Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 224 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: HIỆN-HÀNH THỰC SỰ Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
chanhtam
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 April 2006
Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 26
Msg 1 of 3: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 6:05am | Đă lưu IP Trích dẫn chanhtam

 

                                 HIỆN-HÀNH THỰC SỰ

 

“Hết thảy sự vật hiển hiện, sinh, diệt,
nhô, lặn, lưu-hành, biến-hóa như ḍng
nước chảy”

Hiện là hiển hiện là cái có thực, trong hiện tại -. Như có thế giới hiện tại, có nhân loại hiện tại, có vạn vật hiện tại... Sự vật hiện có nơi trước mắt chúng ta, không lúc nào nó không ở trong sự biến hóa, lưu-hành, nghĩa là nó không phải thứ cố định. Hết thảy sự sự, vật vật trong vũ-trụ, lớn như thế-giới, nhỏ như vi-trần đều nằm trong sự biến-hóa, lưu-hành ấy nên gọi là HIỆN-HÀNH THỰC SỰ. Như: một đời con người, năm, tháng, ngày nào mới sinh, năm, tháng ngày nào đă chết; các thứ đồ vật, giờ phút nào mới thành, giờ phút nào đă hỏng; quả địa cầu, bao năm thành h́nh, bao năm sẽ tan hoại và ngay đến vầng thái dương cũng có khi thành, lại cũng có khi hoại, cho nên thế sự đều có hạn lượng nhất định trong sự thành, hoại, sinh, tử.

Vậy, thấy được h́nh tướng của sự, vật như thế chưa phải là thấy được chân-tướng của nó, bởi v́ muôn sư, muôn vật trong vũ-trụ không những nó biến-hóa từng giờ, từng phút mà thôi. Hết thảy sự vật hiển hiện, sinh, diệt, nhô, lặn, lưu-hành, biến-hóa như ḍng nước nhảy ṛng. Ḍng biến-hóa ấy có thể gọi là ḍng sinh-mệnh. V́, hết thảy sự thực tồn tại trong vũ trụ, lớn, nhỏ dung thông với nhau, trước, sau, duyên sinh với nhau, cho đến tích tắc sinh diệt đều nối tiếp với nhau.

Nghiên-cứu theo khoa-học cận đại, lư-thuyết, lưu-hành, biến-hóa ấy, không những không trái với khoa-học, lại chứng minh là lư-thuyết rất chân thực.

Khoa-học phân-tích sự vật làm phần-tử, nguyên-tử, điện-tử... Điện-tử có tính nóng, lạnh (âm, dương) là từng giờ, từng phút đă có sự biến-hóa, do đó, thấy rơ muôn sự, muôn vật lưu-hành không ngừng.

- Khoa-học đối với Phật-học tuy có chỗ chứng-minh, nhưng khoa-học căn cứ vào sự cảm-giác của ngũ quan; mà Phật-học lại cho là giác-tri bằng trực-tiếp - . Thế là thấy chân tướng của vũ-trụ, tức là thấy cái thực sự hiện hành trong vũ-trụ vậy.

Hơn nữa sinh-mệnh của nhân-loại, trải qua từ vô thỉ (không lúc bắt đầu) không phải năm nào sinh, rồi sau mới có v́ một đời con người chỉ là một đoạn của ḍng sinh mệnh hiện ra, chứ chẳng phải là toàn thể, ví như một khúc sông trong con sông dài dặc. Một lần sống, một lần chết chẳng qua là một thứ giả tướng biến-hóa của ḍng sinh mệnh. Hết thảy sự vật đều như thế, nghĩa là nó biến-hóa từng giờ từng phút mà lại nối tiếp nhau măi măi không dứt. Hiểu rơ đạo lư ấy là khả dĩ phá trừ được rất nhiều mê- hoặc.

- Người ta thường hiểu rằng: nhân-sinh là không hư, không có ư nghĩa, không có giá trị, ngoài việc ăn uống, trai gái... ra, việc ǵ cũng đều là không cả. Đøó là phần kết- quả của sự mê-hoặc, phương tự-sát của tư-tưởng cao xa nhầm lẫn, họ cho mục-đích của nhân-sinh chỉ được sự thỏa-măn về cơm ăn, áo mặc, nơi ở... là đủ, nên họ đă phó thác tất cả tinh thần của họ vào việc t́m ṭi sinh-hoạt cho sự hưởng thụ mỹ-măn. Bởi thế người này kẻ kia tranh nhau, khiến thế-giới nhiễu-loạn không ngừng, sự t́nh khốn khổ của tranh đấu trông tới đâu cũng đều như thế, kết-quả dẫn thế-giới đến thời kiếp rất bi- thảm. Thế là, đối với chân-tướng lưu-hành, biến-hóa của vũ-trụ không hiểu được minh bạch, là không hiểu được đầu mối của HIỆN HÀNH THỰC SỰ, thời chưa phải là người giác-ngộ.

- Có những người suy xét rằng: trên thế giới này nhất định có một bậc chủ-tể, sáng-tạo – Sáng-tạo và làm chủ-tể muôn vật trong thế-giới, do đó, sinh ra sự mê-tín của tôn-giáo, làm ngăn che cái tính khả-năng giác-ngộ của thuở xa xưa, không thể hiển thị ra được.

VÔ THỈ, VÔ CHUNG, ṿng quanh không đầu, là cái chân-tướng sẵn có của sự sự, vật vật. Người ta không rơ đạo-lư ấy, chỉ nhận thấy một đoạn đời của ḍng sinh- mệnh, cho nên mới gọi ra cái tên là “tạo-vật-chủ”.

- Thử hỏi, tạo-vật-chủ là một vật thế nào? Giả như không phải là một vật, chắc không có tự thân, thời lấy chi mà có thể tạo vật khác. - Và, nếu là một vật, thời ai tạo ra tạo-vật-chủ ấy? Như thế thuyết “tạo-vật-chủ” không thể thành lập được.

Vậy, cần biết: muôn vật trong thế-giới, đều không phải dùng đến vật nào khác tạo ra nó, nó do sự sinh diệt, tiếp nối nhau, lưu-hành chẳng dứt từ thuở xa xưa như thế.

Nếu hiểu rơ chân-tướng của nhân-sinh, thế-giới là VÔ THỈ, VÔ CHUNG, sinh, diệt, thành, hoại; là sự lưu-hành không ngừng, ṿng quanh chẳng dứt, thời có thể đem tâm lượng phóng đại đến vô lượng, vô biên, tâm phóng đại tức là không c̣n chấp trước, là khế-hợp với chân-tướng của-vũ trụ.

Hiện-hành thực-sự là vô thỉ, vô chung, thời nhân-sinh, thế-giới cũng đều như thế, đều thực hiện cái sinh-mệnh, vô thỉ, vô chung. Hết thảy hành vi quá-khứ là nhân, hiện-tại là quả, hết thảy hành-vi hiện-tại lại phát-sinh cái kết-quả tương-lai, nhân quả trùng trùng, nối tiếp không hết, cho nên kiếp nhân-sinh mới có giá trị bất hủ.

Với những đạo lư ấy, không những học Phật cốt biết đạo thành Phật, mà cốt biết làm người có nhân cách, có đạo-đức, đều nên hiểu nó bằng cách rơ-ràng, không thời nó sẽ sinh ra những phiền năo. Chiếu theo đạo-lư Đại-thừa mà nói, trước nhất cần làm một con người hoàn thiện, nhiên hậu tiến đến bậc Bồ-tát siêu-nhân và sẽ tiến đến bậc siêu- siêu-nhân là Phật.

Đối với vấn-đề hiện-hành thực-sự, người mong tưởng làm một người hoàn thiện, trước tiên không phải không hiểu biết rơ-ràng; hiểu biết rơ-ràng lẽ Vô thỉ, Vô chung, là biết hành-vi của nhân-sinh vĩnh-cửu, nối tiếp bất diệt; làm hành-vi ǵ đều có ư nghĩa bất hủ và giá trị bất hủ.

HIỆN-SỰ THỰC-TÍNH

“Muôn sự, muôn vật đều do nhiều
nhân duyên tạo thành, không có tính
cố-định và không có tính độc-lập”

Hiện-sự tức là sự-thực của hiện-hành,

Khảo-sát tỷ-mỷ: một con người hoặc một cái nhà đều có cá-thể của nó, kỳ thực cá-thể ấy, không có tính cố-định cũng không có tính độc-lập; song, giảng theo Phật- pháp, th́ đó là “Nhân-duyên-sinh”. Như: phấn viết là do đất, (thứ đất dùng làm phấn) nước, nhân công, khuôn, mọi duyên hợp lại mới thành; như thành một thân cây là do hạt giống, nước, đất, ánh mặt trời... nghĩa là nhân phải có duyên mới được. Lại như nhân-sinh là do ḍng sinh-mệnh, thêm cơ duyên ḥa hợp của cha mẹ và quan-hệ đến đất, nước, ánh sáng mặt trời, không-khí v.v... Nói rộng hơn nữa, sự thành-công của thế-giới cũng là do nhân-duyên mà có.

- Nhân là bốn đại(2) chủng tử(3) duyên là hết thảy nghiệp lực(4) của chúng sinh - . V́ thế, suy luận ra, muôn sự muôn vật, đều do rất nhiều nhân-duyên tạo thành, không có tính cố-định và không có tính độc-lập.

Như trên đă nói sự thành-công của con người là do phần tụ họp của hết thảy... trong vũ-trụ, cho nên con người là xă-hội-tính và vũ-trụ-tính con người thành-công là vũ-trụ thành-công.

Cổ nhân nói: “Một lời nói làm hưng thịnh cho nước, một lời nói làm mất nước”. V́ mọi hành-động của con người đều có sự quan-hệ, ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau.

Sự thành-công của thế-giới, đều do nghiệp lực của nhân-loại, là một chân-lư xác-thực, không huyễn tưởng. - Một địa-phương có đạo-đức, có phúc-khí, tự nhiên khả dĩ tạo thành một địa-phương tốt, trái lại, chỉ tạo thành một địa-phương xấu mà thôi. Vậy nên con người thuộc xă-hội-tính, vũ-trụ-tính, chứ không có một cái “TA” thực thể nào – Tự-ngă-tính (tính của tự cái TA riêng biệt).

Bậc Đại-thánh, Đại-hiền phát-huy lực-lượng, nhằm vào sự quan-hệ của toàn xă- hội, phổ biến cho toàn nhân-loại, toàn thế-giới hiểu rơ con người có thể chuyển di được hết thảy; nên hết thảy hành-động của con người đối với xă-hội không thể không xét nét cẩn thận. Hành-vi, nghiệp-lực của con người không những ảnh hưởng đến nhân-loại, lại c̣n ảnh hưởng đến cả thế-giới. (- thế-giới thành là do nghiệp-lực làm duyên).

Con người không có ngă tính, chỉ là xă hội tính, nên một lời nói, một việc làm của con người có thể ảnh hưởng đến toàn xă-hội, toàn thế-giới. Đă thế, những người hiểu con người là không có tự-ngă-tính, cần y vào đạo lư ấy mà làm việc, thời tự có tính công-b́nh, tức thành tính đại công vô ngă (tính rất công-b́nh không có bản ngă riêng biệt); đại công vô ngă là thực-tính của vũ-trụ.

Người b́nh thường nhận-định có tự ngă, tự lợi đấu tranh không ngừng, đến nỗi thế-giới, nhân-sinh không ngày nào yên ổn. Kỳ thực, nhân-loại chỉ nên hỗ trợ, không nên đấu tranh. Tôn-Trung-Sơn giảng về “TAM DÂN CHỦ-NGHĨA” cũng có giảng tới chỗ đó. Ông nói: “Đấu-tranh là bệnh thái của xă-hội, thái-độ chân-chính của nhân-sinh phải là hỗ tương điều ḥa”.

Rơ-ràng chân-thực-tính của hiện-thực là xă-hội-tính, vũ-trụ-tính, là đại công vô ngă, do đó, phát tâm làm việc, tự nhiên là ḥa b́nh, an lạc. Cái ấy không miễn cưỡng tạo-thành, mà chỉ là cái tính chân-thực của muôn sự, muôn vật trong vũ-trụ từ thuở xa xưa như thế.

Nguyên-lư Phật-học ở chỗ “Mọi duyên họp thành, bản không vô ngă”. Hiểu rơ chân-tướng của nhân-sinh vũ-trụ như thế thời về phương-diện trí-thức sẽ thêm trí tuệ, về phương-diện hành-vi, sẽ là phương-pháp dẫn dắt con người đến chỗ làm người bằng cách thỏa đáng vậy.

 

HIỆN-LƯỢNG THỰC-TƯỚNG

“Thực-tướng của hiện-lượng là chân-
thực-tướng của nhân-sinh, vũ-trụ, vạn
hữu, tức là cảnh giới vô phân-biệt trí
tối cao giác ngộ của Phật-Đà”

LƯỢNG là suy-xét, đo-lường. Năng-lượng là tri-thức; dùng tri-thức để đo lường vũ-trụ, vạn-vật, nên vũ-trụ vạn-vật là bị lượng.

Có hai thứ:

1) Hiện-lượng.
2) Tỷ-lượng.

Hiện-lượng là trí-thức bằng cách trực-tiếp, như trông thấy nhan sắc, nghe thấy giọng tiếng là hiện-tại hiển-hiện.

Tỷ-lượng là y vào trực-tiếp giác-tri mà suy-xét mới biết, như trông thấy trà, biết là thứ để uống khỏi khát.

Vậy “Lượng” là sự trí-thức chân-chính, xác-đáng không một chút sai lầm. HIỆN-LƯỢNG là trực-tiếp giác-tri trên sự thực, TỶ-LƯỢNG là sự suy biết trên lư- luận. C̣n một thứ đạc lượng sai lầm, thường gọi là PHI-LƯỢNG, là cái tri-thức không chân-chính, xác-đáng.

Tri-thức y cứ vào khoa-học là tri-thức b́nh thường, rất nhiều sự sai lầm. HIỆN- LƯỢNG của thế-gian là kinh-nghiệm từng bộ-phận lẻ tẻ, không phải là phổ-biến và hoàn-toàn, nên sự thiếu sót của nó phải do TỶ-LƯỢNG bổ-túc. TỶ-LƯỢNG có tính- cách phổ-biến, nhưng lại thiếu sót về tính-cách xác-thực. Do hai sự thiếu sót ấy, nên thời thường hay phát-sinh sự sai lầm. Ví như chính trị đời xưa, là thích-dụng với hoàn- cảnh đương thời; người đương thời tuy nhiên nhận là thiên-kinh, địa-nghĩa. (đạo thường của trời, lẽ phải của đất xưa nay không bao giờ thay đổi được), lại không thích-dụng với hiện-tại. Cho nên biết rằng: TỶ-LƯỢNG xa cách tính xác-thực, thời sẽ sinh ra lưu- tệ và do sự sai lầm mà sinh ra đau khổ.

HIỆN-LƯỢNG chân-chính là trực-tiếp tri-thức, hoàn toàn và phổ-biến, không cần suy-luận cũng đủ để bồi-bổ vào sự thiếu sót của tri-thức b́nh thường. Chuẩn-nhận thực-tướng HIỆN-LƯỢNG, là chân-thực-tướng của nhân-sinh vũ-trụ vạn-hữu, tức là cảnh-giới vô-phân-biệt trí tối cao giác-ngộ của PHẬT-ĐÀ.

Về tri-thức tương-đối là tri-thức có sự phân biệt, không được hoàn toàn, không được phổ-biến mà lại là trong ṿng tương-đối, ví như sự tri-thức về mầu đen và mầu trắng chẳng hạn. Phật-học với sự cần-yếu thành-công phải ở nơi “trí-tuệ”, nghĩa là cần đem cái tri-thức tương-đối, không hoàn toàn ấy vượt lên thành cái tri-thức tương-đối, không hoàn toàn ấy vượt lên thành cái tri-thức hoàn toàn và phổ-biến – Nhất-thiết-trí (hiểu biết tất cả sự sự, vật vật). Thành-công trong trí-tuệ ấy, tức là mục-đích của Phật- pháp vậy.

Học Phật là phương-pháp để đạt được trí-tuệ hoàn toàn. Đạt được trí-tuệ hoàn toàn ấy, là thân chứng được thực-tướng của vũ-trụ nhân-sinh, có thể biết được sự phát- huy của tính giác-ngộ hoàn toàn. Ấy là lư-do học Phật.

Nhân-sinh đau khổ đều do sự sai-lầm không hiểu rơ cái HIỆN-LƯỢNG chân- chính mà ra, nếu chứng được “NHẤT-THIẾT-TRÍ” thời hết thảy mê-vọng phải lui, hết thảy đau-khổ đều không. Song, đến được Phật-trí ấy phải làm thế nào mới được, tất nhiên phải dầy công-phu tu-tŕ. Vậy, hai lớp trên (hiện-lượng, tỷ-lượng) có thể dùng lư luận giải-thích, nhưng lớp thứ ba (chứng Nhất-thiết-trí) cần phải y theo phương-pháp thực-hành mới được. Ai ai cũng có thể thành, cần nhất phải có phương-pháp thích-đáng. Tu-tích thành-công, đạt tới mục-đích thành Phật, là chỗ tinh-yếu của Phật-học.

 

HIỆN-BIẾN THỰC-LỰC

“Muôn sự, muôn vật đều biến
hóa. Lực-lượng biến-hóa chân-
thực là tâm của con người và
tâm của tất cả chúng-sinh”

Hết thảy sự sự vật vật, hiển-nhiên, tồn-tại trong toàn vũ trụ, đều là tùy thời biến-hóa, mà trong sự biến-hóa ấy có một thứ lực lượng”NĂNG- BIẾN” đó là HIỆN-BIẾN THỰC-LỰC.

Người b́nh thường cho NĂNG-BIẾN-LỰC là “Thần”, hoặc “Tạo-vật-chủ”, nhưng, y theo Phật-học mà nói, thời những sự đó đều sai lầm.

Lực-lượng năng-biến theo như kinh Phật nói: “TAM GIỚI DUY TÂM, VẠN PHÁP DUY THỨC” (Ba cơi(5) chỉ do tâm, muôn sự, muôn vật, chỉ do thức), thời là lực-lượng của TÂM THỨC.

Muôn sự, muôn vật đều biến-hóa. Lực-lượng biến-hóa chân-thực là tâm của con người và tâm của chúng-sinh. Ai ai cũng có tâm, nên ai ai cũng có cái năng-biến-hóa nơi tự-kỷ, đều được tự-do, tự-chủ, song chỉ cần tự-kỷ đối với chân-tướng vũ-trụ có sự nhận thức tương đương, lập chí, gắng làm là sẽ đạt tới mục-đích. Bậc đại-thánh, đại- hiền, anh-hùng, hào-kiệt cho đến người phát đại-nguyện thành Phật, đều có thể tự-do, tự-tại, nhưng chẳng qua chỉ hiểu biết đến địa-vị nào thôi. Như Duy-vật sử-quan chỉ nh́n thấy một phương-diện đạo-lư duy-vật chứ chẳng biết nó là duyên-cớ của dục-vọng tri- thức tiến-bộ, phát-kiến, phát-minh dần lên.

Do tâm-thức biến-hóa, mà hành-vi của nhân-sinh biến-hóa, dĩ chí phương-pháp sinh sản cũng từ đó biến-hóa, cho đến tâm-lư dân-tộc, tri-thức nhân-loại, đều là nguyên- nhân của thế-giới chuyển-biến. Cho nên có sự, vật, đều là theo tâm-lư tri-thức mà biến-hóa.

Xa hơn một chút, nhà Thiên-văn-học khảo-cứu về toàn vũ-trụ cũng xác-thực là theo sự biến-hóa của tâm-lư chúng-sinh mà hiển-hiện. Thử coi người tu-dưỡng tương-đương trong Phật-học, họ có thể trông thấy những cái ǵ không thể trông thấy, nghe thấy những cái ǵ không thể nghe thấy, v́ lực-lượng tâm-lư của họ có thể xung qua cái duyên-cớ và cái lực-lượng của tự-nhiên-giới.

Tóm lại, lực-lượng năng-biến ở tâm. Chúng ta đều có tâm, nên chúng ta đều được tự- do, tự-chủ, hướng-thượng, đạt tới địa-vị tối cao thành Phật.

Như thế, Phật-học không phải là tiêu-cực, chán đời hoặc mê-tín, mà là sự tiến-bộ mở-mang cho nhân-sinh đạt tới địa-vị tối-cao, tối-viên-măn. Dùng cái mô-phạm tối-cao thành Phật ấy, để dẫn dắt con người đem lại bản-tính thực-hiện và từ nhân-sinh thể-hiện được chân-tướng của toàn vũ-trụ, là hoàn thành được ư-nghĩa của con người.

 

ĐỘNG CƠ
B̀NH-ĐẲNG CHỦ-NGHĨA

(Tức Đại-từ-bi tính)

“Thực sự, thực tính hoàn toàn b́nh đẳng,
nhỏ từ một vi-trần, lớn đến một thế-giới,
gần từ nhân-loại, xa đến hết thảy chúng
sinh đều là cái ḍng sinh mệnh lưu hành
không ngừng.”

Theo nguyên-lư Phật-học đă nói trên, thời biết rằng ai ai cũng đều có thể thành Phật, đức Phật không những chỉ bị người ta tín-ngưỡng mà lại là làm người mô-phạm. Chỉ cần hiểu rơ đức Phật là người phát-tâm thế nào, tu-hành thế nào và thành-công thế nào, soi đó mà đi, thời khả dĩ thành Phật.

PHÁT TÂM là động cơ. Động cơ chính đáng, nhất định sau sẽ sinh ra hành-vi, kết-quả viên măn; động cơ lệch-lạc, sai lầm, nhất định kết-quả cũng không được hoàn thiện. Động cơ Phật-học, thành Phật là B̀NH-ĐẲNG CHỦ-NGHĨA, như trong Kinh đă nói: “Hết thảy chúng-sinh đều b́nh-đẳng”. Tức là, gần từ nhân-loại, rộng đến vũ-trụ, hết thảy h́nh h́nh, sắc sắc đều b́nh-đẳng. Song, nh́n vào thế pháp, thấy không được như thế, v́ c̣n phân biệt mỗi loại, mỗi loại tức là không được b́nh-đẳng. Ví như: phân biệt loài đất, đá là vô-sinh-cơ, loài cỏ cây là hữu-sinh-cơ, loài động-vật là có cảm t́nh, tri--giác; cho đến loài người lại có tư tưởng, lư tính đạo-đức, như thế có thể nói tựa hồ không được b́nh-đẳng.

Đă cho hết thảy chúng-sinh loại đều cùng b́n-đẳng, vậy đến chỗ nào là chỗ rốt ráo của nó?

Đức Phật từng nói: “Thực sự, thực tính, hoàn toàn b́nh-đẳng, nhỏ từ một vi trần, lớn đến một thế-giới, gần từ nhân-loại, xa đến hết thảy chúng-sinh, đều có cái ḍng sinh- mệnh lưu-hành không ngừng”. Thế là, đều cùng b́nh-đẳng ở điểm đó.

Hết thảy chúng-sinh đều có tâm, đều có hiện biến, thực lực, đều có khả-năng- tính có thể đạt tới chỗ tối-cao giác-ngộ, là Phật-tính. Y vào điểm ấy mà giảng, là hết thảy b́nh-đẳng. Chúng-sinh đều có thể đạt tới địa-vị tối-cao-thượng, tối-viên-măn, thời địa-vị Phật đâu phải vượt ra ngoài hết thảy nhân-loại. Với tư tưởng ấy có thể tương hợp với đạo-lư Quốc-gia Dân-chủ, v́ người nước Dân-chủ có khả-năng-tính làm một vị Nguyên-thủ trong nước.

Chủ-nghĩa b́nh-đẳng của Phật là chủ-nghĩa b́nh-đẳng của toàn vũ-trụ-giới, toàn chúng-sinh-giới. Động cơ của Phật căn cứ ở nơi địa-phương phát tâm cho toàn vũ-trụ đều cùng b́nh-đẳng, nghĩa là phát tâm thành Phật v́ hết thảy chúng-sinh trong toàn vũ -trụ chẳng phải thành Phật v́ một người, một thời đại hay một địa-vực, đó là cái nguyện tâm b́nh-đẳng rất phổ-biến và cũng là tâm Từ-Bi rộng lớn vậy.

Tâm Phật vẫn có sẵn cái trí-tuệ đại quang-minh phổ-biến toàn vũ-trụ và hết thảy năng lực đạo-đức hoàn toàn. Hết thảy chúng-sinh đều đầy đủ trí-tuệ, đức tướng NHƯ-LAI, song, từ trước tới nay mê muội không biết, cứ nắm giữ cái tự-kỷ nhỏ-nhen, đem một điểm giả tướng trên ḍng sinh-mệnh làm tự-kỷ, để hướng ngoại suy cầu; ai ai cũng đều như thế, tức là ngăn cách, tranh đấu lẫn nhau, thời tất cả khổ năo cũng theo đó mà phát minh. Kỳ thực, đều là oan-uổng, hoàn toàn do ở tự tính bất giác, tự mang lấy đau khổ. Cũng đều chẳng phải là ngoại vật cấp cho chúng ta, chẳng phải là sự tuyệt đối không thể biến đổi, chẳng qua, đối với chân-tướng của vũ-trụ, tự tính không giác- ngộ được, nên khởi ra mọi thứ suy cầu, tranh đấu mà sinh ra mọi thứ khổ năo.

Ai cũng đều là Phật, nghĩa là đều có khả-năng-tính thành Phật, song, đều mê muội không biết, thực đáng thương sót. Biết rằng hết thảy chúng-sinh trong toàn vũ-trụ, đều đáng thương sót, v́ đều có thể thành Phật, lại phải oan-uổng chịu khổ năo luân-hồi sinh-tử, nên cần phải phát khởi tâm Đại-từ-bi. Bởi thế tâm tự-kỷ không thể thành Phật, vĩnh-viễn không thể thoát khỏi nỗi đau khổ, thời hết thảy chúng-sinh cũng đều thế. Phàm chưa đến địa-vị thành Phật, chưa được viên măn, thời hướng ngoại không thể c̣n có chỗ suy cầu, biến hóa, mà trong chỗ biến hóa lưu chuyển ấy, có chỗ không được tự chủ, nên có ra mọi thứ khổ năo. Nhưng, bản tính chúng-sinh cũng như nước chảy trong khe núi, ngh́n ṿng trăm đoạn đến biển là ngừng. Bản năng giác-tính của hết thảy chúng-sinh cũng nhất định chảy qua sông vào biển, tức là đi trên con đường thành Phật. Có con đường ấy thời hết thảy chúng-sinh đều có khả-năng-tính thành Phật. Hiểu rơ nghĩa “Hết thảy b́nh-đẳng” phát tâm từ trên lư-tính ấy, tức là đi trên con đường thành Phật vậy. “Nguyện cho chúng-sinh khỏi mọi khổ năo, bằng cách rốt ráo được mọi sự an vui” đó là động cơ thành Phật. Nếu chỉ v́ tự-kỷ cá nhân, hoặc cho việc thành Phật là không thể tới được, tưởng ỷ lại Phật để cầu phúc, tránh họa, thời chẳng phải là người học Phật.

Người b́nh thường cho Phật và quỷ-thần như nhau, tin Phật có thể khỏi họa được phúc, thứ động cơ ấy ở trong Phật Pháp là mê chứ không phải là tín.

Người học Phật cần phát tâm v́ hết thảy chúng-sinh cần hướng tâm trên sự thực-hành; hướng tâm trên sự thực-hành nên có thể tạm dùng những phương-pháp bất đồng. Như nước chúng ta, hiện-tại chịu bao nỗi áp-bức, khổ-thống người dân phải làm sự-nghiệp cứu quốc, cứu dân, là động-cơ chính-đáng. Song, là thực-hành, hẳn phải từ chỗ có thể thực-hành trước tiến đi, nhưng, trên động-cơ cần phải hoàn-toàn b́nh-đẳng mới được. V́, có phát tâm trên chủ nghĩa Đại-B́nh-Đẳng, mới có thể làm được cái sự-nghiệp cứu quốc, cứu nhân-loại. Sự phát tâm ấy giảng theo Phật Pháp tức gọi là: “Phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát”. Phát-động từ trên Phật-tính: v́ xă-hội-tính, vũ-trụ-tính mà phát tâm, thời tự nhiên là thiện, không c̣n có ác, ấy là động-cơ của người học Phật như thế.

Thế nhân đối với việc học Phật, thường lầm tưởng cho là tự-tư, tự-lợi, người đọc sách thuở xưa cũng cho là học Phật, để sau khi chết được an-lạc. Kỳ thực, cái ư-nghĩa cá- nhân giải-thoát ấy vẫn có nơi bộ-phận Tiểu-thừa song, đều chẳng phải là căn bản Phật-Pháp. Căn bản của Phật-Pháp, ở chỗ phát tâm v́ hết thảy chúng-sinh nghĩa là “Chúng-sinh vô biên thệ-nguyện độ”.

Động-cơ phát tâm xuất-gia, tu đạo, độ thế của đức PHẬT THÍCH-CA MƯU-NI, do ở sự quán-sát đối với tự-nhiên-giới. Tự-nhiên-giới tuy sinh sinh không ngừng, chủng-loại đông đảo, nhưng, thiên địa bất nhân, cho muôn vật là thứ sô-cẩu, để cắn-xé nhau, tàn-sát nhau, muốn sinh-tồn không được sinh-tồn, muốn an-lạc không được an-lạc thế mà không thấy thiên địa hỏi han ǵ?

Hết thảy sinh loại tranh nhau, giết nhau để sống lấy một ngày, biết rằng quá ư tàn khốc, thực rất thương hại; v́ thế Ngài đi t́m phương-pháp ǵ, trừ khỏi được hết thảy sự buồn thảm đau khổ cho chúng-sinh, ấy là tâm Đại-từ-bi. Như động cơ “dân-sinh chủ- nghĩa” của TÔN-TRUNG-SƠN, cũng phát xuất ở tư tưởng: muốn cho nhân-loại khỏi đau khổ, được ḥa-b́nh, an-lạc, đó cũng là sự phát xuất ở một điểm của tâm Bồ-tát.

Tâm Đại-từ-bi của Phật, v́ hết thảy chúng-sinh, song, muốn khỏi sự sinh hoạt bi thảm của chúng-sinh, đầu tiên cần tự-kỷ giác-ngộ được chân-tướng của vũ-trụ nhân- sinh mới đầy đủ công-năng cứu-tế chúng-sinh được. Đức PHẬT THÍCH-CA khi đương thời niên thiếu có một lần Ngài đi quán sát nơi làng mạc, Ngài trông thấy người nông phu cày đất, loài trùng từ trong đất ḅ ra, chim chóc theo sau mổ ăn Ngài ta thán: sự sinh-hoạt tàn khốc của tự-nhiên-giới thực đáng thương hại, ḷng dạ buồn rầu, từ đó Ngài phát tâm khảo-sát chân-tướng của vũ-trụ, nhân-sinh thế nào, phương-pháp thoát đau khổ thế nào, mới cần cầu đại đạo vô thượng chính-giác. Thế là phát tâm thành Phật không phải là tiêu-cực mà là kết-quả được sự sinh-hoạt ḥa thiện, an vui tức là Đại- Niết-Bàn vậy.

Động-cơ tu đạo của đức Phật THÍCH-CA ở chỗ là một vị Phật thành vô thượng chính-giác, nên sau khi Ngài thành Phật, Ngài không ở yên chỗ nào, luôn luôn đi thuyết Pháp độ nhân, do đó, biết rằng Ngài phát tâm là v́ hết thảy chúng-sinh, chẳng phải là “tự tư, tự lợi”, cũng chẳng phải là “không tưởng làm không tới đích”, mà là một biện pháp thỏa đáng thiết thực tiến hành đến chỗ thực hiện.

Người b́nh thường cho Phật-pháp là: “Phi nhân sinh, chán đời, phi luân lư” đều là nhận xét sai lầm cả. Ḍng sinh-mệnh không tự giác-ngộ được, nên mới có trạng-thái bất an ninh; cầu cho sự sinh-hoạt của thế-giới nhân-loại được hoàn toàn b́nh-đẳng, lại tiến bước nữa cầu cho hết thảy chúng-sinh đều được b́nh-đẳng an-lạc, tức là động-cơ thành Phật. Cho nên Phật-pháp không phải là Phi nhân-sinh mà là phát-đạt nhân-sinh; lại chẳng phải chuyên phát-đạt về sinh-hoạt vật-chất; cũng chẳng phải chuyên phát-đạt về tinh-thần mà phát-đạt về sinh-hoạt sinh-mệnh được hoàn toàn mỹ-măn. Ấy là bản- nghĩa của Phật-pháp Đại-thừa, là động-cơ học Phật, nên biện-biệt rơ-ràng.

Học Phật có phân ra Tiểu-thừa và Đại-thừa. Động-cơ của Tiểu-thừa chỉ cầu giải-thoát cho tự-kỷ. Người b́nh thường cho Tiểu-thừa là Phật-pháp chân-chính; lại c̣n đối với chân-lư Phật-pháp, họ không hiểu được rơ ràng, họ cho Phật là quỷ-thần, như thế đều là sai lầm và lại sinh ra nhiều b́nh-luận sai lầm nữa. Cho nên phải phân-biệt rơ-ràng về động-cơ học Phật có thể tóm tắt làm bốn nghĩa:

a) Đều có Phật-tính.
b) Đều thành Phật được.
c) Thương ḿnh, thương người.
d) Cùng thành chính-giác.

Tức là nói: chúng-sinh đều có khả-năng-tính thành Phật đều có thực-tính và khả-năng-tính học Phật b́nh-đẳng, nên đều có thể thành Phật.

Hơn nữa, với những nghĩa trên, có thể chia giảng làm từng thứ như sau:

- Từng thứ nhất: cùng tin rằng vũ-trụ, vạn-hữu có một thứ chân-lư phổ-biến hoàn toàn.
-Từng thứ hai: cùng tin rằng trong chân-lư ấy có cái nhận thức hoàn toàn tối-cao vô thượng đại-giác-ngộ (vô thượng Bồ-đề).
- Từng thứ ba: cùng tin rằng cái vô thượng chính-giác ấy có thể đạt tới được như đức PHẬT THÍCH-CA.
- Từng thứ tư: cùng tin rằng ai cũng đạt tới được.

Tín-ngưỡng căn-bản của Phật-học không ngoài bốn từng thứ ấy.

Song, nhân-loại hiện-tại trên tri-thức, hành-vi, năng-lực, sinh-hoạt vật-chất, sinh-hoạt tinh-thần, đều không được viên măn, sinh ra mọi thứ dục vọng, dĩ chí sinh ra mọi thứ đau khổ, tuy nói đều có thể thành Phật, mà thực là ở vào địa-vị đáng thương xót. Đem so sánh sự đau khổ của thế-giới, nhân-loại, chúng-sinh này, đều cùng như sự đau khổ nơi tự thân ta, phát tâm thương ḿnh, thương người ấy là động cơ của Đại-thừa Phật-pháp. Cùng cách thức ấy, phát khởi đại tâm, v́ hết thảy chúng sinh, cầu được vô thượng chính-giác, có chân-giác-ngộ mới phá được mê và hết thảy hành-vi mới được hợp lư.

Duy Phật-Pháp mới hiểu rơ ràng được cái nguyên-khởi của hết thảy sự đau khổ ở mê-hoặc, đào-nhổ đến cỗi rễ, mới có thể nói là cách-mạng đến triệt-để. Mà động-cơ thành Phật, mới có thể nói là cải-tạo thành sự sinh-hoạt an-toàn cho toàn vũ-trụ, toàn nhân-loại được.

 

Do nhân-sinh thành Phật)

“Từ địa-vị chúng-sinh, dùng
phương tiện tu chứng, đi
tới địa-vị Phật, mới gọi là
tiến-hóa”

Có động-cơ, không có biện-pháp thích-đáng, không thể thực-hiện được; biện-pháp bất đối, kết-quả hẳn trái với sự thích-đáng của nó. Ví như chủ-nghĩa xă-hội, mục-đích của nó cũng muốn cho sự sinh-hoạt của nhân-loại được phong-phú, an-lạc, nhưng, nó không có phương-pháp thích đáng, nó lợi dụng phương-pháp thiên-vị, hiềm-khích, để cổ động cái tâm bất-b́nh, ghen-ghét, bực-tức của nhân-loại đến nỗi nhân-loại không những không thể đạt tới chỗ an-ninh, lại khiến xă-hội hiện-tại không được an vui sung sướng. Vậy nên biết rằng lư-tưởng tuy hay, nhưng không có biện-pháp tương-đương, lại thành cái kết-quả không tốt. Học Phật cũng thế, bắt đầu giảng xong nguyên-lư, giảng xong động-cơ, nếu không có biện-pháp, thời thành Phật thế nào được? Ví như khách lữ-hành cần có một đường đi mới có thể tiền-tiến, con đường Phật-pháp, là một thứ tiến-hóa chủ-nghĩa.

Chủ-nghĩa tiến-hóa của Phật-pháp, bất đồng với chủ-nghĩa tiến-hóa b́nh thường. Giảng theo Phật-pháp, thời hết thảy chúng-sinh trong tự-nhiên-giới là tuần- hoàn, lưu-chuyển (luân-hồi) không phải là tiến-hóa, v́ tăng-tiến đến một hạn-độ nhất định liền lại thoái-hồi. Như con người khi c̣n là trẻ con ít kinh-nghiêm, lúc thiếu-niên cầu trí-thức học-vấn, lúc khôn lớn ra làm việc, đến khi sự-nghiệp thành-công đă xong, tiến dần đến thời-kỳ già yếu, kết-quả không khỏi một lần chết. Một đời nối tiếp trong sự tiến-hóa đến lúc chết là tiêu-hủy hoàn-toàn. Như quả địa cầu, có sự biến-hóa trong thành, trụ, hoại, không, cũng là tuần-hoàn chứ không phải là tiến-hóa. Nhân-loại và thế-giới chẳng qua là cái cũ mất đi, cái mới sinh ra mà thôi. Hiện-tượng tự-nhiên của b́nh thường, không ngoài sự tuần-hoàn của sinh-tử luân-hồi trong Phật-pháp, đến khi hạn-độ đầy đủ liền thoái lui không thể thành tiến-hóa được. V́, chủ-nghĩa tiến-hóa hiện-tại là giả tiến-hóa, không phải là tiến-hóa cứu-cánh.

Sự lưu-chuyển tuần-hoàn trong luân-hồi sinh-tử, là việc rất không may, rất đáng thương, phải có phương-pháp để đả phá sự bó buộc của luân-hồi sinh-tử, mới hay đạt tới tiến-hóa chân-chính được. Giả như, hiểu rơ ràng được ḍng sinh-mệnh, lớn, nhỏ quan-hệ và giao-thông lẫn nhau, thời y vào đó sẽ thấy chân-sinh-mệnh không có hạn- độ, không bị ngăn-ngại, không bị chấp-trước, mà chỉ thấy tăng-tiến, không thấy thoái lui.

Trên kia đă nói, không cứ vật ǵ đều là sự quan-hệ của toàn vũ-trụ tạo-thành, một vật tức tất cả mọi vật, một là ở trong tất cả. Nghĩa là, trong chân-tướng ấy, cá-thể của mỗi mỗi sự vật, không có thực-tự-ngă, là cái giả-tướng của mọi thứ quan-hệ tập- hợp của toàn vũ-trụ tạo-thành; mà chân-tướng là phổ-biến toàn vũ-trụ.

Hơn nữa, nhân-sinh và thế-giới, là không trước, không sau, không bờ cơi, không hạn-độ; đă biết rằng không hạn-độ, tức là thấy cái không lượng của vũ-trụ nhân-sinh là hoàn toàn khế-hợp cùng chân-tướng, đem tư tưởng, hành-vi cải-thiện nhân-sinh, dần dần tiến-bộ thành tiến-hóa, ấy là khởi-điểm vượt khỏi sinh-tử luân-hồi.

Đại-thừa Phật-pháp, do phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát (Bồ-tát không phải là đại-danh-từ của thần-tượng, là chúng-sinh có giác-ngộ hoàn toàn), đả-phá sự lưu chuyển tuần-hoàn, đi lên đại lộ tiến-hóa. Nghĩa là từ địa-vị chúng-sinh, dùng mọi phương-pháp tu-chứng đi tới địa-vị Phật, mới gọi là tiến-hóa. Và cũng là con người tu đến địa vị Thập-tín(6) của Bồ-tát, qua Thập-trụ(7), Thập-hạnh(8), Thập-hồi-hướng(9), Tứ-gia -hạnh(10) và Thập-địa(11) trải qua mọi bậc tiến-hóa ấy, đến địa-vị Phật mới là viên-măn. Thế nên biết rằng: vũ trụ là tiến hóa, con người chưa phải là cái kết-quả của tối-hậu tiến-hóa, lại c̣n có địa vị siêu-nhân nữa.

Con người hoàn thành địa-vị Thập-tín tương đương như bậc Đại-thánh, Đại-hiền ở thế-gian; Thập-trụ là địa vị siêu-nhân; Thập-trụ trở lên là địa-vị siêu-việt nhân. Phật lấy toàn vũ-trụ làm sinh-mệnh, toàn vũ-trụ vô hạn lượng, Phật thân cũng vô hạn lượng, ấy mới là sự kết-quả của tối hậu tiến-hóa.

Phật tuy nhiên phổ-độ hết thảy chúng-sinh, hết thảy chúng-sinh có khả-năng- tính thành Phật, song, chỉ có nhân-loại là rất hợp với sự tu học trong Phật-pháp. Nhân- loại trở xuống, những chúng-sinh như loài súc-sinh, v́ sự đau khổ bức bách, v́ sự trí- thức không phát đạt, nên tuy rằng có Phật thuyết pháp họ cũng không thể lĩnh hội được.

Nhân-loại trở lên, thời ở vào cảnh-giới rất đẹp, rất vui, tâm bị cảnh-giới đương tiền làm say mê, nên không tưởng học Phật, cho nên nhân-loại là một đạo rất có tâm đoan chính, xu-hướng Bồ-đề ở trong sáu đạo(12) chỉ có nhân-loại là rất giàu khả-năng- tính thành Phật(13). V́ thế đức Phật thị-hiện ở trong nhân-loại, nói hết thảy pháp, mà sự giảng Phật-pháp trong hiện-tại tức là lưu-hành Phật-pháp trong nhân-loại vậy.

Từ khi Đức THÍCH-CA thành Phật đến nay, đă hơn 2000 năm lưu-hành bao quốc-độ đều có sự tốt đẹp, nhưng sự kinh-quá do thời-đại bất đồng, dân-tộc bất đồng, nên Phật-giáo-sử, có sự duyên-cách, biến-hóa lẫn nhau theo địa-phương. Nh́n trên sự giáo-hóa của Phật, thứ nhất là phải hợp chân-lư. Chân-lư là đại-trí-tuệ viên-măn của Phật, chứng được chân-tướng của vũ-trụ, nhân-sinh, thứ hai là cần hợp thời-cơ tức là phù hợp thời-đại, trào-lưu và tâm-lư quần chúng; nếu không hợp thời-cơ, là không được thông hành. Phật-pháp lưu-hành hơn vài ngàn năm, trải qua bao nhiêu nước như thế, đương nhiên là phải phù hợp với tâm-lư quần chúng. Cho nên chân-lư Phật-pháp tuy nhiên thông suốt xưa nay không rời đổi, nhưng v́ phù hợp với sự bất đồng của các thời- đại, các tư-tưởng, dân-tộc, nên pháp môn của Phật-pháp cũng tùy theo sự bất đồng ấy mà làm việc lợi-ích.

Tới đây, xin đem lại một thuyết nói về sự biến thiên của lịch-sử Phật-giáo: Khi Đức THÍCH-CA xuất thế tại Ấn-Độ, quốc-gia an-tĩnh, dân thịnh, vật nhiều nhưng, nhân dân chỉ sợ về sinh, già, ốm, chết. V́ lo sợ chết đến cực độ, nên họ liền t́m phương-pháp giải-thoát cá-nhân. Do đó Ngài muốn thích hợp với tâm-lư cầu giải-thoát cá-nhân của quần-chúng Ấn-Độ đương thời, nên Ngài mới nói ra pháp Tiểu-thừa trước nhất. Nói khác hơn, đương thời rất nhiều người cầu giải-thoát, nhưng đều không biết rằng: đương thể của nhân-sinh, thế-giới là vô thỉ, vô chung, vô hạn-lượng và không có sinh-tử để giải-thoát, cho nên Phật-pháp không thể không dùng phương-pháp ṿng quanh khúc- chiết, để thích hợp với tâm-lư cầu giải-thoát của quần-chúng đương thời, mà nói ra pháp “Vô ngă giải-thoát”.

Cá-nhân coi như không, cái “TA” lại không có, thời không chi là sinh-tử lưu chuyển? Trên vô ngă phủ nhận tự ngă, thời không phải ư-nghĩa chân-chính của Phật- pháp, song chẳng qua để thích hợp với tâm-lư quần-chúng đương thời mà thôi. V́ vậy, nói ra pháp giải-thoát Tiểu-thừa, là ṿng quanh, khúc-chiết, khiến do nơi Tiểu-thừa đạt tới nơi Đại-thừa, như trong kinh Đại-thừa Diệu-Pháp Liên-Hoa kinh đă nói: “Tiểu-thừa là phương-tiện nhất thời, nếu không dùng phương-tiện như thế, thời quần-chúng không sinh ḷng tin, không thể vào trong Phật-pháp được”. Đức Phật, xưa nay chỉ do một nhân duyên đại sự, mới xuất hiện ra đời, để cho hết thảy chúng-sinh, nhận sự khai thị của Phật chứng ngộ Phật-trí, được sự vui vẻ, an-ninh không chướng-ngại.

Đương thời có một đoàn người chỉ lưu truyền về Tiểu-thừa; sau bốn, năm trăm năm. Ngài Long-Thụ mới xương-minh Đại-thừa, song vẫn là h́nh-thức Tiểu-thừa. Đến khi Bà-la-môn giáo phục-hưng, Phật-giáo suy tàn, v́ tư-tưởng Đại-thừa với dân-tộc Ấn- Độ không được thập phần tương hợp. Măi về sau Đại-thừa mới từ Bắc Ấn-Độ truyền sang Trung-Hoa. Tư-tưởng người Trung Hoa là thuận tự nhiên, trọng nhân-sinh nên tư- tưởng Tiểu-thừa không hợp, mà lưu-hành tư-tưởng Đại-thừa. Song, sự lưu-hành phổ- thông trên xă-hội, lại không phải là Phật-giáo thuần-chính, mà là Phật-giáo thiết-giáo trên thần-đạo sàn-tạp. Tư-tưởng Đại-thừa đối với tư-tưởng Nho-gia họ cho như là ngoài chính-trị, xă-hội, chỉ có thể lui ở núi rừng, không làm được sự-nghiệp xă-hội và không xă-hội-hóa được, nên tuy rằng xương-minh tư-tưởng Đại-thừa cũng chưa thành xă-hội, dân-tộc giáo-hóa. Cận-lai phật-giáo lại có cái xu-thế tiệm-suy v́ không thể theo với sự biến thiên của dân-tộc mà tiến-bộ được.

Hiện-tại giảng về Phật-pháp cần phải quan-sát đặc-điểm tâm-lư dân-tộc ở chỗ nào, tâm-lư nhân-loại thế-giới thế nào, nắm được hai thứ ấy mà xem xét, mới có thể nắm được lẽ sống c̣n cho Phật-giáo hiển-dương, lưu-hành giữa ḷng người.

Nhân tâm thế-giới hiện tại chú trọng về vấn đề nhân-sinh, mong cầu sự sinh- hoạt của nhân-loại làm sao tới được chỗ ḥa-b́nh ưu-mỹ. Công-cụ ứng-dụng là khoa- học, phương-pháp thực-hành là xă-hội và có tổ-chức sinh-hoạt quần-chúng.

Tiểu-thừa Phật-pháp; ly khai thế-giới, phủ định nhân-sinh, là không thích hợp. Đại-thừa đốn-giáo(15) cũng có chỗ không hợp với tư-tưởng hiện-đại. Song có thể hợp với nhân-loại thế-giới hiện-tại, cần dùng Đại-thừa Tiệm-giáo(16) hơn cả. Đại-thừa Tiệm-giáo lấy nhân-loại làm cơ-sở, tiến một bước có sự thực chứng của một bước, tức là phương- pháp khoa-học-hóa, tổ-chức-hóa, dần dần được hoàn thiện. Cho nên hiển-dương Phật- pháp trong thời đại này, cần phải đề-xướng về Đại-thừa Tiệm-giáo.

Nói rơ hơn, bước thứ nhất của Phật-học ở chỗ hoàn thành nhân cách làm đầu, nghĩa là làm một cá-nhân ở chỗ sinh-địa tốt đẹp. Phương-diện sinh-hoạt vật-chất như cơm ăn, áo mặc, nơi ở... cần được giải quyết tương đương, th́ phương-diện hành-vi trên đạo-đức, trí-thức, trên lư-tính cũng cần hợp với nhân-loại để làm thành con người có nhân cách tương hợp với người quân-tử thuở xưa, nhiên hậu mới đem sự hiểu biết minh bạch về nguyên-lư của vũ-trụ, nhân-sinh áp dụng vào thực-hành. Nghĩa là trước nhất làm cho con người hoàn toàn, an-toàn sinh-hoạt vật-chất, tăng cao sinh-hoạt trí-thức, hoàn thiện sinh-hoạt đạo-đức lại dùng những cái đó mà hoàn thành gia-đ́nh ưu-mỹ, xă- hội lương-thiện quốc-gia ḥa-lạc, thế-giới an-ninh, như thế tức là Nho-giáo nói: “Con người đă đạt đến địa-bộ hy-vọng của kẻ sĩ thành người hiền, người hiền thành bậc Thánh, bậc Thánh-nhân thành công trong loài người. Nhân cách hoàn thành, hoàn thiện rồi, lại phát đại tâm Vô thượng viên-giác, khởi đại nguyện phổ-độ chúng-sinh, như thế tức là Nho-giáo nói: “Con người đă đạt tới địa-vị hy-vọng của bậc Thánh thành Trời”, thế là cầu tiến-hóa trên nhân-sinh chứ quyết không phải là sinh-hoạt độc-thiện, xa cách thế-gian. Cũng thế, tiến-hóa cao thượng kể từ địa-vị Bồ-Tát Thập-tín-tâm đă là địa-vị đạt tới nhân cách ưu-mỹ cao-thượng khiến thế-gian có thể lĩnh-thụ sự giáo-hóa, Cổ lai Thánh-hiền đều như thế. Đó là bước thực-hành thứ nhất của Đại-thừa Phật-pháp. V́ sơ bộ của Đại-thừa Phật-pháp là hướng về hết thảy sự thực-hành đạo-đức của con người trên thế-gian.

Bước thứ hai là “Thập-trụ” cũng trải qua mười giai đoạn. V́ có hoàn thành công-năng đức-dụng của Thập-tín-tâm mới kết hợp thành Sơ Phát tâm trụ; thành-công được trụ tâm ấy rồi, mới là con đường chân-chính đi lên sự tiến-hóa. Đến thời-gian ấy ḍng sinh-mệnh không phải như theo gió trôi dạt và cũng không phải luân-hồi lưu- chuyển nữa. Đă phát khởi tâm quyết định đời đời phổ-độ chúng-sinh đều cũng thành Phật, cho nên cần học rộng hết thảy học-vấn thế-gian mới có thể so sánh kịp. Và cũng do tâm Bồ-đề kiên cố ấy, từ đó chỉ có sự tiến-hóa chứ không có sự thoái-hóa. V́ từ Sơ Phát Tâm trụ trở lên, c̣n có chín trụ tâm nữa mỗi trụ tâm đều theo một giai-đoạn của con đường ấy, mà mỗi giai-đoạn là đều hướng về sự tiến-hóa.

Bước thứ ba là Thập-hạnh, tu Thập-trụ-tâm tiến thêm một bước vào địa vị Thập- hạnh. Thập-trụ-tâm là do dụng tâm trên lư quan-sát đến khi tu hành viên-măn đối với lư-tính của chân-lư đă trải qua và phù hợp thành một mối. Có năng-lực cơ-bản ấy hay làm những việc hy-sinh lợi tha, tu những hạnh rốt-ráo (Ba-la-mật Tàu dịch là đáo bỉ ngạn) như: tu hạnh bố-thí, cũng gọi là hạnh hoan-hỉ, nghĩa là lấy hết thảy sự vui mừng của chúng-sinh trên thế-gian làm sự vui mừng của ḿnh, sinh-mệnh tài-sản đều đem bố-thí, cho đến hy-sinh một ḿnh để cứu người, cứu đời, cứu nước. Đó là tài-thí. Lại c̣n pháp-thí. Pháp-thí là dùng tất cả sự phát-minh của chân-lư cùng những phương- pháp hay, bố-thí cho hết thảy mọi người. Sau cùng là trừ khỏi khủng-bố nguy-hiểm cho chúng-sinh, giúp người, cứu đời gọi là vô-úy-thí. Như thế trải qua được mười giai-vị, thời sự tu-hành cũng từ một bước tiến lên một bước. Trong Phật-pháp thường nói về sự “thần-thông chứng-nghiệm”, không phải là thần-bí, đều do sự thực-hiện của những bước đă kinh-quá trên đây mà ra.

Bước thứ tư là Thập-hướng. Hướng là ư-tứ hồi-hướng. Trên đây đă nói về Thập- trụ, Thập-hạnh, nhưng Thập-trụ c̣n thiên về lư, Thập-hạnh thiên về sự, đến Thập- hướng sự, lư mới hợp về một mối (quay về sự hướng về lư quay về lư hướng về sự đến chỗ sự, lư không hai), đó là từng thứ nhất của hồi-hướng. Hơn nữa, quay tâm chúng-sinh hướng về Phật, quay tâm Phật hướng về chúng-sinh, quay hết thảy công-đức tự-kỷ hướng về chúng-sinh và quay hết thảy chúng-sinh hướng về tự-kỷ. Hồi tự hướng tha, hồi tha hướng tự , tự, tha là một, ấy là từng thứ hai của hồi-hướng.

Thứ bực trải qua trên đường tiến-hóa, do con người đi từ Tín, Trụ, Hạnh, Hướng và đi được một phần ba, tức như trong sách phật-học gọi là vô số kiếp đầu tiên (sơ A tăng kỳ kiếp). Lại khởi công Gia-hạnh tức là tập trung những hạnh đă tu-hành từ trước tới nay tăng thêm cái hạnh về công-dụng. Do Gia-hạnh đến được nơi sơ-địa Hoan-hỉ- địa thời khi ấy đă đến địa vị kiến-đạo, thể-nghiệm tới chỗ thực-tướng của vũ-trụ nhân- sinh, vô thỉ chung, vô phương thể, xa hết thảy ngôn thuyết, không thể nào nghĩ bàn được (bất đồng với giả tứ lư-tưởng trên tư-tưởng). Thân tâm cải-biến, tŕnh-độ vượt cao lực-lượng vượt lớn, là sự hiếm có nơi tư-tưởng người b́nh thường. Lực-lượng tâm-lư dần cao, sinh-lư vật-lư đều biến hóa, hiện-thực thế-giới tùy tâm-lư cải-biến, nên vũ-trụ duy tâm, vạn hữu duy thức, đến đó đều có thể thực-hiện được. . Những cái có thể thấy được trên thế-giới hiện-thực thời cũng như loài côn trùng chỉ biết được cảnh-giới của loài côn trùng, v́ nó chỉ có thể tùy theo sinh-lư sinh-hoạt của thiên-nhiên, chứ không thể bằng vào tâm-lư mà tạo tác được. Sinh-hoạt của cao-đẳng động-vật, thời có lực-lượng tâm-lư. Tâm-lư mạnh ảnh hưởng sinh-lư, sinh-lư ảnh hưởng vật-lư, đến khi thiền-định thành công ngũ-căn (tức ngũ-quan) biến-hóa, tự nhiên hết thảy vật-chất cũng đều biến-hóa, thời dầu rằng vào nơi nước lửa vẫn không thấy nóng, không thấy ch́m. kết-quả cải-tạo tiến-bộ là trí-tuệ quang-minh của tâm tràn đầy toàn vũ-trụ tức là trong toàn vũ-trụ không có cái ǵ, nơi nào là không thông suốt được hết thảy.

Phát tâm từ sơ-địa, chân-tướng vũ-trụ đă chứng-minh được hoàn toàn, trí-tuệ lại có chỗ khả dĩ sung thực. Một từng, một từng tiến-bộ đến Pháp-vân-địa thứ mười thời hiểu biết hoàn toàn được hết thảy sự thuyết-pháp của chư Phật trong thập phương thế- giới và một tích tắc trong tâm, là tới địa-vị tối-cao của Bồ-tát. Như Ngài Quán-Âm Bồ- Tát, rất gần Phật-vị, nghĩa là thập-địa viên-măn là tới được địa-vị Phật. Phật không phải là tương-đối cũng không phải là đơn-độc mà là không thể nghĩ bàn được. Đă không phải là một cũng không phải là nhiều, không phải là dị, cũng không phải là đồng, thời không kể là xuất hiện ra tự thể ǵ, tự thể ấy đều tràn đầy khắp vũ-trụ, lấy toàn vũ trụ làm Phật; mà Phật toàn vũ trụ, là ánh sáng trong sạch cứu cánh, an-lạc hoàn thiện. Cho nên Phật-pháp là biện-pháp cải-tạo nhân-loại, cải-tạo toàn vũ-trụ đều thành tối thiện viên-măn, thực-hiện lư-tưởng Phật. Đó là thực sự, nên thực-hành và năng thực- hành, thời khả dĩ do nơi con người tiến-hóa tới chỗ Phật-vị.

 

Có nghĩa là vô-chướng-ngại)

“... Tự tha là một, viên-dung vô-ngại, được đại-tự-do”

TỰ-DO CHỦ-NGHĨA không phải là phóng-túng tự-ngă, tha-hồ làm càn. Không một Phật-thân nào không phải không biến-măn toàn vũ-trụ, tức là PHÁP-GIỚI VÔ-CHƯỚNG-NGẠI và cũng gọi là PHÁP-THÂN VÔ- CHƯỚNG-NGẠI. Vô-chướng-ngại cùng vô-ngă, lư rất hợp nhau, v́ vô-ngă nên vô- chướng-ngại, vô-chướng-ngại nên được tự-do. Thế là, đem lực-lượng quan-hệ của toàn vũ-trụ, hợp-thành một vật ấy (Pháp-thân) thường làm chủ, làm bạn lẫn nhau, tức là Pháp-giới vô-chướng-ngại, chủ, bạn trùng-trùng vô tận, không thể nghĩ bàn được (tư- tưởng b́nh thường là tư-tưởng phân-biệt tương-đối, chẳng phải là tư-tưởng bỉ, thử hỗ- tương đối-đăi). Tới cảnh-giới ấy tức là không thể nói được; nhưng, chẳng phải không nói mà là cực tận thuyết cái năng-sự vô-sở bất thuyết (ngôn-thuyết chẳng qua là lối chỉ- đạo phương-hướng trên sự tiến-hành, như lấy ngón tay chỉ mặt trăng mà thôi). Mục-đích học Phật, là thành-công “Pháp-thân vô-chướng-ngại”. Ở trong vũ-trụ vô-chướng- ngại ấy, tự tha là một, viên-dung vô-ngại, được đại-tự-do:


Quay trở về đầu Xem chanhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi chanhtam
 
chanhtam
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 17 April 2006
Nơi cư ngụ: Hong Kong
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 26
Msg 2 of 3: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 6:07am | Đă lưu IP Trích dẫn chanhtam


1. CẢNH-TRÍ TỰ-DO

Cảnh là hết thảy sự vật bị trí-tuệ nhận-thức. Chân-tướng của hết thảy sự sự vật vật trong vũ-trụ hoàn-toàn vô-ngại, cảnh vô-ngại nên hiển thị trí-tuệ quang-minh vô- ngại, trí vô-ngại nên cảnh cũng vô-ngại; không có cảnh ở ngoài trí, không có trí ở ngoài cảnh, cảnh, trí nhất như, không thể nhận thấy được hai tướng, mà lại biết rơ-ràng hết thảy cảnh, hết thảy cảnh là cái bị biết rơ (sở liễu) của trí biết rơ hết thảy (nhất thiết liễu-tri trí). Đó tức là Vô thượng chính-biến giác-tri, biết rơ chân-tướng của vũ-trụ chư pháp bằng cách viên-minh, không bị thời-gian, không-gian câu-thúc. Trí-thức b́nh thường là tương-đối, c̣n bị thời-gian, không-gian câu-thúc; v́ sự quan-hệ của tâm-lư, sinh-lư bất đồng đều cho tâm-lư cảnh-giới là phải, nên đều có sự chướng, ngại. Phật thời hoàn toàn vô-chướng-ngại. Bậc Bồ-tát thấy chân-lư phổ-biến, không thấy sai-biệt; không thấy sai-biệt nên trong đó trí-tuệ đă có sự khu-biệt, có sự cách-ngại. Trái lại, trí- tuệ Phật là chính-biến giác-tri, là trí-tuệ b́nh-đẳng phổ-biến – hết thảy thời-gian, hết thảy không-gian hết thảy chủng-loại, đồng thời không ǵ là không biết rơ bằng cách chu-biến; năng-tri-trí (trí hiểu biết) sở-tri-cảnh (cảnh bị biết) viên-dung vô-ngại. Đó là cảnh, trí tự-do, mà trong sách Phật thường gọi là TRÍ-ĐỨC.


2. NGHIỆP-QUẢ TỰ-DO

Nghiệp-quả là do nghiệp-lực trước làm nhân, tất nhiên sẽ có kết-quả, mà nghiệp-lực tức là những hành-vi tiền-thời của nó. Hành-vi tiền-thời kết hợp thành hiện- tại sinh-mệnh, kết-quả là sự thúc-phọc của lực-lượng hành-vi trong tiền-thế và hiện- sinh, nên chịu sự tân trần đại tạ (cái cũ mất đi, cái mới sinh ra), sinh-tử luân-hồi. Bậc vô-sinh (A-la-hán) chỉ tự do từng bộ phận và đến Phật-vị mới là đại-tự-do – bỏ hết thảy nghiệp bất thiện hữu-lậu, viên-măn nghiệp nhân vô-lậu thanh-tịnh từ vô lượng kiếp, thành-tựu quả Niết-bàn vô-chướng thanh-tịnh. Hết thảy sự bất hảo đều không có, hết thảy sự diệu-hảo đều viên-măn (viên-tịch) là đoạn trừ được hết thảy nghiệp nhân bất lương, thành-tựu công-đức Niết-bàn. Đó là nghiệp-quả tự-do mà sách Phật thường gọi là ĐOẠN-ĐỨC.


3. HOÀN TOÀN TỰ-DO

Hoàn toàn tự-do là PHÁP-THÂN, tức là bản thân pháp-giới vô-chướng-ngại cũng là toàn thể vũ-trụ. Hết thảy chúng-sinh sinh-tử trong Pháp-thân mà Pháp-thân hoàn toàn tự-do trong toàn thế-giới, hết thảy sinh. Vũ-trụ pháp-thân, tự tha không hai, thường hay giúp đỡ chúng-sinh và làm lợi-ích cho chúng-sinh. Chúng-sinh ở trong chỗ bất tri, bất giác, nhận sự cảm-hóa của PHẬT, giải-thoát hết thảy khổ-năo, được hết thảy sự an-vui – đối với chúng-sinh có ân-đức lớn lao, nên trong sách Phật thường gọi là ÂN-ĐỨC.

Ba thứ tự-do trên đây, tức là ba đức của PHẬT-QUẢ, là người học Phật hy-vọng sẽ đạt tới mục-đích ấy.


Quay trở về đầu Xem chanhtam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi chanhtam
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 3 of 3: Đă gửi: 04 May 2006 lúc 7:47am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

Chào anh Chánh Tâm ,

Tôi xin phép được trích đoạn bài viết của anh , không biết tác giả là ai nhưng tôi xin có vài ư kiến vậy :

----------------------------------------------------
Cá-nhân coi như không, cái “TA” lại không có, thời không chi là sinh-tử lưu chuyển? Trên vô ngă phủ nhận tự ngă, thời không phải ư-nghĩa chân-chính của Phật- pháp, song chẳng qua để thích hợp với tâm-lư quần-chúng đương thời mà thôi. V́ vậy, nói ra pháp giải-thoát Tiểu-thừa, là ṿng quanh, khúc-chiết, khiến do nơi Tiểu-thừa đạt tới nơi Đại-thừa, như trong kinh Đại-thừa Diệu-Pháp Liên-Hoa kinh đă nói: “Tiểu-thừa là phương-tiện nhất thời, nếu không dùng phương-tiện như thế, thời quần-chúng không sinh ḷng tin, không thể vào trong Phật-pháp được”. Đức Phật, xưa nay chỉ do một nhân duyên đại sự, mới xuất hiện ra đời, để cho hết thảy chúng-sinh, nhận sự khai thị của Phật chứng ngộ Phật-trí, được sự vui vẻ, an-ninh không chướng-ngại.

Đương thời có một đoàn người chỉ lưu truyền về Tiểu-thừa; sau bốn, năm trăm năm. Ngài Long-Thụ mới xương-minh Đại-thừa, song vẫn là h́nh-thức Tiểu-thừa. Đến khi Bà-la-môn giáo phục-hưng, Phật-giáo suy tàn, v́ tư-tưởng Đại-thừa với dân-tộc Ấn- Độ không được thập phần tương hợp. Măi về sau Đại-thừa mới từ Bắc Ấn-Độ truyền sang Trung-Hoa. Tư-tưởng người Trung Hoa là thuận tự nhiên, trọng nhân-sinh nên tư- tưởng Tiểu-thừa không hợp, mà lưu-hành tư-tưởng Đại-thừa. Song, sự lưu-hành phổ- thông trên xă-hội, lại không phải là Phật-giáo thuần-chính, mà là Phật-giáo thiết-giáo trên thần-đạo sàn-tạp. Tư-tưởng Đại-thừa đối với tư-tưởng Nho-gia họ cho như là ngoài chính-trị, xă-hội, chỉ có thể lui ở núi rừng, không làm được sự-nghiệp xă-hội và không xă-hội-hóa được, nên tuy rằng xương-minh tư-tưởng Đại-thừa cũng chưa thành xă-hội, dân-tộc giáo-hóa. Cận-lai phật-giáo lại có cái xu-thế tiệm-suy v́ không thể theo với sự biến thiên của dân-tộc mà tiến-bộ được.

-------------------------------------------------------

Trước hết tôi xin xác định một điều là thời ĐỨC PHẬT không có phân chia Tiểu thừa hay Đại Thừa ǵ cả . Đại Thừa ra đời là do Chư Tổ phát triển lư luận sau thời ĐỨC PHẬT để xiển dương , mở rộng Phật Pháp bằng cách chú trọng Phật tánh , chân Tâm vạn hữu chung đồng .

Nếu nói giáo lư Vô ngă phủ nhận tự ngă, thời không phải ư-nghĩa chân-chính của Phật- pháp th́ rất vô lư mà bất cứ ai học , nghiên cứu kinh điển đều có thể biết một cách trung thực . Phải công nhận rằng giáo lư Vô Ngă mà ĐỨC PHẬT thuyết thật tuyệt vời mà sau này Bồ Tát Đạo đă phát triển với lư không . Qủa thật là không có bất cứ một tự ngă , một chân tâm nào chẳng qua do bị bản ngă đánh lừa mà tưởng thật là có một tự ngă . Sự tuyệt vời của lời tuyên thuyết của Đức Phật đă qua 2500 năm qua về lư Vô Ngă này , mà gốc của Vô ngă chính là Vô Thường mà trong bộ kinh bất hủ Nikaya đă đề cập đến từ xa xưa .

Nếu cho những lời tuyên thuyết , giảng pháp của ĐỨC PHẬT đầu tiên là phương tiện nhất thời để quần chúng mới có ḷng tin là một sự ngụy biện của con người sau này . Thời Đức Phật thuyết pháp quần chúng đa số đều là bậc thượng căn và được trực tiếp Đức Phật giảng dạy , hướng dẫn nên đắc đạo rất đông . Sau thời Đức Phật th́ số người giác ngộ giảm dần , chỉ chứng ở một mức độ nào đó , ở một chi nhánh nào đó và v́ không có tầm nh́n toàn diện Phật giáo nên đă quá đề cao pháp môn của ḿnh .
Đến thời mạt pháp th́ tệ hơn chỉ hiểu giáo lư Phật giáo như một triết lư lư luận thôi và tà đạo đă tràn lan rất nhiều vào Đạo Phật .

Người Trung Hoa th́ phát triển mạnh Thiền Tông theo con đường ĐỨC PHẬT đă đi và đă đóng góp rất to lớn vào sự phát triển của Phật pháp trên thế giới . Cho dù Đại thừa không do chính ĐỨC PHẬT thuyết và xa rời dần với lời giảng nguyên thủy của Đức Phật nhưng Đại Thừa chân chính đă mở rộng một chân trời mới bao la bất tận với hạnh dấn thân độ sinh trong vô lượng kiếp . Tiểu Thừa hay Đại Thừa là do con người tự phân chia chứ không có thời ĐỨC PHẬT . Cho dù Tiểu thừa hay Đại thừa th́ cũng đều là phương tiện mà thôi , đời sau này có quá nhiều đoạn kinh văn thêm thắt lư luận thừa này cao hơn thừa kia , thật là ngă mạn vô ích .Và xuất hiện quá nhiều tông phái làm người tu như lạc vào mê hồn trận , không biết đâu mà ḍ đường đi .

Người tu sĩ hay cư sĩ đang tu học đều phải căn cứ vào lời ĐỨC PHẬT tuyên thuyết không phân biệt bất cứ thừa nào . Cần tránh những tà đạo trộn lẩn vào hay những Tà Sư lợi dụng Đạo Phật mà gảy đổ công hạnh , gảy đổ cả đời tu .
Vài ḍng đàm luận gửi đến bạn Chánh Tâm .

Vũ Hoàng Nguyên




Sửa lại bởi vuhoangnguyen : 04 May 2006 lúc 7:49am
Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 5.1133 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO