Msg 1 of 1: Đă gửi: 21 September 2008 lúc 3:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
Hoa Kỳ giúp Việt Nam chấn hưng giáo dục
Mặc Lâm, pḥng viên đài RFA
2008-09-17
Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Negroponte trong khi viếng thăm Việt Nam cho biết rằng Hoa Kỳ sẵn ḷng giúp Việt Nam trong công tác đào tạo 10.000 tiến sĩ trong mục tiêu chấn hưng nền giáo dục và thúc đẩy sự phát triển của Việt Nam.
Với sự nhiệt t́nh này liệu Việt Nam có thể đáp ứng được với những tiêu chí mà một thí sinh cần phải có khi theo học tiến sĩ hay không? Và với nền giáo dục như hiện nay liệu con số 10.000 ứng viên có phải là con số khả thi?
Dự án 10 ngàn tiến sĩ
Trong chuyến thăm Mỹ hồi tháng 3 năm nay, Bộ Trưởng Giáo Dục và Đào Tạo VN Nguyễn Thiện Nhân đă gặp gỡ và trao đổi với nhiều trường đại học danh tiếng của Mỹ nhằm kêu gọi sự hợp tác và trợ giúp của họ đối với dự án đào tạo 10.000 tiến sĩ cho Việt Nam.
Cho đến thời gian gần đây khi Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ là ông John Negroponte viếng thăm Hà Nội đă cho biết Mỹ sẵn ḷng giúp Việt Nam trong công tác đào tạo 10.000 tiến sĩ mà Việt Nam đang nhắm tới. Dư luận h́nh như cùng đồng ư đây là một tín hiệu đáng vui có thể giải đáp bài toán ngân sách của dự án đầy tham vọng này.
Giáo sư Tiến sĩ Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa Học và Công Nghệ cho biết cảm tưởng của ông trước sự việc này cùng những quan tâm mà ông chia sẻ:
“Tôi nghĩ rằng việc đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam theo phương cách cử các nghiên cứu sinh sang nước ngoài học tập, đặc biệt là những nước tiến tiến như Mỹ, là một phương hướng mà theo tôi nghĩ là tốt.
Tuy nhiên, việc thực hiện chương tŕnh đó cần phải được tính trên nhiều khía cạnh một cách chu đáo. Trước hết là khâu tuyển chọn, sau đó là nội dung chương tŕnh học tập của các nghiên cứu sinh đó ở nước ngoài.”
Để huấn luyện một tiến sĩ, ngoài vấn đề tài chánh c̣n rất nhiều yếu tố cũng quan trọng không kém theo sau. Khả năng của học viên là mối quan tâm hàng đầu khi bước vào giai đoạn thực tập và khả năng này lại tuy thuộc vào sự huấn luyện của môi trường giáo dục đại học trong nước.
Giáo sư Tiến Sĩ Nguyễn Đăng Hưng, giám đốc điều hành quỹ học bổng đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ của Vương Quốc Bỉ tại Việt Nam cho biết ư kiến của ông về những khó khăn mà ông cho là cần chú ư khi tuyển chọn nghiên cứu sinh, ông nói:
“Với tư cách là một nhà giáo, với tư cách là một người có nhiều năm đào tạo các tiến sĩ, vấn đề đào tạo bậc tiến sĩ th́ con số được đưa ra lớn như vậy nó sẽ có những khó khăn trước mắt.
Thứ nhứt, theo kinh nghiệm của tôi, ở Việt Nam rất khó t́m được những đối tượng đủ khả năng để học bằng tiến sĩ. Chúng tôi cũng có một dự án đào tạo 50 tiến sĩ giữa Đại Học Ĺège và Đại Học Xây Dựng Hà Nội, thế mà đă 5 năm nay rồi mà chúng tôi chỉ t́m được chưa tới 10 đối tượng để có thể đào tạo.
Vấn đề là bậc tiến sĩ không phải chỉ có tài chánh là đủ đâu, mà vấn đề là phải có đối tượng, có nghĩa là có những học sinh có đủ tư duy, có đủ tŕnh độ để theo học, có một ḷng đam mê nào đó th́ mới có thể mà thi bậc tiến sĩ, nhứt là bằng tiến sĩ nghiêm túc như ở Mỹ hay ở Châu Âu. Cho nên trước nhứt là vấn đề t́m đối tượng th́ rất khó. Đây là kinh nghiệm của tôi.”
Bà Tôn Nữ Thị Ninh, Chủ Tịch Ban Quản Trị - Trường Đại Học Trí Việt cũng đồng ư với ư kiến của Giáo Sư Hưng. Bà cho rằng khi được tuyển chọn các ứng viên sẽ thích họp với môi trường học tập nhưng con số quá lớn của dự án mới là điều cần phải xem xét:
“Số đông th́ có thể chưa đáp ứng nhưng cái số mà nó đă có hoài băo là phải vươn lên, phải cố gắng đi tiếp cận với khoa học-công nghệ thế giới th́ nói chung là họ thích nghi rất là nhanh.
Ư tôi muốn nói th́ họ qua được nước ngoài, họ chọn một cách nó khách quan và không có chỉếu cố, th́ tôi nghĩ những thanh niên nào mà đă vượt qua được cái sàng lọc đó th́ họ sẽ thích nghi rất nhanh.
Tôi lo cái khâu là bao nhiêu trong số ứng viên, tỷ lệ những người sẽ được chọn trên tổng số ứng viên? Ư tôi muốn nói là những thanh niên nào đă được chọn rồi th́ thảy họ ra biển cả th́ tuyệt đại đa số sẽ bơi rất là tốt và không ít người sẽ bơi xa.”
Những yêu cầu cần có
Sinh ngữ là một yếu tố quan trọng, và trong môi trường huấn luyện sinh ngữ hiện nay th́ bà Tôn Nữ Thị Ninh không kỳ vọng ǵ nhiều vào khả năng của nghiên cứu sinh nếu được tuyển chọn:
“Trên thực tế về cái tŕnh độ tiếng Anh phải chuẩn bị, tại v́ cũng khá nhiều người chuyên môn th́ khá nhưng mà tiếng Anh th́ chưa đủ để mà đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài, và đặc biệt ở những nước mà tiếng Anh là gốc.
Cho nên riêng cái phần đó không sẽ là một nhân tố phải xem xét và xử lư kịp thời. Chớ c̣n nếu cứ lấy như hiện trạng th́ tôi chưa thật tin là có đủ ứng cử viên có thể có ngay lập tức để mà cử đi dù có học bổng sẵn đi nữa.
Cũng phải có một số những yếu tố về phương pháp đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu v́ chắc chắn là phải t́m được trường chứ không phải chỉ là được học bổng là t́m được trường, th́ người ta phải biết nộp một hồ sơ cho thuyết phục, rồi cũng có thể phải qua một vài lớp interview nhất định.”
Giáo sư Chu Hảo đưa ra những đề nghị cho một ư tưởng cải cách triệt để của đại học Việt Nam và từ ư tưởng này, may ra có thể giải quyết phần nào những bất cập hiện tại:
“Muốn có một môi trường học tập thật tốt như vậy th́ cả cái nền giáo dục quốc dân của chúng ta phải được cải cách cho nó triệt để hơn. Trước hết là phải xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân một cách đồng bộ, cân đối, có liên thông, để tạo điều kiện cho công tác nghiên cứu khoa học sau này được tốt.
Bởi v́ không có một nền nghiên cứu khoa học nào dựa trên một nền giáo dục yếu kém được, thế cho nên phải bắt đầu từ việc cải cách hệ thống giáo dục trong nước.
Trên cơ sở đó, đồng thời với việc cải cách ở đại học và ở trong cấp đại học th́ ngoài việc đào tạo những tiến sĩ thực hành th́ chắc chắn là phải có những nghiên cứu cơ bản, và xây dựng một số những trường đại học gọi là đại học nghiên cứu song song với những trường đại học dạy nghề.”
Những ư kiến từ các chuyên gia có lẽ sẽ góp phần thêm vào nhiều phản biện để dự án đầy tiềm năng này có thể thành công trong nổ lực cải tạo và nâng cấp giáo dục đại học hiện nay.
RFA
|