Tác giả |
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 1 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 6:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đến vùng đất Phật - Kỳ 1: Theo "dấu chân" Đường Tăng
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Nơi này cách đây 2.600 năm đă sản sinh ra một nhà hiền triết vĩ đại, đó là Phật Thích Ca Mâu Ni. Những bài giảng của ông được học tṛ ghi chép lại thành một triết thuyết mà đến nay đang ảnh hưởng đến hơn 600 triệu người trên thế giới. Những vết tích ông để lại trên vùng đất phía bắc Ấn Độ trở thành vùng đất Phật thu hút hàng triệu người trên khắp thế giới cho đến ngày nay. Tôi có cái duyên được đến vùng đất Phật linh thiêng kỳ bí này.
Đường đến đất Phật hiện nay so với những năm về trước tuy đă trở nên dễ dàng hơn nhưng vẫn c̣n không ít trở ngại. Tôi phải mất đúng 2 ngày để đi từ TP.HCM đến vùng đất linh thiêng đó. Ấy là tôi đi theo đoàn du khách của Công ty lữ hành East Sea - công ty uy tín nhất trong việc thực hiện tour đến vùng đất Phật - được hướng dẫn kỹ lưỡng đường đi nước bước cũng như lo cho chỗ ăn ở và phương tiện đi lại.
Từ TP.HCM bay qua Malaysia, rồi từ đó đáp máy bay của hăng Malaysia Airlines qua New Delhi, rồi đáp tàu hỏa đến Lucknow thủ phủ bang Uttar Pradesh và đi tiếp ô tô đến kinh thành Xá Vệ (Sravasti). Đó là điểm đến đầu tiên ở vùng đất Phật.
Tại kinh thành Xá Vệ tôi đă gặp ngay "dấu chân" của ngài Huyền Trang, người cách đây gần 1.500 năm đă từ kinh đô nhà Đường, bằng đường bộ ṛng ră trong 6 năm, vượt qua dăy Himalaya để đặt chân đến vùng đất linh thiêng này.
Kinh thành Xá Vệ vang bóng cách đây 2.600 năm nay chỉ là vùng đất hoang vắng nghèo nàn. Tuy vậy, nơi đây c̣n lại 3 Phật tích quan trọng: Kỳ Viên Tịnh Xá, nhà của Cấp Cô Độc và Vô Năo là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca.
Theo Phật sử, Cấp Cô Độc là đại gia giàu có hàng đầu của kinh thành Xá Vệ. Khi Phật Thích Ca về đây thuyết giảng, ông đă bỏ đạo Bà La Môn theo làm đệ tử của Phật và quyết định t́m mua một khu vườn đẹp nhất làm nơi thuyết giảng và trú ngụ cho đức Phật. Nơi ông vừa ư nhất lại là khu vườn của Thái tử Kỳ Đà con của nhà vua đương thời. V́ không muốn bán khu vườn nên thái tử nói đùa: hăy sắp kín vàng lên khu vườn th́ nó thuộc về nhà ngươi. Sáng hôm sau thức dậy ra vườn thái tử giật ḿnh kinh ngạc khi thấy màu vàng sáng rực lên từ khu vườn. Từ đó, nơi ấy trở thành Kỳ Viên tịnh xá là nơi Phật Thích Ca lưu trú thiền định và thuyết giảng suốt trong 24 năm trời.
Kỳ Viên tịnh xá rộng chừng 2 mẫu. Nơi ấy hiện nay c̣n nền bằng gạch của hương xá là nơi Phật trú ngụ. Chung quanh hương xá là nền các tịnh thất của các ngài Anan, Cadiếp, Cấp Cô Độc, Vô Năo, Mục Kiền Liên... là những đại đệ tử của Phật. Trong Kỳ Viên tịnh xá có một cội bồ đề to lớn xum xuê mà khi đến đây tôi thấy vô số những đoàn phật tử hành hương từ các nước Nhật, Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, Tây Tạng... đến quỳ lạy, ngồi thiền và dán vào gốc cây vô số những mảnh vàng. Tương truyền rằng gốc cây bồ đề này do ngài Anan chiết từ cây bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, là nơi Phật Thích Ca ngồi nhập định 49 ngày để thành chánh quả, về trồng nơi đây. Cội bồ đề ấy trở thành linh thiêng và cuốn hút hàng vạn phật tử trên khắp thế giới về hằng năm là v́ Phật Thích Ca trong thời gian ở đây vẫn thường hay ngồi nhập định.
Nhà sư VN đang nghiên cứu di tích Đại học Nalanda
Các nhà sư đến từ khắp thế giới làm lễ tại Hương thất của Phật Thích Ca tại Kỳ Viên Tịnh Xá
Ấn Độ là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Nơi này cách đây 2.600 năm đă sản sinh ra một nhà hiền triết vĩ đại, đó là Phật Thích Ca Mâu Ni. Những bài giảng của ông được học tṛ ghi chép lại thành một triết thuyết mà đến nay đang ảnh hưởng đến hơn 600 triệu người trên thế giới. Những vết tích ông để lại trên vùng đất phía bắc Ấn Độ trở thành vùng đất Phật thu hút hàng triệu người trên khắp thế giới cho đến ngày nay. Tôi có cái duyên được đến vùng đất Phật linh thiêng kỳ bí này.
Đường đến đất Phật hiện nay so với những năm về trước tuy đă trở nên dễ dàng hơn nhưng vẫn c̣n không ít trở ngại. Tôi phải mất đúng 2 ngày để đi từ TP.HCM đến vùng đất linh thiêng đó. Ấy là tôi đi theo đoàn du khách của Công ty lữ hành East Sea - công ty uy tín nhất trong việc thực hiện tour đến vùng đất Phật - được hướng dẫn kỹ lưỡng đường đi nước bước cũng như lo cho chỗ ăn ở và phương tiện đi lại.
Từ TP.HCM bay qua Malaysia, rồi từ đó đáp máy bay của hăng Malaysia Airlines qua New Delhi, rồi đáp tàu hỏa đến Lucknow thủ phủ bang Uttar Pradesh và đi tiếp ô tô đến kinh thành Xá Vệ (Sravasti). Đó là điểm đến đầu tiên ở vùng đất Phật.
Tại kinh thành Xá Vệ tôi đă gặp ngay "dấu chân" của ngài Huyền Trang, người cách đây gần 1.500 năm đă từ kinh đô nhà Đường, bằng đường bộ ṛng ră trong 6 năm, vượt qua dăy Himalaya để đặt chân đến vùng đất linh thiêng này.
Kinh thành Xá Vệ vang bóng cách đây 2.600 năm nay chỉ là vùng đất hoang vắng nghèo nàn. Tuy vậy, nơi đây c̣n lại 3 Phật tích quan trọng: Kỳ Viên Tịnh Xá, nhà của Cấp Cô Độc và Vô Năo là hai đại đệ tử của Phật Thích Ca.
Theo Phật sử, Cấp Cô Độc là đại gia giàu có hàng đầu của kinh thành Xá Vệ. Khi Phật Thích Ca về đây thuyết giảng, ông đă bỏ đạo Bà La Môn theo làm đệ tử của Phật và quyết định t́m mua một khu vườn đẹp nhất làm nơi thuyết giảng và trú ngụ cho đức Phật. Nơi ông vừa ư nhất lại là khu vườn của Thái tử Kỳ Đà con của nhà vua đương thời. V́ không muốn bán khu vườn nên thái tử nói đùa: hăy sắp kín vàng lên khu vườn th́ nó thuộc về nhà ngươi. Sáng hôm sau thức dậy ra vườn thái tử giật ḿnh kinh ngạc khi thấy màu vàng sáng rực lên từ khu vườn. Từ đó, nơi ấy trở thành Kỳ Viên tịnh xá là nơi Phật Thích Ca lưu trú thiền định và thuyết giảng suốt trong 24 năm trời.
Kỳ Viên tịnh xá rộng chừng 2 mẫu. Nơi ấy hiện nay c̣n nền bằng gạch của hương xá là nơi Phật trú ngụ. Chung quanh hương xá là nền các tịnh thất của các ngài Anan, Cadiếp, Cấp Cô Độc, Vô Năo, Mục Kiền Liên... là những đại đệ tử của Phật. Trong Kỳ Viên tịnh xá có một cội bồ đề to lớn xum xuê mà khi đến đây tôi thấy vô số những đoàn phật tử hành hương từ các nước Nhật, Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Bangladesh, Tây Tạng... đến quỳ lạy, ngồi thiền và dán vào gốc cây vô số những mảnh vàng. Tương truyền rằng gốc cây bồ đề này do ngài Anan chiết từ cây bồ đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, là nơi Phật Thích Ca ngồi nhập định 49 ngày để thành chánh quả, về trồng nơi đây. Cội bồ đề ấy trở thành linh thiêng và cuốn hút hàng vạn phật tử trên khắp thế giới về hằng năm là v́ Phật Thích Ca trong thời gian ở đây vẫn thường hay ngồi nhập định.
Cách không xa Kỳ Viên tịnh xá là nhà của Cấp Cô Độc và Vô Năo. Cấp Cô Độc trước khi trở thành đệ tử của Phật là một triệu phú do vậy nhà của ông to lớn nguy nga như một lâu đài. Lâu đài đó trải qua 2.600 năm với bao tàn phá của thời gian và con người, ngày nay vẫn c̣n lại khu nền móng bằng gạch tương đối nguyên vẹn với đặc trưng kiến trúc Ấn Độ cổ đại.
Nền nhà c̣n lại của Vô Năo gần đó cũng không kém phần to lớn. Vô Năo là tu sĩ của một giáo phái lạ thường, tin rằng khi giết đủ 100 người rồi chặt đủ 100 ngón tay đeo lên cổ th́ sẽ đắc đạo. Khi gặp Phật Thích Ca ông chỉ c̣n thiếu 1 ngón cuối cùng và ông muốn giết mẹ ông để lấy ngón tay đó. Phật đă cảm hóa được ông và ông đă quay đầu thấy bến bỏ dao giết người để trở thành đệ tử của Phật.
Cách đây gần 1.500 năm - năm 625 sau công nguyên - ngài Huyền Trang sang tận đây nghiên cứu, tham quan và thỉnh kinh. Những ǵ ông t́m ṭi và nghe thấy được ghi chép lại trong cuốn Đại Đường Tây Quốc Kư nổi tiếng của ông. Trước đó gần 100 năm cũng có một nhà sư Trung Quốc khác sang đây, đó là sư Pháp Hiển. Cũng như ngài Huyền Trang, ông cũng t́m ṭi nghiên cứu và để lại dấu vết của ḿnh khắp các nơi mà đức Phật từng đi qua. Đó là nơi Phật ra đời: vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Phật tu thành đạo: Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Phật thuyết pháp đầu tiên: Bà La Nại, nơi Phật tịch diệt: Câu Thi Na...
Do vậy mà đến nhiều Phật tích tôi đều thấy có bảng ghi nhận sự hiện diện của hai nhà sư này, đặc biệt tại Nalanda, Trường đại học Phật giáo đầu tiên trên thế giới ra đời cách đây trên 1.500 năm. Trường giảng dạy không chỉ kinh Phật mà c̣n có các môn: Thiên văn, Thần học, Luận lư, Y học... Theo tài liệu để lại, Trường đại học Nalanda được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 sau công nguyên. Trường có khoảng 2.000 giáo sư và 10.000 sinh viên, trong đó không chỉ của Ấn Độ mà c̣n nhiều nơi khác đến. Có 13 học viên của Trung Quốc và Triều Tiên đă từng học ở trường này, trong đó có hai thầy Pháp Hiển và Huyền Trang. Hai vị sư nổi tiếng ấy đă đến đây nghiên cứu, học tập và được ở lại giảng dạy một thời gian dài. Khi học và dạy ở đây thầy Huyền Trang có tên Ấn Độ là Mokshadeva. Những ghi chép của thầy về nơi này trong cuốn Đại Đường Tây Quốc Kư là một trong những sử liệu quan trọng về Đại học Nalanda đồng thời là xác nhận quan trọng sự lan tỏa và ảnh hưởng ra thế giới của nền văn minh cổ đại Ấn Độ.
Rất tiếc vào thế kỷ thứ 12, nạn ngoại xâm tràn đến, Trường đại học Nalanda bị thiêu rụi. V́ quá to lớn và chứa toàn bộ kinh sách cũng như các tài liệu giảng dạy của các môn học, trường cháy ṛng ră trong ba tháng trời. Nay trường chỉ c̣n lại những nền gạch làm chứng tích. Tuy là những nền gạch nhưng nh́n vào vẫn thấy được quy mô to lớn của trường cũng như thấy được tŕnh độ kiến trúc siêu việt của người Ấn Độ cổ đại.
Sửa lại bởi soida : 07 December 2006 lúc 6:59pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 2 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 7:07pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đường đến đất Phật - Kỳ 2: Lâm Tỳ Ni và Việt Nam Phật Quốc tự
Chùa Việt Nam Phật Quốc tự tại Lâm Tỳ Ni
Tôi cùng đoàn du khách Việt Nam vượt qua biên giới phía bắc Ấn Độ để đến Nêpal vào một buổi tối. Xuất phát từ kinh thành Xá Vệ từ lúc 1 giờ trưa nhưng măi đến 8 giờ tối mới đến được cửa khẩu v́ xe đi lạc đường. May mắn thay, chúng tôi đến những phút làm việc cuối cùng trong ngày của công an cửa khẩu của cả hai bên. Chúng tôi kịp thời làm giấy tờ để cả đoàn qua được cửa khẩu trót lọt và về đến khách sạn an toàn.
Nước Nêpal hiền ḥa nằm dưới chân dăy Hymalaya huyền thoại chào đón chúng tôi bằng buổi b́nh minh tươi đẹp. Sau khi ăn sáng chúng tôi đi bộ đến vườn Lâm Tỳ Ni ở bên kia đường, đối diện với khách sạn mà chúng tôi ở lại qua đêm.
Mới sáng sớm đă thấy hàng trăm du khách và phật tử từ khắp năm châu có mặt trong vườn Lâm Tỳ Ni. Chỗ này là nhà sư Tây Tạng vạm vỡ trong áo cà sa màu đỏ đang cùng những phật tử của ḿnh thực hiện những nghi lễ tôn giáo dưới gốc cây bồ đề bên cạnh hồ nước mà hoàng hậu Maya đă tắm trước khi hạ sinh thái tử Tất Đạt Đa. Chỗ kia là các nhà sư Nhật Bản trong sắc phục màu đen đang ngồi thiền trước trụ bia của vua A Dục dựng lên ghi lại Phật tích. Dưới tán cây vô ưu râm mát, nơi hoàng hậu Maya với lên hái một cành hoa trước khi lâm bồn, là nhà sư Thái Lan đang ngồi giảng kinh cho các đệ tử của ḿnh. Hàng trăm nhà sư và du khách khác th́ đang xếp hàng chờ vào xem tảng đá mà vua A Dục đặt đánh dấu chính xác chỗ hoàng hậu lâm bồn.
Sách Đại Đường Tây Quốc Kư của ngài Huyền Trang ghi lại rằng vương quốc của vua Tịnh Phạn có chu vi chừng 4.000 lư (1.880 km2). Cách đây 2.600 năm, vào năm 563 trước công nguyên, khi sắp đến ngày lâm bồn, hoàng hậu Maya Devi, vợ vua Tịnh Phạn, xin phép nhà vua cho bà rời hoàng cung trở về quê nhà để sinh con đầu ḷng theo đúng phong tục và truyền thống xứ này. Khi rời khỏi kinh thành chừng 25 cây số, ngang qua khu vườn tại làng Lâm Tỳ Ni, thái tử Tất Đạt Đa, người sau này trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni đă giáng trần dưới gốc cây vô ưu trong khu vườn xinh đẹp này.
Nhà sư tây Tạng đang làm lễ cùng đệ tử dưới gốc cây bồ đề trong vườn Lâm Tỳ Ni
Phật tích quan trọng đó sẽ bị quên lăng nếu như sau đó 300 năm không có một vị vua sùng đạo là A Dục (Asoka) cho đặt trụ đá cao ghi lại sự tích ra đời của Phật Thích Ca cũng như đặt viên đá xác định chính xác vị trí chào đời của đức Phật. Rồi khoảng 1.000 năm sau vào thế kỷ thứ năm nhà sư Pháp Hiển rồi tiếp theo sau đó là nhà sư Huyền Trang đă đến địa điểm này và nh́n thấy trụ bia và viên đá của vua A Dục c̣n tồn tại.
Các nhà sư VN tại cột đá của vua A Dục trong vườn Lâm Tỳ Ni
Nhưng sau đó th́ chiến tranh, rồi sự tàn phá của giặc giă, vườn Lâm Tỳ Ni hoang tàn, trụ bia và viên đá bị ngă đổ và chôn vùi xuống ḷng đất măi đến thế kỷ thứ 19 mới được giới khảo cổ khai quật lên và dựng lại như cũ. Tuy nhiên ngày nay, vườn Lâm Tỳ Ni thuộc vào vương quốc Nêpal với dân chúng ở chung quanh không c̣n là phật tử nữa. Vườn bị bỏ hoang phế, điêu tàn.
Nhà sư Việt Nam Thích Huyền Diệu năm 1969 đă đến hành hương kể lại rằng: Lần đầu tiên, khi đặt chân đến đây chiêm bái, tôi thật sự bàng hoàng. Cảnh quan vùng đất thiêng thật điêu tàn, chung quanh trụ đá thánh tích kỷ niệm nơi Đức Phật đản sinh bị người dân phóng uế bừa băi. Tôi buồn rầu đi quanh nơi này ḷng thầm khấn nguyện, nếu quả thật đây là nơi linh thiêng và đúng là chỗ Phật đản sinh th́ xin cho tôi được nh́n thấy thánh địa phát triển trước khi nhắm mắt từ giă cơi đời.
Lời phát nguyện đó như một nghiệp duyên nào đó sau này đă gắn phần c̣n lại cuộc đời của ông vào vùng Phật tích quan trọng này.
Kể từ đó, đi bất cứ nơi nào trên thế giới để thuyết giảng kinh Phật cũng như các môn học khác ông đều nhắc lại tâm nguyện này với các đệ tử của ông. Trong hầu hết các bài thuyết giảng, ông đều mang Lâm Tỳ Ni của Phật giáo ra so sánh với các thánh địa Mecca, Vatican, Benares, và Jerusalem của lần lượt các tôn giáo: Islam, Thiên Chúa, Hindu và Do Thái giáo.
Và nhân ông gieo ra, đă gặt được quả: năm 1993 khi ông đang dốc sức xây chùa Việt Nam Phật Quốc tự tại Bồ Đề Đạo Tràng ở Ấn Độ th́ có một nhóm đệ tử của ông bay đến mời ông qua Nêpal yết kiến nhà vua của nước này để nhận đất xây chùa gần vườn Lâm Tỳ Ni như nguyện ước của ông.
Nhà vua cho phi công chở ông bay trên vùng trời Lâm Tỳ Ni để chọn đất. Ông nhận 2 mẫu đất và quyết tâm ở lại đó xây chùa dù lúc đó trong túi ông chỉ c̣n vỏn vẹn 60 đô la.
Và ngôi chùa quốc tế đầu tiên tại thánh địa Lâm Tỳ Ni ra đời, mở đầu cho hàng loạt các ngôi chùa quốc tế khác lần lượt mọc lên. Vương Quốc Thái Lan xây một ngôi chùa toàn một màu trắng tinh khiết tuyệt đẹp, Trung Quốc th́ một ngôi chùa hùng vĩ theo mô típ Thiếu Lâm tự, Nhật Bản xây đại tháp ḥa b́nh cùng với một thư viện và viện bảo tàng mang tầm vóc quốc tế, Hàn Quốc th́ có cả một chương tŕnh quy mô nhằm xây dựng một tu viện to lớn với chánh điện chứa tới 4.000 người. Rồi chùa của Bangladesh, Tây Tạng, Butan, Tích Lan, Mông Cổ... và cả của Đức, Pháp nữa.
Khi đến nơi này, chúng tôi đếm được khoảng 22 ngôi chùa đă và đang mọc lên. Những ngôi chùa này tuy được cấp đất và khởi công sau Việt Nam Phật Quốc tự của thầy Huyền Diệu nhưng phần lớn nhờ vào ngân sách của quốc gia nước đó nên đă hoàn thành trước và quy mô hoành tráng hơn.
Các nhà sư Tây Tạng hành lễ tại Bồ Đề Đạo Tràng
Nhờ vậy mà Lâm Tỳ Ni ngày nay càng lúc càng trở nên hưng vượng đến mức không ngờ, ngay cả quốc vương Birendra của Nêpal khi c̣n sống cũng đă kinh ngạc trước sự phát triển nhanh chóng một cách thần kỳ của vùng thánh địa này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 3 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 7:10pm | Đă lưu IP
|
|
|
Đường đến đất Phật - Kỳ 3: Khi đàn hạc bay về
Thầy Huyền Diệu và tác giả tại chùa Việt Nam Phật Quốc tự
Vào một buổi trưa khi xe chúng tôi đang chạy bon bon trên con đường nhựa băng qua cánh đồng lúa rộng lớn bao quanh khu vực Lâm Tỳ Ni, tôi chợt nh́n thấy một đôi chim khổng lồ màu xám đang b́nh thản t́m ăn bên cạnh những người nông dân đang làm ruộng. Chim này khi đứng vươn lên, cao hơn cả những người nông dân đứng bên cạnh.
Xe chạy một đoạn nữa tôi lại thấy một đôi chim khác cũng y hệt. Tôi biết đây là loại chim hồng hạc vào loại quư hiếm của thế giới, ở Việt Nam chúng ta cũng có loại chim hạc tương tự bay về trú đông ở Tam Nông - Đồng Tháp nhưng vóc dáng nhỏ hơn. Tôi khẩn thiết yêu cầu xe dừng lại để chạy đến gần chụp h́nh v́ tôi từng đến Tam Nông ŕnh và chờ cả một ngày nhưng chẳng được thấy một bóng chim nào chứ đừng nói là chụp được h́nh. Tuy nhiên có người nói rằng lát nữa đến Việt Nam Phật Quốc tự sẽ tha hồ được chụp. Người ấy nói thêm: những con hạc này có ở đây và đi đứng nhởn nhơ bên cạnh con người như vậy là do từ thầy Huyền Diệu mà ra.
Tôi gặp thầy Huyền Diệu ngay sau đó tại chùa Việt Nam Phật Quốc tự. Thầy Huyền Diệu kể: "Khi mới đến Lâm Tỳ Ni tôi nhận thấy nơi này không có nhiều loài chim. Đến năm thứ nh́, một buổi sáng từ trong lều bạt bước ra, tôi sửng sốt khi nh́n thấy hai con chim cao lớn lạ thường đang đứng ngay trước lều. Tôi cao 1 mét 68 thế mà hai con chim này lại đứng cao hơn cả tôi. Cảm giác đầu tiên là sự khiếp sợ. Tôi vội vă bỏ chạy vào lều rồi lập tức thủ sẵn một khúc cây để có thể tự vệ. Tôi liên tưởng đến những con chim ăn thịt người trong truyền thuyết. Nhưng khi quan sát kỹ, hai con chim có bộ lông xám và ṿng cổ đỏ duyên dáng này có vẻ hiền lành, ánh mắt nh́n ra chiều thân thiện, tôi an ḷng. Lát sau chúng bay đi, con trước con sau nhịp nhàng vỗ cánh như lướt trên bầu trời với dáng vẻ cao quư đẹp đẽ không thể tả. Tôi vào thư viện tra tự điển và khám phá đây là loài chim hồng hạc - tên khoa học là Sarus Crane - với chiều cao trung b́nh khoảng 1 mét 7 và nặng trên dưới 9 kg, là giống chim cao nhất thế giới và sống riêng rẽ từng cặp. Quả là một h́nh ảnh tượng trưng cho hạnh phúc và biểu tượng của sự ḥa hợp trong cuộc sống".
Chim hồng hạc luôn quấn quưt bên thầy Huyền Diệu
Từ đó đôi chim này luôn quấn quưt bên thầy Huyền Diệu. Rồi dần dần nhiều cặp chim khác bay về. Chúng làm tổ và đẻ trứng ngay trên cánh đồng chung quanh chùa Việt Nam. Dân làng ở quanh khu vực này lại không biết sự quan trọng của loài hồng hạc nên hay săn bắt hoặc lấy trứng của chúng. Thầy Huyền Diệu phải mở cuộc vận động đến mọi người từ cấp chính quyền đến người dân nói lên tầm quan trọng của loài chim quư hiếm này. Mọi người đồng t́nh và lập ra các tổ bảo vệ chim. Khi chim đẻ c̣n phải lập cḥi gần đó canh giữ. Nhờ vậy chim rủ nhau về càng ngày càng nhiều hơn. Thầy Huyền Diệu cho biết hiện nay đă có đến 66 con chim hạc đang sinh sống ở đây.
Tôi ra vườn của chùa thấy ngay một đôi chim hạc to lớn và xinh đẹp đang an nhàn đi lại. Vài người đến gần chụp h́nh, chúng đứng yên cho chụp với cái đầu đỏ nghiêng qua nghiêng lại trông rất duyên dáng. Có một chị phật tử thấy chúng quá xinh xắn và hiền lành, định đến gần vuốt ve bị chúng phản ứng ngay. Tuy vậy, với thầy Huyền Diệu hoặc với các tăng ni khác trong chùa th́ chúng tỏ ra vô cùng thân thiện
Trên đường trở về khi đi ngang qua các ngôi chùa quốc tế lộng lẫy uy nghi ở chung quanh khu vực Lâm Tỳ Ni, tôi chợt nghĩ: những ngôi chùa này cũng như những con chim hạc cao quư và hiền lành kia lần lượt tụ về thánh địa Lâm Tỳ Ni như một nghiệp duyên giống như nhiều con người xa lạ từ khắp nơi trên thế giới lần lượt tụ về đây.
oOo
Tôi gặp rất nhiều người Việt ở vùng đất Phật. Họ đến từ Việt Nam, từ Mỹ, từ Úc, Canada, châu Âu... Họ có thể là tăng ni, là phật tử và cũng có thể là người dân thường. Điều làm tôi ngạc nhiên là một số lớn trong những người ấy sau khi qua đây một vài lần bỗng dưng phát tâm ở hẳn lại vùng đất nghèo khó, thiếu thốn và khắc nghiệt này - mùa nóng th́ nhiệt độ lên đến 56 độ C, mùa lạnh có khi xuống dưới 10 độ C - để tu hành hoặc làm công quả hoặc xây chùa (đă có khoảng 10 ngôi chùa Việt Nam tại vùng đất Phật).
Tôi chỉ được hơn 10 ngày bước chân vào xứ sở của Phật thế mà ḷng thấy cứ tăng dần lên một cảm giác lâng lâng sung sướng, quên hết mọi lo toan nặng nề của cuộc đời. Cảm giác nhẹ lâng đó cứ dai dẳng trong tôi và càng lúc càng mạnh lên đến mức tôi nghĩ rằng hay là ḿnh cứ ở măi tại đây và... theo về với Phật. Tôi chợt hiểu được tại sao có nhiều người tự nguyện ở lại. Tôi đang trở thành như họ rồi ư?
Tôi bỗng giật ḿnh. C̣n nhiều nhiệm vụ ở cơ quan chưa làm xong, c̣n nhiều việc của gia đ́nh phải lo toan, c̣n nhiều món nợ (cụ thể) với ngân hàng phải trả... Tôi quá nặng nợ với cuộc đời. Thế là tôi phải tiếc nuối giết chết cái cảm giác lâng lâng sung sướng mà ḿnh không dễ ǵ có được để trở về với cuộc đời trần tục sân si của ḿnh.
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 4 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 7:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
Những đổi thay trên đất Phật
Tôi đến Bồ Đề Đạo Tràng (Boddhgaya) lần đầu năm 1990, chưa biết có chùa Việt Nam trong quần thể chùa chiền Phật giáo các nước. Một năm sau, 1991, tôi trở lại, t́nh cờ gặp một nhà sư Ân Độ, được ông cho biết ở Bồ Đề Đạo Tràng cũng có chùa Việt Nam.
Đó là một ṭa nhà ba tầng hơn 20 căn pḥng, thiết kế cho một học viện Phật giáo trong tương lai. Ṭa nhà bề thế nổi bật lên giữa một khuôn viên khoảng hơn 3,5ha, một vườn cây và những ruộng nước bát ngát. Một nhà sư mang chiếc áo cà sa màu nâu quen thuộc.
Quen th́ quen nhưng giữa một nơi xa lạ, tôi không dám lên tiếng bằng tiếng Việt. Tôi đoán đấy có thể là một nhà sư vùng Đông Á. Thầy Huyền Diệu khi đó th́ đoán tôi là du khách Nhật. Phải qua mấy câu đối đáp tiếng Anh th́ người Việt mới nhận ra người Việt.
Đă 15 năm sau lần gặp ấy. Bây giờ là mồng 4 Tết Bính Tuất, tức ngày 1-2-2006, ngồi ôn lại chuyện cũ, thầy Huyền Diệu vẫn nói rằng tôi là người đầu tiên “phát hiện” chùa Việt ở đất Phật. Không đâu thầy ơi, châu Mỹ vẫn tồn tại ở đó, nếu không có ông Colombus th́ cũng sẽ có người khác phát hiện. Tôi đùa lại.
Quả là sau chuyến gặp thầy ở Việt Nam Phật Quốc Tự năm 1991, tôi có viết bài bút kư Đất Phật ở Ân Độ, in trên báo Giác Ngộ, rồi in ở Văn Nghệ. Bài viết nhận được sự quan tâm rộng răi của dư luận trong nước, dẫn đến việc rất nhiều đoàn Phật tử hành hương và du khách đến với chùa Việt Nam trong suốt 15 năm qua.
Thầy Huyền Diệu là người cầu toàn, dự định chỉ khi nào xây dựng hoàn chỉnh toàn bộ quần thể chùa chiền th́ mới thông báo cho mọi người đến chiêm bái. Nếu không bị tôi “phát hiện” ra, thầy chắc rằng thầy vẫn im lặng trong nhiều năm nữa.
Thầy Huyền Diệu xa nước từ năm 1969. Sang Pháp du học, đỗ tiến sĩ sử học ở Đại học Sorbonne danh tiếng, thầy lại t́m đường đến đất Phật Ấn Độ, tâm nguyện một ngày sẽ làm cho Phật giáo VN hiện diện tại chốn linh thiêng này.
Vườn cây lưu niên năm nào mới cao ngang đầu người, bây giờ đă vươn cao um tùm như rừng. Cây lên cao đến mức che khuất cả ngôi chùa cao ngất, che cả ṭa nhà bề thế mấy chục căn pḥng. Con kênh và ruộng lúa nước thầy tự tạo nay cũng đă được san lấp, trở thành rừng cây.
Nơi ruộng nước tôi từng lội xuống hái rau muống bị đỉa bám chân nay đă mọc lên mấy chục loại cây cỏ đất Việt, hoặc những cây liên quan đến đời Phật. Bước vào đến lănh địa chùa Việt Nam, lập tức ta được một không gian thanh tịnh yên b́nh bao bọc. Một thế giới khác hẳn quần thể chùa chiền các nước ở bên ngoài kia.
Khu vực chùa chính, chùa Đại Giác Ngộ (Mahaboddhi), nơi có cây bồ đề của Đức Phật, nơi có pho tượng Phật đúng tư thế ngồi hướng về phía đông khi Người giác ngộ, có những dấu tích Người lưu lại bảy tuần đầu tiên sau khi hoàn chỉnh hệ thống tư tưởng của ḿnh... Đầu tháng hai, trong chùa và cả trong trấn, hàng ngh́n người Tây Tạng hành hương theo mùa, sắc áo cà sa làm đỏ rực không gian.
Đố ai t́m ra một khoảng không gian rất nhỏ để được tĩnh tọa thiền định một ḿnh. Vài chục ngôi chùa mang kiến trúc độc đáo của vài chục nước đă và đang trở thành khách sạn, thành nhà trọ. Đoàn đoàn lũ lũ du khách Âu Á đang phá tan cảnh thanh b́nh mà tôi được thụ hưởng ở Bồ Đề Đạo Tràng từ mười mấy năm trước. Không c̣n là chốn b́nh yên nữa, du khách đến và ném lại lon nước chai nước, ném lại túi nilông và mọi thứ rác rưởi. Những cái ao và ruộng nước đen ng̣m bốc mùi v́ rác.
Chỉ c̣n có Việt Nam Phật Quốc Tự là ngôi chùa hiếm hoi giữ được môi trường, hơn thế lại là một cánh rừng um tùm không khí thanh sạch. V́ sao ư? Phải đánh đổi, hoặc là chùa sạch đẹp, hoặc là cho du khách đến thuê ở, chùa có tiền, nhưng bài học của 20 ngôi chùa khác luôn luôn trước mắt.
Mừng cho chùa ta, thầy Huyền Diệu có ư thức về không gian Phật giáo thanh b́nh bất khả xâm phạm. Nhưng ai đă chứng kiến một xứ Phật chỉ hơn mười năm trước c̣n đơn sơ trong lành, nay ô nhiễm mà không khỏi hoài niệm? Buồn là buồn cho cả một thánh địa, nhưng một khi rút hẳn về trong quần thể chùa Việt Nam, th́ ai cũng được thụ hưởng không khí an lành và cảm thấy rơ ràng được lánh hẳn nơi trần tục.
Xứ Bồ Đề Đạo Tràng bây giờ đă có sân bay - lại thêm một điều mới mẻ so với trước. Từ Hà Nội hoặc Sài G̣n, du khách có thể đi máy bay sang Bangkok, từ đó bay thẳng sang Gaya (cách Bồ Đề Đạo Tràng có 8km) bằng máy bay của Indian Airlines. Nhưng ở Hà Nội, hàng không Thái vẫn nói với khách là không có chuyến bay thẳng sang Gaya, như vậy ta buộc phải bay sang Kolkata, một chặng đi ṿng, vừa tốn tiền vừa tốn sức lực và thời gian hơn nhiều.
Dành một ngày thăm Bồ Đề Đạo Tràng rồi thầy Huyền Diệu thuê xe đưa chúng tôi đi xuyên qua biển mây mù về phía biên giới với Nepal. Trong bóng đêm thâm u của vùng núi Nepal, nhiệt độ xuống dưới 10oC, không ai không xúc động khi nh́n thấy cổng chùa Việt Nam, nh́n thấy những tượng h́nh uy nghi của chính điện, của các ṭa nhà văn pḥng và cư xá trong một dinh cơ lớn.
Lúc ban mai ửng hồng, rồi một ngày nắng đẹp, toàn bộ khuôn viên Việt Nam Phật Quốc Tự sáng bừng lên. Nh́n sang bên tả bên hữu, chùa Thiếu Lâm Trung Quốc, chùa Tây Tạng do người tha hương ở Đức sang xây, chùa Hàn Quốc gần đó, chùa Thái Lan, Myanmar, Nhật Bản xa xa... Giữa cộng đồng những ngôi chùa phô phang kiến trúc đặc trưng các dân tộc, chùa Việt Nam vẫn nổi lên tính hài ḥa quần thể và bản sắc riêng.
Giống như ở chùa Việt Nam bên xứ Bồ Đề Đạo Tràng, chính điện chùa ở Lâm T́ Ni (Lumbini) cũng có ba pho tượng Phật bằng gỗ mít, tượng h́nh Phật ở hiện tại, quá khứ và vị lai. Ở gian trong có bàn thờ các bậc chân tu qua các thời đại, đối diện với bàn thờ các anh hùng liệt sĩ qua mọi thời đă hi sinh v́ Tổ quốc. Từ chính điện ở trên cao nh́n xuống sẽ thấy ngay chính giữa khuôn viên chùa là một cây cầu bắc trên một hồ nước hoa sen hoa súng.
Cây cầu này đặc sắc ở chỗ nó uốn lượn mang h́nh bản đồ VN, nếu bước chân lên đó, ta có thể t́m thấy địa phận tỉnh thành quê hương ḿnh. Cũng từ chính điện nh́n xuống sẽ thấy ở góc trái là ngôi chùa Một Cột bề thế, kích cỡ có lẽ phải gấp đôi chùa Một Cột nguyên bản ở Hà Nội. Gấp đôi, cho nên chùa Một Cột ở đây dáng vẻ uy nghi bề thế.
Ta có thể đă đọc cuốn sách của thầy Huyền Diệu viết về việc xây một chiếc cầu VN cho người dân Nepal ở vùng Lâm T́ Ni, từ nay mùa lũ người địa phương qua suối mà không lo bị cuốn trôi như dạo trước. Ta có thể đă biết thầy Huyền Diệu là người hoạt động không mệt mỏi v́ môi trường, đă bảo vệ đàn chim hồng hạc trong cả vùng, nhưng phải tận mắt nh́n thấy những con chim hồng hạc trong vườn chùa mới cảm hết những nỗ lực.
Con hồng hạc nhỏ có cha mẹ bị rắn cắn ngày ngày cặm cụi kiếm ăn trong lạch nước góc chùa, tối tối nghe tiếng chó sói tru lên quanh chùa th́ tự động chui vào chuồng bảo vệ, trông như một tấm màn chống muỗi rộng chừng mười mét vuông. Con hồng hạc lớn th́ chó sói cũng phải sợ, mỗi khi thấy bóng thầy Huyền Diệu đi về am cỏ tranh ở góc chùa là hồng hạc đi theo, lảng vảng quanh am cỏ, thậm chí chui vào trong am, tinh nghịch dùng mỏ gỡ kính mắt của nhà sư đang nằm nghỉ trên vơng.
Là chủ tịch Hội đồng Phật giáo thế giới ở xứ Lâm T́ Ni (di sản văn hóa thế giới của UNESCO), thầy Huyền Diệu dùng ảnh hưởng của ḿnh để thuyết phục ban quản lư toàn xứ dời những hộ dân ra xa quần thể chùa chiền, dời khu chợ và hàng quán cách xa khu chùa 4km. Như vậy Lâm T́ Ni tránh được nguy cơ ô nhiễm môi trường mà xứ Bồ Đề Đạo Tràng đang phải gánh chịu.
Phải đi dạo khắp vùng Lâm T́ Ni mới thấy hết những nỗ lực của nhà sư người Việt. Chiều muộn, ta đến thăm quần thể di tích nơi Đức Phật ra đời, thăm hồ nước mà bà Maya Devi, thân mẫu của Phật, đă tắm trước khi sinh, thăm cột đá hoàng đế Ashoka ghi lại rành rành dấu tích Phật đản...
Rồi bước chân ra khỏi khu di tích, dạo bước giữa vùng hồ rộng lớn và những rừng cây trải ra xa tít, đấy là lúc cảm nhận sâu sắc cái ư nghĩa thiên đường. Thanh b́nh nữa, an lạc nữa. Dường như ở nơi tận cùng thế giới, nơi góc khuất của dăy Himalaya, ta được nếm trải giây phút thanh sạch hiếm hoi mà khó nơi nào trên thế gian này có thể cho ta được.
Tôi đă viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng cả thảy năm lần. Lâm T́ Ni th́ đây mới là lần thứ hai. Năm 1992, toàn bộ vùng Lâm T́ Ni xung quanh di tích Phật ra đời chỉ là một cánh đồng hoang vu, cỏ lau trắng toát trải ra bất tận. Có chỗ đầm lầy phải đi vào bằng thuyền. Tôi đứng giữa ngàn lau, có chút hoài cổ, nơi linh thiêng từng có những thiền viện Phật giáo buổi hoàng kim giờ trắng bạc lau sậy thế này đây.
Lúc đó làm sao tưởng tượng ra 14 năm sau ḿnh được đứng giữa một giáo xứ hồi sinh, lồng lộng 20 ngôi chùa cao vút. Cả xứ Lâm T́ Ni, đến cả nhà vua Nepal giờ vẫn nhắc công thầy Huyền Diệu, người đầu tiên đến dựng chùa Việt Nam cho các nước khác theo dấu chân mà đến mở mang tiếp. Không chỉ là giáo xứ, nơi đây bây giờ thật sự là một Liên hiệp quốc Phật tự.
Bạt ngàn lau trắng đă phải lùi bước trước nhà sư VN. Người tiên phong đi mở đất ở Lâm T́ Ni, phát quang cánh đồng, rắn hổ mang to như bắp chân bỏ chạy hàng đàn. Hàng đàn sói bỏ chạy vào rừng, đêm đêm ṃ ra tru lên nhớ vùng đất cũ. Dựng lều bạt đốt lửa xua thú. Đào móng, xây nền. Một ngôi chùa dựng lên. Những ngôi chùa dựng lên. Cả một xứ Lâm T́ Ni được tái thiết. Một phép lạ. Một sự mầu nhiệm.
Năm 1994, chia tay thầy ở Bồ Đề Đạo Tràng, chùa ở xứ này khi ấy c̣n ngổn ngang, chính điện chưa xây được, rừng cây mới cao ngang đầu người, thầy lại bảo đang có kế hoạch xây một chùa nữa ở Nepal. Nhiều người từng bảo thầy là Mr. Utopia (ngài Không Tưởng). Lúc ấy tôi cũng đùa gọi thầy là ngài Không Tưởng. Trời ơi, xây cái chùa xứ Ấn c̣n chưa xong, thầy đă lo chuyện xa xôi, vươn sang tận Nepal làm ǵ.
12 năm sau trở lại, cả hai ngôi chùa đều đă thành h́nh, giấc mơ không tưởng đă thành sự thật. Nhưng tôi vẫn mang tặng thầy bản dịch cuốn sách của Thomas More, nhà văn Anh từ thế kỷ XVI, tựa sách tiếng Anh là Utopia, tiếng Việt là Địa đàng trần gian. Cả hai khái niệm đều đúng với thầy Huyền Diệu và những ǵ thầy đă làm trên hai thánh địa Phật giáo.
Thầy Huyền Diệu mời các nhà văn VN lúc nào thu xếp được th́ đến hai nơi này ngồi mà viết. Như một h́nh thức trại sáng tác mà các nhà văn ta hay tổ chức. Một thứ Writer - in - residence mà các nhà văn nước ngoài hay làm.
Tôi đă chứng kiến chùa Bồ Đề Đạo Tràng khi c̣n là một sinh linh trứng nước, giờ đă lớn cao vạm vỡ trưởng thành. Tôi đă biết Lâm T́ Ni khi chùa VN c̣n chưa có dấu hiệu ra đời, giờ lại cũng đă kịp bề thế trưởng thành. Nhờ sự mầu nhiệm. Thầy Huyền Diệu bảo: Nhờ hồn thiêng sông núi.
Ghi chép của HỒ ANH THÁI
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 5 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 7:46pm | Đă lưu IP
|
|
|
Ngày 17/12/2005, tại Nepal, một ngôi chùa Việt Nam đă được long trọng khánh thành nhờ tâm sức 12 năm trời của thầy Huyền Diệu, người nổi tiếng với việc xây chùa Việt Nam ở Án Độ.
Văn hóa chùa Việt Nam như một điểm sáng khai hóa cả một vùng được dân sở tại ca ngợi, tri ân.
…Thầy quê Bến Tre. Sinh năm 1948. Cha nhà Nho, mất sớm. Đặt tên con là Lâm Trung Quốc, dặn lại vợ: Gửi gắm hy vọng nơi con – “Trung với Nước”. Quốc ốm quặt quẹo.
Năm lên sáu theo mẹ xuất gia, theo quẻ tử vi, nương nhờ nơi cửa Phật may ra khỏi chết yểu. Thầy Hoàng Nhơn trên chùa Thất Sơn c̣n đặt phật danh Thích Huyền Diệu mong ở tương lai làm nên nhiều điều tốt đẹp.
Quê hương “đồng khởi” – chùa chiền bị đốt phá, sư săi bị bắn giết. Bà Nguyễn Thị Ngưu cùng con ra Đồng Nai tránh nạn.
Ngày 6/11/1963, chú tiểu Huyền Diệu tham gia bảo vệ Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngă tư đường Phan Đ́nh Phùng – Lê Văn Duyệt Sài G̣n, bị chính quyền Diệm - Nhu kết án trục xuất biệt xứ.
Anh sang Pháp kiếm sống, vào học đại học Sorbonne, đậu hai bằng Tiến sĩ, thành giáo sư thỉnh giảng của nhiều trường đại học. Và vẫn tiếp tục tu hành, giảng đạo.
Thầy cả U.Nyaneinda mặc áo đỏ ngồi sau trên lưng voi
Năm 1969, được một giáo sư Pháp giúp đỡ, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu thực hiện được mơ ước cháy bỏng từ lâu – hành hương về đất Phật, tới chiêm bái tại tất cả các thánh tích của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Như Na Lan Đa (Sarnath) nơi Phật giảng bài kinh đầu tiên.
Câu Thi Gia (Kushinagar) nơi Phật lui về nghỉ và nhập Niết Bàn ở tuổi 80 v.v… Nhưng không đâu anh trăn trở, nhiều như ở Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật tọa thiền 49 ngày suy ngẫm mà giác ngộ con đường cứu nhân độ thế.
Nơi góp mặt đủ chùa các nước sùng đạo Phật th́ Việt Nam ḿnh cũng phải có, dù chỉ bằng tranh tre để giới thiệu văn hóa chùa dân tộc đă vài ngàn năm “Phật tại tâm”, để người ḿnh từ bốn phương hành hương về đây làm nơi nghỉ chân…
Vậy là anh thành tâm ngồi cầu nguyện dưới gốc cây bồ đề để Trời Phật và Hồn thiêng Tổ quốc độ tŕ giúp anh một ngày đạt được ước nguyện.
Ngày ấy 18 năm sau mới thành sự thật: Anh đủ tiền tậu được đám đất và làm lễ động thổ – 24/5/1987. Tiền đi dạy thuê, hảo tâm của mọi người được đến đâu xây tiếp đến đó theo một thiết kế “độc đáo chùa Việt Nam”.
Vườn chùa nằm giữa cánh đồng. Mái chùa cong vắt ẩn giữa cây lá xanh tươi. Bước qua cổng tam quan là đầy ắp quang cảnh, không khí chùa chỉ có ở quê ta, từ kiến trúc tổng thể vườn chùa đến lối đi, luống rau, ruộng lúa…
Chùa các nước xây bên mặt phố, kiến trúc đồ sộ, thâm nghiêm, u tịch. Chùa ta ngược lại – nhỏ thôi nhưng vươn cao trên ngàn cây những mái cong bất khuất.
Bản đồ h́nh chữ S đắp nổi từ xa vài cây số đă nh́n rơ trên biển dẫn đường vào chùa. Sau chính điện trên tầng hai thờ Phật, c̣n có bàn thờ Tổ quốc, thờ anh linh người có công với dân, với đạo.
Thầy tâm sự: Từng có mấy phật tử nước ngoài giàu có điện hỏi: “Nghe nói xây chùa xong thầy sẽ treo cờ đỏ sao vàng và ảnh ông *** khắp nơi phải không?”. Thầy vặn lại: “Ai nói vậy?”. “Có người nói thế?”. “Thế th́ họ nói đúng”.
Thế là điện thoại cúp và rồi khoản hỗ trợ đă hứa cũng cúp luôn, cả vài triệu USD.Lại có những vị “vặn vẹo”, thiếu ǵ cách đặt tên chùa mà cứ phải đặt Việt Nam Phật Quốc tự, mà lại cả hai chùa đều cùng một tên gọi?
Thầy giảng giải đại để: Đất nước có trước, đạo Phật có sau, mà đạo ấy – đạo của nước ḿnh, mang bản sắc văn hóa dân tộc ḿnh, có trách nhiệm bồi bổ tinh hoa quốc hồn quốc túy trong đạo pháp mang bản sắc dân tộc – cũng giống như bổn phận con cháu phải kế nghiệp làm rạng rỡ tiếng thơm của cha ông, phải uống nước nhớ nguồn.
Tâm nguyện ấy của thầy càng được dịp thể hiện rơ khi xây Việt Nam Phật Quốc tự thứ hai tại Lâm T́ Ni (Lumbini) nơi Phật sinh.
Lâm T́ Ni được xem là thánh tích của Phật giáo, nhưng đền chùa hầu như đă bị hủy hoại hết.Vua Nepal và nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới như ông Uthan – Tổng Thư kư Liên Hợp Quốc (LHQ) đều lên tiếng kêu gọi góp sức khôi phục Lâm T́ Ni đáng tầm như Mecca của Hồi giáo, Vatican – Thiên chúa giáo, Jerusalem – Do Thái giáo… Song, mọi lời kêu gọi chỉ rơi vào im lặng.
Cũng dịp đầu xuân 1969 trong chuyến hành hương về ấn Độ, thầy Huyền Diệu sang đây thành kính cầu nguyện xin đi trước khôi phục Thánh địa Phật sinh…24 năm sau, năm 1993, sự mầu nhiệm đă linh nghiệm: Quốc vương Birendra và Chính phủ Nepal đưa máy bay riêng sang ấn Độ đón thầy tới Lâm T́ Ni chọn đất xây chùa.
Ḷng thành con người đứng trước thử thách ghê gớm: Thầy đang “sa lầy” v́ hết tiền xây tiếp chùa ở ấn Độ. Anh em đạo hữu kịch liệt phản đối cho là thầy “hiếu danh” và mạo hiểm, không tưởng v́ một ḿnh cắm lều ở giữa rừng hoang đầy thú dữ, rắn độc mà trong túi chỉ vẻn vẹn … 60 đô la.
Nhưng trước hết, tính mạng thầy khó vẹn toàn giữa một vùng đạo Phật đă bị xóa sạch (và, sự thật, sống trong gian nhà dựng tạm, thầy 7 lần bị mưu sát. Lần cuối, hai kẻ ngoại đạo đă nhận tiền thuê, không giết được thầy, chúng lẻn sang chùa Nhật Bản đâm chết nhà sư trụ tŕ Yutaka Nabatame)…
Sau 12 năm xây dựng với vô vàn khó khăn trở ngại, Việt Nam Phật Quốc tự Lâm T́ Ni đă tổ chức đại lễ khánh thành vào giờ Tỵ ngày Vía Đức Phật A Di Đà 17/11 ất Dậu (10h sáng 17/12/2005).
Tại lễ động thổ xây Việt Nam Phật Quốc tự ngày 23/9/1993, giáo sư Asha Ram Sakya đại diện Chính phủ và Phật giáo Nepal đă bày tỏ: Ngày khởi sự xây cất ngôi chùa quốc tế đầu tiên này sẽ măi măi đi vào lịch sử vàng son Phật giáo thế giới v́ Việt Nam đă đi tiên phong trong công cuộc khôi phục thánh địa đầy khó khăn này. Hy vọng và khẩn thiết kêu gọi các nước nên lần lượt theo gương sáng của Việt Nam Phật Quốc tự hôm nay…
Tới nay đă có 19 nước xây chùa cùng đặt cơ quan văn hóa tại Lâm T́ Ni được hưởng quy chế miễn trừ ngoại giao khá đặc biệt. Mới vừa đây, Tổng thống Mông Cổ, Hoàng hậu Bhutan đă thân hành sang đây tỏ ư mong được xây ngôi chùa gần Việt Nam Phật Quốc tự; cả Mỹ, Nga cũng dự định góp mặt chùa nước ḿnh.
Tỏa sáng t́nh thương Việt Nam
Mới hơn chục năm mà cả vùng phía Đông vùng Terai dưới chân dăy Hy Mă Lạp Sơn đă thay đổi hẳn bộ mặt, trở thành khu kinh tế văn hóa mở đầy tiềm năng du lịch và thương mại.
Sự thay đổi lớn lao và quá nhanh về mọi mặt tại đây gắn liền với hai chữ VIETNAM mà người tiêu biểu là thầy Huyền Diệu - được Nhà vua, Chính phủ, chính quyền địa phương và nhân dân (hầu hết theo đạo Hồi, đạo Hin đu, sự kỳ thị đẳng cấp trong xă hội c̣n rất nặng nề) biết đến và kính nể.
Lũ sông thất thường, luôn cướp đi sinh mệnh của bao người già, trẻ nhỏ, phụ nữ… ngày ngày phải lội qua. Thầy đứng ra lo liệu, cùng địa phương, nhân dân góp công, kêu gọi hảo tâm bắc chiếc cầu, chính quyền sở tại đặt tên Cầu t́nh thương Việt Nam.
Bộ trưởng Y tế thay mặt Chính phủ Nepal tặng thầy quà và tiền thưởng về xây cầu… Thầy không nhận mà đề nghị xây một “nhà thương người nghèo” ở gần cầu và đồng thời “tác động” lên Bộ Tài chính và Chính phủ.
Thật mừng, bệnh viện người nghèo đă đi vào hoạt động từ cuối năm 2003. Lại có người gọi Bệnh viện t́nh thương Việt Nam.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
NhapMon Hội viên
Đă tham gia: 03 August 2005
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 607
|
Msg 6 of 9: Đă gửi: 07 December 2006 lúc 10:56pm | Đă lưu IP
|
|
|
Mấy bài viết rất gía trị. Thầy THD is a great man!
Cám ơn bác SD .
__________________ NhapMon
|
Quay trở về đầu |
|
|
soida Hội viên
Đă tham gia: 29 August 2002 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 321
|
Msg 7 of 9: Đă gửi: 26 December 2006 lúc 6:48am | Đă lưu IP
|
|
|
“Đức phật đầu thai” ở Nepal đă trở về
Sau vụ mất tích đột ngột của “Phật sống” Ram Bahadur Bamjon hồi giữa tháng 3, mới đây có người nói rằng họ đă gặp ngài trong 1 cánh rừng rậm rạp, heo hút gần làng Pilwa, cách phía đông tỉnh Kathmandu (Nepal) 150 km.
Đầu năm 2006, hàng trăm ngàn người mộ đạo ở Nepal và Ấn Độ đă lũ lượt kéo nhau về cánh rừng Bara để chiêm ngưỡng tận mắt cậu bé Ram Bahadur Bamjon 15 tuổi được coi là Đức Phật Thích Ca tái sinh. Dưới tán cây bồ đề cổ thụ, cậu thiếu niên khắc khổ này ngồi trong tư thế xếp bằng, hai mắt nhắm nghiền và tuyệt nhiên không ăn không uống trong suốt 10 tháng trời ṛng ră.
Dân chúng chỉ được phép ngắm nh́n Đức Phật từ khoảng cách xa 50 m, chính v́ vậy khi ngài đột ngột rời bỏ gốc cây bồ đề hôm 11/3/2006, không chỉ tín đồ sùng kính mà ngay cả các nhà chức trách Nepal cũng được phen náo loạn kiếm t́m.
Cho đến hôm Chủ nhật tuần trước (24/12), một kư giả địa phương tên Raju Shrestha bất ngờ tiết lộ với các hăng thông tấn đă gặp lại Đức Phật trong cánh rừng heo hút gần làng Piluwa (thuộc quận Bara, cách phía đông tỉnh Kathmandu, Nepal 150 km). Chứng kiến sự trở về của Đức phật ngoài ông ra c̣n có một vài người dân khác nữa trong làng.
Khi đó Đức phật đang ngồi thiền dưới 1 tán cây nhỏ trong rừng, hai mắt nhắm chặt và tóc th́ đă dài đến ngang vai.
“Ngài vẫn choàng tấm vải màu tro ngang ngực, bên cạnh có một thanh đại đao” - Raju Shrestha nhớ lại.
Có lẽ Shrestha là một trong số rất ít người may mắn được tiếp kiến Đức Phật tái sinh. “Đức phật nói rằng kể từ lúc bỏ gốc cây bồ đề ở Bara ra đi, ngài thực hiện những chuyến du hành qua rừng rậm. Hành tŕnh của ngài c̣n kéo dài thêm 6 năm nữa”.
“Bản thân tôi không nghĩ Bahadur Bamjon là Đức Phật Thích Ca tái sinh, tuy nhiên cậu bé có khả năng ngồi thiền kỳ lạ. Cậu ấy chỉ ăn lá cây và uống nước”.
Thùy Vân
Theo Reuters
Sửa lại bởi soida : 26 December 2006 lúc 6:51am
|
Quay trở về đầu |
|
|
Hoa Tam Học Viên Lớp Phong Thủy
Đă tham gia: 23 May 2005 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 139
|
Msg 8 of 9: Đă gửi: 04 February 2007 lúc 7:53am | Đă lưu IP
|
|
|
soida đă viết:
Ngày 17/12/2005, tại Nepal, một ngôi chùa Việt Nam đă được long trọng khánh thành nhờ tâm sức 12 năm trời của thầy Huyền Diệu, người nổi tiếng với việc xây chùa Việt Nam ở Án Độ.
Văn hóa chùa Việt Nam như một điểm sáng khai hóa cả một vùng được dân sở tại ca ngợi, tri ân.
…Thầy quê Bến Tre. Sinh năm 1948. Cha nhà Nho, mất sớm. Đặt tên con là Lâm Trung Quốc, dặn lại vợ: Gửi gắm hy vọng nơi con – “Trung với Nước”. Quốc ốm quặt quẹo.
Năm lên sáu theo mẹ xuất gia, theo quẻ tử vi, nương nhờ nơi cửa Phật may ra khỏi chết yểu. Thầy Hoàng Nhơn trên chùa Thất Sơn c̣n đặt phật danh Thích Huyền Diệu mong ở tương lai làm nên nhiều điều tốt đẹp.
Quê hương “đồng khởi” – chùa chiền bị đốt phá, sư săi bị bắn giết. Bà Nguyễn Thị Ngưu cùng con ra Đồng Nai tránh nạn.
Ngày 6/11/1963, chú tiểu Huyền Diệu tham gia bảo vệ Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngă tư đường Phan Đ́nh Phùng – Lê Văn Duyệt Sài G̣n, bị chính quyền Diệm - Nhu kết án trục xuất biệt xứ.
Anh sang Pháp kiếm sống, vào học đại học Sorbonne, đậu hai bằng Tiến sĩ, thành giáo sư thỉnh giảng của nhiều trường đại học. Và vẫn tiếp tục tu hành, giảng đạo.
Thầy cả U.Nyaneinda mặc áo đỏ ngồi sau trên lưng voi
Năm 1969, được một giáo sư Pháp giúp đỡ, anh sinh viên phật tử Huyền Diệu thực hiện được mơ ước cháy bỏng từ lâu – hành hương về đất Phật, tới chiêm bái tại tất cả các thánh tích của Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Như Na Lan Đa (Sarnath) nơi Phật giảng bài kinh đầu tiên.
Câu Thi Gia (Kushinagar) nơi Phật lui về nghỉ và nhập Niết Bàn ở tuổi 80 v.v… Nhưng không đâu anh trăn trở, nhiều như ở Bồ Đề Đạo tràng, nơi Đức Phật tọa thiền 49 ngày suy ngẫm mà giác ngộ con đường cứu nhân độ thế.
Nơi góp mặt đủ chùa các nước sùng đạo Phật th́ Việt Nam ḿnh cũng phải có, dù chỉ bằng tranh tre để giới thiệu văn hóa chùa dân tộc đă vài ngàn năm “Phật tại tâm”, để người ḿnh từ bốn phương hành hương về đây làm nơi nghỉ chân…
Vậy là anh thành tâm ngồi cầu nguyện dưới gốc cây bồ đề để Trời Phật và Hồn thiêng Tổ quốc độ tŕ giúp anh một ngày đạt được ước nguyện.
Ngày ấy 18 năm sau mới thành sự thật: Anh đủ tiền tậu được đám đất và làm lễ động thổ – 24/5/1987. Tiền đi dạy thuê, hảo tâm của mọi người được đến đâu xây tiếp đến đó theo một thiết kế “độc đáo chùa Việt Nam”.
Vườn chùa nằm giữa cánh đồng. Mái chùa cong vắt ẩn giữa cây lá xanh tươi. Bước qua cổng tam quan là đầy ắp quang cảnh, không khí chùa chỉ có ở quê ta, từ kiến trúc tổng thể vườn chùa đến lối đi, luống rau, ruộng lúa…
Chùa các nước xây bên mặt phố, kiến trúc đồ sộ, thâm nghiêm, u tịch. Chùa ta ngược lại – nhỏ thôi nhưng vươn cao trên ngàn cây những mái cong bất khuất.
Bản đồ h́nh chữ S đắp nổi từ xa vài cây số đă nh́n rơ trên biển dẫn đường vào chùa. Sau chính điện trên tầng hai thờ Phật, c̣n có bàn thờ Tổ quốc, thờ anh linh người có công với dân, với đạo.
Thầy tâm sự: Từng có mấy phật tử nước ngoài giàu có điện hỏi: “Nghe nói xây chùa xong thầy sẽ treo cờ đỏ sao vàng và ảnh ông *** khắp nơi phải không?”. Thầy vặn lại: “Ai nói vậy?”. “Có người nói thế?”. “Thế th́ họ nói đúng”.
Thế là điện thoại cúp và rồi khoản hỗ trợ đă hứa cũng cúp luôn, cả vài triệu USD.Lại có những vị “vặn vẹo”, thiếu ǵ cách đặt tên chùa mà cứ phải đặt Việt Nam Phật Quốc tự, mà lại cả hai chùa đều cùng một tên gọi?
Thầy giảng giải đại để: Đất nước có trước, đạo Phật có sau, mà đạo ấy – đạo của nước ḿnh, mang bản sắc văn hóa dân tộc ḿnh, có trách nhiệm bồi bổ tinh hoa quốc hồn quốc túy trong đạo pháp mang bản sắc dân tộc – cũng giống như bổn phận con cháu phải kế nghiệp làm rạng rỡ tiếng thơm của cha ông, phải uống nước nhớ nguồn.
Tâm nguyện ấy của thầy càng được dịp thể hiện rơ khi xây Việt Nam Phật Quốc tự thứ hai tại Lâm T́ Ni (Lumbini) nơi Phật sinh.
Lâm T́ Ni được xem là thánh tích của Phật giáo, nhưng đền chùa hầu như đă bị hủy hoại hết.Vua Nepal và nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới như ông Uthan – Tổng Thư kư Liên Hợp Quốc (LHQ) đều lên tiếng kêu gọi góp sức khôi phục Lâm T́ Ni đáng tầm như Mecca của Hồi giáo, Vatican – Thiên chúa giáo, Jerusalem – Do Thái giáo… Song, mọi lời kêu gọi chỉ rơi vào im lặng.
Cũng dịp đầu xuân 1969 trong chuyến hành hương về ấn Độ, thầy Huyền Diệu sang đây thành kính cầu nguyện xin đi trước khôi phục Thánh địa Phật sinh…24 năm sau, năm 1993, sự mầu nhiệm đă linh nghiệm: Quốc vương Birendra và Chính phủ Nepal đưa máy bay riêng sang ấn Độ đón thầy tới Lâm T́ Ni chọn đất xây chùa.
Ḷng thành con người đứng trước thử thách ghê gớm: Thầy đang “sa lầy” v́ hết tiền xây tiếp chùa ở ấn Độ. Anh em đạo hữu kịch liệt phản đối cho là thầy “hiếu danh” và mạo hiểm, không tưởng v́ một ḿnh cắm lều ở giữa rừng hoang đầy thú dữ, rắn độc mà trong túi chỉ vẻn vẹn … 60 đô la.
Nhưng trước hết, tính mạng thầy khó vẹn toàn giữa một vùng đạo Phật đă bị xóa sạch (và, sự thật, sống trong gian nhà dựng tạm, thầy 7 lần bị mưu sát. Lần cuối, hai kẻ ngoại đạo đă nhận tiền thuê, không giết được thầy, chúng lẻn sang chùa Nhật Bản đâm chết nhà sư trụ tŕ Yutaka Nabatame)…
Sau 12 năm xây dựng với vô vàn khó khăn trở ngại, Việt Nam Phật Quốc tự Lâm T́ Ni đă tổ chức đại lễ khánh thành vào giờ Tỵ ngày Vía Đức Phật A Di Đà 17/11 ất Dậu (10h sáng 17/12/2005).
Tại lễ động thổ xây Việt Nam Phật Quốc tự ngày 23/9/1993, giáo sư Asha Ram Sakya đại diện Chính phủ và Phật giáo Nepal đă bày tỏ: Ngày khởi sự xây cất ngôi chùa quốc tế đầu tiên này sẽ măi măi đi vào lịch sử vàng son Phật giáo thế giới v́ Việt Nam đă đi tiên phong trong công cuộc khôi phục thánh địa đầy khó khăn này. Hy vọng và khẩn thiết kêu gọi các nước nên lần lượt theo gương sáng của Việt Nam Phật Quốc tự hôm nay…
Tới nay đă có 19 nước xây chùa cùng đặt cơ quan văn hóa tại Lâm T́ Ni được hưởng quy chế miễn trừ ngoại giao khá đặc biệt. Mới vừa đây, Tổng thống Mông Cổ, Hoàng hậu Bhutan đă thân hành sang đây tỏ ư mong được xây ngôi chùa gần Việt Nam Phật Quốc tự; cả Mỹ, Nga cũng dự định góp mặt chùa nước ḿnh.
Tỏa sáng t́nh thương Việt Nam
Mới hơn chục năm mà cả vùng phía Đông vùng Terai dưới chân dăy Hy Mă Lạp Sơn đă thay đổi hẳn bộ mặt, trở thành khu kinh tế văn hóa mở đầy tiềm năng du lịch và thương mại.
Sự thay đổi lớn lao và quá nhanh về mọi mặt tại đây gắn liền với hai chữ VIETNAM mà người tiêu biểu là thầy Huyền Diệu - được Nhà vua, Chính phủ, chính quyền địa phương và nhân dân (hầu hết theo đạo Hồi, đạo Hin đu, sự kỳ thị đẳng cấp trong xă hội c̣n rất nặng nề) biết đến và kính nể.
Lũ sông thất thường, luôn cướp đi sinh mệnh của bao người già, trẻ nhỏ, phụ nữ… ngày ngày phải lội qua. Thầy đứng ra lo liệu, cùng địa phương, nhân dân góp công, kêu gọi hảo tâm bắc chiếc cầu, chính quyền sở tại đặt tên Cầu t́nh thương Việt Nam.
Bộ trưởng Y tế thay mặt Chính phủ Nepal tặng thầy quà và tiền thưởng về xây cầu… Thầy không nhận mà đề nghị xây một “nhà thương người nghèo” ở gần cầu và đồng thời “tác động” lên Bộ Tài chính và Chính phủ.
Thật mừng, bệnh viện người nghèo đă đi vào hoạt động từ cuối năm 2003. Lại có người gọi Bệnh viện t́nh thương Việt Nam.
|
|
|
---------------------------------------------------------
Cám ơn Anh SoiDa đă trích đăng bài nầy.
Rất cảm động. Phật Pháp quả là nhiệm mầu và thật là HUYỀN DIỆU !
H.T.
|
Quay trở về đầu |
|
|
JackChan Hội viên
Đă tham gia: 07 February 2007 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 13
|
Msg 9 of 9: Đă gửi: 09 February 2007 lúc 8:04am | Đă lưu IP
|
|
|
soida đă viết:
Nhưng khi quan sát kỹ, hai con chim có bộ lông xám và ṿng cổ đỏ duyên dáng này có vẻ hiền lành, ánh mắt nh́n ra chiều thân thiện, tôi an ḷng. Lát sau chúng bay đi, con trước con sau nhịp nhàng vỗ cánh như lướt trên bầu trời với dáng vẻ cao quư đẹp đẽ không thể tả. Tôi vào thư viện tra tự điển và khám phá đây là loài chim hồng hạc - tên khoa học là Sarus Crane - với chiều cao trung b́nh khoảng 1 mét 7 và nặng trên dưới 9 kg, là giống chim cao nhất thế giới và sống riêng rẽ từng cặp. Quả là một h́nh ảnh tượng trưng cho hạnh phúc và biểu tượng của sự ḥa hợp trong cuộc sống".
Chim hồng hạc luôn quấn quưt bên thầy Huyền Diệu
|
|
|
Chim trong h́nh là con SẾU ĐẦU ĐỎ, không phải "hồng hạc" bác ui !!! Loại Sếu Đầu Đỏ này hiện ở VN có khá nhiều, quần tụ thành đàn ở khu vực Đồng Tháp.
Chim HỒNG HẠC, toàn thân nó ửng màu hồng, và khi đầy đủ dinh dưỡng, nó hồng rực lên, có chỗ ngả sang đỏ, toàn thân không có màu xám tro như con SẾU ĐẦU ĐỎ bên trên.
Sửa lại bởi JackChan : 09 February 2007 lúc 11:39pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|