Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 193 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: T́m Lại Người Xưa Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 1 of 2: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 6:28am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

T́m Lại Người Xưa



Thông thường những ǵ mà chúng ta ưa thích th́ chúng ta có khuynh hướng muốn giữ măi bên chúng ta. Những ai mà chúng ta quư trọng th́ chúng ta luôn luôn nhắc nhở và thích thân cận. Nói một cách ngắn gọn, từ đồ vật đến con người, một khi mà chúng ta thích rồi th́ chúng ta có khuynh hướng trân quư, nếu có lỡ mất th́ bằng bất cứ gia nào chúng ta cũng phải t́m lại cho bằng được.
Quan niệm sự có mặt của con người trên thế gian nầy, có nhà hiền triết Trung Hoa nói:
- Nhân chi sơ tánh bản thiện
Nghĩa là:
- Bản tánh của con người trong những thời sơ sinh là lương thiện.
Quả thật, chúng ta hăy nh́n vào những em bé mới sinh, chúng ta thấy rất hồn nhiên vô tư lự, nhưng khi lớn lên tùy theo môi trường sống của xă hội và sự giáo dục của gia đ́nh mà đứa bé đó có thể trở thành là một con người hiền lương hay gian ác.
T́m Lại Người Xưa hay nói khác là t́m lại bản tánh lương thiện của ḿnh, mà theo tinh thần người học Phật gọi là Con Người Chân Thật.
Sống trong một xă hội văn minh và đầy dẫy những vật chất, như cuộc sống tại Hoa Kỳ, con người thường được tự do trên mọi phương diện như:
- Tự do đi lại
- Tự do phát triển
- Tự do ngôn luận
- Tư do tư tưởng,
Về khía cạnh tự do ngôn luận và tự do tư tưởng quá trớn nên đă có một số người cứ tha hồ phát biểu ư kiến mà không cần biết đúng sai, chỉ thích phát biểu nhiều ư kiến để chứng tỏ cho mọi người thấy biết ḿnh là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức.... Đó là lư do có những trường hợp tuy là sự việc không có ǵ quan trọng cả, nhưng mỗi người đều có những ư kiến của riêng ḿnh, nên không ai chịu lắng nghe ai, không ai chịu nhường bước ai, không ai chịu nh́n nhận ư kiến của ai. Ngay cả cũng không ai thực sự biết tôn trọng lẽ phải, kể cả những lời khuyên hoặc những sự hướng dẫn của những vị Thầy dạy đạo, v́ thế thường đưa đến chỗ tranh căi một cách quyết liệt, đúng với câu của người đời thường nói:
- Chín người mười ư!
Nghĩa là:
- Trong một đám đông tiêu biểu như mười người, th́ đà có đến mười một ư kiến khác nhau.
Đó là lư do con người cứ luôn đấu tranh, để bênh vực ư kiến chủ quan của ḿnh, cho nên nhiều trường hợp đă xảy ra, lúc đầu căi vả bằng lời, nhưng một khi không giải quyết được vấn đề, và sau đó đôi khi phải xử dụng đến vơ lực để giải quyết.
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người cứ luôn luôn lẫn quẩn trong những tranh chấp thị phi, để tự chuốc lấy những đau khổ phiền muộn, cho nên Đức Phật thường dạy:
- Đời là bể khổ.
Và trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh c̣n nhiều hơn nước trong bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người trong ṿng phiền năo khổ đau. Chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong bài kệ cho hành giả hành tŕ niệm Phật có câu:
- Ái hà thiên xích lăng.
Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ
Cấp cấp niệm Di Đà
Qua bài kệ nầy, cho chúng ta biết rằng chúng ta là những con người đang vướng trong ṿng phiền năo khổ đau, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, không biết đến bao giờ mới dứt. Tuy nhiên, là một con người học Phật, chúng ta không nên dừng lại trong biển khổ trùng trùng điệp nầy, mà chúng ta phải kịp thời nhận chân được giáo lư của Đức Phật đă chỉ dạy cho con người nhận định rơ ràng về cuộc đời, rằng là:
- Đời người khổ nhiều vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, không ai biết trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao?
Mới nghe có nhiều người lên án đạo Phật là Đạo tiêu cực, bi quan, yếm thế. Phải hiểu rằng đây là những lời cảnh tỉnh của đức Phật nhằm chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát con người, chứ không phải dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, nơi đó chỉ biết đặc đức tin vào một đấng thượng đế tưởng tượng nào đó. Lời chỉ dạy của Đức Phật nếu chúng ta áp dụng vào cuộc sống, có tính cách bàn bạc trên mọi khía cạnh, trong nhiều hoàn cảnh, tất cả đều nhằm mục đích hướng dẫn con người biết thích hợp từng mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. Một cách ngắn gọn, Đạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, để chúng ta có thể ứng dụng vào mọi hoàn cảnh của ḿnh để tự giác ngộ và giải thoát mọi phiền năo và khổ đau của chính ḿnh một cách tích cực, một cách thiết thực, nhằm xây dựng một cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là:
- Không chạy theo sự thị phi.
Pháp môn này được Đức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà c̣n dành cho tất cả những ai trên đời muốn t́m hiểu cội gốc của phiền năo và khổ đau, và những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau, phiền năo đó.
Không Chạy Theo Sự Thị Phi có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng:
- Tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy,
- Không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia,
- Không bênh vực người nầy gièm pha người khác,
- Không cố chấp một ư nghĩ cố định nào của ḿnh là chân lư tuyệt đối.
Cũng xin nói rơ là:
- Không Chạy Theo Sự Thị Phi, không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được thế nào là chánh tà, phải trái. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay giả.... Trái lại, chúng ta đă hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Không những chúng ta chỉ hiểu biết mà c̣n phải hiểu biết một cách tường tận, thấu suốt, vượt qua tŕnh độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, đó chính là Không Chạy Theo Sự Thị Phi.
Chúng ta hiểu biết rơ ràng thế nào là chánh tà, phải trái, nhưng chúng ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền năo và khổ đau. Bởi v́ tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, sang hèn, giàu nghèo, thân sơ, thương ghét, màu da, chủng tộc.... th́ không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, mà chỉ đưa chúng ta đến phiền năo và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chúng ta xét lại xem chính ḿnh có tâm phân biệt như vậy hay không? Đối với một sự việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt kỳ thị già trẻ, sang hèn, giàu nghèo, thân sơ, thương ghét, màu da, chủng tộc... để rồi cuối cùng đi đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lư, không đúng lẽ phải, không đúng sự thực.
Mục đích của đạo Phật là chỉ dạy chúng ta cách hành xử để cho cuộc sống của chúng ta càng ngày càng thêm thánh thiện. V́ thế ngoài những h́nh tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ.... Tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điểm giống nhau, cho dù con người đó thuộc màu da chủng tộc nào cũng vậy đó là:
- Tiếng khóc, tiếng cười, máu cùng đỏ, và nước mắt cùng mặn.
Quả thật, con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Điều giống nhau, đồng nhau theo như trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
- Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng.
Nghĩa là:
Khi xa ĺa tất cả mọi h́nh tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm thị phi phân biệt nghèo giàu, sang hèn, già trẻ... th́ chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau đó chính là con người chân thật.
Muốn hiểu được, thấy được, và trở về với con người chân thật của chính ḿnh, chúng ta phải để cho tâm tư lắng đọng, không tham lam, không sân hận, không si mê.... Phải để cho tâm tư của chúng ta tương tự như mặt nước trong hồ nước mùa Thu, mặt nước có phẳng lặng th́ mới có thể phản chiếu mọi sự vật trong đáy nước. Quả thật trong tâm tư của chúng ta khi mà không có những đám mây tham, sân, si che lấp, th́ mặt trăng chân tánh mới bắt đầu hiển lộ.
Vừa rồi quư vị đă biết là: Muốn trở về với con người chân thật của chính ḿnh, th́ chúng ta phải để cho tâm tư lắng đọng, không tham lam, không sân hận, không si mê.... Bây giờ đây chúng ta t́m hiểu thế nào là con người chân thật. Được coi là con người chân thật, phải là một con người sáng suốt, có trí tuệ, có đủ năng lực giải thoát mọi phiền năo và khổ đau. Đó là con người không tham lam, không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Đó là con người mà theo trong Kinh Bát Nhă nói là:
- Không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt.
Muốn có được tâm thanh tịnh, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, th́ chúng ta phải luôn luôn chủ động để có một tâm hồn thanh thản, thân xác nhẹ nhàng. Với một tâm hồn ray rức, thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay, th́ không thể nào chúng ta thấy được con người chân thật của chính ḿnh. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ và nhớ điều ǵ cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với con người chân thật th́ khi đó mới thực sự có được an lạc và hạnh phúc của cảnh giới thiền định, cảnh giới niết bàn mà thôi. Như vậy, Con Người Chân Thật chính là con người không có tâm thị phi, phân biệt.
Tâm thị phi, cố chấp, phải quấy thường đưa đến phiền năo, khổ đau, và rối loạn không phải cho chính ḿnh mà c̣n cho những người chung quanh khác. Bởi v́ trên thế gian này có điều ǵ đúng hay sai tuyệt đối đâu. Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần nào thôi, v́ thế chúng ta hăy tập hạnh lắng nghe, để lắng nghe ư kiến của người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng sự thật, có tâm cầu tiến, t́m về với con người chân thật của chính ḿnh. Trong chiều hướng nầy, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
- Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.
Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn.
Nghĩa là:
- Chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặc tri kiến của ḿnh là đúng, là độc nhứt vô nhị, th́ sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền năo.
Nếu không cố chấp, hơn thua, phải trái nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc.
Để trợ duyên cho tâm tư của chúng ta được cởi mở phóng khoáng trong việc t́m trở lại con người chân thật của ḿnh, trong Kinh A Hàm có dạy chúng ta Pháp Tứ Y, gồm có:
- Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.
1- Y Pháp Bất Y Nhân
Chúng ta t́m hiểu thế nào là:
- Y Pháp Bất Y Nhân.
Nghĩa là:
- Chúng ta nên xét theo sự việc chứ không xét theo con người.
Thí dụ:
- Một một người có tâm xuất gia, biết thực hành giáo pháp của Phật, đúng theo tiêu chuẩn của một ông Thầy, th́ chúng ta phải cung kính, chứ không phải là người đó trước đây làm nghề hốt phân, bây giờ xuất gia, cho nên chúng ta không cần phải cung kính. Bởi v́ sự tu tập, thanh tịnh, Niết bàn không dành riêng cho bất cứ một ai, cho dù người đó là tu sĩ hay cư sĩ, hay ḍng dơi quá khứ của họ.
Thể hiện tinh thần Y Pháp Bất Y Nhân một cách trọn vẹn, tại Ấn Độ có vị Vua tên là Ba Tư Nặc đă ban hành luật:
- Bất cứ ai là người phạm tội, kể cả tử tội, một khi đi tu rồi tất cả đều được xóa bỏ.
Đối với bộ luật nầy, về phương diện triệt để tuân thủ lời dạy của đức đạo sư, và tinh thần giác ngộ th́ chúng ta thấy được, nhưng về phương diện phàm tục th́ chúng ta thấy có điều không ổn. Quả thật, lợi dụng ḷng tốt của nhà Vua, cho nên có những thành phần bất hảo trong xă hội đă len lỏi vào hàng ngũ Tăng đoàn, v́ thế mà tăng đoàn tại Xá Vệ thành cũng đă có một thời xáo trộn do nhóm Lục Quần Tỳ Kheo gây nên. Tuy nhiên trong phạm vi bài viết chúng tôi chỉ muốn nói lên tinh thần: Y Pháp Bất Y Nhân của vua Ba Tư Nặc mà thôi.    
Y Pháp Bất Y Nhân, đó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời Đức Phật đă dạy, không c̣n phân biệt là Phật Tử, hay không phải là Phật Tử. Bởi v́ tâm phân biệt người này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền năo và khổ đau. C̣n phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo, và nếu là tu sĩ Phật Giáo th́ lên Niết bàn, nếu là người theo đạo CaTô th́ lên thiên đàng, và những ai không thuộc về tôn giáo nào hết th́ xuống địa ngục! Với tâm phân biệt như thế cho nên chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những ǵ giáo chủ dạy, những ǵ người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà chúng ta không cần chịu xét xem những lời dạy đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lư hay không, Cứ tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, và gọi đó là đức tin! Như vậy, chúng ta đă y nhân là thượng đế, chứ không y pháp là chân lư. Bởi vậy, ở Hoa Kỳ hiện nay, có những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo ǵ cả. Ở những nơi đó, con người tư duy chân lư, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định th́ đạt được cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Đây là tinh thần y pháp bất y nhân.
2- Y Nghĩa Bất Y Ngữ.
Thành ngữ:
- Y nghĩa bất y ngữ.
Nghĩa là:
- Đừng chấp những lời nói, ngôn ngữ, những chuyện không đâu vào đâu hết, v́ như thế chúng ta sẽ phiền năo và khổ đau.
Thí dụ như có người nói:
- Ông A, bà B là người lười biếng, nhưng ưa chỉ huy, ưa làm oai làm quyền....
Nếu là người Phật Tử có tu học có đức vững chăi th́ những lời nói đó không có ư nghĩa ǵ cả, và chỉ có tác dụng đưa những độc tố xâm nhập vào con người lương thiện của chúng ta, chỉ có tác dụng khiêu khích cái ḷng ḥa hiếu an vui của chúng ta mà thôi. V́ thế nếu có vị t́nh đứng hoặc ngồi để nghe, th́ chúng ta nghe rồi th́ thôi, hoặc có thể lờ đi như không nghe thấy. Bởi v́ như chúng ta đă hiểu, một khi thu nhận những rác rớm như vậy, không sớm th́ muộn chúng ta cũng sẽ chuốt lấy những phiền năo và khổ đau. Hoặc là, có người phê b́nh chúng ta là người nóng tánh; thậm chí có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện... Nếu mà chúng ta chỉ y nghĩa bất y ngữ, th́ những lời nói đó không thể xúc phạm, và không có khả năng gây phiền năo và khổ đau cho chúng ta được. Quả thật như vậy, đây là h́nh ảnh hết sức sinh động, như lúc Đức Phật c̣n tại thế, ngoại đạo thường chận Ngài để tranh luận hơn thua. Mỗi khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện ǵ xảy ra. Người ngọai đạo đó thấy Đức Phật cứ tiếp tục lặng thinh cất bước, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Đàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Đức Phật từ tốn nói bài kệ như sau:
- Người hơn th́ thêm oán.
Kẻ thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua đêu xả hết.
Giấc ngủ được an lành.
Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ ḷng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu, nghĩa là chúng ta không phiền năo và khổ đau. Cũng tương tự như thế, như có người cho chúng ta gói quà, nếu chúng ta không nhận, đương nhiên người cho chúng ta gói quà đó phải giữ món quà đó lại. Người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận th́ chúng ta sẽ luôn luôn ăn ngon ngủ yên.
3- Y Trí Bất Y thức.
Thành ngữ:
- Y trí bất y thức
Nghĩa là:
- Chúng ta nên xét sự việc theo trí tuệ, chứ không xét theo t́nh thức, t́nh cảm của con người.
Một khi c̣n có tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền năo và khổ đau. Bởi v́ sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy cảm t́nh của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay no. Khi đói ḷng, một trái bắp, hay củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no th́ dù cho là cao lương mỹ vị cũng chẳng ngon. Người nào hiểu được như vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những t́nh thức phân biệt dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền năo và khổ đau, th́ người đó là người có trí tuệ. Nói cách khác, trí tuệ giác ngộ mà sanh là do tâm không phân biệt: Nhân ngă thị phi, cũng do công phu tŕ giới, tu tập thiền định mà có. Trí tuệ giác ngộ khác với trí tuệ của thế gian. Trí tuệ thế gian do công phu học tập trong học đường mà có được. Trí tuệ giác ngộ tức là trí tuệ bát nhă, là trí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ, trai gái, nghèo giàu.... do sự lắng ḷng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt được trí tuệ giác ngộ. Như vậy chính là y trí bất y thức.
4- Y Liễu Nghĩa, Bất Y Bất Liễu Nghĩa.
Thành ngữ:
- Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa.
Nghĩa là:
- Chúng ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ư nghĩa, những điều nào rơ ràng, minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những chuyện không có căn cứ vào đâu cả.
Thí dụ như:
- Chúng ta chỉ nghe một câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy.
Chúng ta không cần quan tâm những chuyệc vặc vảnh như vậy v́ nó không có ích lợi ǵ cho việc tu tâm dưỡng tánh của chúng ta, mà c̣n làm cho chúng ta loạn tâm thêm.
Đối với những chuyện thị phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để t́m hiểu sự thực, th́ chúng ta hăy cứ để cho nó mặc nhiên như vậy, đừng nên đếm xỉa tới làm ǵ cho mệt. Đối với những loại sách ng̣ai phố ngoài chợ chúng ta cũng cần nên dè dặt. Nói chung những sách báo có tính cách không hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc th́ nếu lơ được th́ lơ cho khỏe. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy lư nhân quả, lư vô thường, vô ngă, chơn không diệu hữu, để giúp con người thoát ly phiền năo và khổ đau th́ chúng ta nên thực hành học tập.
Tóm lại, là một người học Phật chúng ta phải thực tập sao cho tâm không có tâm phân biệt, không có phải không có trái, không có bạn không có thù, không có thân không có sơ, không có thị không có phi, không có thương không có ghét. Tuy nhiên không phải chúng ta đă đạt đến tŕnh độ đó mà trơ thành người vô tri, mà là khi tâm của chúng ta không c̣n nhân ngă thị phi, chính là sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời của chúng ta.
Hiểu được rơ ràng như thế th́ chúng ta đă T́m Lại Người Xưa, là Con Người Chân Thật của chính ḿnh. Biết được thế nào là con người chân thật, th́ chúng ta mới t́m được an lạc và hạnh phúc trên cơi đời này. Như vậy những lời dạy của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn giáo, không phân biệt sắc tộc, mà bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng ḷng suy nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định chúng ta sẽ t́m lại được người xưa, t́m thấy cuộc đời là đáng yêu, tất cả những người chung quanh chúng ta là những hoa thơm cỏ lạ, để tô điểm cho chúng ta có được một cuộc đời an lạc và hạnh phúc với con người chân thật của chính ḿnh.
-- o0o --
Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 
tranthanh03
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 01 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 84
Msg 2 of 2: Đă gửi: 14 May 2006 lúc 6:31am | Đă lưu IP Trích dẫn tranthanh03

Khổ Nhưng Mà Vui


Chúng tôi xin đọc bài thơ không rơ xuất xứ cho đại chúng nghe:
- Thế sự đua nhau nói khổ vui
Có chi là khổ có chi vui
Vui trong tham dục vui rồi khổ
Khổ để tu hành khổ hóa vui
Nếu biết có vui rồi có khổ
Thà rằng đừng khổ cũng đừng vui
Mong sao giữ măi đừng vui khổ
Mới thoát ra ngoài cái khổ vui
Hôm nay chủ đề: Khổ Nhưng Mà Vui được thu gọn trong hai câu:
- Vui trong tham dục vui rồi khổ
Khổ để tu hành, khổ hóa vui.   
Trước tiên là nói đến những trạng thái:
01- Vui Trong Tham Dục Vui Rồi Khổ
Quan niệm về Khổ, Đức Phật thường dạy:
- Đời là biển khổ.
Và Đức Phật đă khẳng định rằng đời người có những cái khổ:
01- Khổ của việc sanh ra(sanh khổ),
02- khổ của già suy(lăo khổ),
03- Khổ lúc gặp bịnh
04- Khổ của lúc chết mất(tử khổ),
05- Khổ lúc gặp người ḿnh oán hờn(oán tắng hội khổ),
06- Khổ lúc cùng người yêu thương chia rời (ái biệt ly khổ)
07- Khổ v́ sự vật muốn được ngược lại không thể đến tay (cầu bất đắc khổ)...
Quả thật, đời là biển khổ, khổ nhiều vui ít, người nghèo th́ chắc chắn khổ rồi, nhưng người giàu cũng khổ. Lúc bận rộn khổ, và ngay cả lúc nhàn rỗi cũng khổ. Khổ mỗi h́nh thái, mỗi việc, mổi loại khác nhau và rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày trong xă hội loài người. Khổ của sinh, lăo, bệnh, tử trên nhục thể. Khổ trên tinh thần từng loại từng món. Tuy nhiên v́ không biết nên con người lấy khổ làm vui và đă trở thành thói quen, cho nên cho đó là việc b́nh thường. Khổ vui do nơi quan niệm sống của mỗi người không đồng, do đó đối với sự nhận biết và các thứ lớp của bản chất khổ vui, mỗi việc cũng khác nhau. Theo thông thường người đời phần nhiều lấy dục lạc của năm căn làm vui, rồi nhân đó mà truy cầu t́m kiếm những cảm giác khoái lạc, vui vẻ, rồi cũng từ nơi cái gọi là khoái lạc, vui vẻ đó mà dẫn đến khổ đau tuyệt vọng.
Tóm lại trong kiếp sống con người, khổ đau và vui vẻ nương nhau mà thành. Khổ là trạng thái mà người đời ai cũng sợ, cũng nhàm chán, nhưng người đời rốt cuộc không tránh khỏi khổ đau. Vui, là chỗ t́m cầu của người đời, nhưng cái vui mà mọi người t́m cầu lại không tồn tại lâu dài, ngược lại nó lại quá ít ỏi và ngắn ngủi, tạm bợ nhưng chúng ta cứ măi muốn, t́m cầu bỏ khổ t́m vui. Đây là nguyên nhân do cái nh́n của mỗi người có chỗ không đồng. Người đời cảm thọ khổ và vui chẳng qua là căn cứ trên sự thuận và nghịch của thân tâm, tổn hại hay ích lợi mà nói, tuy nhiên y cứ theo cái nh́n của người học Phật. Khổ mà người đời nói, là cái khổ thật sự. Nhưng nói là vui, ngược lại chưa chắc là thật vui. Thế nhưng có người thường nói:
- Tôi muốn t́m vui.
Rồi t́m cầu cả một đời, lao ḿnh vào cờ bạc rượu chè, ăn chơi trác táng để thú vui đó là cái vui của dục lạc, của năm căn. Chúng ta là người học Phật phải thực tập ghi nhận:
- Khổ chơn thật là khổ, vui chơn thật là vui,
Có ghi nhận chính xác như vậy, để rồi chúng ta mới có thể sanh khởi niệm yêu thích, và qui hướng về với chánh pháp để t́m nguồn vui vĩnh cửu. Khi ghi nhận cái khổ một cách vững chải th́ chúng ta cần phải thoát ly, từ bỏ cái khổ thế gian, xa ĺa luân hồi ở ba cơi sáu đường, để cầu vui giải thoát. Đây là sự nổ lực và nhận thức chân chính nên có của người học Phật. Đây cũng chính là mục đích chính của Đức Phật xuất hiện ở thế gian, để đẫn chúng ta lấy việc ĺa khổ đau của cuộc đời, để t́m niềm vui chân chánh giải thoát làm tiền đề của Phật pháp. Phật pháp là phương pháp đứng trên căn bản hướng dẫn chúng ta, và có thể dẹp trừ khổ đau, để thành tựu được an lạc chân thật. Chỉ có tu tŕ Phật Pháp, tín thọ phụng hành, hành tŕ không gián đoạn, tự nhiên sẽ đạt được sự đầy đủ và vui vẻ sống một cuộc sống thảnh thơi.
Tóm lại, khổ về các loại, các dạng rất nhiều, như không an, không vui vẻ cũng là khổ! Như có lần chúng tôi đă nói, con người ở trên đường đời, cứ mài miệt t́m niềm vui trong tham dục, cho nên không thể nào thỏa măn được, điều này giống như người ăn một viên thuốc hoàn liên, lăn áo đường ở bên ngoài. V́ bên ngoài bọc đường nên bên ngoài th́ ngọt, nhưng bên trong th́ đắng. Phật pháp chỉ ra mấy cái khổ này, để giúp chúng ta nhận thức được rằng cái khổ đó không phải người khác đem đến cho chúng ta, mà là tự chúng ta không rơ thị phi, rồi mờ mắt t́m cầu, gom góp những tham ái, vướng mắc vỡ vụn trong cuộc đời để làm gia tài cho ḿnh, th́ tất nhiên quả khổ do tự chúng ta tạo ra chớ không ai có thể cho chúng ta cả.
Phải ư thức rằng, đời người không có sự nhẹ nhàng và thoải mái tuyệt đối, cũng không có sự thống khổ và phiền năo vĩnh hằng, người đời nhân nơi khổ mà t́m cầu vui, ngược lại nhân nơi vui mà dẫn đến khổ đau. Đời người gặp gỡ thường xuyên là vui vẻ ít mà buồn đau th́ nhiều, lư do khổ năo của đời người vô cùng, vô tận. Người có trí tuệ, trước khi làm một việc, phải hiểu rơ trước, sau khi hiểu rơ, mới khẳng định sự việc nào nên làm và sự việc nào không nên làm. Có như vậy khi bắt tay vào việc th́ chúng sẽ không có một chút e dè lo sợ. Nhất là người học Phật đối với mọi người, công việc cứ y trên đạo đức mà làm, y cứ trên trí tuệ mà xử lư tất cả công việc. Thái độ này cũng là chỗ chú trọng của Phật Giáo, cho nên Phật Giáo luôn luôn khuyến khích tín đồ làm bất cứ một việc làm ǵ cũng đều dựa trên:
- Trí Tín
Trí tín tức là niềm tin dựa trên lư trí, không phải là mờ mắt dùng cảm t́nh mà tin. Lư do, trước khi chúng ta làm việc ǵ, th́ chúng ta, cần phải hiểu rơ. Sự tu học cũng vậy, khi chúng ta bắt tay vào việc thực hành th́ chúng ta phải hiểu v́ sao chúng ta cần phải tu hành. Phật giáo lấy đời sống thực tế của con người làm tiêu chuẩn, để ư thức được khổ như: Sanh Khổ, Bệnh Khổ, Lăo Khổ, Tử Khổ, Cầu Bất Đắc Khổ... Tóm lại, trong một đời người đầy đủ các loại dạng khổ! Nói như thế sẽ có người sẽ phản đối, hiện tại ta đang cảm thọ được rất vui vẻ, sự vui vẻ như thế này th́ làm sao gọi là khổ. Kỳ thật kiến giải của người đời phần nhiều có sai lệch. Bởi v́ đối với chúng ta cho là vui, nhưng trong con mắt người có trí tuệ nh́n, tức chính là khổ! Sau khi vui vẻ qua đi, khổ sẽ đến. V́ vui và khổ nối nhau mà đến, cũng như ban ngày và ban đêm, sau khi ngày qua đi đêm tối sẽ đến. Do đó, đời người là khổ, xác thật và không thể phủ nhận. Vậy th́ chúng ta phải làm như thế nào để thoát ly được khổ, đó chính là việc gấp rút trước tiên con người chúng ta phải làm.
Cần phải làm thế nào để thoát ly đau khổ, đây là điều mà mọi người đang suy tư. Thật sự điều này không có lạ khi chúng ta giữ tâm yên tịnh, chúng ta sẽ thấy lời Đức Phật ở trong bốn Thánh Đế đă dạy rằng:
- Khổ do Tập mà có.
Tập chính là ư tứ các món phiền năo, hoặc và nghiệp; do nơi nghiệp con người mới có khổ. Nghiệp tuy là vô h́nh, nh́n không thấy, rờ không được, ngược lại là chủ tể của con người. Muốn tiêu diệt khổ th́ phải đoạn trừ nguyên nhân của nó. Muốn đoạn trừ nguyên nhân th́ không nên tạo nghiệp, không có nghiệp th́ không có nguyên nhân sanh ra khổ. Nghiệp là hành vi của chúng ta làm nên một cá nhân. Thân tâm không thể không có hoạt động, có hoạt động rồi th́ có hành vi, có hành vi rồi th́ có nghiệp. Sở dĩ nói không tạo nghiệp ở đây là muốn nói đến việc không làm ác nghiệp, nghĩa là những ǵ không liên quan đến thiện nghiệp th́ không làm. V́ không tạo ác nghiệp, hành thiện là điều tất yếu. Chúng ta hy vọng hành vi chính ḿnh là hành vi thiện. Tiến đến có thể làm được điều không tạo ác nghiệp, đối với thiện nghiệp cũng không chấp trước. Như vậy th́ có thể lần lượt thoát ly khổ. Căn cứ Phật pháp mà nói:
- Giải thoát phiền năo, trong tâm thanh tịnh, an tường, tự tại, tinh thần thoải mái, tương lai có khả năng thoát khỏi sinh tử.
Phật pháp dạy con người cần phải dùng nhăn quan trí tuệ mà xem t́nh đời. Với con mắt của người trí tuệ th́ phú quư như khói mây qua nơi mắt, dùng tâm tri túc để lấy và bỏ muôn vật, tâm thanh tịnh này không bị sự trói buộc của vật bên ngoài. Đây là dùng tâm tùy duyên hành xử với thuận và nghịch cảnh. Tâm địa tự b́nh ổn th́ không bi lụy đối với vật bên ngoài. Nếu chúng ta y cứ theo đây mà chí thành tu hành, th́ có thể đạt được niềm vui lớn Niết bàn. Có thể nói chỉ cần nương nơi Phật Pháp tu hành, sửa đổi hành vi không tốt đẹp của chúng ta. Trong hành vi của chúng ta không tạo nhân khổ, mà đối với việc thiện lại không chấp trước, hơn nữa thiện ác không lập, trong tâm không có nghiệp, tự tánh thanh tịnh hiện tiền, th́ khổ lập tức tiêu mất. Thực hành được như vậy mới gọi là cứu cánh. Như vậy trong công cuộc sửa đổi hành vi, th́ từ ngữ tu hành là mỗi một người quyết định dứt khoát chuyên cần theo đường hướng thiện do chính ḿnh vạch ra, rồi tự ḿnh khởi tâm tưởng xa ĺa đau khổ để được an vui , cái niềm vui chân thật chứ không phải niềm vui giả tạm.
Có xác định tính trọng yếu của vấn đề tu hành, th́ sự tu học của chúng ta mới tiến bộ. Có xác định tính trọng yếu của vấn đề tu hành th́ chúng ta mới có can đảm chấp nhận:
- Đời người là khổ.
Khổ không phải do tạo hóa, người đời đem đến cho chúng ta mà do nơi chính chúng ta, nghĩa là sau khi tạo nghiệp thành th́ chúng ta do nghiệp cảm báo mà có. V́ con người không nhận chân được sự khổ đau nên cứ măi tạo các nhân ác, nhóm các nghiệp ác cho nên mới cảm thọ quả khổ. Mỗi cá nhân đều không thích khổ, nhưng lại cứ đi t́m khổ đó là cái bệnh của chúng sanh, để rồi theo nghiệp trôi chảy mà chịu quả báo, do đó mới có sáu nẻo luân hồi sanh tử tử sanh, trôi nổi nơi ba cơi, vĩnh viễn không có kỳ hạn.
Truy cứu nguồn cội của khổ là do niệm không giác ngộ là đầu của tai họa, cho nên cần phải dứt khổ, thoát khổ, cần phải đem niệm không giác ngộ mà chặt đứt hoàn toàn, chuyển niệm không giác ngộ này thành tỉnh thức mới được. Như vậy th́ làm thế nào để chúng ta chuyển niệm không giác ngộ thành niệm tỉnh thức, đây là điểm then chốt để chúng ta giải quyết. Kỳ thật, niệm không giác ngộ là niệm tưởng hư vọng. Đứng trên bản thể mà nh́n, cội gốc của thất niệm không tồn tại, nhưng đối với chúng sinh mới hiểu và chưa hiểu mà nói, do ở chổ không xa ĺa khỏi hư vọng, th́ sẽ dẫn đến thất niệm. Cũng như trong hư không vốn không có bông hoa, mà cái tai hại là do có người bệnh loạn thị, nên thấy trong hư không đầy tràn bông hoa. Khi mà bệnh hoạn chưa tiêu trừ, chúng ta có nói với người loạn thị trong hư không không có bông hoa trăm ngàn lần, th́ cũng không thể khiến người ấy tin được. Muốn cho người ấy tin, trước tiên chúng ta cần phải trị bệnh cho con mắt của người ấy, sau đó bệnh tiêu th́ tướng huyễn mới được trừ. Cũng vậy, muốn hướng dẫn những con người lầm đường lạc lối, chúng ta cần phải có phương pháp, có khả năng khiến giúp cho chúng sinh thoát ly hư vọng, khi trong tâm không có vọng niệm làm chướng ngại, th́ tâm tu sẽ sáng suốt Chánh niệm là Chơn Tâm, từ trước về sau, mới có thể thấy được gốc của thất niệm không tồn tại. Điểm này tương tự như bầu trời mây tiêu, sương tan, ánh sáng mặt trời sẽ hiện ra. Làm được như thế chính là chúng ta đă chuyển vô minh thành chánh niệm, chánh niệm có mặt th́ chúng ta hoàn toàn thoát ly khổ. V́ vậy chúng ta cần phải thoát ly hư vọng trước.
Phải biết rằng, hư vọng từ tâm mà sinh ra, do ở nơi tâm vô chủ, mất đi sự khống chế, cho nên vọng tưởng lăng xăng. Từ xưa đến nay sản sinh ra vọng tưởng là tác dụng của tâm thể, đây là lẽ thường không phải là việc xấu, vấn đề đáng ghi nhận là v́ trong tâm không chủ, không có khả năng tác dụng khống chế, việc đáng nên làm th́ làm, đáng nên dừng th́ dừng lại. Ở nơi vọng tưởng hỗn loạn không thể đ́nh chỉ được, không những chướng ngại đối với chính ḿnh, mà c̣n khiến cho tâm mất đi công năng hành xử tốt đẹp đối với những người chung quanh chúng ta.
Đức Phật thường dạy:
- Tâm là chủ của con người cho đến tất cả,
Do đó khi chúng ta nhận thức rơ tâm của chúng ta, là đời của chúng ta đă có người hướng dẫn, có một vị Thầy khả kính. Từ sự nhận thức về tâm, chúng ta cũng sẽ biết được nguyên nhân tâm mất đi sự mẫu mực ở chỗ nào, th́ chúng ta sẽ đem chỗ mất mẫu mực đó ra điều chỉnh sửa đổi, th́ tâm sẽ trở nên b́nh thường, nghĩa là hồi phục hoạt động và những ǵ mà chúng ta có từ trước. Lúc dó chúng ta sẽ ghi nhận: Tâm của chúng ta lúc này và cái tâm của ngày trước tuy là một cái tâm, nhưng không đồng; do đó theo quan điểm Thiền tông mà nói th́:
- Người khai ngộ không khác với con người cũ, nhưng khác hành vi của con người cũ.
Quả thật như vậy, tâm lúc này là tâm chân chánh thường hằng, tâm lúc nầy là tâm biết được việc đáng nên làm th́ làm, đáng nên dừng th́ dừng, hoàn toàn có thể làm chủ. Đối ở việc tiếp xúc được tất cả, nó đều rơ ràng trong sáng, tuyệt không thể bị dối lừa; nó biết thế nào nên làm, làm việc đáng làm, không thể làm sai lầm, cho nên sẽ không đau khổ, khi biết sâu xa qua các hoạt động, trong khi chúng ta có thể làm chủ cho chính ḿnh. Do đó tiêu trừ tưởng niệm hư vọng trong tâm, vọng tưởng tiêu trừ th́ chuyển niệm bất giác thành giác ngộ.
02- Khổ Để Tu Hành, Khổ Hóa Vui   
Muốn được như vậy th́ chỉ có con đường duy nhất phải dùng phương pháp tu tập, tức là tŕ tụng một pháp ở trong tâm không gián đoạn. Một trong các pháp đó là:
- Kinh giáo,
- Tham thiền, chỉ quán, quán tưởng,
- Tŕ chú,
- Niệm Phật,...
Nghĩa là lấy nhất niệm thống suất vạn niệm, làm cho niệm này cũng xả đi, như vậy, trong tâm lại hoàn toàn thoát ly hư vọng. Vọng niệm không c̣n th́ lúc bây giờ trong tâm chỉ là ư nghĩ và việc làm thuần lương, thiện căn sâu dày, ư chí kiên cường sẽ không khó; nhưng đối với con người đại đa số nói th́ dễ, nhưng làm th́ không phải là dễ. Nói dễ mà làm th́ khó là v́ người đời cho rằng tu hành là khổ, nên không có được bao nhiêu người chịu dấn thân thực hành, nhưng chúng ta đâu biết rằng có chịu khổ rèn luyện thân tâm, th́ chúng ta mới có khả năng vuợt qua mọi phong ba bảo tố thử thách trên đường đời, cho nên nói:
- Khổ để tu hành, khổ hóa vui   
Xin xác nhận rằng là khổ vui, cũng không thật có, mà là do v́ tập khí, nhiều năm cho đến nhiều đời trở lại, đều là tập quán đối với tâm mà sinh ra niệm tưởng hư vọng mà có. Tương tự như một con ngựa hoang lưu lạc, một lúc nào đó bắt về nuôi dưỡng ở trong nhà, th́ làm sao có thể dứt được thói quen, trừ khi chủ nhân là người có năng lực thuần phục cực lớn, có thể chế phục tánh hoang của nó. Tu hành cũng như vậy, những thành tựu chắc chắn phải do chính chúng ta mới có thể khắc phục được tập khí và có thể thành tựu tuy rằng có vất vả, do đó mà niệm tu là cần thiết. Lẽ tất nhiên cần phải biết phối hợp giữa sinh hoạt thường ngày và công tác tu hành, và phải theo suốt thời gian dài, từng bước từng bước bỏ đi tập khí, sửa đổi lỗi lầm, th́ những hành vi của chúng ta trở nên thuần nhất, tu tŕ mới dễ thành tựu. Tuy nhiên trong lúc chúng ta chưa thành tựu đạo nghiệp, để có được những niềm vui khích lệ, th́ việc không tạo nghiệp, không cảm thọ quả khổ th́ đời người của chúng ta cũng sẽ an lạc rất nhiều rồi.
Như thế vấn đề chính là phải biết tu chính hành vi hư xấu của chúng ta. Hành vi của chúng ta bao quát cả hai phương diện: Hữu h́nh và vô h́nh; cũng tức là ba nghiệp: Thân, Miệng, Ư. Thực tập chánh niệm chính là tu chính lại hành vi hư hoại từ nơi Thân, Miệng, Ư của chúng ta. Bởi v́ hành vi của con người, có những lúc hoặc cố ư, hoặc vô t́nh làm tổn thương và hại người khác hoặc sinh linh khác, trong vô h́nh cũng tổn hại chính ḿnh, khiến tự ḿnh và người khác đều cảm thọ thống khổ. Những hành vi này tức là ác nghiệp. Cho dù là những hành vi đó c̣n tiềm ẩn trong Thân, Miệng, Ư của chúng ta nhưng vẫn coi như là nghiệp ác. Tóm lại, phàm là những hành vi làm tổn thương đến chúng sinh th́ là ác, quyết cần phải hơn thế nữa để tu chánh. Có thể tu được Thân, Miệng, Ư nghiệp đều không ác, th́ thân tâm của chúng ta sẽ thanh tịnh an lạc, khi mà t́nh huống ở thân tâm yên ổn rồi, th́ vọng niệm lại ít hơn. Nếu như có thể tiến đến trạng thái niệm niệm đều là thiện, và thân hành cũng ở nơi thiện, miệng nói cũng nói điều thiện, ư tưởng ở nơi thiện, th́ việc mà chúng ta gọi là tu hành, đă tiến đến tu tŕ rồi. Đạt đến mức tu tŕ, có nghĩa là chúng ta đă đem các món tập khí bất lương cải chánh lỗi lầm, tâm của chúng ta sẽ thuần nhất, chướng ngại cũng sẽ giảm thiểu hoặc tiêu trừ. Nếu trong lúc nầy mỗi niệm, mỗi niệm của chúng ta không gián đoạn niệm danh hiệu: Nam mô A Di Đà Phật, vọng tưởng tạp niệm giảm thiểu hoặc tiêu trừ, muôn duyên thế tục buông đi, th́ việc văng sanh về thế giới Cực Lạc Tây Phương chắc chắn không có ǵ trở ngại.
Quay trở về đầu Xem tranthanh03's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tranthanh03
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.4414 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO