Tác giả |
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 1 of 9: Đă gửi: 16 April 2006 lúc 9:35pm | Đă lưu IP
|
|
|
Xin phép bạn OnlyOne_0 cho tôi được post lại bài Pháp của Ḥa Thượng v́ bài này rất hợp với những ai sơ cơ như sunbeam tôi. Bài Pháp này theo tôi đă tóm lược nhiều sách, tiết kiệm thời gian cho những ai bận rộn, ít có th́ giờ đọc kinh sách.Thành thật cám ơn bạn.
CHÁNH TÍN VÀ MÊ TÍN
Ḥa thượng Thích Thanh Từ
Hôm nay chúng tôi sẽ nói đề tài Chánh tín và mê tín. Trước khi bàn về vấn đề này chúng ta phải hiểu thế nào là Phật, thế nào là đạo Phật. Nếu chúng ta biết Phật, biết đạo Phật th́ chúng ta mới có thể nói chánh tín, mê tín được, chớ không hiểu Phật mà nói chánh tín, mê tín e sẽ hiểu lầm. Cho nên trước hết tôi sẽ nói về Phật và đạo Phật.
Chúng ta lâu nay đọc sách nghiên cứu, nhất là sách cổ. Quí vị thấy trong các quyển sách xưa, không dùng từ Phật mà nói đến Phật th́ dùng từ Bụt. Ngày xưa gọi Bụt, ngày nay gọi Phật. Như vậy từ nào đúng hơn? Vấn đề này tuy đơn giản nhưng nếu không thấu suốt chúng ta sẽ lúng túng khi gặp người khác hỏi. Chính nhờ hai từ Bụt và Phật mà chúng ta có thể nghiên cứu được sự truyền bá của đạo Phật vào Việt Nam qua những con đường nào.
Theo tiếng Phạn, Phật nói đủ là Buddha. Chữ Dha là người, chữ Bud là giác. Buddha là người giác ngộ. Trung Hoa dịch là Giác giả. Giả là người, giác là giác ngộ. Giác giả là người giác ngộ. Người giác ngộ nghe dễ hiểu quá, nhưng tại sao chúng ta không gọi người giác ngộ mà gọi là Phật. Tôi sẽ giải thích điểm này.
Phật giáo Việt Nam ban đầu do người Ấn Độ theo đường biển, ghé vào Việt Nam truyền đạo. Người Ấn th́ quen dùng Buddha, khi Phật giáo được truyền bá vào Việt Nam, dân ta đọc trại âm thành ra Bụt, chữ dha là người, chúng ta gọi là ông. Thế nhưng tại sao không gọi ông Giác ngộ mà gọi là ông Bụt?
V́ ư nghĩa giác ngộ có nhiều lối giải thích, như giác ngộ của đạo Phật là giác ngộ thấu suốt được nhân sinh, thấu suốt được vấn đề con người một cách tường tận, gọi đó là giác ngộ. Song ở thế gian có người trước kia là kẻ trộm cắp, rượu chè say sưa. Sau đó được giáo dục họ thức tỉnh, bỏ trộm cắp rượu chè, người ta nói anh ấy đă giác ngộ. Như vậy giá trị giác ngộ của kẻ trộm đến mức nào? Chỉ là giác ngộ những tật xấu chớ chưa phải giác ngộ những ǵ cao siêu. Như vậy nếu gọi Phật là người giác ngộ th́ có thể bị hiểu lầm. Do đó trong nhà Phật dùng nguyên từ Phật để nói lên nghĩa giác đó không phải tầm thường.
Người Ấn Độ trực tiếp dạy chúng ta từ Bụt nhưng tại sao chúng ta lại gọi là Phật? Là v́ tới đời Trần, Việt Nam mới thỉnh tạng kinh chữ Hán từ Trung Hoa sang. Chữ Buddha Trung Hoa viết chữ Phất, chúng ta đọc trại thành Phật. Từ này có lẽ từ đời Trần trở về sau mới dùng, c̣n trước kia gọi là Bụt. Kể cả văn Nôm của ngài Trần Nhân Tông cũng viết Bụt (Phú Cư Trần Lạc Đạo). Vậy từ Bụt là do sự trực tiếp giáo hóa của người Ấn trước kia. Sau này dần dần có những Thiền sư ở Trung Hoa sang, hệ thống Phật giáo Trung Hoa được truyền vào nước ta làm phong phú thêm cho Phật giáo Việt Nam.
Nên biết nói tới Phật là nói tới sự giác ngộ bằng trí tuệ chớ không phải bằng ḷng tin. Song ngày nay Phật tử đi đến chùa v́ ḷng tin nhiều hơn v́ giác ngộ. Đó là cái đau của chúng ta. Nguyên đạo Phật là đạo giác ngộ mà Phật tử đến với đạo Phật bằng ḷng tin th́ đă làm mất hết giá trị của đạo Phật, thật đáng buồn.
Phật là một vị giác ngộ, mà giác ngộ nghĩa là thấu triệt được lư nhân sinh v.v... chớ không phải giác ngộ theo nghĩa thông thường của người thế gian. Phật là bậc giác ngộ th́ giáo pháp của Ngài dạy đều là những lời chỉ bảo cho chúng ta nương theo đó mà tự tu tập, để cùng được giác ngộ như Ngài.
Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy rằng: “Các ngươi hăy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với chánh pháp.” Ngài bảo chúng ta phải tự thắp đuốc sáng, tự soi đường mà đi. Thắp lên với chánh pháp, tức là chúng ta phải mồi trí tuệ của ḿnh với chánh pháp của Phật. Vậy th́ càng đến với đạo Phật, càng thâm hiểu chánh pháp là càng mở sáng trí tuệ.
Nên trong nhà thiền thường hay dùng từ “truyền đăng tục diệm”, nghĩa là trao đèn nối lửa. Tại sao gọi là trao đèn nối lửa? V́ trí tuệ giác ngộ của đức Phật sáng ngời như ngọn lửa như đèn, chúng ta muốn được mở sáng trí tuệ phải nhờ trí tuệ của Phật để mồi sáng trí tuệ của ḿnh. Mồi sáng trí tuệ của ḿnh gọi là trao đèn, gọi là nối lửa. Nếu không mồi sáng được th́ không phải theo đạo Phật, cũng không có nghĩa giác ngộ. Cho nên trao đèn nối lửa là trao sự giác ngộ, tức là đem pháp Phật trao dạy cho mọi người được biết. Việc làm này gọi là truyền bá Phật pháp hay truyền bá đạo Phật.
Bây giờ định nghĩa đạo Phật là ǵ? Đạo là phương pháp, là con đường. Phật là sáng suốt, giác ngộ. Đạo Phật là phương pháp dạy cho chúng ta được sáng suốt, giác ngộ. Nên giá trị của đạo Phật là đem lại cho mọi người trí tuệ sáng suốt, chớ không phải đem lại cho mọi người ḷng tin.
Đạo Phật đă lấy trí tuệ, lấy giác ngộ làm gốc th́ tại sao trong đạo Phật chấp nhận mê tín được. Nhưng hiện nay Phật tử chúng ta đến với đạo Phật để mở sáng trí tuệ rất ít mà đến với đạo Phật bằng ḷng tin, bằng cầu xin th́ rất nhiều. Cho nên đă có một thời người trí thức nh́n đạo Phật như là một đạo mê tín. Phê b́nh như vậy là oan cho đạo Phật rồi. Đạo Phật dạy một đàng, mà Phật tử làm một nẻo nên bị người ta phê b́nh sai lầm.
Đến đây chúng ta bắt đầu đi vào đề tài mê tín và chánh tín. Lẽ ra tôi nói chánh tín trước nhưng muốn cho quí vị nhớ sâu, nhớ kỹ nên tôi nói mê tín trước. Chữ mê tín định nghĩa rất dễ. Mê là mờ mịt, sai lầm. Tín là tin. Tin một cách mờ mịt sai lầm, không có lẽ thật gọi là mê tín. Đạo Phật lẽ ra không phải là mê tín, tại sao trở thành mê tín? Tôi sẽ lần lượt giải thích.
Theo chiều dài lịch sử, đạo Phật đă có trên hai mươi lăm thế kỷ, c̣n chiều rộng th́ Phật giáo có hai hệ:
1) Nam truyền Phật giáo.
2) Bắc truyền Phật giáo.
Hai hệ này trước kia ở Trung Quốc gọi là hệ Đại thừa và hệ Tiểu thừa. Ngày nay người ta không dùng hai từ đó nữa, v́ nó mang tính cách so sánh dị biệt, Đại thừa là to và Tiểu thừa là nhỏ, nghe như khinh nhau. Hiện giờ Phật giáo Việt Nam có cả hai hệ Nam tông, Bắc tông cùng chung tồn tại. Trong đó hệ Đại thừa đổi tên lại là hệ Phát triển. Hệ Tiểu thừa gọi là hệ Nguyên thủy. Tôi xin nói sơ qua về hệ Phát triển và hệ Nguyên thủy.
Về hệ Nguyên thủy, chữ nguyên là trước, chữ thủy cũng là trước, hai chữ đó dùng chung lại để cho thấy hệ này y cứ từ buổi ban đầu của Phật giáo. Buổi ban đầu của Phật giáo, sự truyền giáo, sự tu hành như thế nào th́ hệ này sống đúng như vậy, nên gọi là Nguyên thủy.
C̣n hệ Phát triển, Phát triển tức là tùy cơ, tùy duyên, có sự linh động và luôn luôn tiến lên, chớ không dừng nghỉ ở một chặng nào. V́ vậy sanh hoạt của chư Tăng trong hai hệ cũng khác nhau.
Ngày xưa ở Ấn Độ, Phật đi khất thực, bây giờ hệ Nguyên thủy cũng đi khất thực. Do khất thực nên thí chủ cho ǵ nhận nấy. Người ta cho thức ăn mặn chư Tăng cũng phải ăn, quí vị nên hiểu như vậy để không khỏi ngạc nhiên khi thấy chư Sư Nguyên thủy ăn mặn. Và các vị này chỉ ăn buổi sáng và buổi ngọ, gọi là ngọ trai tức bữa ăn trưa.
Chữ trai và chữ chay khác nhau. Chữ trai là ăn đúng ngọ, c̣n chữ chay là không ăn cá thịt, chỉ ăn những thức ăn thực vật. Chữ trai giới là giữ đúng ngọ, quá giờ ngọ không ăn. Như vậy hệ Nguyên thủy ăn trai mà không ăn chay. Buổi chiều có thể chỉ uống một ly nước trà đường, đó là điều mà chúng tôi được biết nhân dịp sang Tích Lan và Ấn Độ trước đây.
Về mặc th́ chư Sư quấn y màu vàng sậm. Ở trong Nam có hai hệ: một hệ quấn y màu vàng sậm là hệ Nguyên thủy; c̣n hệ quấn y màu vàng nhạt và ăn chay là hệ Khất sĩ, Sơ Tổ hệ này là ngài Minh Đăng Quang. Hệ này ở miền Nam phát triển cũng mạnh lắm.
Về giáo lư, hệ Nguyên thủy dùng giáo lư bằng chữ Pali, tức kinh điển Pali để giảng dạy, tu học, kể cả đọc tụng. C̣n hệ Khất sĩ dùng kinh chữ Việt. Thế là tôi đă nói đại cương về hệ Nguyên thủy rồi.
Về hệ Phát triển, đây là hệ từ Ấn Độ truyền sang miền Bắc, kinh điển dùng chữ Sanskrit. Thời đó đức Phật đi khất thực, c̣n Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên không thích khất thực. Những vị Ḥa thượng lớn ở Trung Hoa được triều đ́nh hay các ông quan cất chùa rồi cúng cho một thửa ruộng, chư Tăng trồng trọt lấy mà ăn. Nếu trồng trọt, nấu nướng chẳng lẽ chư Tăng phải mua gà, mua vịt th́ không đúng, v́ phạm tội sát sanh. Nên các ngài chỉ ăn các loại thực vật, thành ra các ngài ăn chay chớ không phải hai hệ có sự chống đối nhau. Đó là lư do các chùa thuộc hệ Phát triển đều ăn chay. Đă ăn chay lại phải làm ruộng nữa, nếu giữ trai giới không ăn buổi chiều th́ làm không nổi, nên buộc ḷng chư Tăng ăn cháo chiều. Đó là việc ăn uống của Bắc tông hay hệ Phát triển.
Đến phần mặc, hệ Phát triển không đặt nặng h́nh thức ăn mặc, tùy theo phong tục quốc gia mà chư Sư có các y phục riêng. Phật giáo sang Trung Hoa có h́nh thức ăn mặc theo Trung Hoa, sang Việt Nam có h́nh thức ăn mặc theo Việt Nam, sang Nhật Bản có h́nh thức ăn mặc theo Nhật Bản. Bởi v́ hệ Phát triển không quan trọng chuyện ăn mặc mà chỉ quan trọng ở chỗ biết bệnh và biết thuốc mà thôi. Đâu v́ ăn mặc khác mà chúng ta nói không phải đạo Phật. Đó là tinh thần Phát triển.
Tinh thần Phát triển c̣n có ư nghĩa tùy duyên. Tùy duyên là đến đâu tùy theo tŕnh độ, tập quán của địa phương, làm sao ḥa nhập được để truyền bá Phật pháp th́ tốt chớ không cố chấp. Do đó giữa hệ Phát triển và hệ Nguyên thủy có những sai biệt về mặt truyền giáo.
Trong nhà Phật có từ “tùy duyên nhi bất biến, bất biến nhi tùy duyên”. Tùy duyên là tùy căn cơ, tùy phong hóa tập tục; bất biến là chánh pháp của Phật không bao giờ thay đổi. Tùy theo tập tục, phong hóa của mỗi địa phương mà ứng dụng được Phật pháp. Làm thế nào cho người địa phương chấp nhận, đó là tùy duyên; c̣n chánh pháp của Phật phải giữ thủy chung như nhất, không đổi thay, đó là bất biến. Như vậy tinh thần của hệ Phát triển đi sâu vào phần này hơn.
Các nước tu theo Phật giáo Nguyên thủy thờ tượng Phật cũng giống người Ấn Độ. Nhưng sang Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản th́ nước nào diện Phật theo nước đó, chớ không bắt buộc phải giống như người Ấn Độ. Đó là những đặc điểm của hai hệ phái chánh đang được truyền bá ở Việt Nam.
Riêng ở miền Bắc nước ta chỉ có hệ Phát triển đang phát triển mạnh, c̣n hệ phái Nguyên thủy th́ dường như không có bao nhiêu. Do sự truyền bá rộng răi ấy mà Phật giáo bị pha trộn ít nhiều màu sắc tín ngưỡng của địa phương. Chúng ta vào các chùa miền Bắc giải thích hết những pho tượng ở trong chùa, chắc không nổi. V́ ở đó có Phật, Bồ-tát, La-hán, Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu v.v... đủ hết, nên biết đâu mà giải!
Miền Nam th́ việc thờ phụng đơn giản hơn. Nhất là các Thiền viện chúng tôi chỉ có đức Phật Thích-ca ở giữa thôi, không có tượng thứ hai. Bởi do sự hội nhập của Phật giáo ban đầu ḥa vào tánh người bản địa, nên sự tín ngưỡng không đúng như chân tinh thần của đạo Phật.
Như ở trên tôi đă định nghĩa mê tín là ḷng tin mù quáng, sai lầm, không có lẽ thật. Việc mê tín này không chỉ có người quê dốt mới mê tín, mà cả giới trí thức cũng mê tín như thường. Động cơ nào đưa đến mê tín chúng tôi sẽ nói sau. Như đă nói mê tín là tin mù quáng, sai lầm không có lẽ thật, nhưng tin thế nào? Tin có đấng thiêng liêng làm mẫu mực để răn điều ác, thưởng điều thiện. Tin những vị thần thánh có quyền ban phước giáng họa, khi chúng ta cầu đến các ngài. Các thứ tin đó đều thuộc về mê tín. Tại sao? Tôi sẽ giải thích từng phần.
Thuở xưa Tổ tiên chúng ta tin rằng dưới là đất, giữa là người, trên là Trời. Trời, đất, người, đó là cái gốc. Theo tổ chức thời quân chủ, người th́ có vua có quan, trên vua dưới quan để cai trị dân. Người đă như vậy th́ trên trời cũng có Ngọc Hoàng Thượng Đế là vua, Nam Tào, Bắc Đẩu là quan để coi bộ sổ trị phụ cơi này. Và dưới đất có Diêm vương, rồi cũng Nam Tào, Bắc Đẩu phụ cai trị nữa. Như vậy, lấy cái thực trạng của nhân gian mà tưởng tượng ra hệ thống cai trị cơi trời cũng như hệ thống cai trị ở địa ngục.
Nhưng thực tế, quí vị có thấy Ngọc Hoàng Thượng Đế hay Nam Tào, Bắc Đẩu nào đến răn người ác, thưởng người thiện không? Không thấy mà cứ tưởng tượng. Hồi xưa để răn người ác nên dân gian dùng h́nh tượng Thiên lôi trừng trị như sét đánh. Nhưng thuyết đó bây giờ không c̣n v́ khoa học đánh đổ mất rồi. Người thưởng người phạt không c̣n, tức là bộ máy quan lại không c̣n th́ ông vua cũng không c̣n. Ngày nay hệ thống cai trị trên trời đă bị khoa học phá vỡ, hệ thống trừng trị dưới địa ngục cũng bị phá vỡ luôn. Tôi nói thế quí vị sẽ nghĩ tôi không tin có cơi trời, cơi địa ngục. Không phải vậy.
Trong kinh Phật có dạy người tu Thập thiện sẽ được sanh về cơi trời. Cơi trời chớ không phải nước trời. Cơi là một hành tinh, một thế giới, thế giới đó tốt đẹp hơn thế giới chúng ta. Chúng ta có phước sanh chỗ tốt hơn, chúng ta vô phước sanh chỗ khổ hơn, chớ không phải có một cơi trời đang ngự trị chúng ta.
Cơi địa ngục cũng bị hiểu lầm là cái ngục ở dưới đất. Như vậy đào đến đâu mới tới địa ngục? Chúng ta thường dùng từ “địa phương”, chẳng hạn địa phương Hà Nội, địa phương Sài G̣n v.v... Địa phương là chỉ nơi chốn, vậy địa ngục là ǵ? Là nơi hành phạt con người. Ai có tội lỗi th́ bị đến đó chịu hành phạt, nên gọi là địa ngục. Theo nghĩa này th́ trên dân gian có địa ngục không? Đâu phải đợi xuống âm phủ mới có địa ngục, nếu hiểu như vậy chúng ta mới sợ địa ngục. Bởi v́ ḿnh gây tội th́ đâu phải đợi chết mới xuống địa ngục, mà hiện đời cũng phải đọa địa ngục.
Nếu chúng ta tin có một đấng thiêng liêng cầm cân nẩy mực, ban phước giáng họa th́ cái tin đó có đúng sự thật không? Nếu tin không đúng sự thật th́ gọi là ǵ? Gọi là mê tín. Vậy mà người ta cứ tin có ông Thần này, ông Thánh nọ hoặc Thánh mẫu độ mạng. Tin vào một người mà ḿnh hoàn toàn không biết ǵ hết th́ thật là dại dột làm sao!
Quí vị đến chùa nhưng không phải tin Phật, theo Phật mà lại tin những ǵ không phải Phật dạy mới kỳ chứ. Phật dạy qui y Phật là không qui y với thiên thần quỉ vật. Qui y Pháp là không qui y với ngoại đạo tà giáo. Qui y Tăng là không qui y với kẻ ác người dữ. Bây giờ quí vị qui y với Phật mà tin quỉ, tin thần, tin đủ thứ hết.
Thứ hai là bói toán, bùa chú, đồng bóng, xem ngày tốt xấu, mấy thứ đó có phải mê tín không? Thầy bói dù bói có trúng trăm phần trăm cũng là mê tín, huống là bói sai. Tại sao? Tôi cũng có quen với những người thầy bói, coi tay xem tướng, có khi họ bói rất trúng. Nhưng quí vị nhớ, có thầy bói nào nói “anh hay chị sẽ gặp việc đúng y như bản tường tŕnh tôi nói đây măi măi” không? Hay là họ bảo ba tháng, sáu tháng đến coi lại. Tại sao ba tháng, sáu tháng coi lại? Chúng ta cứ nghĩ chắc ông thầy bói này làm tiền, bắt ba tháng sáu tháng trở lại để kiếm tiền quẻ. Nhưng sự thật không phải vậy, bởi v́ tướng tay của chúng ta thay đổi luôn luôn, tùy theo hành động của ḿnh. Chúng ta có hành động tốt th́ sẽ chuyển những việc xấu, chúng ta có những hành động xấu th́ sẽ hư những việc tốt, không nhất định. Như vậy hành động tốt, hành động xấu có ảnh hưởng đến thân tướng, tới chỉ tay của chúng ta. Thế th́ chúng ta nên đi coi bói hay nên hành động?
Trong sách tướng thường có câu: “hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh” nghĩa là có tâm tốt mà không có tướng tốt, tướng tốt từ tâm tốt mà hiện. “Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt” nghĩa là có tướng tốt mà không có tâm tốt th́ tướng tốt cũng theo tâm xấu mà mất. Sách tướng nào ở trang đầu hoặc trang cuối cũng đều ghi bốn câu đó cả. Tôi xin nhắc lại: “Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm sanh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt”. Như vậy tướng tốt mà tâm ác th́ tướng tốt cũng bị mất.
Thí dụ như có người được thầy bói xem tướng nói: “anh có phước tướng sẽ được sung sướng v.v...” nhưng người đó có tánh nóng nảy, một hôm ai nói trái ư, anh nổi giận đập người ta chết. Khi đập người ta chết th́ quí vị nghĩ tướng tốt và phước của anh c̣n hay mất? - Mất liền, v́ anh sẽ ở tù, sẽ tiều tụy, đâu c̣n tốt nữa. Vậy dù nói trúng trăm phần trăm, tướng tốt đó cũng không bảo đảm. Bảo đảm nhất là tâm tốt hay xấu, nếu khéo giữ tâm ḿnh tốt th́ mọi việc xung quanh đều tốt. Không giữ tâm tốt mà cứ đi coi bói th́ kết quả chỉ tốn tiền vô ích mà thôi.
Nên tổ tiên chúng ta có những câu như thế này: “Tay cầm tiền quí bo bo, đem cho thầy bói thêm lo vào ḿnh.” Như gia đ́nh đang yên vui không có việc ǵ, bỗng dưng đi coi thầy bói, nói ba tháng nữa ḿnh bị nạn, như vậy có c̣n vui không? Nên tin vào thầy bói chỉ khổ thân không có ích lợi ǵ cả, chúng ta nên tin vào chính ḿnh mới là điều quan trọng.
Con người ḿnh tốt th́ mọi việc xấu sẽ qua. Con người ḿnh xấu th́ mọi việc tốt sẽ mất. Tin như vậy là chánh tín. Tin theo thầy bói là mê tín. Sự nguy hại của mê tín là làm cho chúng ta khổ sở, hao tốn tiền của v.v...
Tôi không biết sinh viên ở đây (Hà Nội) ra sao, chớ các cô cậu ở TP. *** khi sắp thi Tú tài, thường đi coi bói. Đă học tới Tú tài th́ cũng được xem là trí thức rồi nhưng vẫn mê tín như thường. Tôi nói để quí vị thấy không phải người b́nh dân, dốt nát mới mê tín mà có khi giới trí thức cũng mê tín. Đó là v́ chúng ta không tự tin ḿnh.
Nếu thầy bói nói cô hay cậu nhất định sẽ thi đậu, nhưng cô cậu ấy không thuộc bài th́ có thi đậu được không? Ngược lại nếu thầy bói nói thi rớt nhưng cô cậu ấy học thuộc bài th́ chắc ǵ rớt. Cho nên đậu rớt là gốc ở chúng ta. V́ vậy chúng ta phải dè dặt đừng để rơi vào mê tín. Có nhiều người nói ông bà ḿnh thuở xưa coi địa lư, xem tướng số, đổ tử vi th́ ḿnh cũng làm theo chớ đâu phải mê tín. Hoặc nói đổ tử vi rất đúng, đă đúng th́ đâu phải mê tín.
Tôi xin nhắc cho quí vị nhớ, quyển sách tử vi nào cũng viết tuổi này lớn lên có gia đ́nh, có đôi bạn, có con nhiều hay ít v.v... chưa có quyển tử vi nào nói tuổi này lớn lên sẽ đi tu. Vậy mà vẫn có người đi tu. Thế th́ tử vi có phải là chân lư chưa? Lại nữa, các nhà bói toán, xem tử vi, coi địa lư luôn nhắc câu này: “Tuổi anh, tuổi chị tốt nhưng phải khéo làm lành, khéo ăn ở th́ mới hưởng được phước, c̣n nếu không làm lành, không khéo ăn ở th́ vận số có thể đổi.” Như vậy th́ làm lành ăn ở tốt cho rồi, đi coi bói chi cho tốn tiền. Đó là nói về tướng số tử vi.
Đến địa lư, ngày xưa tổ tiên chúng ta cũng tin địa lư, riêng tôi có đọc sách địa lư, tôi thuộc câu này:
Phong thủy nhân gian bất khả vô,
Toàn bằng âm chất lưỡng tương pḥ,
Phú quí nhược tùng phong thủy đắc,
Tái sanh Quách Phát giả nan đồ.
Nghĩa là phong thủy ở nhân gian chẳng phải không. Cũng có tốt có xấu nhưng mà phải nương vào phước đức (âm chất). Phước đức nhiều cộng thêm phong thủy tốt, cả hai góp sức nhau th́ mới thành tựu được điều tốt. Nếu chỗ đất tốt mà người làm việc xấu ác th́ cũng vô nghĩa. Câu kế nói phú quí nhược tùng phong thủy đắc nghĩa là giàu sang nếu từ phong thủy mà được, th́ ông Tổ địa lư là Quách Phát dù có tái sanh trở lại, chỉ cho chúng ta chỗ đất tốt cũng không giàu sang phú quí được.
Như vậy địa lư có thể có, nhưng phải cộng với đức hạnh tốt của ḿnh. Đạo đức sâu dày th́ mới thực hiện được địa lư tốt. Đạo đức không có th́ dù địa lư tốt cũng không làm ǵ được cả. Đức hạnh mới là chánh, người có đức hạnh th́ chỗ nào vừa ư là chỗ đó tốt. Người không có đức hạnh th́ thấy chỗ đất tốt nhưng rồi cũng không tốt. Chúng ta thấy mọi sự việc, kể cả địa lư cũng tùy thuộc vào con người.
Hiện nay chúng ta mắc phải mê tín rất nhiều. Lư do, một là v́ ḷng tham, hai là do sợ hăi, ba là tại si mê. Ba thứ đó là ba cái nhân của mê tín.
Về tham, tôi thí dụ như có người vay số tiền lớn để làm ăn nên phải chạy hỏi ông đồng bà cốt. Do muốn kết quả lớn, có lợi nhiều như ḿnh mong cầu mà v́ ḿnh chưa biết nên nôn nao chạy hỏi người này, người kia. Đó là gốc từ tham lam mà ra.
Thứ hai là do sợ hăi, như có người gặp hoạn nạn một hai lần c̣n chịu nổi, nhưng bị dồn dập quá chịu hết nổi đâm ra hoảng hốt chạy nơi này nơi kia t́m hỏi, trường hợp này cũng dẫn đến mê tín.
Thứ ba là do si mê không nhận được lẽ thật nên t́m thầy hỏi han. Đó là ba điều đưa con người đến mê tín. Nhiều ông đồng, bà cốt, thầy bói đâu có học thức ǵ, nhưng nghe nói linh thiêng người ta cũng đến bái xá, cầu cạnh, xin bùa, xin phép, thưa hỏi đủ chuyện. Đó là chúng ta tự hạ thấp ḿnh để cầu xin một người lẽ ra không đáng quí, đáng trọng. Như vậy có đáng chê trách không?
Kế đây tôi nói qua phần chánh tín tức là Phật pháp. Phật pháp th́ rất nhiều và rất rộng, ở đây chúng tôi chỉ nói nền tảng của đạo Phật là “Lư nhân quả”. Nhân quả có hai phần: chánh nhân, trợ nhân và hai phần phụ là thuận nhân, nghịch nhân.
Chánh nhân là nhân, trợ nhân là duyên. thuận nhân, nghịch nhân cũng gọi là thuận duyên, nghịch duyên. Thí dụ như người nông dân gieo lúa th́ hạt giống lúa là chánh nhân. Nhưng nếu có hạt giống mà không có đất, không có nước, không chăm bón th́ có nẩy mầm tăng trưởng thành cây lúa và trổ bông lúa không? Chắc chắn là không thể được. V́ thế có chánh nhân rồi cần phải có trợ duyên nữa.
Như vậy nhân và quả sẽ đến với điều kiện đủ duyên thuận. Nếu gặp duyên nghịch như bị sâu đục thân th́ dù chúng ta có chánh nhân là hạt giống lúa, có phân có nước trợ duyên, nhưng gặp duyên nghịch là sâu phá hoại th́ cây lúa cũng không thể đơm bông kết trái được. Nên phải cẩn thận chăm sóc chi tiết lắm, mới có kết quả như ư muốn.
Nhân quả là một lẽ thật, có thể gọi là chân lư phổ biến. Quí vị nh́n từ các loại thực vật cho tới động vật, các loài khoáng sản v.v... có loại nào không nhân mà có quả đâu. Con người cho tới loài vật như trâu, ḅ, heo, dê v.v... cũng phải từ nhân đến quả, từ bào thai sanh ra rồi lớn lên, không có loài nào bỗng dưng mà có. Cho tới ngôn ngữ chúng ta sử dụng cũng theo chiều nhân quả. Như khi viết một câu văn đến chỗ cần thiết, chúng ta dùng từ v́ hay do để nói về nguyên nhân của vấn đề ḿnh đang tŕnh bày. Như vậy, lư luận của chúng ta cũng không tách rời nhân quả được. Từ cuộc sống cho tới ngôn ngữ đều nằm trong nhân quả.
Vậy th́ việc lành dữ, khổ vui có nằm trong nhân quả không? Như người tánh hay nóng nảy, thấy ai làm trái ư liền la mắng. La mắng là nhân xấu th́ dĩ nhiên quả sẽ bị người ta la mắng lại. Nhân đă gieo th́ quả phải chịu. C̣n thấy người khổ, chúng ta giúp họ theo khả năng của ḿnh th́ dù người ấy dốt tới đâu đi nữa, họ cũng biết cám ơn chúng ta. Nếu họ không nói tiếng cám ơn, họ cũng tỏ thái độ quí ḿnh. Như vậy làm điều tốt th́ quả tốt sẽ đến với chúng ta.
Có nhiều vị than thế này: “Tôi tốt với người đó quá mà sao họ trả những điều xấu cho tôi.” Ngày xưa tôi có viết bài “Nhân hoa quả cỏ” để nói lên việc này. Lúc đó tôi ở Phương Bối Am tại Bảo Lộc - Lâm Đồng, có xin được một số hạt hoa. Mỗi ngày tôi đều tưới nước, chăm sóc tương đối cũng kỹ. Nửa tháng sau chúng mọc lên xanh mướt. Tôi mừng quá v́ thấy hạt hoa ḿnh gieo lên thật đều. Nhưng qua một tháng nh́n lại toàn là cỏ, không có cây hoa nào cả. Nhân đó tôi thức tỉnh và viết bài “Nhân hoa quả cỏ”.
Tại sao gieo hạt hoa mà lên cỏ? Tôi phát hiện v́ ḿnh không rải thuốc trừ kiến, nên hạt hoa đă bị kiến tha đi hết. Tôi lo tưới nước mỗi ngày mà không ngờ ḿnh nuôi toàn là cỏ. Cũng như trường hợp có người bác nuôi mấy đứa cháu mồ côi, con của em trai ḿnh. Người bác cũng thương cho ăn học đàng hoàng nhưng mỗi lần con ḿnh và các cháu xem chiếu bóng th́ ông cho con ḿnh hai ngàn, c̣n cho cháu một ngàn thôi, chớ không bằng con ruột. Khi lớn lên, mấy đứa cháu không thương, không trọng bác nữa. Ông đâm ra bực bội: Tại sao ḿnh nuôi nấng cho nó ăn học, đối xử với nó tốt mà bây giờ nó xấu với ḿnh?
Do đó mặc dù có chánh nhân nhưng thiếu trợ duyên hay trợ duyên không tốt th́ kết quả có thể bị thay đổi. Như vậy quí vị thấy nhân quả trong cuộc sống không đơn giản như ta nghĩ. Không phải làm điều tốt th́ mọi việc tốt sẽ đến với ḿnh. Khi làm điều tốt chúng ta phải tiếp tục nuôi dưỡng, bảo vệ nó th́ mới có kết quả như ư ḿnh. V́ vậy phải trợ duyên từ thủy tới chung.
Nhiều người không hiểu cứ hỏi sao nhân tốt mà quả không tốt. Đó là nh́n không tường tận. Nhân quả trùm khắp ở thế gian, chân thật chớ không phải tưởng tượng ảo huyền. Chúng ta gieo nhân tốt và luôn luôn trợ duyên tốt th́ kết quả sẽ tốt. Vậy quả tốt, quả xấu đến với chúng ta rơ ràng đâu phải do các đấng thiêng liêng ban cho. Chúng ta là chủ tạo những điều tốt, điều xấu, chúng ta cũng là chủ nhận những quả tốt, quả xấu. Như vậy quyền tạo và hưởng là quyền của ḿnh.
Hiểu được nhân quả, quí vị thấy cuộc sống thật dân chủ. V́ chính ḿnh có quyền tạo nhân tốt và chính ḿnh có quyền hưởng quả từ nhân đă tạo. Ḿnh làm ḿnh chịu, chớ không phải ai làm cho ḿnh chịu. Giả sử nếu có ai làm cho ḿnh chịu th́ đó cũng do nhân gián tiếp nào của ḿnh gây không tốt mới đưa đến quả như vậy. Hiểu biết đúng đắn th́ chúng ta mới nhận trách nhiệm lớn lao trong cuộc sống này.
Về mặt thời gian, nhân quả chịu ảnh hưởng ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Thí dụ chúng ta gieo hạt lúa giống xuống ruộng th́ ít ra ba, bốn tháng sau mới có quả. Như vậy ḿnh đối xử với người hôm nay mà muốn được kết quả liền cũng không được. Tới khi nào chúng ta bị khổ hay hoạn nạn th́ người ta mới thổ lộ sự biết ơn với ḿnh, chớ đâu thể nói ḿnh làm tốt th́ người ta trả ơn liền. Hiểu lư nhân quả rồi, nếu đời này chúng ta nghèo quá, chúng ta trách ai? Dân gian ta có câu:
Bởi chưng kiếp trước khéo tu,
Ngày nay con cháu vơng dù nghênh ngang.
Chúng ta không được vơng dù nghênh ngang là tại kiếp trước thiếu làm lành nên ngày nay phải khổ. Vậy trách xă hội, trách những người xung quanh có đúng không? Phải tự trách ḿnh, chính v́ thiếu phước nên bây giờ phải cố gắng chuyển cho tốt.
Hiểu được lư nhân quả, khi chúng ta gặp hoàn cảnh khổ mới không đố kỵ người khác sung sướng hơn ḿnh, cũng không oán trách xă hội, chỉ nhận trách nhiệm về phần ḿnh, rồi cố vươn lên. Trong xă hội, ai ai cũng hiểu như vậy th́ xă hội đẹp biết mấy.
Ngày nay chúng ta có bệnh hay đổ thừa cho xă hội bất công, hoàn cảnh này kia v.v... Tự chúng ta làm điều xấu nhưng không dám nhận lỗi, lại đổ thừa người này người kia v.v... Đó là chúng ta không gan dạ. Hiểu và tin nhân quả th́ chúng ta phải gan, phải biết điều hay, điều dở chính là do ḿnh, tự nhận lấy trách nhiệm chớ không trốn trách nhiệm với mọi người. Tin nhân quả như vậy gọi là chánh tín. V́ sao? V́ tin đúng lẽ thật.
Trong kinh A-hàm Phật kể, một hôm có các thầy Bà-la-môn đến hỏi Phật:
- Thưa ngài Cồ-đàm, đệ tử Ngài sau khi chết Ngài có thể cầu nguyện cho họ sanh về cơi lành được không?
Phật không trả lời mà hỏi lại:
- Đệ tử của các ông chết, các ông có thể cầu nguyện sanh về cơi lành được không?
Các vị ấy đáp:
- Được.
Đức Phật liền dùng thí dụ:
- Như có cái giếng sâu, một người lăn cục đá lớn để trên miệng giếng, rồi mời vài chục thầy Bà-la-môn đến hỏi: “Tôi xô ḥn đá này xuống giếng, quí thầy cầu cho nó đừng ch́m được không?”
Các thầy Bà-la-môn lắc đầu. Phật hỏi:
- Tại sao?
Các vị ấy trả lời:
- V́ đá nặng ch́m tận đáy giếng, dù cho có ngàn người cầu cũng không được.
Phật lại dùng thí dụ thứ hai:
- Như có người đem dầu rưới xuống miệng giếng và yêu cầu hai ba chục thầy Bà-la-môn tới cầu nguyện cho dầu ch́m xuống tận đáy giếng, các thầy có cầu được không?
Các thầy Bà-la-môn cũng lắc đầu. Phật hỏi:
- Tại sao?
Quí vị ấy trả lời:
- V́ dầu nhẹ nên phải nổi, dù có bao nhiêu người cầu cũng không thể ch́m.
Phật nói:
- Cũng vậy, nếu người làm lành, làm thiện dù cho các ông cố cầu cho họ bị đọa địa ngục, họ cũng không đọa. C̣n người làm ác, nhiều tội lỗi, dù các ông có cầu nguyện mấy họ cũng không thể sanh chỗ lành được.
Qua bài kinh đó chúng ta thấy Phật có chấp nhận cầu nguyện không? Rơ ràng không. Thay v́ cầu nguyện th́ chúng ta phát tâm làm lành, chớ đừng nghĩ có tiền đem vô chùa nhờ quí thầy cầu nguyện cho ḿnh. Đạo Phật rất tinh tế, chỉ tại người sau hiểu sai rồi đi lệch từ từ.
Như vậy nguồn gốc chánh tín từ đâu ra? Một là do trí tuệ nên chúng ta nhận định đúng, từ sự nhận định đúng đó nên không bị mê tín. Hai là chúng ta can đảm, dù gặp cảnh khổ cảnh khó, cũng không sợ nên không rơi vào mê tín. Thế nên biết, người chánh tín là người có trí tuệ, người can đảm, dám chịu trách nhiệm và ít tham lam. Người như vậy có tu chưa? Tu rồi! Tu là nhận định đúng, sống đúng, chớ không phải tu là ăn chay cho nhiều, cầu nguyện cho nhiều. Cho nên người chánh tín là người sáng suốt, tự lực, can đảm, tự chủ.
Ngược lại, nếu mê tín th́ sẽ chuốc lấy những điều tai hại như sau:
- Một là mù tối không có trí tuệ.
- Hai là ỷ lại quỉ thần.
- Ba là yếu đuối, không tự chủ, không gan dạ.
- Bốn là bị tha hóa, bị lệ thuộc vào đấng này, đấng kia v.v...
Như vậy chánh tín, mê tín có những lợi hại hết sức rơ ràng. Qua đó, chúng ta thấy chánh tín là một sức mạnh của cuộc sống. Nếu người Phật tử hiểu đạo Phật đúng như vậy mới thấy giá trị của đạo Phật rất cao. Phật tử ngày nay v́ chưa hiểu đúng nên đạo Phật bị đánh giá là mê tín. Đó là lỗi của những vị thiếu nghiên tầm, thiếu hiểu biết.
Tôi đă tŕnh bày đại lược về chánh tín và mê tín xong, mong quí vị nghe nhận và suy ngẫm kỹ để thấy được chân giá trị của đạo Phật trong đời sống của người Phật tử chúng ta.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 2 of 9: Đă gửi: 18 April 2006 lúc 9:02am | Đă lưu IP
|
|
|
OnlyOne_ Post Tặng bạn Sunbeam và các bạn cùng forum theo cùng chủ đề : Chánh Tín và Mê Tín
OnlyOne_0 chúc các bạn vui khỏe !
CHỖ ĐỒNG KHÁC GIỮA PHẬT HỌC
VÀ KHOA HỌC
Hoà thượng Thích Thanh Từ giảng tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt - 2001
Đề tài hôm nay tôi nói là “Chỗ đồng khác giữa Phật học và Khoa học”. Đây là một vấn đề trọng đại.
Từ trước đến giờ, đạo Phật được một số nhà khoa học công nhận là đạo khoa học. Tại sao? V́ đạo Phật phân tích sự vật, con người rất chi ly và hợp lư với khoa học. Thí dụ Duy thức học có Bách pháp tức một trăm pháp, chia chẻ từ con người cho tới ngoại cảnh rất rơ ràng. Khoa học cũng phân tích chia chẻ, nên gần với Phật học.
Tuy nhiên có một số người nói đạo Phật duy tâm, không dính ǵ với khoa học hết. Đó là hai lối nh́n tương phản về đạo Phật, tồn tại từ trước tới nay. Cho nên chúng tôi nghĩ cũng cần nói qua những nét căn bản đồng và khác giữa hai bên cho quí vị hiểu tường tận.
Trước hết tôi nói về chỗ đồng. Khoa học muốn đem lại ấm no hạnh phúc về vật chất cho đời sống của con người, cho nên trọng tâm khoa học nghiên cứu t́m kiếm là làm sao cho con người được ấm no, hạnh phúc, sung sướng, nhất là về mặt tiện nghi. Điều này quả thật đă đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho cuộc sống con người. Như ngày xưa muốn được ấm no, phải nỗ lực cần cù làm việc cặm cụi cả ngày mới có cơm ăn, áo mặc, ngày nay khoa học đă giúp con người t́m được sự ấm no dễ dàng hơn, như một thửa ruộng ngày xưa thu hoạch chừng một hai tấn, bây giờ có thể thu hoạch gấp đôi gấp ba mà không cần dùng nhiều sức người, tất cả đều được công nghiệp hóa. Các mặt khác cũng thế, phương tiện giao thông, y tế, thực phẩm v.v… đều tối tân hiện đại. Do đó chúng ta thấy khoa học đă thỏa măn phần nào những nhu cầu vật chất của con người.
Đạo Phật cũng nhắm thẳng vào con người nghiên cứu, cho nên giữa Phật học và khoa học có điểm tương đồng là đều lấy con người làm trọng tâm để nghiên cứu.
Đến điểm khác, đó là Phật học và khoa học có mục đích khác nhau. Khoa học phát minh sáng tạo theo chiều hướng t́m ṭi bên ngoài cốt phục vụ cho nhu cầu vật chất của con người. C̣n Phật học nghiên tầm ngược lại ngay nơi bản thân con người, để phát minh ra được cái chân thật có năng lực vô tận nằm bên trong con người. Chúng ta đọc sử Phật, thấy rơ ràng đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi c̣n là Thái tử, Ngài dạo bốn cửa thành thấy cảnh người già, người bệnh, người chết đau đớn thống khổ, Phật liền đặt vấn đề: “Chúng ta sanh ra ai rồi cũng già, cũng bệnh, cũng chết. Lớp người trước như vậy, lớp người kế như vậy, lớp người sau cũng măi măi như vậy. Thế th́ con người từ đâu đến đây? Sau khi chết sẽ đi về đâu? Muốn thoát ra sự sanh tử này phải làm sao?” Ba mục tiêu đức Phật nhắm có khác khoa học không?
Khoa học nghiên cứu con người chỉ nghiên cứu ngay trong cuộc sống, nếu xa hơn là phăng t́m nguồn tổ tiên con người có mặt bao lâu, tiến hóa như thế nào. Ở đây đức Phật nh́n con người trước khi có thân này ở đâu, tại sao đến đây? Đó là điểm thứ nhất. Thứ hai, khi chết rồi, c̣n hay mất? Nếu c̣n th́ đi về đâu? Thứ ba, nếu muốn dừng sự sanh tử phải làm sao? Đó là ba vấn đề mà tất cả những người học Phật, nghiên cứu về đạo Phật phải nắm cho được. Như vậy cùng căn cứ trên con người mà hai bên có hai cái nh́n khác nhau.
Khoa học chỉ muốn đem lại cho con người sự vui sướng thỏa măn trong cuộc sống hiện đời, nhưng đạo Phật đi sâu hơn, nghĩ tới ḍng sanh tử tiếp nối không ngừng của tất cả chúng sanh. Như vậy cái nh́n của đạo Phật sâu xa hơn về cuộc sống hiện tại cũng như quá khứ vị lai, trong thế giới này và các thế giới khác. Theo đó mà phương pháp và chỗ nghiên cứu sâu cạn của hai bên khác nhau.
Khoa học t́m đủ mọi cách để cung phụng, thỏa măn nhu cầu vật chất cho con người, đó là nói theo chiều thuận. Song tai hại ghê gớm từ những phát minh khoa học, con người cũng không thể lường nổi. Cho nên khoa học là một con dao hai lưỡi, một mặt làm cho con người sung sướng, một mặt tiêu diệt con người. V́ vậy không thể nói khoa học hoàn toàn đem đến an vui hạnh phúc cho nhân loại.
C̣n Phật học th́ sao? Người ta thấy khoa học ít năm hay ít tháng phát minh cái này, cái nọ một cách cụ thể rơ ràng. C̣n nh́n các thầy tu cứ ngồi lim dim ngó xuống hoài, không thấy phát minh ǵ hết. Một bên có kết quả cụ thể, một bên không thấy chút tăm hơi, cứ thầm lặng bên trong không ai biết thế nào. Đó là chỗ sai biệt.
Nếu chỉ lo cho con người khỏe mạnh sống lâu, nhưng sống đến một lúc nào cũng phải chết thôi. Thành ra việc nghiên cứu ấy rất giới hạn. C̣n cái nh́n của đức Phật không dừng ngang đó, Ngài muốn biết nguồn gốc nào con người có mặt ở đây, khi chết sẽ đi về đâu. Như vậy sự hiện hữu của chúng ta là một phần thuộc về quá khứ, và những ǵ ta làm trong hiện đời sẽ ảnh hưởng đến vị lai. Cho nên đức Phật phăng t́m lẽ thật đó. Phương tiện duy nhất Ngài phăng t́m là lặng lẽ chiếu soi vào nội tâm ḿnh, cho tới lúc hoàn toàn tịch tĩnh, tự nó bừng sáng.
Bởi bừng sáng nên đức Phật chứng được minh đầu tiên là Túc mạng minh, Ngài nhớ vô số kiếp về trước của ḿnh, con ai, làm ǵ, ở đâu… Nhớ như thế, Ngài mới thấy rơ con người không phải chỉ có mặt lần thứ nhất ở cơi này, mà đă có vô số lần rồi. Chúng ta thử kiểm lại xem điểm này có hợp với lẽ thật không? Như trong một gia đ́nh cha mẹ đồng sanh ra ba bốn người con, tất cả những ư nghĩ, tư tưởng, tâm tư của họ có giống hệt nhau không? Nhiều lắm là giống h́nh tướng, nhưng cũng không giống trọn vẹn. Nếu nói về vật chất, gen của cha mẹ tốt th́ con cũng tốt, gen của cha mẹ xấu th́ con cũng xấu, nhưng tại sao lại có kẻ vầy người khác, người hiền kẻ dữ?
Đức Phật thấy chúng sanh đă có mặt nhiều đời, nên người đời trước hiền lành, đời sau sanh ra cũng hiền lành, nhờ chủng tử có từ trước. Cũng thế người hung dữ sanh ra liền hung dữ, không ai dạy mà tự phát. V́ vậy Phật nói mỗi người mang sẵn những chủng tử nghiệp từ quá khứ liên hệ đến hiện tại và sẽ ảnh hưởng đến vị lai.
Ai cũng muốn sanh ra trong gia đ́nh giàu sang sung sướng, nhưng vẫn có người phải chui vào những gia đ́nh nghèo khổ tàn tật. Cái ǵ khiến họ phải lựa chọn như vậy? Đó là nghiệp. Phật thấy rất rơ về điều này, con người từ trước do tích lũy nghiệp lành, nghiệp dữ nên ngày nay sanh ra gặp những cảnh tốt xấu, chớ không ai đặt để cho cả. Ví dụ như tôi, cha mẹ sanh ra lo cho học hành, mong muốn lớn khôn gầy dựng gia đ́nh sự nghiệp như bao nhiêu người, nhưng tôi lại đi tu. Điều này cha mẹ không dạy, sao lại có? Rơ ràng tôi đă tích lũy từ đời trước, nên đời này gặp Tam Bảo tự nhiên muốn tu. Chúng ta thấy rơ ở thế gian có nhiều cảnh ngang trái mà người ta vẫn phải chịu, không buông bỏ được. Đây chính là chỗ đức Phật muốn phăng t́m.
Nói vô số kiếp, có người thắc mắc ban đầu chưa có ai th́ làm sao có chúng sanh thủy tổ. Phật nói ban đầu là vô minh. Vô minh là mê lầm. Từ một niệm mê lầm mà có bao nhiêu sanh tử. Như khi chúng ta ngủ, mộng thấy nào là đi đám tiệc, nào là gây gổ với thiên hạ chẳng hạn, đủ thứ chuyện. Tại sao thấy như vậy? Tại mê chớ không có lư do nào khác. Sở dĩ ta mê ngủ mới phóng túng đi tùm lum. Cũng vậy, từ mê lầm chúng ta không sống được với Thể tánh thanh tịnh của ḿnh, nên lăn lộn trong tam giới. Đó là Phật nói về nguồn gốc của sự sanh.
Bây giờ nói đến vấn đề sau khi chết đi về đâu? Khi chứng được Thiên nhăn minh, Ngài thấy rơ chúng sanh đều do nghiệp dẫn đi trong các đường. Nghiệp lành đi đường tốt, nghiệp dữ đi đường xấu, rơ ràng như chuyện trước mắt, không nghi ngờ ǵ hết. Như vậy con người chết không phải là hết, mà bị nghiệp dẫn đi trong sanh tử. Nghiệp đó mắt phàm không thấy nổi, chỉ khi tâm thanh tịnh rồi mới thấy được.
Ngày xưa đọc sách Trung Quốc, thấy mấy ông tiên nh́n ai th́ biết người đó có hắc khí sắp bị tai nạn, hoặc có ánh sáng sẽ gặp việc lành, tương lai tốt đẹp. Đừng nói chi tiên, mấy con chó ở nhà quê khi thấy người làm heo, giết chó, chúng sủa rân. Bởi họ có cái ǵ thầm kín, mắt ta không thấy được. Bây giờ khoa học tiến nhiều, thấy trong bầu trời nhiều thiên thể mà mắt thường không thể thấy. Điều này chứng tỏ con mắt phàm t́nh rất giới hạn. Mắt Phật vượt qua các giới hạn đó nên Ngài thấy được nghiệp của chúng sanh. Tượng Phật Bồ-tát thường được trang trí ṿng hào quang phía sau đỉnh đầu, để nói lên ánh sáng trí tuệ của các ngài siêu xuất thế gian, soi tỏ khắp hết.
Thứ ba, khi chứng được Lậu tận minh rồi, đức Phật biết rơ chúng sanh đau khổ trôi lăn trong sanh tử từ vô số kiếp đến nay là do vô minh điên đảo tạo nghiệp mà ra. Với con mắt phàm phu thấy cuộc đời là hạnh phúc, là quan trọng, nhưng với con mắt của Phật th́ thấy một lần sanh tử là một lần đau khổ. Cứ tiếp tục như vậy măi th́ đau khổ vô cùng, nên trong kinh A-hàm Phật nói: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển cả.” Nói vậy thế gian cho là bi quan, nhưng đó là lẽ thật. Con người sợ thấy sự thật, họ muốn tạm quên vô thường, cứ hăng hái xông xáo làm tất cả việc, chừng nào ngă đùng chết hăy hay. Như vậy vô t́nh loài người cứ thúc nhau đi trên con đường sanh tử tiếp nối, đời này sanh ra khổ, đời sau tiếp nối khổ, cứ khổ măi cho tới vô cùng.
Do thấy được lẽ thật này, Phật dạy phải t́m cách thoát khổ, không phải thoát khổ một đời, mà thoát khổ vĩnh viễn. Muốn thế phải làm sao? Khoa học tạo ra vật chất nhằm thỏa măn nhu cầu đời sống con người, đó là giảm bớt cái khổ hiện tại. Nhưng khi nhắm mắt không ai giúp ta được hết. Đức Phật thấy ḍng sanh tử vô cùng vô tận, dù đời này có thỏa măn sung sướng, chắc ǵ đời sau được yên vui. Nhưng thỏa măn thế nào đi nữa, con người có trốn khỏi cái già, cái bệnh, cái chết không? Già bệnh chết là đau khổ, thiên hạ ai không sợ. Vậy cái khổ luôn ở bên ḿnh, nói vui sao được? Một đời này ta đă thấy chán, huống là trăm ngàn đời, làm sao chịu nổi! Cho nên Phật t́m cách giải quyết, đừng cho nó tiếp tục nữa. Muốn thế, cách duy nhất là phải tu. Trước tiên là tạo nghiệp lành, tránh nghiệp dữ, cho ṿng luân hồi tốt một chút. Nhưng cuối cùng c̣n sanh tử là c̣n đau khổ, phải tu làm sao để giải thoát sanh tử. Đến khi chứng được Lậu tận minh, Phật mới thấu rơ phương pháp nào để chấm dứt ḍng sanh tử.
Như vậy nghiên cứu của Phật học khác với khoa học nhiều ít? Khoa học chỉ lo cho hiện tại, c̣n Phật học lo cho vô số đời sau. Phật dạy muốn thoát ly sanh tử, phải có đủ hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất, biết rơ bản chất con người là hư hay thực, khổ hay vui? Khi nhận thức đúng rồi, mầm tham muốn được sanh tự nhiên dừng lại. Như bây giờ nếu chúng ta không tham lam, không nóng giận, không si mê th́ làm việc ǵ sẽ không có hối hận. Sở dĩ ḿnh hối hận liên miên v́ tham lam, nóng giận, si mê nên làm bậy. Vậy muốn không tạo nghiệp phải sáng suốt, thấy đúng như thật về con người.
Khi nghe ai nói “anh này hôi quá”, chỉ một chút thôi, đó là sự thật mà người ta không chịu. Cuộc đời này toàn là tô điểm, giả càng thêm giả. Con người măi chạy theo cái giả, làm sao tỉnh được. Tất cả chúng ta đa số đều sống trong cái mê cho nên khổ hoài. Phải tỉnh, thấy được lẽ thật để không c̣n tham đắm cuộc sống giả tạm. Không tham đắm cuộc sống giả tạm th́ bớt nghiệp dẫn đi trong sáu đường. Đây là vấn đề hết sức quan trọng.
Trong kinh Kim Cang Phật nói: “phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”, nghĩa là tất cả những ǵ có tướng đều là hư vọng, nếu thấy các tướng không phải tướng, đó mới là thật thấy Phật. Chúng ta thường sống trong ảo tưởng hư dối làm sao giải thoát được, cho nên cứ kéo dài, cứ đùa vui trên con đường sanh tử. Đức Phật thương nên dạy tất cả chúng ta hăy thức tỉnh, mới thấy cuộc sống này chỉ là một giấc mơ thôi. Mấy mươi năm tưởng như dài, nh́n lại trong chớp mắt chẳng là ǵ.
Người tu thiền trước phải học Bát-nhă để nhớ con người không thật, các cảnh duyên không thật nên không tham đắm vào đó. Khi ngồi thiền Phật dạy phải định, dừng tâm nghĩ tốt, nghĩ xấu, nghĩ phải, nghĩ quấy v.v… để nhận ra cái chân thật không sanh không diệt muôn đời của ḿnh. Như vậy trước dùng Trí tuệ Bát-nhă ruồng phá tất cả kiến chấp sai lầm mê muội của ḿnh. Sau khi ruồng cái đó rồi, trở lại dẹp tận gốc tạo nghiệp. Cho nên đối với hành giả tu thiền, trí Bát-nhă phải đi đầu. Vấn đề này phải tu để thể nghiệm mới biết được chỗ sâu thẳm bên trong, chớ không thể nói suông được.
Khi ta ngồi thiền có những phút tạm yên, vậy ai thấy yên? Đâu phải cái nghĩ thiện, nghĩ ác thấy, mà ta vẫn biết lúc này đang yên, như vậy ngầm có một cái bên trong thường thấy thường biết rơ ràng. Cái đó đâu phải từ chỗ nào đến, nó sẵn nơi ḿnh, nhưng v́ vọng tưởng lăng xăng nhào lộn hoài thành ra ta không thấy nó. Khi vọng tưởng dừng lại, tâm lặng lẽ tự nhiên ta nhận ra được thôi. Khi yên phăng phắc như vậy c̣n khen chê phải quấy nữa đâu, th́ lấy ǵ tạo nghiệp. Không c̣n tạo nghiệp mà hiện tiền ta vẫn thấy biết, đó chính là Bản tâm giải thoát sanh tử, không c̣n bị nghiệp kéo lôi nữa. Thế là nhờ công phu thiền định, trí tuệ phát sanh, chúng ta chặt đứt được cội gốc luân hồi sanh tử.
Chứng Lậu tận minh là không c̣n rớt trong tam giới, không c̣n bị sanh tử nữa. Tại sao không c̣n? Bởi tâm lặng lẽ hiện tiền th́ đâu c̣n tạo nghiệp để đi trong sanh tử. Nhà Phật dùng mọi cách để chỉ cho chúng ta thấy ḿnh có viên ngọc quí, nhưng từ lâu bỏ quên, bây giờ phải nhớ để nhận lại. Vua Trần Thái Tông khi nói tới sự sanh, Ngài làm hai câu thơ:
Vĩnh vi lăng đăng phong trần khách, Nhật cách gia hương vạn lư tŕnh.
Nghĩa là đă từ lâu ta làm người khách phong trần. Mỗi ngày đi cách quê hương muôn dặm. Mỗi lần sanh ra là mỗi lần xa cách quê hương. Cho nên h́nh ảnh chàng cùng tử bỏ cha mẹ đi lang thang, khi thức tỉnh trở về thấy cha mẹ không dám nh́n. Đó là để diễn tả khi chúng ta đă quên cái thật rồi, th́ càng đi càng xa, càng ch́m đắm, đối diện với cái thật cũng không thể nh́n ra.
Người biết tu phải trở về bằng hai cách. Một là biết ḿnh có cái chân thật, đó là gốc. Trong nhà thiền gọi là đủ ḷng tin. Hai là từ biết ḿnh có cái chân thật nên những thứ giả dối không gạt ta được nữa. Loại dần cho đến hết cái giả dối rồi th́ cái chân thật hiện ra. Đơn giản làm sao!
Chúng ta thấy cái nh́n của đức Phật và cái nh́n của khoa học cách xa bao nhiêu? Xa thăm thẳm, vậy mà bây giờ con người chỉ biết tán dương khoa học, c̣n Phật học th́ thấy như chuyện đâu đâu. Đức Phật thương chúng sanh cứ măi mê lầm để ch́m trong sanh tử như thế, nên Ngài mới khởi đại bi tâm muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi sanh tử, chớ không phải cho ăn cho mặc sung sướng.
Phật dạy con người khổ là tại tham, sân, si. Bây giờ muốn hết khổ phải chừa bỏ từ từ, đi lần tới chỗ tuyệt đỉnh là sạch hết những niệm lăng xăng, chừng đó mới giải thoát sanh tử, hoàn toàn tự do tự tại. Như vậy con đường chúng ta đi gần hay xa? Đạo Phật nói tu ba vô số kiếp, xa thăm thẳm phải không? Ba vô số kiếp mới thành Phật thật là xa thăm thẳm. Nhưng có chỗ Phật nói chúng sanh giác ngộ thành Phật nhanh như trở bàn tay. “Hồi đầu thị ngạn”, quay đầu lại là bờ giác. Như vậy cái nào đúng? Cái nào cũng đúng hết.
Ví dụ Phật tử đă hiểu đạo giữ năm giới rồi, như vậy đời sau sanh ra sung sướng hơn. Nhưng nếu không có duyên gặp Phật pháp tiếp tục tu nữa, chỉ lo thụ hưởng, hết phước sẽ trôi lăn trở lại. Cứ trồi lên hụp xuống như vậy ba vô số kiếp, nên nói tu đến ba vô số kiếp. C̣n ngay nơi thân này biết nó giả dối không tham muốn nữa, tâm lặng dần những niệm lăng xăng phải quấy của thế gian, nhận ra cái chân thật và sống với nó, đây gọi là giác ngộ thành Phật nhanh như trở bàn tay.
Phật chứng được Tam minh rồi, Ngài biết được nguyên nhân nào chúng sanh đi trong sanh tử và làm sao để ra khỏi. Tại sao Ngài biết? Là v́ Ngài đă có kho báu, dùng được nó th́ diệu dụng không thể lường. Nên nhà thiền thường nói Chân không diệu hữu. Khi đă thể nhập chỗ chân thật ấy rồi, có năng lực không thể nghĩ bàn, nên nói diệu dụng như hằng sa.
Chúng ta tu từng bước, bỏ từ từ chớ không có can đảm buông một lần. Bởi vậy nên lư đạo th́ rất rơ, mà ứng dụng th́ chưa tới đâu. Nhiều người tu cả năm mà cuối cùng thấy cũng chưa bước được bước nào, đôi khi c̣n sụt nữa là khác. Hạng người này tu theo con đường ba vô số kiếp. Hạt giống Phật tuy không mất nhưng cứ trồi lên hụp xuống, tu rồi hưởng, hưởng hết phước lại tuột xuống, cứ thế xoay vần măi.
Nhà thiền thường nói những bậc đại trượng phu nhảy một cái vọt tới chót núi. Đây không phải là chuyện nói đùa, mà sự thật nếu người can đảm như Lục Tổ một lần nghe liền ngộ, ngộ rồi buông hết, cả ngày không có một niệm như vậy làm sao không giải thoát được.
Cho nên nếu nh́n đến chỗ cứu kính th́ đạo Phật cách xa khoa học muôn trùng. Đức Phật không có kính thiên văn, mà thấy hết những thiên thể trên bầu trời nhiều như số cát sông Hằng, khoa học bây giờ t́m c̣n chưa ra hết số hành tinh ấy. Phật thấy vi trùng cũng khỏi cần kính hiển vi, nên chuyện Ngài nói đâu phải mơ màng. V́ thế phải biết khi sống trở về với Tâm chân thật rồi, trí tuệ thấu suốt, thấy đúng lẽ thật của các pháp.
Tất cả chúng ta tu Phật th́ phải thấy chỗ siêu thoát của đạo Phật. Thấy cho tường tận mới không lầm với những điều hào nhoáng bên ngoài được người ta tán thưởng. Ví dụ ngày xưa đi từ Nam ra Bắc phải ba bốn tháng, bây giờ chỉ mấy tiếng đồng hồ là tới nơi. Thấy th́ thích thật, nhưng lỡ máy bay tắt máy giữa chừng, lúc đó không biết kêu cứu với ai. Thế gian luôn luôn là như vậy, cạnh cái sung sướng đă có khổ đau chực sẵn một bên.
Đạo Phật không chấp nhận sự sung sướng như thế. Phật dạy nếu bớt tham sân si th́ không c̣n mầm mống của đau khổ. Đó là một lẽ thật. Chúng ta tu tới tâm hoàn toàn trong sạch, tự sáng ra thấy cuộc sống này như tṛ chơi, chừng đó chết sống không có ǵ bận tâm, là đă qua bao nhiêu cái khổ. Dù cuộc sống vật chất không sung túc lắm, nhưng tâm hồn thoải mái tự tại là ta cảm thấy hạnh phúc rồi. Chỉ cần giảm bớt ba thứ độc tham sân si th́ gia đ́nh nào cũng hạnh phúc. Đó là hạnh phúc thật sự, chớ không phải hạnh phúc giả dối.
Tóm lại, nếu hiểu đạo Phật một cách đúng chúng ta sẽ thấy có những đặc điểm như sau. Đặc điểm thứ nhất, đạo Phật nói đúng như thật chớ không dối gạt người. Tất cả những ǵ Phật nói đều là lẽ thật. Đạo Phật cho chúng ta biết thế gian là khổ và chỉ phương pháp diệt khổ. Đặc điểm thứ hai, đạo Phật chỉ cho chúng ta nhận ra cái chân thật có sẵn nơi ḿnh, vĩnh viễn xa rời trầm luân sanh tử, chớ không phải từ đâu lại. Đặc điểm thứ ba, đạo Phật tôn trọng tự do tuyệt đối. Tất cả chúng sanh ai cũng có quyền làm Phật và ai cũng có quyền làm chúng sanh, ai cũng có quyền xuống địa ngục, ai cũng có quyền lên cơi trời, Phật không can dự vào. Ngài chỉ hướng dẫn cho biết đâu là tốt đâu là xấu, c̣n phần chọn lựa quyết định là của chúng ta. Tất cả khổ vui, giải thoát hay trói buộc gốc từ ḿnh.
Tất cả chúng ta có duyên gặp Phật pháp là điều rất quí hiếm. Ngoài ra c̣n được thầy, bạn chỉ dẫn lẽ thật cho ḿnh, đây không phải là chuyện dễ. Qua được hai điều khó này rồi, chỉ c̣n ḿnh ráng tu thôi. Nếu không tu được th́ thôi, đừng kêu trời trách đất, cũng đừng than phiền với ai hết, đó là tại ḿnh có quyền mà không tự sử dụng. Vậy mong tất cả chúng ta luôn sáng suốt sử dụng quyền của ḿnh, để làm lợi ích cho ḿnh và cho mọi người.
Tự do thế gian c̣n có luật pháp này nọ, chớ tự do trong đạo Phật là tuyệt đối. Ta muốn đi trong lục đạo luân hồi th́ cứ đi, muốn ra khỏi th́ cứ ra, quyền của ḿnh. Cho nên vui khổ tự làm tự chịu, không thể trách ai được cả.
Mong tất cả quí Phật tử nghe ít hiểu nhiều, nói sơ sài mà thấm sâu, nhớ lâu, tu hành đắc lực, được kết quả thiết thực. Vậy là tốt.
|
Quay trở về đầu |
|
|
az24 Hội viên
Đă tham gia: 03 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 40
|
Msg 3 of 9: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 2:14am | Đă lưu IP
|
|
|
Đọc bài của bác SunBeam post lên tôi thấy Ḥa thượng Thich Thanh Từ viết hay quá.
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 4 of 9: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 3:14am | Đă lưu IP
|
|
|
Tôi xin được đính chánh
Tất cả các bài Pháp của HT Thanh Từ được post lên diễn đàn đều do công sức của bạn OnlyOne_0.
Sunbeam cũng đồng ư với bạn az24 là các bài Pháp của HT rất thâm thúy nhưng lại dễ hiểu; học Pháp như là không học nhưng lại chui vào Tâm lúc nào cũng không hay
Một lần nữa, cám ơn bạn OnlyOne_ rất nhiều.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 5 of 9: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 1:19pm | Đă lưu IP
|
|
|
NGUỒN GỐC MÊ TÍN
Mê tín là cái bệnh những nhà trí thức đều chê
trách, chánh quyền cũng chủ trương dẹp trừ mê tín. Thế mà bệnh mê tín mỗi ngày
một tăng, càng lúc càng lan rộng. Thậm chí có những nước tự cho ḿnh là văn
minh nhất thế giới, mà dân chúng trong nước ấy vẫn c̣n mê tín. Đó là tại sao?
Trước
tiên chúng ta phải biết mê tín là thế nào? Mê tín là ḷng tin mù quáng không
thấy lẽ thật, không đúng chân lư. Đơn cử một số thí dụ để chúng ta biết rơ. Như
tin ông đồng bà cốt, tin xin xăm bói quẻ, tin ngày lành ngày dữ, tin số mạng
sang hèn, tin coi tay xem tướng, tin cúng sao cúng hạn, tin thầy bùa thầy chú,
tin cầu cúng tai qua nạn khỏi v.v... Những lối tin này không có lư luận, không
đủ bằng chứng, không có lợi ích, nên gọi là mê tín.
NGUỒN GỐC MÊ TÍN.
- Mê tín không phải là sự ngẫu nhiên phát sanh mà có nguồn gốc phát xuất cụ
thể. Có hai thứ nguồn gốc mê tín:
1.
Mê tín do tâm mong cầu. - Con người khi mong cầu một điều ǵ mà quá khả
năng ḿnh th́ dễ sanh mê tín. Ví như có người muốn vay một số vốn lớn làm ăn,
không biết việc làm ăn này sẽ kết quả tốt hay xấu. Tự nhiên ḷng họ thấy băn
khoăn lo lắng không biết hỏi ai, tin ai. Nghe nói ông đồng bà cốt nào đó linh
ứng nói quá khứ vị lai rất trúng, họ liền muốn t́m tới hỏi han. Chỉ tốn tiền
quẻ có năm bảy trăm, mà biết được việc làm ăn của ḿnh thành công hay thất bại
th́ an ổn biết mấy. Hoặc trên đường công danh có những học sinh, sinh viên sắp
đến kỳ thi cử, lo âu thân phận ḿnh không biết thi đậu hay rớt. Nghe đồn lăng
này, miếu kia linh hiển xin xăm bói quẻ sẽ báo đúng những điều sắp đến, các cô
các cậu không đủ ḷng tin vào khả năng học hành của ḿnh, nhất định đi đến lễ
bái xin xăm để hỏi thăm thần thánh xem thế nào. Hoặc có những người muốn ra ứng
cử chức này ghế nọ, mà không biết số phận của ḿnh là đỏ hay đen, ḷng họ bồn
chồn bất an. Có người giới thiệu ông A đổ số tử vi rất hay, xem số biết vận
mạng người đúng một trăm phần trăm (100%), ông ta ngại ǵ không đến đó để xem
thử ḿnh có số công danh hay không. C̣n lắm trường hợp tương tự như thế không thể
kể hết, đại để chỉ v́ mong cầu mà không tin sức ḿnh nên sanh ra mê tín.
2.
Mê tín do tâm sợ hăi. - Sợ hăi là gốc sanh ra mọi mê tín. Một gia đ́nh nọ
tiếp tục xảy ra đôi ba người chết “bất đắc kỳ tử”, những người c̣n lại đâm ra
hoảng hốt, nghe đâu có thầy bùa hay thầy chú giỏi liền đi rước về ếm đối để
ḿnh khỏi bị chết trùng. Chính v́ sợ hăi mà những người này sanh mê tín. Có
những người bị tai nạn dồn dập, vừa té xe bị thương lại bị người giựt nợ, con
trai thi rớt, con gái bị bệnh... mất b́nh tĩnh, nghe ông đồng này hay bà cốt
kia giỏi, họ liền t́m đến để cầu cứu hộ, xin phép lạ về để trừ tai ách. Lại có
người sắp làm điều mạo hiểm, lo sợ không biết có thể vượt qua mọi nguy hiểm
được chăng, họ vào am vào miếu để thưa hỏi thần linh bằng cách rút xăm, bói
quẻ. Nếu rút được xăm tốt quẻ lành th́ họ mới mạnh dạn xông pha. Có những người
mắc phải bệnh nan y, họ buồn khổ sợ chết. Nghe bất cứ nơi đâu có sự linh thiêng
mầu nhiệm, họ đều đi đến để xin thuốc cầu bùa. Dù phải làm những điều quái dị,
họ thảy đều chấp nhận, miễn sao lành bệnh là vui. Hoặc có người sợ vận xui hạn
xấu, nên đầu năm đến chùa cúng sao cúng hạn, cầu cho tṛn năm cuộc sống được
hanh thông, gia đ́nh được an vui may mắn. Hoặc có những người v́ thương cha mẹ
đă quá cố, sợ cha mẹ chết rơi vào địa ngục chịu đói khổ nhọc nhằn, họ bèn nhờ
thầy cúng dán lầu kho, xe cộ, giấy tiền vàng bạc, lễ cúng đốt xuống cho cha mẹ
được an hưởng nơi âm ti... Mọi sự sợ hăi đều là cội nguồn của mê tín.
Là
con người có ai không mong cầu, không sợ hăi, đă có hai thứ này th́ nhất định
sẽ rơi vào mê tín dị đoan. Khi chưa gặp việc, chúng ta chống đối mê tín, nhưng
gặp lúc có việc khắc khoải mong cầu, kinh hoàng sợ hăi, chúng ta cũng trở thành
mê tín như ai. Dù là người có cấp bằng cao, có kiến thức rộng, nếu trong tâm có
mong cầu sợ hăi, họ cũng sẽ rơi vào hố mê tín. Có những người đứng trước quần
chúng th́ miệt thị chê bai kẻ mê tín, song về nhà gặp lúc gia cảnh rối nùi bà
xă vẫn đi bói quẻ xin xăm, hỏi quá khứ vị lai nơi ông đồng bà cốt. Bởi con
người mang sẵn tính tham lam, thói hèn nhát, nên khi muốn thỏa măn sự mong cầu,
muốn được b́nh an khi nguy hiểm, đều nảy sanh mê tín dị đoan. Thế nên mê tín dị
đoan là bệnh bẩm sanh có sẵn nơi mọi con người. Muốn chữa lành bệnh này phải là
bậc Thánh y và thần dược mới mong cầu điều trị được.
PHÁP PHẬT DẠY TRỊ
BỆNH MÊ TÍN. - Phật là bậc Thánh y, pháp của Phật dạy là thần dược, nếu ai
tin nơi Phật, dùng thuốc Phật dạy trị bệnh mê tín chắc chắn sẽ được lành. Pháp
Phật dạy trị bệnh mê tín có hai thứ:
1. Nhân quả. - Nhân quả là sự thật, là lư đương nhiên mà người đời
ít ai nghĩ đến. Bởi con người cố mong cầu cái quả mà không cân xứng cái nhân.
Hoặc họ ước mơ nhặt được những cái quả ngoài tầm tay của họ. Hoặc họ không có
tâm tự tín nên làm việc ǵ cũng ngờ vực lo âu. Đó là những lư do khiến họ đâm
ra mê tín. Nếu con người tự biết rơ rằng mọi hậu quả nên hư tốt xấu, thành công
thất bại đều do nguyên nhân hay dở đủ thiếu của con người tạo nên. Không có cái
quả nào từ trên trời rơi xuống, hoặc dưới đất bỗng dưng hiện lên, mà đều do trí
sáng suốt và sức lao động cần cù của con người tạo ra. Chúng ta cứ tạo nhân tốt
thật đầy đủ th́ quả tốt nhất định đến. Ví như chúng ta muốn có quả một cây cam
mật, trước chúng ta phải chọn giống từ quả cam mật, hoặc chiết cành từ cây cam
mật. Kế đó, chúng ta phải lựa chỗ đất mầu mỡ ương giống xuống, rồi tưới nước
bón phân đúng thời đúng lúc, chăm sóc sâu bọ đừng cho phá hại. Sau này chúng ta
sẽ thu hoạch được quả cam mật không sai. Chúng ta khỏi phải mong cầu, khỏi phải
trông đợi, mà quả sẽ thành tựu viên măn theo sở nguyện của ḿnh. Cũng thế, mọi
sự nên hư thành bại trong đời ḿnh không phải ngẫu nhiên mà đến, không phải từ
ai ban cho, mà do những cái nhân chúng ta tạo từ trước, khi nhân duyên đầy đủ
th́ quả thành. Không phải chúng ta cầu xin mà nó đến, không phải chúng ta xua
đuổi mà nó đi, một khi nhân đă thành th́ quả phải chịu. Chúng ta cứ sợ tai ương
đổ lên đầu chúng ta, mà lại không sợ những nhân xấu do ḿnh đă gieo từ trước.
Chúng ta cầu thần khấn Phật ban bố phước lành cho chúng ta, mà chúng ta không
chịu ban ơn bố đức cho những người chung quanh ḿnh. Những nhân xấu kết hợp
thành quả xấu, những nhân tốt tụ hội thành quả tốt. Cầu mong quả tốt mà không
chịu gieo nhân tốt, sợ hăi quả xấu mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu mong
sợ hăi ấy chỉ là việc không đâu. Chi bằng chúng ta hằng ngày cứ tạo nhân lành,
tránh nhân dữ, chả cần cầu mong sợ hăi chi vô ích.
Song nhân quả không
phải đơn thuần mà đa dạng, chẳng phải chỉ do trực tiếp ở hiện tại mà lại gián
tiếp của nhiều đời. Biết rơ nhân quả tự ḿnh gây tạo, chúng ta can đảm nhận
những quả khổ mà không chút sợ hăi buồn phiền. Ḿnh làm chủ tạo nhân, chính
ḿnh làm chủ thọ quả, c̣n cầu xin cái ǵ, cần hỏi han ai nữa! Chỉ ḿnh sáng
suốt khi tạo nhân, cần cù nuôi dưỡng bảo vệ cho nhân tăng trưởng, th́ quả chín
mọng sẽ đến tay ḿnh một cách dễ dàng. Chúng ta tin chắc lư nhân quả như thế,
mọi mê tín sẽ tan theo mây khói. Đấy là quyền con người sẽ nằm gọn trong bàn
tay của chúng ta.
2. Ba cửa giải
thoát (Tam giải thoát môn). - Ba cửa
này là Không, Vô tướng, Vô nguyện (Vô tác). Đây là người tu Phật được trí tuệ
thâm hậu, thấy thấu suốt con người và ngoại cảnh đúng như thật. “Không” là từ
con người cho đến muôn vật đều do nhân duyên kết hợp thành, không có chủ thể
nhất định. Bởi căn cứ trên lư nhân duyên, thấy vạn vật không có chủ thể nên nói
là “Không”. Từ một cái nhà cho đến cái bàn cái ghế, cây bút
ch́... t́m thử cái ǵ là chủ thể của nó. Nếu có chủ thể th́ không đợi duyên
hợp, đợi duyên hợp mới có th́ nhất định không có chủ thể. Đến con người chúng
ta thử t́m xem cái ǵ là chủ thể của thân này? Như Phật dạy thân này do tứ đại
(đất, nước, gió, lửa) hợp thành, thiếu một trong bốn thứ th́ thân phải hoại. Đă
là bốn thứ th́ thứ nào là chủ? Có một thứ làm chủ th́ thiếu một thứ khác tại
sao nó không c̣n? Bốn thứ này lại thù địch chống đối nhau, đem bốn đứa thù nhốt
chung một chỗ th́ có an ổn không? Chúng ta có bổn phận phải nuôi dưỡng điều ḥa
bốn kẻ thù này, bằng cách chọn những thức ăn uống nào để quân b́nh chúng. Về
tinh thần cũng thế, nội tâm chúng ta có mặt tốt xấu thiện ác đủ thứ, thử hỏi
cái nào là chủ? Cho nên nói là đời sống của ta, mà thật sự cái ǵ là ta? Cái ta
chỉ là tưởng tượng chớ không có thật thể. Từ lănh vực không có thật thể nh́n
sang lănh vực “Vô tướng” thật hợp lư vô cùng. Bởi v́ vạn vật không có thật thể
nên không có tướng thật (vô tướng) của nó. Cái mà chúng ta trông thấy, sờ mó
được chỉ là giả tướng của duyên hợp mà thôi. Người, vật chỉ là tướng hư giả. Đă
là hư giả chúng ta có mong cầu để được, sợ hăi khi mất hay không? Thế là tiến
đến “Vô nguyện”. Bởi thấy thân hư dối, mọi vật hư dối, chúng ta không c̣n tham
sống sợ chết, không c̣n đam mê vàng ngọc. Đă thấy trên thế gian này không có
cái ǵ đáng mong cầu, đáng sợ hăi, th́ c̣n ǵ phải khấn nguyện, phải van xin,
phải thưa hỏi các vị thánh thần. Dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín, như chế nước
sôi trên băng. Ba cửa giải thoát này là đỉnh cao của trí tuệ, thấy tận cùng bản
chất con người (ngă) và vạn vật (pháp). Chính do thấy rơ bản chất hư dối của
chúng, nên gỡ bỏ mọi mê lầm cố chấp, mọi tham lam trói buộc, được tự tại an
vui, gọi là giải thoát.
Tóm lại, mê tín là một tệ nạn của xă
hội, nó tạo dựng những con người yếu hèn, mất tự tin, không sáng suốt. Muốn có
một xă hội văn minh lành mạnh, chúng ta không thể nào chấp nhận nạn mê tín
hoành hành. Huống nữa, trong giới Phật giáo chúng ta đang kế thừa chánh pháp
giác ngộ giải thoát của đức Thế Tôn, mà nuôi dưỡng chấp nhận mê tín được sao?
Thế mà có nhiều Tăng sĩ, Trụ tŕ khi nghe Phật tử than làm ăn sa sút, liền bảo
đến chùa thầy cầu nguyện cho; nghe con cháu Phật tử sắp thi cử, bảo ghi tên để
thầy cầu nguyện cho; nghe Phật tử than gia đ́nh xảy ra tai nạn, bảo đến chùa
thầy cúng sao cúng hạn cho... Ôi thôi vô số chuyện, cái ǵ thầy cũng lănh hết,
lo hết và bao thầu hết. Đó là chúng ta đang truyền đăng tục diệm, hay chúng ta
dụi tắt ngọn đuốc chánh pháp của đức Như Lai?
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 6 of 9: Đă gửi: 20 April 2006 lúc 11:58pm | Đă lưu IP
|
|
|
Khi post bài giảng Nguồn Gốc Mê Tín, tôi ghi sót tên tác giả. Tôi xin đính chính bài giảng Nguồn Gốc Mê Tín là bài giảng của hoà thượng Thích Thanh Từ
OnlyOne_0.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 7 of 9: Đă gửi: 21 April 2006 lúc 1:05pm | Đă lưu IP
|
|
|
TÀI SẢN KHÔNG BAO GIỜ MẤT
HT. Thích Thanh Từ giảng tại chùa Lưỡng Xuyên - Trà Vinh 2001
Hôm nay chúng tôi trở về Lưỡng Xuyên tại Trà Vinh, dự
lễ khánh thành ngôi chùa cũng là Phật học đường năm xưa. Lần này về thấy
chùa khang trang chúng tôi rất vui mừng.
Chúng ta là người sau kế thừa những bậc Tôn túc trước,
các ngài đă gầy dựng, lập nên những ǵ tốt đẹp, bổn phận chúng ta là con cháu
phải tiếp nối, ǵn giữ. Những ǵ các vị lập ra bị hư hoại, chúng ta phải sửa
sang trang nghiêm như buổi đầu. Hay nữa là làm đẹp hơn trước, như thế mới tṛn
bổn phận của hàng con cháu đi sau.
Cùng tất cả Tăng Ni Phật tử,
Hôm nay nhân
ngày lễ khánh thành chùa Lưỡng Xuyên, với niềm hoan hỉ chung của mọi người, tôi
nói một bài pháp tuy không phải cao siêu lắm, nhưng lại thiết yếu cho người tu Phật.
Tất cả chúng ta ai cũng có tâm nguyện tốt lành, muốn làm sao hiện tại đời ḿnh
được an vui tốt đẹp, vị lai lại càng tốt đẹp hơn. Không ai dại ǵ chỉ nghĩ tới
hiện tại mà quên đi vị lai. Do đó bài pháp hôm nay mang đề tài “Một thứ tài sản
không bao giờ bị mất”. Ai muốn giàu, muốn sung túc th́ hăy ráng nhớ giữ ǵn tài
sản này.
Trước khi nói tài sản không bị mất, chúng ta nên biết
số tài sản ḿnh đă bị mất. Như hiện giờ mọi người đều muốn có tiền của nhiều,
giàu sang sung túc. V́ muốn như thế nên cả đời cứ lo, cứ tạo, cứ giữ nhưng cuối
cùng vẫn giữ không được. Trong kinh Phật dạy tất cả tài sản thế gian đều bị năm
thứ cướp mất.
Thứ nhất là bị lửa cướp mất. Có người ki cóp dành dụm
cất được cái nhà vừa ư, khi sơ sẩy một chút lửa phát cháy lên th́ thiêu rụi hết.
Tất cả những ǵ dành dụm bao năm chỉ một cơn hỏa hoạn là tan hoại. Cái không giữ
được mà cả đời chúng ta lo lắng bảo vệ, cho nên khi mất nó ta rất khổ sở.
Thứ hai là bị nước cuốn trôi. Rơ ràng nhất là t́nh cảnh
lũ lụt ở xứ sở ḿnh. Khi mùa lũ đến nó cuốn trôi tất cả, những ǵ ta dành dụm
bao năm chỉ một cơn lũ là mất sạch. Chẳng những nhà cửa, đồ đạc bị nước cuốn
đi, mà cả sanh mạng con cái người thân của ḿnh cũng có thể bị hiểm họa. Cảnh
tượng đau khổ này, chúng ta đă từng chứng kiến, từng biết qua rất rơ rồi. Đó là
tai họa thứ hai.
Thứ ba là bị trộm cướp lấy mất. Chúng ta làm lụng cực
khổ, dành dụm tiền bạc của cải được kha khá một chút th́ bị trộm cướp ŕnh rập,
cướp lấy. Như vậy có của trong tay, không bị lửa cháy, không bị nước cuốn cũng
không bảo đảm ǵn giữ dài lâu được.
Thứ tư là bị vua quan tịch thu. Ngày xưa thời phong
kiến thường xảy ra nạn này. V́ lư do nào đó, một khi vua quan ra lệnh tịch thu
th́ bao nhiêu tiền của đều bị thu tóm hết. Như vậy công lao sức lực của ḿnh chắt
chiu, khi gặp kẻ có quyền lực muốn cướp lấy, ta cũng không có cách ǵ bảo vệ được.
Đó là nói thời phong kiến.
Thứ năm là bị con bất hiếu tiêu phá. Có nhiều bậc
cha mẹ cực nhọc biết bao nhiêu, làm ra được đồng tiền đổ mồ hôi sôi nước mắt. Tất
cả đều v́ thương yêu lo lắng cho con cái về sau. Không ngờ lớn lên, chúng ngỗ
nghịch bất hiếu vô đạo, đă chẳng nghĩ đến công ơn trời biển của cha mẹ, lại c̣n
hung hăng trịch thượng với song thân, yêu sách thế này thế nọ. Chúng tập bè tập
bạn theo thói hư tật xấu, về nhà kiếm chuyện đ̣i tiền cha mẹ. Nếu không có,
chúng chẳng từ nan mọi việc tàn ác để thực hiện mục đích của ḿnh, phá hoại tài
sản, hăm hại cha mẹ. Chuyện này kể ra biết bao nhiêu cho hết.
Phật dạy của cải thế gian bị năm nhà chực lấy như thế,
ta có thể giữ được sao? Vậy mà cả đời ḿnh lo cho có tiền, có của. Khi có tiền
của rồi phải lo giữ, giữ không được th́ đau khổ. Con người si mê lo măi như thế
cho tới khi tắt thở mới thôi. Sống năm bảy chục năm, chúng ta dồn hết sức để lo
tạo, giữ ǵn một cái không giữ được, có đáng buồn đáng thương không?
Như vậy cả hai trường hợp chúng ta đều không thể giữ
ǵn tài sản được: Trường hợp thứ nhất bị ngoại cảnh làm tiêu tan. Trường hợp thứ
hai bị thân nhân phá hoại. Vậy mà ít ai thức tỉnh, ít ai quan tâm đến một thứ của
cải c̣n măi măi không mất. Do đó đức Phật mới chỉ bảo cho chúng ta biết ḿnh có
một thứ tài sản không bao giờ mất, lửa đốt không cháy, nước cuốn không trôi và
trộm cướp cũng không ŕnh rập nổi nữa. Tài sản này được chia ra hai phần. Một
là tài sản từ trong nội tâm ḿnh gầy dựng. Hai là tài sản do giúp đỡ cho người
mà được.
Trước hết nói về tài sản từ nội tâm của ḿnh. Phật dạy
chúng ta tu hành cho có công đức. Làm thế nào tu hành cho có công đức? Khi hiểu
Phật pháp rồi, th́ tu hành là việc dành dụm của cải của ḿnh đó. Công đức là của
cải. Như b́nh thường ta tốt với mọi người, nhưng một cơn giận th́ người chung
quanh không c̣n khen chị đó hiền lành nữa, mà họ nói chị đó dữ quá. Vậy nóng giận
làm tan hoang hết công đức của ḿnh. V́ vậy trong nhà Phật nói: “Một đóm lửa
sân thiêu hết cả rừng công đức.”
Thật ra nóng giận làm thương tổn chính ḿnh, chớ
không phải thương tổn người khác. Tại sao? Bởi v́ khi nóng giận, ta có những lời
nói không hiền lành, tay chân không đàng hoàng, mặt mũi trừng trộ rất dễ sợ. Ai
dù đẹp cách mấy khi nóng giận cũng biến thành hung dữ, ghê tợn. Rơ ràng nóng giận
làm cho ḿnh mất đẹp mà lại c̣n khiến cho người ghét nữa. Như vậy thương tổn
nhiều ít? Cái làm cho ḿnh thương tổn quá nhiều, tai hại quá lớn như vậy tại
sao ta không bỏ? Có nhiều người c̣n dọa thiên hạ: “Tánh tôi nóng lắm à, đừng chọc
tôi!”
Chúng ta biết tu rồi th́ phải khôn ngoan, sáng suốt.
Những ǵ tai hại phải chừa bỏ. Như xử sự với người trong nhà, với hàng xóm lúc
nào cũng ôn ḥa, hiền lành, tử tế, không bao giờ nổi nóng, th́ mọi người đâu có
giận ghét ḿnh. Khi ta có tai nạn ǵ, mọi người đều giúp đở. Như vậy việc làm
hiền lành của ḿnh cảm được người khác mến thương. Đó chính là tài sản ta để
dành mà không có ǵ cướp được.
Chúng ta tu để t́m giữ những ǵ quí báu của chính
ḿnh, chớ không phải tu để cầu Phật cho cái này cái kia. Người không biết chuyển
tâm niệm tai họa của ḿnh trở thành một tâm niệm tốt đẹp cho mọi người mến quí
th́ dù có tài sản bao nhiêu cũng mất hết. Chỉ lo tu tâm sửa tánh hiền thiện mới
thật là người biết ǵn giữ tài sản muôn đời.
Thứ hai nữa là phải tập tâm từ bi. Từ bi là thương
người. Phần nhiều Phật tử cứ nghĩ ai hiền lành là dễ thương, c̣n kẻ hung dữ th́
dễ ghét. Như vậy tâm ḿnh c̣n thương người này, ghét người kia th́ đâu thể gọi
là ḷng từ bi b́nh đẳng được. Bây giờ làm sao người hiền ḿnh thương, mà người
dữ ḿnh cũng không ghét. Chúng ta khéo tu như vậy công đức mới tăng trưởng.
Tại sao người hung dữ ta không ghét? Ta thử đặt lại
câu hỏi những người hung dữ có khổ không? Họ khổ nhiều hơn ai hết, bởi v́ họ nổi
nóng làm bậy nên thiên hạ chung quanh đều ghét bỏ. Tới nhà nào người ta cũng trốn,
cũng xua đuổi, đó là khổ rồi. Họ đă khổ nên ta thương họ, t́m cách giúp đỡ, chẳng
lẽ họ khổ ḿnh để mặc hoặc làm họ khổ hơn th́ đâu c̣n gọi đạo Phật là đạo cứu
khổ nữa.
Cho nên từ bi là tập t́nh thương dành cho tất cả mọi
người, bất luận hiền lành hay hung dữ, ta đều thương đều giúp đỡ như nhau. Người
đă tạo những điều xấu xa, ai cũng ghét bỏ nên rất khổ. Đôi khi chính sự ghét bỏ
này làm cho họ càng dữ hơn, nên ta cần phải thương họ. C̣n những người hiền
lành ai cũng thương mến, ḿnh thương nữa là dư. V́ vậy đối với người hung dữ,
chúng ta t́m cách nhắc nhở khuyến dụ cho họ trở thành người hiền. Như vậy mới
thật là người có tâm từ bi, không bỏ một ai. Nếu chúng ta ghét bỏ nữa vô t́nh đẩy
họ vào chỗ tội lỗi không có ngày thoát khỏi.
Cho nên biết con cái ḿnh dở th́ cha mẹ phải thương
phải khéo, t́m cách này cách khác để khuyến dụ, nhắc nhở. Tùy theo hoàn cảnh,
tùy theo trường hợp giúp cho nó thức tỉnh. Từ bi trong đạo Phật là thương tất cả,
chớ không phải là chỉ thương người tốt. Nhờ tâm từ bi chúng ta mới tạo được nhiều
công đức.
Như vậy nhờ nhẫn nhục, nhờ từ bi, chúng ta mới tăng
trưởng công đức. Từ bi và nhẫn nhục đâu phải tốn tiền tốn của ǵ mới có, chỉ
trong nội tâm ḿnh phát ra. Công đức chân thật ấy không ai ŕnh rập lấy được.
Nhà Phật gọi đó là nghiệp lành. Ư nghĩ lành, miệng nói lành, thân làm lành đó
là nghiệp lành. Đời này chúng ta sống với nghiệp lành, khi thân hoại mạng chung
nó cũng theo ḿnh không bao giờ rời. Đây là vấn đề hết sức thiết yếu. Cho nên
chúng ta phải làm sao tạo được những công đức, nó là tài sản miên viễn của
ḿnh. Đó là công đức nội tâm của ḿnh tạo ra.
Công đức thứ hai là bố thí giúp đỡ bằng h́nh thức
bên ngoài. Ví dụ thấy người đói không có cơm ăn, chúng ta có cơm ăn th́ chia sớt
cho họ. Bố thí như vậy tạo thành công đức, tức là tài sản không bao giờ mất của
ḿnh. Bố thí có chia ra tài thí, pháp thí và vô úy thí.
Tài thí là bố thí tiền của. Thấy người nghèo thiếu,
ta có dư giúp đỡ gọi là tài thí. Người bị buồn khổ, ta dùng giáo lư Phật khuyên
giải cho họ bớt khổ đó là pháp thí. Người đang lo sợ, hoảng hốt, không được an ổn,
ta kề cận khuyên nhắc hoặc bảo vệ cho họ được an ổn, đó là vô úy thí. Ví dụ như
mấy đứa nhỏ muốn qua đường mà xe cộ nhiều quá, nó sợ không dám qua, chúng ta nắm
tay đưa nó qua. Đó cũng là bố thí. Thế nên tất cả chúng ta đều có khả năng bố
thí. Người có tiền của th́ bố thí tiền của. Người không có tiền của th́ bố thí
lời nói. Người không khéo nói th́ bố thí bằng hành động giúp đỡ.
Trong kinh kể đức Phật c̣n mót từng chút phước xỏ
kim, huống ǵ chúng ta kém phước thiếu trí mà lại không biết làm các việc công
đức! Ngày xưa, có một thầy Tỳ-kheo mù muốn vá y. Ngài xỏ kim để khâu mà xỏ hoài
không được. Đức Phật đi ngang thấy hỏi:
- Ông làm ǵ đó?
- Bạch Thế Tôn, con đang xỏ kim.
- Ông xỏ được không?
- Con xỏ hoài không được.
- Đưa ta xỏ giùm cho.
Rồi đức Phật ngồi xuống xỏ kim giùm cho ngài. Các thầy
Tỳ-kheo thấy chuyện xỏ kim nhỏ nhặt mà đức Thế Tôn c̣n làm để ḅn mót từng chút
phước, nên không ai dám xem thường. Ta giúp người được việc ǵ th́ giúp bất luận
việc lớn nhỏ. Tu không phải làm việc ǵ cho to, cho quan trọng, mà từ việc nhỏ
nhất chúng ta thấy ai cần cũng sẵn sàng giúp đỡ. Giúp cho người khỏi khó, khỏi
khổ, đó là bố thí. Chúng ta bố thí trong mọi phương tiện.
Ngày xưa, có một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai
nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói
rằm tháng bảy cúng dường Tam Bảo có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao ḿnh tạo phước
để khỏi nghèo khổ nữa. Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái ǵ mà chư
Tăng trong chùa đều hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa
năn nỉ vị nấu cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư
Tăng trong chùa, mong người giúp cho.” Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi
canh to, thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian, cô cũng
không c̣n nhớ chuyện cúng muối ấy nữa.
Lần lần lớn khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó
trong triều đ́nh nhà vua muốn chọn người cưới cho Thái tử làm vợ. Thấy mỹ nhân
nào Thái tử cũng từ chối. Vua mới ra lệnh cho các quan t́m người nào Thái tử vừa
ư sẽ được trọng thưởng. Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời
có vầng mây đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn. Giờ trưa, trên đường
trở về, ông thấy cô bé mười sáu, mười bảy tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến gần
nh́n, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ phi thường
lại sống đầu đường xó chợ như vầy, ông tội nghiệp đem về nuôi. Được vài năm,
cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới lúc cô mười tám tuổi ông dẫn đến tŕnh nhà
vua.
Vua gọi Thái tử lại, vừa thấy cô bé Thái tử đẹp ḷng
ngay. Cô được Đông cung Thái tử cưới làm vợ. Thời gian sau nhà vua mất, Thái tử
lên ngôi vua và cô bé trở thành Hoàng hậu. Khi làm Hoàng hậu cô cứ nghĩ, không
biết ḿnh đă làm phước ǵ được thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối
năm xưa mà ra.
Một hôm Hoàng hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng
truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa. Nhưng lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé
ăn xin, mà thầy Trụ tŕ nói bữa nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng
đánh chuông trống đón. Bây giờ Hoàng hậu đem rất nhiều tài vật đến nhưng thầy
Trụ tŕ không đánh chuông trống đón. Lấy làm lạ, Hoàng hậu gặp thầy Trụ tŕ hỏi:
- Thưa thầy ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường
có hai xu muối mà nghe chuông trống đánh ŕnh rang. Ngày nay con là Hoàng hậu
cúng cả xe trân bảo mà sao không nghe chuông trống ǵ hết?
Thầy Trụ tŕ nói:
- Ngày xưa hai đồng xu quí v́ đó là mạng sống của
con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói, nên hai xu ấy lớn vô cùng. Ngày nay con
là Hoàng hậu, của cải đầy xe nhưng đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của
người làm phước cho ḿnh th́ đâu có ǵ quan trọng.
Nghe vậy Hoàng hậu giật ḿnh, thức tỉnh.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy không phải cúng
nhiều tiền, nhiều của mới có phước mà một vật nhỏ nhoi nhưng với tâm rộng lớn,
hi sinh tánh mạng của ḿnh, phước ấy mới lớn. Thế nên chúng ta tu đừng đợi có
tiền nhiều cúng chùa mới có phước. Mà chính ḷng thành, tâm tốt dù ít dù nhiều
cũng đều có phước lớn. Công đức đó không ai thấy, không ai biết, chỉ những bậc
giác ngộ mới thấy biết được. Do đó ai cũng có thể làm việc phước hết.
Phước đức do chính chúng ta gây tạo mới thật là sản
nghiệp của ḿnh, c̣n tất cả những tài sản thế gian sẽ mất hết, chúng không bền.
Chúng ta lâu nay có gom góp tài sản công đức đó không, hay chỉ gom góp tiền bạc
để dành hoặc gởi ngân hàng? Cái có thể mất mà chúng ta cứ lo, cứ giành giật.
C̣n cái không mất th́ ngó lơ, bỏ quên. Đó là người chưa biết tu.
Người biết tu phải nh́n thấy được cái ǵ thật th́ cố
gắng làm, cái ǵ tạm bợ th́ đừng quan tâm. Đây là vấn đề hết sức thiết yếu. Hai
thứ tài sản bên ngoài và công đức bên trong, chúng ta nên chọn cái nào? Đa số
chọn tài sản, v́ công đức không thấy được. Đâu ngờ chính cái không thấy được mới
không bị lấy mất, c̣n tài sản thấy được sẽ bị người ta chia sớt, lấy bớt.
Chúng ta làm những việc hiền lành có phước đức, người
khác bắt chước theo, như vậy có lợi cho thế gian biết chừng nào. C̣n có tài sản
nhiều dùng không hết, người thiếu hụt chắc chắn họ sẽ ḍm ngó, ŕnh rập ăn cắp,
tạo nghiệp xấu cả hai đều khổ.
Hiểu rơ như vậy, mong rằng tất cả chúng ta đều cố gắng
làm những việc tốt đẹp. Mọi người gặp nhau ai cũng vui tươi, cười nói thân thiện,
chớ không có nóng giận nói bậy, làm bậy, gây khổ cho nhau. Được vậy cả cuộc đời
ta không giàu sang dư dả nhưng vui vẻ, an lành. Ta có của nhiều mà chung quanh
thiếu th́ càng khổ, chớ có vui ǵ đâu. Cho nên công đức chân thành luôn đem đến
an vui cho ḿnh. Ta an vui mà chung quanh cũng được tốt đẹp, được sung sướng
theo.
Đa số Phật tử đi chùa chịu xin hơn là chịu tu. Chỗ
nào xin được về nói Phật ở đó linh lắm, rủ nhau đi. Chỗ nào xin không được về
nói Phật ở đó không linh, lại miếu Bà linh hơn. Thế là Phật tử theo Phật mà vô
t́nh theo quỉ thần hồi nào không hay. Đó là những sai lầm của chúng ta. Hiểu rồi,
ta đừng để những sai lầm đó tiếp diễn nữa, mà phải thật tu, thật hiểu đạo mới
được.
Chúng ta kiểm lại xem cuộc đời ḿnh sống được bao
lâu? Có ai dám nói tôi sống đến chín mươi tuổi mới chết không? Không ai dám quyết
định như thế cả. Mạng sống của con người không có ǵ bảo đảm, được lúc nào mừng
lúc đó. Giả sử bảy tám mươi tuổi ta mới chết, bây giờ nh́n lại th́ đă bốn mươi,
năm mươi hoặc sáu mươi rồi, thời gian c̣n lại đâu có bao nhiêu. Như vậy cái chết luôn ŕnh đón, chờ cơ hội chụp ḿnh, không ai
tránh khỏi.
Nhưng hiện giờ chúng ta lo cho sự sống mà không nghĩ
đến cái chết ở một bên. Nếu có nghĩ th́ nghĩ khi chết chôn chỗ nào đó, chớ
không bao giờ nghĩ ḿnh chết có đủ phước đức không? Bởi vậy chúng ta phải chia
hai phần, một phần lo cho sự sống, một phần chuẩn bị cho sự chết, v́ cái chết
đâu ai trốn được. Bây giờ không chuẩn bị ngày mai nhắm mắt, ḿnh sẽ đi đâu? Lúc
sống không nghĩ tới khi chết, th́ chết tới sẽ hoảng hốt, lo sợ không biết ḿnh
sẽ ra sao, thật đau khổ.
Bây giờ Phật tử đến chùa qui y Tam Bảo và phát nguyện
giữ tṛn năm giới, khi chết quí vị đi đâu? Chúng ta qui y Tam Bảo, tức là qui y
Phật nên khi chết khỏi đọa địa ngục, qui y Pháp nên khỏi đọa ngạ quỉ, qui y
Tăng nên khỏi đọa súc sanh. Qui y Tam Bảo một cách chân chánh đúng đắn th́ khỏi
đọa ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Người nguyện giữ năm giới, không
sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, hút á
phiện v.v… sau khi chết được trở lại làm người tốt hơn đời này. Nhà Phật gọi đó
là Nhân thừa Phật giáo, tức đạo lư Phật dạy tu để được làm người. Vậy tu có hai
lợi lớn. Lợi thứ nhất trong đời này chúng ta là người tốt, xứng đáng. Thứ hai đời
sau ta có một hướng đi rơ ràng, tốt đẹp hơn không nghi ngờ, không sợ sệt ǵ cả.
Người không biết tu, hiện tại dù có tiền của nhưng sắp chết không biết ḿnh sẽ
ra sao nên hoảng hốt, kinh hoàng, sợ sệt đủ thứ. Đó là v́ không chuẩn bị, không
lo cho ngày mai. Cho nên người biết lo xa khi c̣n sống, phải lo cho ngày mai
ḿnh nhắm mắt.
Trong kinh Phật dạy có sáu đường luân hồi tức lục đạo
luân hồi là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời. Trong sáu đường
đó, chúng sanh hoặc lên hoặc xuống, đảo đi lộn lại không có ngày cùng. Ngày nay
chúng ta biết tu, làm sao khi mất thân này, trở lại trong ba đường lành, tránh
được ba đường dữ.
Như vậy giữ năm giới là điều kiện giúp cho chúng ta
sống đúng với con người tốt đẹp trong hiện tại và mai sau. Người qui y Tam Bảo,
thọ tŕ năm giới rồi, khi tuổi thọ gần hết tự biết ḿnh sẽ đi đâu, không nghi
ngờ. Cho nên lúc ấy vui vẻ cười nói với người thân: “Chiếc xe cũ đă hư, tôi chuẩn
bị xe mới tốt hơn. Đừng lo.” Như vậy chết rất an ổn. C̣n bây giờ chúng ta không
biết lo, không nghĩ ǵ về ngày mai, tới chừng chết hoảng hốt, sợ sệt không biết
đi đường nào cũng muộn rồi.
Chúng sanh tối tăm, không biết lo cho chính ḿnh nên
Phật mới thương xót chỉ dạy. Kế đến quí thầy là những người thay Phật, chịu
trách nhiệm truyền đạt lại những ǵ đức Phật đă chỉ dạy, giúp cho chúng sanh biết
rơ đường đi của ḿnh, tránh khổ đau ở ngày mai. Cho nên chư Tăng chỉ giúp chúng
ta bằng cách nhắc nhở, c̣n làm được hay không là ở mỗi người, quí thầy không thể
làm hơn được.
Phật tử bây giờ có bệnh chờ chết mời thầy đến tụng
kinh. Nhờ thầy tụng kinh để đưa về Cực Lạc, điều đó tôi không tin trăm phần
trăm. V́ sao? Bởi v́ Phật đă dạy nghiệp đă tạo th́ nó dẫn ḿnh đi, chớ không ai
có khả năng dẫn ta cả. Nếu có, chỉ phần nào thôi. Nhiều người dẫn trong kinh Vu
Lan, nói mẹ ngài Mục-kiền-liên bị đọa làm ngạ quỉ nhưng Ngài vẫn cứu thoát được.
Nhưng họ quên trong kinh Vu Lan nói “sơn lâm thiền định, thọ hạ kinh hành, lục
thông La-hán”, nghĩa là phải mời chư vị chứng A-la-hán, đi kinh hành dưới gốc
cây, trong rừng cầu mới được.
Tại sao cầu được? Đâu có ǵ lạ, khi chúng ta có người
thân ở xa không gặp. Bỗng dưng hôm đó ta nghe ḷng bối rối, nóng nảy liền t́m đến
thăm, mới hay người đó đang bị tai nạn hoặc bệnh sắp chết. Đó là do người ấy tưởng
nhiều về ḿnh, những luồng tư tưởng ấy tạo mối giao cảm, nhắc nhở ḿnh nên nó rất
có ảnh hưởng. Cũng vậy, những vị đang kinh hành dưới cội cây, đang thiền định
trong rừng núi hoặc người đă chứng lục thông La-hán. Tinh thần các ngài mạnh lắm,
các ngài chú tâm hướng về ai th́ chuyển được tâm của họ. Do đó mẹ ngài Mục-kiền-liên
nhờ sự chú tâm của các ngài, từ tâm tham lam bỏn sẻn chuyển thành tâm thanh tịnh
sáng suốt nên bà được sanh cơi trời.
Phật tử ngày nay lấy cớ đó chờ người thân sắp chết,
thỉnh thầy về cầu nguyện. Nhưng lại quên thầy có chứng được lục thông La-hán
chưa? Nếu quí thầy cũng phàm phu, chỉ khác hơn là tu hơi kỹ kỹ hơn Phật tử một
chút, th́ sự việc cầu nguyện ấy rất khó. Chi bằng chúng ta tu cho ḿnh tốt hơn.
Nếu chết rồi nhờ quí thầy quí cô cầu, cầu không được lúc đó ḿnh làm sao? Có xuống
địa ngục cũng phải chịu, làm ngạ quỉ cũng không thể thoát. Thôi th́ tự ta rèn
luyện để tâm được tốt, tích chứa nhiều công đức, mai kia đầy đủ tư lương đi một
cách thảnh thơi, khỏi lo sợ ǵ hết, như vậy bảo đảm hơn không, sướng hơn không.
Thế nên chúng tôi nhắc quí Phật tử phải thật tu, chớ đừng chờ đợi ai.
Tất cả chúng ta v́ thương ḿnh, muốn lợi ích cho đời
ḿnh phải cố gắng tu tạo những công đức lành. Tạo nhiều chừng nào tốt chừng ấy.
Bởi đó là cái của ḿnh, không lấy được, lửa không cháy, nước không trôi, đó mới
thật là của ḿnh. Cái thật mà ḿnh không màng tới, lo những cái không thật, đó
là không sáng suốt. Chúng ta tu phải tỉnh sáng chớ không thể mù tối được. Nên
ai là người chân chánh tu hành phải chuẩn bị cho ḿnh ngay trong đời này.
Người giữ giới không sát sanh đời sau sống dai, ít bệnh
tật. Giữ giới không trộm cướp đời sau giàu có. Giữ giới không tà dâm đời sau đẹp
đẽ, trang nghiêm. Giữ giới không nói dối đời sau nói lưu loát, ai cũng tin cũng
quí. Giữ giới không uống rượu, không hút á phiện v.v… đời sau trí tuệ minh mẫn.
Chuẩn bị cho ḿnh để đời sau ḿnh đủ điều kiện làm một người tốt hơn bây giờ,
đó là tu. Qui y Tam Bảo, giữ năm giới đó là người biết tu.
Nếu một gia đ́nh, chồng vợ con cái đều qui y Tam Bảo,
giữ năm giới hết th́ gia đ́nh đó hiền lành lương thiện. Nếu một xóm, một làng
ai cũng giữ năm giới hết th́ xóm làng đó yên ổn vui vẻ, không sợ trộm cướp, tà
dâm bởi v́ người nào cũng tốt, cũng tu hành. Tu Phật là đem lại lợi ích cho bản
thân, cho gia đ́nh, cho xă hội.
Ngày nay Phật tử nhiều buồn khổ v́ gia đ́nh con cái
hút á phiện, x́ ke, ma túy. Đó là tại không giữ giới. Cha mẹ buồn, xóm giềng
cũng lo sợ nữa. Như vậy khuyên nhau tu để chúng ta được b́nh an, xă hội được tốt
đẹp. Đó là điều hết sức thiết yếu trong cuộc sống hiện tại và mai sau.
Người khéo tu biết tránh nhân, người không biết tu
chỉ tránh quả. Hiện nay ngành y luôn luôn khuyến khích ngừa bệnh hơn trị bệnh,
đó là phù hợp với đạo Phật dạy tránh nhân hơn tránh quả. Nhân xấu chúng ta
không tạo th́ quả xấu đâu có, c̣n nhân xấu đă tạo có sợ quả cũng không khỏi.
Như kẻ xách dao đào hầm, móc vách của người không sợ, tới chừng gặp cảnh sát
th́ run. Đó là sợ quả mà không sợ nhân. Nếu biết làm việc đó có ngày ở tù th́
đâu dám làm, không làm th́ sợ ai. Đó là sợ nhân chớ không sợ quả.
Hiểu rơ như thế, trên đường tu rất có lợi v́ chúng
ta sáng suốt không tạo nghiệp nhân ác, chắc chắn không bị quả xấu. Phật nói Bồ-tát
sợ nhân chúng sanh sợ quả. V́ Bồ-tát biết nhân ác liền tránh nên không sợ quả xấu.
C̣n chúng sanh sợ quả, hồi làm không sợ, tới chừng gặp kết quả xấu th́ hoảng hốt.
Cho nên nói tới tu là nói tới người tỉnh sáng, chớ không phải người si mê.
Nhiều Phật tử cứ ngỡ rằng người tu là tiêu cực ích kỷ,
cứ lẩn quẩn trong chùa nói pháp, không giúp ích cho ai hết. Hiểu thế là sai lầm.
Chính v́ muốn cho mọi người được sáng suốt, biết lỗi lầm để tránh, biết nhân xấu
để chừa nên quí thầy luôn thuyết pháp nhắc nhở cho Phật tử. Như b́nh thường
không ai nhắc, chúng ta đâu biết nóng giận là tật xấu, nên cứ nóng hoài bỏ
không được. Bây giờ nhờ quí thầy nhắc ḿnh biết đó là xấu, có hại cho bản thân
và mọi người nên cố gắng chừa bỏ. Đó là tu.
Được vậy chúng ta sống trên đời này không uổng phí.
Chớ nếu sống bảy tám mươi năm mà chỉ lo ăn ngon, mặc đẹp v.v… tới già tắt thở,
thành cái ǵ không biết, có phải uổng phí không? Như vậy lo cho thật nhiều, rốt
cuộc chỉ nuôi dưỡng cái thây thối thôi, có ǵ cao thượng đâu. Vậy mà hầu hết mọi
người đều mắc kẹt trong đó. Cho nên chúng ta phải biết t́m sống với những ǵ
chân thật, không quan tâm đến các thứ hư dối. Tu sống như thế mới quí.
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. C̣n người
không biết tu sống cũng như kẻ say. Cứ loanh quanh, lẩn quẩn rồi ngă đùng ra chết
không biết ǵ, chừng ấy hối hận cũng không kịp. V́ vậy chúng ta cần sớm tỉnh thức,
trau dồi tích lũy sự nghiệp chân thật của ḿnh. Được vậy khi sống cũng như lúc
sắp lâm chung đều thanh thản an vui.
Thời gian ít, bài pháp tới đây chấm dứt, mong quí Phật
tử nghe hiểu ứng dụng tu. Đó là điều mong mỏi lớn nhất của chúng tôi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 8 of 9: Đă gửi: 02 May 2006 lúc 2:03am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN THỪA VÀ BỒ-TÁT THỪA
HT Thích Thanh Từ giảng tại Chùa Việt Nam Washington - Hoa Kỳ - 2001
Hôm nay chúng tôi sẽ nói về hai vấn đề, một là tu bằng cách nào để đem lại sự an lạc cho tất cả mọi người đời này và đời sau, hai là tu bằng cách nào để được giải thoát sanh tử.
Vấn đề thứ nhất, tu bằng cách nào để chúng ta được an lạc trong đời này và đời sau. Điều này trong kinh có nhắc đến nhiều, nhưng ở đây tôi chỉ nói thu gọn cho Phật tử dễ nhớ. Giáo lư của đạo Phật có chia ra Ngũ thừa Phật giáo, tức là năm bậc.
Bậc thứ nhất là Nhân thừa, tức giáo pháp dạy chúng ta tu để có được lợi ích thiết thực ngay trong đời này và cả đời sau. Thứ hai là Thiên thừa, tức giáo pháp dạy chúng ta tu để được sanh về cơi trời. Thứ ba là Thanh văn thừa, thứ tư là Duyên giác thừa, hai giáo pháp này đều dạy chúng ta tu để giải thoát sanh tử. Thứ năm là Bồ-tát thừa, tức giáo pháp dạy chúng ta tu vừa lợi ḿnh vừa lợi người, cuối cùng đều đi đến giác ngộ giải thoát.
Ở đây tôi chỉ nói hai bậc là Nhân thừa và Bồ-tát thừa thôi. Nhân thừa là tu thế nào để được an lạc cho chúng ta ngay trong đời này và đời sau. Bồ-tát thừa là tu cách nào để được giải thoát sanh tử cho ḿnh, cho người. Hai vấn đề này là hai vấn đề then chốt mà tất cả người tu chúng ta cần phải biết.
Trước khi muốn giải thoát sanh tử, chúng ta phải biết sanh tử có bao nhiêu đường. Nhà Phật dạy luân hồi trong lục đạo là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời. Chúng sanh c̣n sanh tử luân hồi sẽ đi trong sáu đường này. Giáo pháp Phật dạy tu để tránh địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh; kế đó lên làm người, chư thiên, sau cùng dạy chúng ta tu giải thoát sanh tử.
Chúng ta thường nghe nói về ba đường khổ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Địa ngục, ngạ quỉ khổ thế nào ta không thấy, nhưng súc sanh th́ sự khổ nhan nhản ở trước mắt, ai cũng thấy. Cho nên đă là người tu đạo, nhất định phải tránh ba đường khổ ấy. Làm sao để tránh? Phải qui y Tam Bảo, nghĩa là qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục, qui y Pháp rồi khỏi đọa ngạ quỉ, qui y Tăng rồi khỏi đọa súc sanh. Tại sao qui y Phật rồi khỏi đọa địa ngục? V́ địa ngục là chốn u minh tăm tối, qui y với Phật là bậc giác ngộ sáng suốt th́ làm ǵ xuống chỗ u minh tối tăm. Tu là tránh những đường khổ như thế. Tại sao qui y Pháp khỏi đọa ngạ quỉ? Ngạ quỉ là loài quỉ đói. Với con mắt của Phật, Ngài thấy rơ trong thế gian này có những loài quỉ đói, sống lang thang khổ sở, chúng không có ǵ ăn. Nên Phật dạy chư Tăng Ni mỗi chiều nên cúng cô hồn, tức cho các loài quỉ đói ăn.
Có một lần ngài Mục-kiền-liên nh́n thấy trong hư không có những loài quỉ đói lang thang, khổ sở kêu khóc. Ngài xót xa bạch với Phật, Phật bảo: “Ta cũng thấy như vậy nhưng ta không có nói.” Thế th́ loài quỉ đói cầu xin ḿnh, chớ không phải ta cầu xin nó. Vậy mà ngày nay nhiều người cúng ma quỉ cầu xin nó hộ độ cho ḿnh, thật là quá sai lầm. Biết thế rồi ta chỉ thương chớ không sợ ngạ quỉ, v́ nó khổ hơn ḿnh.
Do nhân nào đọa làm quỉ đói? Phật dạy những người đời trước ôm ḷng tham lam, bỏn sẻn, hiểm độc sẽ sanh vào loài quỉ đói. V́ tham lam nên cái ǵ cũng vơ vét hết, được ḿnh mà hại người cũng chẳng từ nan. Do tâm bỏn sẻn nên gặp người khổ không giúp, dù ḿnh rất dư dả. Do hiểm độc nên thường bày mưu này kế nọ để hại người. Bây giờ ḿnh tu theo Phật rồi, phải có ḷng từ bi, rộng lượng, không được tham lam bỏn sẻn hiểm độc. Như vậy nhờ tu theo Phật, chúng ta đă chận được các đường khổ.
Tại sao qui y Tăng rồi khỏi đọa súc sanh? Phật dạy người đời trước do si mê nên đời này đọa làm súc sanh. Si mê thế nào? Si mê là không biết rơ thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là tà, thế nào là chánh. Người không phân biệt rành rơ thiện ác, tội phước, tà chánh gọi là si mê. Si mê nên chết phải đọa làm loài súc sanh.
Khi qui y xong quí thầy có bổn phận giản trạch rành rơ cho quí Phật tử biết, thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là tội, thế nào là phước, thế nào là tà, thế nào là chánh. Làm đau khổ cho người là ác, đem lại lợi lạc cho người là thiện. Chẳng những người mà đối với các loài khác cũng thế. Nói chung làm lợi lạc cho người và chúng sanh gọi là thiện, làm đau khổ gọi là ác.
Thế nào là tà, thế nào là chánh? Tà chánh ở đây có nhiều lối. Thứ nhất chúng ta là đệ tử Phật mà đi cầu cúng miếu bà miếu ông là tà. Tại sao? Bởi v́ do ḷng tham nên tới cầu xin, mà không biết người ḿnh đang cầu xin đó thế nào. Phật dạy chúng ta lư nhân quả, chớ không dạy cầu xin. Gieo nhân tốt th́ gặt quả tốt, gieo nhân xấu th́ chịu quả xấu. Ḿnh làm ḿnh chịu, nếu cầu xin được th́ không có lư nhân quả. Song lư nhân quả là chân lư ở trên thế gian, không thể chối căi được. Lẽ thật chúng ta không làm, lại làm theo tưởng tượng hư dối nên gọi là tà. Đó là tà đối với chánh.
Ngoài ra, quan niệm tà trong đạo Phật cần phải hiểu cho tường tận, nếu không khéo chúng ta cũng sẽ bị lạc vào đó. Phật dạy ba thứ độc là tham sân và si. Nếu ta tham mà bị ai ngăn trở th́ nổi sân, cho nên tham và sân gốc từ si mà ra. Nhưng Phật tử bây giờ đi chùa có tham không, tham cái ǵ? - Tham cầu xin. Quí thầy cô tụng kinh cũng cầu nguyện, như vậy có tham không? Quí thầy cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều sớm thức tỉnh, quốc thới dân an, mọi người đều được ấm no hạnh phúc th́ không phải tham. C̣n Phật tử đến chùa cúng có một dĩa quả mà xin thôi là xin, thứ nào cũng to hết. Đó chưa phải là chánh. Người hiểu đạo cầu nguyện thế này, nguyện cho gia đ́nh con sớm thức tỉnh, mọi người cũng biết thức tỉnh, tất cả đều được b́nh an, như vậy đâu có tội tham. Ngược lại nếu chỉ cầu cho ḿnh không thôi, đó là tham. Đă tham th́ thuộc về tà, chớ không phải chánh.
Chúng ta phải phân biệt tà chánh rành rơ mới khỏi đọa vào đường dữ. Người biết rơ thiện ác, tội phước, tà chánh bảo đảm đời sau không đọa làm súc sanh. Chư Tăng là những vị giúp cho Phật tử biết rơ những điều này nên chúng ta phải qui y Tăng. Khi bắt đầu qui y Tam Bảo, là chúng ta đă thoát khỏi ba nhân ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh rồi. Trên đường tu chắc chắn không đọa lạc vào ba đường ác, chịu nhiều đau khổ. Nhưng làm sao được đi đường lành? Đường lành là người, a-tu-la và trời.
Muốn được trở lại làm người tốt th́ phải giữ năm giới. Giữ năm giới gọi là tu Nhân thừa Phật giáo. Giới thứ nhất không sát sanh, tức không giết người th́ đời này được b́nh an, đời sau sanh ra tuổi thọ lâu dài. Giới thứ hai không trộm cướp th́ đời này không bị tù tội, đời sau sanh ra có nhiều của cải. Giới thứ ba không tà dâm th́ đời này nghiêm trang tề chỉnh, có phẩm chất tốt, đời sau sanh ra đẹp đẽ trang nghiêm. Giới thứ tư không nói dối th́ đời này được mọi người tin tưởng, đời sau sanh ra nói năng lưu loát, ai cũng quí, cũng tin. Giới thứ năm không uống rượu mạnh, uống say, không hút á phiện x́ ke ma túy, th́ đời này được tỉnh táo sáng suốt, đời sau sanh ra thông minh trí tuệ. Chỉ tu năm giới thôi đời này là một con người đứng đắn trong xă hội, không ai dám khinh rẻ, đời sau sanh ra lại càng tốt đẹp hơn. Như vậy có phải đời này được an lạc, đời sau càng an lạc hơn không?
Việc tu có lợi ích thiết thực, chớ không phải chuyện huyễn hoặc mơ hồ. Quí Phật tử kiểm điểm lại, giả sử trong một xóm có cả trăm gia đ́nh tu theo Phật, giữ tṛn năm giới th́ xóm đó có lo sợ ǵ không? Không lo sợ ǵ cả, không sợ người ta hại ḿnh, không sợ người ta trộm cắp của ḿnh, không sợ người ta phá gia cang của ḿnh, không sợ người ta dối gạt ḿnh, không sợ người ta say sưa phá phách ḿnh, xóm làng đó b́nh an vô cùng. Sống như vậy là thực hiện cuộc sống an lạc cho ḿnh và cho mọi người. Đây là hiệu quả thiết thực của người tu Phật. Tu giúp cho bản thân chúng ta tốt, gia đ́nh được b́nh an, mà cả xă hội cũng tốt đẹp nữa. Đạo Phật đem lại b́nh an cho mọi người, đem lại sự tốt đẹp cho xă hội, mà rất tiếc Phật tử tu theo đạo Phật lại không biết ḿnh đang làm ǵ, kết quả ra sao.
Chúng ta tu đúng theo lời Phật dạy, khi tuổi thọ sắp măn có người tới hỏi: “Anh chị theo đạo Phật, tu cư sĩ tại gia, vậy khi chết đi đâu?” Quí Phật tử sẽ nói: “Bảo đảm tôi trở lại làm người tốt hơn bây giờ.” Cho nên bỏ thân này không tiếc, không sợ chết, yên ḷng ra đi v́ nắm chắc tương lai sáng sủa hơn, đẹp đẽ hơn. Rơ ràng việc tu có công hiệu vô cùng. C̣n kẻ không biết ngày mai nhắm mắt ḿnh sẽ ra sao, tương lai mù mịt th́ rất sợ chết. Việc này rơ ràng như thế không nghi ngờ ǵ cả. Như vậy chúng ta thấy giá trị của sự tu, an lạc đời này và đời sau. Đó là một lẽ thật vậy.
Kế đến nói về tu để được giải thoát. Phần này hơi khó một chút. Chúng ta thường tụng kinh Bát-nhă, trong đó Phật muốn đưa ḿnh từ con người si mê tiến lên con người trí tuệ sáng suốt để giải thoát sanh tử. Nhưng rất tiếc Phật tử tụng th́ tụng mà hiểu th́ không hiểu. Chỉ câu đầu thôi “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhă ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” nghĩa là sao? Bồ-tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu Trí tuệ Bát-nhă, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, nên vượt qua hết tất cả khổ nạn. Một câu đó quí Phật tử có thấm chưa, có hành chưa? Có lẽ quí vị tụng cho Phật nghe nhiều hơn là để thấm để hành.
Một câu này đủ để thấy giá trị siêu thoát trong đạo Phật rồi. Đây là bài kinh trí tuệ, mà trí tuệ này là trí tuệ của Phật siêu xuất thế gian, chớ không phải trí tuệ thế gian. Chiếu kiến là dùng trí tuệ soi xét thân năm uẩn đều không, tất cả mọi khổ ách sẽ không c̣n. Hết sức giản đơn, chỉ một câu thôi chúng ta vượt qua tất cả khổ ách. Nhưng chúng ta đă tụng Bát-nhă cả trăm biến, ngàn biến mà hết khổ ách chưa? - C̣n nguyên. Đó là v́ chưa hiểu tinh thần Bát-nhă.
Trong Bát-nhă có chia ra ba phần: Văn tự Bát-nhă, Chiếu kiến hay Quán chiếu Bát-nhă và Thật tướng Bát-nhă. Văn tự Bát-nhă giống như con thuyền. Ngồi trên thuyền mà không chịu chèo, không chịu bơi th́ chừng nào mới qua sông? Cho nên Văn tự rồi phải Quán chiếu. Có chèo bơi mới đến nơi, tức học hiểu quán chiếu tu tập rồi mới qua hết khổ ách, đi tới Thật tướng Bát-nhă là lên bờ. Chúng ta chỉ tụng đọc mà không soi xét tức chỉ làm việc ban đầu Văn tự Bát-nhă. Nếu dừng ngang đó, th́ chừng nào tới phần thứ hai, thứ ba. Mục đích chánh là đến bờ, mà ta cứ ngồi trên thuyền hoài, chắc thuyền mục ch́m luôn, chớ không tới bờ bên kia được. Đó là chỗ đa số chúng ta hiện giờ đang mắc kẹt.
Chữ “giai không” này rất nhiều người hiểu lầm. Cho nên trong nhà Phật có câu: “thà là chấp có bằng núi Tu-di, không nên chấp không bằng hạt cải”, chấp không là tai họa đáng sợ. Nghe nói chiếu kiến ngũ uẩn giai không người ta tưởng đó là chấp không. Thật ra không phải vậy. Điều này tôi sẽ dẫn chứng cụ thể để tất cả chúng ta thấy rơ ư nghĩa chữ Không của Bát-nhă.
Như tôi đưa bàn tay lên, co năm ngón lại. Khi co năm ngón lại th́ có nắm tay. Bây giờ chúng ta phải nhận cho ra nắm tay là thật hay không thật? Đang thấy nắm tay nói không sao được, nhưng nếu nói nó thật th́ khi tôi buông năm ngón tay ra, nắm tay có không? C̣n co th́ có, buông ra th́ không. Như vậy nói thế nào cho đúng nghĩa của nắm tay. Nói không không được, nói có cũng không được. Chúng ta không có quyền nói nắm tay thật có v́ đó là sai lầm, cũng không có quyền nói thật không v́ mắt đang thấy rơ ràng. Nói thật có, nói thật không đều là chấp một bên, đều là sai lầm.
Ở đây tôi chia ra ba thời. Thời thứ nhất trước khi tôi co năm ngón lại, có nắm tay không? - Không có nắm tay. Thời thứ hai khi tôi đang co năm ngón lại, nhưng nếu nh́n trên từng ngón phân tích đây ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa… mỗi ngón riêng biệt th́ có nắm tay không? - Không có nắm tay. Đó là đang lúc có mà cũng là không. Thời thứ ba khi buông năm ngón ra, có nắm tay không? - Cũng không có nắm tay. Như vậy ba thời trước giữa và sau hay quá khứ, hiện tại và vị lai, nắm tay bản tánh là không. Đợi năm ngón co lại là duyên hợp mới có, đă là duyên hợp th́ phải tan chớ không thể c̣n hoài được. Phàm những ǵ có hợp có tan th́ không thể gọi là thật. Nắm tay bản tánh nó là không, đợi duyên hợp mới có. Duyên hợp mới có nên có là giả có chớ không phải thật. Đây là một lẽ thật.
Đi xa hơn, tất cả mọi thứ chung quanh ta đều là Tánh không, duyên hợp giả có. Tánh không này không rời các pháp, như ngay nơi nắm tay, ta biết rơ tánh nó là không. Nắm tay là sắc tướng mà ta thấy Tánh không nên kinh nói “sắc tức thị không”. Không ở đây không phải không ngơ, mà không là Tánh không. Rồi “không tức thị sắc” là từ Tánh không, duyên hợp nên có sắc. Như vậy từ h́nh sắc giả tướng thấy được Tánh không, từ Tánh không duyên hợp nên có h́nh sắc. Hiểu như vậy là hiểu được Bát-nhă.
Trở lại thân chúng ta đây là thật hay giả? - Giả. Nếu giả khi bị ai nhéo một cái hoặc mắng một câu có giận không? Đây là chỗ thiết yếu của sự tu. Chúng ta thấy đúng như thật rồi ứng dụng tu, phải thấy chớ không thể tưởng tượng. Thân này gồm sắc uẩn tức h́nh sắc do đất, nước, gió, lửa hợp lại thành. Nếu phân tích sâu hơn nữa, Phật nói trong thân có vô số vi trùng “nhân thân chi nội hữu vô số vi trùng tại trung di trú”. Vi trùng chia làm hai loại: hộ trùng là loại trùng bảo vệ thân này và hoại trùng là loại trùng phá hoại thân này. Y học ngày nay gọi là tế bào. Có những tế bào phá hoại, có những tế bào bảo vệ ḿnh. Tại sao Phật gọi tế bào là vi trùng? Bởi v́ nó có hoạt động, có sự sống. Bốn thứ không thể thiếu một, đất hoại cũng chết, nước cạn cũng chết, gió dừng cũng chết, hơi ấm tan hết cũng chết.
Trong kinh Phật dùng ví dụ, nếu càng nghĩ ta càng thương xót ḿnh. Phật nói như người đem cái lồng bắt bốn con rắn độc bỏ vào đó. Chúng cự lộn hoài, ông chủ vừa lo cho nó ăn, vừa can gián cho nó đừng cắn nhau rất cực. Giữ ǵn đáo để một thời gian, cái giỏ lủng mỗi con chạy mỗi góc. Ông chủ nhà lẽ ra phải mừng, nhưng đằng này ông lại buồn, vội vă sắm cái giỏ mới rồi tiếp tục t́m bốn con rắn khác về nuôi nữa. Cứ như vậy mà nuôi rắn, đời này nuôi rắn, đời sau nuôi rắn, tiếp tục măi măi nuôi rắn cực khổ như vậy. Chúng ta nghĩ ông chủ đó có đáng thương không? Thật là đáng thương, tội ǵ làm như vậy!
Đức Phật bảo chúng sanh cũng thế, rất đáng thương xót. Đất nước gió lửa là bốn con rắn độc. Thiếu nước th́ cho ly nước, thiếu gió th́ kiếm chỗ nào không khí trong lành hít thở, thiếu đất th́ kiếm cơm, thiếu ấm th́ kiếm áo. Ít bữa đất lấn nước hoặc nước lấn đất, thế là bệnh tật phát sanh. Ít bữa gió thổi mạnh quá, đất rung rinh cũng sanh bệnh. Cho nên khi trúng gió th́ phải cạo gió, đuổi ra. Khi nóng th́ phải kiếm đồ mát uống vô. Lúc nào cũng can thiệp, ḍm chừng hoài. Cả đời lo nuôi nó, can thiệp cho nó ḥa hợp. Vậy mà khi nó sắp hoại mất th́ hoảng sợ tiếc nuối, t́m đủ mọi cách để giữ nó lại, có đáng thương không?
Lẽ ra khi thân này sắp mất, ta phải thức tỉnh thôi đừng nuôi nữa. Nhưng không, bỏ cái giỏ này làm cái giỏ khác chắc hơn để nuôi những con rắn khác. Đó là ṿng luân hồi lẩn quẩn của chúng ta. Việc làm này giống như việc làm của con dă tràng, cứ xe cát thành cái cụm, một ngọn sóng ùa vô cuốn mất hết, nó lại tiếp tục làm cái khác. Phật thương chúng sanh là v́ vậy.
Bởi thấy thân này thật nên những nhu cầu nó cần, phải đáp ứng cho nó thỏa măn. Nó thèm thức ăn ngon phải chạy t́m thức ăn ngon. Nó thích mặc đẹp phải t́m y phục đẹp. Càng làm nó lại càng không thỏa măn. Được một nó đ̣i hai, được hai nó đ̣i bốn, cứ tăng lên hoài không bao giờ biết đủ. Nếu tất cả thế gian ai cũng muốn thỏa măn nhu cầu của thân xác thịt này, có đụng chạm quyền lợi nhau không? V́ ḿnh muốn thỏa măn nhu cầu đó nên ai cũng muốn gom góp tất cả về ḿnh. Đó chính là nguyên nhân dẫn đến đấu tranh, gốc của mọi thứ đau khổ.
Nếu chúng ta biết nó là giả, không giành giật với ai hết, sống vừa đủ thôi. Lỡ mang thân này th́ nuôi cho nó khỏe mạnh, chừng nào hết duyên nó tan ră, không có ǵ quan trọng. Nhờ thế ta không tham, không tham th́ bớt khổ. Thấy được sắc uẩn không thật chúng ta sẽ bớt tham, bớt khổ cho bản thân và mọi người chung quanh. Đó là nói về phần Sắc thân.
Kế đến phần tâm. Hiện giờ tất cả chúng ta khi suy nghĩ một việc ǵ rất kỹ, ḿnh cho rằng suy nghĩ đó là đúng, nếu ai phản đối bảo sai ta sẽ thế nào? Nổi giận ngay. Bởi vậy chỗ này chúng ta phải đi sâu mới thấy giá trị của nó. Suy nghĩ của ḿnh không có ǵ bảo đảm đúng cả. Bởi suy nghĩ là tâm hư giả sanh diệt, không phải là chân lư. Con người suy nghĩ là do kinh nghiệm, sự từng trải rồi kết luận như vậy là đúng. Nhưng nếu kiểm tra lại, giả sử suy nghĩ ấy có đúng cũng chỉ đúng trong một giai đoạn, một phạm vi nào thôi. Qua giai đoạn khác, qua hoàn cảnh khác nó không c̣n đúng nữa. Nhưng khi ta đă cho suy nghĩ của ḿnh là đúng rồi, người khác nói sai ta nổi giận nhiều ít? Chính v́ cái đúng sai đó mà trong gia đ́nh, ngoài xă hội xảy ra không biết bao nhiêu sự buồn khổ. Chồng nghĩ một đàng, vợ nghĩ một ngả th́ không bao giờ có hạnh phúc, chỉ có chia ly thôi. Anh em ruột mà kẻ nghĩ thế này, người nghĩ thế khác, luôn luôn ngược nhau th́ không c̣n t́nh thân nữa. Thậm chí cha với con mà suy nghĩ khác cũng dẫn tới tai họa như thường.
Như tất cả tổ tiên chúng ta ai không tôn trọng đức Khổng Tử là bậc Thánh, những ǵ Ngài nói đều là khuôn vàng thước ngọc. Nhưng nếu bây giờ Ngài sống lại, thấy phụ nữ chẳng những ở các nước khác mà ngay cả Trung Hoa, Ngài chỉ c̣n có nước lắc đầu thôi. Không c̣n cái thuở khuê môn bất xuất, tam ṭng tứ đức, tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử nữa. Họ không thể chấp nhận một hệ thống cha, chồng rồi tới con như thế đâu. Như vậy là chủ trương của đức Khổng Tử không c̣n được chấp nhận rồi, nói ǵ là tôn trọng! Những cái phải của tập thể này không là cái phải của tập thể khác. Hai cái phải khác nhau gặp nhau th́ dẫn tới đánh nhau là chuyện dĩ nhiên thôi. Rơ ràng có chấp là có khổ, chấp thân hay chấp tâm ǵ cũng thế. Khổ đó khổ vô cùng chớ không phải thường.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng thuộc về tâm. Thọ là cảm giác vui buồn, thích hay không thích… Tưởng là tâm tưởng. Hành là suy tư. Thức là phân biệt. Tuy có bốn nhưng nói gọn hơn là những suy tư phân biệt của ḿnh. Những suy tư này không phải là chân lư, nó chỉ đúng ở khía cạnh hoặc trường hợp nào thôi. V́ vậy nó không thật, không cố định. Đức Phật dạy: “Người tôn trọng chân lư là khi nghĩ điều ǵ, th́ nói đây là cái nghĩ của tôi.” Đừng thêm chữ đúng. Không có chữ đúng th́ không căi nhau, bởi v́ ai cũng có quyền nghĩ riêng của ḿnh. Hiểu như vậy là tôn trọng chân lư. Nếu ta nói đúng mà người không nghe th́ ḿnh phản bác lại. Đó là bệnh độc tài.
Sắc uẩn và tâm uẩn, chúng ta biết hai thứ này không thật là độ tất cả khổ ách rồi. V́ vậy lời Phật là lời vàng. Chỉ một câu nếu chúng ta khéo t́m hiểu thấu đáo, ứng dụng tu hành th́ sẽ vượt qua hết các khổ nạn. Người học đạo phải có cái nh́n tường tận, chớ không phải đọc thuộc ḷng lời Phật dạy là đủ. Nh́n tường tận rồi ứng dụng trong cuộc sống mới là tu. Như thấy thân không thật, tâm suy nghĩ không thật nên hết khổ. Đó là ta đă sống an lành tự tại v́ không giành giật nhau trên vật chất, không độc tài trên tinh thần.
Đạo Phật đặc biệt ở điểm dạy chúng ta tu, chớ không bắt chúng ta phải tin theo. Điều này hết sức rơ ràng. Như khi quí thầy giải thích năm giới rồi hỏi lại Phật tử, giới thứ nhất suốt đời không được sát sanh, Phật tử giữ được không? Nếu giữ được, quí vị tự nói “dạ, con giữ được”. Nếu giữ chưa được th́ làm thinh, Phật không bắt buộc chi cả. V́ lợi ích cho chúng ta Phật phương tiện chế ra các giới luật như vậy, chớ không phải ta giữ giới cho Phật. Hiểu thế mới thấy giá trị của đạo Phật.
Từ Tánh không Phật nói sáu căn, sáu trần, sáu thức cũng đều do duyên hợp, Tánh không. Đến các giáo lư quan trọng như pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, kinh điển Nguyên thủy xem là chân lư, nhưng với con mắt Bát-nhă cũng là Tánh không duyên hợp. Khi xưa tôi hơi khó xử về điểm này. Các pháp thế gian duyên hợp hư giả th́ đúng, c̣n giáo lư của Phật là lời vàng ngọc mà giả sao? Nhưng bây giờ tôi mới thấy hay, v́ Phật nói pháp Phật dạy như ngón tay chỉ mặt trăng hay thuốc để trị bệnh cho người. Bệnh do uống thuốc mà lành, nếu bệnh không thật th́ khi bệnh lành rồi, thuốc cũng phải bỏ. Nếu ai lành bệnh mà cứ tiếp tục uống thuốc hoài th́ sẽ thành bệnh nữa. Nên biết bệnh hết th́ thuốc cũng phải bỏ, bệnh giả th́ thuốc cũng không thật.
Từ đó tôi mới thấm thía điều trong kinh kể lại. Khi Phật ngồi dưới cội bồ-đề được giác ngộ, lẽ ra Ngài đi giáo hóa ngay, nhưng đức Phật cứ trù trừ măi, không muốn thuyết pháp. Đợi đến lúc chư thiên năm lần bảy lượt thỉnh cầu, Ngài mới dùng phương tiện giáo hóa. Qua đó để thấy chỗ chân thật không phải dễ chỉ cho mọi người, mà phải dùng phương tiện giúp người nghe hiểu, ứng dụng tu từ từ mới thấy đạo. Cho nên Tứ đế, Thập nhị nhân duyên là phương tiện của Phật dạy. Đă là phương tiện th́ đâu phải chân thật, nhưng nhờ đó chúng sanh bớt bệnh, dần dần mới khỏe mạnh hẳn. Nhờ theo lời chỉ dạy của Phật chúng ta biết được lẽ thật, tu hành mới hết khổ. Hết khổ rồi th́ pháp cũng bỏ luôn, cũng như bệnh nhân lành bệnh th́ thuốc cũng phải ngưng.
C̣n một điểm đặc biệt nữa trong kinh Bát-nhă, nếu người đọc không khéo sẽ thấy mâu thuẫn: “dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề-tát-đỏa y Bát-nhă ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại v.v..”, v́ không có sở đắc nên tâm Bồ-tát không ngăn ngại, v́ không ngăn ngại nên không sợ hăi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng đạt đến cứu kính Niết-bàn. Chư Phật ba đời cũng nhờ Bát-nhă mà được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vô sở đắc, tại sao lại đắc? Nếu đọc suông ta sẽ thấy nó mâu thuẫn, nhưng đọc kỹ mới thấy cái hay lạ lùng đó. Khi chúng ta đă bỏ hết những cố chấp về thân, về tâm rồi th́ không c̣n sở đắc. Sở dĩ nói vô sở đắc là v́ những mê lầm đă dẹp hết, dẹp luôn cả pháp nữa, tất cả các thứ đều không thể được. Tâm ta lúc đó không c̣n dính chấp thứ ǵ hết, rỗng rang tự tại. Người đời cứ sợ không chấp thân, không chấp tâm lấy ǵ để sống. Nhưng sự thật không phải vậy. Khi không chấp tất cả th́ Tâm chân thật của ḿnh hiện tiền. Tâm chân thật hiện tiền này đưa ta tới giác ngộ viên măn, thành Phật, nên nói được. Được mà không có ǵ để được cả. Đây chính là chỗ sâu xa vi diệu của Bát-nhă vậy.
Bởi chúng ta mê chấp thân, mê chấp tâm lăng xăng vọng tưởng nên quên mất cái chân thật của chính ḿnh. Khi ruồng dẹp hết hai thứ chấp đó th́ cái chân thật hiển lộ ra. V́ nó đă sẵn trong ta từ xưa đến nay nên nói được không đúng. Cho nên Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. V́ chấp lầm thân tâm nên ta không nhận ra, khi hết chấp th́ tánh Phật hiện ra. Bồ-tát nương nơi đó mà xa rời những sợ sệt, những khủng bố, đến được cứu kính Niết-bàn. Ba đời chư Phật cũng nhờ trí tuệ đó mà đến chỗ giác ngộ viên măn gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Như vậy Phật nhờ Trí tuệ Bát-nhă, ban đầu dẹp phá được các thứ chấp, sau mới thành Phật. Bồ-tát cũng thế. Tu một bài kinh Bát-nhă đủ cho chúng ta giải thoát rồi. Các Tổ luôn luôn thấy nó quan trọng vậy, nên tụng kinh ǵ không bỏ qua Bát-nhă. Nhưng tội cho chúng ta tụng mà không thấy được điều này. Tụng cả năm này tháng kia mà không phá được chút chấp nào hết, v́ vậy việc tu không tiến. Nếu tiến được chúng ta đă hết khổ lâu rồi. Giống như mấy đứa học tṛ, học bài xong trả bài cho cô giáo là xem như tṛn bổn phận, không biết học như thế là học cho ḿnh. Chúng ta cũng vậy, đọc kinh cho Phật nghe, c̣n ḿnh th́ không chịu tu tập ǵ cả.
Sống giữa đời này không giành giật về vật chất, không chấp nê về tinh thần, th́ đời c̣n ǵ là khổ, quả vị Phật cách đâu bao xa. V́ vậy Phật nói chúng sanh mê lầm thật đáng thương. Trong kinh có câu này: “Cái khổ của địa ngục bị thiêu đốt chưa phải là khổ. Cái khổ làm ngạ quỉ đói khát cũng chưa phải là khổ. Cái khổ làm súc sanh kéo cày, kéo xe cũng chưa phải là khổ. Chỉ si mê không biết lối đi mới thật là khổ.” Ở trong địa ngục dù bao nhiêu kiếp cũng có ngày măn, được trở lại làm người. Ngạ quỉ, súc sanh cũng vậy, trả hết nghiệp cũng được trở lại làm người. C̣n si mê cứ lẩn quẩn không có ngày cùng. Đó là cái đau khổ nhất mà chúng sanh không thấy, thật là đáng thương.
Cho nên hiểu Phật pháp rồi, chúng ta nh́n lại thật là đáng thương cho ḿnh. Người xưng hùng xưng bá chỗ này chỗ kia, cũng là những người đáng thương thôi, chớ c̣n không có ǵ thật hết. Như vậy hai đoạn đường, đoạn đường đầu tu theo Phật để được an lành trong đời này và đời sau, đoạn đường thứ hai tu theo Phật để thấu triệt lẽ thật, chúng ta dễ ra khỏi ṿng sanh tử. Đó là Trí tuệ Bát-nhă.
Như vậy trí tuệ thế gian với trí tuệ của Phật khác nhau xa hay gần? - Rất xa. Nếu ai cũng học được Phật và có trí tuệ như vậy th́ thế gian này không c̣n khổ nữa, mọi người thương nhau không hết, có đâu giành giật. V́ vậy đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ, chúng ta trải ḷng thương tất cả và an ủi chúng sanh cùng trong cơi khổ của ḿnh. Ta tự tu tập và giúp cho mọi người cùng tu tập bớt khổ, tỉnh sáng không c̣n lầm mê nữa. Đó là mục đích chủ yếu của đạo Phật.
|
Quay trở về đầu |
|
|
OnlyOne_0 Hội viên
Đă tham gia: 15 April 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 254
|
Msg 9 of 9: Đă gửi: 02 May 2006 lúc 2:18am | Đă lưu IP
|
|
|
Bài này được lấy trong tập Nhặt Lá Bồ Đề của HT Thích Thanh Từ:
1. Đặt lại vấn đề tu cho hàng Phật tử tại gia
Tu là ǵ? Là sửa.
Vậy Phật tử có tu chưa?
Phật tử đi chùa cúng Phật để làm ǵ?
Việc ấy có gọi là tu không?
Cúng Phật để xin cầu an hay cầu siêu? Đó là việc của Phật tử?
Từ việc này hỏi lại Phật tử. Thí dụ: Phật tử có con cái nó về thăm ḿnh, cho tiền cho quà rồi nó đ̣i hỏi ḿnh phải đáp ứng lại nó việc này, việc nọ... th́ hỏi ḿnh có vui mà nhận quà của chúng không? Chúng là con cái ḿnh mà lại đặt điều kiện với ḿnh buộc ḿnh phải thỏa măn cho chúng khi ḿnh nhận tiền của, lễ vật của chúng?
Con cái như vậy là có tốt với cha mẹ không? Phải là con hiền con thảo không? Một bậc cha mẹ nghiêm chỉnh đúng đắn có chấp nhận yêu sách vô lối như vậy của con cái không?
Ở đây việc cúng kiến của Phật tử cũng vậy. Cúng Phật một số lễ vật, tiền của nào đó rồi mong cầu Phật phải độ cho ḿnh điều này điều nọ. Phật phải giúp cho thân nhân ḿnh siêu, giúp cho ḿnh an, thỏa được những việc muốn của ḿnh trong cuộc sống. Mua may bán đắt, tai qua nạn khỏi, gia đạo yên lành, con cái nên danh nên phận v.v... biết bao nhiêu việc ḿnh đ̣i hỏi ở đức Phật với một mớ lễ vật như vậy?
Như vậy đó là ḿnh đă tu chưa? Tu là sửa. Ở đây ḿnh có sửa ǵ không? Ḿnh chỉ có tham thôi, không có sửa ǵ cả, phải vậy không? Mà tham tức là trái với sự tu rồi. Tu là sửa. Sửa là sửa tham sân si để lần hồi tham sân si không c̣n nữa. Như vậy mới gọi là tu! Chứ tu ǵ mà mỗi ngày ḷng tham thêm nhiều.
Đem nải chuối, ốp nhang cúng Phật cầu được việc, mừng quá, sau đem hai nải, hai ốp cầu thêm nữa..., như vậy đó là mỗi ngày ḷng tham thêm lớn. Và lúc nào việc cầu không c̣n linh nữa, kiếm chùa khác, Phật khác linh hơn.
Việc cúng kiến đi chùa như vậy ở Phật tử , đó là cái duyên dễ bước vào tà đạo, bước vào mê tín dị đoan. Nghe ở đâu có ǵ linh thiêng hiển hách, có ǵ lạ một chút là rủ nhau kéo đến xin xỏ nọ kia v.v... gặp tà ma dẫn dụ là đi vào đạo tà mất nhân chánh giáo.
Đó là chỗ đáng tiếc cho quí Phật tử. Đă có tâm tốt mà gieo nhân không chính xác, không cần hiểu Phật pháp ra sao. Thành ra cũng đồng làm một việc mà người hiểu biết th́ có kết quả tốt, c̣n người không hiểu biết th́ kết quả chẳng ra ǵ.
Cũng chỉ một ốp nhang nải chuối mà người hiểu được Phật pháp th́ gặt được pháp lành an vui, c̣n người không hiểu th́ chỉ thêm sự rối rắm đau buồn, nếu không nói là hoài công vô ích.
Nói như vậy để Phật tử thấy rơ chỗ tu chớ không phải nhằm trách cứ ǵ Phật tử. Thật ra cái lỗi không phải ở Phật tử, mà nếu có nói th́ đó là lỗi của những Tăng Ni nào đó. Các vị ấy đă vô t́nh hay cố ư đưa các Phật tử vào chỗ nhận thức lệch lạc.
Người Phật tử đến chùa xin cúng 100 đồng. Vị trụ tŕ hay người có trách nhiệm thâu tiền liền hỏi:
-Phật tử muốn cầu ǵ? (Hỏi và hướng dẫn) Cầu an hay cầu siêu?
Và lắm lúc vị đó c̣n tâm lư hơn, t́m hiểu về gia đ́nh của Phật tử, biết có chuyện ǵ đó không ổn th́ gợi ư cầu nguyện cho v.v... Phật tử thiếu hiểu Phật pháp liền đó nghe ḿnh được người Thầy chăm sóc cẩn thận, bèn thích ư. Và cứ vậy, nhờ Thầy giúp cho việc này, việc nọ qua cúng kiến, cầu an, cầu siêu...
Tại sao khi Phật tử cầm tiền, dâng lễ vật cúng kiến, nếu người Thầy có hỏi cầu ǵ? Phật tử lại không trả lời rằng:
-Con không cầu ǵ khác, chỉ cầu cho tam bảo trường tồn để độ thoát chúng sanh trầm nịch.
V́ vậy việc Phật tử đi chùa, cúng Phật, lễ Phật phải được đặt lại. Việc tu ở Phật tử phải được đặt lại.
Trước hết Phật tử đến chùa để cúng dường Tam Bảo. Việc cúng dường này có nghĩa là góp một phần tài lực để duy tŕ ngôi Tam Bảo cho c̣n măi măi ở đời. Mà đại diện ngôi Tam Bảo là Tăng Bảo. Như vậy, cúng dường Tam Bảo có nghĩa là cúng dường cho Tăng Bảo. Khi cúng ḷng những mong sao cho ngôi Tăng Bảo có được nguồn sống mà duy tŕ Phật Bảo, Pháp Bảo. Chư Tăng có sống th́ ngôi Tam Bảo mới thường trụ ở thế gian và làm ngọn đèn sáng cho chúng sanh hướng tới để tiêu trừ bao nỗi vô minh hắc ám.
Phải biết việc khai mở đạo mầu là quư báu vô lượng, v́ việc ấy mà cúng dường nên phước đức theo đó cũng vô lượng. Cúng dường như vậy là không v́ việc riêng mà chung cho cả Tam Bảo, cho cả chúng sanh, nên dù không cầu ǵ khác mà phước đức vẫn to tát. Việc cúng dường này không phải nhằm chuyển đổi ḷng tham, không phải chuyển từ cái tham lệch lạc thành cái tham chính đáng, đă tham th́ không cái nào chính đáng. Ở đây nói là nhằm hướng dẫn để xác định về nhận định chính đáng trong việc làm, nhằm xây dựng cho Phật tử có được chánh kiến, có được cái nh́n đúng đắn khi đi vào ngôi nhà Phật pháp.
Như đă nói: Trước là giữ vững ngôi Tam Bảo. Giúp Tăng Bảo được sống c̣n để tiếp nối ngọn đèn chánh pháp của Phật. Kế đó Phật tử phải chịu khó học hỏi nghe pháp.
Đến chùa, nếu chỉ một bề lo cúng dường cơm áo (tứ sự) không, chưa đủ. Người Phật tử phải trau giồi thêm Phật pháp với chư Tăng Ni nữa. Có vậy, việc Phật pháp mới sáng ra và việc tu theo đó mới có lối vào, khi hành không sai lạc.
Đó là việc chiïnh yếu, Phật tử phải chú ư. Tu mà không học là tu mù. Vả lại đó cũng là trợ duyên cho Tăng Ni tự trau giồi để đáp ứng lại chỗ cầu học của Phật tử. Chứ không, không ai hỏi ǵ hết, khiến Tăng Ni có người cũng lơ là sự tu học kinh điển. Để rồi qua ngày đoạn tháng, chỉ làm một việc cúng kiến lặt vặt có chừng. Như vậy, uổng phí cho cả đời xuất gia học đạo.
Phật tử đến chùa, phải cầu học Phật pháp, và chỉ nên nói về những vấn đề Phật pháp, chớ nên đem việc thế sự lạm bàn. Chỉ mất thời giờ vô ích và làm rối tâm người tu.
Phật tử học tu là tu như thế nào?
Có ai hỏi: Là Phật tử, sau khi chết đi về đâu? Phật tử sẽ trả lời làm sao?
Nếu ḿnh tu cầu về cơi Phật, mà đạo nghiệp chưa tṛn, Phật và Thánh chúng không rước th́ ḿnh về đâu?
Ḿnh sẽ ú ớ về điều này! V́ vậy Phật tử chưa nắm vững đường lối tu.
Phải biết trong Phật giáo có chia ra làm ngũ thừa, là năm thừa, năm từng bậc để người tu hướng đến. Năm thừa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa.
Với nghiệp nhân cho các thừa cũng phải biết qua. Thí dụ ở Nhân thừa, tu nhân ǵ sẽ được sanh về cơi người? Muốn sanh về cơi người phải giữ năm giới làm căn bản. Ở Thiên thừa, muốn sanh về cơi trời phải tu Thập thiện v.v... Người Phật tử phải biết qua những điều như vậy để xác định hướng đi của ḿnh, để biết rồi ḿnh sẽ đi về đâu.
Như bây giờ ḿnh không đủ điều kiện sanh về cơi Phật mà b́nh sinh ḿnh khéo giữ được năm giới, th́ biết chắc là sau khi chết ḿnh sẽ sanh lại làm người. Và do tu pháp lành nên thành người có đức hạnh được vào hàng tôn quư, giàu có sang trọng v.v... Biết được vậy, không sanh (tâm) nghi ngờ, an tâm tu tập pháp lành.
Phật tử tu pháp lành của phần ḿnh là tu làm sao?
Đây là việc tu của người Phật tử tại gia. Phật tử đă thọ quy giới rồi. Giới thứ nhất, không giết hại, Phật tử phải vâng giữ không nên giết người, không nên giết các loài sinh vật bừa băo. Phải giới hạn tối đa trong hoàn cảnh điều kiện của ḿnh, cố tránh nợ sanh mạng càng nhiều càng tốt.
Giới thứ hai, không trộm cắp, Phật tử đă vâng giữ rồi không nên tái phạm. Không được trộm cắp của người bằng bất cứ h́nh thức nào, hoặc gián tiếp hay trực tiếp cũng đều không nên.
Giới thứ ba, không tà dâm. Phật tử phải thể hiện đời sống lứa đôi một cách chơn chánh, tránh các trường hợp lang chạ, ngoại t́nh.
Giới thứ tư, không nói dối, Phật tử phải thành thật, dù trong công việc mua bán đổi chác, không nên lừa lận người. Buôn bán làm ăn th́ phải có thịnh có lời, nhưng đồng thời phải nhắm trên công sức, trên mồ hôi trí tuệ ḿnh. Tránh mọi trường hợp nhằm bóc lột tài lực, nhân lực người. Cắt giá ăn tiền, tráo trở mặt hàng, lật lọng giao kèo hợp đồng, bội tín trong công việc làm ăn v.v... Uy tín người Phật tử được xác định phần lớn trên việc này.
Giới thứ năm, không uống rượu, điều này quan trọng đối với người nam. Người Phật tử nam phải khá chinh phục ḿnh về việc này. Trong cuộc sống, không tránh khỏi giao tế, nhưng đối với việc rượu chè, phải khéo linh động làm sao không phải vướng vào. Hay ít ra hoặc vướng vào cũng phải biết đường ra. Uy tín con người nằm trên chỗ tỉnh và say. Phật tử phải khéo chế ngự ḿnh. Đă thấy rơ tác hại của rượu trên mọi mặt th́ nên tránh xa càng tốt. Phật tử lúc nào cũng phải tỉnh sáng. Có tỉnh sáng mới thấy được vấn đề phức tạp khác đang bao quanh cuộc sống của ḿnh. Nhất là màn tối vô minh hăy c̣n dày đặc, Phật tử hăy thoát ra khỏi mọi sự nghiện ngập!
Là Phật tử, c̣n tại gia cư sĩ không phải tu ǵ nhiều hơn, nếu có đủ duyên tiến xa hơn càng tốt. Nếu không, chỉ giữ chừng ấy việc là đă quư lắm rồi.
Phật tử ngoài chiều tu tiêu cực (chỉ lo cho ḿnh đừng phạm năm giới) c̣n phải phát huy trên chiều tích cực. Tức nhằm giúp người, tạo duyên cho người cũng được như ḿnh. Việc này cần phải khéo làm trong tin thần cởi mở, chân thành v́ người, không một ư đồ vụ lợi riêng tư nào. Làm thế nào, nơi nào có bóng dáng Phật tử là nơi đó có cuộc sống tươi mát, có sự ấm êm hạnh phúc. Gia đ́nh có Phật tử th́ gia đ́nh hạnh phúc. Láng giềng có Phật tử th́ láng giềng thêm vui. Người đời có Phật tử th́ có sự ấm áp, có được yên lành.
Phật tử phải là hiện thân Phật pháp sống đi vào cuộc đời. Chớ nh́n Phật pháp trên h́nh tượng Phật, hăy nh́n Phật pháp ở nơi ḿnh, và ở ngay trong ḷng cuộc sống. Phật pháp phải là pháp sống, không thể là pháp chết được.
Phật tử muốn tuyên dương Phật pháp, hăy tự ḿnh sống đúng như Phật pháp. Đó là sự cúng dường cao tột nhất. Chư Phật sẽ nhất tâm tùy hỷ cho người có tŕnh độ sống như vậy. Và từ đó mọi rối rắm của cuộc sống sẽ lần hồi được giải quyết ổn thỏa. Đó là đă được pháp lực gia hộ. Một sự gia bị bất khả tư ngh́. Ấy cũng từ nơi ḿnh nỗ lực quyết sống v́ Phật pháp mà thôi, không có ǵ huyền hoặc, thần bí.
Phật tử đă có gan sống như Phật pháp, th́ không cầu an mà được an. V́ đă là người Phật tử chân chánh th́ thấy nguy nào khác ǵ an. Nguy cũng là tướng, an cũng là tướng. Mà đă là “tướng” tức là hư vọng th́ an hay nguy thảy đều hư vọng. Thế nên Phật tử ngay đó mà b́nh an. Một sự b́nh an như vậy mới thật là b́nh an lớn. Và từ niềm b́nh an ấy, Phật tử có đủ tỉnh táo sáng suốt chuyển nguy thành an theo cái nh́n của cuộc đời. Chuyển được hoàn cảnh xấu thành tốt.
Vô lư, tu hành là chỉ để “cầu an” . Tu là đối kháng lại ma quân th́ làm sao an được? Mà hễ không an th́ thối lui, đó có phải là người tu chưa? Lui th́ ai tiêu trừ ma quân? Ma quân mà c̣n th́ an làm sao an? Dù muốn an có được không?
Vậy nên người tu không thể chấp nhận được sự “cầu an” như vậy. Không thể cầu an bằng cách thối, không chiến đấu với ma quân, bằng cách làm nô lệ ma quân, hay bằng cách bám theo chân đức Phật, núp trong hào quang ẩn quanh cội Bồ đề.
Không! Người đă nghĩ đến chuyện tu không thể như vậy được.
Phải biết, đức Phật cũng đă là người từng chiến đấu với ma quân. Nay Ngài đâu chấp nhận lũ “hậu duệ” chỉ biết núp bóng trốn vây quanh bên Ngài.
Không được, dù muốn dù không cũng phải chiến đấu. Đă chấp nhận chiến đấu, quyết một mất một c̣n th́ làm sao mà an được. Thế nên dù có cầu an cũng là điều vô ích. Ma quân có chịu cho ta cầu an không? Có thể nó chỉ chịu khi nào nó cảm thấy núng thế trước ta, tức có nghĩa ta phải trên đà thắng chúng mới chịu để ta an, mới chấp nhận sự cầu an.
Hăy chiến đấu! Là đệ tử Đức Điều Ngự th́ không có quyền chùn bước. Nguyện đời đời không khiếp nhược để cầu an. Chỉ cầu an khi nào ma quân trở thành nô lệ dưới tay kiếm này.
Là Phật tử, tức là ḍng giống của trí tuệ, là ḍng kiếm Bát Nhă muôn đời. Người Phật tử hăy đón nhận lưỡi kiếm mầu, cầm vững trong tay linh hoạt tiếp đón lũ ma quân. Sự cầu an trên ánh kiếm lướt qua đầu vạn lũ ma quân. Đó là sự cầu an đích thực nhất.
Việc tu hành như vậy ở một Phật tử thuần thành, biết tin tưởng Phật pháp đúng lẽ thật, sẽ thấy rơ điều ấy không phải một sớm một chiều mà được. Việc tu như vậy phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Cả ba đại a tăng kỳ kiếp.
Nói như vậy không phải nhằm gây chán nàn một công tŕnh có vẻ dài lâu. Mà ta thấy rơ một sự thật không phải đơn giản, không phải là một chuyện dễ dàng ǵ. Một cái nghề nghiệp thông thường ở thế gian thôi, mà muốn đạt tŕnh độ tinh sảo cũng phải đến cả đời người. Huống chi đây là một việc mờ mờ, ảo ảo, khó nghe, khó thấy, khó thực hiện th́ hỏi với số thời giờ phù du của ba vạn lẻ ngàn ngày là mấy, sẽ dùng vào đâu được. Thật chẳng có vào đâu, chỉ trong một đời người.
Việc tu hành mà đem thời gian ba vạn sáu ngàn ngày để ấn định th́ thật chẳng đáng ǵ!
Ở nhà Thiền nói: Phải gắng đời này cho xong. Đây là một lời nêu cao ư chí, khích lệ kẻ trượng phu. Kỳ thực, làm sao xong được chỉ trong một đời. Có được chăng là những bậc đă tu qua nhiều đời, đến đời này một nghe ngàn ngộ, th́ gọi là xong. Xong căn cứ đời này mà nói. Hay xong là quyết trong đời này, không c̣n lầm nữa. Đối với chân lư đă sáng tỏ rơ ràng. Chứ công hạnh làm sao mà tṛn được. Và nếu có được, th́ chỉ là xong phần nhân, nhân thành Phật. Đó là trường hợp Long Nữ trong Kinh Pháp Hoa. Nàng vừa được Ngài Văn Thù điểm hóa, thoát liền thành Phật. Phật ấy mới là Phật nhân thôi. Tuy là nhân quả đây mang tính đồng thời. Đồng thời là cùng lúc đồng lớn lên cả nhân và quả. Chớ không phải liền đó nẩy nở đúng mức. Cũng như hạt sen và gương sen, đồng có một lượt, cùng nẩy nở, để rồi mới lớn lên; chứ không có nghĩa ngay khi có hạt, gương là liền thành quả lớn trọn vẹn đúng mức.
Vậy, phải hiểu điều này chớ có lầm lẫn. Không v́ lâu xa mà nản, không v́ mau chóng mà hấp tấp xem thường. Dù thời gian lâu hay mau, cũng không nên xem thường hay nản chí. Mà phải biết đây là một việc đ̣i hỏi một ư chí phi thường, một sự kiên tâm không bờ mé.
Tuy vậy, đối với người khéo tu th́ luôn luôn giữ được sự thảnh thơi trong lúc dụng công. Cho nên dù chưa đạt được quả vị cuối cùng, cũng giữ được tính chất giải thoát an nhàn.
Phật tử khéo tu như vậy, dù chưa tới đâu, nhưng khi nhận đúng pháp, tu đúng đường lối th́ việc tu cũng được nhẹ nhàng thư thới. Như nếu thật là ăn cơm, th́ vừa ăn là vừa no, vừa khoan khoái. Cứ vậy mà ăn, càng ăn càng no, càng khoan khoái.
Nếu khác vậy th́ phải soát lại, xem đường lối ḿnh có đúng như pháp không. Pháp Phật là pháp giải thoát th́ từ đầu đến đuôi cũng phải mang tính giải thoát mới được.
Có những Phật tử khi tu không được hướng dẫn đúng pháp, khiến ra công trở nên tŕ trệ và có nhiều điều đáng tiếc cho cá nhân và người chung quanh. Thay v́ tu để có được an vui giải thoát th́ lại sanh gắt gỏng vô lư, tạo nhiều nỗi bất an cho ḿnh và cho người, gây xáo trộn cuộc sống vô lối, tạo nhiều ràng buộc, những dính mắc không đâu.
Vậy nên Phật tử phải hiểu rằng tu theo Phật pháp là nhằm tạo cho đời sống giữa ḿnh và người đồng được an vui. Hay ít ra chính ḿnh phải được an vui đúng như pháp.
Làm thế nào khi chưa biết đi chùa th́ gia đ́nh lục đục rối loạn. Đến khi biết đi chùa th́ gia đ́nh trở nên êm ấm hạnh phúc. Như vậy mới là một Phật tử tốt.
Người Phật tử như vậy là người khéo học đạo. Biết vận dụng đời sống đạo vào đời sống thế tục. Để tóm kết, người Phật tử tại gia cư sĩ phải nhận định rơ ràng về những việc của ḿnh khi đến trong Phật pháp:
-Cần nhận định đúng đắn về việc cúng dường.
-Phải xây dựng nhân tu theo nhân quả. (Quả: vô tham. Nhân: phải ĺa tham)
-Tu không phải để cầu an. Tu là chiến đấu với ma quân.
-Tu không phải một ngày một buổi.
-Tu là phải thảnh thơi.
2. Then chốt luân hồi và giải thoát
Mục đích của người tu hành là ra khỏi ṿng luân hồi sanh tử, được giác ngộ và giải thoát. Người tu th́ nhiều mà người giải thoát th́ không được bao nhiêu. V́ sao? V́ pháp của Phật không đúng chăng? V́ chướng ngại quá cao chăng? Không, pháp của Phật là chân lư muôn đời, c̣n chướng ngại th́ không cao không nặng, chỉ v́ người tu hành không thực hành đúng lời Phật dạy, hoặc không biết rơ then chốt của luân hồi và giải thoát để nắm vững và hạ thủ công phu.
Phật dạy: Chúng sanh luân hồi trong ba cơi sáu đường là do vô minh tác động gây nghiệp, rồi chịu quả báo. Muốn cho người tu hành hiểu rơ sự việc từ đầu đến cuối, Phật dạy lư mười hai nhân duyên:
Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo tử. Nếu vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt... sanh diệt th́ lăo tử diệt.
Như vậy, muốn hết luân hồi sanh tử th́ phải diệt vô minh. Chúng ta hăy t́m hiểu vô minh là ǵ? Theo Kinh A Hàm th́ nếu không biết Tứ Đế như thật là vô minh. Theo Kinh Viên Giác nếu thấy thân ngũ uẩn và lục trần có thật là vô minh. Theo Tổ Hoàng Bá, nếu thấy chín mươi chín phần là giả, chỉ c̣n thấy một phần nhỏ nhất là thật có th́ vẫn c̣n vô minh.
Làm sao diệt được vô minh? Rất khó, v́ nó thuộc thuộc về nhân quá khứ làm sao diệt được? Như vậy chúng ta không thể chặt đứt ṿng luân hồi ở chỗ vô minh được, mà phải t́m chỗ khác. Hành, thức, danh sắc, lục nhập, cũng không thể được, v́ làm sao diệt được hành là nghiệp quá khứ. Thức, danh sắc, lục nhập là bộ phận của thân thể con người, chẳng lẽ mang ra hủy hoại? Xúc, thọ là những cảm giác ảnh hưởng đến chúng ta cũng không tu được. Chỉ c̣n Ái là bộ phận cái khoen mềm yếu nhất trong cái ṿng gồm mười hai cái khoen của sự luân hồi, chính nơi đây người tu hành nhắm vào để chặt.
Ái là thương yêu. V́ thương yêu nên muốn nắm giữ (thủ), nắm giữ cho ta (ngă), vật đó của ta (ngă sở). Diệt ái tức là phá trừ chấp ngă và ngă sở vậy.
Người đời được khen th́ vui, đó là thọ lạc. Bị mất th́ buồn, đó là thọ khổ. Nếu có tiếng nói không khen không chê th́ ḿnh không vui, không buồn, đó là vô kư. Trên đây là nói về tiếng. Nếu nói về sắc th́ cũng vậy. Đẹp th́ thích, xấu th́ chán ghét. Người tu phải làm sao không c̣n cái tâm ưa thích, chán ghét, giận dữ, nghĩa là giữ tâm an tịnh chứ không phải gỗ đá.
Có ái là thương yêu, thích thú, là có ḷng tham (thọ lạc). Nếu điều ǵ có ḷng ghét th́ khởi ḷng sân (thọ khổ). Làm sao đừng tham, đừng sân. Ái tương ưng với tham, trái lại ghét tương ưng với sân. C̣n vô minh chính là tương ưng với si. Tham sân si là gốc của tam độc.
Si, là thủ phạm gây ra tội lỗi, là tên khác của vô minh. V́ si mê lầm lạc mà chúng ta không phân biệt được điều hay lẽ dở. Không biết đâu là thật, đâu là giả, đường thẳng không đi, lại đâm quàng vào bụi rậm. Phải diệt si th́ tham sân sẽ hết. Nếu không t́m ra si để diệt th́ không bao giờ diệt được tham sân.
Như đă nói ở trên, người đời được khen th́ vui thích, bị chê mắng th́ chán ghét. Vậy nếu không thấy th́ làm sao dứt được? Đó là then chốt của sự tu hành. Đừng thấy khen chê là thật, th́ sẽ dứt được vô minh. Các Tổ dạy phải “quán thọ thị khổ”, thọ lạc cũng không thích, thọ khổ cũng không giận, thọ không lạc không khổ cũng không ưa. Phải b́nh đẳng đối với tam thọ mới được.
Những cái ǵ lănh thọ, nhận chịu đều là khổ. Những cảnh khổ đau, những lời chê bai, những vị cay đắng ở đời là khổ đă đành, nhưng c̣n cảnh sung sướng, những lời khen ngợi, những vị ngon ngọt th́ có phải là khổ không? Theo giáo lư nhà Phật th́ vui, buồn, khen, chê, ngọt, đắng... đều là khổ, là giả, là vô thường. Muốn giải thoát người tu hành phải giữ tâm b́nh thản, không c̣n thương ghét, như người gỗ ngắm chim vẻ, được vậy th́ ở đâu cũng tu được, chẳng cần phải lên núi, vào cốc nhập thất làm chi. Nhưng phải biết việc đó rất khó.
Theo Kinh A Hàm th́ tiếng khen là vô thường hoại diệt vậy là khổ, tiếng chê cũng là vô thường hoại diệt cũng là khổ. Biết là khổ th́ c̣n dại ǵ sinh ḷng yêu ghét. Nếu không sinh ḷng yêu ghét th́ đă diệt được tham và sân rồi. Chúng ta bị khổ v́ chấp tiếng khen cho là thật có, chấp lời chê cho là thật có, chấp h́nh ảnh đẹp cho là thật có rồi yêu thích, chấp h́nh ảnh xấu cho là thật có rồi sinh ḷng chán ghét. Nếu biết tất cả là vô thường, là khổ, th́ đừng ghét, đừng yêu. Tham sân hết, th́ si cũng không c̣n, biết là vô thường th́ không ham, vậy dứt được ái. Dứt si, dứt ái là phá được ṿng luân hồi, được giải thoát.
Bây giờ chúng ta thử căn cứ vào kinh Bát Nhă xem sao? Quí vị tụng bất cứ kinh ǵ, cũng kết thúc bằng Bát Nhă Tâm Kinh. Bát Nhă là trí tuệ. Phương pháp tu nào cũng phải nhờ Bát Nhă. Ngựi nào có trí tuệ sáng suốt th́ phá trừ được vô minh. Ví như thắp đèn sáng lên th́ bóng tối tự tiêu tan. Bát Nhă chủ trương ngũ uẩn giai không, biết tất cả là không, th́ thoát tất cả mọi khổ ách. Mọi vật đều tự thể là không, do nhân duyên ḥa hợp mà thành, đó chỉ là huyễn có, là giả hợp. Nếu biết tất cả là giả, th́ c̣n tham đắm, say mê, thương ghét, giận hờn làm ǵ? Tất cả đă là không, th́ không có người, không có ta, không có vô minh, tội chướng, mà cũng không có nghiệp quả khổ đau. Nhưng tâm trạng này chỉ đến với những người đă chứng đến pháp “nhất thiết không”, trí người đó đă sáng, tâm người đó đă b́nh, chứ c̣n chúng sinh th́ vẫn thấy có luân hồi, có giải thoát, có sinh tử, có niết bàn, có tội, có báo, có nhân, có quả.
Người có trí tuệ th́ hiểu tiếng khen, lời chê, sắc đẹp, dáng xấu, miếng ngọt, vị cay... đều là nhân duyên hợp lại mà thành, là huyễn hóa, là giả, th́ không c̣n ưa ghét, nhờ vậy mà dứt được ái, hết tham và sân. Giác ngộ thân, tâm, cảnh là giả, dùng trí tuệ chiếu soi tất cả th́ mới là giải thoát, dứt được vô minh, trừ được si.
Chúng ta sống ở đời quen coi ta, người và cảnh đều có thật. Nay nhờ trí Bát Nhă chiếu soi, chúng ta hiểu tất cả là giả có, in tuồng là có mà thôi. Ngay trong lúc thấy có, phải biết nó là không, tất cả các pháp tự tánh là không, đương thể tức không. Cái bàn trước mắt ta đây, bây giờ thấy có, nhưng nó hoại lần lần, rồi sẽ biến dịch thành không. Chỗ này rất dễ hiểu trước có sau không, theo luật vô thường. Đó là theo Kinh A Hàm. Nhưng nói theo Kinh Bát Nhă th́ cái bàn tự tánh là không, do nhân duyên ḥa hợp, đương thể tức không. Cái bàn c̣n y nguyên chưa hoại mà đă biết nó là không, đó mới thật là chân không. Mà cũng chính cái không này lại phát sinh ra cái có, đó là “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Đừng thấy tất cả là giả, là không rồi chẳng chịu làm ǵ, ngồi im một chỗ, hoặc lên núi, lên non ẩn ḿnh. Thật ra, thấy ngũ uẩn giai không rồi, là đă tỉnh giác, nhưng chỉ giác được một chút rồi lại mê. Phải làm sao cái giác thật lâu, măi măi tự giác rồi c̣n giác tha. Các vị Bồ Tát sau khi chứng được chữ Không đều phát ḷng đại bi, lăn vào trong đời ác ô trược để cứu chúng sinh. Đứng về thể tánh th́ không chấp một pháp nào, nhưng đứng về mặt thực hành th́ không bỏ một việc thiện nào mà không làm.
Chúng ta đă học hiểu rồi phải thực hành, tự thắp đuốc lên mà đi, ngọn đuốc tâm ta sáng th́ được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, then chốt của luân hồi và giải thoát, theo Kinh A Hàm th́ phải hiểu rơ Tứ Đế như thật, mọi vật là vô thường, là hoại diệt, vậy là không. C̣n theo Kinh Bát Nhă th́ phải phát huy trí tuệ, phải giác ngộ biết vạn vật do nhân duyên ḥa hợp, nguyên thể là không. Việc tu hành không có ǵ lạ, điểm trọng yếu làm sao có trí tuệ sáng suốt để được giác ngộ, mà hễ được giác ngộ là được giải thoát.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|