anhhaoquang Hội viên
Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 81
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 14 June 2006 lúc 1:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Tiểu Thừa Và Đại Thừa
(Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm)
Tiết
Mục:
I. Ư nghĩa Tiểu thừa, Đại thừa
II. Khởi nguyên phân biệt giữa hai phái
III. Những điểm sai biệt của hai phái
IV. Dung hội các thừa
Kinh sách tham khảo: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Văn Thù
Bát Nhă, Kinh Tạp A Hàm, Trí Độ Luận, Nhập Đại Thừa Luận, Ấn Độ Phật Giáo Sử
Lược, Phật Giáo Khái Luận.
Đề yếu:
Ư nghĩa Đại, Tiểu thừa và sự sai biệt giữa đôi bên, đă thường gây nhiều thắc
mắc cho người sơ cơ học Phật. Để giải thích phần nào mối hoài nghi ấy, trong
tiết thứ nhất thuộc bản chương đưa ra ba sự kiện: pháp môn, tế độ, quả vị, để
lược bàn về quan điểm hơn kém của song phương. Hai tiết kế, tiếp tục nói qua
nguyên nhân phân biệt và sự sai khác giữa Tiểu thừa Đại thừa, mà yếu tố chính
không ngoài cảnh duyên và sự nhận thức của cá tính. A Hàm và đại ư phẩm Phương
Tiện trong kinh Pháp Hoa, chỉ rơ các thừa đều là những nấc thang phương tiện để
đi đến Phật thừa, trong một đời thuyết giáo, đức Thế Tôn duy nói Nhất thừa pháp
mà thôi.
Thể nhận
nghĩa này, người học Phật sẽ tự giải thích được tâm niệm phân vân, chia rẽ.
Tiết
I: Ư Nghĩa Tiểu Thừa, Đại Thừa
Khi đức
Phật c̣n ở đời, v́ tùy tŕnh độ của mọi người, mà Ngài thuyết pháp có cạn sâu,
cao thấp. Lại đôi khi, thính chúng tuy cùng nghe một giáo lư, nhưng sự lĩnh hội
của mỗi người có thấp cao, rộng hẹp không đồng. Nhân đó, về sau mới nảy sinh ra
sự phân biệt giữa Đại thừa (Mahàyàna) và Tiểu thừa (H́nayàna).
Đại thừa
là ǵ? Một lời tổng quát, đó là "giáo pháp dạy tất cả hữu t́nh thành
Phật". Đứng về phương diện phân tích, chữ "Thừa" là vận tải, vận
độ, nghĩa là chuyên chở. Giáo lư của Phật dạy có đủ công năng, phương pháp, dắt
đường chỉ lối, chuyên chở chúng sanh từ cơi trần lao phiền năo đến cảnh thanh
tịnh an vui, từ biển sống chết luân hồi đến bến niết bàn giải thoát, nên gọi là
"Thừa".
Trong
danh từ Tiểu thừa, chữ "Tiểu" có những nghĩa: hẹp, nhỏ, thấp. Nghĩa
"hẹp" của Tiểu thừa, là chỉ cho quan niệm của người tu duy lo tự độ,
tự đưa ḿnh đến chỗ giải thoát, không đoái hoài đến bao nhiêu chúng sinh khác
đang ở trong biển trầm luân. Có điều nên phân biệt, nếu người nào có hoài bảo
tha thiết độ sanh, tuy dùng pháp Tiểu thừa để giáo hóa, song thật ra lại thuộc
về tâm niệm Đại thừa. Và những kẻ tuy ở nơi non cao rừng thẳm, không tiếp xúc
với đời, nhưng có bi nguyện tự độ để độ tha, cũng thuộc về tâm niệm Đại thừa.
Nghĩa "nhỏ" của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp cạn cợt, chỉ thích
hợp, hóa độ được một hạng người, không thích hợp, hóa độ được mọi tầng lớp
chúng sinh. Điểm cạn cợt này, là sự chấp nhận trong phạm vi giáo pháp Tứ đế, Thập
nhị nhân duyên. Một điều nên nhận định, tiểu pháp không thể bao hàm đại pháp,
nhưng trái lại đại pháp bao hàm tiểu pháp; v́ thế Tứ đế, Thập nhị nhân duyên
cũng là một phương tiện trong sự độ sinh của Đại thừa. Nghĩa "thấp"
của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp đưa người đến quả vị thấp của Thanh Văn,
Duyên Giác, không đưa đến quả vị cao siêu cứu cánh của Phật đà. Giáo pháp này
cũng chính là Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Tóm lại "Tiểu thừa" có ba ư
nghĩa: "sự vận tải hẹp, nhỏ, thấp", như trên.
Phản ảnh
lại, danh từ Đại thừa cũng có ba nghĩa: rộng, lớn và cao. "Rộng" là
độ ḿnh và tất cả chúng sinh; "lớn" là đủ các pháp môn thích hợp với
mọi căn cơ; "cao" là đưa loài hữu t́nh đến quả vị Vô thượng chánh
giác. Cả hai danh từ Tiểu thừa, Đại thừa, nếu mỗi bên thiếu một trong ba ư
nghĩa trên, th́ không thể thành lập.
Đại
thừa, tiếng Phạn gọi là Ma ha Diễn Na (Mahàyàna). Đầu tiên, danh từ này không
có tính cách để đối chọi với Tiểu thừa, đại ư của nó là chỉ cho những giáo lư
cao thâm, những pháp môn rộng lớn có công năng độ khắp chúng sinh mà thôi. V́
thế, trong kinh Đại thừa vẫn có những danh từ thuộc Tiểu thừa, và trong kinh
Tiểu thừa ta cũng thường thấy những danh từ thuộc Đại thừa. Khi đức Thế Tôn c̣n
ở đời, giáo pháp của Ngài tuy hàm ẩn cả Đại, Tiểu thừa, nhưng trong giáo đoàn
vẫn ḥa hợp tu hành, không có sự phân biệt lớn nhỏ, cao thấp. Khoảng thời gian
600 năm sau Phật diệt độ, tuy chư Tăng chia thành nhiều bộ phái, song cũng
không có sự đối lập giữa Đại, Tiểu thừa. Trong các chi phái thuộc ba hệ thống
Hữu Bộ, Đại Chúng và Độc Tử, có nhiều vị nghiên cứu kinh luận Đại thừa. Như
ngài Chân Đế nói: "Giáo đồ của Đại Chúng Bộ ở thành Vương Xá cũng học hỏi
truyền bá những kinh điển Đại thừa như Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Thắng Mang, Duy
Ma, Kim Quang Minh, Bát Nhă..."
Nhưng từ
600 năm sau Phật diệt độ trở đi, do tư tưởng tiến triển của quần chúng, do hoàn
cảnh, nhân duyên, sự phân biệt và đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo
lâm vào t́nh trạng không thể tránh khỏi.
Tiết
II: Khởi Nguyên Phân Biệt Giữa Hai Phái
Nhân
duyên phân biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa, đại ước có ba điểm:
1. Do
hoàn cảnh: Đại thừa Phật giáo bột hưng, một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh bên
ngoài. Xét theo lịch sử, từ đời A Dục Vương về sau, quần chúng miền Bắc Ấn
thường giao thiệp với dân tộc hai xứ Hy Lạp, Ba Tư. Những nhà học Phật ở Bắc Ấn
lúc ấy càng ngày càng đông. Do sự tiếp xúc với ngoại nhân, họ dần dần chịu ảnh
hưởng tư tưởng tôn giáo của hai xứ đó, nên có nhiều nhà học Phật chủ trương
sùng bái cầu nguyện. Bởi nguyên nhân này, thuyết tha lực văng sanh đă sẵn có
trong kinh điển Phật giáo được đề khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu văng
sanh về cơi Đâu Suất của Di Lặc Bồ tát, cơi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cơi Lưu
Ly của Phật Dược Sư, cơi Diệu Hỷ của Phật A Súc Bệ rất thịnh hành. Trong đây
chỉ có thuyết văng sanh Cực Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi phong
trào này là Chủ t́nh đại thừa giáo.
Mặt
khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các phái ngoại đạo dần dần phục hưng, lư thuyết
của họ càng ngày càng được cải cách thêm đến mức siêu việt. Song song với phong
trào đó, kho tàng Phật giáo cũng phải được khai thác triệt để, mới có thể đối
phó với ngoại đạo và giải quyết đầy đủ mối nghi ngờ của học giả. V́ thế, Đại
thừa Phật giáo phải ra đời để thích ứng với thời đại.
2. Do
trào lưu tư tưởng: Khởi nguyên tư tưởng Đại thừa Phật giáo lẽ dĩ nhiên đă có từ
khi đức Như Lai c̣n tại thế. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ 100 năm, giáo đoàn đạo
Phật chia thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, rồi dần dần phát sinh ra các chi
phái. Giáo nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả đạo lư Đại thừa. Tư
tưởng của học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời A Dục đến đời Ca Nị Sắc
Ca, quan niệm Đại thừa giáo càng ngày càng phát hiện thêm rơ rệt.
Trên
phương diện địa lư, tư tưởng này bắt nguồn từ xứ An Đạt La thuộc Nam Ấn Độ.
Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma Ha Bát Nhă, phát xuất từ Đại Chúng Bộ. Trong
kinh Bát Nhă có đoạn Phật dự kư: "Sau khi Như Lai niết bàn, kinh này được
truyền về phương Nam, rồi từ đó lưu chuyển đến phương Tây và lên phương Bắc".
Lời dự kư này đă chứng minh cho Đại thừa Bát Nhă xuất phát từ phương Nam. Đại
thừa Phật giáo ở Bắc Ấn Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê khảo chưa được
chính xác. Nhưng theo ngài Huyền Trang th́ tại xứ Câu Tát La (Kosala), kinh
điển Đại thừa rất nhiều, Phật pháp ở đây cực thịnh và được truyền bá đi các nơi
khác. Hoặc giả địa phương này là chỗ phát nguyện của Đại thừa Phật giáo miền
Bắc Ấn chăng?
3. Do
các học giả phát khởi: Sau khi Phật diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng dần
dần biến thiên, nên sự đ̣i hỏi thích ứng với quan niệm quần chúng càng ngày
càng thêm cần thiết. Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại đạo cũng dần dần được cải
tiến, họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật, để bổ
khuyết thêm cho học thuyết của ḿnh. V́ thế, lập luận của họ càng ngày thêm
vững vàng, trong đó các phái Thắng luận, Số luận, Phệ đàn đà luôn luôn bài xích
Phật giáo. Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên về khuynh hướng giải
thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế Phật giáo dần dần thấy sút
kém trước ảnh hưởng của ngoại đạo. Để cứu văn t́nh thế và thích ứng thời cơ,
sau Phật diệt độ 700 năm, hai ngài Mă Minh, Long Thọ nối nhau xuất hiện, trứ
tác các bộ như: Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, Trí Độ
Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Trung Quán Luận, để phát huy ư nghĩa đại thừa
Phật giáo. Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề Bà, La Hầu La, Bạt Đà La, Vô
Trước, Thế Thân, cũng cực lực đề xướng đạo lư này.
Xét ra,
đứng về mặt bao quát, Đại thừa kiêm cả Tiểu thừa. Nhưng Đại thừa giáo sở sĩ
được biệt lập là để đối kháng với quan niệm bảo thủ và xu hướng tự giải thoát
của phần đông chư Tăng thời bấy giờ. Nhưng hoàn cảnh hoặc trào lưu tư tưởng chỉ
là nhân duyên phát khởi, mà thành quả lại do sự xướng lập của chư đại đức Mă
Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân. Cho nên người sau thường gọi các ngài là
những nhà cách mạng Phật giáo.
Vậy,
khởi nguyên của Đại thừa Phật giáo là bởi ba lư do trên. Quan niệm phân biệt,
khen chê giữa Đại thừa và Tiểu thừa sau này, thật ra cũng có. Nhưng sự đối lập
giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo, là một lẽ tất nhiên của thời đại, mà dù
muốn dù không, người ta vẫn không thể tránh.
Tiết
III: Những Điểm Sai Biệt Của Hai Phái
Đứng về
phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu thừa và Đại thừa có ba nguyên
nhân như trên. Nhưng về phương diện lập thuyết, th́ hai phái hoàn toàn khác
nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lư, hạnh, quả. Trong Trí Độ Luận, ngài Long Thọ
nói: "Phật pháp đồng một vị, đó là vị giải thoát. Trong vị giải thoát này
có hai thứ: một là chỉ v́ ḿnh, hai là v́ tất cả chúng sinh. Cho nên, tuy đồng
cầu giải thoát, mà có sự lợi ḿnh và ḿnh người đều lợi khác nhau. V́ thế, mới
có sự sai biệt giữa Tiểu thừa, Đại thừa". Xem đây th́ biết, sự khu phân
của hai phái không phải chỉ thuộc trên nguyên nhân, mà c̣n trên phương diện chủ
thuyết. Căn cứ theo Nhập Đại Thừa Luận của ngài Kiên Ư, và xét qua chủ trương
lập thuyết đôi bên, ta có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa thành
tám điểm như sau:
1. Tâm
lượng: Hàng Tiểu thừa tâm lượng hẹp ḥi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ năo
trong đường sinh tử. Họ chỉ biết độ cho ḿnh hơn là độ cho kẻ khác. Hàng Đại
thừa tâm lượng rộng răi, quyết đạt đến lư tưởng tự lợi lợi tha. Hơn nữa, họ c̣n
lấy việc lợi tha làm chủ đích.
2. Căn
cơ: Tiểu thừa là hàng căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như Tứ
đế, Thập nhị nhân duyên. Đại thừa là hạng có thắng giải đại tánh, không thích
tiểu pháp mà ưa thọ tŕ những đại pháp như: Ngă pháp câu không, Duyên khởi như
huyễn.
3. Nhân
sinh quan: Tiểu thừa khuynh hướng về nhân sinh quan vô thường, nhiều khổ năo.
V́ vậy, họ chủ trương phá tan tiểu ngă, mong sớm chứng vào thể tánh vắng lặng,
và lấy đó làm chỗ giải thoát an vui. Đại thừa cũng bắt đầu từ quan niệm ấy,
nhưng lại hiểu rằng các pháp như huyễn, chúng sinh chính là tự tánh của ḿnh.
Cho nên lập thuyết của họ là phá chấp trên ngă, pháp, để khuyếch trương đại
ngă, không cần phải ĺa đời xa lánh chúng sinh, mà vẫn được giải thoát tự tại.
4. Vũ
trụ quan: Tiểu thừa đối với vạn hữu th́ cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận
sinh diệt, yếu tố để giải thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu
thừa cũng chỉ trong ṿng tam thiên đại thiên thế giới, cho nên họ không tin có
tha phương Tịnh độ. Đại thừa th́ ngoài hiện tượng sai biệt, c̣n thuyết minh
chân như b́nh đẳng không sinh diệt để đạt đến bản thể luận. Yếu tố để giải
thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận rằng, ngoài thế giới này c̣n
có vô số uế độ và tịnh độ như vi trần. Tất cả đều là thể Như huyễn tự tánh
thanh tịnh tánh.
5. Quan
niệm Tam bảo: Về Phật bảo, hàng Tiểu thừa chỉ chấp nhận đức Thích Ca Mâu Ni và
chư Phật của cơi Ta Bà, không tin có các đấng Như Lai ở tha phương thế giới. Về
Pháp bảo, họ duy tính thuận những kinh Tiểu thừa như A Hàm, Pháp Cú..., không
tin nhận những kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Về Tăng bảo, họ chỉ hiểu
biết các bậc A la hán như Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên...., không chấp nhận các
bậc Bồ tát tha phương như: Phổ Hiền, Dược Vương, Nguyệt Quang, Thế Chí. Trái
lại, Đại thừa tin nhận cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi Tam bảo ở cơi này cùng
mười phương.
6. Tư
lương tánh: Trên phương diện tu hành, hàng Tiểu thừa thiên về huệ, y theo Tứ
đế, Thập nhị nhân duyên, Tam thập thất đạo phẩm, mục đích để phá trừ ngă chấp,
chứng quả nhân không. C̣n hàng Đại thừa th́ y theo lục độ vạn hạnh gồm tu phước
huệ, phá cả ngă chấp lẫn pháp chấp, chứng quả nhị không.
7. Thời
gian tánh: Về Tiểu thừa, hàng Thanh văn phải từ ba đời đến 60 kiếp mới chứng
quả A la hán; c̣n hàng Duyên giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới chứng quả
Bích Chi Phật. C̣n bên Đại thừa phải dùng ba A tăng kỳ kiếp để tu sáu độ và 100
kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.
8. Quả
chứng: Giải thoát của Tiểu thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ năo ở
hiện tại mà thể nhập vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là
cầu lấy quả A La Hán hoặc Bích Chi Phật. Giải thoát của Đại thừa là tích cực.
Họ hiểu rằng phiền năo vốn không và trong chúng ta có đủ đức tướng, trí huệ của
Như Lai cùng vô lượng công đức. V́ thế họ lấy địa vị Phật đà làm lư tưởng chung
cuộc. Về chúng sinh, Đại thừa quyết độ tất cả đều thành Phật. Về thế giới, họ
quyết biến cơi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm. Cho nên mục đích của
Đại thừa gồm trong câu: "Trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh".
Tiết
IV: Dung Hội Các Thừa
Theo
Nguyên thủy Phật giáo, quả niết bàn giải thoát của hàng Thanh văn đồng với
Phật, nhưng bậc Thanh văn phước trí chưa được đầy đủ bằng đức Thế Tôn. Theo Đại
thừa Phật giáo, quả vô thượng bồ đề của Như Lai, duy những vị tu theo Bồ tát
thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách quan để khảo cứu kinh điển của hai phái,
ta có thể chia lối thuyết pháp của Phật ra ba thời kỳ:
Thời kỳ
thứ nhất, đức Thế Tôn v́ muốn cho hàng đệ tử ĺa khỏi nỗi khổ thân tâm hiện
tại, hưởng sự an vui tịch tịnh, nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải thoát.
Như đức Phật dạy: "Thế này là Khổ, thế này là Tập, thế này là Diệt, thế
này là Đạo. Như Lai đă tu tập theo đường lối ấy, các ông nên thực hành theo.
Như Lai đă đắc quả giải thoát theo đường lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng
nhập...Hiện nay sự sống chết của ta đă dứt, phạm hạnh đă thành lập, việc làm
cũng đă xong, không c̣n thọ thân đời sau nữa...". Xuyên qua mấy lời này,
đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng đệ tử trong buổi đầu biểu dương bằng câu:
"Hành đồng đạo, đắc đồng quả".
Qua thời
kỳ thứ hai, đức Thế Tôn dần dần nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong đoạn
ngài Văn Thù tŕnh bày kiến giải với Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát Nhă ba la
mật là không rời bỏ pháp phàm phu, không cầu lấy pháp hiền thánh. Tại sao thế?
V́ người thực hành môn này, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng không thấy
có Niết bàn đáng ưa, sinh tử đáng chán. Bởi Niết bàn cùng sinh tử, hành giả c̣n
không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư? Đức Phật bảo: "Đúng như thế! Này
Văn Thù! Đó là sở hành của các bậc Bồ tát ma ha tát. Cho đến hàng Thanh văn,
Duyên giác, nói chung là bậc hữu học, vô học, đều không nên rời pháp ấn này mà
tu đạo quả". Đoạn kinh văn trên đây, chứng minh đức Thế Tôn khuyến dụ hàng
Thanh văn đi vào thâm pháp. Ngài c̣n bảo chính ḿnh đă trải qua vô lượng kiếp,
tu những nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba mươi tướng tốt,
tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng của quả vô thượng
bồ đề.
Đến thời
kỳ thứ ba, đức Thế Tôn dung ḥa ba thừa. Đại ư Ngài nói: "Những vị nghe tu
theo pháp Tứ đế, chứng được đạo quả, gọi là Thanh văn thừa. Hạng căn cơ lanh
lợi hơn, tự phát minh hoặc do ngôn giáo của Như Lai mà tỏ ngộ Thập nhị nhân
duyên, gọi là Bồ tát thừa. Nhưng hàng Thanh văn, Duyên giác có thể hướng thượng
và thành Phật; hai thừa này chỉ là những nấc thang để bước lên Bồ tát thừa mà
thôi". Tóm lại, ba thừa chỉ là một, đức Như Lai ra đời không ngoài mục
đích đưa chúng sinh đến quả Phật, và Ngài cũng chỉ dạy có đạo pháp Nhất thừa.
Danh từ Nhất thừa, trong kinh điển của hai phái, đức Phật cũng thường nhắc nhở
đến. Như kinh Tạp A Hàm nói: "Có Nhất thừa đạo hay khiến cho chúng sinh
được thanh tịnh, đưa họ vượt qua sự thương lo buồn khổ, vào pháp chân như. Đó
là Tứ niệm xứ..." Và đoạn:
Ta có pháp Nhất thừa
V́ chúng sinh các cơi
Diễn nói chánh pháp âm
An ủi chúng sinh khổ
Chư Phật đời quá khứ
Dùng pháp này độ sinh
Chư Phật đời vị lai
Cũng diễn Nhất thừa pháp
Chư Phật đời hiện tại
Nương đây độ ḍng mê
Đưa khỏi bờ sinh tử...
Kinh Pháp Hoa cũng nói:
V́ thế, Xá Lỵ Phất
Ta mới lập phương tiện
Nói các pháp diệt khổ
Chỉ bày nẻo Niết bàn
Nhưng cảnh Niết bàn này
Chưa phải chân diệt độ
Các pháp từ xưa nay
Tự hướng hằng vắng lặng
Phật tử đă hành đạo
Về sau sẽ thành Phật
Ta dùng sức phương tiện
Mở bày pháp tam thừa
Tất cả chư Thế Tôn
Đều nói Nhất thừa đạo
Nay trong đại chúng đây
Phải nên trừ nghi hoặc
Lời chư Phật không khác
Chỉ một, không hai thừa...
Pháp tối diệu bậc nhất
V́ các loại chúng sinh
Phân biệt nói ba thừa
Kẻ thấp ưa pháp nhỏ
Không tin ḿnh thành Phật
Nên ta dùng phương tiện
Chia ra các đạo quả
Tuy là nói ba thừa
Kỳ thật dạy Bồ tát...
Căn cứ mấy đoạn kinh trên, th́ từ trước đến sau, đức Phật
chỉ dạy có Nhất thừa pháp, chẳng qua v́ tùy tŕnh độ chúng sinh mà phương tiện
dẫn dụ thế thôi.
Tóm lại,
trong một đời giáo hóa, nói rộng ra, tuy đức Thế Tôn dạy bảo Nhân thừa, Thiên
thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, song không ngoài mục đích
để thành tựu Phật thừa, tức là Nhất thừa đạo. Đối với hạng chưa thể tu theo
đường giải thoát, Ngài khuyên dạy pháp Ngũ giới, Thập thiện, để cho họ trồng
căn lành, khỏi sa vào ác đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau. Với hạng có thể
bước lên nẻo Niết bàn, Ngài khai thị pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, để họ
thoát nỗi khổ luân hồi, hưởng sự vui tịch tịnh, rồi lần lượt dẫn dụ vào đại
pháp. Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ ngay Bồ tát đạo, khiến cho họ mau thành tựu
quả Phật. Đức từ bi, b́nh đẳng, trí huệ, phương tiện của Phật quả thật không
lường! Thế th́ dù Tiểu thừa hay Đại thừa, đều cùng là con của Phật, cùng sẽ về
một tiêu điểm, người phật tử chỉ nên tự xét và tự hướng lối đi của ḿnh đúng
như lời dạy của đức Thế Tôn, chớ không nên cố tâm chia rẽ.
(Nguồn
:Thư Viện Hoa Sen)
|