Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 441 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Kinh Viên Giác HT Thích Thanh Từ Giảng Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 1 of 11: Đă gửi: 08 June 2006 lúc 9:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

Kinh Viên Giác Do HT Thích Thanh Từ Giảng

Giảng Tựa Kinh

Về Tựa Kinh, ở chương 12, Bồ Tát Hiền Thiện Thủ hỏi Phật tên Kinh này.

Đức Phật trả lời đến năm tên:

1. Đại Phương Quảng Viên Giác Đà-la-ni.

2. Tu-đa-la Liễu Nghĩa.

3. Bí Mật Vương Tam-muội.

4. Như Lai Quyết Định Cảnh Giới.

5. Như Lai Tàng Tự Tánh Sai Biệt.

Năm tên này được rút gọn lại là Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa.

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC

Theo ngài Khuê Phong Tông Mật th́ mỗi chúng sanh có thể chân thật rộng lớn trùm khắp pháp giới, nên gọi là Đại. Thể chân thật ấy hay ǵn giữ tất cả quĩ tắc, và hay sanh khởi ra muôn pháp, nên gọi là Phương. Thể chân thật ấy có đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ lường, nên gọi là Quảng.

Theo ngài Thái Hư th́ Đại là chỉ cho cái thể tuyệt đối, vượt ngoài các pháp đối đăi. Đại không có nghĩa là lớn đối với tiểu là nhỏ. Phương chỉ cho phương sở, Thể tuyệt đối ấy rộng lớn không ngằn mé, vượt khỏi không gian và thời gian. Quảng là rộng lớn không thể nghĩ lường.

Đại Phương Quảng chỉ cho nghĩa của Viên giác. Viên là tṛn, giác là giác ngộ; giác ngộ một cách viên măn gọi là Viên giác. Viên giác chỉ cho cảnh giới Phật. Kinh Phật giản trạch: Phàm phu th́ bất giác, ngoại đạo th́ tà giác, Nhị thừa th́ chánh giác, Bồ Tát th́ phần giác, Phật th́ Viên giác. Chỉ có Phật mới giác ngộ viên măn. Phàm phu v́ bất giác nên không thấy được tánh Phật. Ngoại đạo th́ tà giác, tuy biết nhưng biết lệch lạc sai lầm. Hàng Nhị thừa tuy được chánh giác nhưng giác chưa rộng lớn. Bồ Tát tuy thấy tánh Phật nhưng thấy từng phần nên gọi là phần giác. Hành giả dụng tâm tu hành, công phu viên măn, tánh Phật hiển hiện tṛn đầy gọi là Viên giác. Như vậy Đại Phương Quảng Viên Giác là tánh Viên giác tṛn đầy rộng lớn không ngằn mé, trùm khắp pháp giới, vượt ngoài không gian và thời gian, là nguồn gốc sanh ra muôn pháp, diệu dụng không thể nghĩ lường.

TU-ĐA-LA LIỄU NGHĨA

TU-ĐA-LA nguyên là chữ Phạn, Trung Hoa dịch là Kinh. Phàm những lời Phật dạy được kết tập lại có hệ thống gọi là Kinh. Kinh có kinh liễu nghĩa và kinh bất liễu nghĩa. Trong kinh Đại Bảo Tích có những đoạn Phật nói với ngài Xá-lợi-phất:

- Nói những việc thế gian là bất liễu nghĩa, nói về thắng nghĩa là liễu nghĩa.

- Nói mà tạo nghiệp phiền năo là bất liễu nghĩa, nói để nghiệp phiền năo sạch là liễu nghĩa.

- Nói mà chán ĺa sanh tử t́m cầu Niết Bàn là bất liễu nghĩa, nói sanh tử Niết-bàn không hai là liễu nghĩa.

- Nói về các thứ văn cú sai biệt là bất liễu nghĩa, nói pháp sâu xa khó thấy khó giác là liễu nghĩa.

Qua bốn đoạn Phật giản trạch về liễu nghĩa và bất liễu nghĩa, th́ kinh Viên Giác thuộc về kinh liễu nghĩa, v́ Kinh Viên Giác nói tột lư cứu kính không qua một phương tiện nào.

Về h́nh thức, Kinh Viên Giác có chỗ gom thành một quyển, có chỗ chia ra hai quyển, gồm mười hai chương mục, mỗi chương có một vị Bồ Tát đại diện đứng ra thưa hỏi và được Đức Phật trả lời hướng dẫn tu rất rơ ràng.



__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 2 of 11: Đă gửi: 08 June 2006 lúc 10:06pm | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

             Chương Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Thưa Hỏi

Kinh:

Tôi nghe như vầy: Một hôm Đức Thế Tôn nhập Thần Thông Đại Quang Minh Tạng Tam Muội, là nơi an trụ quang nghiêm của tất cả Như Lai, cũng là giác địa thanh tịnh của chúng sanh, thân tâm đều lặng lẽ, bản tế b́nh đẳng, tṛn đầy cả mười phương, tùy thuận không hai, ở cảnh giới không hai này mà hiện các cơi Tịnh Độ.

Giảng:

Đây là một điều lạ, chúng ta thường thấy các Kinh khác mở đầu bằng câu: Tôi nghe như vầy, một hôm Đức Phật ở tại vườn ông Cấp Cô Độc… hay tại tinh xá Trúc Lâm v.v..., là lời ngài A Nan trùng tuyên lại tạng kinh nên nói “tôi nghe” là chỉ cho ngài A Nan nghe, “như vầy” là chỉ pháp Đức Phật nói. Kế đó là Đức Phật ở tinh xá nào, vườn cây nào, quốc độ nào v.v...nêu lên nơi chốn hẳn hoi. C̣n kinh này th́ nói: Một hôm Đức Phật nhập Thần Thông Đại Quang Minh Tạng Tam Muội... Định ấy không riêng ǵ một Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà tất cả Chư Phật đều an trụ trong đó, và cũng là giác địa thanh tịnh của tất cả chúng sanh. Như vậy đoạn này muốn nêu lên cho chúng ta biết cảnh giới Viên Giác của Chư Phật, cảnh giới đó không phải do chư Đức Phật tu rồi mới được, mà chính là do lọc luyện những cấu bợn phiền năo rồi được hiển lộ tṛn đầy. Ngay nơi phàm phu chúng sanh cũng sẵn có cảnh giới đó, nhưng v́ không biết lọc luyện nên cấu bợn che phủ chúng ta không thấy. Cảnh giới đó theo kinh luận có những tên khác nhau, chỗ gọi Viên Giác, chỗ gọi Căn Bản Trí.

Kinh này không nêu rơ nơi chốn của Đức Phật thuyết pháp, mà chỉ nói Đức Phật thuyết pháp ngay trong Bản thể lặng lẽ thanh tịnh của tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác bao trùm tất cả chúng sanh và chư Đức Phật, chư Đức Phật và chúng sanh đều an trụ trong đó và chính Đức Phật cũng an trụ trong đó mà nói pháp. “Tùy Thuận Không Hai” là tùy thuận không hai. Bởi v́ không c̣n mắc kẹt bên này bên kia, là có là không, là sanh là diệt nên gọi là bất nhị. Chính trong cảnh không hai đó là Tịnh Độ của tất cả cơi Đức Phật chớ không có ǵ khác. Tánh Viên Giác là cảnh giới không hai và chính từ cảnh giới không hai đó mới tùy duyên hiện ra các cơi Tịnh Độ, Tịnh Độ đó là Tịnh Độ của Tự tâm. Như vậy là Đức Phật nói pháp trong chánh định Viên Giác và người nghe pháp cũng ở trong định Viên Giác. Vậy ai là thính chúng trong pháp hội này?

Kinh:

Cùng mười muôn vị Đại Bồ Tát câu hội, tên là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Phổ Nhăn, Bồ Tát Kim Cang Tạng, Bồ Tát Di lặc, Bồ Tát Thanh Tịnh Tuệ, Bồ Tát Oai Đức Tự Tại, Bồ Tát Biện Âm, Bồ Tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng, Bồ Tát Phổ Giác, Bồ Tát Viên Giác, Bồ Tát Hiền Thiện Thủ v.v...làm thượng thủ, cùng với quyến thuộc đều nhập chánh định, đồng trụ trong pháp hội b́nh đẳng Như Lai.

Giảng:

Đức Phật nói pháp ở trong chánh định Viên Giác, chư Bồ Tát đến nghe pháp cũng ở trong chánh định Viên Giác và cùng ở trong pháp hội b́nh đẳng của Như Lai. Đức Phật nhập chánh định làm sao nói pháp? Chư Bồ Tát nhập định làm sao nghe pháp? Ví dụ như bây giờ tôi và quí vị ngồi định có nói pháp và nghe pháp được không? Mải lo thiền định, làm sao nói làm sao nghe? Vậy Đức Phật nói pháp và Bồ Tát nghe pháp trong kinh này khác với chúng ta nói pháp và nghe pháp như thế nào? Chỗ này nếu không giản trạch th́ quí vị sẽ nghi ngờ: Tại sao Đức Phật và Bồ Tát ở trong định mà nói pháp và nghe pháp? Định này không giống như chúng ta ngồi thiền chăm chăm nh́n xuống, chú tâm vào một đề mục để cho tâm an trụ không tán loạn. Định này là định tự tại do nhập được Thể tánh thanh tịnh của chính ḿnh; mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, vẫn tiếp xúc với người cảnh, mà tâm không chạy theo người cảnh, được gọi là định của Tự tánh, định ở trong động, chớ không phải định thân ngồi im ĺm. Đối với Bồ Tát, nhất là với tinh thần Thiền tông, Như Lai bất cứ đi đứng nằm ngồi nói nín, lúc nào cũng sống trong Thanh tịnh Pháp thân, tức là sống trong chánh định bất sanh bất diệt và tùy duyên ứng dụng. Chớ không phải đợi ngồi mới định mà đi không định, nếu đi mà không định th́ không phải là Đức Phật. V́ vậy mà nói Đức Phật nhập định nói pháp, Bồ Tát nhập định nghe pháp hỏi đạo, định này không khác định của Lục Tổ trong kinh Pháp Bảo Đàn: “Ngoài không dính mắc với cảnh gọi đó là thiền, trong không loạn gọi đó là định.” Định này cũng gọi là Tự tánh Viên Giác, an trụ trong đó th́ gọi là thiền định, nên ở đây nói Đức Phật nhập định nói pháp, chư Bồ Tát nhập định nghe pháp. Do an trụ trong Tâm thể b́nh đẳng thanh tịnh bất động nên văn kinh nói: Đồng trụ trong pháp hội b́nh đẳng Như Lai.

Đoạn này là phần chúng thành tựu, cũng khác hơn kinh khác, Đức Phật nói với những vị Bồ Tát không có lịch sử. Những vị Bồ Tát này căn cơ thuần thục, chứng tỏ kinh này là Đại thừa đốn giáo chỉ thẳng tâm tánh của chúng sanh tức là Đức Phật.

Đó là tổng quát phần tựa của quyển kinh.

Kinh:

Khi ấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Đức Phật, đi nhiễu bên phải ba ṿng, qú gối chấp tay mà thưa với Đức Phật rằng:

 Đấng Thế Tôn đại bi, xin v́ chúng đến nghe pháp trong hội này, mà nói về nhân địa pháp hạnh bản khởi thanh tịnh của Như Lai và Bồ Tát đối với Đại thừa phát tâm thanh tịnh, làm sao xa ĺa các bệnh, hay khiến cho chúng sanh đời sau, người cầu Đại thừa chẳng rơi vào tà kiến?

Thưa lời đây rồi, năm vóc gieo sát đất, thưa thỉnh như vậy, lặp lại ba lần.

Giảng:

Chúng ta nên biết những vị Bồ Tát trong hội này hầu hết là những vị Bồ Tát không có lịch sử ở cơi này. Đầu tiên, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đứng ra thưa hỏi. Văn Thù Sư Lợi là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Diệu Cát Tường. Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho Căn Bản Trí. Kinh này nêu Căn Bản Trí làm tiêu chuẩn. Ngài hỏi nhân địa tu hành thanh tịnh của Như Lai, nghĩa là hỏi chỗ phát ra nguyên nhân để tiến tu được thanh tịnh của Như Lai thế nào. Nói cho dễ hiểu, Đức Phật do tu tập nhân ǵ mà thân tâm được thanh tịnh, trí tuệ viên măn? Xin Đức Phật dạy cho các Ngài và cho các vị Bồ Tát ở trong Đại Thừa khi phát tâm thanh tịnh, làm sao xa ĺa được các bệnh, giúp cho chúng sanh đời sau, người cầu Đại Thừa không rơi vào tà kiến?

Chúng ta thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nêu lên hai câu hỏi hết sức quan trọng cho sự tu hành của chúng ta. Câu đầu hỏi cách tu để thành Đức Phật, câu kế hỏi cách trừ bệnh để khỏi bị chướng trên đường tu.

Đó là hai điều căn bản chúng ta phải học. Nếu chúng ta tu mà không hiểu rơ hai điểm đó th́ trên đường tu dễ bị thoái thất.

Một là chúng ta không biết Đức Phật tu như thế nào mà Ngài được thành Đức Phật, th́ chúng ta làm sao nương theo để tu?

Hai là trong khi tu, nếu chúng ta gặp những chướng ngại, làm sao vượt qua để tiến? Hai điều đó, nếu chúng ta không thông th́ trên đường tu sẽ bị chướng ngại vô cùng. Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát muốn khai thác nguyên nhân đó để chúng ta nắm vững cốt yếu của sự tu hành, nên Ngài đảnh lễ Đức Phật thưa hỏi. Đó là v́ ḷng từ bi của Bồ Tát muốn cho chúng sanh sau này được lợi ích nên Ngài tha thiết đảnh lễ Đức Phật, thưa thỉnh trước sau ba lần, Đức Phật mới hứa trả lời.

Kinh:

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng:

 Lành thay, lành thay! Này thiện nam, ông hay v́ các vị Bồ Tát mà thưa hỏi nhân địa pháp hạnh của Như Lai và v́ tất cả chúng sanh đời sau, những người cầu Đại Thừa an trụ trong chánh kiến, không rơi vào tà kiến. Ông nay lắng nghe, Ta sẽ v́ ông mà nói.

Bấy giờ, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vui vẻ vâng lời dạy và đại chúng yên lặng lắng nghe.

 Này thiện nam! Vô Thượng Pháp Vương có môn Đại Đà La Ni tên là Viên Giác, lưu xuất tất cả pháp thanh tịnh: Chân Như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật, dạy trao cho các Bồ Tát, nhân địa tu hành của tất cả chư Đức Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh viên chiếu, hằng đoạn vô minh mới thành Đức Phật đạo.

Giảng:

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nêu lên hai câu hỏi quan trọng trong việc tu hành để đưa đến quả Đức Phật nên được Đức Phật khen ngợi.

Vô Thượng Pháp Vương là chỉ cho Đức Phật. V́ đối với bệnh khổ của chúng sanh, Ngài dùng nhiều phương tiện nói pháp khiến cho chúng sanh hết bệnh mê lầm dứt khổ, nên ví Ngài là một vị Vua pháp cao tột không ai bằng. Đà La Ni là chữ Phạn, Trung Hoa dịch là tổng tŕ, tổng tŕ là gồm hết tất cả. Đức Phật nói ở đây là pháp môn gồm hết tất cả pháp môn, tên là Viên Giác. Viên là tṛn, giác là sáng, là biết. Từ tánh Viên Giác đó lưu xuất ra tất cả pháp thanh tịnh Chân Như, Bồ Đề, Niết Bàn và Ba La Mật để giáo hóa Bồ Tát. Như vậy, những danh từ mà chúng ta thường được nghe như Chân Như, Bồ Đề, Niết Bàn v.v...đều từ tánh Viên Giác lưu xuất. V́ vậy, tánh Viên Giác là tổng tŕ, bởi nó bao gồm hết thảy, nên nói là bản khởi nhân địa của tất cả chư Đức Phật. Tất cả chư Đức Phật đều y theo tánh Viên Giác để đoạn trừ vô minh và thành Đức Phật đạo. Qua câu trả lời tổng quát của Đức Phật, chúng ta t́m được ư ǵ trong lời đáp này?

Đức Phật nói: Tất cả Chư Phật đều y nơi tướng giác thanh tịnh hằng chiếu soi để phá trừ vô minh mà được thành Đức Phật. Quí vị thấy nói có khác với Tổ không?

Các Tổ cũng nói: “Chúng ta y nơi Đức Phật tánh hay y nơi Tánh thanh tịnh sẵn có của chính ḿnh để khởi tu th́ sẽ được thành Đức Phật.” Như vậy, điểm y cứ ở đây Đức Phật dạy là phải nhận ra được Bản tánh Viên Giác của ḿnh. Nhận ra rồi lấy đó làm trụ xứ căn cứ của ḿnh, nương đó mà khởi dụng chiếu soi, dụng chiếu soi đó sẽ phá dẹp vô minh.

Đức Phật nói tánh Viên Giác, tại sao Ngài không giảng tánh Viên Giác trước, lại giản trạch vô minh?

V́ khi nói đến tánh Viên Giác mà không nói đến vô minh th́ người đời không hiểu. Do vô minh làm mờ Tánh giác, nếu muốn Tánh giác hiển hiện viên măn th́ trước phải đoạn trừ vô minh. V́ vậy, phải hiểu rơ thế nào là vô minh mới phá trừ được. Khi dẹp được vô minh rồi th́ Tánh giác hiện tiền.

Kinh:

 Thế nào là vô minh? Này thiện nam! Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, bị các thứ điên đảo như người mê lầm lộn bốn phương, vọng nhận tướng tứ đại là thân ḿnh, chấp cái duyên theo dáng sáu trần là tâm ḿnh. Ví như nhặm mắt thấy hoa đốm trong hư không và mặt trăng thứ hai.

Giảng:

Theo Đức Phật, vô minh là tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay bị các thứ điên đảo làm mờ tánh Viên Giác.

Điên đảo là sao?

Điên đảo là cái thấy lộn ngược. Như thế gian, ai mà chuyện không nói có, chuyện có nói không là nói lộn ngược, nghĩa là cái thật thế này mà ḿnh bảo là thế kia. Như chúng ta bây giờ đang ở trong cái thấy điên đảo, nên thấy giả cho là thật. Muốn rơ hơn Đức Phật đưa ra ví dụ như người mê lầm lộn bốn phương dời chỗ. Bốn phương dời chỗ là sao?

Tôi xin đưa ra một ví dụ: Có một người đi vào rừng bị lạc lối, muốn về nhà nhưng quên hướng. Nhà ở phương Nam mà đi lầm về phương Bắc, v́ tưởng phương Bắc là phương Nam. Khi ấy, họ cứ nhắm phương Bắc mà đi th́ chừng bao lâu tới nhà?

Chắc chắn là càng đi càng xa nhà, nếu lầm phương Bắc là phương Nam th́ phương Đông phương Tây họ cũng lầm luôn. V́ vậy nên Đức Phật nói lầm một cái là tất cả những cái khác đều lầm. Trong vũ trụ này muôn ngàn hiện tượng, chỉ lầm một vài hiện tượng th́ muôn ngàn hiện tượng đều lầm.

Chúng ta lầm cái ǵ đây?

Đức Phật dạy: Một là nhận lầm tướng tứ đại làm thân ḿnh. Cái thân này do đất nước gió lửa hợp lại, chúng ta tự nhận tướng đó làm thân ḿnh thật, đó là vô minh. Ở đây có ai thấy ḿnh đă hết vô minh? V́ chúng ta thấy thân này thật nên chúng ta sống trong vô minh mà không biết. Hai là nhận lầm cái duyên theo bóng dáng sáu trần làm tâm ḿnh. Như vậy, thân và tâm đă lầm th́ tất cả đều lầm hết. Cũng như Đức Phật nói một phương lầm th́ các phương khác đều lầm luôn.

Quí vị xét kỹ xem ḿnh có nhận cái duyên theo bóng dáng sáu trần là tâm ḿnh không? Ai cũng nói tôi nghĩ thế này, tôi nghĩ thế nọ. Vậy cái ǵ là tâm của quí vị? Hầu hết đều trả lời cái hay suy nghĩ là tâm tôi. Tất cả cái suy nghĩ phải quấy, dại khôn, hơn thua... là tâm tôi. Quí vị có biết tại sao ḿnh có suy nghĩ không?

Nếu từ trước quí vị chưa từng thấy con sư tử, quí vị có suy nghĩ được không?

Không biết h́nh dáng nó như thế nào, làm sao mà suy nghĩ? Nhưng giả sử chúng ta thấy nó rồi th́ chúng ta nghĩ về con sư tử được. Như vậy, sau khi thấy và nghe chúng ta mới có cái suy nghĩ. Nghĩ về sắc là do mắt tiếp xúc với sắc trần, sau khi tiếp xúc, bóng dáng của sắc trần rơi vào tâm thức của chúng ta, một lúc nào đó nó dấy lên, ư thức chúng ta duyên theo bóng ấy mà suy nghĩ. Tai nghe âm thanh, bóng dáng êm dịu hay chát chúa của âm thanh rơi vào tâm thức của chúng ta, một lúc nào đó nó dấy lên, ư thức chúng ta duyên theo bóng ấy mà có suy nghĩ. Bóng dáng của hương, vị, xúc cũng như thế. Như vậy, tất cả cái suy nghĩ của chúng ta, đều suy nghĩ theo bóng của sáu trần rơi vào tâm thức và khi nó dấy lên chúng ta nương theo đó mà phân biệt cho là tâm ḿnh. Cái duyên theo bóng dáng sáu trần mà cho là tâm ḿnh, không phải điên đảo là ǵ? Bốn đại giả hợp mà cho là thân ḿnh, cái duyên theo bóng dáng sáu trần mà cho là tâm ḿnh! Không phải ḿnh mà cho là ḿnh, thật quá mê muội, thật đáng thương xót!

Tất cả chúng ta đang sống trong vô minh và đang bị vô minh che phủ, tu không thành Đức Phật là tại chỗ đó. Chấp nhận vô minh là ḿnh th́ làm sao thành Phật được?

V́ Đức Phật là giác là sáng, cho nên muốn thành Đức Phật th́ điều kiện tiên quyết là phải dẹp sạch vô minh. Chúng ta biết được vô minh rồi th́ mới có thể phá dẹp nó và mới mong tu thành Đức Phật được.

Đức Phật đưa ra thêm một ví dụ nữa để cho chúng ta rơ hơn: Ví như người nhặm mắt thấy hoa đốm trong hư không và mặt trăng thứ hai. Khi mắt chúng ta lành mạnh, nh́n hư không không thấy có hoa đốm; nhưng khi mắt nhặm, chúng ta nh́n bầu trời trưa nắng thấy hoa đốm lăng xăng đầy cả hư không. Hoặc ban đêm chúng ta nh́n lên bầu trời thấy có hai mặt trăng. Như vậy, chúng ta thấy lầm có hoa đốm, có mặt trăng thứ hai là do mắt nhặm, chớ hư không đâu có hoa đốm và mặt trăng thứ hai! Cũng như thế, thân tứ đại này không thật mà chúng ta nhận lầm là thật, cái duyên theo bóng dáng sáu trần không thật mà nhận lầm là tâm ḿnh thật. Chúng ta lầm nhận thân tâm rồi th́ tất cả những cái khác theo đó mà lầm. Sở dĩ chúng ta nhận lầm là do vô minh mà ra, nếu hết vô minh th́ không c̣n nhận lầm nữa.

Kinh:

 Này thiện nam! Hư không thật không có hoa đốm, v́ người bệnh vọng chấp, do vọng chấp nên chẳng những lầm Tự tánh của hư không mà cũng lầm luôn chỗ sanh ra hoa đốm là thật. Do vọng chấp này mà có luân chuyển sanh tử nên gọi là vô minh.

Giảng:

Đoạn trên Đức Phật đưa ra ví dụ hoa đốm trong hư không và mặt trăng thứ hai để chỉ rơ v́ vô minh mà chúng ta lầm chấp thân chấp tâm là ngă. Giờ đây, Ngài lại đưa ra một ví dụ nữa để chỉ cho chúng ta thấy, nếu lầm chấp thân tâm th́ chúng ta cũng lầm chấp luôn tất cả. Thí dụ hoa đốm được nhắc tới nhắc lui để chúng ta thấy rơ hoa đốm không thật do mắt bệnh mà thấy. Như vậy khi thấy hoa đốm nên nghĩ thế nào?

Muốn trừ hoa đốm phải làm sao?

Muốn trừ hoa đốm không nên dẹp hư không, cũng không phải t́m bắt từng cái hoa đốm cho hết, mà chỉ lo trị con mắt cho lành. Con mắt bệnh ví dụ cho cái ǵ? Chỉ cho cái vọng chấp thân tâm là thật. Bởi vọng chấp thân tâm là thật cho nên thấy tất cả pháp thế gian là thật, mà tất cả pháp thế gian đều như hoa đốm ở trong hư không. Khi đă vọng nhận thân tâm là thật th́ đối với tánh Chân như đă quên. Cho nên ở đây nói chúng ta đă lầm tánh hư không. Rồi lại c̣n cho rằng hoa đốm có thật sanh có thật diệt, v́ thật sanh thật diệt cho nên thật có chỗ sanh. Cái không có lại tưởng là có, c̣n cái có lại quên mất. Một khi lầm chấp thân tâm là thật th́ tất cả pháp chúng ta đều thấy là thật. Đó là gốc của vô minh, đó là gốc của luân hồi sanh tử. Khi thân tâm này không c̣n nhận lầm nữa th́ tất cả pháp thế gian cũng không c̣n nhận lầm. Ngài nói: Hư không thật không có hoa đốm, v́ người bệnh vọng chấp, vọng chấp nên chẳng những lầm Tự tánh của hư không mà cũng lầm luôn chỗ sanh ra hoa đốm là thật. Vừa nhận lầm có hoa đốm trong hư không, cũng nhận lầm có chỗ sanh ra hoa đốm là thật. Hoa đốm là dụ cho thân, chỗ sanh ra hoa đốm là dụ cho cảnh. Nhận lầm thân thật rồi lại nhận lầm cảnh thật là do vô minh, v́ vậy mà luân chuyển trong sanh tử. Do lầm chấp thân thật nên khi mất thân này vội t́m thân khác, nếu biết nó là giả th́ khi mất đâu có nuối tiếc ǵ! Ngày xưa, các Thiền sư thấy mệt mỏi liền từ giă mọi người, an nhiên ngồi kiết già thị tịch, không chút nuối tiếc sợ hăi. Chúng ta bây giờ thấy thân thật, nên khi đau nuốt nước không trôi mà nghe nói chết là sợ hăi. C̣n niệm tham sanh úy tử, làm sao mà không lưu chuyển trong luân hồi. Cho nên lối tu của nhà Đức Phật là lối tu trở lại ḿnh, xoay lại ḿnh. Ngay nơi con người chúng ta mà t́m sự thật th́ tất cả sự thật chung quanh đều hiện, nghĩa là trong bốn hướng không lầm một hướng th́ các hướng khác cũng không lầm. Ngay nơi ḿnh khám phá ra thân không thật, khám phá ra vọng tưởng không thật, chừng đó tất cả cái khác cũng đều thấy rơ nó không thật. Được vậy là dẹp được vô minh th́ cái chân thật đầy khắp, đó là tánh Viên Giác tṛn đầy. Vô minh và chỗ y cứ khởi tu đă biết rơ th́ sự tu sẽ dễ dàng.

Kinh:

 Này thiện nam, cái vô minh này không có thật thể. Như người trong mộng, khi mộng chẳng phải không có và đến khi thức dậy rơ ràng chẳng có. Như hoa đốm diệt trong hư không, không thể nói có chỗ diệt cố định. V́ cớ sao? V́ không có chỗ sanh. Tất cả chúng sanh ở trong vô sanh mà vọng thấy có sanh diệt, nên nói luân chuyển sanh tử.

Giảng:

Đoạn này Đức Phật chỉ thêm cho rơ, v́ nghe nói vô minh chúng ta lại lầm chấp vô minh là thật, nên Đức Phật liền chỉ vô minh không phải thật. Đức Phật nói vô minh không có thể cố định, nếu có thể cố định th́ chúng ta dẹp nó không được. Ví như người ở trong mộng, khi mộng th́ không phải không có cảnh vật, nhưng đến khi tỉnh th́ cảnh vật rơ ràng không có; hoa đốm diệt trong hư không, không thể nói quyết định có chỗ diệt. Mắt bệnh nên thấy có hoa đốm. Khi mắt hết bệnh th́ hoa đốm không có, nên nói hoa đốm đâu có thật sanh mà nói có chỗ thật diệt. Cũng như thế vô minh không có thật thể, nếu có thật thể th́ không ai phá nổi. V́ nó không thật nên Đức Phật ví như người ngủ mê mộng thấy cảnh thấy người đủ thứ... Khi thức giấc th́ cảnh người không c̣n nữa. Cũng vậy khi chúng ta mê th́ thấy thân thật, tâm thật, rồi lầm chấp tạo ra đủ thứ nghiệp, nhưng khi giác th́ thấy thân giả, tâm giả. Mê và giác cách nhau không xa. Vô minh là gốc của luân hồi mà gốc luân hồi lại không thật th́ sự luân hồi đó có thật hay không?

Nếu không thật tại sao chúng ta đang luân hồi?

Đang luân hồi mà nói không có thật làm sao tin được điều đó, ai biết cho ḿnh như mộng huyễn? Ở đây chúng ta xác nhận rơ ràng điểm này để tu. Đức Phật đă chỉ cho chúng ta biết, ai cũng có tánh Viên Giác. Nơi Đức Phật đă đoạn hết vô minh nên tánh Viên Giác toàn vẹn gọi là thành Đức Phật, c̣n nơi chúng ta v́ chưa đoạn vô minh nên là phàm phu. Phàm phu th́ bị vô minh chủ động kéo vào ṿng luân hồi. Làm sao biết được luân hồi là không thật? Chỉ cần biết ḿnh đang sống đây là mộng th́ luân hồi không thật. Khi mê th́ vô minh là chủ, sanh tử là bạn. Vô minh là gốc, sanh tử là thân cây, vui buồn phiền năo như cành lá. Gốc đă không thật th́ thân không thật, cành lá cũng không thật. Như vậy buồn vui thương ghét không thật, nhưng có ai chịu nó không thật đâu! Cứ ch́m trong vô minh không có ngày ra. Hiểu cho thấu đáo mới thấy lời Đức Phật đưa chúng ta tới chỗ giác ngộ hoàn toàn. V́ ḿnh không giác ngộ được nên thấy lời Đức Phật khó hiểu. Tu của đạo Đức Phật là chuyển mê thành giác, mê và giác chỉ là thay đổi cái nh́n. Chỉ cần nhận định theo trí tuệ Bát nhă th́ tất cả hành động đều là tu, c̣n nhận định theo vọng tưởng mê lầm th́ tất cả hành động đều mê lầm hết.

Đọc Kinh Viên Giác tôi thấy định nghĩa vô minh là rơ ràng nhất. Nơi thân tứ đại chấp đó là thân tướng của ḿnh, nơi tâm duyên theo bóng dáng sáu trần chấp là tâm tướng của ḿnh, đó là vô minh. Đơn giản vô cùng! Đức Phật đă chỉ tường tận rồi, nếu chúng ta nhận được th́ không c̣n lầm nữa. Trong tánh Viên Giác ḿnh không muốn trở về cũng là trở về, c̣n không rơ vô minh mà muốn trở về Viên Giác th́ cũng khó mà trở về.

Tất cả chúng sanh ở trong vô sanh mà vọng thấy có sanh diệt, nên luân chuyển sanh tử. Chúng sanh đang ở trong vô sanh, lại thấy có sanh tử là tại sao? V́ tánh giác không sanh không tử, mà chúng sanh không nhận ra lại nhận thân này tâm này là thật, bị nó dẫn đi trong sanh tử luân hồi, nên nói nguyên là vô sanh, v́ lầm nên bị lưu chuyển. Lưu chuyển hay không là do chúng sanh v́ chúng sanh là chủ động.

Kinh:

 Này thiện nam! Người tu nhân địa Viên Giác Như Lai, biết hoa đốm trong hư không liền dứt luân hồi và cũng không có thân tâm chịu sanh tử. Chẳng phải làm cho nó thành không mà Bản tánh nó vốn không.

Giảng:

Tiếp theo Đức Phật giải cho chúng ta thấy rơ khi tu về nhân địa Viên Giác là biết các pháp đều hư huyễn, như hoa đốm trong hư không rơ ràng không thật, th́ không c̣n sanh tử luân hồi. Quí vị hiểu rơ chỗ này rồi th́ sẽ thấy cái thâm trầm của sự tu. Có nhiều người nói rằng: “Làm sao thấy thân này không cho được? Thân chúng ta đang đi, đứng, ăn, nói, hoạt động mà nói là không, th́ làm sao tin và coi đó như là hoa đốm được?” Chúng ta hăy dùng trí tuệ chiếu soi cho thật kỹ th́ sẽ thấy thân này không thật. V́ nó vay mượn tứ đại ngoài để bồi bổ cho tứ đại trong, trong ngoài phù trợ nhau mà tồn tại, nếu giờ phút nào đó tứ đại ngoài không bồi bổ cho tứ đại trong th́ thân tan ră. Như vậy, thân do tứ đại bồi bổ mới tồn tại th́ làm sao nói thật được? Ví dụ một đại là nước, như bây giờ chúng ta khát nước, ai cho một bát nước trà nóng vừa thổi vừa uống vô, một hồi lâu mồ hôi xuất ra, vậy mồ hôi đó từ đâu mà ra? Có phải từ bát nước trà vừa uống vô không? Tại sao khi năy nó là nước trà, bây giờ lại nói nó là mồ hôi của tôi? Vậy tôi là nước trà phải không? Nếu tôi là nước trà, sao khi năy nó ở ngoài, không gọi nó là tôi? Ba đại kia cũng vậy. Khi bốn đại ngoài phụ vào bốn đại trong thân, nếu quân b́nh th́ nói tôi mạnh khỏe, khi mất quân b́nh th́ nói tôi bệnh, bệnh đó chẳng qua là do tứ đại mất quân b́nh. Phân tích như vậy để chúng ta thấy rơ tứ đại không phải là tôi, mà chúng ta cứ lầm chấp nó, rồi bám cứng vào đó, ai chạm tới khối tứ đại này là chịu không nổi. Do chúng ta quá quan trọng nó, nên v́ nó mà tạo nghiệp đi trong luân hồi sanh tử.

Về tâm cũng vậy, tâm là cái duyên theo bóng dáng sáu trần mà cứ chấp cho là thật, nên tôi nghĩ tôi nói ra mà ai căi lại là tôi nổi sân! V́ sao? V́ ư nghĩ của tôi là chân lư. Nhưng xét kỹ cái suy nghĩ đó chẳng phải của tôi có từ lúc mới lọt ḷng mẹ, mà chỉ do huân tập theo thói quen. Như vậy làm sao nói nó là thật được? Bởi chấp tâm là thật nên tất cả những cái tôi huân tập được tôi đều cho là đúng, c̣n thấy ai nói khác làm khác với sự huân tập của tôi th́ cho là sai. Ví dụ như ăn chay, khi thấy người khác tu ăn mặn liền sanh tâm bực bội, trách tại sao tu mà ăn mặn? Lại cũng có người tu ăn mặn thấy người khác tu ăn chay liền thắc mắc tại sao tu phải ăn chay, ăn mặn có lỗi ǵ? Do sự huân tập của hai bên khác nhau và đều cho cái ḿnh huân tập là đúng nên không ai chấp nhận ai, bởi không chấp nhận nhau cho nên gặp nhau không vui.

Tóm lại, chấp thân chấp tâm là thật ngă chính là căn bệnh trầm kha khiến cho người đau khổ, nếu chúng ta cứ ôm kiến chấp đó tu th́ ngàn đời cũng không giải thoát được.

Như vậy, bước đầu tiên của người tu hành là phá vô minh, có phá được vô minh mới mong giải thoát được sanh tử. Có người nói: “Tôi ăn hiền ở lành, làm tṛn bổn phận trong xă hội cần ǵ phải tu!” Câu nói đó đúng chưa? Nói tu để đời sau được sanh làm thân người có nhiều phước báo th́ câu nói đó đúng. Muốn tu để giải thoát sanh tử th́ tu như vậy chưa đủ. Tôi xin lặp lại, muốn giải thoát sanh tử th́ phải phá cho được gốc vô minh. Trong mười hai nhân duyên, vô minh đứng đầu. Nếu vô minh diệt th́ hành diệt v.v... Đức Phật lại nói: “Cũng không có thân tâm chịu sanh tử.” V́ thân tâm con người là giả dối không thật nên Đức Phật nói không có thân tâm con người chịu sanh tử. Chẳng phải do chúng ta phá hoại làm cho nó thành không, mà biết rơ Bản tánh nó vốn là không. V́ sao vậy? V́ ngay trong cái thân sanh tử chúng ta thấy nó là hư giả do duyên hợp huyễn có, tự tánh nó là không, sanh là huyễn sanh nên nói chưa từng sanh, tử là huyễn tử nên nói chưa từng tử, thế nên đâu có thân tâm để chịu sanh tử.

Kinh:

 Cái tri giác kia ví như hư không, biết hư không tức là tướng hoa đốm cũng không và không thể nói không có tánh tri giác. Có, không đều dẹp gọi là tùy thuận tánh Viên Giác thanh tịnh. V́ cớ sao? V́ tánh hư không thường bất động, trong Như Lai tàng không khởi diệt v́ không có tri kiến, như pháp giới tánh cứu kính viên măn khắp cả mười phương. Đây gọi là nhân địa tu hành Bồ Tát cũng nhân đây mà phát tâm thanh tịnh tu theo Đại thừa, chúng sanh đời sau y đây mà tu hành th́ chẳng rơi vào tà kiến.

Giảng:

Đức Phật dụ tri giác như hư không, biết được hư không tức là biết tướng hoa đốm vốn không và cũng không thể nói không có tri giác. Nghĩa là tri giác hay tánh Viên Giác dụ cho hư không, c̣n hoa đốm dụ cho vô minh. Khi hoa đốm hết ở trong hư không mà hư không th́ không diệt, nên nói tri giác như hư không. “Biết” được hoa đốm tướng nó vốn không, không thể nói là không có tri giác. Chúng ta biết tất cả hoa đốm sanh diệt lăng xăng trong hư không là không thật, c̣n hư không th́ không diệt. Có hoa đốm là do mắt nhặm thấy nên nó là hư giả. Khi hoa đốm hết, hư không vẫn nguyên vẹn. Cũng thế, dùng trí biết được thân tứ đại này và vọng tưởng này là hư giả, khi cái giả đó mất rồi th́ “cái biết” giả đó không mất; nên đây nói: Không thể nói tánh tri giác là không. Nói nói không là hai bên, có không đều dẹp gọi là tùy thuận tánh Viên Giác. Chúng ta thấy Đức Phật và Tổ nói không khác. Tổ nói nhập được Tự tánh thanh tịnh của ḿnh th́ không kẹt hai bên. V́ sao? V́ Tánh giác là bất động. Hư không dụ cho Tánh giác, hoa đốm dụ cho vô minh, hoa đốm hết, hư không vẫn c̣n. Cũng vậy, khi vô minh hết, Tánh giác không mất nên nói tánh hư không thường không động, đâu từng sanh đâu từng diệt. Cũng thế, trong Như Lai tàng không khởi diệt, v́ chúng ta mê nên thấy nó khởi diệt; Như Lai tàng đó như pháp giới tánh rốt ráo tṛn đầy khắp cả mười phương.

Tóm lại, Đức Phật muốn cho chúng ta thấy rơ, khi biết thân tứ đại là giả, biết tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là giả, không c̣n kẹt trong hai cái đó là tùy thuận Tánh giác. Nghĩa là khi niệm chấp cái giả mất rồi th́ Tánh giác hiện tiền, giống như khi hoa đốm trong hư không mất rồi th́ hư không vẫn bất động. Cũng vậy, Tánh giác của chúng ta khi không c̣n bị vô minh che phủ th́ hiển lộ và trùm khắp mười phương. Nhiều người lầm cho rằng Đức Phật nói thân này là giả, vọng tưởng là giả, buông hết rồi th́ c̣n cái ǵ? Chúng ta buông được hai cái giả đó th́ cái chân thật hiển bày. Đó là nhân địa của Đức Phật tu, chư Bồ Tát và chúng sanh đời sau cũng phải tu như vậy mới khỏi rơi vào các bệnh.

Đó là gốc của sự tu hành, nếu chúng ta không y gốc để tu và chặt đứt cội rễ vô minh đă ăn sâu từ ngh́n muôn kiếp th́ càng tu chúng ta càng bệnh. Ví dụ như chúng ta lập ra thời khóa ngày đêm phải tọa thiền bốn thời, nhưng với bối cảnh xă hội hiện tại phải làm ruộng rẫy mới có lương thực để ăn, chúng ta không thể hạn cuộc trong thời khóa đă ấn định mà phải giảm bớt một hoặc hai thời. Tu như vậy chúng ta cho là không đủ công phu, rồi sanh phiền năo, phiền năo là bệnh. Hoặc chúng ta tu ngày đêm sáu thời đầy đủ, nhưng thấy người khác tu có hai thời, chúng ta nh́n họ với cặp mắt xem thường cho rằng ḿnh tu hơn họ. Do chấp trên h́nh tướng nên thấy có hơn thua, nếu như chúng ta tu theo kinh Viên Giác th́ đâu có cái ǵ hơn thua? Thân không thật, tâm không thật th́ có ai hơn ai? Chúng ta hằng quán chiếu như vậy th́ càng tu cái ngă càng ṃn đâu có sanh bệnh. Giả sử tôi nói tŕ chú được công đức vô lượng, quí vị nghe ham quá, về chuyên tâm tŕ chú, bỗng một hôm đang tŕ chú thấy hào quang rực rỡ cả bầu trời, quí vị hài ḷng lắm, tự cho là ḿnh tu có công phu nhiều. Khi ấy gặp bạn đồng tu hỏi thăm họ: “lâu nay bạn tu có kết quả ǵ không”, bạn ấy trả lời: “không thấy”. Quí vị tự hào và cho rằng bạn ḿnh không tu hành ǵ hết. Từ đó bản ngă ngầm trồi lên mà quí vị không hay. V́ thế càng tu càng sanh bệnh. Gần đây có nhiều vị tu hành tinh tấn lắm, ngồi thiền có hào quang sáng. Nhưng th́nh ĺnh bị “Ma Đăng Già” lôi ra đời, làm nhiều điều ác tệ hơn những người Đức Phật tử tại gia. Đó cũng v́ chưa thấu triệt được cái lư rốt ráo của sự tu hành, chỉ chú trọng trên h́nh tướng nên tâm kiêu mạn dấy sanh, bệnh nặng mà không hay.

Chúng ta nên biết những phương pháp Đức Phật dạy tu là những phương thuốc huyễn để trị lành bệnh vô minh huyễn của chúng ta. V́ vậy nên trên đường tu, người hướng dẫn rất là quan trọng. Khéo hướng dẫn th́ càng tu càng tiến, c̣n không khéo th́ càng tu càng bệnh. Tôi thường nói người thế gian là kẻ chấp ngă đă đành, nhưng người tu nếu không khéo sẽ rơi vào bệnh chấp ngă số một. Khi c̣n hành Điệu th́ cái ngă c̣n nhỏ, đến khi làm thầy thiên hạ th́ cái ngă cũng tăng trưởng dần theo địa vị mà không hay. Hoặc không có địa vị, càng tu thâm niên cái ngă càng lớn. Giả sử như có người tu hai, ba mươi năm mà giáo lư không thông, pháp tu nắm không vững, kẻ hậu học đến thưa hỏi th́ ú ớ đáp không trôi, nhưng họ có lỡ lời chi th́ chê trách: “kẻ hậu sanh vô lễ, ta tu mấy chục năm không đáng làm thầy tụi bây hay sao”. Đó là bệnh chấp ngă rất lớn. Phá được cái ngă thật là khó, v́ chúng ta không chịu nh́n lại cái thân hư giả và cái tâm hư giả của ḿnh, cho nên tu nhiều chừng nào th́ cái ngă lớn chừng nấy. Nếu y theo lời Đức Phật dạy mà tu th́ phá trừ vô minh mới mong tiến đạo.

Trong chương này Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏi hai câu, Đức Phật trả lời như trên là đủ chúng ta tu cả đời. Đức Phật dạy hết sức rơ ràng, chính xác và thực tế.

Kinh:

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

 Văn thù ông nên biết
Tất cả các Như Lai
Từ nơi nhân địa gốc
Đều dùng trí Viên Giác
Thấu suốt cả vô minh
Biết kia như không hoa
Th́ ắt khỏi lưu chuyển
Lại như người trong mộng
Khi tỉnh chẳng có ǵ
Tánh giác như hư không
B́nh đẳng chẳng động chuyển
Tánh giác khắp mười phương
Liền được thành Đức Phật đạo
Các huyễn diệt không chỗ
Thành đạo cũng không thành
Bản tánh vốn viên măn
Bồ Tát ở trong ấy
Hay phát tâm Bồ đề
Các chúng sanh đời sau
Tu đây khỏi tà kiến.

Giảng:

Chúng ta thấy trong bài trùng tụng Đức Phật lặp lại thật là đầy đủ ư nghĩa trên. Trước hết là nói nhân địa của tất cả chư Đức Phật tu hành đều từ nơi trí tuệ giác chiếu. Do dùng trí tuệ giác chiếu nên thấy rơ vô minh, biết nó như hoa đốm trong hư không nên ra khỏi luân hồi sanh tử. Cơi đời này giống như giấc mộng. Mộng dụ cho vô minh, khi vô minh th́ thấy người thật cảnh thật, khi tỉnh th́ thấy người không thật cảnh không thật, nên nói tỉnh rồi th́ không có ǵ cả. Tánh giác ví dụ như hư không b́nh đẳng không động. V́ hư không b́nh đẳng nên bao dung tất cả mọi loài. Hư không không động, nếu có động là gió động bụi bay, chớ hư không lúc nào cũng bất động. Cũng vậy, vọng tưởng là động, c̣n Tánh giác th́ b́nh đẳng không động, bởi b́nh đẳng không động nên trùm khắp cả mười phương. Người hằng sống với Tánh giác tạm nói là thành Đức Phật. Các huyễn diệt rồi cũng không có chỗ diệt, thành đạo rồi cũng không có ǵ gọi là chứng. Bởi v́ sao? V́ Tánh giác vốn viên măn nên khi vô minh hết th́ Tánh giác tṛn sáng. Cũng như khi ngủ mộng thấy cảnh thấy người... nhưng khi thức th́ cảnh người cũng không c̣n, khi thức th́ biết thức thôi, chớ có nói là tôi được thức không? Đâu có cái ǵ mà được? Sự tu cũng vậy, tu để dẹp vô minh, khi vô minh hết th́ Tánh giác hiện tiền. Nếu c̣n thấy được là c̣n có cái bị được và người hay được, như vậy là c̣n năng c̣n sở th́ không thể gọi là thành Đức Phật. Các Bồ Tát ở trong đây tu hạnh Bồ đề, các chúng sanh đời sau y đây mà tu th́ không rơi vào tà kiến.

Trong chương này, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chỉ hỏi Đức Phật có hai câu mà Đức Phật dạy chúng ta tu suốt kiếp cũng không xong. Nếu ai y theo chương này tu cũng đủ để giải thoát sanh tử.



Sửa lại bởi KimCangHue : 08 June 2006 lúc 10:07pm


__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 3 of 11: Đă gửi: 10 June 2006 lúc 8:58am | Đă lưu IP Trích dẫn dieptan_dung

Ḥa Thượng Thích Thanh Từ đă thuyết giảng đoạn kinh :

" Đức Phật muốn cho chúng ta thấy rơ, khi biết thân tứ đại là giả, biết tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là giả, không c̣n kẹt trong hai cái đó là tùy thuận Tánh giác. Nghĩa là khi niệm chấp cái giả mất rồi th́ Tánh giác hiện tiền, giống như khi hoa đốm trong hư không mất rồi th́ hư không vẫn bất động. Cũng vậy, Tánh giác của chúng ta khi không c̣n bị vô minh che phủ th́ hiển lộ và trùm khắp mười phương. Nhiều người lầm cho rằng Đức Phật nói thân này là giả, vọng tưởng là giả, buông hết rồi th́ c̣n cái ǵ ? Chúng ta buông được hai cái giả đó th́ cái chân thật hiển bày. Đó là nhân địa của Đức Phật tu, chư Bồ Tát và chúng sanh đời sau cũng phải tu như vậy mới khỏi rơi vào các bệnh."



Kính chào các Đạo hữu ,

Tôi nghĩ đoạn trên HT Thích Thanh Từ suy luận diển giải nhưng không hợp logic , không thực tế và c̣n trái với giáo lư nguyên thủy nữa . Ḥa Thựong cho rằng khi buông được 2 cái là thân tứ đại và tâm duyên theo cảnh th́ tánh giác hiện tiền . Tôi thiển nghỉ Đức Phật chỉ có dạy một con đường là giải thoát và thật ra th́ chẳng có tâm để mà buông và thân tứ đại chỉ hợp duyên giả hợp . Nếu ngài giảng pháp mà c̣n thấy phải cầm nắm hay buông bỏ th́ c̣n mắc kẹt chưa sở ngộ được sự vi diệu của Phật Pháp .

Diệp Tấn Dũng



Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 4 of 11: Đă gửi: 10 June 2006 lúc 4:25pm | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

Chào Bạn Diệp Tấn Dũng !

Bạn dùng lư trong Kinh Nam Tông th́ không thể hiểu được Kinh Đại Thừa.

Kinh Nam Tông th́ Đức Phật dạy tu Chứng Thanh Văn Thừa.

Kinh Đại Thừa th́ Đức Phật dạy tu Thành Phật.



__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 5 of 11: Đă gửi: 11 June 2006 lúc 5:49am | Đă lưu IP Trích dẫn dieptan_dung

KimCangHue đă viết:

Chào Bạn Diệp Tấn Dũng !


Bạn dùng lư trong Kinh Nam Tông th́ không thể hiểu được Kinh Đại Thừa.


Kinh Nam Tông th́ Đức Phật dạy tu Chứng Thanh Văn Thừa.


Kinh Đại Thừa th́ Đức Phật dạy tu Thành Phật.




Chào bạn Kim Cang Huệ ,

Phật Pháp không có Bắc Tông hay Nam Tông chỉ có lời của ĐỨC PHẬT tuyên thuyết thôi . Nếu bạn Kim Cang Huệ c̣n mắc dính các Pháp như các HT đă từng giảng thuyết th́ không đi đến cùng đích viên ngộ được . Đức Phật tuyên thuyết 8 vạn bốn ngàn pháp môn trong 49 năm đến lúc Ngài sắp vào Niết Bàn th́ Ngài NIÊM HOA VI TIẾU để tiêu biểu mấy mươi năm chưa từng nói một lời . Đây là chổ bất khả thuyết của Phật Pháp khi một người đă chứng ngộ hoàn toàn .
Phật Pháp vốn bất khả thuyết , vốn bất khả phân loại để nói . Đây là nhân lời để dẹp lời , quyền trước giả để lập phương tiện , cốt làm người nói dễ đạt , người nghe dễ hiểu ,không thể chấp trước làm luật định , không thể chia chẻ Bắc Nam Tông ǵ được . Các Tổ sau này chia chẻ ra chứ lời của ĐỨC PHẬT luôn là chân lư vĩnh hằng chỉ có một mà thôi .
Vài ḍng trao đổi .

Diệp Tấn Dũng

    
Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 6 of 11: Đă gửi: 11 June 2006 lúc 7:29am | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

Chào bạn Diệp Tấn Dũng!

Trên ngôn ngữ th́ phải nói có Đại Thừa, Tiểu Thừa bởi v́ chúng sanh c̣n ở trong Tương Đối.

Nói Tột Lư Phật, Chúng Sanh, Niết Bàn, Sanh Tử đều là giả lập nói chi là Pháp Tu.

Chỉ có Phật th́ mới Chứng Biết Như Thật c̣n chúng sanh th́ thường Chấp Lư mà chưa có Thật Chứng.

Chưa Chứng th́ phải nói Phương Tiện v́ vậy hễ c̣n có Phương Tiện là c̣n trong Đối Đăi Sanh Diệt.

Ngay như Đức  Phật hiện trong thế gian mà c̣n phải dùng ngôn ngữ đối đăi sanh diệt để mà giảng dạy cho chúng sanh bởi v́ chúng sanh chẳng thể chứng nhập thẳng Tánh  Niết Bàn Viên Giác.

 

 



__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 7 of 11: Đă gửi: 12 June 2006 lúc 7:01am | Đă lưu IP Trích dẫn dieptan_dung

KimCangHue đă viết:

Chào Bạn Diệp Tấn Dũng !



Kinh Nam Tông th́ Đức Phật dạy tu Chứng Thanh Văn Thừa.



Kinh Đại Thừa th́ Đức Phật dạy tu Thành Phật.




Chào bạn Kim Cang Huệ ,

Bạn viết như vậy mà không đối chiếu với thực tế sau . Đạo Phật nếu xa rời thực tế th́ không c̣n là Phật giáo nữa . Thời Đức Phật tại thế chẳng lẽ ngài thuyết pháp 49 năm trời ṛng ră với 8 vạn 4 ngàn pháp môn để rồi chẳng có ai được giải thoát , chẳng có ai thành Phật cả .Theo kinh điển để lại thời Đức Phật do chính ngài trực tiếp giảng dạy hướng dẫn nên số người đắc quả vị Phật rất đông vô số . Nếu cho rằng thời Đức Phật chẳng có ai thành Phật mà sau đó phải chờ đến 6,7 thế kỷ sau rồi mới thuyết giảng tiếp để chúng sanh thành Phật . Điều này nghe qua vô lư , cho đến nay các học giả , các nhà sử học , các nhà nghiên cứu Phật học phương tây chưa ai công nhận đại thừa Phật giáo là do Đức Phật thuyết cả .

Tôi nêu ra không nhằm thảo luận mà chỉ nói một sự thật về nguồn gốc giáo lư khi mọi người t́m hiểu học Phật giáo để khi người nào mới t́m học sẽ thấy sự khác biệt giữa vô thường , vô ngă của giáo lư nguyên thủy và chân tâm , thường tánh của hệ phát triển sau này , có một tự ngă nào đó của hệ phát triển sau này giống ngoại giáo Ấn Độ .
Có lẽ chỉ có người tu tập Phật Giáo qua kiểm nghiệm thực tế là sẽ có câu trả lời đúng đắn nhất thôi .
Vài ḍng đóng góp .

Diệp Tấn Dũng   


Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
dieptan_dung
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 07 October 2005
Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 162
Msg 8 of 11: Đă gửi: 12 June 2006 lúc 7:15am | Đă lưu IP Trích dẫn dieptan_dung

KimCangHue đă viết:

Chào bạn Diệp Tấn Dũng!


Trên ngôn ngữ th́ phải nói có Đại Thừa, Tiểu Thừa bởi v́ chúng sanh c̣n ở trong Tương Đối.



Ngay như Đức  Phật hiện trong thế gian mà c̣n phải dùng ngôn ngữ đối đăi sanh diệt để mà giảng dạy cho chúng sanh bởi v́ chúng sanh chẳng thể chứng nhập thẳng Tánh  Niết Bàn Viên Giác.


 


 




Chào bạn Kim Cang Huệ ,

Những điều bạn nói đều hợp lư nhưng bài giảng của HT Thích Thanh Từ vẫn c̣n gút mắc về pháp tu . Người nghe nếu không hiểu sâu xa sẽ chấp pháp mà sanh ngă mạn .

Dù chúng sanh c̣n ở trong tương đối nhưng không thể nói pháp là tiểu thừa hay đại thừa . Tiểu thừa hay đại thừa các danh xưng từ ngữ này chỉ xuất hiện sau khi Đức Phật nhập diệt mà thôi , điều này quá rơ không cần phải nói nữa qua các kỳ kiết tập kinh điển sau này . Sự giảng pháp như vậy sẽ sanh chấp pháp cho người nghe mà thoái chuyển trên đường tu tập . Chỉ có một lời Đức Phật duy nhất là chân lư thường hằng .

Diệp Tấn Dũng

Quay trở về đầu Xem dieptan_dung's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dieptan_dung
 
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 9 of 11: Đă gửi: 12 June 2006 lúc 6:57pm | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

Trong Kinh Vô Lượng Nghĩa nói Phật Pháp như nước biển lớn đó là đồng một vị đó là vị giải thoát.

Tuy như biển lớn kia càng xuống th́ càng sâu Phật Pháp cũng vậy căn cơ có khác cho nên sự tu chứng có khác.

Trong Kinh Hoa Nghiêm nói về bàn nguyện của Đức Phật th́ Đức Phật c̣n trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp hải tu hành mới đầy đủ Phước Trí.

Nói Tiểu Thừa Đại Thừa là v́ Phàm Phu Thế Gian chưa chứng được Tánh Viên Giác B́nh Đẳng c̣n bậc đă chứng th́ tất cả các cảnh giới đều như mộng huyễn c̣n nói ǵ là Tiểu Đại.

Nói B́nh Đẳng Không Hai đó là Tự Chứng chứ chẳng phải chỉ dùng lư luận.

 



__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 10 of 11: Đă gửi: 13 June 2006 lúc 11:27pm | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

KimCangHue đă viết:

Trong Kinh Vô Lượng Nghĩa nói Phật Pháp như nước biển lớn đó là đồng một vị đó là vị giải thoát.


Tuy như biển lớn kia càng xuống th́ càng sâu Phật Pháp cũng vậy căn cơ có khác cho nên sự tu chứng có khác.



 




Dù căn cơ chúng sanh có khác nhau không đồng th́ chỉ có các pháp khác nhau để độ sinh , cũng như nước biển có đồng một vị chứ không có TIỂU THỪA HAY ĐẠI THỪA .

Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 
KimCangHue
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 May 2006
Nơi cư ngụ: Canada
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 71
Msg 11 of 11: Đă gửi: 14 June 2006 lúc 8:08am | Đă lưu IP Trích dẫn KimCangHue

Phật dạy Ba Thừa đó là trong các Kinh Đại Thừa dạy chứ không Phải Kim Cang Huệ tự ḿnh đặt ra nói.

Phật Pháp đồng một vị mà Sự Tu Chứng có sai khác.

Kinh Nikaya của Phật Giáo Nam Tông cũng nói như vậy.



 



__________________
Các Hành Vô Thường
Là Pháp Sanh Diệt
Sanh Diệt, Diệt Rồi
Tịch Diệt Là Vui
Quay trở về đầu Xem KimCangHue's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi KimCangHue
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.3496 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO