Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 223 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Tiểu Thừa Và Đại Thừa Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
anhhaoquang
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 14 June 2006
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 81
Msg 1 of 1: Đă gửi: 14 June 2006 lúc 1:56pm | Đă lưu IP Trích dẫn anhhaoquang


Tiểu Thừa Và Đại Thừa

(Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm)

Tiết Mục:

I. Ư nghĩa Tiểu thừa, Đại thừa 

II. Khởi nguyên phân biệt giữa hai phái 

III. Những điểm sai biệt của hai phái 

IV. Dung hội các thừa 

Kinh sách tham khảo: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Văn Thù Bát Nhă, Kinh Tạp A Hàm, Trí Độ Luận, Nhập Đại Thừa Luận, Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, Phật Giáo Khái Luận.

Đề yếu: Ư nghĩa Đại, Tiểu thừa và sự sai biệt giữa đôi bên, đă thường gây nhiều thắc mắc cho người sơ cơ học Phật. Để giải thích phần nào mối hoài nghi ấy, trong tiết thứ nhất thuộc bản chương đưa ra ba sự kiện: pháp môn, tế độ, quả vị, để lược bàn về quan điểm hơn kém của song phương. Hai tiết kế, tiếp tục nói qua nguyên nhân phân biệt và sự sai khác giữa Tiểu thừa Đại thừa, mà yếu tố chính không ngoài cảnh duyên và sự nhận thức của cá tính. A Hàm và đại ư phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa, chỉ rơ các thừa đều là những nấc thang phương tiện để đi đến Phật thừa, trong một đời thuyết giáo, đức Thế Tôn duy nói Nhất thừa pháp mà thôi.

Thể nhận nghĩa này, người học Phật sẽ tự giải thích được tâm niệm phân vân, chia rẽ.

Tiết I: Ư Nghĩa Tiểu Thừa, Đại Thừa

Khi đức Phật c̣n ở đời, v́ tùy tŕnh độ của mọi người, mà Ngài thuyết pháp có cạn sâu, cao thấp. Lại đôi khi, thính chúng tuy cùng nghe một giáo lư, nhưng sự lĩnh hội của mỗi người có thấp cao, rộng hẹp không đồng. Nhân đó, về sau mới nảy sinh ra sự phân biệt giữa Đại thừa (Mahàyàna) và Tiểu thừa (H́nayàna).

Đại thừa là ǵ? Một lời tổng quát, đó là "giáo pháp dạy tất cả hữu t́nh thành Phật". Đứng về phương diện phân tích, chữ "Thừa" là vận tải, vận độ, nghĩa là chuyên chở. Giáo lư của Phật dạy có đủ công năng, phương pháp, dắt đường chỉ lối, chuyên chở chúng sanh từ cơi trần lao phiền năo đến cảnh thanh tịnh an vui, từ biển sống chết luân hồi đến bến niết bàn giải thoát, nên gọi là "Thừa".

Trong danh từ Tiểu thừa, chữ "Tiểu" có những nghĩa: hẹp, nhỏ, thấp. Nghĩa "hẹp" của Tiểu thừa, là chỉ cho quan niệm của người tu duy lo tự độ, tự đưa ḿnh đến chỗ giải thoát, không đoái hoài đến bao nhiêu chúng sinh khác đang ở trong biển trầm luân. Có điều nên phân biệt, nếu người nào có hoài bảo tha thiết độ sanh, tuy dùng pháp Tiểu thừa để giáo hóa, song thật ra lại thuộc về tâm niệm Đại thừa. Và những kẻ tuy ở nơi non cao rừng thẳm, không tiếp xúc với đời, nhưng có bi nguyện tự độ để độ tha, cũng thuộc về tâm niệm Đại thừa. Nghĩa "nhỏ" của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp cạn cợt, chỉ thích hợp, hóa độ được một hạng người, không thích hợp, hóa độ được mọi tầng lớp chúng sinh. Điểm cạn cợt này, là sự chấp nhận trong phạm vi giáo pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Một điều nên nhận định, tiểu pháp không thể bao hàm đại pháp, nhưng trái lại đại pháp bao hàm tiểu pháp; v́ thế Tứ đế, Thập nhị nhân duyên cũng là một phương tiện trong sự độ sinh của Đại thừa. Nghĩa "thấp" của Tiểu thừa, là chỉ cho giáo pháp đưa người đến quả vị thấp của Thanh Văn, Duyên Giác, không đưa đến quả vị cao siêu cứu cánh của Phật đà. Giáo pháp này cũng chính là Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Tóm lại "Tiểu thừa" có ba ư nghĩa: "sự vận tải hẹp, nhỏ, thấp", như trên.

Phản ảnh lại, danh từ Đại thừa cũng có ba nghĩa: rộng, lớn và cao. "Rộng" là độ ḿnh và tất cả chúng sinh; "lớn" là đủ các pháp môn thích hợp với mọi căn cơ; "cao" là đưa loài hữu t́nh đến quả vị Vô thượng chánh giác. Cả hai danh từ Tiểu thừa, Đại thừa, nếu mỗi bên thiếu một trong ba ư nghĩa trên, th́ không thể thành lập.

Đại thừa, tiếng Phạn gọi là Ma ha Diễn Na (Mahàyàna). Đầu tiên, danh từ này không có tính cách để đối chọi với Tiểu thừa, đại ư của nó là chỉ cho những giáo lư cao thâm, những pháp môn rộng lớn có công năng độ khắp chúng sinh mà thôi. V́ thế, trong kinh Đại thừa vẫn có những danh từ thuộc Tiểu thừa, và trong kinh Tiểu thừa ta cũng thường thấy những danh từ thuộc Đại thừa. Khi đức Thế Tôn c̣n ở đời, giáo pháp của Ngài tuy hàm ẩn cả Đại, Tiểu thừa, nhưng trong giáo đoàn vẫn ḥa hợp tu hành, không có sự phân biệt lớn nhỏ, cao thấp. Khoảng thời gian 600 năm sau Phật diệt độ, tuy chư Tăng chia thành nhiều bộ phái, song cũng không có sự đối lập giữa Đại, Tiểu thừa. Trong các chi phái thuộc ba hệ thống Hữu Bộ, Đại Chúng và Độc Tử, có nhiều vị nghiên cứu kinh luận Đại thừa. Như ngài Chân Đế nói: "Giáo đồ của Đại Chúng Bộ ở thành Vương Xá cũng học hỏi truyền bá những kinh điển Đại thừa như Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Thắng Mang, Duy Ma, Kim Quang Minh, Bát Nhă..."

Nhưng từ 600 năm sau Phật diệt độ trở đi, do tư tưởng tiến triển của quần chúng, do hoàn cảnh, nhân duyên, sự phân biệt và đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo lâm vào t́nh trạng không thể tránh khỏi.

Tiết II: Khởi Nguyên Phân Biệt Giữa Hai Phái

Nhân duyên phân biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa, đại ước có ba điểm:

1. Do hoàn cảnh: Đại thừa Phật giáo bột hưng, một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Xét theo lịch sử, từ đời A Dục Vương về sau, quần chúng miền Bắc Ấn thường giao thiệp với dân tộc hai xứ Hy Lạp, Ba Tư. Những nhà học Phật ở Bắc Ấn lúc ấy càng ngày càng đông. Do sự tiếp xúc với ngoại nhân, họ dần dần chịu ảnh hưởng tư tưởng tôn giáo của hai xứ đó, nên có nhiều nhà học Phật chủ trương sùng bái cầu nguyện. Bởi nguyên nhân này, thuyết tha lực văng sanh đă sẵn có trong kinh điển Phật giáo được đề khởi lên. Thời bấy giờ, phong trào cầu văng sanh về cơi Đâu Suất của Di Lặc Bồ tát, cơi Cực Lạc của Phật A Di Đà, cơi Lưu Ly của Phật Dược Sư, cơi Diệu Hỷ của Phật A Súc Bệ rất thịnh hành. Trong đây chỉ có thuyết văng sanh Cực Lạc là được lưu thông hơn cả. Người ta gọi phong trào này là Chủ t́nh đại thừa giáo.

Mặt khác, sau Phật diệt độ 500 năm, các phái ngoại đạo dần dần phục hưng, lư thuyết của họ càng ngày càng được cải cách thêm đến mức siêu việt. Song song với phong trào đó, kho tàng Phật giáo cũng phải được khai thác triệt để, mới có thể đối phó với ngoại đạo và giải quyết đầy đủ mối nghi ngờ của học giả. V́ thế, Đại thừa Phật giáo phải ra đời để thích ứng với thời đại.

2. Do trào lưu tư tưởng: Khởi nguyên tư tưởng Đại thừa Phật giáo lẽ dĩ nhiên đă có từ khi đức Như Lai c̣n tại thế. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ 100 năm, giáo đoàn đạo Phật chia thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, rồi dần dần phát sinh ra các chi phái. Giáo nghĩa của các bộ phái đó phần nhiều bao hàm cả đạo lư Đại thừa. Tư tưởng của học giả cũng biến thiên theo trào lưu, từ đời A Dục đến đời Ca Nị Sắc Ca, quan niệm Đại thừa giáo càng ngày càng phát hiện thêm rơ rệt.

Trên phương diện địa lư, tư tưởng này bắt nguồn từ xứ An Đạt La thuộc Nam Ấn Độ. Giáo nghĩa nẩy nở đầu tiên là Ma Ha Bát Nhă, phát xuất từ Đại Chúng Bộ. Trong kinh Bát Nhă có đoạn Phật dự kư: "Sau khi Như Lai niết bàn, kinh này được truyền về phương Nam, rồi từ đó lưu chuyển đến phương Tây và lên phương Bắc". Lời dự kư này đă chứng minh cho Đại thừa Bát Nhă xuất phát từ phương Nam. Đại thừa Phật giáo ở Bắc Ấn Độ phát nguyên từ địa phương nào, sự kê khảo chưa được chính xác. Nhưng theo ngài Huyền Trang th́ tại xứ Câu Tát La (Kosala), kinh điển Đại thừa rất nhiều, Phật pháp ở đây cực thịnh và được truyền bá đi các nơi khác. Hoặc giả địa phương này là chỗ phát nguyện của Đại thừa Phật giáo miền Bắc Ấn chăng?

3. Do các học giả phát khởi: Sau khi Phật diệt độ, một mặt do trào lưu tư tưởng dần dần biến thiên, nên sự đ̣i hỏi thích ứng với quan niệm quần chúng càng ngày càng thêm cần thiết. Mặt khác, giáo nghĩa của ngoại đạo cũng dần dần được cải tiến, họ biết rút lấy cái hay của các phái khác trong ấy có cả đạo Phật, để bổ khuyết thêm cho học thuyết của ḿnh. V́ thế, lập luận của họ càng ngày thêm vững vàng, trong đó các phái Thắng luận, Số luận, Phệ đàn đà luôn luôn bài xích Phật giáo. Giữa lúc ấy, phần đông chư Tăng lại thiên về khuynh hướng giải thoát, bảo thủ lấy truyền thống xưa, nên thanh thế Phật giáo dần dần thấy sút kém trước ảnh hưởng của ngoại đạo. Để cứu văn t́nh thế và thích ứng thời cơ, sau Phật diệt độ 700 năm, hai ngài Mă Minh, Long Thọ nối nhau xuất hiện, trứ tác các bộ như: Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Trang Nghiêm Luận Kinh, Trí Độ Luận, Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, Trung Quán Luận, để phát huy ư nghĩa đại thừa Phật giáo. Kế tiếp sau hai ngài, có các vị như Đề Bà, La Hầu La, Bạt Đà La, Vô Trước, Thế Thân, cũng cực lực đề xướng đạo lư này.

Xét ra, đứng về mặt bao quát, Đại thừa kiêm cả Tiểu thừa. Nhưng Đại thừa giáo sở sĩ được biệt lập là để đối kháng với quan niệm bảo thủ và xu hướng tự giải thoát của phần đông chư Tăng thời bấy giờ. Nhưng hoàn cảnh hoặc trào lưu tư tưởng chỉ là nhân duyên phát khởi, mà thành quả lại do sự xướng lập của chư đại đức Mă Minh, Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân. Cho nên người sau thường gọi các ngài là những nhà cách mạng Phật giáo.

Vậy, khởi nguyên của Đại thừa Phật giáo là bởi ba lư do trên. Quan niệm phân biệt, khen chê giữa Đại thừa và Tiểu thừa sau này, thật ra cũng có. Nhưng sự đối lập giữa hai tập đoàn lớn trong Phật giáo, là một lẽ tất nhiên của thời đại, mà dù muốn dù không, người ta vẫn không thể tránh.

Tiết III: Những Điểm Sai Biệt Của Hai Phái

Đứng về phương diện lịch sử mà nói, sự đối lập giữa Tiểu thừa và Đại thừa có ba nguyên nhân như trên. Nhưng về phương diện lập thuyết, th́ hai phái hoàn toàn khác nhau từ chỗ phát tâm đến giáo, lư, hạnh, quả. Trong Trí Độ Luận, ngài Long Thọ nói: "Phật pháp đồng một vị, đó là vị giải thoát. Trong vị giải thoát này có hai thứ: một là chỉ v́ ḿnh, hai là v́ tất cả chúng sinh. Cho nên, tuy đồng cầu giải thoát, mà có sự lợi ḿnh và ḿnh người đều lợi khác nhau. V́ thế, mới có sự sai biệt giữa Tiểu thừa, Đại thừa". Xem đây th́ biết, sự khu phân của hai phái không phải chỉ thuộc trên nguyên nhân, mà c̣n trên phương diện chủ thuyết. Căn cứ theo Nhập Đại Thừa Luận của ngài Kiên Ư, và xét qua chủ trương lập thuyết đôi bên, ta có thể chia sự sai biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa thành tám điểm như sau:

1. Tâm lượng: Hàng Tiểu thừa tâm lượng hẹp ḥi, gấp cầu giải thoát mọi sự khổ năo trong đường sinh tử. Họ chỉ biết độ cho ḿnh hơn là độ cho kẻ khác. Hàng Đại thừa tâm lượng rộng răi, quyết đạt đến lư tưởng tự lợi lợi tha. Hơn nữa, họ c̣n lấy việc lợi tha làm chủ đích.

2. Căn cơ: Tiểu thừa là hàng căn tánh tối chậm, chỉ tin hiểu những tiểu pháp như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên. Đại thừa là hạng có thắng giải đại tánh, không thích tiểu pháp mà ưa thọ tŕ những đại pháp như: Ngă pháp câu không, Duyên khởi như huyễn.

3. Nhân sinh quan: Tiểu thừa khuynh hướng về nhân sinh quan vô thường, nhiều khổ năo. V́ vậy, họ chủ trương phá tan tiểu ngă, mong sớm chứng vào thể tánh vắng lặng, và lấy đó làm chỗ giải thoát an vui. Đại thừa cũng bắt đầu từ quan niệm ấy, nhưng lại hiểu rằng các pháp như huyễn, chúng sinh chính là tự tánh của ḿnh. Cho nên lập thuyết của họ là phá chấp trên ngă, pháp, để khuyếch trương đại ngă, không cần phải ĺa đời xa lánh chúng sinh, mà vẫn được giải thoát tự tại.

4. Vũ trụ quan: Tiểu thừa đối với vạn hữu th́ cuộc hạn trong phạm vi hiện tượng luận sinh diệt, yếu tố để giải thích của họ duy có 75 pháp. Sự chứng biết của Tiểu thừa cũng chỉ trong ṿng tam thiên đại thiên thế giới, cho nên họ không tin có tha phương Tịnh độ. Đại thừa th́ ngoài hiện tượng sai biệt, c̣n thuyết minh chân như b́nh đẳng không sinh diệt để đạt đến bản thể luận. Yếu tố để giải thoát vạn hữu của họ gồm có 100 pháp. Họ tin nhận rằng, ngoài thế giới này c̣n có vô số uế độ và tịnh độ như vi trần. Tất cả đều là thể Như huyễn tự tánh thanh tịnh tánh.

5. Quan niệm Tam bảo: Về Phật bảo, hàng Tiểu thừa chỉ chấp nhận đức Thích Ca Mâu Ni và chư Phật của cơi Ta Bà, không tin có các đấng Như Lai ở tha phương thế giới. Về Pháp bảo, họ duy tính thuận những kinh Tiểu thừa như A Hàm, Pháp Cú..., không tin nhận những kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa. Về Tăng bảo, họ chỉ hiểu biết các bậc A la hán như Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên...., không chấp nhận các bậc Bồ tát tha phương như: Phổ Hiền, Dược Vương, Nguyệt Quang, Thế Chí. Trái lại, Đại thừa tin nhận cả tiểu pháp lẫn đại pháp và ngôi Tam bảo ở cơi này cùng mười phương.

6. Tư lương tánh: Trên phương diện tu hành, hàng Tiểu thừa thiên về huệ, y theo Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Tam thập thất đạo phẩm, mục đích để phá trừ ngă chấp, chứng quả nhân không. C̣n hàng Đại thừa th́ y theo lục độ vạn hạnh gồm tu phước huệ, phá cả ngă chấp lẫn pháp chấp, chứng quả nhị không.

7. Thời gian tánh: Về Tiểu thừa, hàng Thanh văn phải từ ba đời đến 60 kiếp mới chứng quả A la hán; c̣n hàng Duyên giác phải tu từ bốn đời đến 100 kiếp mới chứng quả Bích Chi Phật. C̣n bên Đại thừa phải dùng ba A tăng kỳ kiếp để tu sáu độ và 100 kiếp để tu nhân tướng tốt, mới chứng quả Phật.

8. Quả chứng: Giải thoát của Tiểu thừa là tiêu cực. Họ muốn lánh khỏi mọi sự khổ năo ở hiện tại mà thể nhập vào cảnh không tịch. Cho nên mục đích chung cuộc của họ là cầu lấy quả A La Hán hoặc Bích Chi Phật. Giải thoát của Đại thừa là tích cực. Họ hiểu rằng phiền năo vốn không và trong chúng ta có đủ đức tướng, trí huệ của Như Lai cùng vô lượng công đức. V́ thế họ lấy địa vị Phật đà làm lư tưởng chung cuộc. Về chúng sinh, Đại thừa quyết độ tất cả đều thành Phật. Về thế giới, họ quyết biến cơi uế ác thành cảnh thiện mỹ, trang nghiêm. Cho nên mục đích của Đại thừa gồm trong câu: "Trang nghiêm Phật độ, thành tựu chúng sinh".

Tiết IV: Dung Hội Các Thừa

Theo Nguyên thủy Phật giáo, quả niết bàn giải thoát của hàng Thanh văn đồng với Phật, nhưng bậc Thanh văn phước trí chưa được đầy đủ bằng đức Thế Tôn. Theo Đại thừa Phật giáo, quả vô thượng bồ đề của Như Lai, duy những vị tu theo Bồ tát thừa mới chứng được. Đứng về mặt khách quan để khảo cứu kinh điển của hai phái, ta có thể chia lối thuyết pháp của Phật ra ba thời kỳ:

Thời kỳ thứ nhất, đức Thế Tôn v́ muốn cho hàng đệ tử ĺa khỏi nỗi khổ thân tâm hiện tại, hưởng sự an vui tịch tịnh, nên Ngài chỉ ngay những phương tiện giải thoát. Như đức Phật dạy: "Thế này là Khổ, thế này là Tập, thế này là Diệt, thế này là Đạo. Như Lai đă tu tập theo đường lối ấy, các ông nên thực hành theo. Như Lai đă đắc quả giải thoát theo đường lối ấy, các ông nên cố gắng để chứng nhập...Hiện nay sự sống chết của ta đă dứt, phạm hạnh đă thành lập, việc làm cũng đă xong, không c̣n thọ thân đời sau nữa...". Xuyên qua mấy lời này, đạt đáo điểm của Phật cùng với hàng đệ tử trong buổi đầu biểu dương bằng câu: "Hành đồng đạo, đắc đồng quả".

Qua thời kỳ thứ hai, đức Thế Tôn dần dần nói những đạo pháp cao rộng hơn. Như trong đoạn ngài Văn Thù tŕnh bày kiến giải với Phật: Bạch đức Thế Tôn! Tu Bát Nhă ba la mật là không rời bỏ pháp phàm phu, không cầu lấy pháp hiền thánh. Tại sao thế? V́ người thực hành môn này, không thấy có pháp để lấy hoặc bỏ, cũng không thấy có Niết bàn đáng ưa, sinh tử đáng chán. Bởi Niết bàn cùng sinh tử, hành giả c̣n không thấy có, huống nữa là sự ưa chán ư? Đức Phật bảo: "Đúng như thế! Này Văn Thù! Đó là sở hành của các bậc Bồ tát ma ha tát. Cho đến hàng Thanh văn, Duyên giác, nói chung là bậc hữu học, vô học, đều không nên rời pháp ấn này mà tu đạo quả". Đoạn kinh văn trên đây, chứng minh đức Thế Tôn khuyến dụ hàng Thanh văn đi vào thâm pháp. Ngài c̣n bảo chính ḿnh đă trải qua vô lượng kiếp, tu những nhân hạnh tự lợi lợi tha rộng lớn, mới thành tựu ba mươi tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng của quả vô thượng bồ đề.

Đến thời kỳ thứ ba, đức Thế Tôn dung ḥa ba thừa. Đại ư Ngài nói: "Những vị nghe tu theo pháp Tứ đế, chứng được đạo quả, gọi là Thanh văn thừa. Hạng căn cơ lanh lợi hơn, tự phát minh hoặc do ngôn giáo của Như Lai mà tỏ ngộ Thập nhị nhân duyên, gọi là Bồ tát thừa. Nhưng hàng Thanh văn, Duyên giác có thể hướng thượng và thành Phật; hai thừa này chỉ là những nấc thang để bước lên Bồ tát thừa mà thôi". Tóm lại, ba thừa chỉ là một, đức Như Lai ra đời không ngoài mục đích đưa chúng sinh đến quả Phật, và Ngài cũng chỉ dạy có đạo pháp Nhất thừa. Danh từ Nhất thừa, trong kinh điển của hai phái, đức Phật cũng thường nhắc nhở đến. Như kinh Tạp A Hàm nói: "Có Nhất thừa đạo hay khiến cho chúng sinh được thanh tịnh, đưa họ vượt qua sự thương lo buồn khổ, vào pháp chân như. Đó là Tứ niệm xứ..." Và đoạn:

Ta có pháp Nhất thừa 

V́ chúng sinh các cơi 

Diễn nói chánh pháp âm 

An ủi chúng sinh khổ 

Chư Phật đời quá khứ 

Dùng pháp này độ sinh 

Chư Phật đời vị lai 

Cũng diễn Nhất thừa pháp 

Chư Phật đời hiện tại 

Nương đây độ ḍng mê 

Đưa khỏi bờ sinh tử... 

Kinh Pháp Hoa cũng nói: 

V́ thế, Xá Lỵ Phất 

Ta mới lập phương tiện 

Nói các pháp diệt khổ 

Chỉ bày nẻo Niết bàn 

Nhưng cảnh Niết bàn này 

Chưa phải chân diệt độ 

Các pháp từ xưa nay 

Tự hướng hằng vắng lặng 

Phật tử đă hành đạo 

Về sau sẽ thành Phật 

Ta dùng sức phương tiện 

Mở bày pháp tam thừa 

Tất cả chư Thế Tôn 

Đều nói Nhất thừa đạo 

Nay trong đại chúng đây 

Phải nên trừ nghi hoặc 

Lời chư Phật không khác 

Chỉ một, không hai thừa... 

Pháp tối diệu bậc nhất 

V́ các loại chúng sinh 

Phân biệt nói ba thừa 

Kẻ thấp ưa pháp nhỏ 

Không tin ḿnh thành Phật 

Nên ta dùng phương tiện 

Chia ra các đạo quả 

Tuy là nói ba thừa 

Kỳ thật dạy Bồ tát... 

Căn cứ mấy đoạn kinh trên, th́ từ trước đến sau, đức Phật chỉ dạy có Nhất thừa pháp, chẳng qua v́ tùy tŕnh độ chúng sinh mà phương tiện dẫn dụ thế thôi.

Tóm lại, trong một đời giáo hóa, nói rộng ra, tuy đức Thế Tôn dạy bảo Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa, song không ngoài mục đích để thành tựu Phật thừa, tức là Nhất thừa đạo. Đối với hạng chưa thể tu theo đường giải thoát, Ngài khuyên dạy pháp Ngũ giới, Thập thiện, để cho họ trồng căn lành, khỏi sa vào ác đạo, gây nhân duyên đắc độ về sau. Với hạng có thể bước lên nẻo Niết bàn, Ngài khai thị pháp Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, để họ thoát nỗi khổ luân hồi, hưởng sự vui tịch tịnh, rồi lần lượt dẫn dụ vào đại pháp. Với hạng đại căn cơ, Ngài chỉ ngay Bồ tát đạo, khiến cho họ mau thành tựu quả Phật. Đức từ bi, b́nh đẳng, trí huệ, phương tiện của Phật quả thật không lường! Thế th́ dù Tiểu thừa hay Đại thừa, đều cùng là con của Phật, cùng sẽ về một tiêu điểm, người phật tử chỉ nên tự xét và tự hướng lối đi của ḿnh đúng như lời dạy của đức Thế Tôn, chớ không nên cố tâm chia rẽ.

                                                       (Nguồn :Thư Viện Hoa Sen)

 

Quay trở về đầu Xem anhhaoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi anhhaoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 2.9727 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO