Tác giả |
|
saokhue Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 1 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:16pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tục Kiêng Cữ & Quỉ Thần Trên Đất Lào
Hàn Lệ Nhân
Mỗi người sống lâu năm trên đất Lào dù muốn dù không đều giấu trong tâm linh cùng lúc hai hai niềm tin. Một niềm tin có định nghĩa thoát tục, xa vời : Tôn giáo. Một niềm tin với định nghĩa trần thế, hiện tiền : Dị đoan, mê tín hay tín ngưỡng dân gian. Trên lư thuyết hai niềm tin nầy đă được phân ranh rơ ràng, với hai nội dung, hai h́nh thức và hai cứu cánh khác nhau. Qua dị đoan, mê tín người Lào cầu t́m hạnh phúc và sức khoẻ, sự an toàn và sự bảo bọc trước mắt và tức khắc cho mỗi cá nhân và cho cộng đồng ; c̣n qua tôn giáo ( Phật giáo tiểu thừa nói riêng ), ngoài cứu cánh nói trên, họ cầu một giải pháp tạm thời cho các hệ lụy tâm linh trong đời sống hiện tại tức hiện sinh hay hư sinh đồng thời dự phóng một sinh lộ siêu thời gian, ngoài kiếp người tức siêu sinh hay niết bàn. Trên thực tế tại đất nước Lào, hai niềm tin nầy sinh hoạt bổ túc hài hoà, cởi mở tự nhiên trong tâm linh 6 triệu con người, đến nổi chính họ, trong đời sống hàng ngày hay trong các dịp lễ lạc, hầu như không c̣n băn khoăn bóc tách giữa niềm tin tôn giáo ( thứ Phụt = thờ Phật ) hay niềm tin dị đoan ( thứ Phí = thờ Ma ). Có thể khẳng định mà không sợ lầm lẫn rằng hai niềm tin nầy trên đất Lào có một mối tương quan kỳ lạ tạo nên một cấu trúc tín ngưỡng đặc thù cho đại thể dân tộc Lào (1). Các dịp lễ có tính cách dị đoan như Bun Bang Phay ( Hội pháo thăng thiên, lễ cầu mưa ), Bun Suồng Hưa ( Hội nước, lễ đua thuyền ) … vẫn được tập họp, tổ chức trong chùa ; đa số các vị chủ lễ các nghi lễ chính thức về Phí ( thần, ma …) đều thuộc thành phần phật tử thuần thành : Trước 1975, vua Lào vừa là người bảo vệ giềng mối quốc giáo là Phật Giáo Lào ( Theravada = tiểu thừa hay nguyên thủy ) vừa là người trách nhiệm mọi tế tự đối với các Phí hộ tŕ cho vương triều ; trong chùa vẫn hiện diện các h́nh thức mang ư nghĩa mê tín ; các biểu tượng Phật giáo và các biểu tượng về Phí vẫn được tŕnh bày, nhang khói trong cùng một hang động được cho là Sắc-sít ( thiêng liêng ) … Do đó, khi bàn về tín ngưỡng của dân tộc Lào th́ khó phân định được lằn ranh giữa niềm tin tôn giáo và niềm tin dị đoan, nói rơ là giữa Phật giáo Lào và thế giới thần linh hay Linh Hồn giáo. Khó phân định được lằn ranh không có nghĩa là có sự hỗn độn trong tín ngưỡng của dân tộc Lào mà, theo thiển ư, hiện tượng nầy hàm ư thức tránh trạng thái độc tôn trong tín ngưỡng, hơn nữa phản ánh thật rơ nét nếp sống và tập quán cũng như vũ trụ quan của họ. Nhưng chủ đích của bài nầy, như tựa đề đă nêu, là hạn chế trong vài tục kiêng cữ ( Kh'lăm ) và Phí ( thần, ma, quỉ ) trên đất Lào - bất kể xuất xứ hay du nhập từ đâu - vốn là niềm tin mà trào lưu tiến hoá khoa học cơ giới cho là dị đoan, mê tín hay niềm tin sai lạc với thiên nhiên, cho nên trong bài nầy Phật giáo Lào và cả Linh Hồn giáo ( đa thần giáo ) chỉ được nhắc tới khi thật cần thiết. Đề tài về hai tín ngưỡng nầy sẽ được triển khai trong một bài riêng.
__________________ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
|
Quay trở về đầu |
|
|
saokhue Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 2 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:18pm | Đă lưu IP
|
|
|
Rất nhiều tục kiêng cữ, cấm kỵ ở Việt Nam đă theo bước các bậc trưởng thượng người Việt di cư qua đất Lào từ những năm 1930, 1945 và cho tới ngày nay ảnh hưởng vẫn nguyên vẹn như ở quê nhà. Tóm lại, trong mỗi người Việt - theo bất cứ chính giáo nào - sinh sống tại Lào nói riêng đều giấu thêm trong hồn, ít nhất, một tín ngưỡng như đă nói trên trong tinh thần " nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục " với hai danh xưng khác nhau :
1. Tục cấm kỵ, kiêng cữ mang theo từ quê cha đất tổ.
2. Tục kh'lăm của dân tộc bản địa.
1. Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ VN trên đất Lào
Đầu năm mới :
- Người Việt nói chung đều cẩn trọng trong mọi sinh hoạt v́ sợ bị " giông ".
- Kiêng sự gây gổ, gắt gỏng e gây gổ nhăn nhó suốt năm.
- Kiêng quét nhà sợ tiền tài tẩu thoát theo … rác hoặc cả năm làm ăn khó khăn, ít lợi.
- Kiêng nói tục, chửi thề v́ sợ nói tục, chửi thề quanh năm.
- Trước đêm 30 Tết, con nợ phải lo trả nợ trong năm cho hết, c̣n không phải đi trốn chủ nợ đến giờ giao thừa mới dám trở về nhà v́ sợ bị người đ̣i nợ cả năm. Phần chủ nợ tối 30 Tết phải làm mọi cách để đ̣i cho hết nợ v́ sợ phải đi réo nợ trọn năm. Ca dao có câu " giàu có ba mươi Tết mới hay " là vậy.
- Kiêng ăn mặc y phục màu trắng v́ màu trắng là màu tang tóc. Đầu năm mặc màu trắng, dùng chữ Chết cho là điềm gở.
Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ khác :
- Kiêng gả chồng cho hai con gái liền v́ sợ đứa nầy giành hết lộc của đứa kia.
- Người có đại tang tránh đi ăn cưới, e gây điềm xúi quẩy, không may cho cô dâu và chú rể.
- Kiêng không cho đàn bà có mang ở nơi khác tới sanh trong nhà ḿnh v́ tin rằng Tử lành, Sanh dữ.
- Cha mẹ kiêng không theo đưa con gái về nhà chồng.
- Kiêng không để người chết ở lộ thiên v́ tin rằng chỉ người vô phúc, bất đắc kỳ tử mới chết lộ thiên. Trường hợp ướp và trưng bày xác, người c̣n chút lương tri đều cho là chuyện quái đản, hao tài tốn của thậm vô duyên, phỉ nhổ phong tục tập quán của tổ tiên.
- Khi quàng xác kiêng để cho chó mèo nhảy qua e người chết sống lại và thành quỉ nhập tràng.
- Kiêng dùng vật dụng của người chết để lại.
- Đánh bạc kiêng bị người khác vịn vai, kiêng ăn đầu vịt, cơm khê, kiêng đàn bà chửa ngồi cạnh … e thua.
- Đi chùa kiêng ăn thịt chó.
- Kiêng dùng đồ ăn cắp dâng lễ và không được ăn cắp đồ lễ trước khi cúng (điểm nầy phải hỏi lại các đàn anh trong nhóm Mélia tại SV thuở trước).
- Kiêng cho trẻ con ăn trứng lộn, ăn cơm cháy … sợ trẻ con học ngu. ( toàn thứ khoái khẩu cả ).
- Kiêng cho trẻ con ăn chân gà sợ chúng viết run tay ! ! !
- v.v…
2. Tục Kh'lăm của dân tộc Lào
Kh'lăm dịch nguyên nghĩa ra tiếng việt là Kiêng kỵ.
Từ ngữ kh'lăm đối với dân tộc Lào mang một ư nghĩa sâu rộng đến nổi chưa một người Lào nào dám tự nhận ḿnh thông suốt, cũng như xưa và nay không một người Lào nào, gồm cả những người cộng sản Lào, dám phủ nhận kh'lăm. Những tục kh'lăm - vốn chỉ được khẩu truyền trong gia tộc, làng bản - thường biến thiên theo không và thời gian : Một sự kiện kh'lăm ở Bắc Lào có thể không kh'lăm ở Nam Lào ; điều kh'lăm hôm qua không c̣n giá trị hôm nay, điều kh'lăm hôm nay có thể khác hẳn điều kh'lăm ngày mai. Tuy nhiên ta có thể hiểu kh'lăm là một h́nh thức tự vệ, một sự kiêng kỵ được truyền thừa lại bằng kinh nghiệm và nhân bản bao hàm lợi ích cho chính mỗi cá nhân ; một sự hạn chế tự nguyện trong chính các tự do của mỗi người đối với những hậu quả không hay trong đa số nhũng việc làm và cách hành xử của ḿnh. Không một h́nh luật Lào nào cấm người bản xứ và ngoại kiều quan sát, nhận định, phê b́nh kh'lăm cũng như không có h́nh phạt chế tài cho sự vi phạm tức không tôn trọng kh'lăm, trừ trường hợp sự " không kh'lăm " làm tổn hại đến vật chất, tài sản công và tư nói chung th́ đă có luật pháp.
Do đâu người Lào kiêng kỵ điều nầy, cấm cản điều kia như thế ?
- Sao hôm nay bác không làm việc ?
- Kh'lăm !
- Tại sao tôi không thể vô làng ?
- Kh'lăm !
- Mời thím ăn thử món nầy.
- Cám ơn, kh'lăm…
- Chị có thể cho tôi cầm xem món đồ kia không ?
- Không được, kh'lăm !
- Anh dùng dầu ǵ mà tóc anh mướt đẹp thế, cho tôi sờ tí được không ?
- Không, kh'lăm ...
Kh'lăm ! Kh'lăm ! Cái ǵ cũng kh'lăm ! Bạn sẽ nổi nóng khi gặp cảnh huống nầy, nhưng sự thật là vậy đó. Giữa người Lào với nhau hoặc giữa người Lào và ngoại kiều sinh sống lâu năm trên đất Lào th́ đó là chuyện thường, đôi khi họ c̣n chọc ghẹo nhau trong niềm thông cảm như sau :
" Kh'lăm ? Pạc pàu khen ! Khá lăm ".
( dịch nghĩa: " Kiêng kỵ ? Mồm thổi khèn ! Chân múa ". Khá tiếng Lào có nghĩa là Chân, lăm có nghĩa là Ḥ nhưng ở đây lại ngụ ư là Múa ). Nói rơ hơn đây là cách chơi chữ bằng cách đọc trại chữ kh'lăm ( một chữ, phải đọc nhanh âm kh' / khă ) thành khá-lăm ( kéo dài âm kh' ra thành chữ Khá rồi đọc chữ Lăm ).
- Khi đi qua một làng ( bản ) Lào mà bạn thấy nơi cổng vào làng có một sợi dây kết bằng bông vải giăng ngang hoặc một kư vật, một kư hiệu đặc biệt, tục gọi Tà-léo - tùy địa phương - th́ phải hiểu là dân trong làng nầy cấm ( kh'lăm )người lạ vào làng. Thường là v́ trong làng đang có trường hợp bệnh lạ hay người chết một cách khó hiểu có thể gây sự truyền nhiễm ; hoặc hôm đó nhằm một ngày kh'lăm của làng.
- Khi một người Lào từ chối không ăn một thức ăn nào đó có nghĩa người ấy đă theo lời khuyên của Mó-dà ( thầy lang ) hầu giữ ǵn sức khoẻ cho bản thân hoặc món ăn đó thuộc giới cấm của bửu bối pḥng thân trên người họ.
- Một ngày kh'lăm có thể là một ngày nghỉ ngơi không làm việc, hoặc nhằm một văn-sính ( ngày rằm ).
- Khi một người Lào không bằng ḷng cho bạn sờ mó một đồ vật của họ, có thể v́ món đồ đó là một hiếm dễ khơi ḷng tham, cũng có thể v́ một lư do rất giản dị là đối với người ấy vật kia mang một giá trị tinh thần đặc biệt hoặc món đồ đă được sư sụt môn ( làm phép ) nên không muốn ai khác cầm tới.
- Sờ hay vỗ đầu một người Lào (đặc biệt đàn ông ) không những là một kh'lăm mà c̣n là một sự xúc phạm nặng nề, có thể dẫn tới chuyện ấu đả, đổ máu.
Vài tục kh'lăm khác
- Kiêng hớt tóc, cạo râu ban đêm.
- Kiêng hớt tóc ngày thứ tư v́ là ngày Đức Phật thí phát xuất gia, và kiêng gội đầu ngày thứ năm.
- Kiêng ḅ bốn chân trong rừng e cọp đến.
- Khi lấy xôi trong típ ( giỏ đựng xôi ) phải nhớ đậy nắp lại.
- Luôn luôn chừa lại ít nhất một vắt xôi trong típ, gọi là khoắn típ ( khoắn = viá hay hồn ).
- Kiêng cán một nắm xôi ( lớn ) mà phải dùng một tay cầm nắm xôi, tay kia ngắt ra từng vắt nhỏ và mỗi lần ăn bỏ trọn vào miệng.
- Kiêng nằm ăn uống e biến thành rắn.
- Học tṛ không được ngồi chỗ cao hơn thầy cô.
- Thần dân không được ngồi chỗ cao hơn ông hoàng, bà chúa ( nay là chủ tịch, thủ tướng … )
- Phật tử không được ngồI cao hơn tăng ni.
- Vợ không được ngồi chỗ cao hơn chồng.
- Vợ chồng không nằm chung giường trong ngày sinh nhật của một trong hai người.
- Vợ phải đi ngủ sau chồng, thức dậy trước chồng.
- Con cái không được ngồi chỗ cao hơn cha mẹ.
- Khi ngủ không được hướng đầu về phía cửa ra vào.
- Không được mang người chết vào nhà, dù là thân bằng quyến thuộc.
- Không giă cối trống.
- Đàn ông không chui qua dây có phơi quần áo đàn bà.
- …
Ngoài những điều kh'lăm thông thường trên, trong tâm linh người Lào c̣n điều quan trọng khác, đó là niềm tin vào Phí ( thần, ma, quỉ ).
Phí trên đất Lào
Người ngoại quốc nói chung, người Việt nói riêng, thường hiểu và dịch một cách giản đơn chữ Phí thành ma quỉ. Ư nghĩa chữ Phí không đơn giản như vậy. Phí theo quan niệm Lào gồm nhiều nghĩa : là yêu ma, quỉ quái, thần thánh, tà tiên, âm binh, âm tướng, oan hồn,uổng tử … và nhiều thứ khác gom lại. Tín ngưỡng dân gian Lào, theo soạn giả, chia thế giới thần linh làm ba cấp :
1. Thiên Sứ như Thén Phra Khun, Thén Tèng, Thén Lổ, Nang Thorani …Thén nghĩa là Trời.
2. Địa Sứ gồm các Phí Hặc Sá như Phí Mương, Phí Bản, Phí Hươn … là các thần tổ tiên hộ tŕ thôn bản, dân cư, gia tộc.
3. Nhân Sứ gồm các Phí Haài như Phí Pọp, Phí Kong Koi … là các ma quỉ, yêu quái biến thái từ con người trần tục.
Tín ngưỡng dân gian nầy thường được tập chung vào danh xưng Linh Hồn Giáo.
Giáo Hội Phật Giáo Lào ( PGL ) không chính thức công nhận Linh Hồn Giáo Lào( LHGL ) như một tôn giáo v́ LHGL không có thánh địa, không có giáo chủ, không có giáo lư, giáo luật cố định trên giấy trắng mực đen ; không đề ra một cứu cánh tối thượng hay chân lư sau cùng như PGL , song như đă nói trên, cho tới nay, 2005, LHGL vẫn cọng tồn song hành trong tương dung, hài hoà với tín ngưỡng PGL hệ tiểu thừa vốn là quốc giáo của người Lào từ nhiều thế kỷ, nhưng măi đến khi giành lại được nền độc lập từ thực dân Pháp và qua bản hiến pháp ngày 11 tháng 5 năm 1947, được tu chính trong tháng 3 năm 1965, PGL mới đưọc hợp hiến thành quốc giáo. Phải chăng sự tương dung, tương kính nầy là hạt nhân hiếm quí mà kết quả cụ thể không thể phủ nhận là sự khác biệt giữa con người Lào và con người ở các quốc gia lân cận mỗi khi có khúc rẻ nghiệt ngả trên con đường Lịch Sử mang danh cách mạng.
Phật Giáo Lào - như ở mọi nơi khác - trên phương diện thế tục, tập trung và xuất phát từ chùa và tăng già, biểu tượng tôn kính duy nhất là Đức Phật dưới nhiều h́nh tướng khác nhau. LHG nói chung thường được thể hiện trong các thôn làng, rải rác theo các h́nh thức ước lệ như Hó ( miếu ), Thạt ( tháp ), Phu ( núi ), Pà ( rừng ) hoặc Hín Nhày (Tảng Đá ), Tổn Mảy ( gốc cây ) … và Mó Phí , Mó Phon ( phù thủy, ông đạo, pháp sư, bà đồng…) độc lập.
Chú thích
(1) Trong bài nầy, ba từ " dân tộc Lào" là để chỉ định bộ tộc ( Phầu) Lào, 1 trong 68 bộ tộc hiện diện ở Lào. Bộ tộc Lào là bộ tộc đông người nhất và là bộ tộc chủ thể, tương tự người Kinh trong số 54 bộ tộc ở VN. Xem thêm chú thích trong Trinh Nữ bài Đám Cưới Lào Đám Cưới Việt, Bùa Ngải Trên Đất Lào cùng một soạn giả.
C̣n tiếp
__________________ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
|
Quay trở về đầu |
|
|
saokhue Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 3 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:21pm | Đă lưu IP
|
|
|
Khi bạn hỏi một người Lào : " Ma là ǵ, có thật hay không ( Phí mèn nhắng, mi thẻ lứ ḅ ? " . Họ sẽ thành thật trả lời : " Cũng không biết nữa ( kà ḅ chắc léo ) hay chằng-và là nơ ( th́ thế ). Câu trà lời thứ nh́ có ngụ ư Có và Không, tức bạn muốn hiểu sao th́ hiểu hay nếu muốn, tùy hoàn cảnh để mà hiểu. Khi bạn hỏi họ đă từng thấy ma ( phí ) chưa mà họ có vẻ hốt hoảng trả lời bạn bằng mấy tiếng " hoày ( oái ) " hay " dzồ ( ồ ) " th́ bạn nên tế nhị, lịch sự ngừng ngay việc đặt câu hỏi. Mấy tiếng " hoày ", " dzồ " là một cách biểu lộ sự … kh'lăm của họ !
Họ không thể hoặc không muốn giải thích cho bạn nhưng tựu trung Phí đối với họ là tất cả hay không là ǵ hết ; hoặc bất cứ một đồ vật, một h́nh tướng nào cũng có thể tiềm ẩn một linh hồn, một loại Phí với một tên gọi riêng biệt :
Nhận Diện Các Phí
1. Phí Koong Koi ( Ma Koong Koi )
Phí Koong Koi : Ma cô độc, ma rừng núi … thích ăn ruột, gan, ḷng thú và … người sống.
Phí Koong Koi thường xuất hiện ở miệt Trường Sơn biên giới Lào-Việt dưới dạng một người (đàn ông hay đàn bà ) thấp nhỏ, cao độ 1 thước 20 phân, tóc hung hung đỏ, đi chân không. Phí Koong Koi có hai bàn chân khác thường, ngược chiều : Gót ở phía trước, các ngón chân ở phía sau ! Tên Koong Koi là một nghĩ-thanh-từ ( onomatopée ) v́ theo những người sinh sống trong rừng sâu kể lại, vào khoảng 3, 4 giờ sáng Phí Koong Koi thường kêu lên " koong koi, koong koi ", đó là tín hiệu Phí Koong Koi ngưng cuộc săn mồi hàng ngày và sửa soạn trở về sào huyệt. Nhưng sau mấy tiếng " koong koi, koong koi " lại đệm thêm tiếng " koóc " ngắn gọn th́ phải coi chừng, đó lại là tín hiệu cho biết Phí Koong Koi đă chụp được một con mồi ( người ). Khi nghe tiếng kêu " koong koi, koong koi " người ta dạy là tuyệt đối không được ngủ và phải đốt lửa lên thành ngọn. Mó Koong Koi là thầy phù thủy chuyên môn săn bắt Phí Koong Koi.
2. Phí Pọp
Phí Pọp là loại ma thâm trầm độc ác, người Việt gọi Phí nầy là Ma Lai hay Ma Chài. Có hai loại Phí Pọp :
A. Pọp Môn ( pọp phép ) : xuất xứ từ những người b́nh thường như mọi người b́nh thường khác nhưng, một buổi đẹp trời được " khải thị " sao đó bèn ôm mộng có quyền phép siêu nhân, t́nh nguyện giữ giới để tu luyện bùa ngải ( khoóng đ́ ) như phép gồng ( môn khôông ), phép lặn lâu ( môn suột nảm )…v.v…(1) rồi v́ không chuyên hay không kiêng cữ ( không kh'lăm ), phạm giới này nọ bùa ngải mới tác quái biến họ thành Phí Pọp. Trường hợp bị dị ứng nầy có thể so sánh với trường hợp bị tẩu hoả nhập ma của các nhân vật vơ hiệp của Kim Dung, của Ngoạ Long Sinh, của Cổ Long … khi họ bất cẩn trong thời gian luyện tuyệt chiêu kiếm pháp hay bí kíp thất truyền.
B. Pọp Sưửa (pọp gia truyền ) : khi người cha Phí Pọp chết đi, Phí Pọp trong xác ông có thể xuất ra, rồi t́m nhập vào một người con hay một người trong quyến thuộc.
Đặc điểm của Phí Pọp được di lưu như sau :
- Dáng cách lừ đừ, mắt đỏ ngầu lại láo liên thường trực, hay nh́n xuống đất không dám nh́n thẳng vào mặt người đối diện v́, theo truyền thuyết, trong hai tṛng mắt của họ có h́nh hai chú khỉ tí hon lộn ngược !
- Phí Pọp khoái " vô " đàn bà, trẻ con để … rút ruột.
3. Phí Phôông
Phí Phôông : Ma thích ăn thịt sống.
Hầu như người Lào nào cũng sợ Phí Phôông. Tại sao ? Có ǵ đâu, từ thuở c̣n nằm ngửa trong nôi trẻ con Lào đă " được " mẹ hiền đem hai tiếng Phí Phôông ra làm ngáo ộp, mỗi khi chúng mè nheo, mít ướt : Nín đi con, không th́ Phí Phôông đến đấy ! Phí Phôông thích hút nước mắt trẻ con lắm đấy !
Cũng như Phí Pọp, Phí Phôông là loại ma ẩn thân trong một người chơi bủa ngải nhưng phạm giới. Khi lên cơn, nó có hai luồng lân quang tḥ ra thụt vào từ hai lỗ mủi, khi tắt khi tỏ trong đêm tối. Phí Phôông không khoái nước mắt mà chỉ khoái những thức tanh hôi, dơ dáy, đồ thừa thiu thối và cả các ếch nhái chẩu chàng… nên đêm khuya nó đi lùng kiếm ăn ở các thùng rác, các ao tù và nhất là hay vô các làng bị bỏ hoang, do đó mới có câu thành ngữ :
" bản hảng dà vè, sáo kè dà chả "
nghĩa là :
" Làng hoang đừng ghé, gái già đừng ve ".
Đến khi chết đi, " hồn " Phí Phôông langthang t́m kiếm một chỗ " trú thân " khác. Nếu có một người nào đó chẳng may bị chết dữ mà Phí Phôông biết được, " hồn " nó sẽ nhập vào hồn kẻ xấu số, tức khắc hai hồn nhập một đó sẽ tự động biến thành Phí Phai. Do đó, khi một người có Phí Phôông trong thân chết đi người ta gom tất cả các bùa ngải của đương sự mang tới giao cho các sư trong chùa để các vị nầy làm phép giải, phép yếm.
Khắc tinh của Phí Phôông là Mó Phôông.
4. Phí Phai
Phí Phai : Loại ma thích hút máu tươi, một thứ ma cà rồng nhưng hiện h́nh dưới dạng gà hay chim đêm lông trắng, vỗ cánh bay lượn dưới chân những ai hay thơ thẩn một ḿnh ở các nơi vắng vẻ hay ở các nhà xác.
Khi Phí Phai chết đi sẽ biến thành Xáng tức loại ma ghê gớm, hung ác hơn cả cọp, nói một cách khác, Xáng là loại ma ở cấp hai tức Ma của Ma. Nhưng theo truyền thuyết, Ma Xáng không c̣n lai vảng gần chúng sinh nữa, may thay ! Thành ngữ Lào có câu :
" Phí Xáng haải phôộc chọp kin ván
Ḅ tḥ khôn hau lón loọc kin kăn thẻ ".
Nghĩa là :
" Ma Xáng hung ác lại ŕnh ăn ngọt
Đâu bằng con người lọc lừa để ăn nhau thật "
Thầy phù thủy trị Phí Phai tục gọi là Mó Phai.
5. Phí Nha Vay
Đây hẳn là một loại Ma đă tuyệt giống, các tự điển Lào chính thức nói chung vắng mặt tên Phí Nha Vay, mà quí vị Mó Phí dày kinh nghiệm cũng không biết tới, dù đă cố công truy t́m trong các tài liệu nghiên cứu về nhiều loại Phí soạn bằng văn tự cổ sơ. Ông Serc Voravongsa miêu tả Phí Nha Vay như sau :
" Phí Nha Vay hiện thân dưới dạng một con vượn bạch tạng, mặt lọ khổng lồ, di chuyển từ cành cây nầy qua cành cây khác bằng tứ chi dài ngoằng. Bạn lỡ gặp Phí Nha Vay điều cần tránh là đừng bao giờ ngó thẳng vào mắt nó v́ nó cho đó là sự trêu chọc, khiêu khích ; dù có súng tốt cũng đừng manh tâm bắn nó, chỉ tổ làm nó điên tiết, tàn nhẫn hơn. Có một cách để giết Phí Nha Vay là dùng Ngua-tha-nu ( bùa ngải h́nh ḅ mộng ) phóng vào đầu nó. Nhưng sau khi chết nó sẽ biến thành ǵ ?" Đố bạn đọc đấy.
6. Phí Phệt
Phí Phệt là loại Ma duy nhất được Phật giáo Lào công nhận như một hiện hữu chính thức, cho đó là các vong linh của những kẻ lúc sinh thời tạo nhiều nghiệp dữ ( kằm haải ), gây nhiều tội ác ( hệt bạp ), nên sau khi chết hồn không được siêu thoát mà phải vất vưỡng trầm luân để trả nghiệp ( sảy kằm ), đền tội ( sảy bạp ). Phí Phệt thường hiện h́nh dưới nhiều loại bóng khác nhau, kỳ dị và dễ sợ nhưng không dọa người, không ác độc. Hàng năm vào 14 hạ tuần tháng 9 Lào (tháng 8 d.l.) người Lào tổ chức bun " Ḥ Khậu Pă Đắp Đinh " và ngày trăng tṛn tháng 10 Lào ( tháng 9 d.l.) th́ tổ chức bun " Ḥ Khậu Sà Lặc " tức hai ngày lễ chính thức dành cho người quá cố, dĩ nhiên Phí Phệt cũng có phần ; tương tự mỗi rằm tháng 7 tức lễ Vu Lan người ḿnh tổ chức lễ xá tội vong nhân, lễ thí thực cô hồn, lễ phóng sinh, lễ cầu siêu cho oan hồn uổng tử chóng được siêu thoát, tái sinh...
Đối với Phật giáo Lào mọi Phí đèu là Phệt tức mọi thứ Ma đều có thể tái sinh làm người rồi sau cùng thành Phật. C̣n người Lào - Phật tử hay không - th́ phân loại rơ ràng : Có loại ma hiền lành, tốt bụng ; có loại ma hung dữ, ác độc. Loại ma hung dữ ác độc ( phí chày haải )th́ xin miễn dài ḍng. Loại ma lương thiện, tốt bụng ( phí chày đ́ hay thevada, tạm dịch là Thần) gồm bất luận phí hộ tŕ nào bảo vệ ruộng nương, thôn làng cho họ hoặc phí nào hoan hỷ đáp lại nào cầu xin, nào nguyện vọng của họ như tiền của, may mắn, đỗ đạt, danh vọng, trường thọ ... ; số đề, số lô-tô, v.v... Dĩ nhiên, khi cầu xin thân chủ không quên hứa khả với Phí chày đ́ là nếu được - một phần - như ư họ sẽ làm bun ( lễ ) thật long trọng trong chùa, hồi hướng công đức ; trường hợp là Phí Phệt th́ có thể sớm đi đầu thai. (1)
7. Phí Mương
Phí Mương là Phí chày đ́ ( ma lương thiện ) có nhiệm vụ bảo vệ cho cả tỉnh ( mương ) và các vùng phụ cận. Phí Mương không có mẫu h́nh tượng và miếu thờ ( Hó ) nhất định mà tùy sự diễn đạt của từng địa phương. Phí Mương tại cố đô LuangPrabang được thờ cúng trong 12 ngôi Hó, v́ dăn ở đây tin rằng Phí Mương có phép biến hoá thành nhiều vị, đứng đầu là các Thê Va Đa Luống ( Thevada = thần thánh, luống = lớn ) gồm hai vị tổ tiên của dân tộc Lào tục gọi Pu Nho Nhà Nhơ, tương tự Âu Cơ và Lạc Long Quân bên ta, sau đó là các vị vua ( chẩu si-vít = chủ sinh linh ) sùng tín tín ngưỡng nầy.
Thời quân chủ Lào ( trước 1975 ), tại cố đô LuangPrabang song song với Phí Mương c̣n có Lắc Mương ( cột trụ trấn tỉnh ). Có ba huyền thoại về Lắc Mương được kể lại như sau :
A. Một ngày kia, nhân xuống tắm dưới sông Nam Khan ( chi lưu sông Mékong, LuangPrabang ), một lăo bà bắt gặp một thân cây đàn hương màu đỏ, do linh cảm bà biết đây là một thánh vật bèn vớt lên và đem trồng. Khi mọi người vừa đào xong hố để trồng thánh vật th́ một thiếu nữ trong làng, cũng do linh cảm muốn kết duyên với vị thần mới nầy, nhảy xuống để được chôn theo chồng hầu chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ số phận của tỉnh.
B. Lắc Mương là một trong bốn cột trụ do hai vị ẩn sĩ cắm xuống đất để phân ranh lập kinh đô trong tương lai ( LuangPrabang ).
C. Năm 1563, để tránh sự ḍm ngó của Miến Điện, vua Setthathirat quyết định chọn Vientiane làm kinh đô mới - kinh đô cũ là LuangPrabang - cho Vương Quốc Lản Xảng, tên cũ của nước Lào. Trong khi vua và quần thần đang sửa soạn để trồng cây Lắc Muơng th́ có một thiếu phụ tên Sáo Sí đang mang thai, do linh cảm hay được khải thị sao đó, nhảy xuống theo và hiển linh thành thần hộ tŕ của kinh đô Vientiane. Ngày nay tại Vientiane vẫn c̣n dấu tích, đó là phường Sí Mương ( Sí Mương = Tỉnh của bà Sí ), Vặt Sí Mương ( chùa trong tỉnh của bà Sí ) và Hó Mè Sí Mương ( miếu thờ Mẹ Sí ).
8. Phí Bản
Phí Bản c̣n được gọi là Phí Hặc Sá Bản ( Ma hay thần bảo vệ thôn làng ) hay Phí Hặc Bản ( Ma hay thần yêu thôn làng ). Phí Bản có một đặc tánh rơ nét, chính xác hơn Phí Mương v́ thôn làng ở Lào thường có lối sinh hoạt tự trị, giữ vững bản sắc của ḿnh, ít bị chi phối bởi trung ương. vai tṛ của Phí Bản là bảo vệ đất thôn đất làng, đồng thời bảo đảm sự thịnh vượng vật chất cho dan thôn, dân làng, sức khoẻ và sự trường tồn của con người và gia cầm. Chỗ thờ phượng Phí Bản thường là một cái miếu nhỏ bằng gỗ tục gọi là Hó Phí Bản nằm trên một lùm cây ven làng. Người Việt gọi Phí nầy là Thành Hoàng hoặc Định Phúc Thần.
9. Phí Khun Vặt
Hầu như mỗi chùa Lào đều có một Phí Khun Vặt ( thần chùa ) tức vị hộ pháp bảo vệ chùa mà biểu tượng dĩ nhiên là Đức Phật. Hó Phí Khun Vặt là một bàn thờ nhỏ thường do một người thế tục chăm nom việc nhang khói, cúng đơm. Chùa Việt nhiều nơi có thờ hai tượng hộ pháp là ông Khuyến Thiện và ông Trừng ác hoặc Tam Châu Hộ Pháp tức Vi Đà Thiên tướng quân, một vị thiên tướng tuân sắc chỉ của nhà Phật hộ tŕ Phật-Pháp trong ba châu : Đông châu, Tây châu và Nam châu.
10. Phí Hươn
Phí Hươn ( Thần hay ma nhà ) có nhiệm vụ cai quản và bảo vệ gia quyến, nhà cửa cho tín chủ, có tầm quan trọng ngang với Phí Bản. Có thể nói Phí Hươn là một loại Phí hợp thể giữa Phí Bản ( thổ công ), Lắc Mương ( cột trụ trấn tỉnh ) và Phí Pù Tà ( vong linh các tổ tiên ) của gia chủ. Hó an vị Phí Hươn thường được đặt ngay cửa chính trong nhà hoặc cạnh cầu thanh lên nhà sàn. Người Lào tin rằng nhờ Phí Hươn mà các Phí Haải ( ma ác ) không xâm nhập quấy phá, làm hại những người trong nhà. Do đó khách đến viếng và ngủ lại nhà người Lào phải làm lễ xin phép Phí Hươn, đặc biệt chú rể mới, trước khi chính thức về nhà cha mẹ vợ, phải nhớ mang lễ vật tới cúng Phí Hươn.
Việt nam có câu " đất có thổ công, sông có hà bá ". Thổ công Việt, Phí Hươn Lào đều là đệ nhất gia chi chủ của bên nầy hay bên kia núi Trường Sơn.
Chú thích
(1) Bên Pháp, chính phủ đứng chủ cái rất nhiều tṛ chơi cờ bạc, ví dụ Loto là lối chơi mà người chơi chọn 7 trên 49 số, từ 1 đến 49. Chỉ cần 6 số trúng cũng đă đủ lănh lô độc đắc đôi khi lên tới 2,3 chục triệu Euros, nhưng để viết bài nầy, chính tôi đă chứng kiến một buổi hầu đồng tại vùng phụ cận Đông Paris, có tín chủ người Lào rất thành khẩn xin Khun Pḥ ( cha, một vị ma thiện ) giáng khẩu cho đủ 7 số trúng ! Chắc ăn mà.
C̣n Tiếp
__________________ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
|
Quay trở về đầu |
|
|
saohom Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 4 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:27pm | Đă lưu IP
|
|
|
Theo lẽ c̣n một số thiên sứ mang h́nh ảnh Ấn Phật mà người Lào rất sùng kính như Phra In ( Thượng Đế ), Phí Thén, Phí Phrả ( Trời ), Nang Thorani ( nữ thần đất ), Thén Tẻng hay Pissanoukan ( thần mỹ thuật ), Thén Lổ ( thần chủ tŕ việc hợp nhất và tổ chức nhân quần ) v.v... và có thể lạm bàn liên miên về vô số Phí thuần Lào khác trên đất Lào như Phí Đôồng ( ma đồng ), Phí Pà ( ma rừng ), Phí phửm ( ma núi ), Phí Pủ tà ( tổ tiên, ông bà ), Phí Pḥ ( cha ), Phí Mè ( mẹ ) ... song thiển nghĩ như trên cũng tạm đủ để hiểu sơ về Phí, nhất là tạm đủ để h́nh dung tiềm năng tưởng tượng dồi dào của người Lào trong quá tŕnh tạo ra thế giới Phí của riêng họ, trên đất nước họ, trong cuộc sống và lẽ sống của chính họ mà xét ra c̣n thật hơn thế giới - nghe nói và chỉ mới nghe nói sẽ đồ sộ huy hoàng - mà một nhúm người đă và đang tàn tâm, tàn lực mộng mơ. Dân số Lào quá ít lại quá đôn hậu để có thể thử thách lâu hơn nữa trong việc tạo dựng thế giới đồ sộ huy hoàng viễn mơ nầy. Cũng như ở hải ngoại, chuyện bán đất trên trời trong cộng đồng tị nạn đă đi trước cơ quan NASA của Hoa Kỳ những hai, ba mươi năm nay. Đa số rao giá cả là tùy hỉ, tùy tâm. Bán đất trên trời để ganh đua phóng lao tạo dựng những cơ ngơi nghênh ngang dưới đất vốn chính họ cho là cơi ta bà cát bụi, huyễn mộng, hư không ... :
Thằng Tây là kẻ có thừa,
Dù cho ngần ấy vẫn chưa thấm ǵ.
Chúng sinh là kẻ mê si,
Quẳng đi cái có khổ v́ cái không.
( nhái Nguyễn Chí Thiện )
Thời điểm tổ chức nghi lễ cúng Phí
Thời điểm tổ chức các nghi lễ cúng bái các Phí nói chung thường tùy địa phương và tùy hoàn cảnh đặc biệt. Đơn cữ Bun Xuồng Hưa ( lễ đua thuyền ) : Ở cố đô LuangPrabang lễ nầy được tổ chức hai lần vào tháng 7 - 8 và tháng 10-11 d.l., trong khi tại Vientiane và Champassak lễ nầy được tổ chức mỗi năm một lần nhằm tháng 10 d.l., và dĩ nhiên nghi thức tổ chức của ba cựu vương triều nầy đều có nhiều dị biệt.
Trên phương diện quốc gia, thời điểm quan trọng nhất trong năm để hành lễ hồi hướng các Phí hộ pháp được gọi là Tháng Phí, uyển chuyển giữa tháng 5 và tháng 6 d.l., cọng thêm các buổi lễ thường niên được phối hợp chặt chẻ với các lễ Phật giáo, chẳng hạn Bun Pimay ( Tết Lào ), Bun Phr' Vệt hay Bun MahaSaạt ( ngày Đức Phật qui thăng nhập Niết Bàn ) ; Bun Băng Fay ( lễ cầu mưa ) ; Bun Oọc Vặt Sá ( Oọc = ra khỏi, Vassa theo tiếng Phạn = mưa, oọc vặt sá = ra khỏi mùa mưa và cũng có nghĩa là hết mùa cấm pḥng của tăng ni ) ; Bun Xuồng Hưa ( lễ đua thuyền ) ; Bun Thạt Luống ( Hội Chợ That Luang ) ...
Các vị chủ lễ
Theo chỗ biết của tôi, danh từ Mó trong Lào ngữ có hai nghĩa, với hai giá trị khác nhau, tùy hoàn cảnh mà ứng dụng. Theo nghĩa thông thường, từ Mó là một tiếp-đầu-ngữ ( préfixe ) để chỉ sự khéo léo, chuyên môn trong một nghành nghề, chẳng hạn :
Mó Khen = Người biết thổi Khèn.
Mó Khoam = Người sinh nhai bằng lời nói = luật sư, trạng sư.
Mó Lăm = Người chuyên ngâm, ḥ thơ văn dân gian, xuất khẩu thành câu, thành cú.
Mó Sói = Người hay nói diễu, chọc cười thiên hạ.
....
Mó Dà = Thầy lang, thầy thuốc.
Mó Đù = Thầy bói.
Mó Môn = Thầy bùa, thầy ngải.
Mó Phí = Thầy trừ Ma, Thầy nuôi ma ; phù thủy, pháp sư.
Mó Phon = Người rành nghi thức cúng bái trong các buổi lễ su-khoắn (1) hay trong các buổi lễ cầu đảo.
Mó Thiêm , Nang Thiêm hay Mè Thiêm = Người lên đồng : Đồng cô, dồng cậu.
....
nhưng khi ta nói Mó nỉ, Mó nẳn th́ nghĩa lại khác, trường hợp nầy Mó là biệt từ để chỉ định ngôi thứ ba, vừa đdàn ông vừa đàn bà, chẳng hạn :
Mó nỉ = Anh nầy, cậu nầyn chị nầy, cô nầy.
Mó nẳn = Anh kia, cậu kia, chị kia, cô kia.
̀ mó nỉ = cái cô nàng nầy, cái con nầy.
Bặc mó nẳn = cái anh chàng kia, cái thằng kia.
v.v...
Mười vị Phí mà chúng ta đă lạm bàn, vị số 1 đến vị số 5 thuộc loại Phí haải tức Phí ác ; vị thứ 6 là Phí phi thiện, phi ác ; 4 vị sau cùng thuộc loại Phí Chày Đ́ nghĩa là Phí lương thiện, cũng có thể gọi là Phí Hộ Tŕ. Đối với các Phí Ác th́ có các Mó như Mó Koong Koi để trị Phí Koong Koi, Mó Phệt để trị Phí Phệt, v.v... C̣n đối với các Phí Hộ Tŕ cũng có các loại Mó, song mục đích của họ là chủ lễ các buổi cúng bái, cầu nguyện thể hiện ḷng tin lên các Phí Hộ Tŕ : Mó Mương lo việc cúng bái cho Phí Mương, đôi khi phải trực tiếp hay gián tiếp làm trung gian qua ngả Thiêm ( lên đồng ) giữa Phí Mương và dân trong Mương. Mó Bản lo việc Phí Bản... nhưng, v́ trong một Mương, một Bản nhiều khi có đến mấy Mó cùng nghề thành thử các phù thậu, phù kè ( Hội đồng bô lăo ) trong Mương, trong Bản mới chọn lựa ra một Mó dày kinh nghiệm, cao tay nhất và là phật tử thuần thành, bầu lên làm Mó trách nhiệm, gọi là Chảo Cham. Chảo Cham hay Cham có trách nhiệm đại diện cho cả Mương hay cả Bản mỗi khi có cuộc tế tự chính thức long trọng ( tháng phí chẳng hạn ) hoặc gặp những trường hợp khó khăn, trục trặc mà các Mó non tay ấn giải quyết không xuôi, Chảo Cham mới can thiệp làm trung gian như đă nói trên.
Các Mó lên đồng tục gọi là Nang Thiêm ( đồng cô ), Mè Thiêm ( đồng bà ) - miệt Nam Lào gọi là Mè Lăm - Mó Thiêm ( đồng cậu, đồng ông ). Đặc điểm của họ là lên đồng th́ không cần nói ta cũng hiểu là họ có cách để tiếp xúc với giới vô h́nh tức các Phí nói chung. Quan hệ giữa họ và Chảo Cham thường thay đổi tùy địa phương. Ở miền Nam Lào, Mè Lăm nào tiếp xúc nhiều với các Phí Hộ Tŕ như Phí Mương, Phí Bản được sắp hàng đầu, Chảo Cham là trung gian giữa Mè hay Mó Thiêm và tín hữu. Tại đồng bằng Vientiane, Mè Thiêm là phụ tá của Chảo Cham.
Có ba trường hợp để trở thành Mó Phí, Mó Phon ... nói chung :
1. Tự nhiên mà thành, ta gọi là " bẩm sinh ".
2. Theo thầy tu luyện
3. Sau một biến cố quan trọng như trường hợp dưới đây.
Một cảnh so tài giữa Phí Pọp và Mó Phí
Người Lào dùng động từ Khậu ( vô ) để chỉ t́nh trạng một người bị Phí chiếu cố ( Phí khậu ). nạn nhân của Phí Pọp thường là trẻ em, người đang dưỡng bệnh, đàn bà con gái mới trả xong món nợ hàng tháng ... Nhưng xét cho cùng vấn đề giống đực, giống cái cũng như chuyện đẹp, xấu của đối tượng không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để Phí Pọp " vô ", điẻm quan trọng tối hậu của sự chiếu cố là lối " ra " trên thân thể của nạn nhân.
Chị A là người Việt sinh trưởng tại S., Lào. Gia đ́nh chị ở trong xóm gồm đa số người Lào. Năm ấy chị đă trên 40, tánh t́nh cĩng nóng nguội thất thường như trăm vạn người khác, chồng con đă nên nề nên nếp, chỉ cái tội máu ham đen đỏ hơi lậm. Một ngày nọ, thần đen đỏ ám chị sao đó nên chị thua đậm, trở về nhà chị u uất, buồn bực v́ lo chồng biết. và trong lúc chị đang lui cui sửa soạn buổi cơm tối cho gia đ́nh th́ có một bà cụ hàng xóm người Lào qua " mượn " chị chén nước mắm. Đang bực ḿnh v́ thua bạc lại có người đến xin khéo nầy nọ, không những chị không giúp bà cụ mà c̣n nhân cơ hội giặn cá chém thớt, gay gắt, xéo xỉa bà cụ nặng nề. Bà cụ nín thinh, hai tay nắ chặt cái chén như mốn bóp tan nó ra trăm mảnh, hai mắt mở thao láo ra nh́n trân chị A, mấy phút sau bà cụ vừa gục gặc đầu vừa cười gằn một tiếng rồi bỏ về...
< Tối ấy, cơm nước xong mấy đứa nhỏ trong nhà qua nhà ông bà ngoại chơi, trong nhà chỉ c̣n hai vợ chồng. Vào khoảng 9 giờ, tôi - chồng chị A - xuống bếp t́m cái gạt tàn thuốc th́ thấy nhà tôi ngồi thừ người trên ghế đẩu, chén bát bữa cơm tối c̣n ngổn ngang trong chậu. Theo thói quen, tôi hỏi nhà tôi :
- Hôm nay lại " cháy " nữa chứ ǵ ?
Nhà tôi không đáp. Tôi hỏi lại. Nàng vẫn ngồi im. Tôi lập lại câu hỏi thêm lần nữa, hơi gắt giọng. Bất th́nh ĺnh, nàng ngước đầu lên nh́n tôi, ánh mắt gờm gờm, khiêu khích, môi mím chặt nhưng vẫn không trả lời. Tôi bắt đầu nổi nóng :
- Đă nói hoài, đừng chơi với mấy con mụ cờ bạc gạo đó, thời buổi khó khăn mà cứ đem tiền đi nướng ...
- Bộ một chén nước mắm đắt lắm hay sao ?
- Vợ tôi trả lời bằng tiếng ... Lào, giọng khàn khàn.
- Không đắt không rẻ nhưng không tiền lấy ǵ mà mua ?
Tôi vẫn dùng tiếng mẹ đẻ.
- Mả cha mầy, chỉ một chén nước mắm mà mầy lại chửi tao thậm tệ. Đồ khốn kiếp, tao cho mầy chết ...
Nghe vợ tôi nói - vẫn bằng tiếng Lào - tôi khựng người b=v́ lần đầu tiên nàng cả gan mở miệng chửi cha tôi, tôi nghe như máu chạy lên đầu, dùng tiếng Lào :
- Cái ǵ, mụ vừa nói cái ǵ ? Đă nướng hết mồ hôi nước mắt của tôi lại c̣n già hàm hỗn láo, tôi lại cho mấy bạt tai rụng hết răng bây giờ ...
- Tuổi tao c̣n lớn hơn tuổi cha mầy mà dám bảo là tao hỗn láo ? Rụng hết răng ? tao c̣n răng đâu mà rụng ...
Nói xong, vợ tôi nghiến răng trèo trẹo rồi cười rú lên xằng xxạc. Tôi để ư càng lúc giọng vợ tôi càng ồ như tiếng đàn ông. Tôi chưa kịp nổi doá th́ bất thần nàng tụt quần xuống :
- Bạt tai cái con c. tao đây nầy !
- ! ! !
Sống gần gũi người Lào từ thuở lọt ḷng mẹ, lại từng biết qua nhiều chuyện huyền bí của họ, tôi cảm thấy có điềm ǵ không ổn và bắt đầu hoảng :
- Bà là ai ?
- Đi hỏi con vợ khốn nạn của mầy !
- Đến đây tôi biết ngay là nhà tôi đă bị Phí khậu, tôi hoàn toàn mất hết b́nh thỉnh, phóng ra khỏi bếp, tung cửa chạy qua nhà ông à nhạc, mồm hét cầu cứu vang cả xóm ...
Đêm ấy người Việt, người Lào trong xóm kéo nhau qua chật cứng nhà tôi. Trong thời gian tôi chạy ra cầu cứu với làng nước, không biết " vợ " tôi làm cách nào mà leo lên giường được, nằm quay mặt vào tường. Ai hỏi ǵ vợ tôi hay con Phí cũng nín thinh. Đưa nước cho nó, nó không uống mà đ̣i rượu trắng ; đưa cơm nó đ̣i xôi và Pà-đẹc ( một loại mắm cá của Lào ), lại đ̣i hút thuốc lá, đúng hiệu A đèng ( chữ A đỏ ) ... và nhiều yêu sách càng lúc càng kỳ quái khắc hẳn thói quen của vợ tôi. Mọi người đều đồng ư con Phí " vô " vợ tôi là Phí đàn ông , nhưng chưa biết đích xác thuộc " Phí " ǵ. Có vài người bạn t́nh nguyện ngủ lại.
Sáng hôm sau nhằm thứ tư, tôi xin nghỉ việc, ở nhà với mấy người bạn ngủ lại đêm qua, canh chừng nhà tôi, thấp thỏm chờ anh B rước ông thầy pháp tên C đến. Ông C là một việt kiều gốc Quảng B́nh, thợ may kiêm nghề pháp sư, chuyên chủ lễ các buổi cúng cháo, cúng sao, lập đàn giải hạn cho các tín hữu việt kiều trong tỉnh S. (2)
Đang gắt gỏng, hoặn hoẹ đ̣i hỏi đủ điều, bất ngờ A - vợ tôi hay con Phí - ngưng bặt, lẳng lặng nằm xuống giường, quay mặt vô tường, kéo mền trùm kín người. Ngoài nhà, có tiếng lao xao chào hỏi bằng tiếng Lào. Tôi vội chạy ra, mới biết pháp sư C bận việc phải về Paksé. Anh B bèn mới một vị khác, người Lào tên D, Mó Đù ( thầy bói ) kiêm Mó Phí ( pháp sư ) , khá nổi tiếng.
Chắc đă nghe anh B kể qua trường hợp của A nên thầy D không nói không rằng, đi thẳng vào pḥng của A. Nhờ anh B đi lấy cho một cái đĩa. Trong lúc đó ông thắp hai ngọn nến. Anh B đưa đĩa vào, ông ra hiệu đặt đĩa lên bàn. Thầy D móc trong bọc vải ra 5 cặp hoa Champa ( hoa sứ, hoa đại )đặt vào đĩa rồi thắp hai ngọn nến cắm vào hai bên mép đĩa. Hoạt cảnh bắt đầu, bằng tiếng Lào :
Thầy D : - Hè hè …Bổn cũ lại tái diễn nữa rồi … Nhà ngươi là ai ? Muốn ǵ ? Người ta sẽ cho, xong cút ngay. Ta không dễ tánh đâu đa, căi lời ta, ta sẽ không nương tay …
A vẫn trùm mền nằm im. Thầy D giật tung cái mền. A không cựa quậy.
Thầy D : - Xin cho biết tên ! Vừa nói, thầy D vừa vươn tay ra bắt ấn, đẩy tớI phía A ( như tung chưởng ).
A từ từ ngồI dậy, quay mặt lạI, nh́n trừng trừng thầy D. Không lên tiếng.
Thầy D tung tay ấn, cao giọng :
- Ngươi là ai, muốn ǵ ? Hăy xưng tên mau !
- Đi hỏi con vợ khốn nạn của thằng nầy ! A trả lờI, tay phảI chỉ vào tôi, tay trái hất nhẹ vào khnôg khí một cái, như đuổi ruồi.
- Không được hỗn … À, ra ngươi là một con Pọp già không nên nết. Tại sao lại " vô " người ta như vậy ?
- Đi hỏi con vợ khốn nạn của nó!
- Người ta đạ bị mầy " vô " th́ c̣n nói năng ǵ nữa. Nhà ngươi là ai ? Muốn ǵ ?
- Tao sẽ cho nó chết …
Thầy D lùi lại gần bàn, rót một ly nước lạnh, cầm đưa lên ngang cằm, miệng lâm râm niệm chú một hồi, thổi phù một cái vào ly nước. Lên tiếng :
- Được rồi, ngươi không biết điều, th́ hăy uống ly nước nầy. Thầy D đưa ly nước cho A. A vừa nhếch mép cười vừa đưa tay ra như muốn nhận ly nước, th́nh ĺnh đập mạnh vào tay thầy D một cái, làm tung ly nước xuống nền nhà :
- Thằng con nít, cút đi cho rảnh mắt tao, không tao lại vật luôn cả mầy. Hè, hè, hè …
Thầy D rút trong bọc vải mang trên vai ra một cái roi đen thui dài độ 1 thước tây, quất vào người A. Không né, A chụp lấy roi. Hai bên giằng co. Thấy D niệm chú thành tiếng, nghe như tiếng Khạ. Càng lúc mặt thầy D càng đỏ, mồ hôi lấm tấm trên trán. A tóc tai xổ tung, bất ngờ buông tay một cái, thầy D mất thăng bằng, chới với xuưt ngă ngửa, may có cái bàn giữ lại. A rú lên cườI, vỗ tay bôm bốp, nảy tưng tưng như trẻ con :
- Thằng chó con ! Mầy c̣n ngón nào đưa ra hết tao coi …
Thầy D lấy từ trong bọc vải ra một sợi chuổi có nhiều kà-thá ( bửu bối ) làm bằng đồng đỏ, đeo vào cổ, chấp hai tay để trưóc ngực, mắt nhắm nghiền, miệng niệm chú không ngừng …A ngưng ngay tiếng cười, khựng lại, nhím mày nh́n trừng trừng vào sợi chuổi. Đột nhiên thầy D thụp người xuống, cùng lúc dùng hai tay cởi sợi chuổi ra khỏi cổ, tung mạnh vào người A … A có vẻ hốt hoảng, lùi lại ngồi xuống bià giường, phát ra một tràng ngôn ngữ lạ, đưa hai tay ra bắt sợi chuổi, định giật đứt nhưng không biết nghĩ sao, tung trả lại phía thầy D. Thầy D bắt lấy chuổi kà-thá, cất vào bọc vải, vói tay tắt hai ngọn nến, không nói không rằng ra khỏi pḥng A. Mọi người trong pḥng hốt hoảng chạy theo. Thầy D nói với anh B :
- Lăo Pọp già thật ghê gớm, tôi phải về am lấy thêm vài món khác (3). Luôn tiện anh đưa tôi ra bản K., phải mời cho được thầy E ở đó, có ổng phụ một tay mới trị nổi lăo già nầy. Quay qua tôi thầy dặn :
- Sau trận thử sức nầy, lăo Pọp già sẽ đ̣i ăn , đ̣i uống dữ lắm, ông chịu khó lấy ḷng lăo ta, chúng tôi sẽ trở lại ngay.
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
saohom Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 5 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:29pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sau nầy anh B kể lại, h́nh như thầy E đă biết trước sự cầu viện nầy nên khi anh và thầy D đến nhà thầy trong bản K., ông ta đă khăn gói chỉnh tề ngồi nhập định trước bàn thờ trong nhà.
Thầy E là Chảo Cham của làng K., đă trên 60, lừng danh khắp tỉnh S. và vùng phụ cận. Từ khi nhậm chức Chảo Cham, cùng lắm thầy mới trực tiếp ra tay và thường có tính cách hổ trợ khi đồng nghiệp gặp địch thủ lợi hại.
Đang ăn uống nhồm nhoàm, bổng A ngưng ngang, leo lên giường nằm quay mặt vào tường, trùm mền nằm im. Tôi biết anh B, thầy D đă trở lại và có thể có luôn thầy E, nên chạy ra đón họ vào pḥng A.
Thầy E đích thân thắp hai ngọn nến, cũng cắm vào hai bên mép đĩa " khai " của thầy D. Chấp tay khấn một hồi lâu, thầy tiến lại gần giường A đang nằm, điềm đạm lên tiếng bằng tiếng Lào :
- Thân chào bạn ( sa bai đi sà-hái ). Tôi là Chảo Cham làng K., đến đây thăm bạn. Mọi sự trên đời đều có thể thương lượng, bạn đồng ư chứ. Để tránh mọi sứt mẻ và đổ vở, nhân danh gia chủ, xin bạn cho biết tên và ư muốn, chúng tôi sẽ làm vừa ḷng bạn.
A không quay lại nhưng đáp :
- Đi hỏi con khốn nạn !
- Thế thật sự bạn muốn ǵ ?
- Muốn vật cho nó chết !
- Bạn không thể vô cớ làm hại người ta ...
- Ai bảo là vô cớ ?
- Th́ xin bạn cho biết nguyên cớ.
- Đi hỏi con khốn nạn !
- Khoắn ( viá hay hồn ) người ta đă bị bạn hớp rồi, làm sao mà ăn nói.
- Tao không nói !
- Bạn nhất định cứng đầu ?
- Ừ, bọn mầy làm ǵ được tao ?
Nghe A thách thức, thầy E thọc tay vào bọc vải đeo trên vai, lấy ra một cái khăn rộng đan mắt cáo trông như cái lưới chài cá cỡ nhỏ, một đầu có cột sợi dây, chụp xuống người A, A thét dựng lên, ngồi bật dậy, nhảy xuống giường, qùy xuống lạy như tế sao :
- Xin nương tay, xin nương tay !
- Bạn là ai ? Nói mau ! Vừa hét, thầy E kéo tấm lưới phủ lên người A.
- Tôi xin nói, tôi xin nói. A lăn dưới đất. Xin lấy tấm lưới ra ... hừ, hừ. Xin lấy nó ra ...
- Được. Nhưng giở tṛ th́ đừng trách. Thầy E thu tấm lưới lại.
- Tôi là ...
Bất ngờ A ré lên cười :
- Tao là cha của mấy thằng Mó Phí hôi tanh như mầy ...
Th́ ra nảy giờ A chỉ đóng kịch, diễu thầy E. Biết bị A chơi khăm, tay trái thầy E tung lưới lên chụp A, tay phải rút ra một cái roi lởm chởm sần sùi :
- Thế th́ cho mầy nếm mùi " sẹ phra kăm " (1). Thầy E quất túi bụi vào người A.
Lần nầy A rú lên đau đớn thật sự, quằn quại co rúm lại như con tôm :
- Xin thầy ngừng tay, tôi xin nói ...
Thầy E vẫn không ngừng tay. Điểm lạ ở chỗ roi " sẹ phra kăm" vụt mạnh vào người như mưa, mồm rú lên đau đớn thế mà người A không hề bị trầy trụa tí nào. Chắc roi chỉ " đánh " vào con Pọp " trong " người A, chứ thứ roi nầy mà quất vào da thịt người phàm th́ c̣n ǵ thịt da.
- Xin thầy tha mạng, tôi xin nói, tôi xin nói ... A vừa van xin vừa rên xiết :
- ... em gái tôi ở trong xóm nầy. Hôm qua nó sang mượn con A một chén nước mắm. Đă không cho mượn nó c̣n chửi mắng em tôi thậm tệ. Tôi phải trả thù cái nhục nầy ...
- Nhưng mầy là ai, từ đâu đến ? Thầy E hỏi và ngừng tay.
- Tôi là Thảo F (2), cũng ở trong xóm nầy ...
- Láo ! Cả tỉnh S. nầy có bao nhiêu Pọp mà tao không biết. Vừa hét thầy E vừa tung " sẹ phra kăm " quất một cái vào người A. A oằn người đau đớn :
- Dạ, tôi là Pọp trong Thảo G, ở tận Mương Phin ... Thảo G chết tôi mới nhập vào em gái nó là Nang H, mới dọn ra S., ở trong xóm nầy. Xin thầy tha mạng.
- Mọi việc cũng đă lỡ, mầy hăy " ra " đi. Và phải rời khỏi tỉnh S. về quê cũ mầy ngay.
- Ai bảo con A mất dạy ...
- Gia chủ sẽ làm lễ tạ lỗi. Thầy E ra hiệu cho thầy D, thầy D liền đưa cho thầy E ly nước lạnh. Nâng ly nước ngang cằm, cũng như thầy D đă làm, thầy E lâm râm niệm chú, thỏi phù một cái vào miệng ly, ra lệnh :
- Uống ly nước nầy rồi " ra " ngay !
- Xin cho " ra " bằng đường " trên " ( mồm ).
- Không được ! Phải " ra " đường "dưới " .
- Tôi không quen ...
- Không quen cũng phải " ra " .
- Xin thầy ... A năn nỉ.
- Đă bảo không được là không được !
- A há mồm uống cạn ly nước phép xong, vội vàng nói :
- Xin cho " ra " ngoài nhà cầu.
- Cũng không được. Phải " ra " ngay tại đây !
Th́nh ĺnh A nằm lăn xuống nền nhà, ngất lịm. Váy ướt đẩm.
Thầy E thu hồi bửu bối vào trong bọc vải. Tắt nến. Bước ra khỏi pḥng, thầy nói :
- Việc khó khăn đă được giải quyết. Những ǵ phải làm sau nầy đă có thầy D đây lo liệu, khỏi cần liên lạc với tôi. Dù sao quí vị hăy nhớ câu nầy : " Hạy đ́ chày phí, đ́ chày khôn " ( cho vui ḷng ma th́ vui ḷng người )". Duy có một điều ... Thầy E bỏ lững câu nói. Anh B đưa thầy E về .
Thầy E về rồi, thầy D vực nhà tôi lên giường, dặn cứ đểcho nàng ngủ, sáng sớm mai nàng sẽ tỉnh. Bấy giờ đă hơn 10 giờ tối.
Gần một tuần sau sức khoẻ nhà tôi mới hoàn toàn hồi phục. Theo lời dặn của thầy E, chúng tôi nhờ thầy D chủ lễ một buổi Bun Hươn ( lễ nhà ), để tạ lỗi cùng Phí Pọp G ( giữ lời hứa của Chảo Cham E ) đồng thời làm su-khoắn ( gọi vía hay gọi hồn ) cho nhà tôi và Pôông khai ( lệ phí trả ơn ) cho thầy D chứ không phải cho thầy E. Đó là luật bất thành văn giữa các Mó Phí. Bà lăo hàng xóm người Lào rời khỏi tỉnh S. khi nào không ai hay >.
Một thời gian sau mọi người mới hiểu câu nói bỏ lững của Chảo Cham E " duy có một điều ...": Chị A bỏ cờ bạc, tánh t́nh đằm lại, có lối sống kín đáo hơn ... rồi bỗng dưng trở thành Mó Đù ( thầy bói ). Pḥng chị tiếp khách cũng bày biện đầy đủ lễ bộ của một Mó Đù chuyên nghiệp, đặc biệt khi nhập định hành nghề chị dùng tiếng Lào.
(C̉N TIẾP )
Chú thích :
(1) Tiếng Lào, Thảo = Ông, anh ...; Nang = Bà, cô ...
(2) Đuôi thằn lằn to lớn, loại lưỡng thê động vật - lézard amphibie, tức loại vừa ở dưới nước vừa ở trên cạn.
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
saohom Hội viên


Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: China
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 6 of 6: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 9:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trung tuần tháng Tư năm 1993, nhằm mùa Pimay Lao ( Tết Lào ) tôi về lại Lào nhân chuyến công tác thiện nguyện cho Hội Học Đường Không Biên Giới ( Ecoles Sans Frontière ) và đă được nh́n tận mắt một cảnh lạ tại Ban That, cách Savannakhet 15 cây số, nơi tọa lạc tháp IngHang nổi tiếng, trong đó, theo truyền thuyết có lưu giữ xá lợi của Đức Phật là một sợi tóc. Cảnh lạ đó là một gốc dứa ( thơm / khóm ) lại kết được những hăm mốt ( 21) trái ! Con rể chủ vườn là người Việt, em trai của một người bạn cũ nay đă qua đời. Lần thứ nhất tôi theo gia đ́nh ra xem, chùm dứa 21 trái, mỗi trái to cở nắm tay người lớn. Thâm tâm tôi thắc mắc nhưng chưa dám mạo muội kiểm chứng. Khách viếng tấp nập. Mỗi đầu người vào xem phải cúng dàng 100 Kịp ( tiền Lào ) để góp phần vào việc tu bổ các chùa trong vùng. Truyền h́nh Lào có đến thu h́nh và cho phổ biến khắp nước. Một tuần sau tôi ra xem lại, đi cùng cô bạn học cũ tên L. từ HongKong về thăm nhà, 21 trái dứa đă to hơn chút đỉnh và đă được chủ vườn làm hai ṿng hàng rào bao quanh, lại có thêm hương hoa nhang khói nghi ngút, người Lào gọi là Bu-Sa.
Mấy tuần sau, xong công tác giảng dạy ở Vientiane, trở lại Savannakhet, tôi và L. ra xem lần nữa. Lần nầy, nhằm thứ hai, chỉ có chúng tôi là khách viếng cảnh lạ nên đánh bạo xin phép chủ vườn cho chui qua hai ṿng rào để chụp h́nh và đếm. Ông ta bảo : " Ḅ đảy, kh'lăm. Phờn ḅ hạy " ( Không được, kiêng. Ngài không cho). Chúng tôi năn nỉ măi, ông ta bèn trả lời : " Thôi được. Đây là một sự kiện hy hữu linh thiêng chưa từng xảy ra ở bất cứ nơi nào. Quí vị từ nước ngoài về đây, âu cũng là một duyên may. Muốn kiểm chứng th́ cứ vào gần mà quan sát. Nhưng tôi phải nói trước với quí vị, nếu quí vị hữu phước th́ tốt cho quí vị ; nếu quí vị vô phước có chuyện ǵ xảy ra chúng tôi không chịu trách nhiệm à ". Nói xong, ông ta kính cẩn chấp tay xá chùm dứa một cái. Thấy vậy, hai đứa tôi cũng nghiêm trang làm theo rồi mới thực hiện điều mong muốn. Đúng là một gốc mà có tới 21 trái. Chúng ta nên nhớ là ở Lào, bấy giờ, chưa biết dùng thuốc kích thích trong canh tác.
Cho đến nay, mỗi đứa chúng tôi trở lại nơi chốn tạm dung, vẫn b́nh yên vô sự nhưng thâm tâm cá nhân tôi, tôi vẫn chịu - dù chưa hiểu - ḷng tin và h́nh thức sùng bái của người Lào nói chung, của ông chủ vườn nói riêng, trước một hiện tượng theo lẽ không tự nhiên ( theo khoa học th́ là bất thường ) v́ trước nay mỗi mùa mỗi gốc dứa chỉ sinh một trái duy nhất. Song dù sao, việc kh'lăm nầy ít ra cũng giữ cho " hiện tượng " được an toàn nẩy nở theo chu kỳ tự nhiên của hoa trái, hơn nữa nhờ đó các chùa quanh vùng cũng nhận được hơn nửa triệu Kịp công quả từ gia đ́nh ông chủ vườn chân chất. Chỉ tiếc một điều, ông không cho chúng tôi biết chữ Phờn ( Ngài ) trong câu " Phờn ḅ hạy " ( Ngài không cho ) là ai, nếu là Phí ( Ma ) hay Thê Va Đa ( thần ) th́ tên ǵ ?
Hai năm sau tôi lại quay về thăm gia đ́nh, nhắc lại chuyện cây dứa, con rể ông chủ vườn bảo " th́ nó chín, rụng dần rồi ră thành đất " ! Tôi tiếc hùi hụi, bảo " sao chú mầy không cho chích thuốc, giữ lại như ...". Nó trả lời " Mô Phật, tụi Thái Lan năn nỉ mua với giá cao, ông cụ đă không bán c̣n " nổ " cho một trận. Mấy anh học Tây, Mỹ cho lắm vào rồi nh́n cái ǵ cũng chỉ tính chuyện sinh lợi ..."
Thay lời kết
Tín ngưỡng vốn muôn h́nh, ngh́n sắc thành thử không riêng ǵ Lào và các nước lân cận mới c̣n tồn tại nhiều cái gọi là mê tín, dị đoan. Mà sống trong văn minh khoa học tân tiến cao cũng không bảo đảm việc không có dị đoan, mê tín, nếu không muốn nói rằng con người càng tiên tiến về khoa học vật chất th́ niềm tin càng đi xa hơn để giải quyết những ưu tư, thắc mắc, mong muốn c̣n đọng lại trong tâm giới họ v́ bộ óc con người dù thông minh, tinh vi đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ, không làm cách chi vượt ra ngoài sự chi phối và giới hạn của thiên nhiên để trở thành tạo vật chủ được, cho nên khoa học, vốn phải dựa trên kết quả thực nghiệm, chẳng bao giờ theo kịp tín ngưỡng vốn chỉ cần một niềm tin, nói chi việc giải quyết được ư thức tín ngưỡng. Đơn cử trường hợp người Âu-Mỹ vốn được chúng ta cho là mẫu mực của văn minh, khoa học cao, thế mà ở đầu thế kỷ XXI nầy họ vẫn giữ nhiều sự kiêng kỵ khó hiểu ; ví dụ họ ghét ( hay thích ) con số 13 : không dùng cơm tối với 13 người ( liên tưởng tới Juda, kẻ bán Chúa ), sợ ngày thứ sáu 13 ( Vendredi 13 ) ; kiêng dùng một que diêm để châm thuốc lá cho ba người, kỵ làm đổ muối xuống đất, kiêng chui qua gầm thang, cữ đặt ổ bánh ḿ nằm ngửa, v.v... Ngược lại, khi nhặt được một chiếc lá chĩa ba có 4 cánh ( trèfle à 4 feuilles ) họ cho là điềm may mắn ... Tại Âu-Mỹ, bói toán nói chung là một nghề dễ hốt bạc và hầu như nằm ngoài hay nói cho thật đúng là ngồi trên cái gọi là khủng hoảng kinh tế. Ở Bắc Mỹ người ta biết cựu đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Nancy Reagan, là một người mê tín, đặc biệt bà đă công khai công nhận sự kiện nầy, nhất là chuyện bà rất tin thầy bói để ảnh hưởng tới mọi quyết định của đấng phu quân, cố tổng thống Ronald Reagan. Nhiều nguyên thủ quốc gia bên châu Mỹ la-tinh vẫn thường tham khảo, t́m lời khuyên từ các bốc sư, chẳng hạn cựu tổng thống xứ Pérou, ông Alberto Fujimori ( gốc nhật bản ) đă thú nhận : " Tôi thường hỏi ư kiến một nhà tiên tri tên Carmelli. Bà thầy không nói rơ ra chuyện ǵ, bà chỉ phán tổng quát, chung chung ... Tôi rán suy đoán rồi đi đến quyết định". Cựu tổng thống Argentine, ông Carlos Menem khoe rằng ông thường hay đi coi bói với chiêm tinh gia tên Hilda Evelia Romanelli, và trong khi tiến hành thủ tục ly dị vợ, ông thường xuyên mời thầy bùa, thầy pháp, cô đồng, bà cốt đến nhà để gỡ ếm, trừ tà.
Riêng tại Pháp, các chiêm tinh gia nổi tiếng như quí bà Soleil, Elisabeth Teisseir, Yaguel Didier, Catherine Aubier ... và quí ông như Didier Derlich ( đă qua đời ), Claude Naisse, Marcel Picard ... đều có cuộc sống vật chất cấp triệu phú trở lên, có lẽ nhờ một số đông tín hữu thuộc tầng lớp " chăn dân " ( tổng thống, bộ trưởng, dân biểu), các nhà đại tư bản ... mà các bốc sư chỉ mới chịu khui tên một số rất ít. Hầu như mọi tờ tuần báo tại Pháp đều có mục Tử Vi, đôi khi Tử Vi Tây và Tử Vi Tàu vui vẻ cọng tồn song hành trong một tờ báo, chưa kể cả chục nguyệt san chuyên đề nầy như Astres, Horoscope, Destins...
Theo sách LaVoyance của ông bà Joseph và Annick Dessuard th́ hiện nay nước Pháp có khoảng 40.000 bác sĩ tổng quát đang hành nghề, so với 30.000 bốc sư đủ loại ( thiên văn, lịch phổ, bói toán, thuật số v.v... ; riêng thủ đô ánh sáng Paris có trên 240 bốc sư gieo quẻ " cách diện " qua mạng Minitel hay Internet và, từ 1986, một công ty nặc danh ( Société Anonyme ) có chi nhánh tại Cannes, tại Nice, chuyên " thuật số " qua điện thoại hay các mạng mới nói trên với con số thu hoạch khai báo chính thức với sở thuế vụ là ...10 triệu francs ( 1,6 triệu Euros ) trong năm 1993 ! Đó là công ty Divinitel SA của ông Claude Naisse, tọa lạc tại số 85 Rue de Rivoli 75002 Paris.
Theo tạp chí Challenger số 77 ( 01/1994 ) : Sinh thời tổng thống Pháp, ông François Mittérand, là một tín chủ của các bốc sư bên Cận Đông. Câu hỏi ông nầy thường tham khảo các bốc sư là : " Tôi nên chọn ngày nào để nói với quốc dân Pháp hầu được họ hiểu rơ ?". Trong cuộc chiến vùng vịnh lần thứ nhất năm 1991, tại sao ông Mittérand đă cương quyết chọn ngày 09/01/1991 để nói với dân Pháp về những đe dọa của Saddam Hussein ? - Ấy v́ một trong các bốc sư ruột của ông đă bật đèn xanh cho ông ta đấy. Và trong khi ông Mittérand đi cầu thầy bói tận bên các xứ Ả-rập th́ đương kim quốc vương Juan Carlos của xứ Tây Ban Nha, từ 25 năm nay, lại thường xuyên xem bói bằng thư với bà Elisabeth Teisseir của xứ Pháp ! Thật là Bụt nhà không thiêng ! Ngoài ra mấy vị cấp lănh đạo nước Pháp như Valéry Giscard d'Estaing, Jacques Chirac, Edith Cresson, Jack Lang, Robert Badinter ... cũng là thân chủ của chiêm tinh bói toán. Theo các chiêm tinh gia hay bốc sư nổi tiếng tại Pháp, mỗi lần có cuộc bầu cử, 1 trên 2 dân biểu ( ứng cử viên ) cầu đến tài năng gieo quẻ của họ.
Trong cuốn Tự Do trong Lưu Đày, đương kim Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại chính ông từng tham dự nhiều cuộc lên đồng, gieo quẻ. Chẳng hạn việc ông quyết định tị nạn qua Ấn độ cũng do cậu đồng chỉ đường vạch lối. Tôi tâm đắc nhất khi ông bảo " Con người khi cùng đường, thường cầu đến thần linh ... C̣n thần linh khi cùng đường th́ hay ... nói láo " !
Trên đây là những tín hữu thuộc giới chính trị, vậy trong giới khoa học kỹ thuật th́ sao ?
1. Hăng xe hơi Citroën của Pháp, khi tung xe Citroën AX qua thị trường Thụy Sĩ đă nhờ bà Elisabeth Teisseir (E.T.) " thuyết tŕnh " trước 500 khán thính giả về đề tài " các cơ may thành công " của ... AX.
2. Văn pḥng quảng cáo của hăng nước hoa Lancôme trứ danh cũng nhờ bà E.T. gieo quẻ trước khi tung nước hoa hiệu Sagamore ra thị trường.
3. Tháng 6 năm 1993 : Hăng vi tính nổi tiếng thế giới Hewlett-Packard ( HP, Hoa Kỳ ) đă cầu đến " ánh sáng " của bà Yaguel Didier ( Pháp ) trong một đại hội về hạnh phúc tại Mandelieu-La-Napoule ( gần Cannes, Nam Pháp).
4. Cụ thể là năm 1970, cả thế giới đă bàng hoàng hoảng hốt và đồng loạt tổ chức những buổi lễ cầu nguyện cho các phi hành gia trên phi thuyền Apollo XIII của Mỹ được b́nh an trở về trái đất. Tại sao ? - Chỉ v́ khi được phóng lên mặt trăng, Apollo XIII bị trục trặc máy móc và trong nhất thời những bộ óc khoa học thúc thủ, mất bản năng tự tín phải quay về với tín ngưỡng.
............
Tóm lại, kh'lăm trên đất Lào hay sự húy kỵ, kiêng cữ ở các nơi khác cũng chỉ là h́nh thức, phản ứng biểu hiện sự băn khoăn, sợ hải của con người đối với thiên nhiên, đối với nguồn gốc của cơ năng vũ trụ mà con người chưa t́m ra đáp số. Trong lúc lần ṃ truy ra dần dần các đáp số, con người phải lấy căn bản suy tư làm chủ đích cho sự tin tưởng của khối óc làm đường hướng cho ư thức sinh tồn, tức cố gắng duy tŕ sự hiện hữu của ḿnh trong qui luật của thiên nhiên, mà một trong những kết quả của căn bản suy tư là Tín Ngưỡng ( chính thống hay dân gian ), điểm tựa cuối cùng cho mọi bế tắc.
Hàn Lệ Nhân
__________________ Người ngộ rồi cũng niệm Phật.
Người chưa ngộ cũng niệm Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|