Tác giả |
|
bachngoc Hội viên
Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 46
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 16 April 2006 lúc 9:32pm | Đă lưu IP
|
|
|
THẤY RƠ THỰC TƯỚNG CỦA NHÂN DUYÊN ^
Đứng trên quan điểm Phật giáo mà nói, th́ trong phương pháp tu hành của Phật giáo, điều cơ bản nhất là thay đổi quan niệm về không gian và thời gian để đối xử với hiện thực.
Đối với thời gian chẳng hạn, cần nhận thức rằng, trước khi chúng ta sanh, thời gian đă tồn tại, và sau khi chúng ta chết, thời gian vẫn tồn tại. Do đó mà có quan niệm về ba đời: quá khứ, hiện tại và vị lai.
Đối với không gian, chúng ta cũng cần có quan niệm mở rộng th́ mới hiểu được đạo lư luân hồi và nhân quả. Cuộc t́nh duyên hiện tại của chúng ta chỉ là cuộc t́nh duyên cmột đời sống trước chưa kết thúc; mối hận thù hiện tại chỉ là một mối oan trái đời sống trước chưa trả xong. Nghiệp chướng cũng chỉ là món nợ của chúng ta đối với thế giới này, sẽ được bồi hoàn dần dần với cuộc sống này của chúng ta.
“Vô minh” là một sức mạnh đen tối đang làm chúng ta đau khổ hiện nay, nó từ ở đâu đến nhỉ? Nó đến từ một thời vô thỉ, từ vô số lượng kiếp trước không kể xiết được, và từ một không gian rất lớn, vô cùng.
Chúng ta thực không hiểu rơ, từ các kiếp trước, chúng ta đă gây ra bao oan trái, mà hiện nay, chúng ta gặp lại bao nhiêu điều bất hạnh như bị chà đạp bị vu nhục, bị đào thải. Nếu nghĩ rằng, trước đây, chúng ta cũng đă từng biết bao nhiêu lần chà đạp, vu nhục, đào thải những người khác? Cứ nghĩ như vậy, chúng ta sẽ bớt oán giận.
Có hai quan điểm, có thể rút ra từ suy nghĩ trên:
Một là yêu thương hay oán giận không thể không có nguyên do của chúng.
Hai là bản chất của yêu thương và oán giận là một.
Đối với người tu hành, th́ thanh toán hết các món nợ quá khứ c̣n lại là việc làm trọng yếu nhất. Sám hối, hồi hướng cứu giúp người khác... tất cả những việc là m đó là để trả nợ. Một trong những bộ kinh Phật quan trọng là Kinh Lăng Nghiêm. Một nửa đầu của bộ kinh nói về quan niệm “bồi hoàn”, trả nợ. Chỉ sau khi chúng ta trả lại sáu căn tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư cho trời đất, trả lại sáu trần tức là sắc, thanh, hương, vị , xúc, pháp cho thế giới này th́ chúng ta mới có thể thấy được minh bạch Phật tánh của chúng ta.
Thế nhưng, công việc “bồi hoàn” không phải là vứt bỏ sáu căn, sáu thức của chúng ta, mà đầu tiên là phải mở rộng không gian và thời gian, th́ mới có thể thấy được thực tướng của nhân duyên.
THIỀN ĐỊNH VÀ BÁT NHĂ,
LÀM CHO TÂM TÍNH KHÔNG DAO ĐỘNG
Muốn cho yêu thương và oán giận không làm dao động tâm tánh của chúng ta, có hai phương pháp:
Một là thiền định, sẽ giúp chúng ta đoạn trừ được ảnh hưởng của t́nh ái và thèm muốn.
Hai là Bát nhă, tức là lấy trí tuệ để mở rộng quan điểm của chúng ta về không gian và thời gian, thấy rơ được lư chân không diệu hữu.
Nói như trên quá huyền diệu. Nhưng có một ví dụ có thể dùng để minh họa. Một ví dụ mà mọi người đều biết, nhưng tôi sẽ giải thích theo một quan điểm khác.
Thần Tú là người học tṛ giỏi của Tổ thứ năm Hoằng Nhẫn, bất luận về mặt học vấn, tri thức hay là công phu thiền định. Nhưng ông vẫn không được truyền y bá t tuy tŕnh độ tu hành của ông rất cao, nhưng đáng tiếc là trong lịch sử, tên tuổi của ông bị ánh sáng của Huệ Năng che mờ.
Câu kệ của Thần Tú được nhiều người thảo luận:
“Thân như Bồ đề thụ,
Tâm như minh kính đài
Thời thời cần phất thức,
Mặc sử nhạ trần ai”
(Thân như cây Bồ đề,
Tâm như đài gương sáng,
Luôn luôn siêng quét lau,
Chớ để dính bụi trần)
Ư tứ bài kệ là: Muốn có trí tuệ Bồ đề phả i giữ cho được cái gương tâm thức được trong sáng. Và để giữ gương được trong sáng th́ phải luôn lau chùi, đừng để cho trong tư tưởng, tâm niệm của ḿnh có cái ǵ nhơ bẩn dính vào.
Có thể xét bài kệ trên của Thần Tú trên ba giác độ:
Một là bài kệ của Thần Tú vẫn ở trong phạm vi “hữu” (có). Có cái thân này, cái tâm này, có bụi bặm. Do đó, chưa hiểu được triệt để “tính không” của sự vật.
Hai là Thần Tú cho rằng Thiền có mục tiêu để đạt tới. Mục tiêu và phương pháp là quét chùi thật sạch, quét chùi không ngừng mọi bụi bặm trong tâm thức. Thế nhưng, mục tiêu của Thiền không phải là quét chùi bụi bặm của tâm. Công năng của thiền định không phải là để “có” được một cái ǵ hết.
Ba là Thần Tú cho rằng, một người muốn nhập cảnh giới Thiền, th́ phải phấn đấu không ngừng (luôn luôn lau chùi bụi bặm nơi tâm). Muốn nhập cảnh giới thiền, đúng là phải phấn đấu. Thế nhưng, kinh Phật lại dạy chúng ta Bát nhă là không có tranh đấu, là không có Người, Ta không có mục tiêu có thể đạt tới. Bài kệ của Thần Tú được xem là chưa ngộ đạo, không có cách nào để thấy được thực tướng chân chính.
C̣n bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng là:
“Bồ đề bổn vô thụ
Minh kính diệc phi đài,
Bổn lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai!”
(Bồ đề vốn không có cây,
Gương sáng cũng không đài,
Xưa nay vốn không có vật nào hết,
Có nơi nào để dính bụi?)
Bài kệ của Huệ Năng cũng có thể xét trên ba giác độ:
Một là bài kệ này nói về thực tướng của Bát nhă. Không có một danh tướng nào có thể bao hàm Bát Nhă, không thể nói Bát nhă là “cây Bồ đề” hay “đài gương sáng”, không thể nói Bát nhă là “cái này” hay “cái kia”, hay “một cái ǵ đó cố định”, Bát nhă chính là Tánh không tuyệt đối.
Hai là công phu thiền định là để mở cửa Bát Nhă. Người nào thấy được tướng thật của Bát nhă, th́ căn bổn sẽ không có cửa để mở, cũng không có bụi bặm, căn bản không có nhiễm ô, cũng không cần lau chùi.
Ba là ra sức cầu Bát Nhă tam muội không có ǵ là sai. Nhưng nếu dừng lại trên ư nghĩa của sự t́m cầu đó th́ Bát Nhă “không phải là ở đây”.
Bài kệ của Thần Tú cho chúng ta thấy Thiền định là quan trọng. Bài kệ của Huệ Năng cho chúng ta thấy, ngoài thiền định ra, c̣n có một cái siêu việt thiền định, quan trọng hơn thiền định. Đó là Bát Nhă. Bát Nhă là trí tuệ sâu xa vi diệu nhất.
TỪ THIỀN ĐỊNH VÀ BÁT NHĂ XEM XÉT LUYẾN ÁI VÀ HẬN THÙ
Một người dùng công phu Thiền định để khắc phục t́nh dục là chuyện hết sức khó khăn và gian khổ, nhất là con người hiện đại, có nhiều vọng niệm lại càng khó dùng công phu Thiền định để khắc phục t́nh dục.
Nhà văn Nhật Bản Thực Đốc có viết một truyện cổ tích nội dung như sau: có một vị tiên, tên là Cửu Mễ v́ thất t́nh cho nên xuất gia tu hành, cho rằng đó là phương pháp tốt nhất để giải quyết t́nh dục. Ông tu hành trong núi 30 năm, và tự cho rằng ḿnh đă hoàn toàn khắc phục được t́nh dục. Lúc bấy giờ, ông đă có được nhiều phép thần thông bèn gọi một đám mây lại, nghĩ rằng sau khi ḿnh đă hoàn toàn chế ngự được t́nh dục th́ có thể xuống nhân gian đi chơi một chuyến. Bèn cưỡi mây đi chơi. Khi bay qua một con sông, ông thấy một phụ nữ đang giặt quần áo. Ông lại gần xem xét th́ động niệm: “Đùi cô gái này sao mà trắng đẹp thế?” Niệm vừa động như vậy th́ mây tản ra, nên ông rơi xuống đất!
Dùng phương pháp Thiền định để khắc phục t́nh dục th́ cũng giống như tiên ông Cửu Mễ, nhất là trong xă hội hiện nay, con người hiện đại muốn dùng Thiền định để khắc phục t́nh dục th́ cũng giống như vào thời Phật Thích Ca c̣n tại thế, hầu như không thể làm được. Trừ phi đó là người có năng khiếu đặc biệt, c̣n người b́nh thường th́ không thể.
Con người hiện đại, muốn khắc phục t́nh dục, giải quyết t́nh dục th́ phương pháp duy nhất là mở mang trí tuệ Bát Nhă. V́ sao mở mang trí tuệ Bát Nhă lại có thể giải quyết được vấn đề t́nh dục?
Bởi v́ con người có một bản thể siêu việt cảm quan. Dù rằng trước kia, anh có phạ m tội lỗi ǵ, có t́nh yêu hay thù hận ǵ, bản thể đó cũng không bị ô nhiễm.
Khi học tập Thiền định, mà có một tư tưởng xấu nảy sinh th́ phương pháp của Thần Tú sẽ là đoạn trừ tư tưởng đó. Sự vĩ đại của Lục Tổ Huệ Năng chính là ớ chỗ ông nhận thức được rằng, trong con người có một bản thể không bị ô nhiễm, do đó có thể hoàn toàn không cần xử lư bụi bặm trong đời sống, không cần phải chùi quét ư thức khỏi tư tưởng xấu. Ông đề cao tâm tánh con người lên vị trí thanh tịnh tối cao. Nhờ đứng ở vị trí thanh tịnh như vậy, cho nên đối với mọi chuyện ở đời, dù là rất nhỏ nhặt cũng có thể dùng cái nh́n trực quan để thấy rơ ràng minh bạch.
Nhận định chủ quan rằng, trong con người, có một bản thể thanh tịnh không nhiễm, có thể giúp người học Phật chúng ta có được niềm tin rất lớn, tức là dù có lúc mắc vào chuyện t́nh ái cũng không có quan hệ ǵ. Bồ Tát là như vậy, nhờ chúng ta có niềm tin đó, thấy rằng luyến ái cũng không làm ô nhiễm được tâm tánh chúng ta, cho nên mới có thể có được thái độ tương đối tốt đẹp để đối xử vấn đề t́nh dục.
Bây giờ hăy đứng ở giác độ khác để nói chuyện. Thần Tú nói về một kinh nghiệm đặc thù của Thiền định. Ông cho rằng muốn tu hành th́ tâm phải được định tỉnh lại và luôn luôn chùi quét tư tưởng.
C̣n Lục Tổ Huệ Năng th́ nói với chúng ta rằng, Thiền định không phải là một kinh nghiệm ǵ đặc thù, nó không khác ǵ kinh nghiệm của cuộc sống hằng ngày. Kinh nghiệm Thiền định khai ngộ có thể rút ra được từ tất cả mọi kinh nghiệm.
Nói một cách giản đơn, Thần Tú cho rằng phải dùng phương pháp thường xuyên quét sạch bụi bặm nơi tâm, th́ rồi mới có được cái tâm thật của con người.
Tâm thật của con người giống như tâm của trẻ con, thiên chân, thong dong, không có hư dối, tức cái tâm của con người dù có phải ngủ trong điện thờ Phật cũng ngủ được thoải mái.
C̣n bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng th́ sâu sắc và cảm động ḷng người hơn rất nhiều. Bài kệ của ông nói rằng, cái chân tâm đó của con người ở đâu cũng có, nơi nào cũng có, bởi v́ không bao giờ bị nhiễm ô!
Nghe Lục Tổ Huệ Năng nói, người nào mà không có được niềm tin lớn.
Chúng ta sống trong thế giới này, tuy chúng ta bị bao nhiêu ràng buộc, thống khổ, thử thách, thế nhưng về chủ quan chúng ta phải có nhận định: Chúng ta có một Phật tánh siêu việt tất cả mọi chuyện đó!
KHÔNG CẦN BÀI XÍCH CẢM QUAN,
PHẢI KHÉO LÉO DÙNG CẢM QUAN ĐỂ TU HÀNH
Ái t́nh hay thù hận của chúng ta đều đến từ cảm quan. Một người sống trên thế giới này không thể không có cảm quan. Cảm quan tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư. Thông qua các cảm quan, xâ m nhập vào nội thân th́ có sắc âm thanh, mùi, vị, xúc, pháp.
Con người không thể thoát ĺa khỏi thế giới của cảm quan. Nếu hoàn toàn phủ định thế giới cảm quan, th́ cũng không thể sống trong thế giới này được. Một thế giới hoàn toàn mất cảm quan là một thế giới đáng sợ. Một người mất cảm quan sẽ không thể phân biệt các mùi phân, mùi thịt, mùi hoa sen. Anh ta sẽ không c̣n cách ǵ phân biệt cái đẹp cái xấu, cái hay, cái dở của thế giới này.
Huệ Năng xác định là, ở đàng sau cảm quan của chúng ta có một cái siêu việt cảm quan. Trong kinh Phật, cái siêu việt cảm quan đó gọi là Phật tánh hay tự tánh. Điều rất có ư nghĩa là cái siêu việt cảm quan đó, không phải từ trên hư không đến, mà chính là từ ở cảm quan đến, cho nên chúng ta không được phủ nhận tầm quan trọng của cảm quan.
Trong nửa phần sau của kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo với 25 vị Bồ Tát có mặt báo cáo về kinh nghiệm tu hành của họ: 25 vị Bồ tát ấy báo cáo về 25 phương pháp tu hành. Xem đoạn ấy của kinh Lă ng Nghiêm mới phát hiện thấy, đại bộ phận các vị Bồ Tát đều khai phát tánh không, khai phát trí tuệ Bát Nhă từ 6 cảm quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư.
Trong số Bồ Tát này, tôi nhớ có một vị tên Hỏa Đầu Kim Cương, vốn rất mănh liệt về t́nh dục. Nhưng ông lại bắt đầu sự tu hành của ḿnh, xuất phát từ ḷng ái dục của ông, chuyển hóa được ḷng ái dục đó thành ḷng từ bi đối với thế giới này, và cuối cùng, ông chứng ngộ được Thật tánh là cái không thể bị hủy hoại–tức là Kim Cương.
Trong Mật Tông, cũng có một vị thần Kim Cương, gọi là Ái nhiễm Kim Cương. Vị này cũng vậy, xuất phát từ tham ái, nhiễm trước mà khai ngộ, tu hành, chứng được quả vị.
Bây giờ, lấy Bồ Tát Quán Thế Âm là m ví dụ, một vị Bồ Tát mà mọi người đều biết rất rơ. Bồ Tát Quán Thế Âm tu hành như thế nào? Ngài dựa vào đâu để tu hành pháp môn mà trong kinh Lăng Nghiêm gọi là “Nhĩ căn viên thông pháp môn”. Nghĩa là Ngài dựa vào thính giác để tu hành. Ngài dùng thính giác để nghe những âm thanh nội tại để nghe những âm thanh xin cứu khổ của chúng sanh. Dựa vào thính giác mà Ngài chứng nhập tánh không, chứng ngộ được Bát Nhă của Phật, mở mang được ḷng từ bi và trí tuệ rộng lớn nhất.
V́ vậy tu hành không nhất định là đóng bịt cửa các cảm quan lại, không nhất định là phải bịt tai lại hay là cắt xẻo tai đi! Bồ Tát Quán Thế Âm từng dạy chúng ta rằng, phải khôn khéo dùng tai của ngươi, lại có một số Bồ
Tát dạy chúng ta, hăy khôn khéo dùng mũi, dùng mắt của ngươi. Chúng đều là công cụ tu hành cả.
LUYẾN ÁI VÀ HẬN THÙ ĐỀU LÀ BÀI HỌC ĐỂ TU HÀNH
Bồ Tát đă biết lợi dụng cảm quan để tu hành th́ các chuyện luyến ái hận thù trong nhân gian không phải là không có ư nghĩa. Nếu có người cho rằng đều là không có ư nghĩa th́ người ấy sẽ không thấy được cái có ư nghĩa hơn, ở đằng sau luyến ái và hận thù. Tu hành như vậy không phải là tu hành theo Đại thừa, cũng không phải là tu hành của nhân gian.
Các kinh Tiểu thừa bảo chúng ta rằng, phải đoạn trừ mọi ḷng ái dục mới có thể được giải thoát; mới có thể ngộ được tự tánh; tu hành theo Đại thừa th́ không như vậy. Về sự khác biệt giữa Đại thừa và Tiểu thừa, tôi xin đưa ra hai ví dụ dễ hiểu:
Ví dụ thứ nhất là trồng cây. Một ngườỉ muốn trồng cây, sau khi trồng, anh ta ra sức làm cho cây trồng được lớn mạnh. Một người khác, khi bắt đầu trồng cây đă có ư định: Ta sẽ bắt cây này có h́nh thù một cái dùi đầu tṛn. Sau khi cây lớn, anh ta bèn sửa sang cắt dọn để cây mang h́nh một cái dùi đầu tṛn. Làm như vậy, anh ta không làm cho cây lớn tốt được. C̣n người thứ nhất th́ đầu tiên tập trung sức lại làm cho cây trồng được tốt, rồi sau mới lo cắt dọn. Đó là phương pháp của Đại thừa. C̣n phương pháp của người thứ hai là phương pháp Tiểu thừa.
Tu hành ở nhân gian, điều quan trọng nhất là trồng cây của anh cho tốt. Trồng cây của anh cho tốt là thế nào? Nghĩa là làm cho anh có tâm từ bi rộng lớn, có trí tuệ rộng lớn. Sau đó mới sử dụng ḷng từ bi và trí tuệ của anh, để xem xét luyến ái và hận thù. Xem xét như vậy sẽ thấy sự vật rất rơ ràng, minh bạch.
Ví dụ thứ hai là trồng hoa. Người Tiểu thừa trồng hoa, th́ chỉ trồng một cây hoa. Nếu gần cây hoa đó có cỏ mọc th́ lập tức nhổ cỏ đi. Chỉ canh cánh chăm sóc cho cây hoa mọc tốt là được. C̣n người Đại thừa th́ trồng rất nhiều hoa, v́ có rất nhiều người cần tới hoa của anh ta, và anh ta cũng không ngừng gởi hoa đến những người khác. V́ phải chăm sóc nhiều cây hoa như vậy, và phải làm cho cây nào cũng lớn tốt, cho nên có lúc không chú ư được tới những cỏ dại, mọc lên giữa các cây hoa. Chờ khi các cây hoa lớn, nếu có một vài sợi cỏ cũng không thành vấn đề. Nhưng nếu chỉ trồng có một cây hoa mà thôi th́ chỉ một ít cỏ cũng thành vấn đề rất nghiêm trọng.
Hiểu như vậy rồi, sẽ có quan điểm rất tốt để xem xét vấn đề dục vọng của nhân gian. Tôi luôn luôn tin rằng, mọi sự vật ở thế gian này đều thuộc phạm vi tu hành của con người, mọi đối tượng chúng ta gặp trong nhân gian đều là đối tượng của từ bi, chứ từ bi không phải chỉ là mua cá hay chim để rồi thả gọi là phóng sanh. Anh gặp một người đau khổ trên đường, người ấy cũng là đối tượng từ bi của anh. Mỗi nhân duyên gặp gỡ đều là nhân duyên khai mở trí tuệ, ở bất cứ nơi nào hay lúc nào đều có thể tu tập Thiền định. Đối với người học Phật, sống một ngày là một ngày tu hành.
Rất nhiều Phật tử, mỗi ngày đêm đều lên khóa lễ sớm chiều nghiêm túc. Sáng dậy, lập tức đánh chuông đánh mơ tụng kinh. Tối đến cũng như vậy. Trong chùa Phật là người thành kính thanh tịnh, ra khỏi chùa th́ lập tức biến thành người khác rồi. Tu hành như vậy là không triệt để. Trong chùa, ngoài chùa, và ở khắp mọi nơi, sự ứng xử của chúng ta phải không thay đổi.
Đối với người yêu, chúng ta hy vọng người yêu cũng như ḿnh đều có được đời sống hạnh phúc. Nhưng nếu chẳng may, t́nh yêu không thành th́ cả hai người đều rút ra được bài học trong thất bại, mở mang trí tuệ, đi theo con đường trí tuệ. Đó chính là khóa tu hành của chúng ta: là sự giác ngộ trong ái t́nh, và có ḷng khoan dung đối với người ḿnh thù hận, thậm chí c̣n cười với họ nữa.
Giữa những người cấp tháo nóng nảy, hăy chịu đựng và b́nh tĩnh.
Giữa những người hung bạo hăy ôn ḥa.
Giữa những người có ḷng tham, hăy sống khẳng khái.
Giữa những người buồn khổ, hăy sống từ bi.
Giữa những người ḷng tràn đầy cừu hận, hăy sống với ḷng không hận thù.
Tất cả những cái đó đều là công khóa tu hành.
Cho nên, luyến ái và hận thù đối với chúng ta cũng là công khóa tu hành.
KHIẾN CHO DANH HIỆU PHẬT VÀ
TÂM NIỆM CHÚNG TA THỐNG NHẤT
Có người miệng th́ niệm Phật nhưng hành vi vẫn ác xấu. Niệm Phật như vậy sẽ không có hiệu quả. Mà phải làm cho danh hiệu Phật và tâm niệm chúng ta thống nhất với nhau.
Cũng như thiền định không nhất định phải ngồi thiền mới có kết quả. Mỗi người, trong cuộc sống thường ngày của ḿnh, đều có thể đạt được thiền định. Một người lắng nghe âm nhạc, một người chuyên tâm suy nghĩ, đến mức người ngoài gọi mà không hay, sự chuyên chú ấy cũng giúp họ đạt được định tâm. Người nhập thiền chân chính cũng là như vậy, tức là không bị ngoại cảnh làm xao động.
Nhờ chuyên chú nên đạt tới cảnh giới quên ḿnh, đó là một loại định, nhưng loại định này không được sâu sắc sáng láng như tam muội định, hơn nữa nó là từ ở bên ngoài vào, thí dụ, nhờ vào tiếng nhạc mới có định. Chỉ có định khai thác từ bên trong mới có được kiến địa (chỗ thấy), có kiến địa mới có Bát Nhă.
Chuyên chú là một phương pháp để nhập định. Sự chuyên tâm sâu sắc vào cảnh giới định có thể giúp làm cho tâm thần được thống nhất. Chúng ta không phải từ bỏ cảm quan như là một cái ǵ xấu, mà chúng ta phải biết lợi dụng cảm quan của chúng ta. Các pháp môn thiền định đều dựa vào cảm quan mà tu hành. Trong sinh hoạt, giờ phút nào cũng là tu hành. Như vậy, trong một ngày, 24 tiếng đồng hồ, lúc nào cũng giữ được trạng thái giác ngộ rất tốt bất cứ ở đâu và khi nào cũng ở trạng thái tỉnh giác đó th́ sẽ có một ngày bỗng nhiên bừng sáng, khai ngộ.
Các vị đại Thiền sư ngày xưa cũng giác ngộ theo kiểu như vậy. Sự giác ngộ của các vị ấy không phải do thiền định, mà là do trong mỗi giờ phút họ đều giữ được tâm trạng tỉnh giác.
Người tu tập phương pháp bổn tôn của Mật giáo đều biết tu theo phương pháp bổn tôn th́ phải quán tưởng, tŕ chú, bắt ấn, có người mỗi ngày tu hành vài giờ như vậy, cảm thấy rất đủ rồi, kỳ thực vẫn chưa đủ.
KHIẾN CHO TÂM M̀NH VÀ TÂM BỒ TÁT ẤN CHỨNG NHAU
Bổn tôn tu tập là thế nào? Tức là gặp bất cứ vật ǵ, cũng đều xử trí như là ở trong tâm ḿnh, có bổn tôn đang ngồi. Thí dụ, tu theo phép thờ Bồ Tát Quán Thế Âm là Bổn tôn, khi gặp sự kiện ǵ, sự vật ǵ chúng ta cũng đều xử trí như là Bồ Tát Quán Thế Âm đang ngồi trong tâm chúng ta. Dùng quan điểm của Bổn tôn (Bồ Tát Quán Thế Âm) để đối xử với thế giới này, dùng con mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm để nh́n thế giới này. Trong cuộc sống mà gặp khó khăn, gặp luyến ái hay hận thù th́ phải suy nghĩ: Bồ Tát Quán Thế Âm gặp phải hoàn cảnh khó khăn này th́ Ngài giải quyết thế nào? Nếu Ngài gặp phải cảnh ngộ luyến ái hay thù hận như thế này th́ Ngài giải quyết ra sao? Gặp bất cứ sự vật ǵ đều suy nghĩ: Bồ Tát xử trí như thế nào? Phương pháp đó gọi là ngoại quán tưởng.
Nếu chúng ta thường xuyên quán chiếu Bồ Tát Quán Thế Âm, ở trong nội tâm của chúng ta, lại thường xuyên dùng con mắt Bồ Tát của Bồ Tát Quán Thế Âm để xem xét thế giới này, một mặt lấy tâm của Bồ Tát để đối đăi với chúng sanh, một mặt lấy tâm của chúng sanh để quán tưởng Bồ tát. Như vậy tâm chúng ta sẽ dần dần cùng với tâm Bồ tát ấn chứng nhau, dần dần lâu dài về sau, có thể ḥa hợp với Bổn tôn, đạt tới chỗ “Tâm tâm tương ấn”.
Trong cuộc sống, mỗi giờ mỗi phút đều tu hành, chúng ta sẽ thấy chúng ta có biện pháp để duy tŕ được cái tâm giác ngộ đó.
Kỳ thực, ḥa hợp với Bổn tôn không phải là phương pháp riêng có của Mật giáo. Trong Hiển giáo cũng dùng phương pháp đó, dù chúng ta tu hành theo pháp môn nào. Khi chúng ta niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, và lấy Bồ Tát Quán Thế Âm làm gương sáng soi theo, thường xuyên nâng cao quan điểm nh́n của ḿnh lên đến tŕnh độ của Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu tu hành như vậy sẽ dễ dàng có hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn so với phương pháp ngày ngày chỉ tụng kinh ở điện thờ Phật.
MỌI NGƯỜI ĐỀU CÓ PHẬT TÁNH NHƯ LAI
Giả sử nếu Bồ Tát Quán Thế Âm gặp cảnh ngộ luyến ái và thù hận, th́ Ngài suy nghĩ như thế nào? Xử trí như thế nào đây? Ngài sẽ chuyển hóa ái t́nh của người thành ḷng đại từ đại bi. Trong kinh Lăng Nghiêm nói Ngài “nhập lưu vong sở, văn sở văn tận, giác sở giác không”.
Có nhiều người không hiểu nghĩa bốn chữ nhập lưu vong sở. Nay phân tích như sau: nhập lưu, vong sở ư tứ là: Bồ Tát Quán Thế Âm nhập vào con sông lớn của sanh mạng vũ trụ, từ bỏ chấp trước của tự ngă. V́ không c̣n ngă chấp, cho nên khi nghe tiếng kêu khổ, kêu cứu khổ của tất cả chúng sanh trong vũ trụ, Ngài đều giác ngộ với trí tuệ rộng lớn, tất cả đều là không rỗng, sáng suốt, không c̣n bị sự động giao của tất cả mọi sự biến hóa đó.
Hiểu được cảnh giới của Bồ Tát th́ khi nói vấn đề luyến ái, sẽ biết lấy ḷng từ bi để đối đăi với đối tượng yêu thương. Trong nhà th́ lấy ḷng từ bi mà đối đăi với cha mẹ, con cái, nếu chẳng may, phả i chia tay với người yêu th́ cũng lấy ḷng từ bi đối đăi với họ, không sanh ḷng oán hận đối với họ. Như vậy, sẽ không c̣n có hận thù.
Sự thực, yêu và hận, t́nh và thù không có khác biệt ǵ với ḷng đại từ đại bi của Bồ Tát. Vấn đề là chúng ta có hay không có biện pháp chiếm được vị trí cao để xem xét, xử lư vấn đề đó. Phật Thích Ca Mâu Ni từng nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng, trí tuệ của Như Lai, chỉ v́ do có vọng tưởng và chấp trước mà không chứng ngộ được mà thôi”. Đứng về Phật tánh mà nói, Phật tức là mỗi một chúng ta, bởi v́ ở trong mỗi người, đều có Phật tánh của Phật, v́ vậy mọi người đều có thể thành Phật. Dưới con mắt của Phật th́ chúng sanh tất yếu sẽ có ngày thành Phật. Quan điểm này, trong kinh điển Phật giáo, cũng được xác định là: “Phật, ta, chúng sanh về bổn thể là không có phân biệt”.
Chúng ta yêu, chúng ta hận thù. Các vị Bồ Tát từ vô lượng kiếp tới nay cũng đều trải qua kinh nghiệm yêu thương và hận thù, và các Ngài đă siêu việt lên trên thương yêu và hận thù, mà phương pháp siêu việt th́ hết sức đơn giản. Tóm tắt chỉ có mấy chữ: Tự giác, từ bi, mở mang trí tuệ Bát Nhă.
T̀NH CẢM PHONG PHÚ TU HÀNH VÔ NGẠI
Tôi rất thích xem điện ảnh, sau khi học Phật, tôi cũng thường xem điện ảnh. Gần đây, tôi có xem bộ phim đầu đề là “Lưu dân đại hanh” do Chu Nhuận Phát và Chu Sở Hồng chủ diễn. Đấy là một câu chuyện ái t́nh làm động ḷng người. Kết thúc của câu chuyện là đôi trai gái phải chia tay nhau, xem phim mà tim tôi như nát ra và tôi đă khóc. Những người học Phật cùng với tôi xem phim, thấy tôi khóc, không hiểu được bèn hỏi: “Ông học Phật lâu năm như vậy, sao mà cảm t́nh nhiều và nhạy bén thế?”
V́ sao học Phật lâu năm lại không thể có cảm t́nh? Học Phật càng lâu năm, cảm t́nh càng phong phú lên mới phải. Tôi chảy nước mắt v́ tôi cảm thông với nỗi đau khổ do ái t́nh đem lại, cảm thông với nỗi khổ phân ly của đôi trai gái. Tuy câu chuyện điện ảnh là giả, hư huyễn, thế nhưng trong cuộc sống hiện thực của con người, những cảnh ngộ như vậy phải chăng cũng đă xảy ra?
Nếu có một người thất t́nh đến khóc vớ i anh th́ anh xử trí thế nào? Biện pháp của tôi là cùng khóc với họ.
Gần đây, có nhiều người đến gặp tôi và vừa khóc, vừa kể lại những cảnh ngộ éo le của đời họ. Tôi không có cách ǵ giúp họ, nhưng tôi cũng cảm thấy đau khổ như họ, v́ tôi đặt ḿnh trong hoàn cảnh của họ, tâm tôi có khác ǵ tâm họ.
Nếu anh là người có cảm t́nh phong phú, anh đừng có mặc cảm tự ty, v́ có rất nhiều vị Bồ Tát cũng có cảm t́nh phong phú như anh vậy.
Trong kinh Phật, có nói đến vị Bồ Tát thường bi, nghĩa là luôn thương người xót vật, lại có vị gọi là vị Bồ Tát thường hay khóc (Thường Đề Bồ tát), 24 tiếng trong ngày đều rơi lệ. Bồ tát không sợ chảy nước mắt, chỉ sợ không có cách ǵ để trong nước mắt được giác ngộ, sanh khởi trí tuệ mới.
Nếu như trong nước mắt mà phát hiện được trí tuệ mới, giác ngộ mới, vậy th́ có lúc chảy nước mắt cũng có quan hệ ǵ?
Tôi cho rằng, một người có ḷng từ bi chân thực, th́ có thể b́nh thản đối diện với dục vọng trong đời sống. Nếu một người có thể tự giác, mở mang trí tuệ th́ có thể t́m được cái ta chân thực ở ngay trên cảm quan và ở trong dục vọng.
Khi chúng ta t́m được cái ta chân thực rồi, th́ ta sẽ ḥa hợp được với pháp tánh của Phật, Bồ tát.
Hăy giác ngộ ngay từ đó! Từ ở trong ái t́nh của chúng ta, từ ở trong thù hận của chúng ta. Từ ở trong yêu, hận, t́nh, thù v.v... từ ở trong những dục vọng của con người mà được giác ngộ, đạt được một trí tuệ siêu việt hơn, phát hiện được một cái Ta thanh tịnh hơn!./.
__________________ không c̣n yêu ai nũa !
|
Quay trở về đầu |
|
|
saokhue Hội viên
Đă tham gia: 10 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 34
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 16 April 2006 lúc 9:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
HỌC TẬP PHẬT PHÁP VỚI THÁI ĐỘ TỰ TIN
Nhiều năm qua, tôi vẫn luôn luôn đề xướng quan điểm: Trước khi làm một người Phật tử th́ hăy làm cho được một người chân chánh b́nh thường, tức là một người sống tự tại trong cuộc sống của ḿnh. Hôm qua, buổi tối, có khoảng một chục bạn bè học Phật đến nhà tôi chơi. Trong đó có một nữ sĩ nói với tôi “Phật giáo dạy người ta phải biết tiết chế dục vọng, cho nên người xuất gia mặc áo thâm đen hay áo trắng bạc, vào ngày Bát quan trai th́ không ai được xức nướchoa, làm đầu cho đẹp, không được cài hoa trên tóc, không được ca hát, khiêu vũ. Không được nằm giường cao, rộng”. Cô ta nói với giọng khổ sở : “C̣n tôi th́ có lúc rất muốn diện quần áo đẹp, tô môi son, đeo ṿng tay. Nhưng lại không dám v́ sợ người hhác phê b́nh là Phật tử mà c̣n ăn diện”. Tôi nói với cô ta “Chúng ta cần nhận thức người tại gia khác với người xuất gia. Xuất gia là người chuyên nghiệp tu hành. C̣n tại gia là người tu hành nghiệp dư, cho nên so với người xuất gia, có thể sống thoải mái rộng răi hơn. Ví dụ như tôi đây là một nhà văn chuyên nghiệp, cho nên yêu cầu của tôi đối với viết văn nghiêm khhắc chặt chẽ hơn. Nếu anh là một nhà văn nghiệp dư th́ mỗi năm chỉ cần viết 2, 3 chương sách là được. Nghĩa là yêu cầu viết văn đối với anh có thể rộng răi và dễ dăi hơn. Tu hành cũng theo một đạo lư như vậy. Một người Phật tử, không cần thiết ngày nào cũng phái mặc áo trắng quần đen. Sắc mặt nhợt nhạt, đi ra đường với thái độ nghiêm túc tựa hồ như đội trên đầu cái bảng đề năm chữ: Tôi là Phật tử đây! Nếu đúng là như vậy th́ người khác sẽ không dám gần gũi chúng ta. Thật ra nguời Phật tử há lại không thể mặc áo đẹp, bôi môi son, đeo ṿng ở tay hay sao? Tôi đưa cho cô nữ sĩ ấy xem một bức ảnh Bồ Tát Quan Thê' âm mà nói rằng: “Này cô xem Bồ Tát Quan Thế Âm đẹp biết dường nào. Đầu tóc Bồ tát chải rất đẹp, tướng báo trang nghiêm.Ngài cũng đeo đôi khuyên ở tai mà có ai coi thường Ngài đâu!”
Có một cô gái kể chuyện cho tôi nghe một câu chuyện bí mật: Cô ta ưa nghe ca hát hơn là nghe tụng kinh; cô ta nghĩ rằng việc tu hành của ḿnh có vấn đề, cho nên cảm thấy khổ năo hổ thẹn. Tôi nói với cô ta: “Nếu cô thấy nghe âm nhạc thích thú th́ cứ đi nghe nhạc, cô thấy nghe đọc kinh không thích thú bằng nghe ca hát, có thể v́ cô chưa hiểu hết ư nghĩa trong kinh, hoặc là hhi nghe đọc kinh, nội tâm của cô chưa cảm động, chưa được khai mở. Về căn bản, nghe đọc kinh và nghe ca hát đều đáng thích thú, nếu không tức là có thái độ phân biệt.”
Tôi từng có hai lần nghe ca hát mà vô cùng cảm động. Một lần là ở trong chùa, nghe Tăng sĩ hát bà i “Tam Bảo ca”do đại sư Hoằng Nhất viết lời ca, đại sư Thái Hư phổ nhạc. Bài ca bắt đầu bằng các câu “Trời và Người trong đêm dài, vũ trụ mờ mịt, ai cho ta ánh sáng đây!”. Tôi nghe cảm động đến chảy nước mắt. Một lần khác, tôi nghe Sư phụ Sám Vân tụng Chú Đại Bi. Giọng của ngài, thái độ của ngài, có sức mạnh của ḷng từ, ḷng bi làm tôi cảm động vô cùng. Ngài tụng Chú Đại Bi theo một tiết tấu mà bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ. Tôi rất lấy làm lạ sao giọng tụng kinh nghe hay đến thế! Chúng ta nghe tụng kinh mà không ưa là v́ chúng ta chưa lănh hội được ư nghĩa trong kinh.
Lúc bấy giờ tôi bày cho cô gái một phương pháp, tức là khi nghe người khác ca hát, th́ hăy nghe với cái tâm nghe tụng kinh; khi tâm của con người thật vắng lặng trong sáng, th́ có thể dùng cái tâm t́nh nghe tụng kinh như vậy để nghe các bài ca đang lưu hành. Họ sẽ thấy cảm động vô cùng, giống như khi nghe bài “Kỳ thực, anh không rơ ḷng tôi”. Khi nghe ngâm bài thơ của Hàn Sơn Tử:
“Ngô tâm tựa thu nguyệt,
Bích đàm thanh hạo khiết,
Vô vật kham tỷ luân
Giáo ngă như hà thuyết”.
Nghĩa là:
“Tâm tôi giống trăng thu,
Như nước ao trong sáng thanh tịnh,
Không vật ǵ có thể so sánh bằng,
Hăy dạy tôi nói sao đây!"
Nói cách khác, khi nghe người khác tụng kinh , có thể dùng tâm t́nh nghe ca hát, tức là cái tâm t́nh hoan hỷ, đợi chờ, th́ sẽ cảm thấy nghe đọc kinh rất là thú vị. Có lần tôi được nghe Pháp sư Kiến Như xướng bài “Khấu chung kư” (Bài đánh chuông), tôi cũng chảy nước mắt bởi v́ Pháp sư xướng hay quá, hay không khác ǵ các bài ca đang lưu hành, thậm chí c̣n hay hơn.
Tôi muốn nói là chúng ta không cần phải gạt bỏ tất cả những ǵ chúng ta gặp trong cuộc sống, đừng khiến cho tất cả những ǵ trong cuộc sống sinh ra mâu thuẫn, đối lập với Phật pháp. Có một lần tôi đưa con đi xem bộ phim “Truyện Lục Tổ Huệ Năng”. Xem xong, con tôi nói “Không hay bằng bộ phim của Thành Long.” Tôi cũng đồng ư với con tôi, điều này không có nghĩa là Lục Tổ Huệ Năng không làm chúng tôi cảm động, mà là v́ người đạo diễn đă dùng một h́nh thức cố định, đơn điệu, bảo thủ cho nên người xem khô ng thích thú.
__________________ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngă kim kiến văn đắt thọ tŕ
Nguyện giải Như Lai
|
Quay trở về đầu |
|
|
amduong05 Hội viên
Đă tham gia: 10 December 2004 Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 52
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 16 April 2006 lúc 9:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
PHẬT GIÁO GIỐNG NHƯ MỘT CON DAO
Sự giáo hóa của Phật giáo Nguyên thủy cũng như tạo ra một cán dao rất kiên cố. Phật giáo Đại thừa chỉ là cắm mũi dao nhọn, sắc vào cán dao đó. Cho nên vĩnh viễn không thể giải quyết được sự tranh chấp hơn thua giữa mũi dao và cán dao!
Nếu Phật giáo là một con dao th́ cán dao là cái ǵ?
Cán dao là Phật giáo căn bản. Đạo lư chủ yếu do Phật giáo căn bản giảng là Ba pháp ấn, Bốn chân lư thánh, con đường đạo tám nhánh, 12 nhân duyên.
Ba pháp ấn là: các hành là vô thường, các pháp là vô ngă, Niết Bàn là vắng lặng.
Bốn chân lư thánh là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đời người là thống khổ; hiện nay chúng ta sống và cảm thấy những nổi khổ đó. Chúng ta là một tập hợp, tức là một tập hợp khổ. Muốn xóa bỏ tập hợp khổ đó, phương pháp duy nhất là đi theo con đường giác ngộ (Bồ đề), con đường giải thoát, diệt hết cội nguồn của khổ.
Con đường đạo tám nhánh là Chánh kiến (thấy biết đúng đắn), Chánh tư duy (suy nghĩ đúng đắn), Chánh ngữ (lời nói đúng đắn); Chánh nghiệp (hành động đúng đắn); Chánh mạng (sinh sống đúng đắn); Chánh tinh tấn (siêng năng đúng đắn); Chánh niệm (nhớ nghĩ đúng đắn); Chánh định (tập trung tư tướng đúng đắn).
Thuyết 12 nhân duyên giải thích quy tŕnh một chúng sanh từ khi nhập thai, ra khỏi thai mẹ, lớn nên, trưởng thành rồi già chết như thế nào.
Những giáo lư căn bản đó của đạo Phật giống như cán dao của một con dao. Nếu không có những giáo lư căn bản đó, tức là ba pháp ấn, Bốn chân lư thánh, Con đường đạo Tám nhánh, 12 nhân duyên th́ Phật giáo sẽ không có chỗ đứng chân vững chăi.
Mọi tranh chấp giữa Đại thừa và Tiểu thừa, nguyên nhân lớn nhất là người theo Tiểu thừa rất bất măn với danh xưng “Tiểu thừa”. V́ vậy, chúng ta nên gọi Phật giáo Tiểu thừa là Phật giáo “căn bản”.
C̣n nếu Phật giáo Đại thừa coi thường Tiểu thừa, th́ đó là một thái độ sai lầm. Một người tu hành theo Đại thừa mà không có một nhận thức cơ sở đối với Phật giáo căn bản, th́ Đại thừa chỉ là một lâu đài xây dựng trên hư không mà thôi. Cũng như một con dao phải đủ cả mũi dao và cán dao th́ mới có thể dùng được.
ĐỪNG CÓ CÁCH BIỆT VỚI CHÚNG SANH
Kinh A Hàm chép rất nhiều hành trạng của Phật Thích Ca Mâu Ni trong quá tŕnh tu hành của Ngài, cho ta thấy Phật Thích Ca Mâu Ni cũng biết cười to, cũng biết chảy nước mắt, cũng có khi bực tức. Giữa đường gặp trẻ con, Ngài cũng biết quỳ xuống nói chuyện với chúng. Phật Thích Ca là con người dễ gần gũi. Chúng ta cảm thấy Phật có một nhân cách phi thường, nhưng không có cách biệt với thế gian này.
Có một lần tôi đến Bản Kiều thăm một nhà điêu khắc, ông chuyên môn điêu khắc tượng Phật. Tại nhà ông, có bày một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Đấy là tượng Phật Thích Ca tu khổ hạnh ở Tuyết Sơn, toàn thân Phật gầy g̣ từng đốt xương nổi lên rơ mồn một; các huyết quản cũng thấy rất rơ dưới da. Bức tượng này làm người xem rất cảm động; Phật Thích Ca đă từng tu khổ hạnh như vậy.
Nhưng các tượng Phật khác, bày trong nhà ông th́ lại trông dáng người đầy đặn, béo tốt, phương phi, tướng báu trang nghiêm. Tôi hỏi ông: Tại sao ông lại bày tượng Phật Thích Ca gầy g̣ như củi khô ngay tại sảnh đường như vậy? Ông giải thích một hồi lâu. Lời giải thích của ông đến nay vẫn làm tôi cảm động. Ông nói: “Hiện nay chúng ta căn cứ vào nhận thức của chú ng ta đối với Phật mà tạc tượng Phật đều béo tốt mặc y phục rất đẹp khiến cho người b́nh thường nhận thức rằng Phật và Bồ tát đều ăn tốt, mặc đẹp, béo phây phây. C̣n tôi, khi tạc một tượng Phật, tôi hy vọng không quên tinh thần của Phật Thích Ca tu khổ hạnh ở núi Tuyết Sơn, v́ vậy mà mỗi lần tôi tạc tượng Phật, tôi đều đến xem tượng Phật Thích Ca gầy g̣ tu khổ hạnh ở Tuyết Sơn, đặt ở sảnh đường. Tôi mong rằng, bên cạnh tượng Phật Thích Ca đầy đặn béo tốt, cũng có tượng Phật Thích Ca gầy g̣ như con mắt sắc sảo, phản ánh tinh thần bi thương của Ngài đối với thế giới.”
Phật không có một tướng nhất định. Phật có thể có rất nhiều tướng. Ngài có thể ôn ḥa, rất gần gũi, rất dễ mến. Người học Phật cũng không nên quá mức nghiêm túc, nên ứng xử ở đời với thái độ phóng khoáng, cởi mở, v́ rằng, tuy chúng ta học Phật, nhưng chúng ta không tách rời chúng sanh. Chúng ta cũng là một phần tử trong chúng sanh. Không nên v́ chúng ta tu hành mà trở thành một người đặc biệt, không nên để cho người khác thấy chúng ta đi trên đường bèn nói: “A! Đây là một Phật tử”.
Hăy phóng khoáng một chút, để cho người khác thấy ḿnh cũng không khác ǵ họ. Như vậy, gọi là không cách biệt với chúng sanh, ḥa nhập vào chúng sanh.
Trước đây, khi tôi c̣n ở nông thôn, tôi thường bị người ta nhận lầm là công nhân hay nông dân. Tôi đi mua rau, người bán rau thấy tôi mặc quần áo rất b́nh thường, đi đôi ủng chống mưa giống hệt như nông dân. Một bó rau 12 đồng, tính rẻ cho tôi hai đồng. Người bán rau không thấy tôi là người đặc biệt, mà thật sự, tôi cũng không có ǵ là đặc biệt. Có lần tôi đi mua trái cây. Chủ nhân vào nhà lấy tiền lẻ để đổi. Tôi đứng chờ bên quầy hàng, có ba, bốn thanh niên, nắm tay tôi bảo: “Này Thích Ca, một cân bao nhiêu tiền?” Tôi nói: “Thích Ca của tôi th́ không bán, c̣n Thích Ca của ông kia th́ 24 đồng một cân.”
Thích Ca của tôi không bán, nhưng trong tâm tôi có Thích Ca, tuy rằng tôi không tỏ cho ai biết. Người khác thấy tôi không có ǵ khác họ, như vậy mới gọi là đạo Bồ đề, ḥa nhập vào chúng sanh, đó là thái độ tốt nhằm tạo duyên lành với chúng sanh.
***
Tôi thường nói “dưới chân đèn sáp là chỗ tối nhất”. Cứ thắp một ngọn đèn lên th́ sẽ thấy, chân đèn là nơi tối nhất. Cũng như vậy, người đem lại ánh sáng cho người khác, th́ thường thường một ḿnh bị đả kích đến khổ!
Việc Phật Thích Ca Mâu Ni vào núi hay xuống núi đều là bài học cho chúng ta. Một người có thể ẩn ở núi sâu để tu hành, tự ḿnh cầu tam muội, cầu giải thoát, cầu chánh giác. Nhưng, một người chỉ cầu như vậy mà cho là đủ rồi th́ thực là đáng tiếc vậy. Phật Thích Ca, sau khi tu khổ hạnh, ḿnh gầy như củi khô, rồi mới xuống núi, truyền bá đạo pháp. Điều này chứng tỏ, ẩn vào núi không phải là mục tiêu cuối cùng của sự tu hành.
Một người có suy nghĩ rằng phải ở trong núi sâu mới có thể tu hành được. Phật giáo Đại thừa cho rằng người đó đă “bị say v́ rượu tam muội”. Đó là v́ cầu tam muội mà quên mất chúng sanh. Cũng như uống rượu tam muội mà bị say vậy. Người uống rượu tam muội mà bị say, th́ sẽ không cách ǵ thông cảm với chúng sanh được. Làm thế nào để không bị say rượu tam muội? Có ba phương pháp:
Phương pháp thứ nhất là không chấp trước tam muội. Tam muội tức là chánh giác, chánh định, chánh thọ, chánh tinh tấn.
Phương pháp thứ hai là chia một phần rượu tam muội cho người khác uống. Tự ḿnh thưởng thức được rất nhiều cảnh giới tốt đẹp trong tam muội, nhưng không muốn uống riêng một ḿnh rượu tam muội mà chia xẻ một phần cho người khác uống.
Phương pháp thứ ba là bày vẽ cho mọi người chế tạo rượu tam muội, giúp cho mọi người sanh khởi tam muội ở tâm, đó mới là mục tiêu của tu hành Phật pháp.
Thực ra không có ǵ đáng tranh luận giữa Đại thừa và Tiểu thừa. Người có tâm địa rộng lớn, th́ trong Phật giáo Tiểu thừa vẫn t́m thấy tinh thần Đại thừa. Một người có tâm địa nhỏ hẹp th́ tuy học kinh Đại thừa, nhưng cũng không khác ǵ học kinh điển Tiểu thừa.
NHÂN SANH LÀ TƯƠNG ĐỐI
Một cái nh́n khác đối với cán dao và mũi dao là Phiền năo tức Bồ đề. Về vấn đề này, tôi đă nói rất nhiều lần rồi. Ở đây, lại nói nữa, với một h́nh thức diễn đạt mới.
Phiền năo và Bồ đề có thể được xem xét từ góc độ tương đối.
V́ sao có phiền năo? Đó là do mọi người đều có chấp trước t́nh ái. Có người chấp trước tiền của. Có người chấp trước danh lợi. Có người chấp trước quyền lực chức tước. Họ cho rằng đó là những điều quan trọng nhất ở đời Nếu họ không được thỏa măn về những điều ấy th́ họ sinh ra phiền năo. Mọi phiền năo đều do sự không thỏa măn đem lại.
Nếu thấy được những điều ấy chỉ có giá trị tương đối th́ gánh nặng phiền năo có thể giảm nhẹ.
Đúng như vậy, nhân sanh là tương đối. Phật pháp cũng nói, trên thế giới này không có cái ǵ là tuyệt đối.
Đối với một người rất đói mà cho họ ăn th́ họ ăn rất ngon. Nhưng nếu bắt họ ăn một ngày 8 bữa th́ họ sẽ cảm thấy ngay ăn là chuyện đáng sợ! Mùa đông, nằm ngủ trong chăn bông cảm thấy rất thoải mái, sáng không muốn dậy nữa, chỉ muốn ngủ tiếp. Nhưng nếu ra lệnh anh không được dậy nữa, bắt ngủ măi th́ lại thấy ngủ nhiều là không tốt. Thức dậy ra khỏi giường là tốt hơn.
Vui, mà sống vui măi cũng không được khổ, vĩnh viễn chịu khổ, cũng chịu không nổi. Giữa cái vui và cái khổ, khoảng cách thực là ngắn vậy.
Điều ḥa giây đàn sinh mạng cho khéo:
Trung đạo là dùng một thái độ cởi mở, phóng khoáng để sinh hoạt, học Phật, cũng giống như điều tiết giây đàn vậy.
Trong kinh “42 chương” có ghi, Phật Thích Ca có nói với một đệ tử: Phải điều tiết giây đàn ở mức vừa phải, không được căng quá, nếu căng quá th́ sẽ đứt giây. Nếu chùng quá th́ tiếng đàn sẽ không tốt.
Trung đạo là điều tiết giây đàn sinh mạng thế nào cho vừa phải, để có thể đánh lên một bản nhạc hay, giây đàn không bị đứt. Nếu một người tu hành mà để tinh thần quá căng thẳng, mới đàn đă đứt giây th́ nhất định có vấn đề. Trái lại, nếu tu hành mà phóng túng, buông thả, đến nỗi không biết tu hành là thế nào, th́ cũng lại có vấn đề.
Suốt ngày không nên giữ bộ mặt đăm chiêu căng thẳng. T́nh h́nh phiền năo khác nhau tùy theo người. Mặt càng đăm chiêu, phiền năo càng nhiều, chứ không giảm bớt. Nếu có thái độ b́nh thản, thoải mái đối với phiền năo th́ phiền năo sẽ giảm bớt.
PHẢI GIỮ CÁI H̉M HY VỌNG
Tôi nhớ có một câu chuyện thần thoại Hy Lạp cổ đại, có thể dùng để nói về phiền năo và Bồ đề:
Thần Jupité, để phạt Promêtê, v́ cái tội đem lửa của Thiên đường xuống trần gian, bèn sai Thần lửa, dùng nước và đất sét nung thành một thiếu nữ xinh đẹp, đặt tên là Panđôra. Các Thần trong thần thoại Hy Lạp thường có tánh rất đố kỵ ganh ghét. Lửa là nguồn gốc của văn minh và trí tuệ của nhân loại. Cơi trần gian mà có lửa th́ sẽ biến thành Thiên đàng có khác chi. Đó là điều mà Thiên thần không thể chấp nhận được. Một bài học của câu chuyện là chúng ta chỉ cần sống tốt ở nhân gian th́ cơi người sẽ không khác ǵ ở Thiên đàng.
Truyện thần thoại cho biết, Thần Jupité hết sức tức giận, ra lệnh xích Promêtê trên đỉnh núi Côcadơ, và đem Panđôra gả cho em trai Promêtê là Atlas để trừng phạt. Lối trừng phạt nặng đối với người đàn ông là gả cho anh ta một cô gái đẹp. Đó cũng là một bài học rất hay đối với chúng ta. Khi Panđôra đi lấy chồng, Thần Jupité cho cô ta một cái ḥm báu làm của hồi môn, nhưng lại dặn ḍ là cô không được mở cái ḥm ấy ra. Tất nhiên Panđôra có hỏi thần Jupité lư do v́ sao không được mở ḥm, nhưng Thần Jupité chỉ nghiêm cấm mà không trả lời. Chúng ta thấy Thần Jupité thật là quái ác, ông ta hoàn toàn hiểu rơ tâm lư con người. Những việc càng bị cấm đoán th́ con người càng làm.
Sau khi về nhà chồng, Panđôra ngày nào cũng suy nghĩ không biết trong ḥm chứa đựng ǵ. Có một ngày, thừa cơ chồng đi vắng, cô không chịu đựng nổi sự ṭ ṃ bèn mở ḥm ra. Một làn khói đen tỏa ra, nhiều thứ bay ra cùng với khói: tai họa, thống khổ, và bệnh tật.
Panđô ra hốt hoảng đóng nắp ḥm lại nhưng mọi tai họa, thống khổ và bệnh tật đă bay ra cả nhân gian rồi. Chỉ có một thứ chưa kịp bay ra th́ nắp ḥm đă đóng lại. Đó là hy vọng. Chỉ có hy vọng là chưa kịp bay ra.
Mọi tai họa, thống khổ và bệnh tật từ đó bắt đầu lan rộng khắp nhân gian.
Câu chuyện xưa này rất có tác dụng thức tỉnh. Tuy chúng ta sống trong một hoàn cảnh đầy tai họa, thống khổ và bệnh tật ... một hoàn cảnh do Trời tạo ra, thế nhưng, trong cái ḥm của chúng ta c̣n có hy vọng, v́ vậy mà chúng ta có thể đối phó với tai họa, thống khổ và bệnh tật.
Bồ đề và phiền năo kỳ thực là giống nhau. Phiền năo là ở trong hoàn cảnh của chúng ta. Bồ đề là ở trong tâm của chúng ta. Nên có thái độ rất tốt đúng đắn để đối phó với phiền năo th́ sẽ vượt qua được phiền năo.
KHAI PHÁ SỰ HOÀN MỸ NỘI TÂM
Con người sinh ra có phiền năo là v́ trong quá khứ t́m cầu và ham muốn.
Tôi có biết một câu chuyện như sau: Ngày xưa, có một ông già, đă hơn 70 tuổi mà chưa lập gia đ́nh. Ông đi nhiều nơi để t́m vợ. Mọi người thấy ông khó nhọc như vậy, hỏi ông ta t́m ǵ? Ông ta trả lời: Tôi đi t́m một phụ nữ hoàn mỹ để kết hôn. Người ta rất đồng t́nh với ông già, và hỏi tiếp: Ông đă đi nhiều đoạn đường như vậy mà không t́m được một phụ nữ hoàn mỹ hay sao? Ông già nói với giọng đau thương: Khi tôi c̣n trẻ tuổi cũng đă t́m được một phụ nữ hoàn mỹ, không người nào có thể so sánh được! Mọi người hỏi: Thế sao ông không cưới người phụ nữ đó? Ông già nói: V́ cô ta cũng đi t́m một người đàn ông hoàn mỹ.
Các vị xem, nếu hướng ra ngoài để t́m cái hoàn mỹ th́ sẽ vĩnh viễn không t́m được. Nếu t́m ra được cái hoàn mỹ chăng nữa th́ anh cũng bất lực, v́ bản thân nội tại anh chưa hoàn mỹ th́ anh có tư cách ǵ, phúc phận ǵ để hưởng được cái hoàn mỹ đó.
V́ bản thân nội tại của chúng ta chưa hoàn mỹ cho nên mọi cái chúng ta thấy đều không hoàn mỹ.
Muốn cầu đạo Bồ đề, muốn phá trừ phiền năo, điều quan trọng là giữ vững được hy vọng, để khai phá sự hoàn mỹ của bản thân, khiến ḿnh trở thành một con người hoàn mỹ. Chỉ khi nào chúng ta biến thành được con người hoàn mỹ th́ chúng ta sẽ thấy thế giới cũng là hoàn mỹ. Tới đâu, ở đó cũng tốt. Tới đâu ở đó cũng là cơi nước thanh tịnh.
Giải thoát là mục đích của việc học Phật. Một con người theo con đường hoàn mỹ, cuối cùng sẽ được giải thoát. Giải thoát có hai điều kiện; hoàn mỹ cũng có hai điều kiện. Thứ nhất là nội tâm thanh tịnh. Thứ hai là ngoại cảnh thuần tịnh.
Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy chúng ta: Nếu nội tâm không thanh tịnh th́ ngoại cảnh không thể thanh tịnh được. Muốn t́m một hoàn cảnh lư tưởng, hoàn mỹ để tu hành là chuyện không thể được, bởi v́ bản thân nội tại của chúng ta không phải là lư tưởng, cũng không phải là hoàn mỹ. Nhận thức hoàn cảnh hiện tại là không lư tưởng và không hoàn mỹ, và trong hoàn cảnh đó vẫn giữ vững hy vọng và tu hành. Đó chính là thái độ mà người tu hành nào cũng nên có.
__________________ Trên đời này tất cả đều trở về cội nguồn của nó
|
Quay trở về đầu |
|
|
canlong Hội viên
Đă tham gia: 30 November 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 14
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 16 April 2006 lúc 10:08pm | Đă lưu IP
|
|
|
T̀M RA CỦA BÁU TRONG M̀NH VÀ ĐẦU MỐI CỦA BẢY T̀NH
Bảy t́nh là hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục. Tức là bảy phản ứng t́nh cảm của con người. Theo Phật giáo th́ bản chất của bảy t́nh là một. V́ bản chất của chúng là một cho nên chúng ta có thể kết luận: “Chỉ có người khóc rất tốt mới cười được rất tốt”.
Khóc và cười, bản chất là một. Nếu chúng ta không biết khóc cho tốt th́ chúng ta cũng không biết thế nào là cười cho tốt v́ khóc và cười là cùng một đầu mối. Nếu chúng ta t́m được đầu mối ấy, th́ khi chúng ta sướng (hỉ), chúng ta sẽ sướng rất tốt, khi chúng ta giận (nộ), chúng ta sẽ giận rất tốt; khi chúng ta bi ai (ai), chúng ta sẽ bi ai rất tốt; khi chúng ta vui (lạc), chúng ta sẽ vui rất tốt. Chú ng ta có cảm thọ ǵ cũng đều cảm thọ rất tốt, chứ không phải là v́ học Phật mà chúng ta biến thành người hoàn toàn không có cảm thọ.
Nếu chúng ta học Phật mà biến thành người hoàn toàn không có cảm thọ, như gốc cây khô th́ tức là học Phật sai rồi. Con người phải có hỉ, nộ, ai, lạc, nhưng cần biết rơ, đầu mối của chúng là ở đâu? Nếu biết rơ đầu mối ở đâu th́ sẽ không c̣n sợ bóng tối nữa! Cũng như một người biết rơ cửa khóa của pḥng ḿnh ở đâu, th́ dù là đi vào một gian pḥng tối om cũng không c̣n sợ hăi. Dù có nhắm mắt cũng thắp được đèn sáng lên.
Chúng ta sợ bóng tối v́ chúng ta không biết cánh cửa pḥng là ở đâu. Chúng ta suy nghĩ: “Ái chà tối quá! Làm thế nào đây?” Do đó mà lo lắng sợ hăi.
Bảy vật báu là vàng, bạc, lưu ly, mă năo, xà cừ, hổ phách, thủy tinh. Các kinh Phật nói về bảy báu tuy không giống nhau, nhưng nói chung, vật báu nào cũng đẹp đẽ, cũng rất tốt.
V́ sao bảy vật báu được nói trong các kinh lại khác nhau? V́ rằng “báu” là do nhận định chủ quan. Vật này, tôi cho là báu nhưng người khác lại không cho là báu.
Tôi có một người bạn. Anh ta thích sưu tập các bô. Trong nhà tích lũy đến 40, 50 cái bô. Mỗi ngày thay đổi dùng một cái. Anh ta cho là rất quư, c̣n chúng tôi th́ không chịu nổi, sao ở trong một nhà lại bày ra có nhiều bô như vậy, và vui thích ǵ mà tích lũy cái bô chứ!
Thực ra, trong kinh Phật, bảy báu chỉ có giá trị tượng trưng, tượng trưng cho những cái ǵ đẹp.
Nếu một người có vật báu ở trong người th́ anh ta sẽ thấy bất cứ vật ǵ cũng đều rất quư báu. Đó là một sáng tạo mới, sáng tạo ra một không gian nội tại mới.
QUÉT TRỪ MÊ CHƯỚNG ĐỂ THẤY TỰ TÁNH
Vật báu ở trong chúng ta là ǵ? Đầu mối của bảy t́nh ở trong chúng ta là ǵ?
Theo đạo Phật th́ vật báu nội tại, đầu mối nội tại chính là tự tánh, chính là Phật tánh.
Phật tánh là đầu mối cuối cùng của tất cả.
Bảy báu và bảy t́nh cũng giống như mây trên trời. Một người muốn nhận thức được tự tánh th́ đầu tiên phải nhận thức được ở sau đám mây có khoảng trời, phải quét sạch đám mây đi th́ sẽ thấy được bầu trời rộng lớn.
Bất quá, khi chúng ta chưa nh́n thấy được bầu trời ở sau đám mây, chúng ta vẫn nhận định: dù có mây đen bao phủ, dù có mưa lớn sầm sập, nhưng ở đằng sau vẫn là một bầu trời quang đăng không có thay đổi; bầu trời đó, tự tánh đó cuối cùng là như thế nào? Có kinh điển nào mô tả rơ nét “tự tánh” hay không?
Có một bộ kinh mô tả “tự tánh” rất rơ ràng, có lớp lang minh bạch. Bộ kinh đó là Tâm kinh. Tâm kinh được gọi là Kinh vương, là vua của kinh điển, được quư trọng phi thường. Tuy có rất nhiều người hàng ngày đọc tụng Tâm kinh rất nhiều lần, thế nhưng hiểu biết đúng đắn ư nghĩa của “Tâm kinh” th́ lại có rất ít người.
Nói một cách đơn giản, nội dung của “Tâm kinh” là giảng về cải cách và sáng tạo tâm linh.
Quán chiếu thế giới và tự thân, khai phát ở chỗ sâu nhất. Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhă ba la mật đa thời (Tâm kinh), nghĩa là: Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu sắc trí tuệ Bát Nhă...
Thường thường nghe người ta tụng “Tâm kinh”, đoạn cuối có câu “Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha”. Ư tứ đoạn câu này là ǵ? Tôi hỏi hàng trăm người, không có người nào trả lời được.
Hằng ngày đọc tụng mà không hiểu ư tứ câu kinh, phải chăng là uổng công. Thực sự, “Tâm kinh” ngắn và giản dị, dễ hiểu, ư nghĩa hàm súc tinh vi. Đó là điều người học Phật không được bỏ qua.
Dưới đây là sự giải thích giản đơn của tôi đối với Tâm kinh, không dám so sánh với sự giải thích có mạch lạc của các bậc sư phụ.
Câu thứ nhất của “Tâm kinh” là Bồ Tát Quán Tự Tại.
Bồ Tát Quán Tự Tại tức là Bồ Tát Quán Thế Âm.
Nếu ởtrong cửa hàng đồ cổ, anh thấy tượng một vị Bồ tát, một chân duỗi ra ngoài, một chân xếp bằng trên hoa sen, th́ đó là Bồ Tát Quán Thế Âm.
V́ sao Bồ Tát Quán Tự Tại lại có tư thế đặc biệt như vậy. Một chân hướng ra ngoài, đó là tư thế của Bồ Tát sẵn sàng đi cứu giúp chúng sanh.
V́ sao cả hai châ n đều không duỗi ra ngoài? Nếu cả hai chân duỗi ra ngoài, th́ tốc độ đi giải cứu chúng sanh sẽ nhanh hơn chứ? Nguyên do là, cái chân xếp tṛn trên hoa sen là bất động. Dù là trong tâm Ngài thấy có chúng sanh, Ngài vẫn an trú bất động. Nhưng thoạt nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh, Ngài liền nhanh chóng đứng dậy đi cứu chúng sanh.
Trong nhà tôi, cũng có thỉnh một tượng Bồ Tát Quán Thế âm như vậy.
Mỗi người đều biết Bồ Tát Quán Thế Âm, sở dĩ có danh hiệu “Quán Thế Âm” là v́ Ngài quán chiếu âm thanh trong thế gian, tùy theo âm thanh mà cứu khổ chúng sanh. Một danh hiệu khác của Ngài là “Quán Tự Tại”, cũng thường bị người ta bỏ quên. “Quán Tự Tại” là quán chiếu thế giới nội tâm của ḿnh mà được tự tại.
Trong phẩm “Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát”, có sự mô tả rơ ràng sức quán chiếu rộng lớn của Bồ Tát.
Chân quán, thanh tịnh quán
Bi quán cập từ quán.
Quảng đại trí tuệ quán ,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Dùng văn Bạch Thoại, giải thích các câu trên như sau:
Quán chiếu thế giới này một cách chân thực và thanh tịnh. Quán chiếu thế giới này với trí tuệ rộng lớn.
Quán chiếu thế giới này với ḷng bi, ḷng từ.
Thường thường có nguyện vọng như vậy.
Mỗi người đều có thể tiến vào cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm. Năm phép quán đó gọi là “Bồ Tát Ngũ Quán”.
Nếu biết quán chiếu một cách rộng lớn và sâu sắc như vậy, cuối cùng sẽ được tự tại
Câu thứ hai của “Tâm kinh” là: “Hành thâm Bát Nhă ba la mật đa thời”.
Hành thâm là càng đi, càng tiến sâu vào thế giới nội tâm.
Trong các truyện của Thiền Tông, có truyện của Thiền Sư Hy Vận Hoàng Bích làm tôi hết sức cảm động; trước đây Thiền sư Hoàng Bích Hy Vận và mẹ sống nương tựa vào nhau. Nhưng sau khi Ngài xuất gia tu hành, Ngài phải rời khỏi mẹ. Sau khi người con độc nhất của ḿnh ra đi tu hành, bà mẹ ngày đêm nhớ con than khóc, đến nỗi thành mù ḷa. Bà quyết tâm t́m và đoàn tụ lại với con ḿnh, nhưng t́m sao được v́ không biết con ḿnh ở phương xa nào mà ḿnh th́ già cả mù ḷa. Bà nghĩ một cách: Dựng một quán trà trên đường trước nhà; có Tăng sĩ đi qua bà đều bưng nước trà mời, và giúp Tăng sĩ rửa chân. V́ Hoàng Bích chân trái có một nốt u bà hy vọng có thể bằng cách này t́m lại được người con của ḿnh chăng? Nhiều năm đă trôi qua như vậy.
Hoàng Bích sau khi xuất gia cũng rất nhớ mẹ . Có một ngày, ông tự nhiên, khô ng cố ư đi trên đường trở về nhà. Thấy có quán trà, bèn dừng lại vào quán, ông thấy bà mẹ đă bao năm xa cách.
Mẹ ông bưng trà cho ông uống, sau đó lại giúp ông rửa chân. Hoàng Bích do dự hồi lâu mới đưa chân phải cho mẹ rửa. Khi mẹ ông giúp ông rửa chân, ông nói Phật Thích Ca Mâu Ni rất là vĩ đại. Phật Thích Ca Mâu Ni từ bỏ gia đ́nh là v́ nguyên nhân ǵ. Bà mẹ rửa xong chân phải cho Hoàng Bích, muốn rửa chân trái, th́ Hoàng Bích nói: “Chân trái của tôi bị thương, không để cho bà rửa được”. Nói xong bèn đứng dậy rút lui. Hoàng Bích đi rồi, có người nói với mẹ ông: “Người vừa mới đi ra chính là vị Thiền sư rất vĩ đại hiện nay là Hoàng Bích Hy Vận”. Bà mẹ khổ quá v́ không đoàn tụ được với con, bèn nhảy xuống sông tự tử.
Hoàng Bích khi biết chuyện này, chỉ nói một câu: “Chỉ khi được giải thoát mới thật sự đền ơn”.
Ôi! Tôi đọc xong truyện Thiền sư Hoàng Bích mà toát mồ hôi như tắm. Chỉ khi được giải thoát mới thật sự là đền ơn. Hoàng Bích đúng là một nhà tu hành vĩ đại phi thường.
Đó mới thực là “hành thâm”. Thiền sư Hoàng Bích tuy trong nội tâm c̣n do dự, nhưng vẫn giữ được cảnh giới bất động.
Nếu một người không có biện pháp “hành thâm” cũng rất dễ thể nghiệm.
Nhớ lại lúc nhỏ, thường theo cha lên núi Lục Quy Sơn để hái hoa lan dại. Chúng tôi mỗi người đeo một cái thúng đi suốt hai ngày một đêm. Cậu bé nhỏ tuổi như tôi không cách nào hiểu được v́ sao cha ḿnh phải leo núi hai ngày một đêm chỉ để hái hoa lan dại!. Tôi hỏi cha tôi: Ba hái hoa lan dại để làm ǵ?
Ông trả lời: “Để về nhà thưởng thức” .
Tôi nói: “Hoa nào mà không thưởng thức được. Cần ǵ phải leo núi hai ngày một đêm liền để hái hoa lan dại?”
Cha tôi đáp: “Đấy là v́ có rất nhiều người trước đây chưa từng biết đến hoa lan dại đẹp tuyệt vời thế này. V́ vậy, phải hái về cho họ thưởng thức. Chỉ có đi nhiều ngày đêm, đến những nơi không có vết chân người mới hái được thứ hoa lan dại rất đẹp và rất quư báu này”.
Kinh nghiệm này làm cho tôi hết sức động tâm, phải đến tận chỗ không có chân người mới thấy được cái mà người khác không có.
Thiền Tông gọi đó là “Hướng vạn lư vô thốn thảo xử hành khứ”. Nghĩa là đến nơi xa hàng vạn dặm không cỏ mọc. Cũng nói: “Cao sơn đỉnh lập, thâm thâm hải đế hành” . Một ḿnh đi trên núi cao, và đi dưới đáy biển sâu. Cũng nói: “Độc tọa đại hùng phong thượng”. Nghĩa là một ḿnh ngồi trên đỉnh núi cao.
Có lầ n tôi đi thăm người bạ n ở Bỉnh Đông. Bạn tôi dẫn tôi đi xem các cây chè dại. Loại cây chè này cao bằng ṭa nhà một lầu. Ở những nơi khác, các cây chè đều thấp bé. Bởi v́ hàng ngày, chúng bị người ta hái lá, cho nên chúng không có cơ hội để lớn lên.
Cũng phải đi quăng đường nhiều ngày mới đến nơi có cây chè dại mọc trên núi cao. Loại cây chè này mọc ở đây đă hơn 100 năm rồi. Nó cho tôi một nhận thức sâu sắc: đó là “hành thâm”, đi đến nơi sâu thẳm để có được nhận thức mới. Đương nhiên, đó chỉ là sự phát hiện ở bên ngoài. Thế giới nội tại cũng là như vậy. Nó cũng là không cùng tận. Hăy đi sâu hơn nữa vào nội tâm để t́m ṭi. Đó chính là hành thâm.
“Bát Nhă” là trí tuệ . “Ba la mật” là đến bờ bên kia. “Bát Nhă ba la mật” là trí tuệ đạt tới bờ bên kia. C̣n chữ “thời” là thế nào? Khi anh hết sức chú ư làm một việc nhất định, chuyên chú tới mức quên ḿnh, thành ra vô tâm th́ tức là anh đă nhập vào trong thời gian. Trong cuộc sống, cũng không khó thể nghiệm trạng thái “Vô tâm” đó.
Mùa hè nóng bức, làm việc bận rộn suốt một ngày rồi được về nhà, tắm nước nóng, ngồi trên ghế dài rất tiện nghi đọc một cuốn sách hay và nghe âm nhạc. Lúc ấy chính là nhập “thời” tức là một t́nh trạng hết sức vô tâm, v́ cả toàn thân của anh đều thư giăn. Trên thực tế, anh đă tiến vào một thời gian khác, một không gian khác, nó chồng lên trên cuộc sống b́nh thường của anh, nhưng ở một cấp độ khác.
T́nh trạng vô tâm này, dù là rất cao quư hay rất b́nh thường, đều có thể xuất hiện. Trong cuộc sống, có rất nhiều thời điểm như vậy.
Trong “Tâm kinh”, chữ “thời” là chỉ thời điểm sanh khởi ra trí tuệ đến
bờ bên kia (cũng tức là trí tuệ thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt, trong mát; phàm là trí tuệ tốt đẹp, đều có thể gọi là trí tuệ đến bờ bên kia) sanh khởi ra cảnh giới tốt đẹp, th́ tức là anh tiến vào thời điểm ấy.
Nhận thức rơ nhân duyên khởi diệt đều là tướng không, th́ sẽ siêu việt được khổ đau tai nạn (Tâm kinh).
“Quán chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Quán chiếu 5 uẩn đều là không, thoát khỏi mọi khổ ách.
Năm uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
Sắc là h́nh dáng, màu sắc, h́nh tượng.
Thọ là cảm thọ, cảm giác.
Tưởng là do cảm giác mà sanh ra ư niệm.
Hành là do cảm giác, ư niệm mà sanh ra động tác, hà nh vi, cũng gọi là mạng sống nối tiếp không dứt.
Thức là trạng thái ư thức, nảy sinh trên cơ sở bốn uẩn nói trên.
Hăy đưa ra một ví dụ đơn giản: Trên núi, anh thấy một đóa hoa bách hợp. Nếu anh không biết đó là hoa bách hợp, th́ anh cũng thấy đó là loài hoa màu trắng, h́nh dáng giống như cái loa. Anh thấy màu sắc và h́nh dáng của hoa. Đó chính là sắc.
Rồi anh cảm giác thấy đóa hoa trong sạch thuần khiết xiết bao? Đó là thọ.
Anh lại suy nghĩ: Đóa hoa thuần khiết này thật là đẹp, tôi rất là ưa thích. Đó là tưởng.
Đóa hoa đẹp này, hăy hái nó đưa về nhà, thực là tốt. Rồi anh hái hoa. Đó là hành.
Anh đưa đóa hoa về nhà. Người nhà nói cho anh biết đấy là hoa bách hợp. Anh bèn đem đóa hoa ḥa hợp với từ “bách hợp”, sanh ra nhận thức đó là hoa bách hợp. Đó là thức.
Năm uẩn che mất tự tánh của chúng ta, cũng như đám mây che bầu trời. Muốn thấy được tự tánh, phải chiếu kiến 5 uẩn đều là không. Khi nh́n đóa hoa bách hợp, anh chỉ thấy hoa bách hợp, không để bị ảnh hướng bởi một cái nh́n thế tục cố định nào. Giả sử chúng ta đánh giá một đóa hoa bách hợp. Sự đánh giá của chúng ta không làm cho hoa ấy tăng hay giảm vẻ đẹp của nó một chút nào. Thực tướng của nó là không thay đổi. Do đó mà năm uẩn của chúng ta, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đối với đóa hoa là không có tác dụng. Như vậy có thể thấy rơ, 5 uẩn chủ quan của chúng ta, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đối với mọi sự vật khách quan là không có tác dụng. Năm uẩn đó là “tánh không” không thể nắm bắt. Do đó, chúng ta có nhận thức: Năm uẩn là tướng không, nó khởi và diệt, nó không có thực thể.
Từ hoa bách hợp, tôi liên tưởng đến cái cây, tôi trồng ở nhà, gọi là “cây bà cô” (Cô Bà Diệp). Cây này có lá to bản. Gọi nó là cây bà cô, v́ nó giống như các cô các bà, sanh sản rất nhanh! Bà mẹ tôi lấy làm lạ hỏi: Đó là loại cây không ai cần đến cả. Con trồng nó để làm ǵ?
Ngày nay, cây bà cô không có giá trị, không ai hỏi mua nó. Nhưng, ngày xưa lá của nó có ích. Người làng dùng lá của nó để bọc thịt lợn. Một lá bà cô có thể tách làm 2, 3 mảnh, đem bọc các miếng thịt lợn. Dùng xong vứt xuống đất, rồi về nhà một cách tự nhiên.
Bây giờ, toàn dùng bao ny lông. Mua 10 gói miến là đem 10 bao nylon về nhà. Đâu đâu cũng tràn ngập bao nylon, thực là đáng sợ. Về mặt đó mà nói, lá cây bà cô rất có giá trị. Nhưng nếu nh́n theo góc độ khác, th́ nó lại không có giá trị. Thế nhưng, dù cho anh nh́n nó như thế nào, nó không có thay đổi, nó vẫn là lá cây bà cô. Cây lá bà cô vẫn sinh sản nhanh, mọc khắp các nơi.
Nếu chú ng ta thấy được nhân duyên khởi diệt như thế nào, chúng ta sẽ thấy được bầu trời ở đàng sau đám mây 5 uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, và sẽ tiến được vào cảnh giới, thấy 5 uẩn đều là không.
***
Độ nhất thiết khổ ách (Tâm kinh) nghĩa là siêu việt, vượt qua mọi thống khổ và khó khăn.
Con người thấy được 5 uẩn đều là không th́ sẽ vượt qua lên trên mọi thống khổ và khó khăn.
Bởi v́ thấy rơ được nhân duyên khởi diệt như thế nào th́ siêu việt thống khổ và khó khăn sẽ rất dễ dàng.
Gần đây, trên một tờ báo, tôi có đọc một báo cáo của Thị trưởng Đài Bắc là tiên sanh Hoàng Đại Châu. Ô ng kể chuyện ngày xưa ông thi đại học, năm thứ nhất không may, làm bài không tốt, hỏng thi. Năm thứ hai lại thi đỗ vào trường Đại Học Nông Nghiệp Đài Bắc. Ông nói, nhờ thi lại năm sau nên được quen biết giáo sư Lư Đăng Huy, gây ấn tượng tốt với giáo sư Huy. Cho nên về sau, khi giáo sư Huy nhậm chức chủ tịch tỉnh, th́ mời ông làm bí thư trưởng ở phủ chủ tịch. Và hiện nay ông chuyển sang làm thị trưởng Đài Bắc.
Từ giác độ rộng lớn của nhân sanh mà xét, nhân duyên khởi diệt phải chăng là chuyện khó nghĩ bàn. Thành công và thất bại, tiêu chuẩn là ǵ đây?
Người ta thường nói: “Thất bại là mẹ của thành công”. Kỳ thực, thành công cũng là cha của thất bại. Câu thứ hai này cũng quan trọng, và thường hay bị lăng quên. Nếu không có thành công, sẽ không có thất bại. Bản chất của hai cái đó là một.
__________________ Đừng bao giờ hỏi tại sao
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|