữ niên thanh nữ giao hợp, tịnh thả lũ giao bất tiết" nghĩa là giao hợp cùng thật nhiều cô gái trẻ trung nhưng tiết giảm sựï bắn khí xuất tinh. Tiết giảm được bắn khí th́ thân thể sẽ được nhẹ nhàng dễ chịu, không bệnh tật nào có thể sanh ra dược."

GHI CHÚ:

Bành Tổ chú trọng tâm lư trị liệu. Vua nhiều việc nên mệt mỏi, ông khuyên vua nên về hậu cung vui cùng cung nữ quên bớt những chuyện lo âu về quốc sự vốn làm cho con người dễ sút giảm sinh lực.

Nhưng vui chơi nhiều (đa ngự) mà không được mất sức, càng ít xuất tinh (tiểu tiết, tiết: rỉ ra, lộ ra, chảy ra) càng tốt.

Lựa gái thanh xuân trẻ đẹp để giao hợp đó là nguyên tắc tâm lư người đàn ông thấy ḿnh hưởng nhiều, ḿnh hơn người, may mắn hưởng được của quư là sự thanh xuân của người con gái.

Gần đây áp dụng nguyên tắc nầy, bác sĩ Havelock Ellis khuyên các cặp vợ chồng nên tạo thanh xuân cho nhau trong việc chăn gối. Hai bên nên vui vẻ giao t́nh để cùng nhau thấy như mới như trẻ. Người chồng vui vẻ trong sự gợi xúc cảm, người vợ chải chuốt trang điểm, tạo thêm vẻ thanh xuân cho chính ḿnh và cho sự giao hợp.

Thống kê cho thấy có nhiều cặp vợ chồng lâm vào t́nh trạng càng lâu xa đêm tân hôn hào hứng th́ càng có sút giảm trong niềm thích thú gối chăn. sự quen nhàm là một yếu tố, khiến tạo nên t́nh trạng miễn cưỡng. Ta tránh tệ hại nầy bằng cách hợp tác với nhau, làm như mới, đối với nhau như mới gặp lần đầu th́ sự khoái sướng mới lâu dài trong cuộc sống vợ chồng được.

Nh́n lại câu nói của Bành Tổ bằng con mắt của người hiện đại ta thấy ông khuyên nếu muốn hưởng hạnh phúc đời th́ phải tạo cho có được một tinh thần vui vẻ (bớt lo lắng), một thân thể khỏe khoắn (ít bắn khí, hưởng tuổi xuân và sự vui vẻ của người bạn t́nh). Đời nay con người phải sống trong một xă hội bận rộn, tâm lư dễ bị xáo trộn phiền muộn bất an từ đó dễ sinh ra bệnh hoạn. Kinh Tố Nữ chương nầy lời của Bành Tổ tiên sinh là một lời khuyên tốt cho chúng ta, nếu chúng ta biết cách sống.
IV.     CHÍN LẦN CẠN MỘT LẦN SÂU
(Cửu thiển nhất thâm)

Tố nữ nói với Hoàng đế: "Khi hành sự th́ phải coi người con gái như ngơa thạch (gạch ngói), tự coi ḿnh như ngọc quí (kim ngọc). Khi nhận thấy người con gái tới mức khoái cảm, thân thể vặn vẹo luôn th́ phải mau mau rút dương vật ra khỏi âm hộ."
Nếu muốn chinh phục nữ nhân th́ khi giao hợp phải đặc biệt cẩn thận. Trên ḿnh người đẹp, khi hứng t́nh muốn giữ cho khỏi bắn khí không phải là dễ, nó kéo ḿnh theo khó ḷng kềm chế, cẩn thận lắm mới kềm chế được. Sự kiện nầy chẳng khác nào thắng sợi dây cương mục ră sắp đứt vô con ngựa chứng, hay đang đứng trên bờ vực thẳm của chóp núi cao. Chỉ cần sơ ư một chút th́ tai hại sẽ xảy ra không lường được.

GHI CHÚ:

Căn cứ trên các trắc nghiệm y học người ta thấy rằng nam nhân rất dễ hứng t́nh và khi t́nh hứng tới cao độ, bắn khí th́ không c̣n làm ǵ được nữa, dương cụ trở nên x́u mềm, vô năng, ở bên cạnh người đẹp ḷng cũng dửng dưng nguội lạnh. Nữ nhân trái lại thời gian bắt trớn hứng t́nh chậm, sự sờ mó rờ rẫm (ái phủ) trong giai đoạn đầu rất cần thiết để đưa nàng đến t́nh trạng sẵn sàng nhập cuộc. V́ vậy khi hai người xáp lại, đă có một sự so le về thời gian hứng cảm. Lúc nam nhân đạt tới cao điểm hứng thú th́ nữ nhân nhiều khi chưa đạt được cao điểm nầy. Nếu không cẩn thận, không kềm được cương con nộ mă mà bắn khí th́ cuộc giao hợp chấm dứt trong sự bẽ bàng của nữ nhân.

Tố Nữ nói:

"Coi nữ nhân như ngơa thạch’ là muốn nói phải nhẹ nhẹ nương tay đừng mạnh bạo quá mà ngói gạch vỡ bể đi. Sờ mó nhè nhẹ, ái phủ khắp toàn thân nữ nhân để kéo đến sự đồng bộ hứng t́nh sau này, cũng là để chuẩn bị cho có đồng điệu trong lúc tuyệt cùng sướng khoái.

"Coi ḿnh như ngọc thạch" là ḿnh phải quư ḿnh, tiết kiệm tinh khí không bắn khí quá sớm, chưa phải lúc. Đối phương chưa sẵn sàng th́ sự xuất tinh, riêng ḿnh cũng chưa hưởng tuyệt cùng của đời sống ái ân.

Vấn đề tuyệt hứng phải phối hợp, phải đồng bộ trong sự giao hợp nam nữ rất là quan trọng. Nam nhân không được chỉ nghĩ đến cái sướng bắn khí của ḿnh mà phải đoán coi thái độ của nữ nhân nữa.

Tập quán của người Do Thái kết tội "cưỡng dâm sau hôn nhân" (hậu hôn cưỡng dâm) nếu người chồng chỉ muốn thỏa măn dục tính tiến hành giao hợp trong khi người vợ chưa sẵn sàng cuộc mây mưa hay không thể có được đồng bộ sướng khoái.

Ở đời cổ Trung quốc có một số ngưới biết lợi dụng nguyên lư châm cứu để kích thích dục t́nh của nữ nhân trước khi giao hợp, và họ đă đạt được kết quả là khiến cho nữ nhân "xuân t́nh bộc phát" sẵn sàng đáp ứng để cùng nhau đạt tớt cao điểm sướng khoái cùng lúc. Nguyên tắc châm cứu là "kích thích 14 kinh mạch và các đường huyệt đạo liên quan tới t́nh dục" (thập tứ kinh lạc huyệt đạo tuyến).

Thời xưa kỹ thuật vuốt ve trước khi ái ân là:
Mân mê từ các ngón tay, bắt đầu từ ngón giữa tới ngón cái, các ngón cọ sát vào nhau. Ban đầu c̣n thoa bóp các ngón sau rờ rẫm từ từ lên cánh tay rồi lên bả vai.

Xoa bóp nựng nịu ban đầu là ngón chân cái rồi sang ngón bên cạnh, từ từ rờ lên mu chân tiến lên tới phía bên trong đùi.

Sau đó th́ sờ mó nựng nịu toàn thân. Kế tiếp nam nhân dùng tay trái ôm sát lưng nữ nhân tay phải từ từ di động lên vuốt ve những vùng mănh cảm nhất của nữ nhân đồng thời tiến hành những động tác hôn hít. Hôn hít th́ cũng tiến hành chậm chậm, đầu tiên hôn cổ, sau hôn trán. Dùng lưỡi liếm cổ, phía trước và phía sau cổ là những vùng cần được liếm nhất. Kế tiếp là liếm đầu vú nàng, cắn nhẹ lổ tai nàng để cho nàng rùng ḿnh xúc cảm.

Sau đó khi thấy t́nh trạng đă chín mùi th́ áp dụng nguyên tắc "cửu thiển nhất thâm hữu tam tả tam băi nhược hoạnh hoành". Đây là bí quyết của đàng trai để tạo hứng thú tuyệt đại cho nữ nhân cùng ḿnh giao hợp mà cũng là phương cách chống xuất tinh sớm, một căn bệnh đem đến bẽ bàng cho nhiều nam nhân.

"Cửu thiển" là chín lần đâm cạn, đâm nhẹ nhàng để chuẩn bị cho nữ nhân ư xuân phơi phới, tâm hồn bồn chồn như là khỉ chuyền ngựa chạy. Lúc đó mới áp dụng "nhất thâm", đâm mạnh lút vào sâu không chừa chút nào. Cho em hết những ǵ anh có. Thâm sâu, quy đầu cọ sát vào âm hộ tạo một trạng thái hứng thú tột độ. Âm hộ lúc đó có khả năng mở ra bóp lại. Nở ra để đón nhận hết, rút lại để bóp chặt ôm khít dương thể trong trạng thái nhất thể hoà đồng.

"Hữu tam tả tam" là kích động hai bên bờ của âm hộ. Cọ xát bên trái ba lần, bên phải ba lần. Nữ nhân lúc nầy cảm thấy đâu đâu cũng có dương thể cọ vào, sự sung sướng không thể nào lường được. Như vậy động tác aí ân không chỉ là một cách tiến vào rút ra mà biến hóa dương vật bơi lội như con cá, thân ḿnh thằng nhỏ chuyển động hai bên, ḅ như con trùng khi lên khi xuống. Tất cả mọi vùng khoái cảm của âm đạo đều được tiết xúc cọ xát, bên mép, trong sâu, bên nầy, bên kia; nữ nhân không thể nào cưỡng lại ḿnh được nữa, khoái cảm sẽ lên đến tột độ kịp thời với tột độ của nam nhân.

Thời Tuỳ Đường có cuốn sách nói về chuyện ái ân là "Ngọc Pḥng Bí Quyết" bàn về nghệ thuật pḥng trung, trong đó có câu thiệu "bát thiển nhị thâm, tử văn sanh hoàn" cũng tương tự nhưng bổ xung cho nguyên tắc "cửu thiển nhất thâm tả tam hữu tam" nói trên.

"Bát thiển nhị thâm" chẳng qua là thay đổi số lần sâu đâm vào, thường là theo lời yêu cầu của nữ nhân. Nên nhớ phải có cạn sâu, không được sâu cả như nhau v́ đâm vô một chỗ khoái cảm sẽ bị tê liệt đi giống như găi lưng găi nhẹ mạnh khác nhau, thay đổi chỗ này chỗ khác th́ khoái và đă ngứa, nếu chỉ găi mạnh một nơi th́ chỉ có tróc da tróc thịt đau đớn mà thôi.
"Tử văn sanh hoàn" là "khi chết đi vào, khi sống đi ra". Dương vật ở trong âm hộ đă lâu, ấm áp khoái lạc rất dễ không thể tự thắng mà phải bắn khí, khi thấy nó có ṃi dương lên cực đại sắp xuất tinh th́ phải rút ra khỏi âm đạo - đi ra khi c̣n cứng c̣n sống - Bên ngoài nó nghỉ ngơi một chút th́ bị x́u, đó là lúc cho nó xung trận lại nữa - đi vào lúc mềm, lúc chết - Cứ thế quá tŕnh tử văn sanh hoàn th́ cuộc vui kéo dài được nhiều lần khoái cảm.

Có sách nói "nhược nhập cường xuất" cũng là cách nói khác của tử văn sanh hoàn mà thôi. Lúc hơi mềm, x́u cho vào, lúc cứng quá độ sắp bắn khí th́ phải rút ra. Càng theo các nguyên tắc trên càng hưởng được cuộc vui kéo dài mà ḥa thuận vợ chồng v́ kéo được lúc cực điểm khoái lạc của hai người nam nữ về cùng thời điểm.

V.     DƯỠNG SANH VÀ LUYỆN KHÍ

Hoàng Đế hỏi Tố nữ rằng: "Nay ta muốn ngưng việc giao hợp một thời gian dài lâu rồi mới trở lại có được không?"

Tổ Nữ đáp: "Không nên, trời đất có hiện tượng mỡ đóng, khí âm khí dương có hiện tượng thi hoá, như bốn mùa xuân hạ thu đông và hiện tượng ngày đêm tối sáng đều do thứ tự của thời gian mà biến hoá thành khác nhau. Con người ta cũng phải tuỳ theo nguyên lư âm dương này mà hành động. Nếu ngưng giao hợp th́ tinh khí không tuần hoàn, cái đạo âm dương bị cắt đứt như vậy làm sao tiếp nhận cái tiến tŕnh b́nh thường để nhiếp bổ thân thể (bổ thân)? Phải theo cách luyện khí hành công nhiều lần, phải thải ra phế khí, phải thu vào tiễn khí (khí tươi mới) để tăng tiến sự tráng kiện thân thể".

Dương vật nếu không thường giao hợp th́ chẳng khác nào con rắn hổ v́ không cử động mà phải nằm chết cóng trong hang. Do đó người khôn phải tuân theo lời chỉ dẫn đạo lư trên để tạo dịp cho tinh khí lưu thông trong toàn thân thể tới xương cốt, gân, thịt. Trong khi giao hợp mới dùng phép hoàn tinh khiến cho tinh dịch không bị cảnh lăng phí v́ ở một chỗ không dùng.

Đọc Tố Nữ kinh ta khám phá thấy ngày xưa phối hợp nhiều phương pháp dưỡng sinh chứ không phải chỉ theo một cách nào đó mà bỏ quên những cách khác. Trong các phương pháp này có nghệ thuật pḥng the là một, và nghệ thuật pḥng the lại phối hợp nhiều phương pháp dưỡng sinh khác.

Ở Trung Quốc từ lâu người ta nghiên cứu các cách sinh hoạt, tập quán ăn uống, cách giao hợp... của các loại động vật sống lâu để đưa ra các "thuật dưỡng sinh" như đạo dẫn, luyện khí, thai tức, bích cốc, thực tiếp, giao hợp,... Sách Tố Nữ là sách dạy về pḥng trung, giao hợp hay nhất, v́ rất là hiệu nghiệm. Đạy là bí kiếp cho các bậc Đế Vương và giai cấp quư tộc, họ dành riêng để theo đó mà hưởng của Trời.

"Đạo dẫn" tổng quan có thể coi như là một loại thể dục nhịp điệu cùa phép thể dục ngày nay, Trang Tử có truyện Hoa Đà (145-280 Công nguyên) là danh y của Trung Quốc thời cổ đại. Hoa Đà rất rành về phép đạo dẫn cổ truyền. Quan sát loài gấu leo cây, ông sáng tác ra cách luyện tập tứ chi. Quan sát năm cách vận động của phi cầm, ông đặt ra cách luyện tập để thân thể tráng kiện, tinh thần thoải mái. Nhờ theo phép đạo dẫn Hoa Đà sống trường thọ, năm 99 tuổi tay mắt vẫn c̣n sáng tỏ, răng chưa rụng cái nào.

Ngày nay, ta nói mà không sợ, phép đạo dẫn là những động tác co duỗi, xấp ngửa, đi ngồi, đứng lên quỳ xuống, đi bộ, hô hấp… có tác dụng lưu thông máu huyết để cường sinh khang kiện thân thể.

Đồng thời với Hoa Đà có ông Lănh Thọ Quang cũng là người thực hành viên măn phép đạo dẫn. Ông thường vận động đầu cổ và hít thở thật sâu lại áp dụng thành công các bí quyết pḥng trung nên khi đă hơn 160 tuổi tuy đầu tóc đă bạc mà thần khí vẫn như người thanh xuân. Bí quyết pḥng sự của ông ta là "thái âm bổ dương" gặt hái thu lượm cái âm khí để làm bổ cái dương khí.

Sách Hậu hán thư, trong các truyện về phương thuật có ghi ở quận Thượng Đăng, tỉnh Sơn Tây có người tên Vương Chân tuổi gần 100 mà mặt hồng hào rạng rỡ như người chưa quá ngũ tuần. Bí quyết trường thọ của ông nầy là thực hiện phép "thai tức" và phép "thai thực".

"Thai thực" có nghĩa là chỉ ăn những ǵ sanh ra từ bào thai mà thôi, tỷ dụ như thịt ḅ, thịt heo… không ăn những ǵ có nguồn gốc mễ cốc.

Thời cổ Trung quốc thuật dưỡng sinh ngoài những vận động thân thể và hô hấp c̣n để ư đến sự ăn uống đầy đủ (thai thực) và thỏa măn nhu cầu sinh lư. Như vậy sự sinh hoạt mới quân b́nh không v́ một mặt nào của đời sống mà hủy bỏ mặt khác của đời sống. Sự quân b́nh đó làm cho con người được kiện khang và trường thọ.

Theo khoa học hiện đại th́:

"Đạo dẫn" là thể thao thể dục, các loại hoạt động làm cho giăn gân cốt, bắp thịt được cứng rắn, thân thể được kiện toàn.

"Luyện khí" là phương pháp thở hít không khí đúng cách, thở ra hết chất hơi đă bị phổi thải hồi, hít vô không khí mới để giúp cơ thể lọc máu.

Hai cách nầy ngày nay ai năng chăm chỉ thực hành th́ sẽ có sức khỏe lâu dài diên niên ích thoÏ, trẻ trung thoải mái.

Đồng hương với Vương Chân có Diệc Mạnh Tiết thực hành phép ngưng thở, ông ngồi yên tạm ngưng hô hấp, thân ḿnh bất động trong khoảng 100 ngày. Điều nầy phù hợp với những khám phá về thuật du già ở Aán Độ, có loại khiến cho người luyện tập có khả năng "công đông miên", ngủ trong mùa đông, lúc đó hô hấp thật chậm nhẹ nhàng như gần đứt, động mạch đập rất khẽ cơ hồ như không c̣n nữa, Những người nầy có thể chôn ḿnh trong hầm sâu dưới đất không ăn trong ṿng một tháng mà không nguy hiểm ǵ đến tính mạng bởi v́ chính họ hít thở thật ít không khí, uống một số lượng cực nhỏ nước và tiêu thụ một phần nhỏ thể lực của họ để bù trừ.

Người xưa dùng phương pháp hô hấp ép bụng phối hợp với phép thực tiếp để trừ căn bệnh già nua suy nhược, bệnh áp huyết cao và táo bón. Họ c̣n dùng khí công để trừ bệnh thần kinh suy nhược, bệnh đau bao tử và bệnh kết hạch. Hai phép dưỡng sinh nầy chẳng qua là ngồi yên hô hấp (phép tĩnh tọa của vơ lâm)

VI.     THÁI CỰC QUYỀN VÀ BÁT ĐOẠN CẤM

"Thái cực quyền" là do Hoa Đà quan sát ngũ cầm mà đặt ra. Thái cực quyền gồm 24 động tác. Tuy các động tác thay đổi nhưng từ động tác nầy sang động tác kế tiếp không đứt đoạn mà là các động tác liên tục của nhau, biến chuyển tương hợp từ từ mà thành, rất ích lợi cho sự luyện tập thân thể nhất là khi hơi có tuổi.

"Bát đoạn cẩm" cũng tương tự như thế. Các yếu tố luyện tập là tập trung ư chí, thống nhất tinh thần để điều ḥa hô hấp, tuy toàn thân vận động nhưng phải giữ phịp thở sao cho tự nhiên, nhẹ mà sâu. Mỗi ngày càng tập hít thở sâu càng tốt.

Cả hai phép thể dục phịp điệu nầy dùng pḥng ngừa và trị các chứng áp huyết cao, tinh thần khẩn trương, đau bao tử bệnh tim và nhiều bệnh khác. Đối với hệ thống tuần hoàn và hệ thống thần kinh, cơ quan hô hấp, cơ quan tiêu hóa cũng rất có hiệu quả.
Kinh Thái Cực Quyền có ghi người luyện tập phải hô hấp do đan điền. Đan điền là danh từ dùng trong khoa châm cứu chỉ một trong ba vị trí trong người. thứ nhất là trên đầu (đại năo), thứ hai ở hoành cách mô, thứ ba ở rốn. Căn cứ vào các sách vở của đạo gia th́ đan điền là chỗ trọng yếu nhất trong cơ thể con người. Vậy chữ đan điền nói trong kinh thái cực quyền là chỉ chỗ nầy. Khi hô hấp có thể để dưỡng khí tồn trữ tại đây để duy tŕ "tâm b́nh khí ḥa t́nh tự an định" (cái tâm hồn được b́nh tĩnh, cái khí được điều ḥa, cái dục vọng đầu mối của t́nh dục được an định). Y giới Mỹ gần đây nghiên cứu về Thái Cực Quyền và Bát Đoạn Cẩm đều công nhận khả năng làm cho tâm an và b́nh ẩn cái t́nh dục.

Phép hô hấp đan điền được luyện tập dùng cho trường hợp pḥng sự mà thiết giảm xuất tinh, có mục đích điều tức dưỡng khí tăng gia khí lực trong trường hợp bất lực hành sự.

Nội dung hô hấp đan điền người xưa có ghi lại trong sách. Trang Tử có nói: "Chân nhân hô hấp thâm nhập cước, phàm nhân hô hấp tiển tại hầu" nghĩa là bậc chân nhân hít thở không khí vô đến chân, người thường chỉ hít thở được không khí vô đến họng mà thôi. Đại ư khuyên luyện tập hít thở không khí mới để bài trừ mệt mỏi trong người

Đời Động Tấn có người Cất Hồng đề xướng lối "thai tức" nghĩa là thở như thai nhi trong bụng mẹ, thở bằng mũi, không thở bằng miệng, hgít vào thật lâu sau mới từ từ thở ra. Cát Hồng khuyên sau khi hít vào phải đếm đến 120 tiếng mới từ từ thở ra mà số lượng không khí thở ra phải ít hơn số lượng không khí hít vào có như vậy không khí trong lành mới ṭn tại trong thân thể. người siêng năng luyện tập có thể kéo dài thời gian giữ hơi trong bụng đếm đến 1000 mới phải thở ra. Ai luyện đến mức nầy có thể phản lăo hoàn đồng, vĩnh bảo thanh xuân không bao giờ già.

Phép thai tức là phương pháp giảm bớt thở ra thán khí, tích tụ dưỡng khí trong cơ thể, phù hợp với quan điểm y học ngày nay.

Áp dụng nguyên tắc nầy trong việc pḥng sự là cách giữ lại không cho xuất tinh bằng cách hít hơi thật dài vô phổi ńn hơi thật lâu mới thở ra tư từ. Lám như vậy nhiều lần khi thấy ḿnh sắp bắn tinh. Ở Trung Hoa có thuật "thái âm bổ dương" tức thâu lượm âm khí để bổ cho dương khí và "thái dương bổ âm" là nguyên tắc áp dụng cho nữ nhân sẽ bàn đến ở những chương kế tiếp.

Nam nhân không thể lăng phí tinh dịch của ḿnh, mỗi lần xuất tinh là mỗi lần phải có hiệu ích. Khi nữ nhân lên đến cực độ khoái lạc th́ âm hộ sẽ có sức hút rất mạnh, quy đầu của nam rất khó ḷng mà cưỡng lại để rút ra, lúc đó âm đạo sẽ hút tinh dịch của nam nhân vào cơ thể của nữ nhân để sau đó biến thành tinh dịch của nàng.

Cổ truyền ở Trung quốc có phương pháp luyện tập gọi là "tiểu châu thiên" là khi ngồi yên tĩnh tọa dương khí từ đan điển (chỗ rốn), tiến lên hội âm (giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp-suy (giữa xương sống) vào ngọc-chẩm (sau ót) tới nê-hoàn (đại năo), xuống đài trung (giữa hai vú) trở về lại đan điền là xong một quá tŕnh. Cứ như vậy mà điều khiển dưỡng khí chu du, công phu nầy phải luyện đến hai ba năm mới xong. Nam nhân đạt được pháp môn "tiểu châu thiên" khi giao hợp dương cụ và âm hộ phối hợp với nhau mà thực hiện quá tŕnh tiểu châu thiên. Nữ nhân trong lúc tuyệt hứng, nguyên khí bị hút sẽ phần khoái lạc không bao giờ nghĩ đến chuyện chia tay.

Tố nữ khi nói về luyện tập thứ phương pháp tuyệt diệu nầy có bảo phải phối hợp với phương pháp đạo dẫn, cả hai phối hợp sẽ giúp cho nam nhân đạt được mục đích hoàn tinh.

Trong quyển "Ngọc Pḥng Bí Quyết" có nói nếu đàn ông tập luyện được cách hô hấp đằng bụng, cho không khí vào sâu tới bụng (thật ra là hít thật nhiều hơi) th́ sẽ tăng thể lực và tŕ lực (sức chống chỏi), khi giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần hít hơi dài vào đan điền đếm từ một đến 30 mới thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu hơn và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh. Cho có hiệu quả hơn, áp dụng thêm phương pháp "tử văn sinh lai" đă nói ở trên nghĩa là khi cương cứng quá phải rút ra, đợi hơi x́u xuống mới tiến hành trở lại.

Nữ nhân có phương pháp "hành khí" do nàng Triệu Phi Yến đời hán truyền lại. Nàng luyện tập bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng và tập chuyển động phần từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển động. Sau đó nàng dùng thuật "bế khí chỉ tức" nín thở một hơi thật lâu. Với phương pháp hành khí, nữ nhân có thể co rút bóp mở âm hộ khiến dương vật cảm thấy sung sướng tuyệt đỉnh và từ đó rùng ḿnh bắn tinh.

Công dụng của phương pháp nầy là làm cho dương vật được bóp chặt, nam nhân cảm thấy nữ nhân như mới, bóp, từ đó không thể cưỡng nỗi chuyện xuất tinh.

Sách "Hương Muội" nói rơ ràng hơn về phương pháp co bóp nầy. Khi tiến hành giao hợp phải có thứ tự: khi thằng nhỏ tiến vào thâm cung, cửa thâm cung phải mở ra đón chào. Khi chàng đă vào đến nơi th́ cửa thâm cung đột nhiên đóng lại ôm chặc chàng, như mừng rỡ. Quá tŕnh đâm vô rút ra của dương vật được quá tŕnh mở bóp của âm hộ phối hợp tạo cho nam nhân cảm giác tuyệt vời.

VII.     TƯ THẾ VÀ T̀NH THÚ
(Hoàn cảnh và hứng thú)

Hoàng Đế nói: "Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là nguyên tắc nào ?".

Tố nữ đáp: "Nam nữ giao hợp là thuận theo căn bản âm dương của trời đất. Nhưng không nên để lệch đi khiến cho nam nhân càng ngày càng suy hoại thân thể trong khi nữ nhân được bách bệnh tiêu trừ. Đôi bên phải thân tâm sướng khoái, thân cường khí thạnh, mạnh mẽ sung khí mới là nguyên tắc. Nếu không theo đạo âm dương th́ thân thể ngày càng suy vi. v́ vậy các yếu tố căn bản của giao hợp là:

An định sự háo hức.
Tâm trạng hứng thú.
Tinh thần sung măn.

Khi đă có đủ ba thứ nầy tức là tập trung được tinh khí thần th́ tự nhiên không c̣n sợ nóng lạnh, không quá no không quá đói. Khi thân thể khỏe khoắn, t́nh tự tự nhiên nổi lên, đó là chuyện b́nh thường. Khi giao t́nh, phải từ từ mà tiến hành, giữ ba nguyên tắc trên th́ tinh lực của nam nhân không bị suy nhược, khoái cảm của nữ nhân lên đến cực điểm".

GHI CHÚ:

Tố Nữ vạch cho Hoàng Đế biết đạo giao hợp là phải điều hoà và an dưỡng thân tâm. muốn vậy phải học cách và chuẩn bị có phương pháp, bởi v́ khi lâm trận mà t́nh tự an định (không có tâm trạng quá bồn chồn háo hức), tâm trạng hứng thú không miễn cưỡng, tinh thần khỏe khoắn sung măn th́ bên ngoài và bên trong đều mạnh, không thể nào mà bại trân được.

Sách vở xưa của người Do Thái cũng có nói chuyện đưa đến hứng thú gối chăn: "Nếu vợ chồng tương thân tương ái th́ dầu cho giường chật ngủ cũng thoải mái vui thú. Nếu phu phụ bất ḥa dầu cho giường rộng bao la vẫn thấy chật hẹp tù túng". Điều nói trên cốt nhắc nhở gái trai trong đời sống vợ chồng tạo nên c1i "tâm b́nh khí ḥa", thanh thản, ḥa thuận, vui vẻ.

Làm cho tăng gia tính cảm (độ sướng trong khi giao hợp) là do ba yếu tố:

Phản ứng của trung khu thần kinh.
Kích thích của ngoại giới.
Kỹ thật của tính giao (giao hợp).

Cả ba thứ trên tuy nói là tương quan mật thiết với nhau nhưng hai thứ sau tùy thuộc nơi nam nhân rất nhiều. Họ có thể làm tăng hai yếu tố nầy lên để tăng phần khoái cảm trong cuộc giao t́nh.

Các nhà tâm lư học phát hiện rằng đối với phụ nữ cái hoàn cảnh, cái không khí của tính giao quan trọng nhất. Theo báo cáo của bác sĩ Kim Soai th́ nam nhân chỉ cần tưởng tượng th́ cũng gợi hứng dược dương vật sừng lên và cảm thấy hứng thú, trong khi đó nữ nhân th́ không vậy. Họ cần phải có những yếu tố hiện thực mới động t́nh, phải có mắt thấy (rơ ràng những điều gợi dục) tai nghe (th́ thầm lời yêu đương hay dâm ngữ) xúc giác (hai bên thi thể chạm nhau, rờ rẫm sờ soạng thoa nắn) mới tạo cho họ hứng t́nh gợi dục. Bởi vậy trước và trong khi giao t́nh nam nhân phải nhớ đến các yếu tố nầy mà tăng cường mới mong chinh phục được nữ nhân.

Ngoại giới kích thích th́ ngoại giới cũng có thể làm tiêu hao hứng khởi của nữ nhân. Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm nguội lạnh t́nh dục. Bác sĩ Kim Soai cho biết hầu hết nữ nhân không thích làm t́nh mà mở đèn trong khi nam nhân thích mở đền để xem thân thể ḿnh và thân thểû người t́nh quyện nhau như thế nào, xem sự uốn éo vặn vẹo khi sướng khoái của nàng ra làm sao. Nữ nhân ban ngày hay đèn sáng chắc chắn là không thể đạt đến cao trào sướng khoái như làm t́nh ban đêm hay khi trong bóng tối.

Cũng vậy, giữa nam và nữ có sự khác biệt về sự "tắt đèn làm lại" nam nhân khi dương mê trận mà bị phá đám sau dó vẫn có thể tiếp tục như thường, trái lại nữ nhân hứng t́nh đă tiêu tan không c̣n hứng thú để tiếp tục làm lại nữa. Trong khi hai đàng quấn quưt nhào lộn mà phải buông nhau để chàng đi trả lời điện thoại th́ chắc chắn là cuộc vui nên kết thúc, có kéo dài thêm nữ nhân cũng không c̣n ḷng dạ nào.

Giữa hiện tượng "cầu ái" (nhu cầu giao hợp) và hiện tượng "sinh vật" (nhu cầu sinh sản truyền giống) có quan hệ mật thiết với nhau. Trong thế giới loài vật và thế giới của loài người chưa được khai hóa th́ sự sinh hoạt tính dục đều do mùa và chu kỳ định đoạt. Động vật cao đẳng thường có chu kỳ tính giao là một năm một lần hay một năm hai lần (mùa rượng đực). Nhiều dân tộc chưa văn minh c̣n có tập quán nầy. Họ tổ chức Hội mùa Xuân hay Hội mùa Thu cho thanh niên thiếu nữ tới tuổi dậy th́ có cơ hội tính giao mà đi đến hôn nhân truyền giống.

Có khi vợ chồng đối với nhau sự hứng t́nh cũng không đồng bộ về thời gian, bởi vậy nhiều khi phải "bồi dưỡng khí thế" nghĩa là tạo hoàn cảnh và khí thế để hai bên cùng cảm thấy hứng t́nh. Theo Von Krafft Ebing và Kos Smann th́ đàn bà trước hoặc sau thời gian có kinh mấy ngày là giai đoạn hứng t́nh quyết liệt. Đàn ông theo quan sát của Julius Nelson th́ sự tuần hoàn của hứng t́nh là 28 ngày. Các ông Perry Coste và Von Roemet cũng có báo cáo đàn ông chu kỳ cũng giống như vậy và có đỉnh điểm là ngày đầu tháng và ngày 18 của tháng.

Nếu các báo cáo trên là đúng th́ phù hợp với cuộc sống tính dục của người bán khai, họ mở những cuộc liên hoan nam nữ vào đầu tháng và các ngày 18, 19 trong tháng.

Thời gian hứng t́nh của nam nữ không giống nhau. Khi hứng t́nh rồi th́ sẵn sàng lâm trận cũng chênh lệch về thái độ hăng hái nhập cuộc, bởi vậy cần có chiến lược bồi dưỡng khí thế. Tránh ánh sáng v́ nữ nhân thẹn thùng khi tự thấy ḿnh làm chuyện đó. Sờ soạng để tạo xúc giác, nói lời âu yếm để tăng ḷng thích được vuốt ve… Nên nhớ nữ nhân cũng như động vật có hiện tượng chống cự v́ thời kỳ kêu xuân chưa tới. Tâm lư đó cộng với những thích thú về viễn tượng sướng khoái khiến nữ nhân có thái độ "bán nghinh bán cự" nửa như mời mọc nửa như chối từ, như con thú cái bị con thú đực theo đuổi lúc th́ vừa chạy trốn lúc th́ đón nhận.

Hiểu được tâm lư đó của nữ nhân (thẹn thùng và chạy trốn, muốn thấy và cần vuốt ve) nam nhân muốn có một cuộc xuân t́nh phải chủ động tấn kích. Muốn bắt được con thú đẹp để ôm ẵm phải giăng một cái bẫy thật đẹp. Cái bẫy đó là bồi dưỡng khí thế trước khi giao hợp. Khí thế càng hoàn chỉnh, hứng thú t́nh ái càng gia tăng.

Theo kinh Tố Nữ, bồi dưỡng khí thế cũng chỉ là thể hiện đạo âm dương mà thôi: "Tạo nên sự hài ḥa giữa hai bên nam nữ, không trục trặc. Nếu theo nguyên lư nầy mà thực hành mọi sự sẽ thông suốt vĩnh lạc, coi thường nó, không đúng nguyên tắc, thiếu chuẩn bị chỉ đem đến mệt mỏi và thất vọng trong đời sồng gối chăn thôi, mất đi hạnh phúc của trần gian."

VIII.     TỨ THỜI VÀ NGŨ TẠNG
(Tạng con người và bốn mùa)

Hoàng Đế nói với Huyền Nữ rằng: "Đạo âm dương Tố Nữ đă lư giải với ta rồi, nhưng ta muốn nàng giải thích tường tận hơn."
Huyền Nữ đáp: "Đạo âm dương có thể tóm lược trong câu căn bản nầy: Dương đắc âm nhi hóa dục, âm hộ dương nhi thành trưởng, âm dương tương hỗ tương thành, hỗ tương cảm ứng, tuần hoàn tương sinh, nghĩa là vạn vật mọi sự trong trời đất đều theo đạo âm dương giao hợp mà sanh ra. Dương được âm mà hóa dục, âm bảo vệ dương mà lớn lên, âm dương cùng nhau phụ trợ cùng nhau hóa thành, cùng nhau cảm ứng cùngnhau tuần hoàn.

Bởi vậy khi dương cụ tiếp xúc với nữ nhân th́ nó tự động dương lên. C̣n nữ nhân khi âm hộ được kích thích th́ tự nhiên biết mở rộng. Khi giao hợp th́ hai tinh khí âm dương của hai bên giao ḥa mà tạo sướng khoái.

Khi giao hợp nam nhân phải tuân thủ theo bát giới là tám điều cấm kỵ, nếu coi thường mà vi phạm th́ dễ sanh tật bệnh. Trong khi đó nữ nhân cũng phải tuân thủ cửu luật là chín điều luật không thể phạm, nếu phạm phải th́ kinh nguyệt sinh biến chứng bất thường, âm hộ t́ vết có khi phải táng mạng nữa."

GHI CHÚ:

Chương nầy sách Tố Nữ kinh không nói về bát giới và cửu luật nhưng ta có thể thấy những điều này trong các chương kế tiếp. Huyền Nữ và Tố Nữ là những người có thẩm quyền bàn về thuật pḥng sự v́ những lời bàn của hai vị đó căn cứ trên triết học, tâm lư, đạo giáo và kinh nghiệm của nhiều cung nhân trong hoàng cung.

Hậu thế sau nầy có lưu truyền các sách ghi lại những nguyên tắc pḥng the của hai vị trên là "Tố Nữ Kinh" và "Huyền Nữ Kinh". Trên căn bản hai sách tương tự nhau, chỉ khác một vài tiểu tiết không đáng kể. Kinh Huyền Nữ đề cập đến quy luật tự nhiên, tiết độ, áp dụng luật âm dương. Sách nhấn mạnh đến những cái lợi của những lời răn nầy nếu theo th́ hưởng thống khoái, cường thân ích thọ, bằng trái lại th́ sanh ra nhiều bệnh và có khi c̣n táng mạng.

Người Nhật cũng theo đạo âm dương. Một bác sĩ Nhật mới đây trong sách ông viết có bàn rằng: "Trời đất có âm dương, con người có trai gái, thân thể con người ta cũng vậy, các bộ phận ở đàng trước bụng là âm. Ngũ tàng tim gang t́ phổi thận thuộc âm. Lục phủ, mật bao tử, ruột già ruột non, bàng quang và tam tiêu thuộc dương. in nhắc lại theo y học Trung quốc, miệng trên của bao tử là thượng tiêu, khoảng giữa bao tử là trung tiêu, miệng trên bàng quang là hạ tiêu". Công dụng của ngũ tạng lục phủ là trung hoà với nhau, nếu hai bên chênh lệch về âm dương th́ con người không thể nào kiện khang được, chắc chắn là sinh bệnh.

Sách "Hoàng Đế Nội Kinh" quyển hai có nói: "Trời đất có tứ thời và ngũ hành", lại có nói "thiên sanh thu tàng" và "hàn thử táo thấp phong", là những khái niệm giống như "xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng" đă tŕnh bày ở trên. Mùa đông thuộc thuỷ cho nên hàn (lạnh), mùa hạ thuộc hỏa cho nên nóng, mùa thu thuộc kim cho nên khô ráo, xuân thuộc mộc cho nên có gió sách "Nội Kinh" khi nhắc đến ngũ tạng có nhắc đến ngũ khí là hỉ, nộ, bi, ưu, khủng nghĩa là vui, giận, buồn, lo, sợ. Vui giận làm thương tổn khí, nóng lạnh làm thương tổn h́nh, người mà hay giận th́ không thể tiết chế khí được (dễ xuất tinh), bị nóng lạnh quá sức chịu đựng tất nhiên sanh ra bệnh hoạn.

Sách thuốc Trung quốc có nói tới "ngủ lao thất thương" tức là con người ta hao tổn về một thứ tâm trạng nào đó th́ các bộ phận tương ứng trong thân thể sẽ bị thương tổn. Vui quá hại tới tim, phẫn nộ quá hại tới gan, bi thương quá hại tới phổi, ưu tư quá hại tới t́ (bao tử), kinh khủng quá hại tới thận. Do đó để bảo vệ ngũ tạng, con người trong khi t́nh tự ái ân không được để cho tâm bất ổn định, vui buồn bất thường, trái lại giữ cho tâm được b́nh ổn để có sức khỏe đầy đủ. Con người mà luôn luôn khẩn trương và quá độsẽ chịu hậu quả của ḿnh là quá vui thành buồn "cực lạc sanh ai" gặp những điều không hay cho bản thân. những người hư phổi và bộ phận hô hấp, tóc, da là những người ở trong trường hợp nầy. Họ nh́n chung giống nhau ở điểm tóc rụng, da mặt sần sùi xấu xí, dó là chưa kể bên trong họ mang những bệnh như suyển, hay những bệnh thuộc đường hô hấp. Ngũ tạng suy yếu không những chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày mà c̣n ảnh hương đến những giấc mơ nữa.

Hoàng Đế Nội Kinh chương 24 có nói:

Người mà phế khí (phổi và các cơ quan phụ thuộc) suy nhược thường nằm mộng thấy binh khí và những chuyện giết người, cắt cổ gà vịt. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa thu th́ sự thấy c̣n nặng hơn v́ mùa thu thuộc dương nên h́nh ảnh lúc nầy là h́nh ảnh hai người giao đấu hay hai đạo quân tử chiến với nhau.

Người thận khí suy vi trong mùa hạ thấy ḿnh đi thuyền trôi theo ḍng nước, hay trôi giữa ḍng. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa đông (đông thuộc thủy) th́ thấy ḿnh ở trong rừng, trong đám lá rậm rạp.

Người tâm khí hư th́ thấy lửa cháy, hay thấy dương vật. Nếu mà nằm mộng trong mùa hè (mùa hè thuộc hỏa) th́ thấy lửa cháy núi hay thấy chuyện chữa lửa.

Người t́ khí suy nhược thường mơ thấy đói, khó chịu.

Vậy th́ trong ngoài có liên hệ nhau đă đành mà cộc sống thật và cuộc sống mộng cũng có ảnh hưởng nhau nữa (Sigmund Freud nhấn mạnh nhiều trong các nghiên cứu về giấc mơ của ông). Các nhà âm dương có nói "trời là dương, địa là âm", mặt trời là dương, ban đêm là âm. Kinh Tố Nữ có nói: "Dương đắc âm nhi hóa, âm đắc dương nhi dạ, nhất âm nhất dương tương thuận nhi hành" có nghĩa là nam nhân cần phải có nữ nhân mới phát triển thay đổi hay hơn được, nữ nhân cần có nam nhân là nguyên tắc bất di bất dịch. Nam nữ phải đi đôi với nhau. Đó là giải thích đạo âm dương bằng chuyện nam nữ pḥng the. Huyền diệu thay lời trong kinh Tố Nữ.
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 2 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:26pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen

(tiếp theo)
IX.     TÂN HÔN MỘT KHẮC ĐÁNG NGÀN VÀNG

Hoàng Đế hỏi: "Tại sao gọi là nguyên tắc âm dương giao hợp ?"

Tố Nữ đáp: "Nam nữ giao hợp là chuyện tự nhiên của trời đất, của sự tạo thành chủng tộc không mất. Do thuận lẽ âm dương mà nam nhân tinh cường khí tráng. Do thuận lẽ âm dương mà nữ nhân bách bệnh tiêu trừ. Hai bên đều cảm thấy sướng khoái. Nếu không hiểu nguyên lư giao hợp th́ thân thểû ngày càng thương tổn, suy yếu.

Vậy cái đạo giao hợp phải như thế nào?

Đó là chỉ giao hợp khi:

Tâm t́nh an định.
Ư khí ḥa hài.
T́nh tự ổn định.
Thân tâm nhất chí.
Y thử dưỡng sinh.
Không nóng quá, lạnh quá.
Không no quá, đói quá
Tâm tư quang minh, hành vi rơ ràng.
Tính t́nh tự nhiên, thần thái ung dung.

GHI CHÚ:

An định, hài ḥa, ổn định, tự nhiên, thung dung có nghĩa như không bộp chộp hấp tấp. Bắt đầu giao hợp phải từ từ đâm vô, từ từ chuyển động. Càng ít đâm vô rút ra càng tốt bởi v́ như vậy th́ sự sớm bắn khí không xảy ra và giúp cho ta kéo dài trường hợp giao hoan, thơa măn nữ nhân mà không có cảnh nam nhân bẽ bàng v́ "khóc ngoài biên ải".

Kinh Tố Nữ đặt nặng vấn đề tâm lư trong khi giao hợp nên chú trọng đến sự ổn định thân tâm, tâm cảnh b́nh ḥa. Trạng thái thong dong tự tin nầy làm tăng sự sướng khoái đă đành mà c̣n tăng thêm cường thận, ích thọ (sống lâu, không bị chết sớm).

Thong dong, từ tốn c̣n có mục đích kéo thời điểm sướng khoái của nữ nhân về cho đồng nhịp với sự sướng khoái của nam nhân v́ trong sinh hoạt pḥng sự ít khi có sự đồng bộ nầy, nếu bốc hốt, lộp chộp th́ chỉ có ḿnh ḿnh tới c̣n nàng măi lẹt đẹt ngoài sau. Sự lỡ làng đó rất có hại cho sự hoà thuận hai bên và ảnh hưởng tới những lần sau.

"Khóc ngoài biên ải" bắn tinh sớm c̣n do sự thiếu kinh nghiệm của nam nhân, nhất là trong đêm tân hôn. Một cuộc thống kê của một bác sĩ nhật Bản cho biết như sau:

Thành công: 73.4 %
Thất bại: 36.0 %

Vậy sự thất bại, nghĩa là không hưởng được đêm tân hôn đúng nghĩa lớn hơn ta tưởng.

Đi t́m nguyên nhân thất bại để cho người đi sau biết mà tránh, ông bác sĩ trên làm cuộc phỏng vấn khác, kết quả như sau:

Dương cụ không cứng 4.8 %
Khóc ngoài quan ải 11.3 %
Giao hợp đau đớn 37.1 %
Không thấy cửa động 17.7 %
Nguyên nhân không rơ 20.1 %
Không có ư kiến 5.3 %

Thống kê nầy cho thấy v́ quá "khẩn trương" tinh thần bồn chồn lo lắngù kích thích quá độ khiến cho mới đút vô chưa tới đâu là đâu th́ đă xuất tinh là trường hợp khá phổ biến trong đêm tân hôn. Mặt khác sự không an định tinh thần cững khiến cho dương cụ không cương, từ đó không thể tiến hành một đêm tân hôn cho ra hồn được.

Sự gấp rút bồn chồn bộp chộp sanh ra tệ hại là nữ nhân chưa được vuốt ve đầy đủ tinh thần cộng tác chưa được khơi dậy, dâm thủy chưa có khiến cho sự nghênh đón chưa đầy đủ, rơ ràng là cuộc ân ái trở thành một sự thất bại, mất đi mỹ cảm ban đầu mà có khi vỡ tan hạnh phúc v́ tạo nên tâm lư sợ hăi ái ân hay khinh thường người phối ngẫu.

Kiếm không ra lỗ âm đạo v́ bộp chộp cũng có mà mà v́ thiếu kinh nghiệm cũng có. bổ túc kiến thức về cấu tạo cơ quan sinh dục của phụ nữ trước đêm tân hôn không phải là điều vô ích.

Sự thất bại trong đêm tân hôn đưa đến kết quả như thế nào, cuộc thống kê cho thấy:

Sau đó th́ mỹ măn 73.4 %
Sau đó mỹ măn nhưng ly dị 19.2 %
Ly dị v́ trật vuột 1.9 %
Lư do khác 4.5 %
Không trả lời, chỉ có 1.0 %

Tổng quan ta thấy v́ thất bại trong đêm tân hôn mà cặp vợ chồng ly dị chiếm một phần tư. Tránh t́nh trạng nâày và biến nó thành phút ngàn vàng trong đời chẳng phải là quí lắm sao? Muốn vậy phải chú ư đến những nguyên nhân phát sinh trở ngại đă nói ở trên và cũng nên tạo cho ḿnh một sự tự tin rằng ḿnh sẽ làm được, nhất là đối với những người từng thủ dâm. Những người nầy v́ sợ rằng với cái tật ḿnh đă có ḿnh không thể hướng dẫn người đàn bà tuyệt đỉnh khoái lạc như họ mong muốn hay là ḿnh không c̣n cảm thấy hứng thú bằng như ḿnh tự thỏa măn bằng tưởng tượng như trước đó. Tâm lư tự tin, thong dong ổn định là một sự chuẩn bị cần thiết và ích lợi.

Sau lần thất bại đầu dĩ nhiên là làm lại, nhưng tắt đèn làm lại không có nghĩa là lần sau đó th́ thành công ngay. Thống kê cho biết:

Lần thứ hai thành công 30.1 %
Lần 3-5 mới thành công 43.8 %
Lần 6-10 mới cáo thành 10.8 %
Lần 11 hay hơn nữa 8.8 %
Không trả lời 6.6 %

Sớm xuất tinh người đàn ông có tâm trạng bất an và xấu hổ, nữ nhân trong trường hợp này không nên chế diễu hay hỏi mắng mỏ "ra rồi đó hà, dở ẹt", "xong rồi à, sao nhanh thế?"… Những câu hỏi nầy càng khiến cho trượng phu của ḿnh mất hết ḷng tự tin và tự ái có thể kéo đến t́nh trạng bất lực về sau. Gặp t́nh trạng nầy nữ nhân cần phải an ủi nam nhân cho biết sự bất tương hợp như vậy là chuyện có thể xảy ra và làm lại lần nữa th́ có thể khá hơn, không có ǵ mà phải áy náy. Có thể khuyên trượng phu ḿnh nghĩ dưỡng sức một lúc hay nhủ một giấc "rồi ta lại vui chơi, đêm c̣n dài mất đâu mà ḥng sợ."

Trong trường hợp thất bại v́ nữ nhân quá đau đớn th́ nên ngừng ngay. Lúc này nam nhân phải biết vuốt ve mơn trớn cho người bạn ḿnh hứng t́nh lên, ngoài vuốt ve nên nói những lời yêu đương để tạo một không khí thuận tiện chờ khi cả hai cơ quan trơn nhuận (đầm đài lá liễu) mới nên tiến hành trở lại.

Có thể sự đau đớn sanh ra do màng trinh dai hơn b́nh thường, không chịu rách, trường hợp nầy cũng có nhưng mà rất ít. Phần nhiều cô dâu đau v́ sợ sệt, v́ có khuynh hướng chống cự nên tiến hành "cuộc vui" một cách miễn cưỡng khiến nên âm hộ không mở ra lớn đầy đủ. Sự mơn trớn mân mê rất cần trong trường hợp nầy.

Muốn có một đêm tân hôn hoàn mỹ, cả hai nên tham khảo sách về cấu tạo cơ quan của bạn ḿnh. Nhưng câu dạy của Tố Nữ vẫn là quan trọng: "B́nh tâm khí hoà" mới có thể hoàn tất cái lễ vợ chồng bởi v́ "xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim" đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng, không thể bỏ cho lăng phí dược, nghiên cứu cẩn thận sách này th́ bảo toàn được sự kiện khang và luôn luôn gặt hái được khoái cảm!

X.     TÂM B̀NH, KHÍ HOÀ, GIĂ THÁI TỰ NHIÊN.
(B́nh tĩnh, từ tốn, phong thái tự nhiên)

Hoàng đế nói: " Trẫm muốn thi hành giao hợp nhưng dương cụ x́u ểnh không thể cương dũng, rất là ngại ngùng với nữ nhân, lại thêm bị xuất hạn đầm đ́a. Nếu miễn cưỡng cầm lấy đưa vào th́ cũng không làm được ǵ. T́nh trạng như vậy làm thế nào cho nó cứng lên; xin nàng giải nghĩa cho tường tận."

Tố Nữ nói: "Vấn đề của Hoàng Đế là là thông bệnh của nam nhân. Nếu muốn cùng nữ nhân giao hợp, th́ phải chuẩn bị tâm lư, từ từ mà tiến, tâm b́nh khí hoà, thung dung, có như vậy dương cụ mới tự nhiên cương cứng lên được"

XI.     VUỐT VE MƠN TRỚN

Trong Tố Nữ kinh có thuật lời Huyền Nữ vấn đáp với Hoàng Đế về chuyện kích thích trước khi nhập cuộc như sau, thiết nghĩ cũng cần ghi lại.

Hoàng Đế hỏi: "Lắm khi trong lúc giao t́nh, người nữ không cảm thấy có hứng thú, âm đạo v́ thế không trơn, dâm thủy không ướt khiến cho nam nhân mất sự hứng khởi, không đủ sức kiên cường, ấy là tại sao?"

Huyền Nữ đáp: "Trong bất cứ chuyện nào, nguyên lư âm dương cũng đều phải tương ứng tương sinh. Nữ nhân không được nam nhân kích thích th́ làm sao mà bộc khởi cường lực được. Do đó khi giao hợp, nam nữ cần phải hữu t́nh, hữu ư với nhau, lúc ấy cảm hứng mới nẩy sinh, người nữ mắt, mi đưa đẩy; người nam khởi hứng, tự nhiên nơi qui đầu tiết ra một vài giọt dịch thể (chưa phải là tinh dịch) giúp đỡ cho sự trơn hoạt của dương cụ để xâm nhập xuân cung. Người nữ sẵn sàng phối hợp, cửa thành mới mở rộng nghênh đón. Thành thử trong cuộc giao đấu này, sức khoẻ đôi bên sẽ không bị hao tổn mà sự sướng khoái lại càng tăng. Lúc ấy nam nhân sẽ hấp được tinh khí người nữ để bồi bổ thể lực.

Tuy nhiên, chẳng người nào giống người nào, tŕnh độ cũng vậy, người mau, người chậm, người nóng, người lạnh. Nếu cứ miễn cưỡng nhảy vào cuộc hành lạc ngay, không chịu chờ đợi, làm bừa, điều lợi chẳng được, điều hại lại càng thêm.

Huyền Nữ lại chỉ điểm thêm rằng: "Trong trường hợp chậm lục ấy của phái nữ tất nam nhân phải cần đến sự "tiền hí" tức là khai vị để dẫn khởi. Đó là những xảo thuật vỗ về mơn trớn gọi là "các món ăn chơi". Trong những phương pháp "Pḥng trung" cuả Trung quốc cũng chủ trương nữ nhân phải được mơn trớn cho nhiều để dễ đạt đến cao độ và để nam nhân dưỡng hơi sức đỡi lúc dùng đến sau nầy cho dũng mănh, cương liệt. muốn thế th́ trước tiên người nữ phải dược nơn trớn vuốt ve toàn thân, sau đó được bóp nắn toàn bộ "ngọc môn" rồi mới được chú trọng đến cái nhân bé nhỏ gọi là âm hạch. Nhưng nam nhân nào cũng phải dùng kinh nghiệm bản thân mà ḍ xét xem nữ nhân đang đối đầu vơí ḿnh thích vuốt ve ở những bộ phận nào, và nữ nhân này thích nhẹ nhàng hay mạnh bạo.

Thường t́nh th́ phải nhẹ trước mạnh sau. Người nữ, cũng như nam, t́nh hứng phát động th́ cứ tự nhiên các mạch máu đều căng cứng làm phồng nở "tính bộ". Xem cảm giác ở dưới tay ḿnh nam nhân chỉ cần một chút chú ư cũng biết cảm hứng của đôi bên đă nổi tới tŕnh độ nào rồi. Để cho đôi bên lên đến cao độ hứng t́nh phương pháp mơn trớn cũng phải đạt đến mức nghệ thuật vậy, nghiă là biết cách và biết áp dụng.

Huyền Nữ lại nói thêm về sự biểu hiện của nghệ thuật mơn trớn: "Nghệ thuật dầu sao cũng phải có dẫn dắt nên sự thi hành phải có tuần tự và tự nhiên".

Phải bắt đầu từ trên trước đă, từ đầu từ cổ trở xuống, từ sau lưng trước rồi mới ṿng tới nhũ hoa, mông trước rồi mới tới âm bộ, lại ngoài trước trong sau, gơ cửa rồi mới vào nhà v.v… lại nông trước sâu sau, đừng vội hấp tấp; ít trước nhiều sau, nhẹ trước mạnh sau v.v… và khi mơn trớn phải vận dụng đầy đủ h́nh thức và bộ phận: mắt phải thiết tha, hơi thở ứng nhịp, tận dụng bàn tay, ngón tay, ngón chân, bả vai bộ ngực, chót lưỡi, môi, răng v.v…

GHI CHÚ:

Bản tính nữ nhân thường thụ động, lại hay e lệ nên trượng phu cần phát động trước và khi nữ nhân chớm động xuân t́nh th́ sẽ dễ hoà theo, đáp ứng. Ta sẽ thấy người nữ môi sẽ hơi khô, miệng sẽ hơi hé, đầu vú sẽ căng căng, và thân ḿnh sẽ ngúng nguẩy lắc lư. Thảng hoằc người nữ gặp phải nam nhân vụng về th́ lúc nầy cũng nên giúp sức và bỏ tính e lệ đi, tự tay ḿnh sẽ hướng dẫn tay nam nhân t́m đúng địa điểm nhậy cảm của ḿnh, có khi ở đầu nhũ hoa, có khi ở ṿng mông, có khi ở ngoài âm thần, có khi ở trong âm đạo.

Người nữ cũng đừng quá e lệ, trái lại phải hoà hợp để cùng nhau t́m đến thú vui chung, muốn vậy phải tỏ ư của ḿnh ra sao, cả bàn tay hay một hai ngón, ḿnh thích mưa xuân hay băo táp v.v… để nam nhân theo đó mà hành sự. Lại cũng đừng cố ép ḿnh, hăy để cho cơ thể ḿnh ṿng vèo uốn éo tùy theo xúc cảm của thần kinh; và đáp ứng, tay nữ nhân cũng nên biết t́m "cây nấm linh chi", ḍ t́m từ gốc, từ rễ ra đến hoa nấm. Cũng có khi nên dùng đầu lưỡi mà hôn hít thưởng thức sự tuyệt diệu của "nấm linh chi" và cũng là để mở đầu cho người nam cúi xuống "nói chuyện" với "đóa hải đường" của ḿnh.

Tuy nhiên có một điều nên nhớ, chớ có tham lam thái quá. Nếu nữ nhân bộc lộ sư nồng nhiệt thái quá trong lúc tận hưởng các món ăn chơi lại gặp phải nam nhân không "vững tâm", không "an khí", tất sẽ không ẩn nhẫn được, trào ra, đến khi nhào vào việc chính th́ không c̣n kềm chế được nữa, sẽ bị tảo tiết và khi ấy cả hai sẽ bẽ bàng, cuộc vui khộng vẹn, ấm tức.

XII.     TRẮC ĐỊNH T̀NH CẢM

Đáp lại câu hỏi của Hoàng Đế:

"Sao mà biết được lúc nào nữ nhân ham muốn, lúc nào nữ nhân khoái cảm".

Huyền Nữ nói: "Có thể trắc định t́nh cảm của nữ nhân qua những nhận xét sau đây mà ta có thể mệnh danh là:

a)     Ngũ chứng.
b)     Ngũ dục.
c)     Thập động.

NGŨ CHỨNG:

Nếu thấy g̣ má nữ nhân ửng hồng th́ nam nhân có thể sắp sẵn tư thế để đột nhập xuân cung.

Nếu thấy đầu nhũ hoa căng cứng, dưới mũi xâm xấp mồ hôi, th́ nam nhân có thể bắt tay vào việc.

Nếu thấy nữ nhân môi se, miệng khô, miệng nuốt nước bọt, nam nhân hăy hoạt động mạnh bên ngoài cửa xuân cung.

Nếu thấy nữ nhân âm đạo trơn hoạt, nam nhân có thể đưa dương cụ vào thẳng cung vi.

Nếu thấy nữ nhân xuân thủy tràn ra cả cửa cung, nam nhân hăy thu binh hưu chiến.

NGŨ DỤC:

Người nữ lúc được người nam ôm trong tay, thần thái tỏ ra mê mẩn đờ đẫn.

Lúc âm hộ được mân mó, hai lỗ mũi nở rộng cùng lúc mồm miệng he hé ra, hơi thở hổn hển, dồn dập.

Lúc âm dịch tiết ra, rùng ḿnh muốn ôm chầm lấy nam nhân.

Lúc đạt đến khoái cảm cao độ, mồ hôi ra đẫm lưng.
Lúc ấy sướng khoái nhất như được đằng vân giá vũ, thân thể nằm ườn ra để hưởng thụ khoái cảm đang lan tràn khắp thân thể.

THẬP ĐỘNG:

Hai tay ôm lấy thắt lưng người nam, âm hộ muốn được chà xát là lúc hứng t́nh đang lên.

Dạng đùi, duỗi chân, là nóng nẩy chờ đợi nam nhân nhập cuộc.

Bụng hơi tức, cong lưng, ưỡn mông, là mong mỏi người nam xạ tinh.
Mông lắc, đấy là đang giai đoạn tràn đầy khoái cảm.

Hai chân cong lên quặp lấy người nam là muốn cây linh chi của người nam tiến sâu vào hơn trong ḷng ḿnh.

Hai chân khép chặt lại là muốn giữ cho âm dịch của chàng và của ḿnh đừng vội tiết ra để kéo dài thời gian xuân t́nh.

Oằn oại xoay tả, xoay hữu là muốn người nam tiến nhập vào hai bên thành âm hộ thay v́ vào sâu bên trong cung cấm.

Cong lưng, ưỡn mông cùng nhịp với nam nhân là đang ở trên con đường lên tuyệt đỉnh Vu Sơn.

Duỗi thẳng chân tay thủ xướng là đă đạt được khoái cảm tuyệt vời.
Âm thủy tràn ra ngoài âm thần là hoàn tất cao trào khoái cảm.

GHI CHÚ:

"Ngũ chứng, Ngũ dục, Thập động" nêu trên là những kinh nghiệm trắc lượng độ khoái cảm của nữ nhân. Nam nhân cần có những kinh nghiệm này để hiểu nữ nhân hầu tiến thoái đúng quy luật khiến cho hai bên có thể đàn cùng một điệu, tránh khỏi sự xung khắc có thể xảy ra do nhanh chậm trong một phút giây quan trọng.

Ngoài ra hiện tại nam nhân cũng như nữ nhân v́ hoàn cảnh sinh sống, v́ bổn phận gia đ́nh, v́ lễ giáo ràng buộc cho nên ít khi được Loan Phượng Hoà Minh nên lại càng chú ư đến những trạng thái và động tác trên để tránh những bệnh tật do thân, tâm bất xứng ư sinh ra dẫn đến những chứng bệnh thuộc về t́nh dục và những sự chán nản làm ung thối t́nh cảm gia đ́nh.

XIII.     TỨ HẬU VÀ CỬU KHÍ

Như ở một chương Hoàng Đế hỏi về cách thức xử trí khi nữ nhân chưa bột hứng mà nam nhân th́ khí lực tràn trề, nay Hoàng Đế lại hỏi về một trường hợp trái lại, đó là t́nh trạng của nam nhân một khi xông trận mà rụt rè, vấp váp… Đáp lời, Huyền Nữ giải rằng:

Để chuẩn bị cho sự giao ái ḥa hợp người nam cần biết đến "Tứ chí" hay "Tứ hậu" (tức là khí thế) và người nữ cần biết đến "Cửu khí".

Huyền Nữ giải thích về "Tứ Hậu" như sau:

Người nam, dương cụ không phấn chấn ấy là thể lực không đầy đủ.
Dương cụ phấn chấn mà không đủ ni tấc, ấy là bắp thịt không ra ǵ.
Đủ ni tấc mà chẳng cương cường ấy là do gân sức yếu kém.
Có cương cường mà thiếu hăng hái là do nội khí không đầy đủ.

Về "Cửu khí" của nữ nhân, Huyền Nữ nói:
Thở ra hít vào gấp rút ấy là phế khí (khí ở phổi) đầy đủ.
Rên rên rỉ, ấy là tâm khí sung măn.
Hai tay quấn chặt nam nhân ấy là Tỳ khí thịnh vượng.
Âm hộ ẩm ướt ấy là thận khí no ấm.
Thái độ ân cần, miếng cắn yêu nam nhân, ấy là cốt khí không thiếu.
Hai chân quặp lấy đùi nam nhân ấy là gân sức thừa thăi.
Thân h́nh mềm dẻo, bóp nắn lấy dương cụ ấy là khí huyết tràn đầy.
Đê mê rối rít xoa nắn bộ ngực nam nhân ấy là nhục khí có dư.

GHI CHÚ:

1. Đưa ra những nhận xét về Tứ Hậu và Cửu Khí là để đo lường t́nh trạng về sinh lư của nam nữ. Muốn xem nam có phần nào yếu kém th́ do sức của dương cụ. Muốn xem nữ phần thiếu suy th́ nhận định qua những động tác khi người nữ giao hoan.

2. Đại để biết được phần suy, phần thịnh ta mới có thể t́m phương pháp sửa trị cho quân b́nh âm dương, tạng phủ cường mạnh mà cầu được khoái lạc trong sinh lư, lại cầu được ích thọ diên niên.

XIV.     CỬU PHÁP
(Chín tư thế giao hợp)

01.     THẾ RỒNG UỐN KHÚC

Hoàng đế hỏi Huyền Nữ: "Khanh đă nói đến chín diệu thuật, nay khanh đă tường tả cặn kẽ để ta có thể cho sao lục thành sách cất giữ cho khởi mất đi mật pháp quí giá."

Huyền Nữ đáp: "Phép thứ nhất có tên là Rồng Uốn Khúc. Người nữ nằm dưới, mặt hướng lên trời để người nam nằm úp lên ḿnh. Hai vế đùi người nam ở trong hai vế đùi người nữ. Người nữ uống cong hạ thể để ngọc hành cọ sát vào âm hạch. Như thế, từ từ, thong thả mới để dương cụ lọt vào vào ṿng cấm địa. Nguời nam có thế rồi mới điều khiển hoạt trượng liên tiếp vào ra theo luật bát thiển nhị thâm, nghĩa là đút vô tám cái cạn rồi mới thọt vào hai cái sâu. Xong mười cái như vậy kể là một chu tŕnh, một hiệp, một luợt. Xong chu tŕnh ấy th́ tạm rút ra ngoài rồi lại vào trở lại làm tiếp hiệp hai, rồi thứ ba, thư tư… liên tiếp như vậy vơí tôn chỉ: lúc cứng rút ra, hơi mềm mềm rồi lại cho vào. Tôn chỉ ấy là: "Chết qua, sống lại" hay "vào sống ra chết". Làm như thế, ngày ngày người nam thêâm mạnh, người nữ thêm khoái, t́nh xuân dào dạt, âm hộ co thắt, trăm bệnh điều khỏi."

Trong chín phép, phép này được gọi là rồng uốn khúc v́ âm ở dưới, dương ở trên. Đại đa số nam nữ điều theo cách này mỗi khi giao hợp. Người nam, hai tay hai chân giúp cho thân thể cong lên, uốn xuống tựa như con rồng đang uốn khúc nhất là trong lúc thi hành thuật pháp pḥng chung "tám cạn hai sâu".

Trong tư thế này người nam có trọn người nữ trong tay, được thêm khoái cảm của sự chinh phục. Người nữ ngực và âm quản được chạm sát thân thể người nam. Như vậy nữ nhân cùng một lúc hưởng sự sướng khoái của giao hợp và sự vuốt ve nhẹ nhàng lúc ban đầu (ngọc hành cọ sát vào âm hạch).

GHI CHÚ:

1. Tư thế này là tư thế hoà hợp, nên tránh sự cuồng bạo, cần sự nhịp nhàng tương đối trong khi dùng sức.

2. "Tám lần cạn hai lầøn sâu" và "vào sống ra chết" (hay chết qua sống lại) là sự áp dụng một cách nhuần nhuyễn hai nguyên lư dưỡng trường và kích thích trong giao hợp. Dưỡng truờng áp dụng cho người nam làm sao cho cuộc hoan lạc dài tới đến gần băn tinh th́ ngưng lại, tránh không bị kích thích quá độ để bị xuất tinh khi cuộc giao vừa mới khởi đầu. Kích khích là áp dụng cho người nữ, tạo cảm xúc tối đa và tránh nhàm chán, cho phải lúc cạn, lúc sâu, sâu, lúc mềm, lúc cứng…

3. Tây Âu gọi tư thế Rồng Uốn Khúc là tư thế chính của Thần Aùi t́nh. Ta gọi là Rồng Uốn Khúc và đưa lên làm pháp thứ nhất trong chín pháp đủ biết Đông Tây đồng quan niệm rằng đây là tư thế tuyệt diệu trong thuật pḥng trung.

4. Khi lâm trận ta rất dễ quên nguyên lư tám lần cạn hai lần sâu và vào sống ra chết. Không nhớ dể mà áp dụng th́ nam nhân dễ có khuynh hướng làm hùng hục như trâu, xả láng sáng về sớm, như vậy cuộc mây mưa không kéo dài lại làm cho nam nhân mệt mỏi và nữ nhân ấm ức. Đó là khuyết điểm trong luật pḥng trung.

02.     THẾ HỔ: HỔ R̀NH MỒI (thế thứ nh́ trong cửu pháp)

Tư thế này đ̣i hỏi người nữ nằm áp mặt xuống giường, đầu phục xuống, bộ mông cong lên. Người nam quỳ đàng sau, giữa hai vế người nữ. Hai tay nam nhân ôm lấy bụng nữ nhân, đưa dương cụ vào tận bí cung, hoạt động cho lanh lẹ, lánh sang phải đâm sang trái chừng ba bốn chục lần tùy theo sức khống chế. Bí cung của người nữ lúc co lúc dăn; âm thủy trao ra.Lúc bấy giờ nam nhân tạm hưu binh, nghỉ khoẻ. Như thế trăm bệnh chẳng sinh lại thêm cường tráng.

GHI CHÚ:

1. Tư thế này người nam thật giống như hổ ŕnh mồi. Thế này đích thực là bước tiến hóa của con người so với loài vật. V́ người ta khi giao hợp vẫn thuận nam trên nữ dưới, nhưng trong các loài vật chúng vẫn thuận ôm lưng nhau. Từ thuở xa xưa, các nhi đồng nam nữ bất luận ở đâu cũng đă từng trông thấy những cảng tượng giao hợp của chó méo gà vịt và đă có ấn tương ấy trong đầu. Đến khi động ḷng hiếu kỳ muốn bắt chước xem sao, nam nhân chủ động nhưng phái nữ cũng phải thuận t́nh nên khi đă t́m thấy một tư thế đầy hứng thú.

2. Người nam ở ngoài sau có cái thú là được ôm hết bờ vai tṛn, tấm lưng trơn mịn, ṿng eo thon thon, ṿng mông chắc nịch. Hai tay nếu không muốn bám cho chắc, th́ có thể dùng để xoa, vuốt từ bộ nhũ hoa xuống đến âm hộ. Trong khi dương cụ vẫn hoạt động vào ra, xiêng ngang tả hữu, càng lúc càng linh hoạt. Thỉnh thoảng, đôi tay lại rời ra để xoa bóp, nắn đôi mông, ép đôi mông lại hoặc căng nó ra. Tuy nhiên có một điều là khi thực hành tư thế này người nữ để âm hộ cùng giang môn một lượt nếu nam nhân không cân thận hoặc vụng về có thể đưa dương cụ lọt vào giang môn tạo cho nữ nhân một cảm giác cực kỳ đau đớn.

3. Trong tư thế này, âm hạch của nữ nhân không hưởng khoái cảm được chạm sát với dương cụ xong bù lại th́ dương cụ tiếp nhận sâu hơn, lại được tự do lúc lắc, nhấp nhô ḥa hợp với cử chỉ của nam nhân. Tiết tấu ấy tuyệt diệu và làm tăng thêm phần nhục cảm. Nam nhân trong khi xoa nắn, vỗ về sẽ vô cùng khoái cảm nếu gặp được bộ mông to nở. Tiêu chuẩn thẩm mỹ quốc tế định là bộ mông phải nở hơn bộ bụng ít nhất là hai mươi phân tây.

4. Nhiều người c̣n sùng thuợng những bộ mông to. Những dân tộc thông minh thường chuộng những bộ mông to, có lẽ v́ mông to th́ xuơng chậu to, dễ sinh sản và dễ sinh những đứa con có bộ xuơng sọ to, điều kiện căn bản của một đứa trẻ thông minh, mạnh khoẻ.

03.     THẾ VUỢN LEO CÂY (phép thứ ba trong cửu pháp)

Huyền Nữ giảng tiếp: "Thế thứ ba này gọi là thế vượn leo.Người nữ nằm giữa giơ hai cẳng lên không. Nam nhân đối diêän vơí nữ nhân, quỳ xuống, đỡ lấy hai cẳng nữ nhân đặt lên vai ḿnh. Âm bộ nữ nhân lúc này vừa tầm tiếp nhận dương cụ. Âm hạch đuợc chà sát. Người nữ cảm thấy vô cùng khoái lạc và âm thuỷ bắt đầu chảy ra. Dương cụ cứ việc tung hoành và người nữ sẽ đạt đến khoái cảm tột đỉnh. Theo tư thế này trăm bệnh sẽ đuợc tiêu trừ. Nguời nam trong tư thế này ôm lấy hai chân nữ nhân, trông cũng giống như con vượn đang leo cây. Người Trung Hoa rất ưa tư thế này. Hiện c̣n các bản vẽ trong Xuân Cung đồ".

GHI CHÚ:

Hai thế "Hổ Ŕnh Mồi " và "Vượn Leo Cây " điều có những ưu thế tuơng đồng. Thế nào cũng giúp cho nữ nhân lộ trọn vẹn cả bộ xuân t́nh và để cho nam nhân và để cho nam nhân măn ư xoay sở. Bộ vị của cả hai cũng dễ dàng thích hợp. Trong thế Hổ th́ người nữ cong mông lên, cao thấp tuỳ theo t́nh h́nh trong thế Vượn th́ dùng một chiếc gối hay đệm tuỳ theo dầy mỏng đặt xuống dưới mông. Như thế dù cho người nam thuộc hạng béo phệ chăng nữa th́ dương cụ cũng sẽ được đưa vào đến tận cùng của xuân cung, không bị cái bụng mỡ cản trở khoái lạc.

Những nam nhân mà thằng con không đủ kích thước đều thích thực hành như thế. Áp dụng tư thế này người nam sẽ hoàn toàn hạnh phúc nếu nữ nhân có đôi đùi thon thon và đôi chân nhỏ sạch.

Ngày xưa người ta đa khám phá rằng đôi chân có lliên hệ nhiều đến tính dục. Chẳng cứ ǵ ở Trung Hoa, mà từ lâu rồi, ở Tây Ban Nha, ở La Mă, chân người đàn bà phải được che đậy kín đáo. Đi hài cũng không đuợc dùng hài hở mũi. Chân chỉ để cho chồng hoặc t́nh lang trông thấy hay ve vuốt mà thôi, tuyệt đối cấm kỵ người ngoài. Trong tư thế "Vượn Leo Cây" này th́ đôi chân nữ nhân có vai tṛ tính dục mạnh ở chỗ tạo thêm khoái cảm cho cả hai bên nam nữ.

Người nữ có đôi chân thon thon, tất nhiên có dáng đi uyển chuyển, hoạt động lanh lẹ, ḿnh mẩy dẻo dai, dễ cho sự oằn oại, giúp tạo thêm hứng t́nh cho nam nhân. Những ngón chân hồng hồng nho nhỏ cũng sẽ như những trái bồ đào để cho chàng nếm mút.

Trong cuốn "Tăng Ni Nghiệt Hải" (một cuốn sách đời Minh nói chuyện ái ân trong cửa thiền) có nói đến một vị Đạt Ma sở trường hai món Rồng Uốn Khúc và Vượn Leo Cây này. Sách nói rằng hai phép này hoà hợp vơí nhau làm tăng truởng duơng cụ và là cho nữ nhân đạt khoái cảm tối đa.

04.     THẾ VE SẦU: Ve bám cội cây (phép thứ tư trong cửu pháp)

Huyền Nữ lại nói đến thế Ve Sầu. Trong thế này người nữ nằm sấp, ngay ngắn, để người nam nằm úp lên trên lưng, dương cụ được đưa vào xuân cung từ phía sau. Nữ nhân uốn cong bộ mông để dương cụ cọ sát vào hai cánh cửa ngoài cung truớc khi cho phép vào lọt trong cung cấm. Nam nhân hoạt động ra vào chừng năm mươi bốn lần là đă có thể thấy nữ nhân xuân t́nh dào dạt, xuân cung mở rộng, trơn tru.

Đạt đến t́nh trạng này th́ nam nhân nên ngưng ngay.Thế này có thể tiêu trừ những chứng bệnh sanh ra do thất t́nh lục dục như: buồn giận, mừng lo, tư lự sợ hăi ghen ghét… gây nên.

GHI CHÚ:

Trong thế này, nữ nhân nằm úp sấp nên không thoăi mái chân tay và toàn thân, chỉ c̣n hoạt động được bộ mông mà thôi, do đó rất hợp với nữ nhân v́ phụ nữ nào cũng thích uốn éo.

Nam nhân tuy rằng nằm úp trên người bạn t́nh nhưng không nên dùng tất cả sức nặng của ḿnh mà đè lên, phải chóng tay xuống giường nâng bớt trọng lượng của thân ḿnh. Hai chân duổi ra bám lấy sàn giường phụ giúp thêm. Nàng, do đó không cảm thấy sức nặng của chàng đè xuống sẽ dễ dàng ngoạ nguậy, lắc lư, sà qua sàn lại khi cao hứng, hơi thở tuy dồn dập mà cảm thấy thản nhiên, không thấy khó khăn khôâng bị tức ngực…

V́ thế của người nam bám nhẹ nhàng như vậy người xưa liên tưởng đến h́nh ảnh con ve sầu bám cội cây.Thế này nam nhân hoạt động nhiều, tuy nhiên nếu xuân cung của nữ nhân không dược sâu thẳng đúng mức hay cây nấm linh chi của chàng không không dài đủ chỗ th́ nên dùng một cái gôí chêm xuống dưới phần chính của nàng, để vừa vào sâu, vừa tránh trường hợp rạt rào xuân ư, nước nôi mà dương cụ trật vuột ra ngoài, lạc đường lạc sá. Khi sinh hoạt theo thế này có thể hai đàng cùng hội ư để đồng thời chuyển sang thế nằm nghiêng. Nữ nhân năy giờ bị g̣ bó bây giờ nằm nghiêng sẽ lấy lại được phần chủ động, tha hồ lắc lư. Nam nhân cũng giải phóng được đôi tay của ḿnh trong việc nâng cả trọng lượng của ḿnh nên có dịp nghỉ ngơi, nhường lại việc thao túng cho người bạn t́nh.

Xưa Vơ Tắc Thiên cùng với Hoàng Đế vẫn thường xuyên dùng lối Ve Sầu Bám Cội Cây này, chứng tích nay vẫn c̣n trong các bích hoạ ở huyện Đông Hoàng thuộc tỉnh Cam Túc và trong bài phú "Thiên Địa Âm Giao Hoan Đại Lạc Phú" của Bạch Hành Giản một người họ hàng của thi hào Bạch Lạc Thiên.

05.     THẾ RÙA: Rùa bay (phép thứ năm trong chín phép)

Huyền Nữ giảng tiếp đến phé thứ năm trong chín phép. Đó là thế Rùa bay.

Trong thế này người nữ phải nằm ngửa, hai chân lên sát vào bụng. Người Nam quỳ xuống quay mặt về phía người nữ. Hay tay dang hai đùi người nữ ra và đẩy đùi người nữ cho lên cao chạm tới nhũ bộ (vúù). Lấy dương cụ cọ sát âm hạch, rồi cho vào ḍ thử nông sâu.

Người nữ lúc này rất cảm thâáy khoái lạc tuyệt cao, tự nhiên ngọ nguậy thân thể. Âm thuỷ rạt rào cứ theo chổ nào trống th́ tràn ra, để cho duơng cụ được ra vào thong thả. Đợi đến khi nữ nhân trào mạnh ra th́ hăy thu chiến thu binh.

Nếu lúc này người nam rút ra kip, tất giữ được tinh lực khiến thân thể cườøng tráng bội phần.

GHI CHÚ:

Trong tư thế này, khi người nữ cảm thấy khoái lạc mà b́nh thuờng bị kềm chế đôi chân phải co lên cho đến ngực lại bị nam nhân đẩy cho cao thêm tất nhiên phải lồng lộn, lúc th́ uốn lưng, lúc th́ lắc mông, hoạt động mạnh bạo không lúc nào ngơi. Người nam phải theo thế khi tung lên, khi đè xuống, khi đâm bên phải, khi đâm bên trái tuởng như con Ô Quy đang đằng vân giá vũ trong trận điên đảo tả tơi.
Trong thế "Rùa bay" dương cụ được vào xuân cung sâu nhất v́ hai đùi người nữ co lên cao. Đùi càng co cao th́ mông cũng càng cao bấy nhiêu và âm bộ được phơi bày ra càng thêm ngồn ngộn. Trước mắt người nam trông cũng đủ no mắt. Nhiều người nữ cảm thấy e lệ trong tư thế này.

Nhiều nữ nhân nằm theo phép này, âm mao thấy đen ng̣m một khoảng. Những sợi tơ này không chỉ mọc hạn chế quanh âm hộ mà nhiều khi lan rất xa.

Đă có những dân tộc, vào một thời kỳ nào đó thích xén cụt những khu rừng rậm ấy. Ví dụ như ở cổ La Mă ở Cổ Hy Lạp th́ lại khác ta có thể thấy trên bức tượng "Helen of Troy" nàng có âm mao rơ ràng.

Âm mao phái nữ cũng như râu ria nam rất quan trọng về sinh lư cũng như về biểu tượng tính phái cho nên những dân tộc văn minh hiện nay đă biết chăm sóc chải chuốt, vun xới, không cần đợi đến ông thầy tướng nói đến chuyện "có hay không" nữa.

06.     THẾ PHƯỢNG: Phượng múa

Giảng về thế trên Huyền Nữ nói rằng: "Người nữ phải nằm ngửa cong chân lên và hơi dạng hai đùi để cho nam nhân nằm giữa hai đùi ḿnh. Nam nhân chống tay và đưa dương cụ vào xuân cung, mà sát âm hạch. Người nữ phụ giúp nam nhân lắc lắc lại khoảng 24 lượt.

Huyền Nữ nói trong thế này: "Người nữ tiếp nhận dương cụ, xuân cung mở rộng, ââm thuỷ sẽ tràn đầy. Hứng lên đến độ này mà biết cuốn cờ, im trống th́ sẽ được tiêâu giải trăm bệnh".

GHI CHÚ:

Phượng là con trống, Hoàng là con mái nhưng ta thường gọi chung là "phượng hoàng" để chỉ sự keo sơn, luyến ái của đôi cặp.

Lại cũng thường nói là Rồng, Phượng, nên thế Phượng này cũng tương tự như thế Rồng chỉ có điều khác ở nơi đôi vế. Theo thế Rồng âm hộ người nữ dể cong lên, theo thế Phượng Tiên cong xuống. Ấy cũng bởi v́ con người không ai giống ai, từ thể chất đến sở thích và khả năng và cho đến cả thói quen nữa. Những điều khác biệt này, nếu nói rộng ra th́ cũng liên quan cả đến vấn đề quốc thổ, chủng tộc và qua các thời đại: như dân tộc Mỹ, Âu, Phi, trời sinh đă to lớn, đàn bà ngực nở, mông dày…, c̣n người Á, vật thể khiêm nhường v.v… Thời Trung Cổ, người Âu châu có thiên vị yêu chộng những người có ngoại h́nh thon thon (hai ṿng bụng và ṿng mông không xê xích nhau mấy), tiến đến thời kỳ ưa chộng mỹ thuật lưng eo. Ở Trung Quốc xưa người ta thích nguời chân bó, rồi thích thay đổi theo thời thuợng. Con người cũng có những sự khác nhau về thẩm mỹ, về luyến ái quan, người thích béo, người thích gầy, người thích rậm, người thích thưa, thích đen, thích trắng. Do đó tư thế giao quan cần được chấp nhận bởi sự tương thông tương cảm của cả hai, không nên do đơn phương tự quyết. Vậy th́ tuỳ theo thể lực, sở thích và kinh nghiệm để đi đến sự ḥa hợp.

Thế Rồng Bay hay thế Phượng cũng là giúp ích cho sự ḥa hợp ấy để cho cả hai đạt được tới cao trào.

07.     THẾ THỎ: Thế thỏ liếm lông

Huyền nữ giảng đến phép thứ bảy về Thế Thỏ, nói rằng: "Thế này người nam phải nằm giữa, duỗi thẳng chân, người nữ xoay lưng lại dạng chân, chóng tay xuống nệm, quỳ bằng hai đầu gối co, cưỡi lên nguời nam, đầu cúi xuống nḥm chỗ đích. Dương cụ nam nhân chà xát vào hai cánh cửa và âm hạch của xuân cung. Nữ nhân cảm thấy khoái hoạt, âm thủy rạt rào, đưa dương cụ vào tận trong đến lúc đạt tới cao trào th́ hăy ngưng ngay động tác để cho bách bệnh khỏi sinh ra.

GHI CHÚ:

Trong thế này, nữ nhân có lúc cúi đầu cong lưng xuống để tự xem ḿnh, trông hệt như con thỏ bạch cúi xuống liếm lông, liếm bẹn. Người nam nằm duới có cái hứng thú là đôi tay được tự do nâng đỡ bộ mông, bộ đùi nguời nữ và muốn thưởng thức chỗ nào trên thân thể nữ nhân cũng được. Nhưng phần linh hoạt phải nhường cho nữ nhân chủ động; lên xuống qua lại, bốn phía xoay tṛn đều do hạ bàn nữ hoạch định. Nam nhân cũng đôi khi phụ lực nhưng nếu xuân cung quá trơn hoạt th́ duơng cụ dễ bị trượt ra ngoài, cho nên, tốt nhất nên để cho nữ nhân tinh tế nhận xét lúc nào nên nhích lên lúc nào nên nhích xuống, lúc nào nên nghỉ ngơi, lúc nào nên vũ băo. Chớ nên để cho hứng t́nh làm chủ hoàn toàn mà tự tung tự tác làm cho con cá quẩy lội tung tăng khiến cho dương cụ bị tỗn hại.

Ta nên nhớ rằng nữ tính vốn thụ động và đa số phép giao hợp đều để nữ nhân nằm dưới mà tiếp thụ; nên khi ở thế này người nữ có nhiều phát kiến xoay xở, nhiều lúc tựa như nhu nhược, êm ái; nhiều lúc áp dụng áp lực nặng nề khiến cho nam nhâân hưởng được hưởng nhiều cảm khoái khác nhau bằng những cường độ kích khích khác nhau.

08.     THẾ CÁ: Cá tiếp vẩy

Thế này, - Huyền nữ nói - Người nam cũng phải nằm ngửa duỗi thẳng hai chân để cho người nữ quay đầu về phía ḿnh, dang chân cưỡi lên. Người nữ lựa chiều hạ bộ mông ḿnh xuống từ từ, cho hai cánh của xuân cung mở ra đón dương cụ. Nên nhớ là phải từ từ và đừng vội vă cho vào sâu ngay. Hăy làm như cách đứa trẻ ngậm đầu vú mẹ. Người nam cũng chớ hấp mà hẩy vào ngay. Người nữ cứ thong thả mà hoạt động, tuỳ thời tuỳ lúc, tuỳ hứng. Khi nam nhân thấy nữ nhân đạt được cao trào th́ hăy rút c̣i thu binh để cho thu đuợc phần dưỡng sinh, tiêu bệnh.

GHI CHÚ:

Trong thế này, nữ nhân vốn nhu ḥa, thụ động trao việc thi hành tính giao, nay đuợc nắm phần chủ động nên rất cao hứng, tuy nhiên thiên tính nữ vẫn nhuần nhă từ tốn. C̣n nam nhân, được lợi thế chờ đợi, ngắm nh́n nữ nhân hoạt động, hai tay cứ việc thưởng thức sờ soạn toàn bộ sau, bộ trước của nữ nhân. Nữ nhân đuợc nam nhân xoa nắn mông đùi nhũ hoa như thế càng lúc càng cảm thấy phấn chấn rào rạt, quên cả thiên tính ôn nhu, cũng học tập làm anh hùng dũng mănh, thật chẳng khác ǵ hổ mọc thêm cánh, cá được tiếp vây.

Đó là ư nghĩa đặt tên cho phép này.

Đôi nhũ hoa rất có quan hệ đến tính giao. Đại phàm nhũ hoa bị chạm th́ cảm giác cũng lan tơí tận hạ bộ. Mà nam nhân nào trông thấy bộ nhũ hoa cũng muốn đưa tay xoa nắn, thế nàøy khác với thế thỏ liếm lông chỉ ở chỗ ấy. Trong thế Thỏ th́ người nữ đưa mông lại phía nam c̣n như trong thế Cá th́ người nữ quay mặt để nh́n mặt người nam để lộ hai nhũ hoa, dù to, dù nhỏ, cũng muốn cho người nam xoa nắn. Càng được xoa nắn bao nhiêu, xuân cung càng tràn ứa. Cả hai điều được đi đến chỗ no đủ, thoả măn t́nh ư.

09.     THẾ HẠC: Hạc gác cổ

Huyền Nữ tiếp tục giảng đến phép cuối cùng là thế "Hạc Gác Cổ". Người nam ngồi theo kiểu quỳ chân xuống, hơi dạng hai đầu gối ra để đỡ bộ mông nữ nhân ngồi lên. Người nữ cũng dạng hai đùi và hai tay quàng quanh cổ người đàn ông đồng thời để xuân cung hạ thấp xuống cho dương cụ chà xát âm hạch trước khi cho dương cụ được phép vào khám hiểm trong tuyệt cùng sâu thẳm của xuân t́nh.

Nữ nhân, trong thế này, cảm thấy khoái lạc, lúc âm thuỷ nhỏ giọt là lúc sướng khoái lên đến cao độ. Lúc ấy biết kềm chế đ́nh chỉ để tránh xuất tinh th́ vạn bệnh thất thương đều trị tuyệt, con người ta sống thêm tuổi thọ, khang trang mạnh mẽ.

GHI CHÚ:

Huyền nữ lại nói thêm đến các phép ngoại như "Tam Thập Pháp" của Động Huyền Tử hoặc "Song Tu Pháp" của Đạt Ma xưa đă từng truyền cho Thuận Trị Hoàng Đế. Những phép này cũng do chín thế của Tố Nữ Kinh mà biến đổi. Tố Nữ Kinh mục đích viết ra để cho người muốn tập dưỡng sinh biết đường mà cầu học không ép xác mà được hưởng khoái cảm thiên nhiên dành sẵn cho thân thể. Dưỡng sinh là cầu khang kiện và trường thọ, lại cũng cho ḥa hợp tâm thần, nữ cũng như nam biết được điều khoái cảm. V́ thế trong sách này không chỉ bảo các tập thế dùng cho trường hợp hai nam một nữ hoặc ngược lại.

Lại nói danh xưng của các thế, th́ trong Tố nữ kinh cùng Song Tu Pháp cũng từa tựa như nhau, cũng thế Long, thế Hổ, thế Ngư, thế Phụng.v.v… Riêng trong Song Tu Pháp không cầu sự hoà hợp và khoái cảm của nữ nhân chỉ cầu mục đích của nam nhân nên chú trọng thời khắc của "vị khác đến thăm xuân cung" nhiều hơn. Song Tu Pháp ghi rằng:

Thế Rồng th́ 8 lần cạn 5 lần sâu
Thế Hổ th́ 5 lần cạn 3 lần sâu
Thế Vượn th́ 9 lần cạn 6 lần sâu
Thế Ve sầu th́ 10 lần cạn 4 lần sâu
Thế Phượng th́ 6 lần cạn 2 lần sâu
Thế Thỏ th́ 4 lần cạn 1 lần sâu
Thế Hạc th́ 10 lần cạn 7 lần sâu

C̣n thế Rùa và thế Cá không thấy ghi. (Trong Tố Nữ Kinh có nói đến thế Rồng người Nam th́ phải theo tỉ lệ 8 lần cạn 2 lần sâu).
XV.     CÁC PHƯƠNG THỨC YÊU NHAU CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG.

Các phương thức yêu nhau để chữa trị cho nhau khỏi tổn thương, bệnh hoạn.

Ngoài chín phép hay tư thế đă được lược tŕnh ở trên c̣n tám phép làm cho thân thể thêm cường tráng, bách bệnh tiêu trừ gọi là "Bát Ích" – tám điều lợi ích – lại có bảy phép gọi là "Thất Tổn" – bảy thứ suy kém – để chỉ bảo cho nam nữ cách chữa trị căn bệnh làm suy ṃn thân lực. Tất cả những phép trên đều căm cứ vào mục đích làm cho âm dương điều ḥa, dụng kỹ thuật tính giao mà làm cho nam nữ được thú sướng kiên cố mà trị bệnh và cầu mạnh khỏe sống lâu.

Căn cứ vào Đông Y, phân thành nội ngoại th́ bên trong con người ta có ngũ tạng và đó là gốc rễ để cho ngoại h́nh (dáng dấp bên ngoài) của ta phát triển. Cả hai nội ngoại bổ cứu, điều ḥa th́ thân thể ta sẽ được cường tráng, vô bệnh, sống lâu.

Trong sách "Hoành Đế Nội Kinh Tố Vấn" có nói rằng:

"Tâm khỏe th́ máu đỏ tươi nhuận, Phổi khỏe th́ da mở, lông trơn, Gan khỏe th́ gân mạnh, móng chân cứng rắn; Tỳ khỏe th́ thịt dai, môi đỏ, Thận khỏe th́ xương thẳng chắc, tóc râu rậm mướt".

Bát Ích Pháp chính là để giúp cho Tâm, Phế, Can, Tỳ, Thận bổ khỏe ngơ hầu con người ta được vui hưởng cái sức mạnh, sự bền bỉ sáng suốt mà ngũ tạng đă là nguyên động lực. Tư thế nam nữ áp dụng trong Bát Ích Pháp này cũng là do "Chín Thế" đă tŕnh bày ở trên mà biến hóa ra và có nhiều phụ thế nằm nghiêng hơn là ở các "thế mẹ" nguyên thủy. Người nữ trong "Bát Ích Pháp" thường phải co đầu gối, dạng đùi ra lưng phải dẻo để xoay chuyển hợp tác vận động. làm cho đung th́ lợi ích vô kể, có thể nói rằng kéo dài được thời thanh xuân và tới già vẫn thiếu tráng.

(c̣n nữa)
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 3 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:28pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen

(tiếp theo)


XVI.     BÁT ÍCH
01.     Cố tinh (Bền bỉ tinh khí)

Người nữ nằm nghiêng, xoạc hai đùi, đùi trên cong cong lại vào thân ḿnh. Nam nhân cũng nằm nghiêng, đối mặt với bạn t́nh. Dương cụ ấn sâu vào mật cung, rút ra ấn vào 18 lần liên tiếp. Hết số đó th́ ngưng, dưỡng thần.

Mỗi ngày "luyện tập" hai lần như vậy. Tập như vậytrong 15 ngày th́ nam nhân dịch đầy đủ; nữ nhân trừ được bệnh nguyệt qúy tháng tháng xuất ra nhiều hơn b́nh thường.

02.     An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái nhẹ nhàng)

Người nữ nằm ngữa, đầu gối trên một chiếc ghế cao, hai chân dang thẳng, dạng đùi, nam nhân quỳ xuống giữa hai đùi người nữ, phủ lên người nữ và cho dương cụ xâm nhập vào xuân cung, rút ra cho vào 27 lần. đúng số này th́ rút lui (để trách xuất tinh). Được như thế tâm thần sẽ được an tĩnh, phong thái săng khoái, thơ thới, không biết âu lo, bồn chồn. Nữ nhân cũng được lợi, khỏi chứng lănh âm, một bệnh diệt trừ khoái cảm giao hợp mà nhiều nữ nhân mắt phải.

Pháp này phải áp dụng ngày 3 lượt; liên tục trong hai chục ngày, sẽ thấy kiến hiệu.

03.     Lợi Tạng (Bổ ích cho ngũ tạng)

Người nữ nằm nghiêng hai đùi co lên, để lộ toàn bộ phía mông. Người nam nằm nghiêng phía sau đưa dương cụ vào mật cung, ra vào 36 lượt. Rồi thêm quân (thế này ta quen gọi là nằm theo lối úp th́a). Mỗi ngày thực hành 4 lần. 20 ngày sẽ thấy kiến hiệu: trai th́ tâm b́nh, khí ḥa, nữ th́ tuyệt chứng lănh cảm (lợi ích cũng như phép 2).

04.     Cường Cốt (Mạnh xương, gân)

Người nữ nằm nghiêng. Đùi bên trái co lên bụng. Chân phải duỗi thẳng. Người trai nằm lên trên, hạ bụng đè lên mông người nữ đưa dương cụ vào mật cung, ra vào 15 lần rồi rút lui luôn.

Mỗi ngày thực thi 5 lượt như thế, trong mười lăm ngày, nam nữ sẽ thấy gân xương khoan khoái, thân thể nhẹ nhàng. Người nữ bị chứng bế kinh (nguyệt bảo chậm hoạt không ra được) cũng khỏi.

05.     Điều Mạch (Thống huyết)
Người nữ nằm nghiêng về bên phải, co chân phải lên vàduỗi thẳng chân trái. Người nam nằm phục lên trên ôm lấy người nữ và liệu chiều cho dương cụ thâm nhập vào mật cung, ra vào 54 lần. Mỗi ngày 6 lượt trong 24 ngày. Được vậy tâm mạch sẽ đều đặn, khí huyết lưu thông;người nữ th́ khỏi chứng bị đau âm đạo, đau dạ con.

Phép thứ năm này cùng với phép thứ tư giống nhau, chỉ khác ở thế nằm người nữ nghiêng về trái hay nghiêng về phải mà thôi.

06.     Súc Huyết (Nuôi máu)

Người nam nằm ngửa trong tư thế đón chờ (hoặc bị động). Người nữ qùy trên người nam, hai đùi dang ra hai phía háng nam nhân và ngồi xuống để dương cụ tự do thâm nhập vào mật cung. Nữ nhân nhấp xuống, nhổm lên cho dương cụ vào ra 63 lần rồi đ́nh chỉ hẳn. Mỗi ngày thục hành liên tục trong mười ngày.

Phép này làm cho người nam khí lực tráng kiện, người nữ điều ḥa nguyệt quư.

07.     Ích Dịch (Bổ ích các hạch nhờn, tinh khí nam, nữ)

Trong các phép này người nữ úp sấp, hạ thể đè lên một chiếc gối để bộ mông được nâng cao. Khẽ hé đùi. Người nam chống tay, qùy gối nằm trên người nữ và cho dương cụ hoạt động vào ra mật cung 72 lần rồi tu quân. Mỗi ngày tập dượt 8 lượt trong ṿng 10 ngày liên tiếp. Trong Tố Nữ Kinh nguyên bản không nói rơ phép này tập dượt mỗi ngày mấy lượt, song xét ra phép thứ sáu phải thi hành mỗi ngày bảy lượt và sau phép thứ 7 này, tức là phép thứ 8, nam nữ phải tập luyện tới chín lần mỗi ngày, th́ ta đoán được phép thứ 7 này đ̣i hỏi tám lần một ngày.

Nam, nữ theo đúng phép này sẽ được cường lực, thận bộ kiên cố (bổ thận).

08.     Đạo Thể (Thông sạch thân thể)

Theo phép này người nữ nằm ngửa, hai chân quặp về phía sau, uốn cong người lên. Người nam chống tay nằm phủ lên người nữ, đựa dương cụ vào xuân cung, ra vào 81 lần rồi rút lui.

Mỗi ngày thao diễn như vậy 9 lượt liên tục trong chín ngày. Theo phép này người nữ trị đuợc bệnh xuân cung có mùi hôi hám.

Theo phép này người nữ phải quặp chân ra sau để uốn cong hạ thể, lại bị động chịu trận cho người nam luyện tập nếu không cảm thấy khoái lạc th́ tất nhiên thấy đau đùi mỏi vế vô cùng. Nhưng theo Tố Nữ Kinh, nếu không theo đúng phương pháp mà thực hành th́ không thể nào trị được mùi ác xú cả trong bộ phận của nữ nhân cả.

GHI CHÚ:
Trong Phương Đông Học từ xưa ai cũng biết rằng: nội tráng tất ngoại cường (Bên trong – ư chỉ các tạng phủ – mà được khỏe mạnh, th́ bên ngoài sẽ kiên cố. Cho nên có rất nhiều môn tu học cốt làm sao cho thân thể kiên khang hầu tiến đến chổ bất tử. Các phái vơ Thiếu Lâm, Vơ Đang. v.v… ra đời cũng v́ mục đích ấy. Trong các tư thế thượng thừa được chấp nhận có môn Bát Đoạn Cẩm tức là một môn nội công của Thiếu Lâm phái. Học môn này tức là thực thi những tư thế mà giữa nguyên phần hạ thể và hai tay mà làm các động tác mà thôi.

Nhưng trong "Bát Ích" lại có những tư thế hoàn toàn trái nghịch, các động tác do phần hạ thể chủ động, mà mục đích cũng là làm cho thân, tâm được khoan khoái, cường kiên, không khác ǵ mục đích của các môn phái y học hoặc vơ học khác. Hơn thế v́ nghĩ rằng đa số bệnh tật cũng là do tiên thiên -khi mới sanh ra con người đă yếu kém - hai là tại bẩm sinh đă được trời cho mạnh khỏe sonh không biết giữ ǵn đă để cho phong sương liễm thể hay đă vung vít quá độ mà đâm ra tật kia, chứng nọ. Cho nên Tố Nữ Kinh chín thế và phép Bát Ích muốn lợi dụng những sự ham muốn của người đời, khiến cho ai cũng không phải "khổ công" mới thành mà trái lại có thể vừa hành lạc vừa thâu lượm được kết quả tốt.

Cửu thế và Bát Ích mang đến cho mọi người nguồn sinh lực, sự ḥa hợp hạnh phúc, sự ước muốn diên niên trường thọ. C̣n việc sửa đổi t́nh trạng yếu kém, chuyên về điều trị sức khỏe và các chứng bệnh th́ lại có bảy phép khác gọi là "thất tổn" (như vậy, tổng cộng là: 9+8+7 =24 tư thế). Sau đây là những tư thế trong thất tổn.

(c̣n nữa)
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 4 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen

(tiếp theo)

XVII.     THẤT TỔN
01.     Tuyệt Khí

Tuyệt khí là chứng bệnh thiếu khí, mồ hôi nhiều, tim nóng, mắt hoa, nguyên nhân do những sự miễn cưỡng (cố gắng nhiều lần) giao hợp mà sinh ra.

Y học Trung Hoa lấy khí làm quan trọng nhất nên khí chỉ thiếu một chút làm sự sống của con gnười đă bị đe dọa rồi, đừng đến là đi đến chỗ tuyệt nữa.

Để chữa trị chứng bệnh này, người nữ phải nằm ngữa để người nam nâng hai đùi lên và cho vào dương cụ. Thế này tương tự như thế vượn leo song có điều khác là người nữ phải chủ động, người nam đừng nhúc nhích để dương cụ nằm yên trong xuân cung. Người nữ chỉ việc chuyển động tuỳ ư thích đến khi thấy xuân thuỷ rạt rào th́ thôi, chớ để người nam ra theo. Mỗi ngày hăy giúp đỡ nam nhân như thế chín lượt, liên tục trong mười ngày, tất chứng tuyệt khí sẽ hết.

02.     Dật Tinh

Dật tinh tức là sự ham muốn quá độ, âm dương không thuận, không măn ư hoặc là pḥng sự lúc cơm no rượu say nên khí loạn, tổn phế tạng, gây nên sự nóng giận bất thường. Chứng này phải trị ngay không thể kiên tŕ (chểnh mảng để lâu) được v́ khí ngày càng vọng động càng thiêu đốt, làm mắt hoa bụng trướng, hen xuyển v. v… Để lâu sẽ đi đến chổ bất lực.

Hăy để nữ nhân nằm ngửa hai chân cong ṿng (như ngồi sắp bàn tṛn) quặp lấy người nam. người nam ngồi xuống đưa dương cụ vào xuân cung, nhưng chớ đưa toàn bộ vào, đưa độ hai phần ba thôi (một tấc rưỡi). Nữ nhân sẽ ngúng nguẩy, lắc xoay, sàn bộ mông. Người nam giữ y thế của ḿnh, chớ động cựa. Chừng nào ngướ nữ thấy xuân thuỷ tràn đầy th́ đ́nh chỉ không sàn nữa, tránh đừng để cho người nam xuất tinh ra theo.

Mỗi ngày hành sự chín lần liền trong mười ngày, chứng Dật tinh sẽ trị khỏi. Trong phép này, phải để cho người nam nhàn dật, bớt dụng sức. Lại phải biết ư nam nhân chớ để nam nhân thỏa măn mà bị "tảo tiết" (ra sớm).

03.     Đoạt Mạch

Mạch bị đoạt nghĩa là toàn thể tinh mạch ở trong trạng thái lộn xộn, không c̣n chạy theo đúng phương vị của chúng nữa. Kết qủa của chứng này trong thuật pḥng the là dương cụ quá cường dật khiến cho có trường hợp bán đồ mà đă xuất hay tệ hại hơn, khóc ngoài biên ải. Bệnh lâu thành bất lực. và tinh khí khô kiệt. Nếu cứ cưỡng mà tiếp tục hành sự th́ Tỳ tạng thương tổn, sự tiêu hóa không c̣n b́nh thường được nữa.

Để chữa trị chứng này, nữ nhân dùng vị thế nằm ngửa, hai đùi cặp vào hai bên hông của nam nhân. Nam nhân dùng hai tay đỡ sức nặng của thân ḿnh bằng cách chống xuống giường, thân ḿnh chồm lên phía trên của nàng. dương cụ từ trên đâm xuống. Chỉ có nàng là chủ động xoay trở trong tư thế này, sàng xẩy, đong đưa, tuyệt nhiên chàng không chủ động. Đến khi nàng t́nh xuân măn ư th́ dừng lại ngay và bắt chàng rút ra ngay. Tuy không đến tuyệt đỉnh Vu Sơn nhưng chàng sẽ trị được căn bệnh của ḿnh. Mỗi ngày thực tập chín lần, trong mười ngày th́ căm bệnh tự nhiên sẽ khỏi.

04.     Khí Tiết

Khí tiết v́ nguyên nhân ham hành lạc trong lúc mệt mỏi, ví dụ vừa làm công việc nặng nhọc xong chưa kịp nghỉ ngơi lấy lại sức đă vội vă nhập pḥng, nên chi tinh thần bị b́ quyện (u mê không linh hoạt), mồ hôi ra như tắm, bụng càng đầy như bị báng (cổ trướng).

Để chữa trị chứng này, người nam nằm ngửa, xuôi tay chân cho thư thái để nữ nhân quay đầu về phía nam nhân, quỳ xuống, hai đùi áp sát sườn nam nhân rồi từ hạ mông xuống mở cửa mật cung đón dương cụ vào. Chớ cho sâu hẳn, giữ lại nữa chừng rồi lúc lắc. Khi người nữ cảm thấy xuân thủy rạt rào th́ phải thôi ngúng nguẩy và tạm rút lui. Làm như vậy trong mười ngày, mỗi ngày chín lần. bệnh khí tuyết sẽ khỏi.

Thế này tương tự như thế thỏ liếm lông nhưng khác một điều là người nam phải giữ thế yên vị, người nữ phải nhổm mông không được đè sát. V́ thế này nhấp nhổm nên người Trung Hoa gọi thế này là "cúi đầu hái củ ấu" (Đảo thái liên hoa - quay đầu lại hái sen).

05.     Cơ quan hay là Quyết thương

Quyết thương hay c̣n gọi là nghịch khí thuộc chứng bệng về nội tạng. Bị huyết thương th́ đại tiểu tiện khó khăn, da thịt tiêu hao, gan, thận suy kém có thể đi đến chổ dương suy, âm suy (liệt dương, liệt âm), nặng có thể không c̣n đứng ngồi được. Muốn chữa bệnh này, nam nhân phải nằm thẳng, tay chân duổi dài thoải mái. Người nữ quay lưng lại ngồi xuống cưỡi lên hai vế người nam. Chống tay rồi từ từ hạ bộ mông xuống cho dương cụ lọt vào xuân cung. Mông lưng uốn éo tuỳ nghi đến khi tràn trề xuân thuỷ th́ ngừng. chớ để người nam vận động và ra theo. Mỗi ngày chín lần liên tiếp trong mười ngày th́ bệnh tật khỏi.

Điều nên nhớ là phép thất tổn đều có mục đích là đem sự giao hợp chuyển thành phương pháp chữa bệnh -nhưng bệnh luôn luôn có liên quan đến tính giao hợp v́ tham la

Trong phần Thất tổn này ḿnh chỉ có được 5 thôi.C̣n thiếu 6, 7. Ai có biết th́ post thêm chủ đủ vậy

(c̣n nữa)
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 5 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen

(c̣n thiếu các phần

2.6 Bách Bế *
2.7 Huyết Khuyết *

XVII.BA MƯƠI VỊ THẾ GIAO HỢP *
1. Tự trù mâu *
2. Thân khiển quyển *
3. Bạo tự ngư *
4. Kỳ lân giác *
5. Toản mặc cẩm *
6. Long uyển chuyển *
7. Ngư tỉ mục *
8. Yến đồng tâm *
9. Phỉ thuư giao *
10. Uyên ương hợp *
11. Khơng phiên diệp *
12. Bối phi cưu *
13. Aùn cái cơng *
14. Lâm đàn trúc *
15. Loan song vũ *
16. Phượng tương xu *
17. Hải âu Dực *
18. Dă mă đề *
19. hồng ngạc túc *
20. Mă dao đề *
21. Bạch hổ thắng *
22. Huyền đàn bộ *
23. Sơn dương đối thụ *
24. Cơn kê lâm trường *
25. Đơn huyệt phụng du *
26. Huyền minh bằng chứ *
27. Ngâm viên bảo thụ *
28. Miêu thử đồng huyệt *
29. Tam xuân lư *
30. Tam thu cẩu *

XVIII.THẾ GIAO HỢP CƠ BẢN *

1. NAM THƯỢNG VỊ (Nam nhân ở trên) *

1.1 CHÍNH THƯỜNG VỊ (Vị thế cơ bản) *

1.2 THÂN TRIỂN VỊ (Chân kéo thẳng) *

1.3 CAO YÊU VỊ (Vị thế lưng cao) *

1.4 KHUẤT KHÚC VỊ (Vị thêá thu ḿnh) *

2. NỮ THƯỢNG VỊ (Nữ nhân nằm trên). *

2.1 PHẢN VỊ (Vị thế ngược) *

2.2 KỴ THỪA VỊ (Vị thế cởi) *

2.3 KIỂU NẰM NGHIÊNG *

2.3.1 Nghiêng mặt đối *

2.3.2 Nghiêng mặt lưng. *

)


2.4 VỊ THẾ LƯNG

Thế nằm

Giống như cách thường vị, nhưng ở đây nữ nhân nằm sấp, nam nhân nằm lên trên lưng. Hai đùi nữ nhân cĩ thể bẹt ra hay khép lại. Nan nhân cũng dựa theo đùi của nữ nhân mà hành động, nàng khép haiv đùi, ḿnh ở ngồi; nàng banh hai đùi, ḿnh ở giữa.

Vị thế này mơng của nữ nhân cĩ tác dụng như một cái gối êm xốp cho nam. Trường hợp người nữ gầy ốm, xương xẩu, kiểu thường và kiểu cởi, làm cho nam nhân mất bớt hứng thú v́ chạm các khớp xương, kiểu nằm sấp này tránh những khuyết điểm đĩ.

Trong trường hợp nữ nhân mập mạp nhiều thịt, mơng to vị thế này khơngthích hợp v́ "trái độn" đă ngăn trận sự xâm ngập của dương cụ khiến sự tiến vào khơng được sâu.

Khi cĩ mang dĩ nhiên là tuyệt đối cấm dùng vị thế này. Khuyết điểm quan trọng của vị thế này là sự sút ra của dương cụ, khi kích v́ miệng âm đạo mở, từ trên xuống dưới (như một cái cổ giếng) trong khi dương vật tấn kích xuyên về phía trước. Nữ nhân khơng thích vị thế này v́ bị đè, khối cảm ít, xung kích xâm nhập ngắn, đâm cạn sợt khơng đến đâu, vận động khơng đuợc tự do. Nam nhân trái lại thích dùng vị thế này v́ cĩ sự thỏa măn về thị giác, kích thích nhiều, hai tay lại được tự do chồng qua ḿnh bạn mân mê mấy thứ đồ phụ tùng.

Thế quỳ

Nữ nhân nằm sấp trên giường, nhưng cong hai đầu gơí lên về phía ngực, phía mơng hơi chỏng lên cao, phía đầu hơi cúi xuống thấp hơn. Nam nhân quỳ ở chỗ mơng của bạn, lưng thẳng hai tay ơm lấy chỗ eo của nàng để điều chỉnh độ kết hợp.

Khi giao hợp bằng vị thế này, qui đầu tiếp xúc với âm đạo mănh liệt. Dương vật được cọ sát nhiều, nên khối cảm cĩ cường độ rất lớn. Nếu muốn tăng thêm khối cảm th́ nên dùng gối kê đầu gối của nàng để mơng chỏng lên cao hơn nữa làm cho độ nghiêng sau trước được nhiều. Cách này là cho cổ tử cung đưa ra hứng tất cả tinh dịch cho nên là vị thế râát dễ bị thụ thai. Muốn tránh mang bầu khơng nên dùng thế này.

Đặc biệt, nữ nhân khỏi làm ǵ cả, tất cả điều do nam nhân chủ động, nữ nhân chỉ cần xoay xoay hậu bộ của ḿnh, hoăc làm những động tác ǵ khác tỏ ra ḿnh cũng cĩ khối cảm, để kích thích thêm nhục t́nh cho nam giới.

Đặc biệt vị thế này thường phát những tiềng động "nhẹp nhẹp" ta khơng ưa thích, điều này khơng cĩ hại ǵ, đừng nên chú ư mất vui. Tiếng động phát sinh ra do âm đạo bị đè nén mà mở ra chứa khơng khí, vận động giao hợp làm cho khơng khí bị bung ra, tiếng động phát sinh từ đĩ.

2.5     TỌA VỊ (vị thế ngồi)

Ngồi đằng trước.

Nam nhân ngồi trên giường. Nữ nhân ngồi trên đùi nam nhân, trở ngược lại…

Hai người ơm lấy nhau: nữ nhân ơm cổ nam nhân ơm eo.
Nữ nhân phải dạng đùi ra chồng qua ḿnh nam nhân nên miệng âm đạo hở, dương cụ dễ tiến vào. Khi đến cực điểm của khối lạc, nam nhân nên bỏ eo ơm mơng nữ để tăng cường thêm. Vị thế ngồi này khiến cho âm hộ hơi co rút lại, dương vật cĩ cảm giác như bị bĩp lại nên càng cương cứng thêm. Khuơn ngực của nữ tŕnh bày trước mặt nam, đặt sát vào hay bú núm vú cũng là điều cần thiết.

Nam nhân rung động hai đùi của ḿnh để kéo theo sự rung chuyển mơng của người đẹp. Sự rung chuyển này một mặt kích thích cuộc giao hợp làm cho xương chậu của nàng thay đổi vị thêá khiến cho cuộc kết hợp được lâu hơn, thằng bé đi vào tận cùng trong thâm cung bí sử.

Tư thế này rất thích hợp khi nữ nhân cĩ thai.
Nếu nam nhân khơng ngồi mà quỳ trên đâàu các ngĩn chân và đầu gối ḿnh th́ sự xâm nhập cạn hơn vị thế đă nĩi trên, sự kích thích khối lạc v́ vậy cũng ở mức độ vừa phải, rất an tồn cho người nữ cĩ mang.

Nếu nữ nhân mập béo mà nam nhân cũng muốn áp dụng tư thế này th́ nên cho nữ nhân ngă về sau, hai tay chống xuống giường, v́ ngồi thẳng như người b́nh thường th́ dương vật khơng thể đâm lút vào. Nếu nam nhân mập phệ th́ vị thế này cũng phải được cải tiến như trên (ngă về sau).

Ngồi đằng sau lưng

Nam nhân ngồi thẳng, hai đùi duỗi ra song song. Nữ nhân ngồi trên đùi chàng, đưa lưng về phía nam nhân, hai chân để bẹt ra để bên ngồi đùi của bạn. Nam nhân hai tay, hoặc ơm eo của nữ để làm cử chỉ kích thích và xung đợïng, hoặc chồm tới trước tới vuốt nựng đơi nhũ hoa. Phối hợp nhịp nhàng giữa sự lắc đùi của nam và sự đu đưa mơng của nữ th́ thời gian giao hợp đuợc kéo dài lâu hơn.

Trong vị thế này người nữ cĩ vẻ như chủ động: ngồi sâu, nhỏm lên, quay trịn rút lui… Nư tính phát triển tối đa ở vị thế này. Cũng là một cách thay đổi mĩn ăn vốn dễ chán ngấy nếu luơn dùng các mĩn cũ.

Muốn đơ kết hợp lâu hơn, đậm hơn, lút hơn nữa nữ nhân nên cong lưng về phía trước và xoạc hai chân rộng ra để âm đạo được nở nhiều. Nam nhân khi dùng vị thế này nên nhớ sờ mĩ nhũ hoa và khám phá bằng tay âm hạch của nữ để tăng cường cường độ kích thích….

2.6 LẬP VỊ (Vị thế đứng)

Nam nhân đứng ở sau lưng nữ, cho vào từ phía sau. Cách này chỉ thực hiện dễ dàng khi nữ nhân hơi cong đầu gối và đưa mơng về phía sau một chút. Để đứng vững, nữ nhân chống hai tay lên đâàu gối, nam nhâân hơi cúi xuống mới cho vào được. Hai đùi của nữ nhân cũng nên banh ra để đứng được vững đồng thời âm đạo cũng mỡ rộng hơn, tŕnh ra con đường dễ dàng cho dương vâät xơng pha. Cho được tối đa sướng khối, nam nhân luồn đùi ḿnh vào giữa hai đùi nữ nhân, hai tay luồn lên nắm cập nhũ hoa hoặc ơm lấy bụng của nàng.

XIX.     PHƯƠNG PHÁP KHƠNG XUẤT TINH KHI HỨNG T̀NH LÊN TỘT ĐỈNH

Hồng Đế hỏi: "Khi giao hợp, lúc khối lạc lên cực đỉnh gần xuất tinh mà cố kềm lại một ít lâu để kéo dài cuộc vui. Như vậy cĩ hại ǵ khơng ?".

Tố Nữ đáp: Khơng hại mà lợi

Lần đầu: muốn xuất tinh cố kềm lại ít lâu, đến khi ư ta muốn xuất tinh mà cơ thể khơng thể xuất được nữa, sức lực trong người ta sẽ tăng mạnh mẽ hơn.
Lần thứ hai: mắt, tai sẽ tỏ thính hơn.
Lần thứ ba: nhiều bệnh sẽ khơng mắc phải.
Lần thứ tư: ngũ tạng sẽ b́nh an.
Lần thứ năm: máu huyết sẽ thơng suốt, điều hịa.
Lần thứ sáu: bộ phận ở chỗ thắt lưng là chỗ dễ đau khi giao hợp nhiều, được cường tráng nên mặc dầu giao hoan nhiều vẫn b́nh thường, khơng đau mỏi.
Lần thứ bảy: mơng và đùi sẽ được nở nang, sức lực tăng cường tối đa.
Lần thứ tám: tồn thân sẽ cường kiện, dũng mănh.
Lần thứ chín: sẽ được trường thọ, sống lâu.
Lần thứ mười: cửa thiên đ́nh sẽ mở rộng nghĩa là người đĩ cĩ một đời sống sảng khối, tâm hồn luơn được hân hoan, thơ thới".

GHI CHÚ:

Thuật dưỡng sinh của phép thai tức - phái thai tức là mơn phái dưỡng sinh rất lâu đời ở Trung Quốc - cĩ nĩi đến vấn đề này: "Nhả ra, thở ra ít hơn khi hít vào th́ khí sẽ tồn tại trong cơ thể. Đĩ là bí quyết làm cho trẻ măi khơng già". Nguyên tắc hơ hấp áp dụng vào thuật giao hợp cũng vậy thơi bởi v́ hai bên cĩ sự giống nhau. Hơ hấp là "ái khí", nghĩa là giữ khí tồn tại lại trong ḿnh. Thuật giao hợp gọi là hành động giữ tinh khí lại trong ḿnh là "bửu tinh ái khí", nghĩa là coi trọng "cái tinh", qúy "cái khí" của ḿnh. nguyên tắc "bửu tinh ái khí" chú trọng ở chỗ giữ sao cho tinh khí của ḿnh càng ít xuất ra càng
tốt.

Y học Trung Quốc xưa cho rằng máu là một h́nh dạng khác của tinh khí, nĩi cách khác khí là sự biến hĩa của máu mà thành (người ta thường nĩi khí huyết). Bảo vệ máu th́ phải baỏ vệ khí. Tinh là h́nh thức cao hơn của máu, do đĩ xuất tinh đi sẽ làm cho ḿnh mất máu đi. Sẽ bị tổn thọ.
Hấp khí là thu khí mà thải ra ít hoặc khơng thải ra. Bởi thế khi giao hợp, nam nhân cố kéo dài thời gian và khơng xuất tinh là đă tuân theo nguyên tắc trường sinh trong thuật phịng trung v́ đă hấp được cái khí của người nữ mà khơng tổn cái khí của ḿnh.

Vấn đề quan trọng là: giao hợp mà khơng xuất tinh th́ cĩ khối lạc hay khơng, ơng Bành Tổ trả lời là cĩ, ḿnh càng kềm chế th́ càng được khối lạc.

Giao hợp mà kéo dài khơng xuất tinh (xúc nhi bất tiết) là để thỏa măn khối cảm, nhưng nếu luyện được xuất tinh theo ư muốn th́ sẽ hưởng được mười điều lợi như Tố Nữ đă nĩi ở trên. Những điều Tố Nữ nĩi, Y học Trung Quốc cũng nĩi tương tự: " Tiết dục để tồn trữ tinh lực, tăng cường hoạt năng của tinh trùng, luyện tập sức đề kháng và duy tŕ trí lực. Tiết dục cĩ lợi cho cả thân thể và tinh thần".

Lăo Tử nĩi: "Tri túc vi phú" (biết đủ th́ làm giàu), sách Lễ Kư cũng nĩi: "Lương nhập vi xuất" (tùy theo sự thu nhập mà chi tiêu, xuất phát). Đem hai câu trên áp dụng vào việc phịng trung và việc xuất tinh th́ rất đúng. Khơng biết qúy khí, trọng tinh cĩ bao nhiêu cũng trút th́ khơng thể nào tráng kiện được.

Ơng Khang Đức cĩ nĩi: "Ấu tiểu thời bất giáo, dĩ ngưỡng dục ngă, chân thị bất hạnh" cĩ nghĩa là: "Bất hạnh thay cho ai lúc trẻ khơng được dạy dỗ nên lớn lên ham mê điều nhục dục. Ham mê buơng thả mà khơng biết kiềm chế đĩ là tự ḿnh bỏ máu của ḿnh vậy".

Y học Trung Quốc khi nĩi về hơ hấp cũng nĩi tới khả năng trừ áp huyết cao của hơ hấp. Bị bệnh này, dùng phương pháp hít thở thật chậm, thật dài để thơng suốt kinh mạch th́ cĩ thể khỏi bệnh.

Phương pháp này do Nhật Bản phát động khởi thủy từ bác sỹ Hát Phu Ba, như là một mĩn thể thao trị liệu, trong đĩ bệnh nhân làm nhiều cử động hơ hấp, càng hơ hấp nhiều th́ phổi sẽ mạnh và dưỡng khí vào máu càng nhiều.

Trung Hoa cịn thuật trừ già nua bằng cách hít thở (hố hấp). Tập thở ra mà bụng ph́nh lên và hít vơ bụng xẹp xuống. Điều này nghe th́ khĩ nhưng thực hiện khơng khĩ v́ hít vơ th́ hít vào phổi, bụng đương nhiên sẽ xẹp xuống.
Phép dưỡng sinh bằng hơ hấp của Trang Tử cĩ câu quan trọng: "Người chân nhân đạt đạo dưỡng sinh, hơ hấp tới gĩt chân, thường nhân chỉ hơ hấp tới cổ họng. Hơ hấp đúng th́ bảo tồn được thân, như một người đầu bếp khéo dùng dao cắt chặt lâu ngày mà dao vẫn khơng mịn ". "Người đầu bếp giỏi cũng phải mỗi năm thay dao một lần, người kém hơn th́ mỗi tháng một lần. Ta cũng dùng dao để cắt da, cắt thịt thế mà đă chín mười năm nay rồi mà con dao dùng từ đĩ đến nay vẫn cịn mới toanh ". Đĩ là câu nĩi thời danh của Trang Tử áp dụng vào thuật giao hợp tiết khí rất là hữu ích.

Phép Yoga của Aán Độ cĩ dùng xương sống để hơ hấp. Phép này khơng khác ǵ dùng gĩt chân để hơ hấp của Trang Tử của Trung Hoa. Yoga căn bản là hít thật nhiều khí vào trong bụng. Từ bụng chuyển khơng khí vào đan điền (lỗ rốn).

Về thuật "xúc nhi bất tiết", giao hợp mà khơng xuất tinh, sách Ngọc Phịng chủ yếu cĩ đoạn quan trọng như sau: "Lúc sắp xuất tinh khơng cử động dương vật nữa, thở ra một hơi thật dài, đồng thời cắn chặt răng lại, ngước đầu lên thật lẹ ngĩ chung quanh, hít vào một hơi dài để phùng bụng lớn lên, tập trung tinh thần vào việc thở hít này, rồi thĩt bụng lại đồng thời thả hế hơi trong bụng ra. Luơn ngĩ mắt chung quanh, kỵ ngĩ người ban ngọc đang ở dưới ḿnh ḿnh, hàm răng cắn chặt. Khi trong tai nghe tiếng giĩ thổi ù ù th́ thĩt bụng lại".

Phương pháp này cịn lợi ích cho việc chữa trị các chứng mắt kém và điếc tai, làm cho thị lực được tăng cường và thính lực được phát triển.
Mắt ngĩ chung quanh là cách thế để phân tán sự chú ư của ta vào ngoại cảnh khỏi phải chú ư vào dục t́nh. Hứng thú lúc đĩ khơng bị khơi động, tinh khí do vậy khơng thể dễ dàng xuất được.

Hơ hấp cĩ thể kết hợp với đọc kinh cĩ thể luyện cho khả năng hơ hấp kéo dài hơn. Ở Nhật Bản cĩ một chi phái Phật Giáo thực hành phép tu dưỡng sau:
Sáng sớm thức dậy đọc kinh ba mươi phút, mỗi khi đọc hết một đoạn kinh th́ hơ hấp và uống một ly nước lạnh. Nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy tín đồ của giáo phái này:
Đường đại tiện, tiểu tiện rất thơng suốt.

Hơ hấp rất dài hơi.
Tập trung ư chí dễ dàng.
Tinh thần an tịnh, khơng biết lo âu hồi hộp.

Tục ngữ Trung Quốc cĩ câu: "Hơ hấp thi ích dă" nghĩa là sự hít thở rất cĩ ích lợi. Ở đây chỉ cĩ sự hít thở đúng phương pháp, cịn sự hít thở b́nh thường của thường nhân th́ chỉ để duy tŕ sự sống thơi, khơng cĩ ích lợi nào khác.

Cười cũng là một phương pháp hơ hấp để tinh thần an tịnh cho nên cười cũng là một trong những phương pháp dưỡng sinh và cĩ tác dụng làm cho con người tươi trẻ. Những người thường hay vui cười th́ thâm tâm được quân b́nh, tinh thần được an định.

Những người quư tộc Ấn Độ thường hay luyện tiết dục bằng phương pháp đè nén. Họ lấy tay đè một vùng gần niếu đạo, gần chỗ con đường dẫn nước tiểu, tức là vùng dẫn tinh khi tinh khí xuất ra ngồi. Theo họ th́ phương pháp này làm cho tinh khí xuất ra khơng xuất được mà phải chạy trở vơ lại.

Một đặc tính để kiềm chế xuất tinh là giao hợp nhiều lần mà mỗi lần đều với người đẹp trẻ tuổi khác nhau.

Sách "Thiên Kim Phương" là sách nĩi về các phương pháp áp dụng để t́m hoan lạc trong phịng trung cĩ nĩi rằng: "Con gnười trước 30 tuổi th́ khí huyết dồi dào, t́nh dục phong phú, khi quá 30 tuổi khí thế so lại hơi giảm. Lúc này thân thể đă yếu nên khám bệnh để coi ḿnh cĩ bị bệnh hay khơng để trị v́ để lâu sau này hậu quả sẽ khĩ lường. Lúc này cũng là lúc luyệïn bí thuật phịng trung. Phương pháp th́ dễnhưng phương tiện lại khĩ; đĩ là mỗi đêm giao hợp với mười người con gái khác nhau và khơng được xuất tinh. Aên uống những thức bổ dược (phần cuối sách cĩ nĩivề những thức bổ dược này). Luyện phép này trong một năm th́ tự nhiên khí lực và thể lực tăng tiến vơ cùng, trí ĩc lúc này lại minh mẫn".

Tiếp xúc với nhiều người con gái trẻ đẹp là ước vọng từ lậu của con người, nhưng đối với cuơäc sống ngày nay th́ khơng cịn phù hợp nữa.

Bác sỹ Kim Soai cĩ nhận xét rằng phụ nữ sau khi cĩ hơn nhân vẫn cĩ ước vọng giao hợp với nhiều đàn ơng khác nhau. Họ cũng thích sướng khối và thay đổi như nam giới. Nhưng nam giới cũng như nữ giới nếu chỉ thuần túy đi t́m khối lạc th́ rất dễ hại thân. Quan niệm cổ điển về t́nh dục của Trung Quốc cho rằng tinh khí là thứ quư trọng của con người, bằng mọi giá ta khơng thể xuất tinh.

Y học cĩ một câu rất hay: "Người nam trong giai đoạn 20 tuổi, giao hợp nhiều hay ít quyết định suy thối t́nh dục hay khơng, vào khoảng 30 tuổi sự hay ho của cách giao hợp quyết định sự thất bại hay khơng, vào khoảng 40 tuổi th́ khoảng cách giữa hai lần giao hợp quyết định sự thất bại hay khơng".

Trung Hoa cũng cĩ câu về sinh lư của phụ nữ: "Tam thập quả phụ bất khả thơng", nghĩa là đàn bà gĩa chồng lâu mà tuổi cịn trẻ th́ sinh lư khơng cịn mạnh mẽ như nam giới nữa. Điều này cho thấy sinh lư của phụ nữ mâu thuẫn với sinh lư của nam nhân.

Sách "Thiên Kim Phương" cĩ nĩi về sự hiệu dụng của cách chữa bệnh bằng phương pháp tọa thiền và hơ hấp thật sâu. Thực hành phương pháp này th́ dầu cho thời gian trơi qua tĩc râu cũng khơng mọc ra dài. Sách cổ cĩ ghi lại chuyện một vị hịa thượng dùng phương pháp "nội quan" để trị bệnh phổi kết hạch của ḿnh. Thật ra đây chỉ là một phương pháp kết hợp giữa sự toạ thiền và sự hít thở sâu đúng phương pháp mà thơi.

Đời Hán cĩ một cuốn dă sử tựa là "Châu lâm dă sử", chuyện viết về đời của nàng Hạ Cơ là một nhân vật sống vào đời Xuân Thu. Hạ Cơ trong một giấc mơ chiêm bao thấy ḿnh học được phương pháp trẻ măi khơng già của tiên gia bằng hai phương pháp "Hấp Tinh Đạo Khí" và "Tố Nữ Chiến Thuật". Hai bí quyết này là liên tục khơng ngừng ngẫm nghĩ hấp thụ tinh khí của nam nhân. Khi được Trần Linh Cơng ơm ấp ân ái, nàng sử dụng phép "Nội Thị" là một bí thuật khác của phịng trung mà người đời sau cho là thuật điều tức dựa trên nguyên lư "Xúc nhi bất tiết", nghĩa là giao hợp kềm hăm khơng cho xuất tinh của phái nữ.

Theo "Ca Xuyên đại nhă thị" th́ cái hạch lư tưởng của một người theo Lạt Ma giáo là đạt đến sự "linh nhục nhất chí " nghĩa làtinh dịch từ phần của bộ phận sinh được dùng ư chí điều khiển theo đường xương sống mà chạy lên đỉnh đầu. trong quá tŕnh thực hành động tác đơi nam nữ đều phải tập trung tinh thần theo kiểu thiền định sao cho đạt được tŕnh độ khơng xuất tinh. Phái này lấy việc hăm tinh làm cứu cánh cho sự sung sướng.

Khơng phải ai cũng cổ vơ sự bế tinh, cĩ rất nhiều người cho "Xúc nhi bất tiết" là cĩ hại cho thân thể. Thật ra đây cĩ thể coi như là sự tiết dục và phương pháp luyện cho giao hợp được dài lâu. Các chương sau của kinh Tố Nữ sẽ đề cập đến số lần xuất tinh cần thiết, nghĩa là kinh Tố Nữ khơng bảo tuyệt đối khơng được xuất tinh.

XX.     SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU

Hồng Đế hỏi: "Nguyên tắc giao hợp theo Tố Nữ là ái tinh, thương quư cái tinh khí của ḿnh, mà tránh xuất tinh, vậy thời khi muốn cĩ con th́ phải làm như thế nào ?"

Tố Nữ đáp: "Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng trẻ già khác nhau cho nên người ta phải tùy theo khí lực của ḿnh mà giao hợp, khơng được cưỡng quyết (bắt ép thân thể ḿnh làm quá sức chịu đựng của nĩ), cượng quyết tất tổn hại đến thân. Tốt nhất là:

Ở vào tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và cĩ thể xuất tinh hai lần, ốm yếu th́ mỗi ngày một lần thơi.
Ở tuổi 20 cũng vậy, khơng nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ th́ một ngày hai lần, trong ḿnh khơng được khỏe th́ mỗi ngày một lần.
Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày một lần, người ốm yếu th́ hai ngày một lần.
Ở tuổi 40 mà khỏe mạnh th́ 3 ngày một lần, người ốm yếu th́ 4 ngày một lần.
Ở tuổi 50 th́ 5 ngày một lần nếu khỏe mạnh, ốm yếu th́ 10 ngày một lần.
Ở tuổi 60 mà khỏe mạnh th́ cỡ 10 ngày một lần, ốm yếu th́ 20 ngày một lần.
Ở tuổi 70 mà khỏe mạnh th́ mỗi tháng một lần, ốm yếu th́ nên kiêng cữ khơng nên xuất tinh.

GHI CHÚ:

Sách "Ngọc Phịng Bí Kiếp" cĩ ghi như sau:
Người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp một lần.
Người ở tuổi 60 th́ khơng bao giờ nên xuất tinh.
Một chỗ khác của kinh Tố Nữ cĩ ghi:
Người 20 tuổi thường 4 ngày giao hợp một lần.
Người 30 tuổi thường 8 ngày giao hợp một lần.
Người 40 tuổi thường 16 ngày giao hợp một lần.
Người 50 tuổi thường 21 ngày giao hợp một lần.
Người 60 tuổi th́ khơng nên bế tinh khơng nên xuất tinh nữa.
Nhưng là nếu thân thể quá mạnh khỏe, cường tinh th́ một tháng giao hợp một lần vẫn được. Nếu đă đến tuổi này mà cị sung sức cũng nên giao hợp, khơng nên quá kiềm chế.
Con người thể lực khác nhau khơng đều, nếu sung sức mà quá kiềm chế thành ra mắc bệnh u uất, cĩ hại hơn là xuất tinh khi giao hợp.

Ta thấy đoạn này cĩ những con số khác với đoạn trên. Sự khác biệt là do qua các thời đại người ta viết nhiều sách, khắc đi khắc lại mà ra. Đại khái các sách về thuật phịng trung cĩ: "Ngọc Phịng Bí Kiếp", "Thiên Kim Phương", "Ngự Nữ Chi Pháp", "Tố Nữ Chi Pháp", các con số nĩi trên đều tương tự như hai bản trên.

Sách "Dưỡng Danh Huấn" của ơng Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng một đời người chỉ được phép giao hợp tối đa là 1.800 lần mà thơi. Con số này là căn cứ trên quan điểm (2) của sách Tố Nữ.

Mới đây người Nhật nghiên cứu trên con người thời đại mới th́ thấy rằng con số nĩi trên khác hơn nhiều. Bác sỹ Kim Soai cho biết trung b́nh một người trải qua 55 tuổi th́ cũng đă trải qua 3.831 lần giao hợp. Tuy nhiên cũng cĩ người cho rằng con số này vẫn quá ít, họ cho rằng khi một người đến 40 tuổi th́ số lần giao hợp của họ đă ngang ngửa với con số do ơng Kim Soai đưa ra rồi.

Sự khác biệt của hai con số thật ra khơng sai và cũng khơng khĩ hiểu. Người xưa giải quyết vấn đề theo nguyên lư âm dương, tất cả do âm dương bảo tồn tinh khí (xúc nhi bất tiết), từ đĩ cĩ một con số về lần giao hợp nhỏ, ít. Người thời nay theo nguyên lư thực tế mà tính, vả lại người thời nay cường tráng hơn người thời xưa, bệnh tật cũng ít hơn do đĩ số lần giao hợp nhiều hơn. Một đàng thiên về "thể" (cái bản thể, căn cơ của giao hợp); một đàng thiên về "nhục" (cái thực tế, ước muốn của vấn đề giao hợp) cho nên lư lẽ của bên là rất khác biệt nhau.
Một người Nhật tên là "Tiểu Lâm Nhất Trà" ghi trong nhật kư của ḿnh về chuyện phịng sự của ơng ta v́ ơng ta cưới vợ vào năm 52 tuổi.

…8/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 5 lần.
…12/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…15/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…16/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…17/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…18/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…19/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…20/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.
…21/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 4 lần.
…22/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp 3 lần.

Cúc Nữ là vợ của "Tiểu Lâm Nhất Trà", nhật kư này ghi lúc ơng 54 tuổi, nên nhớ lúc đĩ Cúc Nữ chỉ mới 28 tuổi.
Nhật Kư cũng ghi lại rằng Tiểu Lâm Nhất Trà bị vơ năng về t́nh dũc (bất lực), nên ơng dùng một thảo dược trợ lực. Thảo dược đĩ gọi là "Dâm dương thảo", thứ này cĩ hiệu lực thúc đẩy, tăng cường tính dục và tạo ra tinh trùng cho nam nhân. Về tác dụng của thứ thảo dược này ở Trung Quốc người ta cũng đă biết từ lâu cho nên trong dân gian cĩ câu tục ngữ:" kể cả con dê ăn phải thứ thảo dược này cũng lập tức muốn giao hợp ngay" ("Liên liên khuất liễu dâm dương thảo, dă hội nhiệt trung ư giao tiếp"). Các kinh nghiệm về thứ cây này cho biết tinh dịch sẽ biến thành đặc nếu người nào được ăn loại cây này. Cho thỏ, chuột ăn dâm dương thảo th́ chúng hăng hái sinh hoạt tính dục khơng biết mệt mỏi đêm ngày. Ngày xưa thứ cỏ này là thuốc kích dâm hạng nhất cho các bậc vua chúa.
Ở Nhật Bản, người Nhật Bản đă biết được dược tính của loại cây này từ lâu, họ chế thành một loại thuốc trợ dâm rất thơng dụng.

Ơng Thái Nhất Phan kể trong sách của ơng về một chuyện người chăn dê già một hơm nhận thấy trong bầy dê cĩ một con dê đực làm t́nh cả ngày hàng trăm lần, theo dơi nĩ người chăn dê thấy nĩ ăn một loại cỏ đặc biệt mà mấy co dê khác khơng ăn. Oâng ta mới ăn thử kết quả là xuân t́nh ơng trở nên phơi phới và đang yếu về tính dục ơng này bỗng trở thành một người mạnh mẽ, chơi khơng biết mệt.
Tiểu Lâm Nhất Trà dùng dâm dương thảo để trị tính vơ năng của ḿnh, nhưng ơng cũng cho biết rằng dâm dương thảo cũng là thần dược để trị bệnh già yếu suy nhược. V́ tính chất đặc biệt của nĩ loại thảo dược này được dùng để chế thuốc rượu đặc biệt dùng tăng cường tính năng của người uống thuốc gọi là "Tiên Linh T́ Tửu". Đây là loại rượu thuốc căn bản gồm dâm dương thảo nên cịn được gọi là "Dâm Dương Tửu".

Toa thuốc cường tinh cường tráng của Thái Nhất Phan bao gồm:
-     Dâm dương thảo : 20 mgr.
-     Phục Linh : 10 mgr.
-     Táo : 3 trái.
-     Nước : 3 chén rưỡi.
Tất cả nấu trên lửa riu riu cho tới khi cịn lại một chén. Những thứ thuốc khác một gốc như kích dâm, thúc dâm, tiên linh tỳ tửu đều căn bản trên toa thuốc của Thái Nhất Phan với chút ít gia giảm.

Tiên Linh Tỳ Tửu:

Ba thứ dược liệu trên mỗi thứ được tăng liều lượng lên gấp ba. Dùn lửa riu riu chưng cách thuỷ cho tới khi ráo nước rồi đem phơi khơ. Đổ nước thêm vơ rồi đem chưng như trước, đoạn đem ra phơi nắng như trước. làm như vậy tới lần thứ 3 th́ được một chất khơ quánh. Đem chất này ngâm trong rượu rồi thêm độ 100mgr mật ong rồi niêm phong lại, cất vào tối độ một tháng th́ ta cĩ loại tiên tửu nĩi trên.
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 
huygen
Quản trị
Quản trị
Biểu tượng

Đă tham gia: 31 January 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 262
Msg 6 of 6: Đă gửi: 28 March 2005 lúc 11:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn huygen


XXI.     TINH LỰC MẠNH YẾU CỦA NAM NHÂN

Thái Nữ hỏi Bành Tổ rằng: "Tinh lực của nam nhân mạnh hay yếu cĩ những triệu chứng ǵ để nhận diện?"

Bành Tổ đáp: "Khi nam nhân tinh thần sung măn hoặc tinh khí đầy đủ th́ dương vật sẽ nĩng bỏng, tinh dịch sẽ đặc kẹo lại, trái lại khi tinh lực suy yếu rồi th́ các triệu chứng sau đây xuất hiện:

- khi xuất tinh th́ tinh thần bị thương tổn nghĩa là trong lịng buồn bực khơng thấy sung sướng mà cũng khơng thấy thích thú.
- khi tinh dịch bị lỗng th́ nhục thể bị thương tổn, người bải hoải, bần thần khĩ chịu.
- khi tinh dịch cĩ mùi hơi hám th́ gân cốt bị thương tổn, sự bần thần trầm trọng hơn và kéo dài hơn.
- khi xuất tinh nhưng tinh khơng thể xuất ra th́ xương cốt bị thương tổn.
- khi tinh lực suy nhược đến nỗi khơng hứng nổi th́ thân thể đă bị thương tổn.

Ghi Chú:

B́nh thường các tệ trạng này sinh ra do sự giao hợp gấp rút, do tinh thần khơng ổn định mà giao hợp xuất tinh. Trừ sự thương tổn này khơng ǵ bằng giao hợp mà tránh xuất tinh. Trong một trăm ngày khơng xuất tinh th́ tinh khí sẽ tăng lên gấp bội.

Để cho thân thể khơng bị thương tổn khi giao hợp phải từ tốn, chậm răi khơng cần phải mạnh bạo, cố duy tŕ thêm thời gian giao tiếp để tăng thêm sướng khối và tránh tổn hại tới thân thể.
Giao hợp nhiều bị đau lưng, nhức mỏi, sách "Bí Quyết Ngọc Phịng" cĩ đưa ra cách chữa trị như sau:
–     Đứng dựa lưng sát vơ tường.
–     Gĩt cũng thật sát tường.
–     Mặt ngĩ thẳng về phía trước.
Tập như vậy lâu ngày th́ sẽ cĩ kết quả.

Người xưa cịn dùng giao hợp để luyện sự tăng cường thị lực. Cách thức như sau: khi giao hợp đă đến lức gần xuất tinh th́:
–     Mặt ngước lên hít thở.
–     Thở ra một hơi dài.
–     Mắt ngĩ xung quanh.
–     Hít thĩp bụng vào.
Luyện tập cách này th́ tinh khí thay v́ xuất ra mất th́ sẽ trở lại vào trong cơ thể chạy tuần hồn trong con người ta.

Phương pháp luyện thính tai cũng dùng các cách trên, chỉ thêm vào cách cắn răng - cắn chặt hai hàm răng trên dưới với nhau - làm cách này v́ răng với thận cĩ liên quan tới nhau. Khi thận được luyện tập (khơng xuất tinh khi giao hợp) th́ răng được cường kiện.
Đa số nam nhân cĩ mặc cảm là ḿnh bị bệnh tảo tinh (bắn khí sớm). Từ mặc cảm sang lo âu và cảm thấy ḿnh khơng làm trịn bổn phận. Thật ra đĩ khơng phải là một chứng bệnh, đĩ chỉ là một sự sai khiến khơng đồng bộ khi giao hợp mà thơi. Khơng đồng bộ khi người nữ chưa đạt được cao trào sướng khối mà ḿnh th́ đă "thơi" rồi. Trừ bệnh này th́ cố gắng quan sát người nữ, cố gắng theo, thương yêu vợ hơn, học thêm kinh nghiệm…

Khi giao hợp th́ thời gian hai cơ quan sinh dục tiếp xúc nhau phải là bao lâu mới đúng khơng bị coi là "yếu", là bệnh? Vấn đề này thật ra khĩ cĩ chân lư. Lâu mau là tuỳ theo người, tuỳ theo hồn cảnh, tuỳ theo hoạt động của đại năo của người đàn ơng. Căn cứ theo thơng thường th́ thời gian ít nhất phải là một phút và trung b́nh th́ kéo dài ba phút. Người mạnh th́ cĩ thể kéo dài đến 10 phút, thậm chí cĩ người duy tŕ đến nửa giờ.

Cịn một điểm mà nhiều người mắc phải là tưởng rằng ḿnh tảo tinh khi thấy quy đầu tiết ra chất nước nhờn. Chất này thật ra cơng dụng giúp cho việc giao hợp dẽ dàng mà thơi, người Trung Hoa gọi là nước hứng thú. Nữ nhân khi thấy nước này tiết ra th́ phải hiểu là chưa ǵ hết để khơng kết luận rằng bạn của ḿnh khơng làm ăn ǵ được. Khơng, anh ta vẫn hành sự được như thường, hay hơn nữa là khác.

Da quy đầu của dương vật khi con trai mới sinh ra th́ bọc bao quy đầu lại. Từ lâu ở các nước Đơng Phương khơng cĩ lệ cắt da quy đầu để tŕnh quy đầu ra, trong khi nhiều quốc gia khác cĩ lệ này từ lâu. Đây là vân đề vệ sinh mà cũng là chuyện t́nh dục nữa. Nếu da quy đầu đă được cắt th́ quy đầu lộ ra ngồi cọ sát với quần áo thường xuyên, từ đĩ sự cảm ứng "khơng dễ dàng" v́ vậy khi giao hợp cần phải kích thích tới một mức độ nào đĩ mới hứng t́nh, sự tảo tinh như vậy khơng cĩ dịp xảy ra. Cắt da quy đầu là điều cần thiết. Thanh niên nào đă lớn mà thằng nhỏ chưa mở mắt th́ nên đến bác sĩ cắt cho mở mắt để khỏi dơ và rắc rối khi giao hợp.

Sự tảo tinh nhiều khi do vấn đề tinh thần. Hoặc nam nhân bị tật thủ dâm khi cịn nhỏ nên khi giao hợp thật sự với nữ nhân trong lịng vẫn cảm thấy ḿnh khơng làm trịn phận sự hay là ḿnh khơng thấy sướng khối bằng khi làm một ḿnh với sự tưởng tượng về một người đàn bà nào đĩ. Hoặc do nam nhân bị một ám ảnh nào đĩ khiến anh ta sùng thượng quá mức nữ nhân hay quá khinh thị phụ nữ. Cả hai đều làm cho người này khơng thể cĩ sự đồng bộ với nữ giới khi giao hợp v́ sẽ hứng t́nh cao độ hay sẽ bị dửng dưng.

Tảo tinh cịn do nhiều nguyên nhân khác. Cĩ thể hồn cảnh chỗ giao hợp khơng thuận tiện sợ thiên hạ thấy phải làm cho gấp, sợ thiên hạ nghe tiếng động… Sự lo sợ này ảnh hưởng lên tinh thần. Cĩ thể do sự lănh cảm của người nữ. Cĩ thể do sự mất lịng tin rằng là ḿnh được chuyện. Mặc dù v́ lư do nào đĩ, sự chữa trị cần cĩ chuyên gia phân tích t́m ra nguyên nhân th́ mới trị dứt được. Nếu là nguyên nhân tự người trai th́ chính anh ta phải đặt kế hoạch để giải quyết, v́ đĩ là hạnh phúc gia đ́nh của chính anh ta. Cần phải cĩ ư chí và tự tin để cho vợ chồng cùng đạt đến cao trào một lúc. Nếu cần th́ khi người vợ gần đạt cao điểm nên báo cho chồng biết để anh ta tuỳ cơ mà hành sự chậm hơn hay gấp rút hơn, nếu cần th́ phải thay đổi vị thế giao hợp hay ngưng nghỉ một chút.
Cĩ người nghĩ rằng để cho nữ nhân chờ đợi th́ nàng sẽ mất hết hứng thú, thật ra khơng phải vậy. Sự chờ đợi này càng làm cho nữ nhân thêm hứng t́nh và bắt đầu lại dễ dàng cùng đạt cao trào hơn miễn là đừng để cho sự ngừng đĩ quá lâu.

Cĩ cách trừ xuất tinh sớm là "đâm nhẹ nhẹ vào, rút ra mau", cử chỉ này cứ thế mà tiếp diễn, sự kích thích theo lối này sẽ làm cho người vợ gọi hứng mạnh khiến cho hai đàng cùng đồng bộ đạt đến khối cảm. Rút ra mau dễ trượt dương cụ ra khỏi âm đạo, tốt nhân nên canh để cho chuyện này đừng xảy ra.

Cách khác là dùng quy đầu kích thích nhẹ ở ngồi âm đạo cho đến khi hai bên cùng sắp đạt đến hứng mới cho thằng nhỏ chui vào "động tiên".

Cả hai phương pháp này tuỳ theo sở thích của ta mà dùng đều cĩ hiệu quả kéo dài thời gian xuất tinh tránh được tệ nạn tảo tinh.

B́nh dân Trung Hoa cĩ câu:"Nữ giới cần một nam nhân khi giao hợp th́ giống như dê, như chĩ con, như mănh hổ th́ mới thật thoả măn". Giải thích câu nĩi này là phải làm đi làm lại nhiều lần như dê, phải thân mật như chĩ để liếm chân nàng, phải hùng hục mạnh bạo như mănh hổ khi vào điểm cuối của cuộc giao hoan, nghĩa là khi dứt điểm phải thật nhanh gọn.

Ngồi bệnh sớm xuất tinh cịn cĩ bệnh chậm xuất tinh, đây là bệnh ít thấy nhưng vẫn cĩ. Người mắc bệnh này làm thất vọng nữ nhân vơ cùng. Khi nàng đang đạt đến cao trào, hy vọng chàng sớm hồn thành nhiệm vụ, bắn tinh để kết thúc th́ chàng lại khơng làm được. Nên nàng phải chờ, từ chờ đến miễn cưỡng, miễn cưỡng tiếp tục nên chán nản, chán nản nên thất vọng, thất vọng nhiều lần sẽ thành đau khổ. Chậm bắn tinh quá cùng là một mầm phá hoại hạnh phúc gia đ́nh.

Nhắc lại là sự chậm bắn tinh tuy cĩ ít nhưng nếu ai gặp nên t́m cách chữa trị ngay v́ trước sau ǵ t́nh trạng này cũng đi tới t́nh trạng vơ năng (bất lực).
Sớm chậm bắn khí cĩ thể dùng cách thế giao hợp, kỹ thuật giao hợp mà chữa trị, nhưng phần lớn vẫn là do sự điều khiển của đại năo của người nam. Khi thấy vật lộn đă lâu, độ một giờ mà nam nhân chưa đạt đến cao trào hay cmả thấy sướng khối mà khơng thể bắn tinh ra th́ nên nghĩ làm lại v́ người chồng đă bị chứng chậm xuất tinh.

XXII.     THỜI GIAN GIAO HỢP TỐT ĐỐI VỚI NỮ NHÂN

Hồng Đế hỏi: "Cĩ người muốn sanh con và muốn cĩ một đứa con thơng minh mẫn tiệp, vậy cĩ phương pháp ǵ giúp đạt thành ư nguyện khơng?".

Tố Nữ đáp: "Cĩ những nguyên tăc để được cĩ con. Nguyên tăc đĩ là thân thể nhẹ nhàng, thân tâm b́nh thản, khơng lo âu, áo quần ăn mặc tề chỉnh, thành tâm trai lạt trước thời kỳ cĩ kinh. Khi kinh kỳ xong xuơi đợi ba ngày sau th́ là thời gian tốt nhất để giao hợp. Trước tiên nam nhân phải rờ rẫm tạo hứng khởi tối đa cho người đàn bà. Khi giao hợp th́ cứ theo nguyên tắc của việc phịng trung mà thực hành nghĩa là phải "cộng đồng hưởng thụ", cuộc giao hợp khơng phải là mua vui cũng khơng phải là miễn cưỡng làm cho cĩ.

Khi xuất tinh xong nam nhân phải ngâm trong bộ phận nữ nhân, khơng được rút ra liền. Sự kiện này ngồi khả năng làm thoả măn tâm lư nữ nhân cịn giữ cho tinh trùng khơng theo âm đạo thốt ra ngồi hay chạy xa ra ngồi đầu tử cung. Theo cách này th́ đứa con sinh ra sẽ thơng minh, đĩnh ngộ, mạnh khoẻ, sống lâu…"

GHI CHÚ:

Ư kiến trên của Tố Nữ phù hợp với lời dạy của Ơng Bành Tổ: "Đàn bà đếm từ ngày cĩ đường kinh đến ngày thứ 15 là thời gian tốt để thụ thai, đứa con sinh ra do trường hợp này rất thơng minh, sáng suốt lại là người cĩ nhân dáng cao quư". So với ư kiến của Tố Nữ, ư kiến của Bành Tổ lại cĩ ngày giao hợp lư tưởng để thụ thai hơi xa. Y khoa hiện đại cho rằng ư kiến của Tố Nữ khả dụng hơn.

Sách thuốc Trung Hoa nhấn mạnh đến giờ thụ thai lư tưởng là giờ Tư (mười một giờ khuya đến một giờ sáng) hay giờ Sửu (từ một tới ba giờ sáng). Khoảng thời gian này Can mạch (mạch liên quan tới Gan) hoạt động, trong các mạch đĩ cĩ mạch nối với cơ quan sinh dục làm cho sự giao hợp dễ thoải mái và lâu. Can mạch hoạt động lên đến tuyệt đỉnh là lúc hai giờ sáng, vậy nếu cĩ thể được nên canh vào lúc này mà xuất tinh.

Kinh Tố Nữ cũng cĩ nhắc là khi giao hợp để thụ thai th́ dương cụ đâm vào âm đạo nên nhẹ nhàng từ tốn sự thụ thai mới dễ thành tựu. Khơng thấy Tố Nữ đưa ra lư do biện minh cho lời khuyên, rất cĩ thể là kinh nghiệm của người xưa trogn khi quan sát cuộc phịng trung sinh hoạt chớ chưa đưa ra được nguyên tắc.

XXIII.     LÀM SAO CĨ THAI TỐT

Tố Nữ nĩi: "Con người muốn phù hợp đạo âm dương phải biết tránh những cấm kỵ và phù hợp với đạo âm dương th́ cĩ được khí thế tốt nhất để sinh ra con mạnh khoẻ sống lâu".

Ghi chú:

Khí thế tốt nhất là Nam Nữ phải ở vào tuổi sung măn, cịn trẻ. Nếu lớn tuổi th́ dầu cho cĩ thụ thai th́ đứa trẻ sinh ra cũng khơng mạnh mẽ sống lâu được.
Khí thế tốt nhất là để giao hợp mà sinh ra con cái là kiện tồn, mạnh khoẻ. Một cặp vợ chồng trẻ mà thân thể khơng khoẻ mạnh khi giao hợp nếu thụ thai đứa con sinh ra cũng èo uột, ốm yếu, người say rượu mà làm t́nh th́ đứa con sanh ra nhiều bệnh tật.

Kinh Tố Nữ khơng nĩi thẳng rằng tuổi tác là một vấn đề trong việc sinh con mạnh khoẻ nhưng cuốn "Bí Kiếp Ngọc Phịng" cho rằng nam nữ luống tuổi th́ sinh con ra yểu mệnh.

Một trong hai người cịn trẻ th́ vẫn sanh con được. Nam nhân dẫu 80 tuổi cưới vợ 18 tuổi vẫn sanh được con như thường. Nữ nhân dầu đă hơn 50 cĩ chồng sung sức, trẻ mạnh vẫn thụ thai và sinh con như người cịn trẻ.
Tài liệu cịn ghi một vị quản trường ở Nhật vào năm 76 tuổi lấy một cơ vợ trẻ mới cĩ 23 tuổi tới khi ơng ta được 86 tuổi th́ người vợ sanh con đầu lịng.

XXIV.     TẠI SAO SẮC ĐẸP LÀM NGƯỜI SAY MÊ?

Hồng Đế hỏi: "Tại sao sắc đẹp nữ nhân làm cho nam say đắm? Yếu tố ǵ trong đĩ làm cho con người đắm say?"

Tố Nữ nĩi: "Các yếu tố để làm say đắm nam nhâân do trời phú riêng cho nữ nhân đĩ là:
-Tiếng nĩi ngọt ngào.
-Tính nết dịu hiền.
-Đầu tĩc trơn láng, đen huyền.
- Thịt da trắng, mềm.
- Xương cốt yểu điệu mănh mai.
- Thân h́nh thon dẽ vừa tầm.
- Âm hộ khơng cĩ lơâng dài mà tinh dịch dồi dào.
Các nàng cĩ những điều kiên này mà ở vào tuổi chưa quá 30 th́ gọi là đầy đủ các yếu tố hấp dẫn nam nhân.
Ngồi ra trong khi giao hợp nữ nhân nào cĩ nước nơi linh láng. Thân h́nh biết uốn éo chuyển động. Mồi hơi đượm ra và biết để cho nam nhân chủ động d́u vào cuộc hoan lạc nam nhân khơng bị mệt nhọc khi giao hợp th́ rất được ưa thích".

GHI CHÚ

Các điều Tố Nữ đưa ra về một người con gái thu hút nam nhân quá rơ ràng ta khơng thể thêm thắt ǵ nữa. Nếu thêm vài yếu tố nữa th́ cũng là thêm vào vài chi tiết mà thơi.
Kinh nghiệm người xưa thường nĩi, đàn bà cĩ nhiều dâm tính, th́ âm hộ cĩ lơng dài khơng th́ xem lơng và lơng tay lơng chân, các thứ này cĩ quan hệ song phương với nhau. Hễ ngồi dài th́ trong dài.

Trung Hoa xưa thường điều tra lơng âm hộ bằng cách coi lơng nách của nữ nhân. Nếu lơng nách mịn màng khơng xoắn tít th́ ta cĩ một người đàn bà cao sang.
Tĩc cũng là yếu tố quan trọng. Nếu tĩc nàng hun hun đỏ th́ giao hợp sẽ tổn hại tinh lực của nam nhân.
Âm thanh của giọng nĩi cũng là yếu tố khác. Tiếng nĩi ngọt ngào, êm dịu nhẹ nhàng là điều làm cho nam nhân đạt được sung sướng khi giao hợp mà khơng bị mệt mỏi ốm yếu, khơng hao tổn tinh khívà cịn được sống lâu.
Sách "Tạp sự bí tân" cĩ ghi các tiêu chuẩn chọn phi tần của vua Hậu Hán, ghi cả kích thước lư tưởng của tất cả các bộ phận từ mơng, đùi, tay, chân, vai đến ngĩn chân ngĩn tay. Tất cả thước tất này thiết nghĩ ngày nay người thường chúng ta khơng thể nào chọn lựa được nên dịch giả miễn khơng ghi chép lại đây.

Sách về thuật phịng trung hiện đại đưa ra lư thuyết rằng các phép tu tiên ngày xưa chẳng qua các phép về hưởng lạc trong nghệ thuật giao hợp của người xưa mà thơi. Sách tiên đạo cĩ nĩi rằng nam nhân cĩ một loại dương khí đĩ là "biến một mỹơ nhân thành một nữ nhân khi nữ nhân đĩ được ưa thích." Khơng được nam nhân ưa thích người đàn bà chỉ là người tầm thường. Theo cổ thư th́ người xưa khi chọn đối tượng giao hợp họ dựa trên những tiêu chuẩn sau:
-     chân mày xanh (mi thanh).
-     cặp mắt đẹp (mục tú).
-     đơi mi đỏ (thân hồng).
-     hàm răng trắng (xỉ bạch).
Bàn về chân mày cổ thư cĩ nhiều ư kiến thú vị:
-     Đàn bà cĩ chân mày h́nh chữ rất kém cơi trong sự giao hợp, kỹ thuật của họ tầm thường khơng đem lại sự khối lạc cực điểm cho người giao tiếp.
-     
-      Đàn bà mà cĩ chân mày mà hai đầu cĩ khoé nhăn thi thể lực khơng cịn mạnh mẽ nữa nếu khơng nĩi là suy yếu.
-     
-     Đàn bà cĩ chân mày rậm là người thiện nghệ trong việc phịng the, đem đến cho sự hoan lạc khơâng cùng, đàn ơng chết mê chết mệt v́ những người đàn bà như thế này. Mày đậm được gọi là mày xanh (thanh mi).
-     
-     Mắt: Mắt đàn bà mà con ngươi hướng lên, cặp mắt làm cho nam nhân nh́n vào tiêâu hồn lạc phách th́ kêu là mục tú là những người là cho thân thể nam nhân suy nhược, cần phải cẩn thận khi giao tiếp.
-     
-     Mơi: Mơi đỏ như huyết hay đỏ tía là những người đàn bà làm cho đàn ơng si mê, tâm hồn dễ rối loạn khơng tự chủ được. Nữ nhân cĩ cặp mơi hồng là cường kiện dồi dào sinh lực.
-     
-     Răng: Răng trắng là người cĩ nhiều dương khí. Răng và mơng cĩ liên hệ với nhau. Răng trắng th́ mơng nở. Người phụ nữ răng khơng đẹp chứng tỏ t́nh trạng sức khoẻ suy, bệnh hoạn và việc phịng trung khơng dồi dào nữa.
-     

Sách "Nhục Bồ Đồn" trái lại khơng chú trọng mấy đến các chi tiết mi, mắt… kể trên mà chỉ là những người b́nh thường nhưng trẻ trung tươi mát là được (b́nh phàm nhi tân tiển). Điều cần thiết là thơng thạo những kỹ xảo của thuật phịng trung.

Cĩ một người nữ rất thơng thạo việc phịng the, tương truyền nàng thụ đắc chân truyền từ Vị Ương tiên sanh một câu châm ngơn: " Trước tiên phải xem h́nh (Vẽ sự giao hợp), sau đĩ vừa thực hành đạo lư âm dương giao tiếp (nam nữ), vừa đọc sách vừa nghe những tiếng động (do giao hợp phát sinh ra)".

Phải xem thật nhiều h́nh ảnh để hứng nổi lên thật cao, khơng nên thượng mă ngay, chỉ lên khi thật hứng khơng cịn kềm chế nổi. Trong khi đâm rút cũng đọc sách và nghe những âm thanh tính dục để đến khi hứng tràn mới vận động thật sự. Nhiều khi phải nghỉ trên lưng ngựa, cứ để nĩ ngâm trong âm đạo và tiếp tục đọc sách.

Chuyện của Vị Ương và Hoa Thần chỉ là chuyện trợ thêm cho việc giao hợp hứng hơn mà thơi.Hiện đại người ta sử dụng thêm phim ảnh, dụng cụ kích thích, âm nhạc tiếng động cũng trong nhiều hướng của Hoa Thần.

XXV.     CÁCH HẠN CHẾ XUẤT TINH

Đây là chương nĩi về điều hịa tinh khí, tiết khí mà vẫn cĩ giao hợp. Con người vẫn là bị ám ảnh bằng cái sợ quan trọng là bị hao phí tinh dịch. V́ vậy nên phải băo tồn nĩ và hấp thụ thêm phần bổ dưỡng của đối phương. Nhờ hai cách thế này, con người tránh được tuổi già.

Sách "Bí quyết ngọc phịng " cĩ nghi:
Tuổi 20 cĩ thể giao hợp và xuất tinh hai ngày một lần
Tuổi 30 cĩ thể giao hợp và xuất tinh 3 ngày một lần
Tuổi 40 cĩ thể giao hợp và xuất tinh 4 ngày một lần
Tuổi 50 cĩ thể giao hợp và tinh 5 ngày một lần
Đă đến khi tuổi 60 dù cĩ giao hợp cũng khơng nên xuất tinh nữa.

Khi Hồng Đế hỏi về số lần xuất tinh của một đời người th́ Tố Nữ trả lời là "số lần căn cứ trên:
- sức khoẻ
- tuổi tác
- khí lực của người đĩ

Cho nên khơng thể cĩ sẵn một con số nhất định được."

Ghi chú:

Hồng Đế trong cung cĩ một ngàn hai trăm cung nữ, nên thuật phịng trung vơ cùng thơng thạo. Trong các yếu tố nĩi trên yếu tố tuổi tác là quan trọng nhất v́ tuổi tác kéo theo kết quả cùng khí lực. Đàn ơng tới khi 60 tuổi th́ tinh ít dần cho đến khi 70 tuổi th́ chỉ cịn một phần ba so với khi ḿnh vào lúc 30 tuổi. V́ vậy kiên cữ xuất tinh lúc 60 tuổi là điều vơ cùng hợp lư.

Bác sĩ Kim Soai cho rằng đàn ơng 75 tuổi ba tuần mới giao hợp một lần. Khi đến 80 tuổi th́ hai tháng mới nên lâm trận. So sánh với kinh Tố Nữ th́ cĩ sự khác biệt. Điều này dễ hiểu v́ cĩ sự biến chuyển của đời sống con người qua thời gian. Con người từ lúc kinh Tố Nữ xuất hiện đến nay đă mạnh hơn về nhiều phương diện, nhất là phương diện sức khoẻ.

Sách vở cĩ ghi triết gia Hy Lạp Socrate giao hợp cách mười ngày một lần. Trong khi đĩ đạo cơ Đốc ghi là nên mỗi tuần một lần thơi. Hai con số này khác nhau và lời khuyên lại khơng căn cứ trên tuổi tác của con người, một vấn đề quan trọng mà kinh Tố Nữ cĩ nĩi.

Sách "Dưỡng Sinh Yếu Luận", một quyển sách của đạo gia cĩ ghi chuyện đạo sĩ Lưu Kinh.
Mùa xuân 3 ngày giao hợp cĩ xuất tinh một lần.
Mùa hạ, mùa thu th́ một tháng hai lần
Mùa đơng khơng nên xuất tinh.

Lưu Kinh cho rằng sinh hoạt phịng trung tuỳ theo mùa mà phù hợp với sinh hoạt của thiên nhiên. Nguyên tắc của thiên nhiên là "Xuân xanh Hạ trưởng, Thu liễm, Đơng tàn". Mùa Đơng th́ thu về, tàng trữ, khơâng cho ra v́ khơng thể sinh sơi nẩy nở được. Quan niệm giao hợp liên hệ với mùa trong năm chỉ thấy ở đạo gia mà thơi.

Sách "Dưỡng Sinh Tập"cũng cĩ ghi tương tự như sách "Dương sinh yếu luận"chỉ thêm một điều là:"Mùa Đơng xuất tinh một lần bằng mùa Xuân xuất tinh một trăm lần"v́ mùa Xuân dương khí hạnh mậu, sung măn, trong khi đĩ mùa đơng là mùa của âm khí. Đáng lẽ mùa này nên tránh giao hợp để phù hợp với thiên nhiên.

Sách "Động Huyền Tử"nĩi rằng phải băo tín và băo tinh nên trong khi giao hợp th́ phải quan sát nữ nhân một cách cẩn thận. Đừng quá chú trọng đến tiết giảm xuất tinh mà quên đi sự hoan lạc của phái nữ. Cần phải cho hai bên cùng đạt đến cực đĩnh mà vẫn tiết tinh th́ mới tốt.

Nhưng làm thế nào để đạt tiêu chuẩn đĩ? Sách đưa ra phương pháp như sau:
Dương vật đâm nhè nhẹ, khơng xốc nỗi, khơng hùn hụt.
Chỉ đâm cạn vùng âm hạch và thành âm đạo khơng cần lút cán tới đầu tử cung.
Nhắm mắt dưỡng thần trong khi đâm rút
Cong lưng, cúi đầu.
Nở rộng lổ mũi.
Mở rộng hai vai ra
Ngậm miệng hít hơi vào buồng phổi, càng hít vào nhiều càng tốt.

Nếu áp dụng phương pháp này mà vẫn xuất tinh th́ chỉ xuất tinh ba phần mười tinh dịch mà thơi. Như vậy cũng đạt được khối lạc đồng thời vẫn đạt được nguyên tắc tiết giăm tinh khí (tiết tinh).

Ta thấy đây chỉ là phương pháp hơ hấp. Thực hành phương pháp hơ hấp th́ thần kinh điều khiển sự xuất tinh khơng cịn hoạt động hữu hiệu nữa, ngày nay người ta dùng nhiều phương pháp này.Nhưng điều quan trọng nằm ở chỗ vừa luyện tập vừa tự tin. Luyện tập thuần thục v́ đây là tập hợp của nhiều động tác chống lại một phút tràn trề của cơ thể. Cĩ ư chí để tin rằng ḿnh thắng cơ thể ḿnh, ḿnh làm được chuyện đĩ.

XXVI.     DƯỢC LIỆU VÀ TOA THUỐC CƯỜNG DƯƠNG

Nguyên tắc chủ điểm của thuật phịng trung "dĩ nhân bổ thân" hay "dĩ nhân trị nhân"nghĩa là áp dụng nghệ thuật thế nào cĩ thể hút tinh khí của người đang giao hợp với ḿnh để bảo tồn ḿnh. Nguyên tắc này khơng thích đáng với sinh lư, bởi vậy để bổ khuyết người đời dùng thêm dược liệu để bổ tinh.

Ngày xưa người ta cĩ thể áp dụng những điều mà con mắt ngày nay cĩ thể coi là dị đoan. Bỏ đi yếu tố này, dược liệu và những toa thuốc đưa ra tronh kinh Tố Nữ cĩ thể dùng như những toa thuốc bổ tinh cường dương rất tốt.
Thái Nữ hỏi: "Đạo giao hợp ta đă nghe, đă biết, ta cũng biết rằng muốn dưỡng tinh cần phải phục dược (uống thuốc) vậy th́ dùng những dược liệu nào th́ cĩ hiệu quả?"
Bành Tổ đáp: "Nếu muốn cường tráng, trẻ măi khơng già, việc phịng sự vui thú măi mà khơng mệt mỏi, khí lực và dung mạo lúc nào cũng sinh tươi khơng suy giăm th́ dùng nhung lộc (sừng nai) là tốt nhất."

GHI CHÚ:

Đơn thuốc dùng sừng nai như thế nào ?
Lấy sừng nai cưa ngang cho bằng mặt, mài thành bột rồi thấm vào sanh phù tử (loại h́nh bát giác). Mỗi ngày dùng hai lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. Kết quả trơng thấy trong một thời gian ngắn độ hai mươi ngày.

Để cho đơn giản người ta chỉ dùng sừng nai khơng mà thơi. Đem sừng nai đốt tới khi sừng trở thành màu vàng th́ cà ra thàng bột, mỗi lần dùng th́ pha vào nước. Dùng cách này th́ cũng cĩ hiệu quả nhưng chậm, khơng thể mau như cách dùng sanh phù tử.

Người ta cịn dùng phục linh sản xuất tại tỉnh Cam Túc bên trong Trung Quốc thêm vào bột sừng nai, mỗi thứ một dung lượng ngang nhau. Mỗi ngày dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. Kết quả cũng rất khả quan.

Sách xưa cũng ghi cách chế và cơng dụng của sừng nai theo lời chỉ dẫn của Thái Nữ.

Sừng nai muốn loại tốt th́ phải lựa thứ sản xuất ở miền Bắc Trung Hoa. Loại nai con cĩ sừng mới nhú màu đỏ, sừng loại này kêu là lộc nhung, lộc nhung th́ hữu hiệu vơ song. Các loại khác khơng thể nào sánh bằng.

Các bộ phận khác của nai cũng cĩ cơng những dụng cho cường dương, tráng tinh: thịt nai, máu nai, bào thai nai con trong bụng, gân, đuơi, dương vật đều là những thứ cĩ tác dụng.

Vua chúa xưa ở Trung Hoa thường ưa dùng thịt nai. Sách Tiền Hán thư chép Hán Cao Tổ mỗi ngày hai lần sáng chiều ăn bao tử nai (lộc t́). Ơng cho rằng ăn thứ này làm cho con người mạnh mẽ hăng hái, khi "lââm trận" khơng khi nào chiến bại. Đối với Cao Tổ thứ bao tử nai là thứ bổ dược cường dương vơ địch.

Dương vật nai th́ phải cắt thật xa lên tận ngọn, cắt cả sợ gân trong ḿnh nai chớ khơng phải chỉ phần ngồi cùng của dương vật mà thơi. Đem sợi gân đĩ thái ra từng miếng mỏng phơi khơ dùng làm mồi nhắm rượu.

Huyết nai thỉ phải lấy kim chích nơi đầu sĩng mũi của nai để máu chảu ra mà hứng. Thêm vào máu này nhân sâm, pha thêm chút rượu cho đễ uống. Mỗi ngày uống một chung nhỏ. Cĩ thứ thuốc này th́ mỗi ngày "trèo đèo" một lần vẫn khơng thấy mệt.

Trong giới săn bắn cịn tương truyền là ăn thường thịt nai và uống máu nai th́ mỗi ngày giao hợp và xuất tinh hai lần mà vẫn khơng thấy hề hấn ǵ, vẫn mạnh khoẻ như thường khơng mệt mỏi. Sách Nhật cĩ chép chuyện một người thợ săn ở vùng Bắc Hải đảo cĩ cả thảy mười một người vợ mà tất cả đều ly dị lư do v́ ơng ta rất mạnh trong việc giao hợp, các bà lần lần rút lui, v́ khơng sao chịu nỗi sự đồi hỏi của ơng ta. Họ quảng sợ về sự cường dương vơ địch, cĩ thể lên bất cứ lúc nào của ơng ta.

Bên trong cĩ nĩi dùng sừng nai vơí sinh phù tử. Sinh phù tử là một chất độc, nhưng phối hợp với lộc nhung hay phục linh th́ khơng cịn độc nửa mà cịn bổ dương cường tinh.
Quan niệm của Trung Quốc về thuật phịng trung là tự ta là cho ta mạnh tinh cường dương, khơng ai sinh ra đời mà sinh lư tự nhiên mạnh. Phải tập luyện, phải dùng đúng thuốc, phải theo những cách điều chế được chỉ dẫn. Bành Tổ nĩi dùng dược liệu là trong ư nghĩa đĩ.

XXVII.     TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUƠN LUƠN ĐỊI HỎI XÁC THỊT

Khi hồng Đế hỏi về toa thuốc trị bệnh cho một người luơn luơn địi hỏi xác thịt, khơng bao giờ thỏa măn. Tố Nữ kể câu chuyện như sau:

"Cĩ một nữ nhân tuổi đă 30 nhưng việc t́nh dục địi hỏi như thiếu nữ mới ngồi 20. Nàng luơn luơn cần gần gũi đàn ơng, khơng cĩ dương khí trong ḿnh th́ nàng khơng sao chịu được, âm hộ nước nơi dầm dề nhiều khi chảy ra ướt cả quần."

Lư do cĩ sự kiện này là v́ trong âm hộ của nàng cĩ một loại trùng làm tổ. Đĩ là loại trùng thật nhỏ (cở 3 phân Tàu), h́nh đuơi ngựa. Trùng này cĩ 2 loại, đầu đỏ và đầu đen. Loại đầu đỏ khơng linh hoạt bằng loại đầu đen.

Trị bệnh này thỉ dung phương pháp như sau: Dùng bột ḿ nấu chín, vo thành một vật giống như dương cụ lớn nhỏ tùy theo ư thích của bêïnh nhân, chế vơ đĩ một ít nước tương, đâm vơ đâm ra nơi âm hộ đến một lúc th́ các con trùng đĩ cũng theo ra. Cứ tiếp tục như vậy như là giao hợp với nam nhân, tới khi lấy hết tất cả trùng ra. Thường trùng này làm tổ th́ độ 30 con trong một âm hộ.

GHI CHÚ:

Chuyện của Tố Nữ khĩ tin nhưng cũng chẳng qua chỉ là cach thỏa măn dục t́nh của nữ nhân với lời tư an ủi rằng đĩ là một phương thức chửa bệnh xấu của ḿnh mà ngày nay phụ nữ

Tây phương thường dùng với dụng cụ tương tự.
Ngày nay các bệnh về t́nh dục khơng thỏa măn cĩ 2 loại:

Đàn bà mắc bệnh địi hỏi khơng bao giờ biết thỏa măn và lănh căm.
Đàn ơng tảo tinh (xuất tinh quá sớm tức là khĩc ngồi quan ải) và vơ năng (bất lực, khơng làm nên trị trống ǵ).

Cả 4 trường hợp đều là bệnh này tương phản với bệnh kia ở trong một tính phái. Bệnh sanh ra do việc giao hợp quá mạnh bạo, gấp rút mà ra. Vậy để chữa bệng này cần phải dùng vật lư trị liệu (thuốc men) và tinh thần trị liệu.
Trời sinh ra nam nhân khác với nữ nhân, tính dục dễ dàng bị kích thích. Nhưng người dễ bị kích thích quá th́ cĩ hại v́ hứng t́nh lên nhanh th́ x́u xuống cũng nhanh. Trong trường hợp này bệnh dễ mắc là tảo tiết. Mắc chứng này rồi th́ sớm muộn ǵ cũng mắc chứng vơ năng. Người vợ của bệnh nhân này v́ khơng được thỏa măn khi giao hợp với chồng nên bị măc chứng lănh căm.

Tĩm lại loại bệnh này là bệnh làm cho sự giao hợp suy nhược. Trái với vơ năng và lănh căm là giao hợp bao nhiêu lần khơng thấy đủ, khơng muốn nghĩ. Đây cũng là một loại bệnh cần chữa trị.

Toa thuốc trừ bệnh tảo tiết hay vơ năng là toa thuốc Ủy kê tán (thuốc bột) hay Ủy kê hồn (thuốc viên). Toa thuốc gồm:
Nhục tùng dung 3 phân
Ngủ vị tử 3 phân
Viễn chí 3 phân
Xà sàng tử 4 phân
Thố ty tử 3 phân

Đem cả 5 loại nghiền thành bột, mỗi ngày đến lúc bụng đĩi th́ dùng một muỗng canh, hoặc pha trong rược, hoặc them mật mà vị thành viên. Thuốc rất hiệu nghiệm, khơng cĩ nữ nhân bên cạnh để sẳn sàng gầy cuộc vui th́ khơng nên dùng thuốc này. Trong vịng 60 ngày uống thuốc này th́ cĩ thể hạ ngă 40 người đàn bà khác nhau dễ dàng.

Truyện kể cĩ một người Thái Thú tại Tứ xuyên tên là Lữ Kính Đại, ơng ta dùng thuốc này vao nhưng năm đă quá 70 tuổi vậy mà vẫn sinh được thêm 3 người con nữa. Sách cũng kể là khi ơng dùng thuốc th́ sự giao hoan quá mạnh khiến cho phu nhân sinh ra nhiều bệnh chứng, âm hộ đau nhức, phu nhân khơng thể ngồi được.

Khơng muốn sử dụng thuốc này nữa, ơng Thái Thú đem bỏ ra sau vườn. Một con gà trống ăn phải liền trèo lên đạp mái một con gà tơ, gà trống lên được th́ khơng chịu xuống nữa, mỏ vẫn cắn cái mồng của gà mái cho đến khi con này giựt đứt ra.

Tên Ủy kê tán cĩ từ sự tích này.
Chuyện và toa thuốc nĩi trên ghi trong sách "Ngọc phịng bí quyết" và "Động Huyền Tử ".

Trong sách "Cổ kim lục nghiệm pháp" cĩ ghi câu chuyện như sau:

Vua Tùy Dương Đế xuống chiếu cầu ai cĩ toa thuốc cường dương th́ dâng lên vua. Triều đ́nh nhận được một biểu chương như sau:
"Phu nhân của thần thiếp tên là Hoa Phù. Khi ơng ta lên 80 tuổi th́ việc phịng trung khơng cịn cĩ thể sinh hoạt được nữa. Cả hai vợ chồng thiếp đều buồn. Một ngày kia phu quân thiếp nhận được một toa thuốc thần diệu là "Ích đa tán" từ sự chỉ vẽ của một người bạn. Ích đa tán gồm các dược liệu như sau:
- Sanh địa hồng 1 tiền. Rửa sạch thái mỏng ngâm vào một lít rượu. Thời gian sau vớt ra ngiền thành bột.
- Quế tâm 2 phân
- Cam thảo 5 phân
- Bạch truật 2 phân
- Hàn thái 5 phân
Đem 5 vị thuốc này nghiền nát thành bột, sau bữa ăn uống chung vơi rượu, mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần dùng một muỗng canh.

Sau khi điều chế xong, phu nhân của thần thiếp chưa kip sử dụng th́ qua đời. Thần thiếp cĩ một người giúp việc trong nhà năm ấy đă ngồi 70 tên là Ích Đa. Tên này nhiêàu bệnh nê thân thể suy nhược, hay đau lưng nhức mỏi, đầu tĩc bạc phơ, mỗi khi di chuyển rất là khổ sở, thần thiếp tội nghiệp đem thuốc Ích Đa Tán khơng cịn dùng nửa đối với thần thiếp mà cho hắn ta. Khơng ngờ chỉ dùng trong một tháng, th́ lưng hắn đă thẳng khơng cịn cong nửa, da lại hết nhăn, tĩc lại trở nên đen, mặt mài hồng hào, tươi mát như thanh niên độ cường tráng. Trong thời gian này thần thiếp cĩ hai nữ tỳ tên là Phan Tức va Cẩn Thiện, cả hai đều lấy Ích Đa, hai năm sau cả hai nàng sinh với hắn bốn đứa con. Ích Đa tối ngày lâân la ngồi đường rượu chè, chờ đến tối vợ về bày cuộc mây mưa. Vợ chịu khơng thấu nên một hơm Cẩn Thiện bỏ chạy trong tệ thất, Ích Đa rượt vợ tận phịng thiếp, bắt đè xuống giao hợp ngay tại đây. Chứng kiến sự mạnh mẽ, cường dương khác thường của Ích Đa, thần thiếp hứng t́nh nên thuận lịng nhảy vào cuộc vui. Thần thiếp tuy quá 50 tuổi nhưng trước cảnh này cũng khơng đè nén được ḿnh nên để cho xác thịt đẩy đưa. Thời gian qua thần thiếp cĩ với Ích Đa 2 con. Một ḿnh hắn quan hệ với 3 người đàn bà nhưng vẫn khơng thấy mỏi mệt chút nào, tinh lực vẫn dồi dào, cuộc vui vẫn hào hứng. Một ngày nọ thần thiếp nghĩ rằng ḿnh thơng gian và cĩ con với người hầu cận là một việc vơ cùng tệ, mất giá trị ḿnh nên lừa dịp giết Ích Đa đi. Thần thiếp mổ dương vật hắn ra xem xét tại sao hắn mạnh như vậy th́ thấy dương vật hắn thoa đầy chất hồng tuỳ. Nếu Hồng Thượng muốn chinh phục nữ nhân th́ phải dùng Ích Đa tán và sử dụng Hồng tuỳ. Đây là một toa thuốc tuyệt diệu, thần thiếp kính dâng lên bệ hạ."

Đây là một biểu tấu rất thật. Phản ứng về t́nh dục của người phụ nữ cũng rất thực. Triều đ́nh lưu trữ biểu chương này chứng tỏ rằng y giới trong triều đ́nh rất là chú ư đến khía cạnh dục tính của vấn đề.

Ngồi các toa thuốc trên cịn cĩ các toa như "Cực yếu phương", "Cát Thị phương", "Lăo bà phương", " Bản thảo của Tơ Kính", "Bí mật yếu thuật phương". Trừ "Cực yếu phương" thất truyền từ lâu, các toa thuốc khác vẫn cịn truyền tụng cho đến ngày nay coi như thứ thuốc bổ dương hữu hiệu và cĩ kết quả chứng nghiệm.

"Cực yếu phương" gồm:
- Sà sàn tử 2 phân
-Thố hệ tử 2 phân
- Ba kích thiên b́ 2 phân
- Nhục tùng dung 2 phân
- Viễn chí 1 phân
- Ngũ vị tử 1 phân

Các dược liệu trên được nghiền nát thành bột, mỗi lần dùng một nửa tiền pha với rượu, dùng trong 20 ngày th́ cĩ kết quả (tinh khí hăng cường, giao hoan khơng biết mệt).
"Cát thị phương" chuyên trị:
–     Nam nhân dương cụ khơng thức nỗi, x́u trơ
–     Nữ nhân âm bế đến nỗi khong thích giao hợp
Dược liệu gồm:
–     Nhục tùng dung
–     Thố ty tử
–     Sà sàn tử,
–      Chí viễn

Mỗi thứ một lượng, đem nghiền nát thành bột, pha với rượu. Mỗi ngày dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh.
"Lăo bà phương" cũng là toa thuốc trị dương cụ khơng giương, gồm:

- Câu dĩ
- Xương bồ
- Thố ty tử

Mỗi thứ một phân, nghiền nát, moi ngày dùng ba lâàn, mỗi lần dùng một muỗng canh, trong một tháng th́ dương vật cứng như sắt, như gang.

"Bí mật yếu thuật dương ":
– Lấy một tổ ong vào tháng tám, ép suốt một đêm rồi đem vào bỏ vào trong một cái túi nhỏ rồi đem treo trên một cành tre, đến một ngày th́ tổ ơng biến thành "Âm can diệu dược", một thuốc kích dục hữu hiệu.
Khi trong ḿnh khơng thể hứng t́nh mà muốn giao hoan th́ lấy tổ ong đĩ cắt ra vài miếng. Chia là hai phần.
- Phần thứ nhất để lên lửa riu riu, và nấu cho đến khi âm ấm.
- Nửa phần cịn lại cho vào lịng bàn ray, nhổ nước bọt vào cho mềm rồi đem thoa lên dương vật để như vavậy cho khi khơ những bụi xác rớt xuống hết rồi giao hợp. Nên nhớ nếu muốn tăng cường cảm khối th́ chà lên quy đầu, nếu muốn dương vật tăng trưởng lên to lớn hơn, th́ nên thoa xung quanh cua nĩ.
- Khi giao hợp nên pha phần đang để lửa âm ấm llia với rượu mà uống.

Cịn một phương pháp làm cho dương vật bị liệt giương lên dược là lấy "dầu ba đậu" hay thuỷ ngân thoa lên vùng lơng trước khi muốn giao hợp.

Tất cả những thuốc và phương pháp trên là dùng để chữa chứng khơng lên của thằng nhỏ, một mặt chửa trị nhưng một mặt khác cũng là kích thích thêm phần khối cảm.

Muốn giảm bớt t́nh dục quá sung măn của nam nhân người nữ cĩ thể thuyết phục để châm cứu họ. Điểm châm cứu là điểm "tam tâm giao" cách ba tất kể từ gĩt chân đi lên. Giảm bớt sự dương cường của nam nhân người nữ cĩ thể tránh thnụ thai hay khỏi mệt trong những lần giao hoam ḿnh khơng đủ sức chịu đựng.

Các thứ nĩi trên chỉ là phương cách đi t́m khối cảm, vấn đề quan trọng hơn là làm sao trẻ măi khơng già, truờng thọ mà vẫn thụ hưởng được khối cảm.
Cổ thư cịn ghi lại những sự tích về mặt này.

Dương quí phi muốn cho Đường Huyền Tơn sủng ái ḿnh nên luơn luơn chú trọng trau chuốt về ba mặt sức khoẻ, sắc đẹp và tính kỷ (kỷ thuật giao hợp sao cho tạo sướng khối tối đa cho nhười giao hợp với ḿnh). Quí phi ăn nhiều trái vải (lệ chi) v́ thứ trái cây nầy cĩ dược tính làm cho thề lực kiện khang. (Tuy nhiên khơng ăn nhiều quá để cĩ thể bị chứng máu cam v́ trái vải tính nhiệt). Sự kiện thích ăn một trái ǵ đĩ để tăng cường thể lực ở đâu cũng cĩ. Bên Ai cập này xưa các Hồng hậu muốn cho da thịt ḿnh bĩng lống, đẹp đẽ đă cho ngâm trân châu vào rượu để uống. Quí phi cũng cịn dùng những loại thuốc bổ âm khác, đặc biệt là qua các thức ăn như yến và trái vải.
Trái vải rất cĩ tác dụng lên can tạng (gan) và t́ tạng (bao tử) nghiă là cĩ thể làm tiêu trừ những độc khí trong thân thể và cĩ tác dụng chấn tỉnh tinh thần khiến khơng cảm thấy mệt nhọc, băi hỗi.

Cổ tịch của Trung Hoa khi nĩi về nhưng cách cường tinh bổ dược cĩ nhắc đến một khí cụ dùng cho nữ nhân h́nh dáng tương tự như dương cụ, do đo ta thấy rằng ngày xưa cũng đă biết tính cách gợi dục cuả vật chất.

Dễ tháy nhất trong việc nầy là chuyện dùng trái đào. Đem một trái đào nhâm trong giấm chua th́ cĩ được một thứ gọi là "thơi dâm dược" thứ thuốc kích thích dâm. Ngịai tính chua, đào cịn cĩ h́nh dạng như bộ phận sinh dục của nữ nhân, là một thứ cĩ tính cách gợi dục, khi nh́n trái đào th́ con người sẽ liên tưởng ngay đến chuyện đàn bà và mây mưa. Chuyện truyền kỳ ghi lại trong sách "Liệt tiên tồn truyện " về bà Tây vương mẫu xuống trần năm Nguyên Phong nguyên niên tặng cho Hán Vũ Đế bảy trái đào tiên mọc ngồi Đơng hải tiên sơn để chúc cho Vũ Đế sống lâu cũng cĩ ư nghĩa xa gần về t́nh dục. Người đời Hán cĩ nhiều người theo phái tính đào (tính cách gơị cái giống nữ của trái đào) nên đặt ra chuyện nầy.

Kinh Thi của Trung Hoa (loại ca dao của ta) cĩ câu "đào chi yêu yêu, xử nữ vu quy, nghi kỳ thất gia…" là tả người con gái đẹp trước khi về nhà chồng, mặt mơn mởn xinh tươi như trái đào. Ở Nhật Bản "Phương diện tập" cũng ghi chép những câu ca miêu tả người đẹp. Điều đĩ cho ta thấy rằng lồi người ở đâu cũng thế thường ca ngợi sự hoan lạc của tính ái (sung sướng của giao hợp), và gom gĩp các chuyện tươi đẹp của nhân gian thành các bài ca dao.

Lồi người là lồi duy nhất biết tạo ra trong trí ḿnh sự liên tưởng và sự khơng tưởng, cho nên khi dùng thuốc th́ phải tin tưởng nĩ cĩ hiệu quả. Cĩ tin th́ thuốc mới cơng hiệu, cịn khơng tin th́ uống bao nhiêu thuốc cũng vơâ ích mà thơi. Trong chuyện "Quỉ giao" cĩ kể chuyện một người bị bệnh giao hợp khơng thỏa măn đêm đêm nằm mộng thấy ḿnh hành sự với yêu quái. Mộng này sinh ra v́ sự tưởng tượng tới t́nh dực ban ngày mà thơi. Tự kỷ khơng nghĩ chuyện ân ái th́ mộng cũng khơng cịn

Một nhà sáng tác nhạc người Nhất tên là B́nh Vĩ Xương Hồng khi nằm bệnh viện trị bệnh kế thạch đă tự chữa bằng cách niệm danh Bồ Tát mỗi ngày một vạn lần. Ơng dự trù niệm như vậy trong năm năm th́ sẽ khỏi bệnh, nhưng chỉ trong vịng một năm th́ đă khỏi. Nguyên do hết bệnh v́ ơng an tâm niệm kinh và hơ hấp dài. Khi hít vào lượng dưỡng khí lớn tim và phổi được kích thích để hoạt động, trong thân thể sẽ sinh ra các phản ứng hữu ích. Hơ hấp dài hạn để tập trung ư chí vào một chủ điểm sẽ quên hết tất cả phiền năo cũng là một yếu tố tâm ư tốt khiến cho mau lành bệnh. Tin tưỡng ḿnh sẽ hết bệnh cũng là một yếu tố trong sự việc này.

Sách "Bí quyết ngọc phịng " cĩ ghi thuật làm cho dương cụ dài ra như sau: Dùng sơn thúc, tế tân, nhục tùng dung, mỗi thứ một lượng bằng nhau. Tất cả được trộn trong mật chĩ. Đem treo trong phịng ba mươi ngày th́ lấy xuống cà xát vơ dương vật. Cách này cĩ thể làm cho dài ra thêm một tấc (Tàu).

Sách "Lục nghiệm phương" cĩ chỉ cách làm cho âm đạo nhỏ lại và nĩng như sau: Dùng thanh mộc hương hai phân, hợp với sơn châu bốn phân. Ngiền cả hai thành bột, dùng nước miếng của ḿnh vê thành những viên nhỏ bằng hạt đậu, sau đĩ dùng những viên này xát bên ngồi âm hộ th́ rất cĩ hiệu quả.

Các thứ thuốc và phương pháp áp dụng cĩ hiệu quả chắc chắn cĩ bạn sẽ tự hỏi: Người viết sách này tin rằng ngắn cĩ thể biến thành dài. Nhỏ cĩ thể làm cho lớn. Lớn cĩ thể làm cho nhỏ. Tin là một yếu tố tâm lư cần thiết để thực hiện cĩ hiệu quả. Việc cọ xát, thoa bĩp chính nĩ đă làm cho máu huyết cho đĩ lưu thơng thêm, kích thích thêm cơ năng t́nh dục nên ít ra cũng cĩ hiệu quả phần nào. Thuốc chỉ là một phần, tin là chuyện sẽ thành mới là phần quan yếu trong việc cường tráng và cường tinh.

XXVIII.     NHỮNG CẤM KỴ KHI GIAO HỢP

Hồng Đế hỏi Tố Nữ: Tinh lực của nam nhân biến đổi bất thường, cĩ khi yếu khiến dương vật khơng dương lên, cĩ khi tinh dịch yếu đến khơâng xuất ra. Nàng cĩ biết phép trị liệu nào khơng?

Tố Nữ đáp:"Sự kiện này cũng thường thơi, biết bao nhiêu nam nhân đắm say tửu sắc đến sanh tật bệnh. Muốn trẻ măi khơng già khơng ǵ bằng đừng mê gái dẹp. Đây là một điều rất quan trọng mà nhân sinh mắc phải vẫn khơng chừa. Nếu v́ sắc mà trị bệnh th́ phải dùng dược liệu trị ngay. Tuy nhiên trước khi bắt đầu giao hợp phải tránh những cấm kỵ, vi phạm những cấm ky th́ dùng dược kiệu cũng vơ ích mà thơi."

GHI CHÚ:

Những cấm kỵ đĩ là ǵ?

Sách Tố Nữ cĩ ghi lại sáu điều cấm kỵ như sau:

Kỵ thứ nhất

Khơng được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch (thượng ngươn) giữa tháng (lúc trăng trịn) và cuối tháng. Phạm vào cấm kỵ này con cái sinh ra sẽ bị thương tổn, cịn ḿnh th́ "khơng cịn giương lên được". Trong ḿnh lúc đĩ bị "dục hỏa thiêu trung", nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tâm can của ḿnh nên nước tiểu phát ra cĩ màu đỏ hay vàng lườm. Nhiều khi mang thêm bêïnh di tinh. Tuổi thọ bị giảm.

Kỵ thứ hai

Khi cĩ sấm sét, mưa giĩ, đất thảm trời sầu, động đất, tránh khơng được giao hợp. Giao hợp th́ con cái sinh ra sẽ bị câm điếc, mù lồ hay tinh thần suy nhược. Về phương diện tâm lư th́ đứa nhỏ sẽ cĩ một tinh thần suy nhược, đa sầu, đa cảm, luơn luơn ủ dột.

Kỵ thứ ba

Khơng nên giao hợp khi đă ăn quá no hay khi đương cơn say. Phạm cấm kỵ này nội tạng bị tổn thương, nước tiểu màu đỏ, mặt tái xanh, lưng đau mỏi, ḿnh mẩy phù thủng, tuổi thọ bị rút xuống rất nhanh.

Kỵ thứ tư

Khơng nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong. Lúc này cơ thể chưa trở về trạng thái b́nh thường, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt động rất phức tạp là giao hoan. Phạm điều cấm kỵ này th́ về sau ăn uống sẽ mất ngon, bụng ph́nh to, tâm thần luơn luơn phiền muộn, nhiều khi lơ đăng như người mất trí.

Kỵ thứ năm

Tránh giao hợp khi người đă mất sức v́ mệt nhọc như đi bộ, lao động nặng, mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh băi hoải. Phạm cấm kỵ này th́ sẽ bị mắc bệnh suyễn, miệng khơ, đường tiêu hố bị trở ngại, các cơ quan bài tiết gặp những giao động.

Kỵ thứ sáu

Khơng nên giao hợp liền khi đương nĩi chuyện với nữ nhân mà dương cụ nổi lên. Vi phạm điều này th́ dương cụ bị thương tổn, nội trạng bị suy, lổ tai khơng cịn thính, tinh thần bất an, ho suyễn. Nhắc lại, sáu điều cấm kỵ này quan trọng đến nổi nếu phạm phải th́ sinh bệnh, chỉ cĩ thần dược mới chửa khỏi mà thơi.

Sách Tố Nữ ghi lại cuộc đối thoại sau đây:
Hồng Đế hỏi Cao Dương Phụ: "Ta nghe Tố Nữ nĩi nam nhân hay bị cửu lao và thất thương, nữ nhân hay bị hồng, bạch đái và tuyệt sinh (khơng thể sinh con). Thử hỏi v́ sao mà sinh ra những chứng bệnh này?"

Cao Dương Phụ nĩi: "Nam nhân thường bị các tệ nạn ngủ lao, luc cực và thất thương. Các bệnh này sinh ra điều cĩ nguyên nhân."

Hồng Đế nĩi: "Ta muốn nghe nĩi về thất thương, xin nàng tŕnh bày cho rỏ."

Cao Dương Phụ nĩi:
Thất thương là:
-     Âm hản (mồ hơi trộm)
-     Âm suy (yếu sinh lư)
-     Tâm thanh (tinh dịch đổi màu khơng trắng)
-     Tinh thiểu (tinh dịch ít và lỏng bỏng)
-     Âm hạ ướt
-     Tiểu ít
-     Khơng cương cứng

Làm sao trị những chứng bệnh trên?

Chỉ cĩ cách dùng phục linh. Phục linh là thần dược cĩ thể dùng quanh năm. Các dược liệu khác dùng chung và các điều chế như sau:
-     Phục linh 4 phân
-     Sương bồ 4 phân
-     Sơn cu di 4 phân
-     Quát tử cân 4 phân
-     Thố hệ tử 4 phân
-     Ngưu thằng 4 phân
-     Thức thạch chi 4 phân
-     Can địa hồng 7 phân
-     Tế tân 4 phân
-     Phịng phong 4 phân
-     Xu dự 4 phân
-     Thục đoạn 4 phân
-     Sà sàng tử 4 phân
-     Bát thực 4 phân
-     Tam thiên kỵ 4 phân
-     Thiên hùng 4 phân
-     Thạch đẩu 4 phân
-     Đổ trọng 4 phân
-     Tùng dung 4 phân

Các dược liệu nĩi trên đem tán chung thành bột, thêm vào mật ong, trộn đều, vo lại thành viên bằng ngĩn tay, dùng ngày ba lần, mỗi lần 3 viên.

Cĩ thể khơng cần trộn với mật ong, để bột như vậy dùng như thuốc tán, mỗi lần dùng một muổng canh, dùng liên tiếp 7 ngày th́ sẽ cĩ hiệu quả, 10 ngày th́ sẽ hết bệnh, 39 ngày th́ sẽ trở lại b́nh thường. Nếu dùng thường trực th́ sẽ được cải lăo hồn đồng, thân thể khoẻ mạnh. Trong thời gian dùng thuốc này, cử thịt heo, thịt dê, cử khơng được uống nước lạnh (uống trà nĩng th́ tốt).

Kinh Dịch cĩ nĩi: "Các hiện tượng của trời đất là điềm triệu của cát hung, tốt xấu, bởi vậy người đời căn cứ trên thiên nhiên mà đốn được chuyện sắp xẩy ra. Những điều cấm kỵ nĩi trên điều căn cứ trên triết lư lấy thiên địa nhân làm gốc."
- Điều cấm một là v́ các ngày tháng này tương ngày âm thần.
- Điều cấm hai là v́ các ngày giờ này là tương đương thiên kỵ. Điều cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ Kư. Sách Lễ Kư chép rằng khi trời nổi cơn mưa giĩ sấm xét th́ khơng nên thụ thai v́ đĩ là lúc thiên nhiên đang cường nộ, người giao hợp dễ bị phong đơn. Lấy cái nh́n tân tiến mà xét, th́ cĩ sấm xét th́ trong lịng ta khơng yên, việc phịng sự khơng cịn hứng thú nữa.
- Điều cấm thứ ba thuộc về nhân kỵ: Ăn no sẽ ảnh hưởng đến t́ (bao tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến nội trạng. Y học ngày nay cũng cĩ bàn luận xa gần đến vấn đề này khi khảo về sự tương quan giữa âm và thân (thân tâm y học).

Ngồi ra cịn cĩ địa kỵ mà người dân tương truyền cùng nhau là cơ bản văn hố Á Đơng, đĩ là khơâng được giao hợp trong đền chùa, thần mếu, phật pháp, đáy giếng chỗ nhà bếp, nơi cầu, chổ mồ mà, cạnh quan tài. Các điều cấm kỵ này đưa ra là để ta an tâm rằng, ḿnh khơng cĩ làm ǵ bậy th́ như cuộc vui mới đạt được tuyệt đỉnh của nĩ.
- Điều cấm kỵ thứ tư là khơng được giao hợp khi mới tiểu xong mới nghe qua th́ cĩ vẻ vơ lư nhưng người Trung Hoa ngày xưa đă cĩ căn cứ tin tưởng điều này. Sách "Ngọc phịng bí quyết" cĩ đoạn nĩi rằng sau khi tiểu xong th́ tinh khí hao hụt, các mạch đạo khơng thơng, trong t́nh trạng như vậy mà giao hợp th́ đương nhiên bị tổn thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai được người mẹ sẽ bị tổn thọ.

Tất cả 7 điều cấm kỵ trên th́ người xưa đều cĩ lư do của họ, ta thấy rằng khơng hữu lư v́ ta nh́n dưới cặp mắt của người tân thời, khơng để ư trêân khía cạnh âm dương, mạch… của y lư xưa. Nhưng khơng phải v́ vậy mà ta khinh thường rồi cứ ngang nhiên bước vào những điều cấm kỵ.
Xét cuộc nĩi chuyện trên của Hồng Đế và Cao Dương Phụ ta nghe nhắc đến ngủ lao, lục cực và thất thương, nhưng phần trên chỉ mơí nĩi đến thất thương mà thơi, các thứ khác khơng thấy nhắc đến. Độc rải rác đĩ đây th́ thấy Tố Nữ kinh cĩ nhắc đến các bệnh về bộ máy sinh dục khiến ta cĩ nghĩ rằng ngủ lao, lục cực là nĩi về bệnh sinh lư. Chẳng hạn như bệnh niếu đạo viêm (sưng đường tiểu). Về bệnh này Đơng y cĩ đưa ra phép chửa như sau:
- Uống thật nhiều nước
-Cử ăn các loại sinh vật
- Cách này xét ra đă cĩ kết quả.

Tây y nghiên cứu nơi tật bệnh mà cho toa, ít chú trọng đến nguyên nhân xa cho nên lắm khi bệnh hết mà hại các cơ quan khác, tiếng y khoa gọi là phản ứng phụ. Đơng y trái lại tuỳ theo tính chất của bệnh và sự quâân b́nh mạch, nhiệt của bệnh nhân mà gia giảm thuốc cho nên tuỳ người mà cĩ thang thuốc riêng, bởi vậy dùng đơng y nên cẩn thận, khơng nên thấy người nọ người kia uống thang thuốc này thang thuốc nọ hết bệnh mà cứ lấy toa mà cứ lấy thang thuốc riêng của họ bổ cho ḿnh.

Thời tiết trong năm đối vơí Đơng y cũng quan trọng. Sách cịn nghi lại câu chuyện của Cao Dương Trụ đáp Hồng Đế trong đĩ nàng nĩi mỗi mùa th́ dùng những thứ thuốc khác nhau, thuốc mùa thu khác với với thuốc mùa hạ, thuốc mùa hạ khác với thuốc mùa Đơng…

@@@HẾT@@@
Quay trở về đầu Xem huygen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi huygen lần thăm huygen's Homepage
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9453 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO