Tác giả |
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 1 of 4: Đă gửi: 30 March 2008 lúc 2:11pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ MẬT TÔNG
(BỐN TẬP)
Dịch Giả : Thích Viên Đức
MỤC LỤC
LỜI NÓI
ĐẦU
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính bạch quư vị thiện tri thức
Hơn mười năm qua, tôi y quyển HIỂN MẬT VIÊN THÔNG này,
gắng theo phương pháp trong đây tu tŕ. Tôi nhận thấy có
nhiều sự linh nghiệm kết quả. Để ứng dụng trong đời
mạt pháp, và giúp chúng sanh nghèo hèn bạc phước muốn sở
cầu như ư…, tôi mong không quên sự hèn kém của ḿnh, đem
tâm gắng dịch quyển sách này để ấn hành lưu thông. Nếu
có vị nào nhờ sách này mà phát tâm tu quán, tŕ chú, được
thêm phần tín nguyện mà hành tŕ, th́ tôi rất lấy làm măn
nguyện.
Tôi
tự biết không tránh khỏi văn nghĩa vụng về thiếu sót, kính
mong quư Ngài hoan hỷ tha thứ có chỗ nào sai lầm, giúp ư
kiến cho lần tái bản sau được đầy đủ hơn.
Nam Mô Chuẩn Đề Vương Bồ Tát chứng minh.
CHÙA
DƯỢC SƯ, Banmêthuột,
Mùa Hạ - Phật Lịch 2515
Ngày Rằm, Tháng Bảy, Tân Hợi (4-9-1971)
Dịch giả cẩn bút &nb sp;
Tỳ Khưu THÍCH VIÊN ĐỨC
---o0o---
LỜI
TỰA của
soạn giả
Xưa
đức Như Lai là bậc tôn quư xuất thế trong đời, đem đạo
pháp giáo hóa mọi người, xiển dương pháp Đại Thừa, dắt
dẫn quần mê, mở bày ra muôn pháp. Phương pháp tuy nhiều, tùy
lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn chỉ làm thế nào để vào
được biển viên măn, cho nên chỗ trở về chỉ là Nhứt
thừa (Phật thừa). Song, Hiển giáo Mật tông đều gồm thâu
cả tánh tướng. Nghĩa lỳ Hiển giáo chia làm năm thời tóm
lại gọi là Tô Đại Lăm (Kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, riêng
gọi là Đà Ra Ni (Thần chú). Người đọc Hiển giáo cho
rằng: Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch nhau, mà không xét
tận đến viên lư, cứu cánh. C̣n người học Mật bộ, lấy
Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng chưa biết chỗ
thần thông bí áo. Vội cho Hiển giáo Mật tông mâu thuẫn
nhau, Tánh tông, Tướng tông lỗ tṛn cán vuôn khó ăn khớp
nhau. V́ thế sanh tâm chống trái, chê bai, hủy báng. Tóm lại
chỉ thiên chấp một khía cạnh nào đó, mờ mịt tánh viên
thông. Nếu không phải là bậc Chí Trí, làm sao dung hội được
các đầu mối sai khác, sự nghiệp có thành tựu, người
mới hoằng dương được đạo. Nay v́ Hiển Mật Viên Thông
pháp sư, trong thời bấy giờ, người đời suy tôn Ngài là
bậc anh ngộ, thiên tính của Ngài quá thông minh. Khi c̣n nhỏ
tuổi, Ngài lễ lạy các bậc danh sư cầu học. Trải qua 15 năm
học hỏi rất tịnh tường, nào là tham thiền hỏi đạo,
học rộng nghe nhiều, về mặc nội điển Ngài tinh thông các
tông Ngũ giáo. Ngoại điển, Ngài thấu suốt các vấn đề bí
áo của trăm họ. Ái ố không giao xem, lợi danh chẳng màng đến.
Đă thế mà Ngài lại nhàm chán chốn đô thành, lành ḿnh nơi
hang núi.
Trải
qua năm, tháng khổ hạnh, tận tụy đem hết chí lực nghiên cùng
chỗ thâm huyền của đại tạng thâu nắm những yếu lư tinh
ba thuộc ḷng nơi tâm ư. Giải phẫu tất cả nghĩa lư rất rơ
ràng như các chỉ trên bàn tay. Ngài xem khắp giáo lư Đại,
Tiểu Thừa, không ra ngoài hai đường: Hiển Mật, cũng cùng
một mục đích là chứng Thánh vị, nhập vào được Diệu đạo
Chơn như.
Xét
nơi văn thể thời có khác, nhưng đó cũng chỉ là sự vuông
tṛn hơn kém của mâm bát, c̣n chỗ trở về nơi chánh lư
thời đồng nhau. Như cái đồ để trong nhà đều gồm thâu
cả không, hữu. Thế mà người học lại vọng sanh dị
nghị, mời mịt không biết chỗ thông dung. Nhơn đó thâu góp
biên thành tập sách tâm yếu này, văn thành một quyển, lư
tận vạn đường. Hội Tứ giáo tổng quy về viên thông, thâu
Ngũ mật bộ gồm thành một bộ. Hoà nhũ tô thành đề hồ.
Thâu góp tinh ba, mây ráng làm thành cam lồ vị. Thật lạ
chỗ hội yếu của chư Phật. Đáng là kim chỉ nam cho người
đời sau. Khiến ai xem vào đây như gặp được ngọc minh châu
như ư, chỗ sở cầu đều toại nguyện. Mong mỏi các người
nương theo đây mà thực hành như ăn trái thiện khiến, không
có ǵ không lành.
Trần
Giác này nghĩ hổ thẹn sự học hỏi c̣n sơ sài, lời văn không
hoa lệ. Nhân gặp một ngày, tôi được đến thăm thầy tôi,
may mắn được nghe lời dạy dỗ như qua thủ phất trần,
thoạt tiên tôi mở mang được kiến thức hẹp ḥi. Thầy
dặn ḍ tôi: Nên đem truyền lại cho người đời. Tôi vội
soạn ra quyển văn này, vẫn hổ thẹn với khả năng diễn đạt
lư mầu, nhưng cũng lấy làm lời nói đầu.
Tỳ
Khưu Thích Viên Đức dịch
(^)
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 2 of 4: Đă gửi: 30 March 2008 lúc 2:13pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ MẬT TÔNG
(BỐN TẬP)
Dịch Giả : Thích Viên Đức
---o0o---
HIỂN MẬT VIÊN
THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU
---o0o---
I.- HIỂN GIÁO TÂM YẾU
Nguyên
một đời giáo hóa của đức Như Lai, văn ngôn rộng răi, giáo
lư sâu xa, Hiển Mật đều thâu tận hết thảy.
HIỂN:
nghĩa là các thừa Kinh, Luật, Luận.
MẬT:
nghĩa là các bộ Đà ra ni (Thần chú)
Kể
từ khi Ngài Ma Đằng truyền đạo vào đời Hán, ba Tạng
lần lần lan khắp xứ Trung Hoa. Ngài Vô Úy truyền đạo vào
đời Đường, ngũ mật ở Trung Hoa mới bắt đầu hưng
thịnh, chín phái đồng quy ngưỡng, bảy chúng đều tuân hành;
lời nói pháp không thị phi. Con người phân chia ra đường tu
chứng, trải qua nhiều năm bị phai mờ, sự hiểu lầm không
phải là ít. Hoặc có người học tập Hiển giáo, khinh chê
Mật bộ, hoặc có kẻ chuyên Mật ngôn, mờ mịt lư thú của
Hiển giáo, hoặc chăm học danh tướng, chưa biết được ngơ
vào đạo; hoặc học chữ, tiếng, ít biết quy tắc tŕ minh,
khiến cho quán hạnh thậm thâm, biến thành danh ngôn. Hiển
Mật thần tông trở thành âm vận.
Nay
tôi không so chút tài mọn, quyết nương vào hai tông: Hiển
Mật lược bày tâm yếu thành Phật. Ngơ hầu hy vọng tương
lai mọi người được viên thông, nên nương vào giáo lư lược
bày bốn môn:
1.
Hiển giáo Tâm yếu
2.
Mật giáo Tâm yếu
3.
Hiển Mật song biện
4.
May mắn gặp gỡ pháp môn vô giá này, hết ḷng vui
mừng.
(Trong
bốn đoạn dưới đây, v́ tránh văn nghĩa phiền phức, hoặc
ám dụng Thánh giáo, hoặc dẫn nghĩa kinh văn, người xem nên
biết.)
Đầu
tiên nói về Hiển giáo tâm yếu, Ngài Hiền Phủ, Ngài Thanh Lương
đều chia sự giáo hóa một đời của Đức Phật ra làm năm
thời:
1)
Tiểu Thừa giáo:A
Hàm v.v…gồm có 600 quyển Kinh, Bà Sa v.v… hơn 600 quyển
Luận.
Nói
tất cả pháp từ nhơn duyên sinh, chỉ rơ ba cơi không an cũng
như nhà lửa, thấu rơ chơn lư nhơn không, tu hành tự lợi,
sung sướng được chứng quả Tiểu Thừa.
2)
Đại Thừa Thỉ giáo:
có hai:
a)
Pháp Tướng Tôn: Gồm có Thâm Mật, Phật Địa Kinh v.v… có
đến hàng mười bộ kinh. Du Già, Duy Thức v.v… có đến hàng
trăm quyển Luận, nói tất cả pháp đều do Duy Thức, chỉ rơ
chơn lư Nhị Không, tu Lục độ Vạn hạnh, thẳng đến Đại
Thừa Phật quả. Trong đó phần nhiều nói đến Pháp Tướng
mà thôi.
b)
Vô Tướng Tôn: gồm có Bát nhă v.v… hơn một ngàn quyển
kinh. Trung Luận. Bách Môn Luận v.v… các bổn luận văn đó nói
tất cả các pháp bản lai là không. Vô thỉ mê t́nh vọng
nhận là có. Muốn chứng đạo Bồ đề lấy đó làm sở đắc
để tu tập vạn hạnh. Trong đây phần nhiều nói nghĩa Không,
Vô Tướng. Hai tông này đều là sơ môn của Đại Thừa cho nên
gọi là Thỉ, nghĩa là ban đầu vậy.
3)
Nhứt thừa Chung giáo: Pháp
Hoa, Niết Bàn v.v… hơn bốn mươi bộ Kinh. Bảo Tánh, Phật Tánh
v.v… hơn mười bộ Luận nói tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh. Từ xưa đến nay sáng suốt không mờ, tỏ rơ thường
biết, nhưng v́ vô thỉ mê vọng, điên đảo không tự giác
ngộ. Muốn chứng Phật quả, trước hết phải tỏ ngộ
Phật tánh của chính ḿnh đă có, sau mới đem tánh ấy tu
tập: Bổn Hữu Vô Lượng Diệu Hạnh. Ở đây hành toàn nói
về Pháp tánh, là tận lư của giáo pháp Đại Thừa cho nên
gọi là Chung. Chung nghĩa là hết vậy.
4)
Nhứt thừa Đốn giáo: Gồm
có Lăng Già, Tư Ích, Kinh văn. Ngài Đạt Ma đă truyền thiền
tông, nói tất cả vọng tưởng bổn không, chơn tâm bổn
tịnh, nguyên không có phiền năo vốn là bồ đề, chỉ nói
Chơn tánh không nương cấp bực mà thành Phật, cho nên gọi là
Đốn.
5)
Bất Tư Ngh́ thừa Viên giáo: Gồm
có Hoa Nghiêm nhứt Kinh, Thập Địa nhứt Luận, hoàn toàn nói:
Tỳ Lô Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Trong đó đều có
hoặc Sự, hoặc Lư, hoặc Nhơn, hoặc Quả. Một mà đầy đủ
tất cả trùng trùng vô tận. Tổng hàm các pháp, không một
pháp nào mà không thu nhiếp. Xứng tánh tự tại, không chướng,
không ngại xa hẳn các thiên thuyết nên gọi là Viên. Năm
thời giáo này, trước tiên là hẹp ḥi, là quyền dụ, sau cùng
là thâm mầu, là chơn thật. Nếu lấy Viên giáo mà so sánh,
bốn thời giáo trước đều tạm quyền mà nói ra vậy.
(Nay
căn cứ vào lư tương đối mà Luận, bốn thời trước là
quyền, Viên giáo là thật. Nếu định chấp Viên giáo là
thật, th́ sẽ thiếu khuyết bốn thời trước, như thế không
phải là kẻ thông suốt Viên giáo đầy đủ. Nếu năm thời
giáo đều truyền bá, th́ Thiên Viên cùng tán thán, hiệp được
mọi căn cơ mới đầu đủ. Như trong Viên giáo dưới đây,
đều bao gồm đầy đủ các giáo lư pháp môn trước, cho nên
không tách riêng ra mà nói.) Nay nương theo Viên giáo tu hành,
lược chia làm hai phần. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới, sau
tu Phổ Hiền hạnh hải. Ban đầu ngộ Tỳ Lô pháp giới nghĩa
là trong kinh Hoa Nghiêm đă nói: Nhứt chơn vô chướng ngại pháp
giới, hoặc là nhứt tâm, ở trong đó đầy đủ ba thế gian:
1)
Khí Thế Gian: là
nói tất cả quốc độ.
2)
Chúng Thế Gian: là
nói tất cả hữu t́nh
3)
Trí Chánh Giác Thế Gian: là
nói tất cả Thánh Nhơn.
Bốn
Pháp Giới:
1)
Sự Pháp Giới.
2)
Lư Pháp Giới.
3)
Sự Lư Vô Ngại Pháp Giới.
4)
Sự Sự Vô Ngại Pháp Giới.
Tất
cả các pháp nhiễm tịnh, chưa có một pháp nào ra ngoài pháp
giới này. Đây là chơn tâm căn bản của tất cả phàm phu,
Thánh nhơn. Cũng là chơn thân căn bản.
Nói
rộng Chơn Tâm có hai:
1)
Đồng Giáo Chơn Tâm
2)
Biệt Giáo Chơn Tâm.
Đồng
Giáo lại có hai:
1)
Chung Giáo Chơn Tâm.
2)
Đốn Giáo Chơn Tâm.
Trước
hết nói về Chung Giáo Chơn Tâm: Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói
rằng: “Phải biết hư không sinh ra trong tâm của ông, cũng
như một đám mây điểm giữa bầu trời xanh, huống là các
thế giới ở trong hư không ư?”(Chơn
tâm của ta, cũng như bầu trời trong xanh. Mười phương hư không
dường như một đám mây, tức biết chơn tâm rất lớn, hư
khkông rất nhỏ. Hư không so với Chơn tâm cũng c̣n rất
nhỏ, huống các thế giới ở trong hư không vậy ư? ).
Lại nói rằng: “Hư không sanh trong đại giác, cũng như bọt
nước sanh trong biển lớn. Vi trần quốc độ hữu lậu, đều
y hư không mà sinh”. Đại Giác tức là tên khác của Chơn tâm,
Chơn tâm rất rộng lớn, cũng như đại hải. Hư không rất
nhỏ, in tuồng một bọt nước. Huống các quốc độ, đều y
hư không mà sinh. Nếu so với Chơn tâm, tức là nhỏ ở trong
cái nhỏ.
Lại
nữa, Chơn tâm biến khắp và viên măn, bao gồm cả mười phương.
Quán sát lại thân cha mẹ sinh ra, giống như trong mười phương
hư không kia mà đem thổi một vi trần, thoạt c̣n, thoạt
mất. Lại rằng: (Không biết
sắc thân, cho đến sơn hà đại địa, hư không đều là
vật ở trong Diệu minh Chơn tâm.) Lại rằng: “Tất cả các
vật có trong thế gian đều là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm.”
(Đă nói: Tức là Bồ đề Diệu minh Chơn tâm, không phải các
pháp thế gian mà ở trong Chơn tâm riêng có tự thể. Tức
biết hết thảy pháp giới, hư không, đại địa, hữu t́nh,
vô t́nh, toàn là một vị Diệu minh Chơn tâm vắng lặng,
thanh tịnh, không thêm, không bớt.). Tất cả chúng sinh
từ vô thỉ đến giờ, mê ngất Chơn tâm; vọng nhận tứ đại
làm thân, duyên lự làm tâm. Thí như trăm ngh́n biển lớn
trong lặng không nhận, chỉ nhận một bọt nước nhỏ. Nếu
rơ thân tứ đại, tâm duyên lự, duyên sinh không
tánh, toàn là nước biển.
Gần
đây có kẻ Nho sinh ít xem kinh Phật, nghe nói Chơn tâm rất
rộng lớn, mờ mịt chưa tin.
Tôi
xin nói thêm rằng: Đây chính là đức Như Lai dạy: Chỉ có
tự tâm mê muội, điên đảo không thấy, đâu có thể tin là
không có được. Như sách Trang Tử ở thế tục c̣n nói
rằng: Ở biển Bắc Minh có con cá, tên nó là Côn, cá Côn
lớn không biết bao nhiêu ngh́n dặm; hóa làm con chim gọi là
chim Bàng, lưng loại chim này dài không biết bao nhiêu ngh́n
dặm. Lúc giận, nó bay lên và đôi cánh che phủ như mây
trời. Bay đến biển Nam Minh, nó đập nước tung lên ba ngh́n
dặm, nổi sóng gió động đến chín vạn dặm. Ông Liệt Tử
nói rằng: Đời đâu biết có con vật như thế đó ư?
Ông Đại Vơ đi đường xem thấy, ông Bá Ích biết mà
đặt tên, ông Di Kiên nghe mà để ư. Không nên cho rằng mắt
ḿnh không thấy vật đó, rồi không tin là có. Sách thế
tục c̣n nói: Có tướng vật kỳ lạ, huống nữa đức Như
Lai đă nói Vô tướng Chơn tâm vậy ư?
Luận
Bảo Tánh nói rằng: Người ở trong vỏ trứng làm sao thấy
suốt được vũ trụ bao la? Câu nói đó thật là đúng!
Sau
đây nói về Đốn Giáo Chơn tâm, nghĩa là tâm tuyệt đăi đầy
đủ thanh tịnh, trong đó không dung nạp một cái ǵ khác,
tất cả vọng tưởng bản lai là không, tuyệt đăi Chơn tâm
bản lai thanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: Pháp tánh bổn không
tịch, không thủ cũng không kiến; tánh không tức là Phật,
không thể nghĩ lường được.” Luận Khởi Tín nói rằng:
“Tất cả các pháp từ vô thỉ đến nay, xa ĺa tướng nói
năng, xa ĺa tướng danh tự, xa ĺa tướng tâm duyên, rốt ráo
là b́nh đẳng; không có thay đổi biến dị, không thể phá
hoại; chỉ là nhất tâm cho nên gọi là Chơn như.” Về
phần Chung giáo ở trước, tùy theo mê muội của chúng sanh, nói
có sắc thân, sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các pháp.
Khiến các chúng sanh đổi vọng về chơn. Rơ thấu sắc thân,
sơn hà, hư không, đại địa, thế gian các pháp, toàn là
một vị Diệu minh Chơn tâm.
Nay
trong Đốn giáo, vốn không có sắc thân, sơn hà, hư không, đại
địa, thế gian các pháp. Vốn là một vị tuyệt đăi Chơn tâm.
Cho nên Ngài Thanh Lương nói rằng: Tóm lại không nói Pháp Tướng,
chỉ biện rơ chơn tánh, tức biết rơ châu biến pháp giới,
vốn là một vị tuyệt đăi Chơn tâm, vắng lặng thanh tịnh,
không sanh diệt, tăng giảm.” Muốn hiểu rơ sự châu biến
của pháp giới, hăy ví dụ nó giống như một viên ngọc tṛn
sáng, tỏ rơ, thanh tịnh, không h́nh không ảnh, không trong, không
ngoài. Ngài Thanh Lương nói rằng: “Thể tịch chiếu diệu độc
lập, vật ngă nhứt như.”
Ngài
Đại Ma nói: “Pháp của ta lấy tâm truyền tâm, không lập văn
tự!” tức là truyền tâm này vậy. Ngài Tào Khê nói: “Gương
sáng vốn thanh tịnh, cần ǵ phải lau chùi bụi trần ư?”,
cũng là tâm này vậy. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
nay, không rơ tâm này, vọng thấy các tướng cũng như con
mắt bịnh, thoạt thấy hoa đốm giữa hư không. Kinh Viên Giác
nói: “Vọng nhận tứ đại làm tự Thân tướng. Bóng dáng
của lục trần là tự Tâm tướng”. Cũng như con mắt bịnh
kia thấy hoa đốm giữa hư không. “Nếu rơ Chơn tâm, vốn không
có các tướng, như trong hư không vốn không có các hoa đốm.”
Kinh Viên Giác nói: “Như Lai nhơn địa tu Viên Giác. Biết
được không hoa đốm tức không c̣n lưu chuyển, cũng không
có thân tâm chịu sanh tử. Không tạo tác cho nên là Không,
v́ bản tánh là Không.” Nay trong Đốn giáo dụ như không
hoa đốm rất là thiết yếu. Ngày nay, người xuất gia
học Thiền rất rộng, nhưng đến khi nghe khai thị tâm này,
phần nhiều không nhập thần được. Như có ông Diệp Công
ưa thích loài rồng, nhưng lúc có con rồng thật hiện ra trước
mắt, ông ta mặc nhiên không đoái hoài đến. Nếu chưa ngộ
tâm này, không gọi là bậc Chơn thiền định. Như vậy,
muốn tu hạnh tham thiền, trước hết phải tỏ ngộ nhất tâm
này.
BIỆT
GIÁO CHƠN TÂM: Nhứt chơn
vô chướng ngại đại pháp giới tâm, bao hàm ba thế gian, đầy
đủ bốn pháp giới, bao gồm cả đây, cả kia mà không chướng
ngại. Tức biết pháp giới bao la, trùm chứa mười phương,
toàn là nhứt chon đại pháp giới tâm. Ở trong nhứt chơn đại
pháp giới này đă có: Phàm, Thánh, hoặc Lư, hoặc Sự. Tùy
theo đó nêu một pháp, cũng đều toàn là đại pháp giới tâm.
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Hoa Tạng thế giới đă có trần; trong mỗi
một trần thấy pháp giới, lại một trần đă là đại pháp
giới tâm. Ở trong một trần đại pháp giới này, lại nêu
một trần, cũng toàn là đại pháp giới tâm. Hoặc thời gian
hoặc không gian trùng trùng nêu cử, trùng trùng đều là đại
pháp giới tâm.” Cho nên Ngài Thanh Lương trong Hoa Nghiêm
Thập địa phẩm sớ đă nói: “Đế vơng vô tận nhứt tâm
vậy”. Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay mê vọng, không
biết vô tận pháp giới là tự thân tâm. Ở trong
đó vốn đầy đủ vô tận sắc tâm công đức, tức cùng
với Tỳ Lô Giá Na, thân tâm b́nh đẳng. Bỏ mất thân tâm
Phật, vô chướng, vô ngại của chính ḿnh, điên đảo chấp
làm tạp nhiễm chúng sanh. Thí như Kim Luân Thánh Vương thống
trị tứ thiên hạ, thân trí đầy đủ, giàu vui không ai sánh
bằng. Thoạt tiên ngủ mê, mộng thấy làm thân con kiến, ở
trong mộng chỉ nhận thân ḿnh là kiến, không biết ḿnh là
Luân Vương.
(Vô
tận pháp giới của Phật, đời khó thấu được, nay chỉ
dụ nghĩa: Mê chơn, chấp vọng, người trí phải nên biết.)
Vậy
muốn cầu thành tựu cứu cánh Phật quả cần phải ngộ Tỳ
Lô pháp giới, nếu chưa ngộ pháp giới này, dù trải qua
nhiều kiếp tu tập vạn hạnh, cũng uổng công nhọc xác, không
được gọi là Chơn thật Bồ Tát. Cũng không thể sinh trong
nhà của đức Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Không rơ nơ tự
tâm, làm sao biết Thánh đạo, trí huệ bị điên đảo, do đó
tăng trưởng tất cả sự ác. Ngài Thanh Lương nói: “Không nương
sự ngộ này, việc làm không chơn chánh, sự tu hành của ḿnh
sẽ ràng buộc thành nghiệp.” Vô tận pháp giới nhứt tâm này,
người ít hay biết, biết cũng ít tin, tin cũng ít hiểu,
hiểu cũng khó đạt đến cảnh giới đó. V́ vậy Bồ Tát
nhiều kiếp không tin, không hiểu. Thượng thủ Thanh Văn như
đui, điếc. Nếu là người có túc căn viên măn, nên chú ư
ở đây, ai dốc ḷng tri ngộ, đương nhiên ngày nay sanh vào
nhà của Phật.
Sợ
người khó tin, tôi xin kể câu chuyện trong Pháp Uyển Châu Lâm:
“Có một người ảo thuật, đi đường thấy một kẻ gánh
một gánh, trên có cái lồng có thể chứa được vài thùng.
Người ấy bảo kẻ gánh rằng: Tôi đi bộ mệt mỏi quá,
muốn chun vô lồng của ông để nghỉ chân, mong ông vui ḷng
cho tôi được như ư. Người gánh bèn suy nghĩ cho đó là kẻ
khùng, bèn nói: Ông thử vào xem. Người kia bèn nhảy vô
lồng một cách nhẹ nhàng. Tuy lồng chẳng lớn mấy mà người
ảo thuật cũng không phải là nhỏ. Người gánh đi măi vẫn
không thấy nặng. Đi được vài mươi dặm đường, ông ta đặt
gánh bên gốc cây và ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng
ăn. Người ảo thuật nói rằng: Tôi cũng có đầy đủ thức
ăn. Người gánh nh́n vào lồng thấy các vật dụng chứa đầy
đồ ăn uống, bèn mời người ảo thuật cùng ăn. Người
ảo thuật bảo người gánh rằng: Tôi muốn cùng ăn với vợ
tôi. Nói xong, y hả miệng nhả ra một người con gái dung
mạo đẹp đẽ và hai người cùng ăn uống. Ăn xong, người
chồng ngủ, c̣n cô vợ bảo người gánh rằng: Tôi có một t́nh
nhân muốn đến dùng bữa với tôi. Khi chồng tôi thức dậy,
ông chớ nên nói lại việc này. Cô gái liền há miệng nhả
ra một t́nh nhân rồi cùng ăn uống. Cả ba người đều ở
trong lồng vẫn không thấy chật hẹp. Lát sau, người ảo
thuật cựa ḿnh sắp thức dậy, anh t́nh nhân bảo người gánh:
Chào ông, tôi đi! Cô gái liền bỏ t́nh nhân vào miệng và đồ
ăn uống cũng cất hết trong mồm. Rồi lúc đó người ảo
thuật thức giấc cũng đem vợ bỏ vào miệng.” Đó là
truyện tiểu thuyết của thế gian, trùng trùng dung nhan như
thế, mà không bị chướng ngại pháp giới ư?
Vậy
cần phải suy xét cho chín chắn mà tin, suy nghĩ để thấu
hiểu. Chớ nên cao suy Thánh cảnh, luống dối một đời không
lợi ích.
TU PHỔ HIỀN HẠNH HẢI:
Đă ngộ được vô chướng ngại pháp giới vốn tự tâm ta,
trong đó vốn đầy đủ mười Hoa Tạng thế giới vi trần
số tướng hảo, đế vơng, vô tận thần thông công đức. Cũng
mười phương chư Phật không sai khác; ngặt v́ vô thỉ,
vọng t́nh chấp chặt, tập dĩ tánh thành, cuối cùng khó đoạn
dứt. Để khiến cho thần thông công đức của chính ta không
thể thọ dụng một cách tự tại. Cho nên cần phải xứng
với Tỳ Lô pháp giới của chính ḿnh, tu tập bản hữu Phổ
Hiền Hạnh Hải, làm cho vô tận công dụng mau được hiện
tiền.
Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Tu pháp này ít làm công lực, mau chứng Bồ
đề. Tuy Phổ Hiền Hạnh Hải rộng bao la không bờ bến.”
(Tất cả hạnh môn trong Tạng giáo đă nói đều là Hoa Nghiêm
Phổ Hiền Hạnh, chỉ ứng căn cơ thiển cận mà quyền chỉ,
nên nêu ra đây một ít mà thôi.)
Nay
nói Quán Hạnh Pháp Lược có năm môn:
1)
Quán Chư Pháp như mộng huyễn.
2)
Quán Chơn Như tuyệt tướng,
3)
Quán Sự, Lư vô ngại.
4)
Quán Đế Vơng vô tận.
5)
Quán Vô Chướng ngại pháp giới.
Trước
hết: 1) Quán các pháp như mộng huyễn:
(Tức đương sự pháp giới quán)
nghĩa là thường quán các pháp nhiễm, tịnh, tất cả không
thật, đều như mộng huyễn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “ Cũng như
trong chiêm bao, thấy các h́nh tướng sai khác; thế gian cũng
như vậy, như mộng không khác.” Lại nói: “Độ thoát tất
cả chúng sanh phải biết các pháp đều như huyễn; chúng sanh
không khác huyễn, hết huyễn không c̣n chúng sanh.” Và kinh
Kim Cang có dạy: “Tất cả các pháp hữu vi như chiêm bao,
bọt nổi, như sương mù, điện chớp, thường quán xét như
vậy.” Ngài Triệu Công nói: “Hư vậy, Vọng vậy, ba cơi không
thật; Mộng vậy, Huyễn vậy, sáu đường không vật.” Tất
cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, chấp tất cả pháp cho là
có thật, khiến khởi hoặc tạo nghiệp, tuần hoàn trong sáu
đường. Toàn thể không thật, đều như mộng huyễn th́ ái
ố tự nhiên tiêu diệt, ḷng bi trí tự nhiên tăng trưởng, sáng
suốt. Quán mộng huyễn trong Viên Giác Sớ gọi là: “Khởi
Huyễn tiêu trần quá. Trong Thiên Thai gọi là Giả quán, cũng
c̣n gọi là “Phương tiện tùy duyên chỉ”. Phân minh, soi
chiếu, gọi là Quán, vắng lặng không loạn động gọi là
Chỉ. Tức là trong Quán có chỉ, trong chỉ có quán mới là
chỉ quán song vận, các phép chỉ quán khác nương theo đây mà
rơ. Hoặc có người tuy tin hiểu Viên giáo mà phiền năo
nặng nề, không thể tu tập quán mộng huyễn được nên tu
quán bất tịnh. Nghĩa là quán sát thân này có năm món không
sạch.
a)Chủng
tử bất tịnh: Nghĩa
là tinh cha, huyết mẹ, hai chất trắng đỏ ḥa hợp mà
thành. Trí Độ Luận nói: “Thân là giống không sạch, không
phải các vật nhiệm mầu, quư báu, không do chất trong sạch
sinh ra, mà sinh ra từ nơi dơ uế.”
b)Trụ
xứ bất tịnh: Là ở
trong bụng mẹ, dưới sanh tạng, trên thục tạng chảy ra
chất không sạch, ô uế đầy dẫy, mà lại ở ngay trong đó.
Lại như Hải Sơn nói: Đồ không sạch mà đem làm áo trang
sức, c̣n thứ ô uế th́ lấy làm vật ăn uống.
c)Tự
thể bất tịnh: Gồm
có ba mươi sáu vật, đều cùng ḥa hợp không sạch. Nói ba mươi
sáu là: bên ngoài có mười hai phần: Tóc, lông, móng, răng,
mồ hôi, đại, tiểu, ghèn, mũi, đàm, dăi, nước miếng.
Lại có mười hai phần: Da, da ngoài, huyết, nhục, mỡ, đầu,
óc, màng mỏng, xương, tủy, gân, mạch. Bên trong gồm có mười
hai: Tim, gan, mật, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ dày, sanh
tạng, thục tạng, đàm đỏ, đàm trắng. Tức là từ đầu
đến chân đều không sạch. Ngài Vĩnh Gia dạy: “Cái đăy đầy
phân nhơ là chỗ chứa tụ máu mủ; chảy ra những chất
không sạch, là chỗ ở của vi trùng gịi giun, quán cá ươn,
hầm tiêu, cũng không sánh kịp.”
d)Tự
tướng bất tịnh: Là
chín chỗ (cửu khiếu) thường chảy ra các chất dơ nhớp.
Cửu khiếu: là hai tai xuất ra chất dơ; hai mắt chảy ghèn
và nước; hai lỗ mũi chảy ra nước mũi; miệng chảy ra đàm
dăi; đường đại tiện ra phân dơ; tiểu tiện chảy ra nước
khai hôi. Trí Độ Luận nói: “Các vật không sạch chứa đầy
trong thân, thường chảy ra các thứ không sạch như cái đăy
rách đựng đồ vật dơ.”
e)Cứu
cánh bất tịnh: Nghĩa
là khi thân hoại mạng chung, śnh to, hôi thúi, máu mủ nứt
ră, không dám lại gần. Ngài Thiên Thai nói rằng: “Từ chân
đến đầu, từ đầu đến chân, tuần tự quán sát, chỉ
thấy śnh lớn, nứt ră, trong đường đại, tiểu tiện gịi
trùng theo máu mủ ḅ ra, thúi hơn con chó chết.” Kinh Tâm
Địa Quán dạy: “Nên quán sát tự thân ḿnh hôi thúi, không
trong sạch, cũng như chó chết”. Kinh Kim Quang Minh nói rằng:
“Ta từ lâu hầu hạ thân hôi thúi này, máu mủ chảy ra
không thể thương mến được. Tuy thường cung cấp nuôi dưỡng,
nó vẫn ôm sự oán hại. Cuối cùng bỏ ta, nó chẳng biết ơn.
Quán sát tự thân ḿnh xong, lại quán sát thân kẻ khác hoặc
nam hoặc nữ, đă có thân th́ có đủ năm món bất tịnh.”
Cho nên Luận Khởi Tín nói rằng: “Nên quán tất cả những
thân có trong thế gian đều là bất tịnh.” Các món dơ uế
không có một cái ǵ đáng thương. Đă quán sát đều là
bất tịnh, tâm tham ái tự nhiên không khởi. Kinh A Hàm nói
rằng: “Xưa có một vị quốc vương đắm mê sắc dục
không nhàm chán. Có vị Tỳ Kheo lấy một bài kệ can gián
rằng:
-
Mắt là một cái hang chứa ghèn, lệ,
-
Mũi là cái đăy dơ chứa mũi, dăi.
-
Miệng là đồ đựng đàm dăi.
-
Bụng là kho chứa phẩn niếu.
Chỉ
có vua không có mắt huệ, bị sắc dục làm mờ mịt. Bần đạo
thấy gớm, cho nên xuất gia đi tu đạo tràng.” Ngài Thiên
Thai dạy rằng: “Tuy quán sát bất tịnh mà hay thành đại
sự. Như thây chết trong biển, nương nơi đó mà vào bờ.
Hoặc
là quán bộ xương trắng:
Trước hết quán tưởng cái thân của ḿnh da thịt nát ră,
chỉ thấy xương trắng lần lần từ hẹp đến rộng. Tưởng
nơi một cái đầu da thịt ră rời, chỉ thấy xương trắng
cho đến toàn thân đều là xương trắng. Đă quán thân ḿnh
đầy đủ một bộ xương trắng phân minh hiện rơ, rồi lại
quán người khác ră rời cũng vậy. Lần lượt quán hết
một cái pḥng, một ngôi chùa, một thành lũy, một quốc gia
cho đến khắp đất đai, lấy biển làm biên giới, sẽ thấy
đầy những bộ xương trắng. Muốn cho quán tâm tăng trưởng,
lại quán lần lượt từ rộng đến hẹp. Quán một quốc độ
là một bộ xương. Lần lần sẽ thấy một thành, một chùa,
một pḥng, một bộ xương đầy đủ. Rồi quán bộ xương đó
cho tới lúc chỉ thấy một chút xương trắng ở giữa chặn
mày. Thấy giữa chặn mày rồi chuyên chú một chỗ vắng
lặng mà an trụ, như vậy tu tập cho đến khi đắc định.
Quán này thành tựu th́ tất cả tham ái tự nhiên tiêu diệt.
Hoặc
Quán Sổ Tức: Nên từ
cạn đến sâu, lần lượt tiến tu. Trước hết phải tự
ḿnh điều ḥa hơi thở, không rít, không nghẹt. Nhứt tâm
chuyên chú đếm hơi thở ra vào. Trước hết, đếm hơi hít
vào, sau đếm hơi thở ra, từ một đến mười, xong rồi đếm
lại thế măi, tâm tưởng nơi đếm, đừng cho tán loạn.
Nếu thấy, không cần cố sức mà đếm dễ dàng từ một đến
mười trong hơi thở; lúc đó lại nhứt tâm theo hơi thở ra
vào. Khi hít vào, tâm cũng theo hơi vào, từ mũi đến yết
hầu, từ yết hầu đến tim, đến rú, đến đơn điền,
bắp vế, ống chân cho đến bàn chân, ngón chân. Khi hơi thở
ra, tâm cũng theo hơi thở ra. Hơi thở ra xa ngoài thân cho đến
một gan, một tầm. Nhứt tâm theo dơi hơi thở ra vào; nếu
thấy tâm và hơi thở nương nhau dễ dàng, bây giờ nên buộc
niệm, đ́nh chỉ tại giữa chặn mày, hoặc ở nơi đầu mũi,
dừng tâm tại đó, quán hơi thở an trụ nơi thân, như sợi
chỉ xâu hạt châu, hoặc lạnh hoặc ấm, hoặc thêm hoặc
bớt. Nếu thấy, thân vắng lặng khoái lạc, an vui, rồi lại
quán sát hơi thở nhẹ nhàng, vi tế. Lại quán tâm thức sát
na không trụ. Như vậy tu tập, cảm giác biết hơi thở ra,
vào, khắp lỗ chân lông. Tâm nhăn khai minh, thấy sáng suốt
trong thân ba mươi sáu vật và các trùng bọ, lúc bấy giờ đă
đắc định; rồi lại chăm tu các hạnh môn khác. Ở đây,
v́ sợ phiền phức nên tạm chấm dứt.
Như
trong kinh nói: Quán hơi thở ra, vào là bước đầu vào đạo
của chư Phật ba đời vậy.
Hoặc
Quán Ngă Không: Nên
cần phải để ư suy t́m, thân này bản lai vốn không có Ta
(vô ngă).
Chỉ
là sắc tâm, hai pháp ḥa hợp mà thành. Sắc có bốn loại:
đất, nước, gió, lửa. Nghĩa là cấu sắc: Lông, tóc, móng,
răng, da, thịt, gân, cốt, tủy, năo, đều là đất. Mũi, đàm
dăi, máu mủ, nước miếng, nước bọt, tinh khí, đại, tiểu
tiện đều là nước. Hơi nóng là lửa. Sự động chuyển
“hô hấp” là gió. Tâm có bốn loại: thọ, tưởng, hành,
thức. Thọ nghĩa là lănh nạp; giữ lấy h́nh tượng bóng
dáng, đó là Tưởng; tạo tác là Hành; rơ biết, phân biệt
là Thức.
Ở
trong tám loại này, cái nào là Ta? Nếu đều là Ta th́ có
tám cái Ta. Hơn nữa ở trong thân thể đă có ba trăm sáu
chục đoạn xương, mỗi đoạn đều riêng. Da, lông, gân,
thịt, gan, tim, phổi, thận, mỗi cái không giống nhau. Thấy
không phải là nghe. Vui không phải là giận. Đă có nhiều
vật như thế, không biết định lấy cái nào để làm Ta.
Nếu đều là Ta cả, th́ sẽ có cả trăm ngàn cái Ta. Trong
một thân sanh nhiều phân đoạn. Xa ĺa nó, sẽ không có pháp
riêng khác, t́m ṭi kỹ lưỡng cái Ta, cũng không thấy đâu
cả. Đă biết thân này là do duyên giả hợp với nhau. Bản
lai không có Ta. Hành giả ngày đêm thường tu phép quán rất
nhiệm mầu này. Bởi v́ tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến
giờ, chấp thân này là Ta; do đó mà quư trọng nó, tham cầu
danh lợi, muốn đem vinh quang lợi ích cái Ta. Tức giận cảnh
nghịch v́ sợ nó xâm phạm đến Ta. Tâm t́nh ngu si, đă so
sánh một cách trái lư. Nay đă thường quán thân này: Bản
lai không có Ta, tức tam độc tự diệt, tam độc diệt rồi,
ba cơi tự xa ĺa vậy.
Hoặc
Quán Pháp Không: Nên
cần quán xét hai pháp sắc tâm của thân này: Sắc có: Địa,
thủy, hỏa, phong. Tâm có: Thọ, tưởng, hành, thức. Nơi tám
pháp này mỗi pháp quán xét đều do duyên sanh, không có tự
tánh. Thể của tám pháp là không. Sơ tâm của hành giả nên
tu quán môn này. Tùy nơi tâm tam ưa thích một, hoặc hai, cho
đến năm pháp quán đều được tu tập. Tâm quán pháp môn
chỉ quư ở sự tu luyện, luyện mới có giá trị, nói suông
chẳng lợi ích chi.
2)Chơn
Như Tuyệt Tướng Quán:
(Tức đương lư pháp giới
quán) ở trong an tâm lại có ba môn:
a)Thường
quán toàn thể pháp giới, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như.
Vốn không có sự tướng sai khác. Trí năng quán này cũng là
một vị chơn như. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Tất cả các
pháp vô sanh; tất cả các pháp vô diệt. Nếu hiểu như vậy,
các Phật thường hiện tiền”. Thất Tổ thiền sư lại nói
rằng: “Niệm vô niệm, tức là niệm chơn như”. Đức Lục
Tổ giải thích vô niệm rằng: “Không, là không có các tướng;
niệm, là niệm chơn như”, đây mới tưởng niệm các pháp
toàn là chơn như. Nhưng tưởng niệm vốn là tướng của vô
tưởng niệm; cho nên Luận Khởi Tín nói rằng: “Tuy niệm
không có cái năng niệm, để mà niệm.” (Sở
tưởng chơn như ở đây tức là tuyệt đăi Chơn tâm trong
Đốn giáo đă nói trước. Hạnh môn này thường tưởng tất
cả pháp, chỉ là một vị thanh tịnh chơn như, vốn không
sanh diệt. Đó gọi là Chơn như tam muội, cũng gọi là Nhất
hạnh tam muội, hay là Vô sanh tam muội.)
b)Nếu
tu niệm khởi, chỉ khởi giác tâm. Cho nên Ngài thất tổ nói
rằng: “Khi niệm khởi liền biết, biết tức liền không; tu
hạnh diệu môn chỉ ở nơi đây; tức là giác tâm này, gọi
là quán. Đây cũng tuy khởi giác tâm, vốn không có tướng
khởi giác.” (Hạnh môn này,
trong tất cả thời, nếu khởi tâm niệm, chỉ khởi giác
tâm. Đây chính là tu hạnh yếu môn nhiệm mầu vậy).
c)Xét
tâm là sai, động niệm liền trái, chỉ để tâm mà không kư
thác vào, lư huyền diệu này sẽ tự lănh hội. Cho nên kinh
Hoa Nghiêm nói rằng: “Pháp tánh vốn không tịch, không thủ
cũng không kiến. Tánh không tức là Phật, chẳng thể suy lường
được.” Cổ đức nói rằng: “Thật tướng xa ĺa nói và
nghĩ; chơn như vượt lên trên thấy và nghe. Đây là chỗ an
tâm; học sự khác sẽ uổng công…” Ở đây cứ theo bổn
tánh tự chiếu, chứ không khởi sanh huệ giải mới mẻ nào.
Cho nên kinh Viên Giác dạy rằng: “Chỉ cần các Bồ Tát và
mạt thế chúng sanh ở tất cả thời không vọng niệm; nơi
các vọng tâm cũng không dứt bỏ. An trụ ở cảnh vọng tưởng,
không thêm liễu. Ở nơi không liễu trí, không biện chơn
thật”. Ngài Hiền Thủ lại dạy rằng: “Nếu khởi tâm
làm phàm, làm Thánh không phải là chơn hạnh; không làm tất
cả hạnh, hạnh tâm không nương kư vào đâu cả, đó gọi
là Đại Hạnh.” Môn này lấy bổn tánh tự chiếu, gọi là
quán “Hạnh môn này trong tất cả thời, tâm vô sở kư đó
gọi là chơn tu. Tuy tu đủ vạn hạnh, ở trong vạn hạnh,
tâm vô sở kư…”. Thiền tôn ở Trung Hoa bảy đời Tổ Sư,
chỗ truyền tâm yếu có ba môn; mà nhiếp tận hết thảy,
không để sót ǵ cả.
1)Kiến
Tánh Môn: Trước cần
phải liễu ngộ tuyệt đăi Chơn tâm. Tất cả vọng tưởng
bổn không, Chơn tâm bổn tịnh; tức tâm là Phật. Không nhờ
ngoại cầu, tức là Đốn giáo Nhứt tâm nói ở trên.
2)An
Tâm Môn: Như ba môn tưởng
niệm chơn như đă nói ở trên.
3)Phát
Hạnh Môn: Cần phải
đầy đủ tu Bồ Tát Lục độ Vạn hạnh. Đủ y ba môn tức
là chánh thiền; thiếu đi một môn sẽ trở thành thiên
kiến. Ngài Đạt Ma nói rằng: “Pháp của ta, lấy tâm
truyền tâm, không lập văn tự. Tâm này là bổn giác thanh
tịnh của tất cả chúng sanh, cũng gọi là Phật tánh. Muốn
cầu Phật đạo cần phải ngộ tâm này, tức là Kiến Tánh
Môn”. Lại nói rằng: “Do đó an tâm, gọi là quán vách
khiến cho kẻ đạo nhơn tu tập, tâm an trụ chơn lư. Tịch
nhiên vô vi, ví như tường vách, không khởi phân biệt tức
là an tâm môn.” Lại nói rằng: “Như vậy phát hạnh, có
bốn hạnh”:
a)Báo
Oán Hạnh: Nghĩa là
kẻ tu hành lúc gặp sự khổ sở phải tự nghĩ rằng: Ta từ
xưa, trải qua bao số kiếp, bỏ gốc theo ngọn, trôi nổi
trong các thú, khởi lên nhiều ghét oán, gây ra nhiều điều
bậy bạ, nguy hại. Nay tuy không phạm, nhưng v́ ác nghiệp,
túc oán đă chín muồi, chẳng phải trời hay người đem
lại, cam tâm nhẫn chịu mà không oán trách. Kinh dạy rằng:
“Gặp khổ không buồn. V́ sao? Đă hiểu thấu vậy!”
b)Tùy
Duyên Hạnh: Nghĩa là
đạo nhơn tu hành nếu
được các việc quả báo thù thắng vinh dự, phải tự ḿnh
nghĩ rằng: Tất cả pháp đều từ duyên sanh. V́ quá khứ ta
tu nhơn đă cảm nay mới được. Duyên hết rồi, trở lại
hoàn không; có ǵ phải vui mừng. Được, mất tùy duyên, tâm
không tăng giảm, gió vui không động; gió giận không sanh.
c)Vô
Sở Cầu Hạnh: Đời
người mê dại, nơi nơi tham trước gọi là t́m cầu. Người
trí khi ngộ chơn lư, xem thấy tam giới, chín cơi cũng như
nhà lửa. Có thân đều phải khổ, đâu được sự an vui, ở
trong tam giới, không c̣n chỗ mong vui. Kinh dạy rằng: “Có
cầu đều khổ, không cầu mới vui”.
d)
Xứng Pháp Hạnh: Nghĩa
là tánh tịnh chơn lư gọi là pháp, mà tánh này vốn không
keo kiệt cùng tất cả vạn ác khác. Nên xứng lư tánh mà tu
bố thí v.v… Tất cả vạn thiện, riêng bốn hạnh này tức
là phát hạnh môn. Ngài Thảo Đường Thiền Sư, ở trong kinh
Viên Giác Sớ cũng có ba môn, đều giống như vậy.
1)Trước
hết phải ngộ Viên Giác tánh:
Nghĩa là nhứt vị thanh tịnh Chơn tâm.
2)Phát
Bồ đề tâm: Nghĩa là
đại bi, đại trí, đại nguyện.
3)Sau
rồi tu Bồ Tát hạnh:
Nghĩa là Lục độ Vạn hạnh các pháp.
Ba
môn này rất thiết yếu cho người học Thiền, nếu không
viên tu ba môn, không do đâu thể xa ĺa các tà kiến. Từ xưa
đến nay Ngữ Lục của các nhà Thiền tôn, đa số chỉ ứng
theo thời, theo căn cơ hoặc chỉ nói đến kiến tánh, hoặc
chỉ nói an tâm, hay chỉ nói phát hạnh. Lại như trong nơi an
tâm, phát hạnh, lại mỗi mỗi có nhiều đường lối, hoặc
chỉ rơ một đường lối v.v… Nay các môn này, tâm nếu
không đạt; nhiên hậu xem đến Thiền giáo khác mới biết
được quy chỉ.
3)Quán
Sự Lư Vô Ngại: (Tức
là đương sự vô ngại pháp giới quán). Nghĩa là thường
quán tất cả các pháp nhiễm tịnh duyên sanh vô tánh, toàn
là chơn lư. Chơn lư là tất cả các pháp nhiễm tịnh. Như
quán sóng, toàn là tánh ướt, tánh ướt toàn là sóng. Cho
nên Khởi Tín Luận nói rằng: Tuy nghĩ các pháp tự tánh
không sanh, nhưng lại nghĩ đến nhân duyên ḥa hợp. Các
nghiệp: thiện, ác, quả báo, khổ vui, không mất, không
hoại. (Lư bất ngại Sự
vậy, như tánh ướt tuy có một, không chướng ngại cho việc
sanh ra nhiều sóng). Tuy nhớ nghĩ nhân duyên thiện ác,
nghiệp báo mà cũng liền nghĩ đến tánh của nó không có. (Sự
bất ngại lư vậy. Như sóng ṃi tuy nhiều, nhưng không ngại
toàn thể là tánh ướt.)
Nếu
tu tập: Giả, Không, Trung – ba pháp quán, nghĩa là tưởng
tất cả các pháp đều duyên sanh không tự tánh, thể của
nó là không, tức là Không quán. Như quán những h́nh tượng
trong gương, toàn là không có thật thể. Nếu tưởng tất
cả các pháp, tuy có mà không thật, đều như chiêm bao huyễn
hoá, tức là Giả quán. Như quán những h́nh bóng trong gương,
có mà không thật. Nếu tưởng tất cả các pháp, toàn là
một vị diệu minh Chơn tâm, nhu trước chung giáo đă nói rơ,
Chơn tâm rộng lớn ấy, tức là Trung quán. Như quán cái gương
sáng. Ba phép quán này, hoặc là riêng tu một môn, hay là
tiệm thứ đều tu, hoặc là một thời đồng tu, tùy ư lấy
hay bỏ như đồ dùng.
1)
Đế Vơng Vô Tận
Quán: (Tức là đương sự sự vô ngại quán). Trong đây lược
bày có năm môn:
1)
Lễ kính môn.
2)
Cúng dường môn.
3)
Sám hối môn.
4)
Phát nguyện môn.
5)
Tŕ tụng môn.
1)Lễ
kính môn:Nghĩa là tưởng
hư không khắp pháp giới: trần trần sát sát trước đế
vơng vô tận Tam-Bảo, có mỗi đế vơng vô tận tự thân
ḿnh. Mỗi mỗi thân ḿnh đều lễ lạy đế vơng Tam-Bảo vô
tận. Trước mỗi ngôi Tam-Bảo có đế vơng Tam-Bảo tự thân
lễ bái. Lại tưởng một môn này, tận hết đời vị lai
tế, không thôi nghỉ, niệm niệm tương tục, không gián đoạn,
thân ngữ ư nghiệp không có nhàm mỏi (Hoặc
trong lúc ngồi thiền quán tưởng; hoặc sớm chiều lễ
Phật, khi tu tập kiểm niệm. Nhập quán môn này công đức
vô tận). (Ngài Thanh Lương nói rằng: Không nhập pháp quán
này, tự ḿnh mệt nhọc uổng công. Hoặc thuần nhập được
môn này, th́ tưởng khắp pháp giới toàn là Tỳ Lô Phật
hoặc Chuẩn Đề v.v... Mỗi trước một tôn tượng, tưởng
một thân ḿnh lễ Phật. Tu tập cho đến thuần thục, lần
lần tăng trưởng đến 100, 1000 Tôn vị Phật cho đến vô
tận. Mấy pháp cũng y theo môn này mà tu tập.)
2)Cúng
dường môn: Tưởng
tận hư không khắp pháp giới trần sát đế vơng trước vô
tận Tam-Bảo, có mỗi đế vơng vô tận đồ cúng dường đầy
đủ, các sự cúng dường đế vơng vô tận Tam-Bảo. Trước
mỗi một ngôi Tam-Bảo, có đế vơng vô tận thân cúng dường.
Lại tưởng một môn này khắp hết đời vị lai tế không
nghỉ ngơi. Niệm niệm nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ,
ư, nghiệp không nhàm
mỏi. (Hoặc trong khi ngồi tưởng
cúng dường trước Phật, hoặc thiêu hương, dâng hoa, luyện
tập nhập pháp quán này. Nếu không có hương hoa, chỉ chấp
tay nhập quán môn này, công đức cũng phát sanh vô tận).
3)Sám
hối môn: Tưởng tận
hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế vọng vô
tận trước Tam-Bảo, có đế vơng vô tận thân. Mỗi mỗi
một thân đều đem hết ḷng chí thành sám hối đế vơng vô
tận tội chướng. Nghĩa là từ hồi nào đến thân ngày nay,
đă tạo các tội ngũ nghịch, thập ác, các phiền năo sở
tri chướng. Mỗi mỗi một thân, sám hối đế vơng vô tận
tội chướng. Mỗi mỗi tội chướng, có đế vơng vô tận
thân sám hối. Tổng tưởng một môn này hết thảy đời vị
lai tế không bao giờ nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau
không gián đoạn. Thân, ngữ, ư nghiệp nối nhau không nhàm
mỏi. (Hoặc trong khi ngồi tưởng sám hối, trước Phật sám hối, nên
tu tập quán môn này.)
4)Phát
nguyện môn: Tưởng
tận hư không pháp giới, trần trần sát đế vơng vô tận,
trước Tam-Bảo có đế vơng vô tận thân. Mỗi một thân
phát đế vơng vô tận nguyện. Nghĩa là: Chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ. Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn.
Phật pháp vô biên thệ nguyện học. Vô biên phước trí thệ
nguyện tập. Vô thượng Bồ đề thệ nguyện thành. Đem tất
cả tự tâm dă an vui với thiện nguyện mà tổng phát. Mỗi
mỗi một thân phát đế vơng vô tận nguyện. Mỗi mỗi một
nguyện có đế vơng vô tận thân phát. Tổng tưởng một môn
này hết đời vị lai tế không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm
nối nhau không gián đoạn. Thân, ngữ, ư nghiệp không nhàm
mỏi. (Trong lúc ngồi niệm
luyện trước Phật, khi phát nguyện tu tập pháp quán tưởng
này.)
5)
Tŕ tụng môn: Tưởng
tận hư không khắp pháp giới, trần trần sát sát đế vơng
vô tận trước Tam-Bảo, có các đế vơng vô tận thân. Mỗi
mỗi một thân tŕ các đế vơng vô tận chơn ngôn giáo pháp
danh hiệu chư Phật, Bồ Tát. Mỗi mỗi một chơn ngôn giáp
pháp, danh hiệu chư Phật, Bồ Tát có đế vơng vô tận thân
tŕ tụng. Tổng tường một môn này, tận đời vị lai tế
không nghỉ ngơi. Mỗi mỗi niệm nối nhau không gián đoạn.
Thân, ngữ, ư nghiệp không nhàm mỏi. (Hoặc
khi tŕ tụng kinh v.v… trước quán tưởng pháp môn này rồi,
nhiên hậu tŕ tụng rất nhiệm mầu. Năm pháp môn đă thực
hành rồi, c̣n các hạnh khác, y theo đây mà tu tập.)
Nếu
tu tập Tương tức quán, có bốn câu:
1)Một
tức là một: Nghĩa là
quán một sợi lông tức là một cái tai. Một cái tai, đồng
thời là một sợi lông.
2)Tất
cả tức là một.
3)Một
là tất cả: Hai câu
này nên hiệp lại mà quán. Nghĩa là khi quán tất cả người,
tức là tất cả Phật, tất cả Phật đồng thời, tức là
tất cả người. Trong mỗi câu tất cả các pháp lệ chuẩn
theo đây mà quán.
Nếu
tu tập Tương tập nhập quán cũng có bốn câu:
1)Một
nhiếp một đem nhập một:
Nghĩa là quán một người, nhiếp một Đức Phật, đem nhập
vào một vị Bồ Tát. Như cái gương phía Đông nhiếp vào
cái gương phía Nam, đem nhập vào cái gương phía Tây.
2)Một
nhiếp tất cả, đem nhập một: Nghĩa
là quán một cái hoa nhiếp tất cả sông, đem nhập vào một ḥn núi.
3)Tất
cả nhiếp một, đem nhập tất cả: Nghĩa là quán tất cả
trần nhiếp một Đức Phật, đem nhập trong một sợi lông.
4)Tất
cả nhiếp tất cả, đem nhập vào tất cả: Nghĩa là quán
tất cả cây nhiếp tất cả thần, đem nhập vào trong tất
cả biển. Trong mỗi câu, tất cả các pháp lệ chuẩn nơi đây
mà quán tưởng. Hai phép quán: Tương tức, tương nhập này,
tùy theo trong mỗi câu mà quán tưởng, lại có tổng quán,
biệt quán, nhiều pháp môn. Sợ phiền, không tŕnh bày hết,
chỉ chuyên tâm tu luyện, tự nhiên hiểu thấu.
Cho
nên Ngài Bùi Công ở trong bài tựa Pháp Giới Quán nói rằng:
“Chỉ khiến cho người học không rơ cảnh trong tự tâm.
Tâm huệ đă sáng tỏ rồi, tự thấy nghĩa vô tận. Đừng đem
giáo nghĩa Viên Thông ra chia vụn vặt từng đoạn. Nếu đồng
thời tu tập đầy đủ tương ưng quán, nghĩa là tùy quán
một pháp, đồng thời đầy đủ pháp giới các pháp
vậy. Các huyền môn kia lệ nơi đây mà hiểu. Nếu ưa
muốn tu tập Viên tôn tam quán chỉ. Chính như thân một người
rơ ba đế: Nhơn thân giả tướng mà có, đó gọi là Tục đế.
Nhơn thân duyên sanh vô tánh, sắc thể của nói toàn không
gọi là Chơn đế. Nhơn thân giả tướng không có tự tánh
riêng biệt, thể của nó toàn là tịch chiếu chơn lư, gọi
là Trung đạo đế. Nhưng ba đế này thể dụng không ngại,
không, hữu dung nhau. Tức một mà ba, tức ba mà một. Pháp
vốn như thị, y như ba đế này hành giả quán sát thành Tam
quán Tam chỉ. Nghĩa là tâm của hành giả quán nhơn thân giả
tướng, ĺa được cái chấp đó gọi là Phương
tiện tùy duyên chỉ. Lại
quán nhơn thân sắc thể toàn không, gọi là không quán. Tức
quán tâm này khi rơ được sắc Không, ĺa được các chấp
sắc thể thật có, gọi là Thể
chơn chỉ. Lại quán nhơn
thân này toàn là Trung đạo thật tánh gọi là Trung đạo
quán. Tức là quán tâm này xa ĺa được cái chấp có tướng
và xa ĺa được cái chấp thể không gọi là Viễn ly nhị biên phân biệt chỉ.
Quán
tâm như vậy ở trong một niệm thấy cả ba đế, nghĩa là
lập tam quán. Xa ĺa được ba món chấp, nghĩa là lập tam
chỉ. Tam quán tam chỉ, chỉ là nhứt tâm. Tức một thường
là sáu, tức là sáu thường là một. Đem nhứt tâm này khế
đồng sở quán tam đế, cảnh vô ngại của thể và dụng,
của không và hữu. Tâm cảnh thường dung, lại thường rơ
ràng. Đă quán một thân người mà thành tam quán tam chỉ;
quán tất cả đều như vậy. Hỏi rằng: Luận
về Đại Hạnh tóm lại chỉ vô niệm; cớ sao lấy đế vơng
tương tức quán v.v… Khiến cho người khởi lên vô tận tưởng
niệm, há không mệt mỏi thân tâm ư? Xin trả lời: Nếu thấy đây là một ly niệm để
ngoại cầu vô niệm, mà c̣n chưa được cái chơn vô niệm.
Chơn vô niệm là niệm vốn không không làm thế nào lại được
cái niệm, cùng vô niệm không chướng ngại nhau? Nếu như
được toàn thể Viên hạnh trong Vô tận hạnh? Lời hỏi này
là cái ư xuất ra trong Hoa Nghiêm Kinh Đại Sở. Nếu không tu
tập các quán đế vơng tương tức, th́ không thể chứng
trọn được vô ngại Phật quả. Nay có tiểu căn nghe pháp
môn này liền thêm phiền loạn, hoàn toàn không thèm để ư.
Người xưa nói rằng: con ếch ngồi đáy giếng không thể
biết nơi biển lớn được. Núi Thái Sơn không thể đựng
trong đăy được.
5)Vô
Chướng Ngại Pháp Giới Quán:
(Tức đương tức pháp giới
sở y tổng pháp giới quán), nghĩa là thường quán sát
tất cả pháp nhiễm tịnh. Thể của nó toàn là vô chướng
ngại pháp giới tâm. Trí năng quán này cũng tưởng toàn là
pháp giới tâm. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Biết tất cả
pháp, là tâm tự tánh. Thành tựu huệ thân, không do tha
ngộ”. Lại Ngài Thanh Lương nói rằng: “Nếu biết xúc
vật đều là tâm, mới rơ được tâm tánh. Nay trong vô chướng
ngại pháp giới này, vốn đủ ba thế gian, bốn pháp giới.
Tất cả nhiễm tịnh các pháp, chưa có một pháp nào ra ngoài
pháp này, mà pháp giới này đầy đủ cái này, cái kia, xen
nhau vô chướng ngại. Thời biết căn căn, trần trần, toàn
là vô chướng ngại pháp giới. Nếu ở trong bốn oai nghi, thường
quán căn căn, trần trần đều là trùng trùng vô tận pháp
giới, th́ tu được cảnh giới phổ nhăn vậy. Quán này là căn
bản của tất cả phép quán tam muội. Nếu thường tu tập,
tất cả tam muội quán môn tự nhiên hiện tiền.” Như trên
đă nói nhiều quán môn, hoặc ưa thích tổng tu, hoặc tu
một, hai phép, tùy ḷng đều được. Chỉ chuyên cần tu
luyện, một đời chưa được, ba đời chắc hoàn thành. Lại
nữa, hành giả cần phải nổi lên cái tư tưởng, tưởng
được hiện tiền, thường được hiện không ẩn mới là
Hoa Nghiêm Viên giáo, Chơn Hạnh; Thanh Lương Sở Chú: Sự sự
vô ngại trong mười huyền môn gồm có sáu câu. Năm câu trước
là khởi tưởng tu luyện, luyện được hiện tiền rồi,
lại không tưởng luyện, tuy không tưởng luyện thường
hiện không ẩn, mới thành đệ lục hành cú. Pháp giới quán
nói rằng: “Suy tư thật sâu xa, khiến nó hiện ra trước
mắt, viên minh hiển hiện, xứng hạnh cảnh giới.” Ngài
Khuê Sơn thiền sư giải thích rằng: “Suy tư khiến nó hiện
ra chơn giải vậy. Đă hiện ra, liền dừng suy tưởng. Tuy
không suy tưởng mà cũng thường hiện ra, không giấu kín
mới là thật hạnh.”
Ngài
Nhất Hạnh thiền sư nói rằng: “Trước cần khởi tưởng,
tưởng được hiện tiền, nhiên hậu dùng Bát nhă không mà
tịnh trừ nó. Tức thành bất tư ngh́ đại dụng, liền đốn
nhập Phật quả. Nếu không khởi tâm quán đó, lầm lănh
hội ư Bát nhă, dẫu cho có nhập không cũng mất đạo lư
viên đốn, đối với viên tôn hành giả tu luyện chí thiết
th́ tự nhiên lời nói biến mất, dứt tuyệt suy nghĩ, liễu
liễu phân minh mới là chơn tu hạnh. Nếu được như vậy
trong bốn oai nghi thường thấy những cảnh giới không thể
nghĩ bàn. Người muốn tu đạo nên lưu tâm sự này, bổn lai
như vậy, chỉ v́ mê muội không thấy đó thôi.
Người
tu tâm hoặc có cảnh mộng thiện ác, hoặc gặp các thứ ma
chướng hiện ra các cảnh giới khác: Trái, thuận, hay nghe
các thứ tiếng thiện ác, hoặc các loài trùng kiến ḅ chạy
trên thân, hoặc thân tâm không an, nhiều lo lắng. Hoặc khi
nhập quán tưởng có các thứ tướng hiện, không đồng với
bổn quán tương ưng v.v… Điều cần phải quán đó như
chiêm bao, mộng huyễn, tất cả đều không có thật. Hoặc
quán tất cả là tự chân tâm của ḿnh. Luận Khởi Tín dạy
rằng: “Đương niệm duy tâm, cảnh giới bèn diệt, không
thể làm hại ḿnh được.”
Từ
trước đến giờ đă nói xong phần HIỂN GIÁO TÂM YẾU.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 3 of 4: Đă gửi: 15 April 2008 lúc 4:39pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ MẬT TÔNG
(BỐN TẬP)
Dịch Giả : Thích Viên Đức
---o0o---
HIỂN MẬT VIÊN
THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU
---o0o---
II.
MẬT GIÁO TÂM YẾU
Gồm có các bộ như:
Thần Biến Sớ Sao, Mạn Trà La Sớ Sao, đều cho Đà ra ni giáo
là Mật Viên vậy. Hiển giáo viên tôn về phần trước, nói
sự tu hành cốt yếu trước phải ngộ Tỳ Lô pháp giới. Sau
y ngộ, tu Phổ Hiền Hạnh Hải, ĺa được sanh tử, chứng
được nhập thân vô ngại Phật quả. Như người bịnh được
phương thuốc tốt, cần phải biết phân, lượng, phép tắc bào
chế, hiệp thành mà uống mới có thể lành bệnh, thân an.
Nay
Mật Viên Thần chú, tất cả chúng sanh cho đến nhơn vị Bồ
Tát, tuy không hiểu được, chỉ tụng đó liền được Tỳ Lô
Pháp Giới, Phổ Hiền Hạnh Hải. Được ĺa sanh tử, thành
tựu mười thân vô ngại Phật quả, như bịnh nhân gặp được
món diệu dược. Tuy không biết phân lượng phép tắc hoà
hợp; chỉ uống thuốc là tự nhiên trừ bịnh, thân an. Cho nên
kinh Thủ Lăng Nghiêm nói rằng: “Mật chú của chư Phật là
phép bí mật; chỉ có Phật với Phật tự biết với nhau; các
vị Thánh không thể thông đạt. Chỉ tụng tŕ là diệt được
đại lỗi, mau lên Thánh vị.” Lại nói rằng: “Thần chú là
Mật ấn của chư Phật; Phật, Phật truyền nhau, người khác
không thể thông hiểu.” Hiền Thủ Bát nhă sớ nói rằng:
“Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ hiểu
của nhơn vị”. Chỉ tụng tŕ không cần phải gượng giải
thích. C̣n Viễn Công Niết Bàn Sớ nói rằng: “Chơn ngôn chưa
chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Phiên dịch lại
không hiểu, v́ vậy nên không phiên giải!”. Trong Thiên Thai
Chỉ Quán nói rằng: “ Bậc Thượng Thánh mới có thể nói
cả hai pháp Hiển Mật. Kẻ phàm nhơn chỉ tuyên truyền Hiển
giáo, không thể tuyên truyền về mật giáo. Các Sư từ xưa
đều nói: “Đà Ra Ni, nhơn vị Thánh Hiền, không thể hiểu
giải, chỉ nên tin mà thọ tŕ, diệt được tội chướng, thành
tựu phước đức.”
Hỏi:
V́ sao, Mật chú của chư Phật không thể giải thích cho người
khác hiểu?
Đáp:
Thần chú là viên măn giải là phiến diện. Giải làm cho chú
mất; bởi vậy nên không giải thích cho người khác rơ được,
mật nghĩa nằm trong đó, cần phải suy nghĩ. Trong Pháp Hoa Sao
nói rằng: “Về bí pháp của chư Phật, không hiểu nghĩa nó
được, cho nên nói là Mật ngôn”. Bát nhă kinh nói: “Tổng
tŕ như thuốc thần, cũng như cam lồ của trời trị lành các
bịnh sai lầm, uống th́ thường an vui.
Lại
trong Lư Thú kinh, đức Như Lai có nói năm tạng:
1)Kinh
Tạng: Như sữa ḅ.
2)Luật
Tạng: Như sữa đặc.
3)Luận
Tạng: Như sữa tươi.
4)Bát
Nhă Tạng: Như sữa chín.
5)
Đà Ra
Ni Tạng: Như đề hồ.
(Đề
hồ là vị đă lọc, nó ngon nhất trong các món ăn bằng
sữa; trị được các bịnh, khiến các hữu t́nh thân tâm an
vui. Ở Tây Thiên Trúc thường dùng đề hồ để trị các
bịnh.)
Đà
Ra Ni trong các Kinh, Luật là tối thắng, đệ nhất, hay trừ các
tội giúp cho các chúng sanh giải thoát sanh tử, mau chứng
Niết Bàn, An-Lạc pháp thân. Lư Thú kinh sớ nói rằng: “Tánh
Đức Lực Đại, mật chú công cường, giải hạnh tuy kém,
giải thoát th́ mau.” Các đại sư như: Hiền Thủ v.v… chỉ
cho Hoa Nghiêm kinh là Viên, các giáo khác đều không phải. Nay
lại cho Đà Ra Ni là Viên giáo, vậy không trái với Hiền
Thủ cùng các đại sư khác sao?
-Đáp:
Viên tông có hai:
1)Hiển
viên.
2)Mật
viên.
Hiền
Thủ chỉ căn cứ vào Hiển giáo chánh phán Hoa Nghiêm là Viên.
Nay có Thần Biến sớ sao, Mạn Trà La Sớ Sao, cho rằng giống
như các thứ Hiển viên, Mật giáo cũng là Viên tông. Hiển
Mật đă khác mà các sự không trái. Y theo Mật Viên tu luyện
cũng chia làm hai:
1)Tŕ
tụng nghi quỹ.
2)Nghiệm
thành hành tướng.
Trước
hết nói về Tŕ Tụng Nghi Quỹ:
Chơn Ngôn hành giả, mỗi ngày muốn y pháp tŕ tụng, trước
hết phải ngồi Kim Cang chính tọa: (Lấy chân bên hữu gác lên
chân bên tả, hoặc tùy ư ngồi sao cũng được.) Tay kiết Đại
Tam muội ấn (Lấy hai tay
ngửa ra rồi tay hữu để lên tay bên tả, hai đầu ngón cái
giáp lại nhau, để ngang dưới rún, ấn này hay diệt tất
cả cuồng loạn, vọng niệm, tư duy tạp nhiễm.) Thân tam
lắng tịnh, nhập định pháp giới Tam muội. Tưởng: tự thân
trên đảnh đầu ta có một chữ Phạn LAM (Trong
sách có ghi ra Phạn tự, song không thể đánh máy bằng vi tính
được. Nếu hành giả nào muốn thực hành, xin t́m sách để
nghiên cứu thêm)
Chữ
này biến ra ánh sáng quang minh, như ngọc Minh châu, như mặt
trăng rằm tṛn sáng. Tưởng chữ này xong, lại lấy tay trái
kiết ấn: Kim Cang Quyền ấn: (Lấy ngón tay cái để trong ḷng
bàn tay bấm lại đốt vô danh chỉ giáp ḷng bàn tay, rồi
nắm chặt như cầm cú, ấn này hay trừ nội, ngoại chướng
nhiễm, thành tựu tất cả công đức.) Tay mặt cầm chuỗi kư
số, miệng tụng: Tịnh pháp giới chơn ngôn: 21 hoặc 108
biến. Chơn ngôn: Án Lam; hoặc chỉ đơn tŕ Lam hay là Lăm
Tịnh
pháp giới Lam tự này, hoặc tưởng, hoặc tụng thường
khiến tam nghiệp đều được thanh tịnh; tất cả tội chướng
đều được tiêu trừ. Lại hay thành tựu tất cả việc thù
thắng; ở chỗ nào cũng được thanh tịnh. Y phục bất tịnh
khiến thành tịnh y. Thân không tắm gội vẫn được sạch
sẽ; nếu dùng nước làm cho sạch, không gọi là Chơn tịnh.
Nếu dụng tịnh pháp giới LAM tự này để tịnh, liền gọi
là b́nh thanh tịnh triệt để. Như một hạt linh đơn điểm
vào sắt thành vàng ṛng. Chơn ngôn một chữ biến nhiễm thành
tịnh. Kệ rằng:
Ra
tự sắc tiển Bạch. Không điểm dĩ nghiêm chi. Chữ RA, sắc
trắng tịnh, điểm vào chỗ không để trang nghiêm nó, Phạn
tự RA điểm vào chỗ không trên, tức thành LAM tự.
Như
Minh châu trên nhục kế, an trí tại đỉnh đầu; Chơn ngôn đồng
pháp giới; vô lượng chúng tội trừ. Tất cả xúc uế, nên
gia tŕ chữ này. Nếu thật ngoại duyên không đầy đủ, không
nước để tắm rửa, thiếu y mới tinh sạch, chỉ dùng LAM
tự để làm cho sạch. Nếu người có ngoại duyên đầy đủ,
trước dùng nước xong mặc y mới thanh tịnh, lại dùng LAM
tự tịnh nữa, tức là trong ngoài đều thanh tịnh. (Như các
chơn ngôn Nghi quỹ nói.)
Rồi
tiếp tục tụng chú: Hộ thân chơn ngôn 21 hay 108 biến. Chơn
ngôn, Phạn tự ÁN XỈ LÂM. Nếu tụng chú này, hay diệt ngũ
nghịch, thập ác, tất cả tội nghiệp. Có công năng trừ
tất cả bịnh, tai chướng, ác mộng, tà mị, quỷ thần và các
việc bất tường. Thành tựu các việc thù thắng; khiến
tất cả mọi sự mong cầu đều được viên măn. Chú này là
tâm của chư Phật, nếu người chuyên tâm tụng một biến
hay bảo hộ được chính ḿnh. Tụng hai biến hay bảo hộ
được đồng bạn. Tụng ba biến thường bảo hộ mọi người
trong nhà. Tụng bốn biến bảo hộ mọi người trong một thành.
Cho đến bảy biến hay bảo hộ người trong tứ thiên hạ.
Rộng
như Văn Thù Căn Bản Nhứt Tự Chú kinh nói.
Kế
đến tụng 108 biến Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn: ÁN MA NI BÁT
DI HỒNG, ÁN MA NI BÁT MINH HỒNG hay MA NI BÁT NẠP MINH HỒNG.
Nếu tụng chú này ngay chỗ
có vô lượng chư Phật, Bồ Tát, Thiên Long, Bát Bộ nhóm
hội, đầy đủ vô lượng tam muội pháp môn. Ai tụng tŕ, th́
bảy đời ḍng họ đều được giải thoát; các trùng ở
trong bụng sẽ được Bồ Tát vị. Người đó hằng ngày được
đầy đủ công
đức
sáu pháp Ba la mật. Được vô tận biện tài trí huệ thanh
tịnh. Hơi ra trong miệng chạm đến người nào, người đó
nhờ sự tiếp xúc xa ĺa các sân độc, sẽ được Bồ Tát
vị. Giả như: Người trong bốn thiên hạ, đều đắc Thất
địa Bồ Tát vị. Các Bồ Tát đó có bao nhiêu công đức, sánh
với công đức tụng một biến chú Lục tự, cả hai đều b́nh
đẳng không sai khác. Chú này là Vi diệu bổn tâm của Ngài
Quan Thế Âm Bồ Tát. Nếu người nào chép lại sau chữ Đại
Minh này, sánh với sự viết, chép tám vạn bốn ngàn Pháp
Tạng, cũng bằng công đức đó, không sai khác. Nếu lấy vàng
báu tạo tượng Như Lai, số như vi trần, không bằng công đức
việt một trong sáu chữ này. Nếu người nào đă đắc sáu
chữ Đại Minh này, th́ họ không c̣n bị nhiễm trước tham,
sân, si. Nếu đeo Thần chú này nơi thân cũng hết nhiễm tham,
sân, si. Người tŕ tụng đeo mang sáu chữ này, tất cả loài
hữu t́nh mà chân, tay người đó chạm đến, mắt người đó
ngó đến, đều mau đắc Bồ Tát vị, không c̣n thọ các
khổ sanh tử nữa. Khi nói xong Lục Tự Đại Minh này, có
Thất Thập Thất Cu Chi Phật đồng thời xuất hiện và đồng
thanh nói “CHUẨN ĐỀ CHÚ”. Vậy, nên biết Lục Tự Đại
Minh cùng Chuẩn Đề Chơn ngôn lần lượt nương vào nhau.
(Rộng như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói.) Nhiên
hậu kiết ấn Chuẩn Đề tại Tim.
Chuẩn
Đề Chơn ngôn cùng Nhứt tự luân chú, một thời đồng
tụng 108 biến xong rồi xả ấn trên đỉnh đầu. (Hoặc không
muốn tụng Đại Luân Chú, chỉ tŕ Chuẩn Đề Chơn ngôn cũng
được.)
*
CHUẨN
ĐỀ PHÁP ẤN
Lấy
ngón áp út và ngón tay út bên mặt cùng bên trái xỏ lộn
với nhau vào trong ḷng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng
lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai
ngón tay giữa; c̣n hai ngón tay cái th́ đè lên lóng giữa ngón
tay áp út bên mặt, để ngang ngực, chí tâm tụng chú Chuẩn
Đề và Đại Luân Nhứt Tự, nếu muốn triệu thỉnh, đưa
qua đưa lại hai đầu ngón tay trỏ. Khi kiết ấn, tụng chú,
muốn đếm số cho nhớ, ở nơi tay chia lóng chỉ trên mà đếm.
Hoặc trên tay của tượng Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc quán tâm
kư số, hoặc mười niệm kư số. Hoặc kiết ấn tụng được
một ngh́n tám chục biến (1.080) rất tốt, hay hơn 108 biến.
Hoặc chỉ tay bên tả kiết ấn kim cang quyền, tay bên hữu
cầm chuỗi tŕ số cũng được, nếu sợ lộn, chỉ tán tŕ
cũng có kết quả.
Thất
Cu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà Ra Ni Chơn ngôn:
Nam Mô Tát Đa Nẫm,
Tam Miệu Tam Bồ Đề Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chiết
Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha. Bộ Lâm.
Phật
dạy: Thần chú này có công năng diệt trừ thập ác ngũ
nghịch tất cả tội chướng. Thành tựu tất cả bách công
đức. Tŕ chú này dù ở tại gia hay xuất gia, không lựa kẻ
tịnh người uế; chỉ chí tâm tŕ tụng hay khiến chúng sanh
đời sống ngắn ngủi, sẽ tăng thọ vô lượng. Ca Ma La tật
là bệnh nan y, c̣n trị lành, huống chi các bịnh khác; nếu
không tiêu diệt là không có lư. Nếu có ai tụng măn bốn mươi
chín ngày, Chuẩn Đề Bồ Tát khiến hai vị Thánh thường
theo người đó, kẻ nào có tâm niệm thiện ác, đều mỗi
mỗi báo hiệu hai bên tai người đó đầy đủ. Nếu có người
vô phước trúng tướng cầu quan không toại ư, nghèo cùng
khốn khổ, bức bách; thường tụng chú này sẽ khiến hiện
đời được phước báu như Luân Vương cầu xin quan vị
quyết được xứng toại. (Trong Thiền Tôn, truyện Đăng Lục
có trí dẫn người xưa) : “Cu chi chỉ niệm Tam Hành Chú mà
được danh tiếng hơn người”. Nếu cầu trí tuệ được đại
trí tuệ; cầu nam nữ được nam nữ. Phàm có sở cầu, đều
được xứng ḷng và toại ư, giống như ngọc Như ư; tất
cả tùy tâm ḿnh muốn. Hơn nữa, tụng chug này thường
khiến cho các quốc vương, đại thần và tứ chúng đều sanh
ḷng kính yêu, thảy đều hoan hỷ. Người tụng chú này,
xuống nước không chết ch́m, nạn lửa không thể đốt. Độc
dược, oan gia, quân trận, cường tặc và ác long thú, các loài
quỷ mị đều không thể hại. Nếu muốn thỉnh: Phạm vương,
Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Diêm La, Thiên Tử v.v… chỉ
tụng chú này tùy thỉnh quyết đến, không dám trước sau
chậm trễ. Hoặc có sai khiến ǵ được như ư muốn. Thần
chú này có thế lực lớn đối với Nam Thiệm Bộ Châu. Dời
núi Tu Di; khô nước Đại Hải; chú vào cây khô sẽ phát sanh
hoa quả, huống chi là người năng y pháp tŕ tụng, có thể
chuyển nhục thân, được đại Thần túc, sanh về cơi trời
Đâu Suất. Nếu cầu trường sanh và các tiên dược, chỉ y
pháp tụng chú, sẽ thấy được đức Quan Thế Âm Bồ Tát,
Kim Cang Thủ Bồ Tát trao cho thần tiên diệu dược, lấy đó
mà ăn, sẽ thành tiên đạo. Được sống lâu ngang bằng
nhật nguyệt, chứng Bồ Tát vị. Nếu y pháp tụng măn một
trăm vạn biến, liền được đi mười phương Tịnh Độ,
hầu hạ các vị Phật, nghe khắp diệu pháp, chứng được
quả Bồ đề.
Nếu
muốn thành tựu đàn pháp: ở đây không đồng các Chơn ngôn
khác, cần phải rộng tu cúng dường chỗ kiến lập đạo tràng
phải cuốc đất hương nê : (bột
hương trộn đất nhăo để thoa khắp nơi đạo tràng).
Ở đây chỉ dùng một cái kính tṛn rất mới, chưa dùng (làm
Kính đàn) để trước tượng Phật tùy theo tháng ngày tối
Rằm; mặt hướng về phương Đông, ngồi trước Kính đàn tùy
sức trang nghiêm; các món cúng dường đầy đủ. Xông An tức
hương, nước tịnh thủy, nhiên hậu kiết ấn để tại ngang
ngực. Chú trong Kính đàn 108 biến Chuẩn Đề, xong lấy bao
vải bỏ Kính đàn vào, đi đâu cũng đem theo để tùy thân.
Mỗi khi muốn tụng niệm, chỉ lấy Kính đàn ra để trước
mặt, kiết ấn tụng chú. Nếu không thể tụng niệm hằng ngày,
chỉ cần những ngày thập trai, đối Kính tŕ tụng cũng được.
Ngoài
mười ngày trai, không tŕ tụng trước Kính đàn cũng được.
(Trong Mật tạng, Kính đàn này là yếu diệu, Tổng nhiếp
tất cả các Đàn pháp. Nếu không có Kính đàn, chỉ tưởng
một Kính đàn trước mặt mà tŕ tụng. Kinh Tịnh chư ác thú,
cùng nhiều kinh khác phần nhiều nói: Tưởng thành Đàn pháp,
tŕ tụng là hơn hết. Hoặc không tưởng được Đàn pháp
chỉ nên chuyên tâm tŕ chú. Các ngày thập trai: 1, 8, 14, 15,
18, 23, 24, 28, 29 và 30.) Chú Chuẩn Đề này các Phật và Bồ Tát
đều đồng nói. Độc Bộ Biệt Hành, tổng nhiếp 25 bộ Chơn
ngôn Đàn Pháp, Chuẩn Đề Phạn bổn Văn thuyết có mười
vạn bài kệ. Ngài Long Thọ Bồ Tát nói bài kệ tán thán
rằng:
“Chuẩn
Đề Công Đức tụ;
Vắng
lặng tâm thường tụng.
Tất
cả các đại nạn,
Không
thể xâm phạm người.
Trên
trời và cơi người,
Thọ
phước ngang bằng Phật.
Gặp
chây Như Ư này,
Đắc
định, chứng Bồ đề.
(Rộng
như Chuẩn Đề kinh và Tŕ Minh Tạng Long Thọ Nghi, nói:
Chuẩn Đề cũng có nơi gọi: Chuẩn Nê hay Tôn Na… Chỉ là
Phạn âm bất đồng mà thôi.)
Chú Đại Luân Nhứt Tự: tức là Bộ Lâm, cũng gọi là Nhứt Tự Tâm Chú trong đời
mạt pháp. Đối với thời mạt pháp, khi chánh pháp
sắp diệt, chú này có đại thế lực. Hay giúp thế
gian làm đại lợi ích, hay hộ tŕ Pháp Tạng của Như Lai,
hay hàng phục tất cả tám bộ chúng, hay bẽ găy tất cả các
ác chú trong thế gian. Đây là đảnh của các Đức Phật, là
tâm của Văn Thù Bồ Tát, hay ban thí vô úy cho tất cả chúng
sanh và ban sự vui sướng cho họ. Phàm có tu tŕ sẽ tùy ư đắc
quả, giống như ngọc Như Ư. Có công năng làm măn nguyện
tất cả. Nếu tụng chú này, nh́n thẳng bốn phương, các ác
quỷ thần các xa năm trăm trạm đều chạy tản lạc. Các ác
tinh diệu và các Thiên ma không dám lại gần. Nếu tŕ tụng
các chơn
ngộn
khác sợ không thành tựu. Nên dùng chú này cộng chung với Chơn
ngôn khác đồng thời tŕ tụng, nhất định sẽ kết quả.
Nếu không thành tựu và hiệu nghiệm th́ các vị thần hộ
chú kia cái đầu sẽ bị phá vỡ ra làm bảy phần. Cho nên chú
này thường trợ lực cho các Chơn ngôn mau có kết quả.
Hoặc tŕ riêng chú này cũng được. (Rộng như Văn Thù Nghi
kinh; Mạt Phát Trung Nhứt Tự Tâm chú kinh nói.)
Từ
trước đến giờ lần lượt tŕ tụng đến Chuẩn Đề chú;
nếu không kiết được ấn chú Chuẩn Đề, th́ lấy tay trái
kiết ấn Kim Cang quyền, tay mặt cầm chuỗi mà tŕ tụng.
Hoặc không theo sau, trước tụng tịnh pháp giới Chơn ngôn
lần lượt thọ tŕ, chỉ tŕ Chuẩn Đề Thần chú, hoặc căn
độn không thể thọ tŕ đầy đủ chú ấy; chỉ từ chữ Án
trở xuống mà tŕ, nên chữ Án là lời quy kính. Từ chữ Án
v.v… là chánh Thần chú vậy. Mỗi khi tŕ tụng rồi, liền dùng
tay mặt kiết ấn Kim Cang, miệng tụng Hồng Hồng Chơn ngôn
cho liên tiếp mà ấn vào năm chỗ:
1-Ấn
trên trán.
2-Ấn
vai phía trước.
3-Ấn
vai bên mặt.
4-Ấn
tại nơi ngực.
5-Ấn
ở yết hầu.
Ấn
xong xả ấn lên trên đỉnh đầu.
Hay
trừ các ma chướng, thành tựu tất cả thắng sự. Hoặc trước
khi tŕ tụng, kiết ấn trước năm chỗ rồi tŕ tụng. Lại
nữa, tùy theo chỗ trụ xứ, muốn bài trừ Thần Quỷ, kiết
Kim Cang giới. Chỉ tụng Chuẩn Đề Chơn ngôn, gia tŕ chú
trong hương thủy (nước hương thơm) 21 biến rồi đem rải vào
tám phương trên dưới liền thành tịch trừ kiết giới.
Lại khi chánh tŕ tụng, căn cứ theo Cu Chi Đà Ra Ni kinh, Kim
Cang Đảnh kinh, Ngũ Tự Đà Ra Ni kinh v.v… Trong các bổn kinh
đó có nói, theo căn cơ ưa muốn, cũng có nhiều thứ.
1)Du
Dà Tŕ:Chỉ tưởng có
chữ hiện ra trong tâm nguyệt luân. Nghĩa là tưởng tự tâm ḿnh
như một mặt trăng tṛn vắng lặng, thanh tịnh, trong ngoài phân
minh. Lấy Phạn thư Án tự, an trong tâm nguyệt luân; lấy Chiếc
Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha
tự; theo trước xoay về phía bên hữu, lần lượt hiện
khắp theo một ṿng tṛn (đọc cao giọng xong rồi trở lại
từ đầu)
2)Xuất
nhập tức tŕ: Nghĩa là
trong hơi thở ra vào, tưởng có Chơn ngôn Phạn tự. Hơi thở
ra theo chữ ra, hơi hít vào theo chữ vào. Chữ chữ, sáng rơ
như xâu chuỗi ngọc minh châu, không được gián đoạn. (Hoặc
khi thở hơi ra, tưởng tượng trong tâm như mặt trăng tṛn sáng:
Chín chữ Phạn, xoay vần đều có ánh sáng năm màu. Từ trong
miệng ḿnh lưu nhập vào trong miệng đức Chuẩn Đề Bồ Tát,
xoay quanh bên hữu, an bố trong tâm nguyệt luân của Chuẩn Đề
Bồ Tát. Nếu khi hít vào tưởng chữ trong tâm nguyện luân
của Ngài Chuẩn Đề Bồ Tát. Từng chữ nối kết tṛn liền
nhau, chữ cũng xoay vần đều có ánh sáng năm sắc, từ
miệng của Chuẩn Đề Bồ Tát tuôn ra, lưu nhập vào trong
miệng ḿnh, xoay vần bên mặt, an bố trong tâm nguyệt luân.
Xong rồi trở ra từ đầu, rất là nhiệm mầu.)
3)Kim
Cang Tŕ: Môi, răng không
động, lưỡi không đến cái nướu, chỉ động nho nhỏ trong
miệng.
4)Vi
Thinh Tŕ: Chỉ khiến
cho tai ḿnh tự nghe: không chậm, không mau, từng chữ phân
minh mà xưng niệm.
5)Cao
Thinh Tŕ: Khiến kẻ khác
nghe được diệt tội, lại có hai cách tŕ tụng:
1-
Vô số tŕ tụng: Nghĩa
là không tŕ chuỗi định số, thường tŕ luôn không gián đoạn.
2-
Hữu số tŕ tụng: Nghĩa
là lần chuỗi tŕ tụng mỗi ngày phải hạn định bao nhiêu,
không được thiếu sót.
Nếu
lần chuỗi tŕ tụng, chỗ thu hoạch công đức, như các kinh
rộng khen ngợi. Như kinh Số Châu Công Đức nói: Nếu có người
tay cầm chuỗi, tuy không niệm Phật và Đà Ra Ni, người ấy
cũng được phước vô lượng.
Và trong kinh Kim Cang Niệm Châu có bài kệ rằng: “Nếu để
trên đỉnh đầu tịnh tội vô gián, đeo trên cổ diệt được
bốn trọng nghiệp, tŕ nắm tay sẽ trừ các tội giúp cho hành
giả mau thanh tịnh”. Lại Nhứt Tự Đảnh Luân Nghi có nói:
“Nếu dùng LAM TỰ Chơn ngôn gia tŕ số châu bảy biến, khi
hành tŕ một biến thành ngh́n biến, nếu lần chuỗi đến
hột mẫu châu, phải trở lại không được vượt qua mẫu châu).
Mỗi ngày y pháp tŕ tụng, cần phải phân thời hạn định.
Nếu như một thời, th́ buổi sớm mai. Hai thời th́ thêm
buổi hoàng hôn. Nếu tŕ ba thời th́ thêm buổi chánh ngọ.
(Nếu công việc bận rộn, không cần phải phân thời, lúc nào
tŕ tụng cũng được.)
Nếu
hạng thượng căn tŕ tụng, cần phải được Tam mật tương
ưng.
1)
Thân mật: Kiết
ấn.
2)
Ngữ mật:
Tụng chú.
3)
Ư mật:
Hoặc tưởng Chơn ngôn Phạn tự, hoặc duyên nghe theo tiếng
tŕ tụng.
Hoặc
tưởng tượng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, hoặc tưởng trong
tay của Bồ Tát cầm các vật như xử, b́nh, hoa, quả v.v…
Cho nên Thần Biến Kinh Sớ nói: Nếu dùng Tam mật làm môn tu
hành; không cần tu trải qua nhiều kiếp số, đủ tu các
hạnh, chỉ nơi đời này đầy đủ các Ba la mật rồi. Lại
nữa, khi đang tŕ tụng chưa đủ 108 biến, không được nói
chuyện với ai. C̣n nếu muốn nói chuyện th́ phải tưởng trên
lưỡi ḿnh chữ phạm LAM, dù cho nói chuyện cũng không bị gián
đoạn.
Hỏi:
Chỉ tŕ tụng nhứt đạo Chơn
ngôn sẽ thành tựu hay phải rộng tŕ nhiều bổn Chơn ngôn
mới được thành tựu công đức?
Đáp:
Có hai môn:
1)Tùy
căn cơ ưa muốn: Căn cơ
có nhiều sự ưa muốn bất đồng. Hoặc ưa tŕ 3, 5, 10 đạo
cho đến 100 đạo v.v… Trong đó tùy căn cơ ưa muốn không đồng,
đều được tŕ tụng.
2)Muốn
mau chóng thành tựu:
Muốn cầu tất cả công đức mau thành tựu, nên chuyên tŕ
tụng nhứt đạo Chơn ngôn cho thành, thời tất cả Chơn ngôn
công đức đều thành tựu.
Cho
nên kinh Văn Thù Nghi Quỹ có nói: Nếu muốn tất cả công đức
thành tựu, không được dùng Chơn ngôn mà khởi tư tưởng như
trên, tuy có số đạo Chơn ngôn, nhưng đó là thứ lớp tŕ
tụng với Chuẩn Đề Chơn ngôn.
Hỏi:
Đă chuyên tụng một Thần
chú mau được thành tựu, v́ sao lại hay bày vẽ Chuẩn Đề
ngôn cho người tŕ tụng?
Đáp:
1- V́ Chuẩn Đề Chơn ngôn bao gồm tất cả các Chơn ngôn,
và bao hàm tất cả các Thần chú. Các chú không bao hàm được
Chuẩn Đề như biển lớn hay nhiếp trăm sông chứ trăm sông
không thể thu nhiếp biển lớn (Chuẩn
Đề tổng hàm các chú sau đây sẽ rơ.)
2-
V́ Chuẩn Đề Đàn pháp người
dễ làm thành tựu. Chỉ lấy một cái kính mới chưa từng
dùng, ấy là Đàn pháp . Không đồng như các chú, phải kiến
lập đàn pháp , cần phải lựa chọn nơi tịnh xứ hương nê
đồ địa, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường
đầy đủ mới có thể thành tựu. (Người
có tài vật, rộng tạo các Phật tượng, các món cúng dường
đầy đủ, nơi trước tượng Phật, an trí Kính đàn, đối
trước tŕ tụng lại càng nhiệm mầu.)
V́
Chuẩn Đề không cần lựa tính cách nhiễm tịnh để tŕ
tụng, chẳng luận tại gia, xuất gia, đă lỡ uống rượu, ăn
thịt, có vợ con v.v… đều tŕ tụng được. Không giống
các Thần chú khác cần yếu phải tŕ giới mới hay tụng
tập. (Nay v́ những kẻ thế tục đeo mang vợ con, uống rượu, ăn
thịt, ấy là thường nghiệp của họ. Tuy gặp kẻ Tăng nhơn
dạy bảo, nhưng tập tánh khó mà cải đổi. Nếu không dùng
Đại bất tư ngh́ chú pháp này cứu thoát, th́ những kẻ như
vậy biết ngày nào ra khỏi sanh tử. C̣n những ai, trai giới
thanh tịnh y pháp tŕ tụng, lại là thù thắng nhiệm mầu hơn
hết. Trong kinh Chuẩn Đề nói: Huống là trai giới đầy đủ,
y pháp đầy đủ để tŕ tụng, không chuyển, không thân
văng đến Tứ thiền, sẽ được đại Thần túc ấy.)
Sở
dĩ thế nên dạy nhiều về Chuẩn Đề Chơn ngôn, khiến người
tŕ tụng. Nếu muốn tŕ các Chơn ngôn khác, tùy tâm đều
được, đừng định chấp một bên nào vậy. (Tuy chuyên
tụng nhị chú, trước hết cần phải khởi tâm viên tín: Ngũ
bộ Thần chú, đều là pháp môn thành Phật. Nếu thiếu tin
một bộ, trở thành hủy báng Phật pháp). Lại nữa, Chơn
ngôn hành giả, mỗi ngày đối trước Kính đàn, như ban đầu
tŕ tụng; hoặc chỉ y như trước tiên, tưởng trên đầu
của ḿnh có chữ Phạn LAM tṛn sáng như Minh Châu, nhiên hậu
mới tŕ khóa. Lại căn cứ theo kinh Đại Thừa Quán Tưởng
Mạn Noa La, kinh Tŕ Minh Tạng Thành Tựu Nghi Qũy cùng với
kinh Tôn Thắng Phật Đảnh Tu Du Dà pháp cùng nhiều kinh khác
đến mấy chục bộ, trong đó nói: Hoặc tưởng trên đỉnh
đầu của ḿnh có chữ LAM, biến thành lửa ba góc; đốt
hết thân ḿnh từ đỉnh đầu tới chân; khắp pháp giới
chỉ thấy thanh tịnh, dù có ngũ vô gián tội, dụng chữ này
đốt thân, cũng đều trừ diệt không sót. Tiếp đó, nên tưởng
chữ Phạn A, sanh thành tự thân. (Chữ A tức là thể; tức
vô tướng pháp giới, từ vô tướng đó sanh thành thân hành
giả.) Lại một chữ ÁM, mang kết trong thập tự đảnh môn (Nghĩa
chữ Ám tức là thể, nước quang minh của mười phương chư
Phật để rưới lên đỉnh đầu của Phật tử. Đây là bí
mật quán đảnh trong pháp môn, nhiên hậu tŕ tụng. Hoặc tưởng
tự tâm như mặt trăng tṛn sáng, thanh tịnh, mặt trăng ấy
có một chữ Phạn ÁN)
(Trong
Nhơn vị của đức Như Lai, nhiều năm tu hành không đắc đạo
Bồ đề, sau tu tập quán pháp quán này, đầu hôm liền thành
Chánh giác. Chữ Án hàm đủ vô lượng pháp môn. Là mẹ của
tất cả Chơn ngôn. Tất cả đức Như Lai đều nhờ quán tưởng
chữ này mà được thành Phật.) Hoặc trong tâm Nguyệt
luân tưởng một chữ A, (Chữ
A này là Ty Lô Phật thân, cũng là pháp giới, cũng là Bồ đề
tâm, nếu người tưởng niệm th́ pháp sinh được vô lượng
công đức.) Hoặc tưởng trong tâm Nguyệt luân một chữ
Hồng (chữ Hồng tổng nhiếp
Kim Cang bộ, tất cả Chơn ngôn. Là chủ thân Kim Cang bộ, cũng
là ba giải thoát môn. Nếu thường tưởng niệm, hay trừ
tất cả tội chướng, thành tựu các công đức.) Hoặc
trên lưỡi tưởng một chữ LAM, hay chữ HỒNG, tưởng xong
rồi sẽ tụng tŕ. Hoặc tưởng trên cổ ḿnh phát xuất hoa
sen lớn, trên hoa sen xuất hiện chữ A; lại tưởng chữ A
biến thành mặt trăng tṛn; tưởng nơi mặt trăng đó biến
thành chữ HỒNG, chữ Hồng này biến ra năm chùy Kim Cang,
lại tưởng cái chày này dời lên trên cái lưỡi, gọi là lưỡi
Kim Cang. Nhiên hậu tŕ tụng (Kế
đó tay cũng tưởng chữ A, A lại biến thành Nguyệt luân,
Nguyệt luân biến thành HỒNG tự, chữ Hồng biến ra sắc
trắng năm chày Kim Cang mới gọi là tay Kim Cang, sau đó kiết
tất cả ấn.) Hoặc tưởng ra chín chữ Thánh Phạn Chuẩn
Đề mỗi một chữ có các thứ ánh sáng An trong tự thân
phần; nghĩa là tưởng chữ ÁN, an trên đỉnh đầu; chữ
Chiếc, an nơi hai con mắt, chữ LỆ, an tại cổ, chữ CHỦ, an
nơi tâm. Chữ Lệ, an nơi hai vai chữ CHUẨN, an nơi rún; chữ
ĐỀ, an nơi hai bắp về; chữ Ta Bà, an nơi hai cổ chân và
chữ HA, an tại hai bàn chân. Tưởng An bố khắp nơi rồi,
nhiên hậu tŕ tụng.(Kinh Tŕ
Minh Tạng Thành Tựu Nghi Quỹ nói: Nếu kẻ nào muốn thành
tựu trong pháp Chuẩn Đề Bồ Tát, trước hết quán Chuẩn
Đề Bồ Tát căn bổn vi diệu tự luân, trên thân ḿnh mỗi
một chữ ở vào một chỗ rơ rệt, thân đời trước ngươi
đó có tạo tất cả tội nghiệp, th́ cũng được trừ
diệt. Phàm có sở cầu, quyết định thành tựu, pháp An bố
cửu tự, trong Kinh tạng có nhiều chỗ nói vậy.)
Quán
tưởng chữ Phạn đă có công đức rộng như trong các kinh
Đà Ra Ni có nói: “Trên đây về quán môn Phạn tự, trong
bốn oai nghi thường tư duy đến, rất là nhiệm mầu”. Phàm
trong các kinh, tưởng chữ Chơn ngôn đều là chữ Phạn chứ
không phải chữ của xứ ta. Cho nên Nhứt Tự Đảnh Luân Vương
Nghi Quỹ nói rằng: “Chỗ nói quán các chữ, chỉ là chữ
Phạn, không phải chữ ở các địa phương mà có sức đại
thần dụng.” Hoặc có người không thể tưởng được chữ
Phạn, chỉ nên chuyên tâm tŕ tụng cũng đủ tất cả tam
muội. Cho nên Đại Bi Tâm Kinh nói rằng: “Đà Ra Ni là
Thiền định tạng; trăm ngh́n tam muội thường hiện
tiền.”
Nếu
người khẩn thiết tŕ tụng, hoặc gặp các thứ ma chướng,
hoặc bỗng nhiên sợ hăi, hoặc lưỡi khó tŕ tụng, hoặc
thân không an, hoặc ngủ nhiều, giận nhiều, hoặc thấy các
tướng lạ, hoặc sanh nghi các Thần chú không
muốn tŕ tụng v.v… Nếu đối trị các điều đó,
nên quán tưởng Phạn tự RA, hoặc quán chữ LAM, hay quán
chữ A v.v… Chỉ tùy theo đấy quán tưởng một chữ, cảnh
giới kia tự nhiên tiêu diệt. Nếu tâm hay sanh nhiều phân
biệt, nên quán Phạn tự SÁI, tức Thánh vô phân biệt. Nếu
có trước tâm nhiều, nên quán tưởng HÀM tự, tức nhơn
duyên pháp vốn không có vậy. (Trên
đây ước nơi một mặt mà nói, nếu thật nói ra: Chỉ tùy
một chữ mà tất cả đều có công dụng đó, nghĩa là một
chữ thật đủ tất cả chữ, là công dụng của tất cả chư
Phật, Bồ Tát vậy.)
Hỏi:
v́ sao Phạn tự đều có bất tư ngh́ thần dụng như vậy?
Đáp:
Nghĩa là mỗi một chữ tức thể là thân tâm của chư Phật,
Bồ Tát vậy; tức là thể là ly tướng pháp giới vậy. Lại
tức thể là giáo lư, hạnh và quả ấy vậy, sở dĩ thế
nên có bất khả tư ngh́ thần dụng. (Phạn tự: ở Tây Phương
vốn có sẵn trong pháp nhĩ.
Khi thế giới mới thành, Phạm Vương truyền nói: Không đồng
như chữ ở phương này, do Thương Hiệt sáng chế).
Hỏi:
Nếu vậy, Phạn tự ở Phương Tây, đều có bất khả tư
ngh́ thần dụng, cớ ǵ riêng nói chữ trong Chơn ngôn?
Đáp:
Nghĩa là chữ trong Chơn ngôn, là pháp nhĩ của chư Phật bất
tư ngh́ lực gia tŕ vậy. Pháp tánh như vậy đó, riêng có
thần dụng. Như ngôn ngữ ở đây chỉ là một. Duy chỉ
những câu như “cấp cấp như luật lịnh v.v…Chú hỏa
không thiêu được, chú thủy không làm ch́m, cho nên làm ngữ
chú riêng có công dụng, chẳng phải tất cả ngôn ngữ khác
đều có công dụng như vậy. Chữ ở Tây Phương cũng thế
…, chữ tuy là một mà làm chữ trong Chơn ngôn, riêng có
thần dụng, chẳng phải tất cả chữ đều có thần dụng như
vậy.
Hỏi:
Trên nói đối đàn, kiết ấn, tụng chú v.v… đâu không
phải hữu tướng ư?
Đáp:
Viên Tông vô chướng ngại pháp giới, trên thể, vốn đủ
vô tận pháp môn. Thiền tông vô tướng pháp môn chỉ là
một trong vô tận môn vậy. Nay Mật tông, Đàn pháp, thủ
ấn, Chơn ngôn, tức thể lại là vô chướng ngại pháp giới
vậy. (Như Hoa Nghiêm kinh Sớ Sao, trong Thập huyền môn, nương
sự hiển pháp môn, nói Kim sắc thế giới, tức là bổn tánh
là Bát nhă vô phân biệt trí v.v… Nay có người nói rằng:
Tŕ chú, kiết ấn, đối đàn là trệ ngại nơi tướng, đây
chỉ là trong thiền tôn mà luận. Tức là ly tướng ngoại
cầu nơi vô tướng. Tổ sư v́ ngoại đạo mà kiến giải,
chứ không phải ư Phật giáo. Lại trong kinh Lăng Nghiêm sớ
nói rằng: Tŕ tụng Thần chú hay trừ được các ác, hay
nhóm tập các thiện. Kẻ ngu muội không biết ư chỉ đây;
thấy người tŕ chú thường nổi lên ḷng hủy báng, cho đó
không phải là kẻ tu hành. Chưa có một Đức Phật nào,
không do nơi Thần chú mà được thành đạo để độ chúng
sanh vậy, xin mời xét kỹ lại để cải cái lỗi này.
Hỏi:
Trên kia dẫn chứng các đại sư, các Ngài đều nói rằng:
“Chú là pháp bí mật của chư Phật, không phải chỗ giải
của nhơn vị, cớ ǵ trên kia lại giải chữ A, là Tỳ Lô
Phật thân, chữ Hồng là Tam giải thoát môn v.v…
Đáp:
Cứ theo Hiền Thủ Bát nhă trong kinh sớ và Thần Biến sớ,
các Mật tạng Đà Ra Ni Kinh Ư th́ có hai môn:
1)Bát
Nhă Thuyết Môn: Chú
là mật pháp của chư Phật. Chư Phật truyền nhau, kẻ khác
chẳng thông hiểu, chỉ nên tŕ tụng không cần cưỡng
thích.
2)Cưỡng
Thuyết Môn: Như trong
Chơn ngôn, tùy cử một chữ, hoặc tác nhơn, hoặc tác pháp,
bao trùm cả không gian và thời gian, tự tại giải thoát. Tóm
lại mà nói: Vô tận pháp môn ở trong một chữ tổng giải
nói hết, mới là chữ nghĩa của Đà Ra Ni. Đem lời nói này,
giả sử mười phương các Đức Phật trải qua hằng sa
kiếp, chung nói nghĩa một chữ trong Chơn ngôn cũng không thể
hết được, huống nữa người khác, nói đó c̣n khó, huống
chi tham thọ. Sở dĩ đem một phần trong một chữ, hoặc tác
nhơn, hoặc tác pháp mà giải nó như trước nó chữ A, là
Tỳ Lô Phật thân, Hồng tự là Tam giải thoát môn v.v… Tức
là cưỡng nói cái nghĩa của một phần thôi. C̣n các chỗ
khác có giải thích Chơn ngôn, tự nghĩa, cú nghĩa, đều là cưỡng
thuyết giải một phần nhỏ nghĩa vậy. (Nếu ở trong một
chữ Chơn ngôn, hoặc chia ra ba nghĩa, mười nghĩa hay một trăm
nghĩa v.v… giải thích gọi là nghĩa một mặt vậy.) Trên
nói: Duy Phật mới biết, chứ không thông giải cho kẻ khác.
Đó là căn cứ vào Mật giáo bổn tôn bất khả thuyết môn
mà nói: (Bất khả thuyết môn này là nói đến quả ly ngôn
của Hiển giáo Viên tôn, Cưỡng thuyết môn đây tức là nói
đến nhân quả của Hiển giáo Viên tôn)
Hỏi
rằng: hoặc có chúng sanh muốn trừ các thứ tai, chướng,
hoặc muốn tăng trưởng phước huệ, hoặc muốn cầu Thánh
quả … là chỉ y Nghi Quỹ như trước tŕ tụng hay là có phương
pháp nào khác?
Đáp
rằng: Chỉ y Nghi Quỹ như trước tŕ tụng. Phàm có sở cầu
nhất định thành tựu. Hoặc có muốn tùy việc sở cầu,
mỗi pháp làm riêng khác. Nay lược bày pháp thức sau đây:
Theo trong kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Tự Tại Bồ Tát Tu
Hành Nghi Quỹ, Thất Cu Chi Đại Minh Đà Ra Ni kinh, Thần Biến
Sớ và các Chơn ngôn Nghi Quỹ … nói: Có năm thức Đàn pháp
gọi:
1)
Tức Tai Pháp.
2)
Tăng Ích Pháp.
3)
Kính Ái Pháp.
4)
Hàng Phục Pháp.
5)
Xuất Thế Gian Pháp.
1)Tức
Tai Pháp: (V́ để trừ ác nghiệp, trọng tội, phiền năo chướng …
Các món tai nạn, quan sự, khẩu thiệt, quỷ mị sở trước,
ác tinh lăng bức …) Kẻ hành giả hướng về phương
Bắc, tréo gót chân ngồi thẳng; tượng Chuẩn Đề xoay về hướng
Nam, đối trước tượng Ngài mà an trí Kính đàn. (Cái kính
tṛn) Lại tưởng một Đàn tṛn sắc trắng, trong cái đàn ấy tưởng
khắp chữ PHẠ, hoặc chữ VĂM tôn tượng cúng dường đầy
đủ, và tự thân hành giả điều tưởng ở trong đàn tṛn;
hoặc trước tượng chỉ vẽ một đàn tṛn cũng được.
Quán tưởng đức Chuẩn Đề sắc trắng, hiến cúng hoa quả,
ẩm thực và tự thân y phục đều là sắc trắng, đồ hương
dùng bạch đàn, thiêu hương dùng trầm thủy, thắp đèn dầu
Tô du; lấy từ tâm tương ưng. Lúc đầu hôm ngày mồng một
mỗi tháng bắt đầu khởi việc, đến ngày mồng tám là
măn, mỗi ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, khi đến
ngày măn hoặc đoạn thực (không ăn) hoặc ăn tam bạch
thực: nghĩa là sữa, gạo găy hay cháo. Người không đủ
sức tôn tượng cúng dường đầy đủ y phục chỉ vận tâm
tưởng cũng được, sau này cứ theo đây mà biết) Nếu khi
tụng niệm, lần lượt tŕ tụng như trước, đến Chuẩn
Đề chú tụng 108 biến, rồi sau chỉ từ chữ ÁN mà tụng.
Diệu Chơn ngôn:
Án
Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hô tên … và trừ tai
nạn TA BÀ HA. Nếu tự cầu cho ḿnh, trên chữ TA BÀ HA xưng
danh ḿnh và sự việc cầu xin. Nếu v́ người khác, cũng xưng
rơ tên, họ, sự việc v.v…
2)Tăng
Ích Pháp: V́ cầu thêm
sự vinh quang, tăng trưởng thọ mạng, cầu phước đức
thông minh, quyến thuộc thế lực, tiền tài phongn thạnh, lúa
nếp thành thục, cầu phục tang bảo châu, thuốc tiên, năm
thần thông v.v… Hành giả hướng về Tây phương; trước tượng
Chuẩn Đề an trí Kính đàn (lại tưởng một h́nh Đàn
vuông, sắc vàng trong Đàn ấy có khắp chữ A, hoặc tưởng
chữ ÁM, Tôn tượng cúng dường đầy đủ. Tự thân của
hành giả đều tưởng ở trong cái đàn vuông, hoặc ở trước
tượng vẽ một h́nh đàn vuông cũng được). Quán tưởng đức
Chuẩn Đề sắc vàng, chỗ hiến cúng hoa quả ẩm thực và
tự thân y phục … đều là sắc vàng. Đồ hương dụng,
bạch đàn gia chút uất kim, thiêu bạch đàn hương, thắp đèn
ma du (dầu mè) đem tâm vui mừng được tương ưng. Theo tháng
ngày mồng 9, khi mặt trời mới mọc, khởi đầu hành tŕ cho
đến ngày rằm là măn. Mỗi ngày như trước, ba thời tắm
gội thay áo. Đến ngày măn cứ như trước đoạn thực và
tam bạch thực; niệm tụng như trước.
Diệu
Chơn ngôn: Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, gia hộ tên…
sở cầu như ư, Ta Bà Ha. (xưng tên và sự việc như bài trước
đă nói)
3)Kính
Ái Pháp: (V́ cầu tất
cả Thánh Hiền gia hộ, Thiên long Bát bộ hoan hỷ, cầu
thuyết pháp biện tài, ngôn âm hoà nhă, người nghe hoan hỷ
và cầu tất cả mọi người ái kính, bạn hữu tri thức
thân cận, oan gia hoà thuận …) Hành giả xây mặt về hướng
Tây, ngồi cách thiền tọa, tượng diện hướng Đông, trước
tượng Chuẩn Đề an trí Kính đàn. (Lại tưởng một bán nguyệt h́nh Đàn sắc màu đỏ, trong
bán nguyệt h́nh Đàn ấy, tưởng khắp chữ Hạ hoặc chữ
Hàm; tôn tượng cúng dường đầy đủ, và tự thân hành
giả đều tưởng ở trong bán nguyệt h́nh đàn ấy. Hoặc trước
tượng chỉ vẽ một h́nh đàn bán nguyệt cũng được.)
Quán tưởng đức Chuẩn Đề màu sắc đỏ, thân mặc áo sa
lụa, chỗ hiến cúng hoa quả, ẩm thực và tự thân y phục,
thảy đều màu đỏ. Đồ hương dụng uất kim, thiêu hương
lấy đinh hương, Tô hạp hương ḥa mật để thiêu đốt.
Thắp đèn dầu trái cây đem thân tâm hỷ nộ tương ưng. Từ
ngày 16 cuối đêm (hậu dạ) là khởi đầu; đến ngày 23 là
măn, mỗi ngày tắm gội đoạn thực hiện tụng, thực hành
như pháp trước.
Diệu
Chơn ngôn: Án Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề linh nhứt thiết
nhơn ái kính…tên…Ta Bà Ha. (Xưng tên họ tùy theo việc sở
cầu, như trước đă bày.)
4)Hàng
phục pháp: Để hàng
phục tất cả ác độc, quỷ thần và ác long thú tổn hoại
tất cả hữu t́nh và điều phục tất cả người ác, không
trung với đất nước, sanh tâm phản đạo, diệt Tam-Bảo,
hủy Chơn ngôn, hoặc gây chướng ngại. Đối với tất cả
người ác như vậy, người tŕ chú vận đại từ bi tâm,
làm được phép này.
Nếu
v́ ích kỷ mà cầu,
hoặc có tâm oán cừu mà cầu, mà làm phép này, theo các kinh
đă nói, quyết định phản chiêu tai họa, phản đắc suốt
đời si ai, học giả nên biết! (nghĩa
là ḿnh oán ghét người nào đó, cầu cho họ bệnh chết hay
tai họa, th́ không thành mà trái lại ḿnh bị mang họa. Chư
Phật Bồ Tát không cho phép, nếu cưỡng làm suốt đời bị
ngu si.)
Hành
giả hướng mặt về phương Nam, dùng phép ngồi tôn cư Tọa
(Ngồi chồm hổm, bàn chân bên tả áp qua hai bàn chân bên
hữu. Mặt tượng hướng về phương Bắc. Nơi trước tượng
Chuẩn Đề, an trí Kính đàn. (lại tưởng một cái Đàn tam
giác sắc xanh ở trong tam giác Đàn, tưởng khắp chữ Ra, hay
chữ Lam, tôn tượng cúng dường đầy đủ và tự thân của
hành giả điều tưởng ở trong cái Đàn tam giác cũng được.)
Chuẩn Để sắc xanh, hay màu đên mặc áo đen xanh tự thân y
phục cũng đều sắc xanh. Hiến cúng hoa sắc xanh, hoa thối,
hoa không thơm và Mạn đà la hoa v.v… ẩm thực, dùng thạch
lựu làm nước nhựa nhuộm thành sắc đen hay sắc xanh, đồ
hương dùng cây bá. Ứ già: dùng phân trâu (phân
trâu trắng ở núi tuyết bên Ấn Độ nói ăn toàn cỏ thơm,
nên phân nó mịn thơm chứ không phải phân trâu xứ ta).
Lấy hoa sắc đen và giới tử Bá mộc làm đồ hương v.v…
Mỗi thứ lấy một ít để nơi Ứ già thủy; đốt an tức hương.
Thắp đèn dầu hạt cải; lấy phẫn nộ tâm tương ưng. Từ
ngày 24 vào lúc giờ ngọ hoặc nửa đêm khởi đầu hành
pháp cho đến ngày cuối tháng th́ măn; mỗi ngày tắm gội,
đoạn thực, niệm tụng pháp, thực hành như trước.
Diệu
Chơn ngôn: Hồng, Chiết Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề, Hồng Phấn
Tra, (Phấn Tra viết chữ Phạn)
(Nếu
các người ác thân tâm không an, hoặc sắp chết, phải
khuyên gấp người ấy, phát thiện tâm. Nếu người ấy
biết hối lỗi, tự trách vĩnh đoạn ác tâm, th́ nên v́ họ
làm phép Tức Tai, niệm tụng, người kia bèn khỏi tai nạn.
Trên đây là bốn pháp thành tựu. Nếu muốn nhờ được
thành công trong bốn pháp này; cần được dự tu tŕ Chuẩn
Đề Chơn ngôn trước là 50 vạn, 70 vạn, hay 100 vạn biến.
Đă thực hành rồi, mới làm bốn pháp, thành tựu được,
tùy sự ưa muốn, dù làm một pháp cũng sẽ thành. Thấy trong
thời nay hoặc Thích, hoặc Nho v́ lợi v́ danh măn năm suốt
ngày xu hướng tham lam, dụng hết thân tâm cũng chưa vừa
bụng. Khi vô thường đến lại sanh vào xứ thấp hèn. Sao
bằng, vâng Thánh ngôn chư Phật tụng bí mật Thần chú, trên
trong các pháp Tăng Ích lần lượt thực hành, việc sở cầu
quyết định toại tâm; tất cả nghiệp chướng thảy đều
tiêu diệt; vô thường có đến th́ được sanh thắng xứ.
Hiện tại, vị lai, đều được lợi lạc, há chẳng là điều
tốt sao. Có được lợi lớn ấy, cho nên Phật mới dạy.)
5)Xuất
thế gian đàn pháp: V́
muốn mau đủ hai món tư lương: Phước đức và trí huệ.
Đốn viên mười món Ba la mật, siêu việt ba vô số kiếp
khắc kỳ trong đời này Thánh quả hiện tiền. Người hành
giả ở tại núi non, hang cốc sâu thẳm thù thắng, già lam
thanh tịnh. Đem hết ḷng Đại Bi, thường ưa lợi lạc vô
biên hữu t́nh, đồng với Chuẩn Đề Vương Bồ Tát. Nương
nhờ Đại Bi, nguyện lực, hộ trợ các Phật, Bồ Tát. Hạn
định bốn tháng bốn ngày trong một thời kỳ, dứt tuyệt
không tiếp khách, dứt bặt lời nói. Tam Mật tương ưng tâm
không gián đoạn; kẻ hành giả mặt hướng về phương
Đông. (Các phương khác cũng được, nhưng hướng Đông là
tốt hơn hết; hoặc ngồi toàn già, bán già, hay tùy ư ngồi
đều được.) Mặt tượng hướng về Tây, nơi trước tượng
Chuẩn Đề an trí Kính đàn.
(Trên
đảnh hành giả tưởng chữ Lam, biến thành ṿng lửa đỏ đốt
hết tự thân hữu lậu. Lại tưởng trên một hoa sen lớn có
chữ A, sanh thành vô lậu trí thân, lại tưởng chữ Ám, quán
đảnh rồi. Lại tưởng chữ LAM biến thành lửa lớn đốt
cháy thế giới hữu vi này đồng như hỏa kiếp, cháy sạch
không sót, chỉ có không tịch. Lại tưởng tượng lập nên
Đàn vô vi. Phí dưới hạ phương khắp tưởng chữ Khiếm:
tạp sắc mà làm Không luân. Nơi trên Không luân tưởng chữ
Hàm, sắc đen, biến thành Phong luân (gió). Trên Phong luân tưởng
chữ Lam sắc đỏ, biến thành Hỏa luân (lửa). Trên hỏa
luân tưởng khắp chữ Văm, sắc trắng biến thành Thủy
luân. Trên Thủy luân (nước) tưởng khắp chữ A, sắc vàng,
biến ra Kim Cang địa. Trên Kim Cang địa khắp tưởng đại
Liên hoa. Trên mỗi hoa sen đều có đức Chuẩn Đề Bồ Tát,
vô lượng Thánh chúng vi nhiễu (vây quanh) trước mỗi đức
Chuẩn Đề, đều có tự thân của hành giả (Chính ḿnh mỗi
mỗi thân có hiện ra hoa quả ẩm thực, tràng phan… đầy đủ
các món cúng dường đều đối trước Kính đàn Chuẩn Đề:
Tam mật tương ưng. Nếu hành giả không có tượng Chuẩn
Đề và hoa quả ẩm thực cúng dường đầy đủ, chỉ dùng
quán tưởng này cũng được thành tựu kiết tường). Nhứt
tâm để tưởng đức Chuẩn Đề Bồ Tát, đầy đủ vô tận
tướng hảo quang minh, nơi trong tâm Nguyệt luân của Bồ Tát,
tưởng có Cửu Thánh Phạn tự Đàn (9 chữ chú Chuẩn Đề).
Hành giả tưởng trong tâm Nguyệt luân của ḿnh cũng có chín
chữ Phạn Đàn, c̣n ở tại thân ḿnh, tưởng khắp 9 chữ
Thánh Phạn (Tâm Nguyệt luân và tự thân phần tưởng đủ
các chữ, như trước đă nói). Các thứ hiến cúng hoa
quả, ẩm thực, hương, đèn, đuốc, nến, …Nơi trong ba
pháp: dứt tai ương, tăng ích, kính ái đă nói rơ sắc vật
đều dùng được. Y phục của hành giả phải được mới,
trong sạch mới được vào Đàn pháp (tu). Tóm lại th́ loại
áo vàng là tốt nhất. Hành giả không cần phải lao h́nh,
khổ nhọc sợ tâm thần tán loạn; đối với bốn oai nghi: đi
đứng nằm ngồi đều được Tam mật tu tập. 1)Thân kiết ấn. 2)Miệng đọc chú. 3)Tâm duyên Phạn tự.
Chỗ thấy, nghe hay biết chỉ quán chữ A: Nơi nhứt chơn thanh
tịnh pháp giới, thường tu quán hạnh này. Lần lượt nghi
quỹ tŕ tụng như đă nói ở trên, đến Chuẩn Đề Chơn
ngôn. Từ đầu vô số, vô kư chuyên tinh niệm tụng. Cần
sách thân tâm chớ nên biếng nhác. Lúc sắp thành tựu, ắt
có khởi lên các thứ chướng ngại, nên làm phép: Tức tai,
hàng phục … Tùy theo căn tánh sai khác của hành giả,
khoảng thời gian này quyết chứng được Tam muội hiện
tiền. Tức ở trong định thấy có vô số Phật hội, nghe
được pháp âm vi diệu, chứng được Thập Địa Bồ Tát
vị. (Một là pháp này, chỉ
cầu xuất thế gian, nếu muốn thành tựu trong pháp này, trước
hết cần phải tŕ tụng Chuẩn Đề Chơn ngôn được 500
vạn, 700 vạn, hoặc 1000 vạn biến rồi mới làm pháp này,
quyết định có linh nghiệm.)
CÁC
HÀNH TƯỚNG
THÀNH
TỰU LINH NGHIỆM
Chuẩn
Đề Đà Ra Ni kinh, Kim Cang Đảnh kinh, Tô Tất Địa … Cộng
lại hơn mười bổn kinh đều nói Chơn ngôn, người hành
giả dụng công tŕ tụng. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ
Tát, Thánh tăng, Thiên nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên
hư không một cách tự tại; hoặc vượt qua biển lớn, hoặc
trôi nổi trên sông Giang Hà, bay lên lầu các, hoặc lên cây
cao thọ, hoặc trèo lên núi trắng, hoặc cỡi sư tử, ngựa,
voi trắng, hoặc thấy hoa quả tốt đẹp. Hoặc mộng thấy
mặc áo vàng, áo trắng Sa Môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả
vật đen. Hoặc ngậm nuốt, mặt trời, mặt trăng … tức là
cái tướng trạng tiêu diệt tội vô thỉ.
Hoặc
chính đương lúc tŕ tụng thấy các thứ ánh sáng; hoặc
thấy khắp chỗ trong hư không có các hoa kỳ lạ,
đặc biệt. Hoặc thấy các Phật,
Bồ Tát, Thánh tăng, Thiên Tiên … Hoặc thấy chư Phật Tịnh
độ, hoặc thấy tự ḿnh dạo qua các Phật quốc và cúng dường.
Hoặc tạm thời gian trải qua nhiều kiếp. Hoặc thấy đèn
sáng cao 1 thước, 2 thước cho đến 1 trượng. Hoặc trong lư
không có lửa mà tự nhiên có khói. Hoặc thấy Phật tượng,
phan cái tự động; hoặc nghe các món mỹ thinh của chư
Phật, Bồ Tát.
Hoặc
tự biết thân ḿnh nguy nga, ṿi vọi cao lớn. Hay răng rụng
lại mọc, tóc trắng lại đen; hoặc thân thể trắng nhuận,
không sanh rận rệp, hoặc tham sân si tự nhiên tiêu diệt.
Hoặc tổng tŕ bất vong, một chữ năng diễn nhiều nghĩa.
Hoặc trí tuệ đốn sanh, tự nhiên thông hiểu tất cả kinh
luật luận. Hoặc tất cả tam muội pháp môn tự nhiên hiện
tiền. Hoặc phước đức đốn cao, tứ chúng thảy đều quy
ngưỡng …(Kinh văn trên đây đă nói: Nay có kẻ Tăng, Nho sĩ
sơ lược tham học thiền lư, vừa thấy các tướng ấy cho
là yêu dị. Đây chẳng những là hủy báng tối thượng
thừa giáo, mà cũng là đắc tội tà kiến, xả tướng, thủ
tánh; lại không biết tướng kia, bản lai là tánh vậy.
Nếu
gặp các việc như trên, chỉ là phước huệ tăng trưởng, tướng
trạng gần thành tựu; chớ sanh ḷng nghi hoặc, chớ khởi
niệm thủ xả.
Nên
quán những cảnh giới đă gặp đó, đều là A tự, hoặc Lam
tự, hoặc tưởng đều nh mộng huyễn hay đều là pháp giới
nhứt tâm, nếu được ứng nghiệm như vậy cần phải phát
tu, sách tất tam nghiệp, gia công tŕ tụng, không được
tuyên nói những cảnh trong Thần chú để ḷe gạt người.
Chỉ có người đồng đạo, không v́ danh lợi kính khen, th́
mới được nói sự đó.
Sự
thành tựu có 9 phẩm:
1)Hạ
phẩm có ba:
a)Nếu
hạ phẩm thành tựu, năng nhiếp phục tất cả tứ chúng,
phàm có sở cầu, cử ư tùng tâm, tất cả thiên long thường
đến thăm hỏi; lại hay hàng phục tất cả trùng thú và
quỷ mị …
b)Trung
phẩm thành tựu: Có công năng sai sử tất cả thiên long, bát
bộ hay khai mở tất cả những bảo tàng giấu kín, hoặc
cần vào tu la cung, long cung liền được vào đó, đi, ở tùy
tâm.
c)Thượng
phẩm thành tựu: Liền được tiên đạo, thừa nương hư
không bay đi qua lại. Trên trời dưới đất đều được tự
tại. Thế gian xuất thế gian chẳng việc ǵ mà không đạt
đến.
2)Trung
phẩm có ba:
a)Hạ
phẩm thành tựu: Liền được làm vua trong các tiên chú, trụ
thọ vô số tuổi, phước đức trí huệ ba cơi không thể so
kịp.
b)Trung
phẩm thành tựu: Liền được thần thông qua lại các thế
giới, làm Chuyển luân vương, trụ thọ một kiếp.
c)Thượng
phẩm thành tựu: Hiện chứng từ Sơ địa Bồ Tát trở lên.
3)Thượng
phẩm có ba: Nếu hạ phẩm thành tựu: Được đến đệ Ngũ
địa Bồ Tát trở lên.
b)Trung
phẩm thành tựu: Được đến đệ Bát địa Bồ Tát trở
lên.
c)Thượng
phẩm thành tựu: Tam mật biến thành Tam thân. Chỉ trong đời
này được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Đây là 9 phẩm
thành tựu của người tŕ chú. Nếu cầu thẳng đến thành
Phật chẳng cân cầu thành tựu ba hạ phẩm. C̣n căn cứ theo
Thần Biến Sớ có năm phẩm thành tựu:
1)
Hiện đến tín vị.
2)
Đến sơ Địa.
3)
Đến tứ Địa.
4)
Đến bát Địa.
5)
Đến thành Phật.
Đó
là thuộc về kinh này. Nay thông y theo các kinh cho nên nói
chín phẩm, nghĩa là Chuẩn Đề Chơn ngôn, bao gồm tất cả
các bộ Thần chú.
Hỏi:
V́ sao biết được Chuẩn Đề gồm các bộ Thần chú?
Đáp:
Nghĩa là trong một tạng kinh, Thần chú không ngoài 25 bộ.
1)
Phật bộ: Là các chú của Phật.
2)
Liên Hoa bộ: Là các chú của Bồ Tát.
3)
Kim Cang bộ: là các chú của Kim Cang thần.
4)
Bảo bộ: Là các chủ của chư Thiên.
5)
Yết ma bộ: Là chú của các vị quỷ thần.
Năm
bộ này mỗi bộ gồm có 5 bộ nhỏ thành 25 bộ. Nay Chuẩn
Đề tổng nhiếp 25 bộ cho nên Chuẩn Đề kinh nói: Chỉ có 1
bộ mà nhiếp 25 bộ. Lại nói rằng: Nếu muốn triệu thỉnh
25 bộ thiên ma … chuyên tụng chú này, tùy thỉnh quyết đến.
Lại nói rằng: Ngũ bộ Kim Cang Tứ Thiên Vương, đồng kết
Tổng tŕ tam muội giới. Kinh đại Giáo vương có nói: Thất
Cu Chi Như Lai, ba thân khen nói: Chuẩn Đề Bồ Tát Chơn ngôn năng
độ tất cả hiền Thánh. Nếu người tŕ tụng, tất cả
sở cầu thảy được thành tựu; không bao lâu chứng được
Chuẩn Đề đại quả, v́ thế nên biết Chuẩn Đề Chơn
ngôn đứng hàng đầu trong Mật tạng, là mẹ của Chơn ngôn,
là vua của các Thần chú.
Chuẩn
Đề Chơn ngôn tổng nhiếp 25 bộ Chơn ngôn, hoặc dùng h́nh tượng
ấn pháp Phạn tự … mỗi mỗi không đồng. Nay Chuẩn Đề
Kính đàn tổng nhiếp tất cả các đàn pháp này vậy. Cho
nên Chuẩn Đề kinh nói rằng tổng nhiếp 25 bộ. Đại Mạn
Trà La: Phạn ngữ Mạn Trà La nghĩa là Đàn. Cho nên biết
Kính đàn rất là tối tôn tối thượng hay diệt tất cả ma
chướng, năng sanh tất cả công đức; mắt thấy, thân đeo
mang đều được lợi lạc. Cho nên người xưa nói rằng:
Đàn ấy là tập vậy, là chỗ vô biên Thánh Hiền tập hội.
Như ngọc Phương Châu hứng ánh mặt trăng, liền có nước
phát ra, đem kính (hội tụ) hứng ánh mặt trời, liền phát
sanh ra lửa. Đá từ thạch dẫn hút kim loại. Hổ phách lượm
hạt cải. Cái công dụng thật khó so lường; huống chi là
Đàn pháp không thể nghĩ bàn của chư Phật. Nay có kẻ ít
nghe thấy, mê mờ không hiểu mật giáo, thấy dùng Kính đàn
lại sanh hủy báng. Song ba đời các đức Như Lai, chưa hề
có vị Phật nào không theo Đàn phát mà thành Phật đạo, để
hóa độ chúng sanh vậy. Mong những ai nghe thấy rộng răi,
hăy mau sửa đổi sự sai lầm đó.
Mật
giáo Tâm yếu đến
đây là hết.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
viewtronic Hội viên
Đă tham gia: 10 October 2005 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 143
|
Msg 4 of 4: Đă gửi: 15 April 2008 lúc 4:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
BỘ MẬT TÔNG
(BỐN TẬP)
Dịch Giả : Thích Viên Đức
---o0o---
HIỂN MẬT VIÊN
THÔNG
THÀNH PHẬT TÂM YẾU
---o0o---
III.
HIỂN MẬT SONG BIỆN
(Giải rơ hai pháp Hiển giáo
và Mật giáo)
Nếu nương theo Hiển
Mật hai tông tu tập, đó là bực thượng căn, nghĩa là tâm
tạo pháp giới, đế vơng và các thứ quán, miệng tụng
Chuẩn đề lục tự, các Thần chú, đây có 2 hạng người;
1
- Người đă tu lâu, Hiển Mật đều tu.
2
- Người mới tu tập, trước tu Hiển giáo Phổ Hiền quán,
rồi mới Tam mật gia tŕ; hoặc dùng Tam mật rồi, vậy sau
mới tu quán hai thứ đều được.
Tôi
dù tài mọn, tâm c̣n Hiển Mật song tu cho nên Nhơn Vương Bát
Nhă Đà Ra Ni Thích và Nhơn Vương Nghi Quỹ đều cho rằng:
“Nếu không tu Tam mật môn, không y Phổ Hiền hạnh nguyện
mà được thành Phật là điều không có lư!” Lại kinh Hoa
Nghiêm Tự Luân Nghi Quỹ nói rằng: “Muốn đốn nhập
Nhứt thừa, phải tu tập quán Tỳ Lô Giá Na Pháp thân; trước
nên phát khởi hạnh nguyện Phổ Hiền. Lại lấy Tam Mật
gia tŕ thân tâm, thời hay ngộ nhập được biển đại trí
huệ của đưc Văn Thù Sư Lợi; là biết bậc thượng căn
cần yếu Hiển Mật song tu. Bậc trung căn tùy ḷng ưa
muốn; hoặc Hiển hoặc Mật, chia tu một môn đều được.
Nhưng Hiển viên Hoa Nghiêm các Phật đều khen ngợi, Bồ Tát
đều tuân hành. Tây Thiên, Đông Hạ, Thượng Trí, Thượng
Hiền đều quy tâm; là đạo giáo rộng hành, nhiều người
thấy nghe, chẳng nhờ sự tán dương. Mật viên Thần chú là
đnh của chư Phật, là tâm của Bồ Tát. Công năng rộng
lớn, lợi lạc vô biên; v́ thời lưu ít biết, nay lược
thuật cũng phân làm hai:
A
- Thuật Mật chú công đức sâu rộng.
B
- Hỏi đáp Mật chú Pháp khí hơn kém.
A.
TRƯỚC HẾT TR̀NH BÀY MẬT CHÚ CÔNG ĐỨC SÂU RỘNG.
Lược
y Thánh giáo chia ra có mười môn. Rộng lớn th́ vô lượng
(v́ nhiều người không biết
Mật giáo là thù thắng thâm sâu cho nên đem mười môn
để khen ngợi. Dùng cảnh tỉnh những ai chưa nghe; nếu
thật một mặt bỏ Hiển, khen Mật cũng chẳng phải bậc Thông
nhơn; kinh Hoa Nghiêm nói: Thọ một Pháp mà thôi bị ma ám
ảnh; khuyên tŕ các kẻ hậu học. Hoặc Hiển, hoặc Mật,
hoặc Tánh, hoặc Tướng. Thực hành th́ giữ lấy một môn;
tin th́ cần phải viên thông vô ngại. Chớ đồng với kẻ
mù rờ voi, đệ tử rửa chân! Tôi từng có bài kệ rằng:
Đại
thán thân tuyên ngũ giáo văn.
Thiên
môn vạn hộ nhập thiên nhơn.
Biển
quán thọ nhứt phi như giả.
Tận
thị Phật gia bất liễu nhơn.
Nghĩa:
Đại
Thánh nhân tuyên năm thời giáo.
Muôn
đường ngh́n nẻo vào chơn đạo.
Khắp
xem thọ một pháp mà thôi
Đều
là người không rơ nhà Phật.
Lại
nữa Chuẩn Đề đă tổng nhiếp 25 bộ; tức biết mười môn
sau đây đều nói công đức của Chuẩn Đề Đà Ra Ni vậy.
1) Hộ tŕ Quốc vương An-Lạc nhơn dân môn.
2) Năng diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần môn.
3) Trừ thân tâm bịnh, tăng trưởng phước huệ môn.
4) Phàm sở cầu sự giai bất tư ngh́ môn.
5) Lợi lạc hữu t́nh cứu thoát u linh môn.
6) Là chư Phật Mẫu giáo hạnh bổn nguyện môn.
7) Tứ chúng dị tu Kim Cang thủ hộ môn.
8) Linh phàm đồng Phật Như Lai, quy mạng môn.
9) Cụ tự tha lực hiện thành Bồ đề môn.
10) Chư Phật Như Lai thượng năi cầu học môn.
1-Đầu
tiên là hộ tŕ Quốc vương An-Lạc nhân dân:
Nghĩa là Bí Mật Tạng Đà Ra Ni kinh đều nói rằng: “Đà
Ra Ni năng hộ tŕ quốc vương, an lành nhân dân”. Cho nên
Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: “Trong tất cả quốc độ, nơi
nào có Đà Ra Ni lưu hành khiến nhơn vương thường được
ủng hộ, thế lực tự tại; cũng hay ủng hộ sự chánh hóa
của quốc vương. Có những kẻ như Vương tử, Phi hậu,
Tể tướng, Phụ thần, các quan tướng thảy đều được
ủng hộ; khiến được an vui, trong nước có nội ngoại oán
địch mưu kế gian trá, tật dịch, cơn cẩn, nắng hạn,
lụt lội, ác thú, độc long, tất cả việc bất tường như
vậy thảy đều đoạn dứt. Lại khiến tiền tài, lúa thóc,
phong nhiêu, kho lẫm đầy dẫy, hoa trái vinh thạnh, nhân dân
an vui”. Bảo Tạng Đà Ra Ni kinh nói: Đà Ra Ni lưu hành
chỗ nào, hay ủng hộ các Quốc vương, Vương tử, Phi hậu,
Công chúa, trăm quan, Phụ tướng, khiến cho các tai nạn tiêu
diệt, sở nguyện viên thành, thiên thần gia hộ; không
khiến ma quỷ đến nhiễu năo và trong nước lại được mười
thứ quả báo tốt:
1)
Trong nước không có tha bịnh, oán tặc xâm nhiễu.
2)
Trong nước không có tinh tú biến quái mà khởi lên
tai nạn.
3)
Trong nước không có ác quỷ thần hành các tật
dịch, thiện thần hộ vệ, vạn dân an vui.
4)
Trong nước không có gió lửa, sương muối, mưa đá các
nạn.
5)
Trong nước không có kẻ oan gia ŕnh t́m được.
6)
Trong nước người không bị các ma bức bách.
7)
Trong nước người không có các hoạnh tử.
8)
Trong nước các món thóc lúa đầy đủ, trái ngon quả
ngọt v.v…
9)
Trong nước thiện long, mưa gió thuận thời, không có
nắng hạn, băo lụt.
10)
Trong nước người không bị các thú dữ như: cọp,
beo, sói các ác thú làm tổn hại.
Lại
Thất Phật kinh chú nói: Đà Ra Ni, nếu như nhựt nguyệt đi
không đều, có thể khiến đi ngay lại. Luá gạo mất mùa,
năng khiến được mùa. Đại thần mưu phản, ác tâm tự
diệt. Tật dịch binh đao, thảy đều tiêu tán. Lại rằng:
Các Nhơn vương muốn được hiện đời an vui, ĺa các
hoạn nạn. Các vị Quốc vương kia nên cần tâm đọc tụng
Đà Ra Ni. Cũng phải khuyên hậu phi, thể nữ và các vương
tử … cần tâm tu tập. Lại Thủ Hộ Quốc Giới Chư Đà
Ra Ni kinh nói: V́ sao thiên nói hộ nơi quốc vương? Nghĩa là
quốc chủ an vui th́ vạn dân mới an vui, v́ vậy nên nói
hộ nơi quốc chủ. Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát kinh nói
rằng: Đà Ra Ni năng trừ tất cả hữu t́nh, tai hoạ, tật
dịch, đói kém, giặc cướp binh đao, nắng hạn không đều,
tinh tú thất độ. Cũng hay làm tăng trưởng phước đức, cơi
nước giàu mạnh, nhân dân an vui, quốc vương, nam nữ đều
được trường thọ. Trong kinh Tô Bà Hô Đồng tử nói: Ly
ngoài Chơn ngôn không có pháp riêng nào năng ban vui cho chúng
sanh được. Rộng như các Đà Ra Ni kinh nói: Xưa có Liêu
quốc, Thiên Hậu Hoàng Đế, chánh pháp
truyền khắp, Phật huệ lưu thông, kiên tŕ Mật chú
đều được thần công, liền được lúa mùa, bắp nếp đầy
kho; ngôi báu vững bền, nhân dân an vui lâu dài, chính nhờ
sự linh nghiệm của Đà Ra Ni.
2-Năng
diệt tội chướng, viễn ly quỷ thần.
Kinh
Bồ đề Trường Trang Nghiêm Đà Ra Ni, kinh Tối Thắng Tổng
Tŕ, kinh Lầu các Đà Ra Ni … Hơn hai mươi bản kinh đều nói
viết, chép Đà Ra Ni để trong tượng Phật, tháp, trong bảo
xử, hoặc viết trên tràng phan, trên điện đường, viết
trên giấy lụa, vải, tre, hoặc trên vỏ cây hoa, tường vách,
bảng mộc. Có chúng sanh được xem thấy hoặc thân tay rờ
đến hoặc trong bóng ngă qua, hoặc những bụi trần trên
chữ Chơn ngôn gió thổi nơi thân. Hoặc viết chép đeo mang
tại đảnh, trên thân, trong áo hoặc viết trên tràng phan,
nếu gió thổi phan động, phan kia chỉ chỗ chúng sanh. Hoặc
chép lên chuông, trống, linh, mơ, loa, bạt … các tiếng trên
vật ấy phát ra, nghe được tiếng ấy Trên đây đă nói: Các
chúng sanh dù bị tội ngũ vô gián là nghiệp mà chư Phật
cho rằng không sám hối được, cũng thảy đểu diệt tận.
Đời sau sanh về các nước Phật, huống chi thân tụng tŕ
đó ư? Cho nên người xưa nói rằng: Tội ngũ nghịch vô
gián rất nặng, niệm chú liền tiêu vong. Nghiệp thập ác là
cự khiên, vừa nghe liền bay mất. Trong Tùy Cầu Tụng có nói
rằng:
Dầu
phạm Ba La thập ác tội,
Sát
A La Hán và tôn thân.
Ngũ
nghịch căn bổn thất vô giá,
Ưng
niệm tùy tiếng liền tiêu diệt.
Chơn
ngôn Thánh lực công vô lượng
Nên
con xưng tán chẳng nghĩ bàn.
Lại
Mạt Pháp Trung Nhứt Tự chú, hết thảy Đà Ra Ni kinh nói:
“Người tŕ chú nơi bốn phương hướng, trong ṿng 500
dặm, các ác tinh diệu, quỷ thần, thiên ma… hết thảy
chạy tản lạc mà đi. Vị nào có phát thiện tâm thủ hộ
th́ không đi. Nếu kẻ nào cố ư làm chướng ngại mà ở
lại phá, liền bị chư hộ pháp đập bể đầu ra trăm
miếng, thân tâm dập nát. Nhờ thế nên hành giả không bị
các ma chướng và được đến Bồ đề.
Hỏi:
Có người nói sự tŕ chú hay gây ra ma chướng, nay sao lại
nói năng ĺa được ma chướng?
Đáp:
Đây là lời bàn nói của xóm làng, chứ trong Thánh giáo
chẳng có văn này.
Nay
Mật bộ các kinh đều nói: Đà Ra Ni năng ĺa ma chướng, nơi
đây chớ nên luận bàn. Như Hiển giáo trong kinh Pháp Hoa
sợ có kẻ giảng tụng tu tập kinh Pháp Hoa có khởi các ma
chướng. Cho nên nói phẩm Đà Ra Ni khiến trừ ác ma. Kinh
kia nói rằng:
“Nếu
chẳng thuận chú ta,
Năo
loạn người thuyết pháp
Đầu
bị phá bảy phần,
Như
nhánh cây A lê.”
Lại
Thích Ma Ha Diễn Luận: “Dạy người tọa thiền cần phải
tụng chú để trừ ma.
Lại trong Chỉ Quán nói: “Nếu các ma chướng làm năo
loạn sự tọa thiền, hành giả nên tụng Đại Thừa Phương
Đẳng và các chú trị ma nói trong kinh giáo. Nếu khi xuất
thiền, cũng nên tụng chú.”
Trong
kinh Kim Quang Minh: Hàng Thập Địa Bồ Tát c̣n lấy Thần chú
để hộ tŕ, huống ǵ phàm phu ư?
Cho nên kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nếu không tŕ chú
mà ngồi đạo tràng, khiến thân tâm kia xa ĺa các ma sự
lẽ đó không bao giờ đúng.
Lại
nói: “Đời mạt thế chúng sanh, muốn tu tam muội sợ đồng
tà ma, nên phải khuyến khích tŕ Thần chú của Ta (Phật).
Nếu chưa năng tụng chép nơi thiền đường hay đeo trên thân
ḿnh, th́ tất cả các ma chướng không dám động đến”.
Các văn như vậy, Tạng giáo rất nhiều, hiện thấy người
đời vị quỷ thần năo hại. Kẻ tŕ chú c̣n trừ cho họ
được, huống chi tự thân ḿnh lẽ nào ma quỷ dám làm
hại ư?
3)Trừ
bịnh thân, tâm, tăng trưởng phước huệ:
Kinh
Thánh Lục Tự Đà Ra Ni, kinh Phổ Hiền Đà Ra Ni, Văn Thù
Nhứt Tự Chú ...hơn mười lăm bổn kinh, đều nói môn
hạnh Đà Ra Ni, năng trừ được các món thân tâm bịnh
khổ. Nói thân bịnh ấy nghĩa là tất cả các thứ bịnh:
nhiệt bịnh, lănh bịnh, phong bịnh, ngược bịnh, nhăn
bịnh, nhĩ bịnh, tỷ bịnh, thiệt bịnh, khẩu bịnh, xỉ
bịnh, thần bịnh, hầu bịnh, diện bịnh, đầu bịnh,
kỉnh bịnh, hung bịnh, hiếp bịnh, phúc bịnh, thủ bịnh,
bối bịnh, yêu bịnh, tất bịnh, cước bịnh, tị bịnh,
lỵ bịnh, đàm bịnh, khí bịnh, lâm bịnh, đinh bịnh,
thủng bịnh, ban bịnh, tiểu bịnh, dượng bịnh, sang bịnh,
cuồng bịnh, điên giản bịnh, quỷ mị bịnh… chỉ nêu ra
các bịnh trọng yếu. Hoặc bốn đại làm các thứ bịnh;
hoặc ngũ tạng làm các thứ bịnh; hoặc quỷ thần làm ra các
bịnh; hoặc những bịnh do túc nghiệp gây ra. Những bịnh
như vậy, lấy Thần chú bất tư ngh́ lực có thể trừ lành.
Cho nên kinh Tŕ Cú Thần chú, kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni đều
nói rằng: Đà Ra Ni năng khiến cây khô trở lại sanh hoa trái
huống chi là các bịnh hữu t́nh mà không trừ được sao!
Hỏi:
Chơn ngôn hành giả chấp nhận việc gia tŕ quỷ thần để
trị lành bịnh kẻ khác phải không?
Đáp:
Kinh Diệu Tư Đồng Tử, kinh Tô Tất Địa … đều nói
rằng: Nếu cầu thượng phẩm đại thành tựu, không được
dùng Chơn ngôn gia tŕ quỷ thần cấm các trùng rắn để lành
bịnh người khác. Làm việc đó th́ hay ngăn ngại việc
lớn, kẻ học nên y lời Phật, coi chừng dè dặt. Nếu
thật ḷng đại bi sâu rộng, ôm ḷng Bồ Tát th́ không ngăn
cản việc đó. Cho nên kinh Quyến Sách nói: Trừ quỷ thần
bịnh (bịnh tà) phải tu
ba nghiệp thanh tịnh, đủ từ bi tâm; chư vị Bồ Tát mới
hay làm việc đó.
Lại
tất cả tham, sân, si bịnh tự tiêu diệt; cho nên kinh Bạch
Tán Cái Đà Ra Ni nói: “Nếu có túc tập tham tâm không được
trừ diệt, th́ phải một ḷng tụng Thần chú của Ta (Phật).
Như cô Ma Đăng Già đă cùng ông A Nan nhiều kiếp ân ái, đem
chú lực của Ta, làm cho ái tâm vĩnh đoạn, trở thành A la
hán.”C̣n như cô dâm nữ kia chẳng có tâm tu hành, khi
Thần chú thấm vào cũng mau chứng bậc vô học, huống ǵ
bản tâm cầu đạo Bồ đề đấy ư! Lại kinh Đại Bi nói:
“Chí tâm xưng niệm Đà Ra Ni, lửa dâm dục diệt, tà tâm
loại trừ”. Lại Như Ư Luân và tất cả các kinh Đà Ra Ni
nói: “Chơn ngôn hành nhơn hiện năng tăng trưởng tất cả
phước huệ. Phàm lời đă nói ra, người đều tin thọ,
chỗ dụng y vật, tài bảo, tất cả cử ư tùng tâm. Năng
khiếu trong ṿng 500 do tuần, người, trời, quỷ thần đều
đến quy ngưỡng. Lại tự nhiên thông hiểu tất cả: Kinh,
Luật, Luận và các sách vở của thế gian. Hoặc nhớ tất
cả không quên điều ǵ, mỗi ngày nhớ đến hàng ngh́n bài
tụng”. Cho nên kinh Đại Phật Đảnh nói rằng: “Nếu đọc
hoặc tụng Đà Ra Ni ấy, dù các chúng sanh này, tự thân
của ḿnh không làm phước nghiệp. Mười phương Như Lai đă
có công đức, tất phải ban cho người này.
Lại
nói: Nếu tŕ Thần chú, không sanh nghi hối, mà kẻ thiện
nam đó, do các bậc cha mẹ sanh ra mà tâm không được thông,
th́ mười phương chư Phật đều nói dối. Lại nói rằng:
“Chưa tinh tấn, khiến được tinh tấn. Vô trí huệ, sẽ
được trí huệ … Như chất thuốc dược nhỉ ở thế gian
c̣n hay khiến người trừ bỏ ngủ nghỉ tăng trưởng tinh
thần, huống nữa Thần chú lại không sinh trí huệ! Lại
kinh Bất Không Quyến Sách Thần chú Tâm nói rằng: Nếu có
tứ chúng thọ tŕ trai giới. Chuyên tâm tŕ tụng Thần chú
bảy biến, chẳng xen tạp ngữ khác, phải biết người này
hiện đời chắc chắn giữ được hai mươi món lợi thù
thắng. Hai mươi món lợi đó là:
1.
Thân không bị bịnh tật, được an ổn khoái lạc.
2.
Do nghiệp lực đời trước, tuy có sanh bịnh nhưng
trị mau lành.
3.
Thân thể mềm mại, da thịt sạch sẽ trắng đẹp,
mặt mày sáng sủa.
4.
Được mọi người thương kính.
5.
Mật độ các căn. (tai,
mắt…)
6.
Được nhiều tiền của quư báu, tùy ư thọ dụng.
7.
Đă có tài bải, vương, giặc, nước, lửa không thể
xâm tổn.
8.
Sự nghiệp làm ra đều thành tựu tốt.
9.
Đă có các món trồng tỉa, không sợ ác long, sương
muối, băo lụt thiêu hủy.
10.
Nếu có lúa thóc tai họa xâm phạm, nên tụng Thần chú
gia tŕ nơi tro, hoặc nước trải qua 7 biến rồi đem rưới
vào ruộng khắp 8 phương đă kiết giới, trên dưới, bấy
giờ các tai hoạnh liền được diệt trừ.
11.
Không bị những
sự bạo ác của quỷ thần, la sát đến hớp hoạt tinh khí.
12.
Tất cả hữu t́nh nghe thấy hoan hỷ, an lạc thường
tôn trọng, không nhàm chán.
13.
Không hề sợ sệt tất cả oán cừu.
14.
Dù có oán cừu cũng mau tiêu diệt.
15.
Người và các kẻ phi nhơn không thể xâm hại.
16.
Yếm mị, trù rủa, thuốc độc, yếm chú chẳng dính
vào thân.
17.
Phiền năo , triền cấu không thể hiện hành.
18.
Đao độc, nước lửa không thể làm thương hại.
19.
Chư Thiên, thiện thần thường theo hộ vệ.
20.
Đời đời không xa rời từ bi hỷ xả.
Và
trong kinh Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú có nói:
Nếu có các tịnh tín, thiện nam, tín nữ thường tŕ tụng
Thần chú; hiện thân sẽ thu được mười món thắng lợi;
mười món đó là:
1.
Thân thường vô bịnh.
2.
Thường được mười phương chư Phật nhiếp thọ.
3.
Tài bảo, y thực, thọ dụng vô tận.
4.
Năng hàng phục kẻ oán địch mà không lo sợ.
5.
Khiến các bậc tôn quư cung kính, tin lời.
6.
Cổ độ, quỷ mị, không thể trúng thương.
7.
Tất cả dao, gậy không thể làm tổn hại.
1.
Nước không thể nhận ch́m.
2.
Lửa không đốt được.
3.
Lâm chung không bị hoạnh tử.
4-Phàm
sở cầu sự, gia bất tư ngh́:
(Phàm sở cầu việc ǵ đều
không thể nghĩ bàn)
Kinh
Quán Tự Tại Nghi Quỹ, kinh Văn Thù Sư Lợi Nghi Quỹ cùng các
kinh Nhứt Tự Đảnh Luân … hơn mười bổn kinh đều nói
Chơn ngôn hạnh nhơn, khi cầu thành tựu th́ dùng bốn thứ
vật:
1.
Cung tên, rựa búa, câu, luân (bánh
xe pháp luân) xử, cảnh (cái
kính) hoặc sổ châu, b́nh bát, ca sa, tất cả các vật
dụng của chư Tăng.
2.
Hùng hoàng, thư hoàng, cũng như các món thuốc khác.
3.
Lấy đất trên bờ sông ḥa làm bùn dẻo rồi nắn h́nh
sư tử, voi, ngựa, trâu tức loài đi chạy. Hoặc gà,
ngỗng, chim, công, sí điểu … là loài bay cùng các h́nh thú
khác.
4.
Hoặc đắp vẽ, điêu khắc tất cả h́nh tượng
Phật, Bồ Tát, Minh Vương; tùy ḷng ưa muốn phân ra làm
một việc, y pháp thành rồi mà đem để trong Đàn; như pháp
tụng chú, khi thấy được ánh lửa xẹt ra; hoặc tay cầm
hoạc xoa thân hoặc cỡi lên cùng trợ bạn tri thức bay lên
hư không. Hoặc có người thấy thành tựu, hay thấy các người
khác được thành tựu; tất cả đều được bay lên hư không,
dạo chơi khắp thế giới, cúng dường chư Phật, Bồ Tát,
đều thọ mạng một kiếp, chứng được Sơ địa, Bách pháp
minh môn. Nếu khi thấy xẹt khói ra, dùng y như trước sẽ
được làm vua ở cơi Tiên, trụ thọ muôn muôn tuổi.
Nếu
khi hơi nóng phát ra được tất cả nhơn, thiên kính ái;
sở cầu như ư; đây là tướng thành tựu của ba phẩm: thượng,
trung, hạ.
(Nếu
có lửa sáng phát ra, đó là thượng phẩm; khói phát ra là
trung phẩm, hơi nóng phát ra là hạ phẩm). Lại nói
rằng: Nếu hỏa quang hiện ra, được tất cả chư Thần thường
đền ủng hộ; các chúng Bát bộ thường cung kính.
Dùng
tất cả Thần chú đều được tối thắng, linh nghiệm.
Nếu tướng khói hiện ra, tùy chỗ đi, ở đều không chướng
nạn, sở cầu toại tâm. Nếu khí nóng hiện ra: Được
tất cả người và quỷ thần đồng tâm kính ái.
Tây
phương có một người được thành tựu thượng phẩm,
dẫn 500 người bay lên hư không. Như tại đây (nước
Tàu) có ông Hoài Nam Vương luyện chú nấu thuốc, gà chó
đến liếm trong vạc đều bay lên hư không. Cho nên mọi người
nói rằng: Hoài Nam thành đạo, chó sủa trong mây; Vương
Kiều đắc Tiên, Kiếm bay lên trời. Dược lực c̣n vậy,
huống chi Thần chú của Phật không thể nghĩ bàn ư! Thần
Biến Sớ nói: Nguời tay cầm Tiên phương, chưa từng ḥa
hiệp uống dùng; lại hủy báng rằng: ban ngày bay lên hư không
lại cho là hư dối, toàn là chuyện không tưởng. Lại Đại
Giáo vương các kinh Đà Ra Ni nói : Hoặc khiến người t́m
long nữ làm vợ, hàng dược xoa làm tôi tớ, cầm quyến tác
vào tu la cung; chú vào tử thi khiến khai mở những của báu
dưới đất. Hoặc nói thành nơi Thánh dược; hoặc nói t́m
đến tài bảo … trong Hiển giáo, việc này ít nghe. Cho nên
Tiên Đức nói: “Ngoài Tam thừa ra, riêng có pháp tŕ minh
đó.”
Hỏi
rằng: Bổn ư của chư Phật là khiến đoạn tham, sân tất
cả, cớ sao khiến người khởi ḷng tham cầu thế sự
vậy.
Đáp:
Chư Phật có phương tiện độ sanh không thể nghĩ bàn. Nghĩa
là có những chúng sanh không chịu cầu thẳng tới đạo
Bồ đề; vả lại tùy ḷng ưa muốn, khiến tŕ chú cầu.
Do sức Thần chú không thể nghĩ bàn, việc mong cầu được
toại ḷng; tất cả tội nghiệp được tiêu diệt, tự nhiên
siêu phàm nhập Thánh. Như đứa trẻ con có bịnh, không
chịu uống thuốc, thầy thuốc có đủ trí, thoa thuốc nơi
vú mẹ; trẻ nít kia nút vào không ngờ đă uống được
thuốc hay, trừ được bịnh khổ. Cho nên kinh Quyến Tác Tâm
Chú có nói: Nếu có chúng sanh dù đem dua mị để cầu phú
danh lợi, nếu được nghe chú này, các chúng sanh đó đời
đời kiếp kiếp thành tựu được hưởng phức tụ trí
huệ. Thần biến sớ nói cảnh giới Chơn ngôn. Thập địa
Bồ Tát c̣n cho chẳng phải cảnh giới của các Ngài;
huống là người trong cơi sinh tử ư! (Có
người nói rằng: Đà Ra Ni phần nhiều khiến người có
chỗ hy cầu, trở ngược lại gây tổn hại chúng sanh; đây
là ly ngoại cầu, lấy vô cầu giống như đoạn kiến
ngoại đạo. Nay Phật giáo nói: Trọn ngày cầu đó mà không
thấy tướng cầu, là chơn vô cầu, chẳng đồng cây, đá,
toàn là không ly cầu vậy. Cho nên Quán Âm Sao nói rằng: Tuy
nhiên niệm niệm cầu, mà không có tướng năng cầu và sở
cầu. Huống chi các Phật Đại từ, Đại bi đâu có cố ư
làm tổn hại chúng sanh.)
5-Lợi
lạc hữu t́nh cứu thoát u linh:
Đại Bảo Lầu Các kinh, Đại Bi Tâm kinh cùng Mâu Lê Chú
… hơn mười lăm bổn kinh đều nói: Nếu có chúng sanh được
thấy thân người tŕ chú, hoặc nghe âm thanh lời nói,
hoặc đi qua trong bóng của họ th́ được tận diệt tội
thập ác, ngũ nghịch, đời sau được sanh vào các nước
Phật. Lại người tŕ chú, chỗ mắt họ thấy, chỗ thân
họ chạm xúc, hết thảy loài hữu t́nh cũng diệt tất cả
tội, đời sau sanh các nước Phật. Những người tŕ chú
khi đi đường gió thổi, hơn gió này chạm vào hành giả
rồi cuốn đi; hoặc thân rửa, tắm trong sông, suối nước
cuốn đi những ǵ kỳ cọ; hoặc khi trời mưa, ngửa mặt lên
không trung tụng chú, những hạt nước mưa trên không trung
cũng thấm nhuần linh lực; hoặc trên đỉnh núi tụng chú,
chỗ nào tầm mắt phóng tới tất cả sự kiện trên ảnh hưởng
đến các chúng sinh như sau: mọi tội lỗi đều tiêu diệt,
đời sau được sanh về cơi Tịnh độ của chư Phật, hóa
sanh trong hoa sen. Như thế gian chỗ có thuốc độc, đi qua dưới
gió, khi gió chạm vào liền bị tổn thương; c̣n có công
lực khó lường huống nữa là Thần chú không thể nghĩ bàn
ư! Lại kinh Quyến Tác nói: “Nếu nghe Đà Ra Ni mà sanh
hủy báng, cũng vẫn được lợi ích. Như người có ác tâm
đi vào trong rừng long năo, chiên đàn rồi chặt bẻ, giậm,
đạp, làm cho găy, ngă tất cả, chính thân thể kẻ phá
hoại đó cũng dính được cái hương khí thơm tho kia. Cho nên
trong Phật Đảnh Tụng có nói: “thần thông thắng hoá, khó
nghĩ bàn, Đà Ra Ni môn thật là đệ nhất.” Lại trong kinh
Vô Cấu Tịnh Quang, kinh Bất Không Quyến Tác, kinh Phật Đảnh
Tôn Thắng, kinh Tùy Cầu … nói “Nếu vong nhơn đă tạo
nhiều ác nghiệp, khi chết đọa tam đồ; Chơn ngôn hành
giả liền xưng tên tuổi, tộc họ của vong linh rồi chuyên
tâm tụng chú, lúc bấy giờ vong ấy sẽ ĺa khỏi được
ác thú và sanh nơi thiên thượng.
Lại
lấy Chơn ngôn chú vào nơi đất cát, hoặc hoa sen rải trên
mộ, trên thi hài của vong nhơn liền được sanh về các cơi
Tịnh độ của chư Phật. Ngoài ra các y vật, thân phần
cốt nhục của vong nhơn mà được bóng người tŕ chú chói
vào cũng được sanh về những nước Phật. Lại chép Đà
Ra Ni rồi đặt trên hài cốt của vong nhơn, vong
đó liền sanh nơi thiên cung. Cho nên bực Tiên triết nói
rằng: Bụi rơi, bóng chói, Thần dạo thiên cung; rải đất,
rưới nước, thức ĺa ác thú”.
Hỏi:
Vong nhơn tạo nghiệp đă thành, bị đọa trong tam đồ v́
sao Chơn ngôn hành giả hoặc xưng tên, họ vong nhơn, hoặc
chú nguyện vào cát đất để trên mộ, trên thi hài mà
lại giúp cho vong đó chuyển khỏi đường ác khổ, c̣n được
vui sướng ở nước Phật ư! Chẳng những kẻ tục sĩ ôm ḷng
hoài nghi, mà chính các vị xuất gia cũng khó tin.
Đáp:
Kẻ trí lấy thí dụ mà được hiểu. Nay xin nêu ra thí dụ
này: “Như cấm chủ của người đời; cấm lửa không cháy,
cấm dao không đứt,
cấm rắn không mổ, c̣n hay biến hữu độc thành ra hết độc;
huống chi là Thần chú của đức Như Lai, không thể đổi
khổ được vui đấy ư!” Lại như sách Liệt Tử có nói:
“Sư Văn khéo gảy đàn cầm, chính nhằm mùa xuân mà gảy
dây Thương để đàn khúc Nam, gió mát thổi đến, cây cỏ
thành trái. (Dây Thương âm Kim, thuộc mùa thu, khúc Nam là khúc
tháng tám, nhờ dây mà được khí Thu, cỏ cây ra trái) Chánh
mùa thu mà gảy giây Giác, đánh khúc Giáp Chung có gió mát
trở lại, cây cỏ phát sum xuê. (Giác, âm Mộc, nói thuộc mùa
xuân, khúc Giáp Chung thuộc tháng hai, sinh ra được Xuân khí,
cây cỏ đơm hoa). Đương mùa hạ mà gảy dây vũ để đánh
khúc Hoàng Chung, sương tuyết rơi xuống, sông suối đông
lạnh, đóng cứng. (Vũ âm Thủy, thuộc về mùa đông, khúc
Hoàng Chung thuộc tháng mười một, nên băng tuyết đóng
lại). Mùa đông mà gảy dây chủy, đánh khúc Nhuy Tân mặt
trời chiếu sáng rực rỡ, băng cứng tiêu tan (Chủy âm
Hỏa thuộc mùa hạn, khúc Nhuy Tân thuộc tháng năm nên được
Hạ khí, băng cứng bị tiêu tan). Đây là cái thuật khảy
đàn của thế gian c̣n biến mùa thu làm xuân, mùa đông làm
hạ; huống nữa Thần chú của đức Như Lai, không thể nghĩ
bàn. Và Thần chú nhiệm mầu lẽ nào lại không biến cải
con đường ác khổ để được an vui nước Phật sao !!!
Ngài
Trang Tử nói: Ngoài Lục hiệp, Thánh nhơn xét đến nhưng không
luận bàn. Kinh Hoa Nghiêm nói: Lượng trí công đức đầy đủ
của Thập địa Bồ Tát, th́ Cửu địa Bồ Tát không hay
biết, huống nữa đức Như Lai là vua trong các Thánh; chỗ có
bí mật tâm ấn, đâu có thể lấy vọng t́nh của phàm phu
mà muốn so lường đó ư! Kia như con cá nằm đáy giếng làm
sao biết được sự sâu rộng ở biển Đông; chỉ nên tin
chắc đó. Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Bí Mật Tạng Thần chú
nói: Nếu có người tŕ chú, phàm ra làm việc ǵ cũng được
thành tựu; chỉ cần phải thâm tín không được sanh nghi.
Người tŕ chú đă có công năng lợi lạc hữu t́nh, cứu
thoát u linh. Như kinh Thiên Thủ Thiên Nhăn Quán Thế Âm Bồ
Tát Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói: Người nào tŕ chú sẽ không
bị mười lăm món ác tử:
1) Không khiến người kia bị chết v́ đói khát, khốn
khổ.
2) Không bị chết v́ côt trói, đánh đập.
3) Không bị oan gia, cừu đối mà chết.
4) Không bị quân trận giết nhau mà chết.
5) Không bị chết v́ cọp beo làm hại.
6) Không bị chết v́ rắn rít độc cắn.
7) Không bị chết v́ nước trôi, lửa cháy.
8) Không bị chết v́ trúng độc dược.
9) Không bị trùng độc hại chết.
10) Không bị cuồng loạn, thất niệm mà chết.
11) Không bị chết v́ núi cây, bờ gộp sập đè.
12) Không bị người ác yếm mị mà chết.
13) Không chết v́ tà thần, ác quỷ ŕnh hại.
14) Không bị ác bịnh triền thân mà chết.
15) Không bị phi phản tự hại mà chết.
Lại
kinh Bất Không Quyến Thần Chú Tâm nói: Người tụng chú lúc
lâm chung được tám món lợi thù thắng:
1) Khi mạng chung, thấy Quán Tự Tại Bồ Tát hiện tướng
Tỳ Kheo đến trước mặt an ủi.
2) Mạng chung được an ổn, không bị các sự thống
khổ.
3) Lúc sắp mạng chung, mắt không trợn lớn, miệng không
hả méo, tay buông thong thả, chân duỗi ngay ngắn, không
tiết ra phân nhơ, nước tiểu, không bị trụt, rớt xuống
đất.
4) Lúc sắp bỏ mạng, an trụ nhớ chánh niệm, ư không
loạn tưởng.
5) Lúc chết không úp mặt.
6) Khi sắp chết được vô tận biện.
7) Khi đă xả mạng rồi, tùy nguyện sanh về các cơi
Tịnh độ chư Phật.
8) Thường cùng thiện hữu không xa rời nhau.
Kinh
Thập Nhứt Diện Quán Thế Âm Thần chú nói: Người tụng
chú được bốn món công đức:
1) Khi lâm chung được thấy chư Phật.
2) Mạng chung không bị đọa vào chốn ác thú.
3) Không nhơn hiểm nạn, tai ách mà chết.
4) Được sanh về cơi Cực Lạc thế giới.
6)Chư
Phật mẫu giáo hạnh bổn nguyện:
Nghĩa là tất cả chư Phật đều từ Đà Ra Ni sanh ra. Kinh
Lầu các nói: Chơn ngôn là mẹ của chư Phật, thành chủng
tử Phật, nếu không Chơn ngôn th́ không thành chánh giác.
Tất cả Tam Tạng giáo điển đều do Đà Ra Ni phát xuất
cho nên trong kinh Tối Thượng Đại Thừa Bảo Vương nói có
bốn thừa:
1)
Thinh Văn thừa
2)
Duyên Giác thừa.
3)
Phương Quảng Đại thừa.
4)
Tối Thượng Kim Cang thừa. Đó là Đà Ra Ni tạng vậy. Tất
cả pháp đều từ Kim Cang lưu xuất. Thần Biến Sao nói: Ngh́n
ḍng, muôn phát khởi từ núi Tích Thạch, Côn Lôn. Mướ
hai phần kinh phát xuất từ Tạng Tổng tŕ bí Mật; lại muôn
hạnh cũng do Đà Ra Ni mà ra. Nghĩa là trong Chơn ngôn, mỗi
mỗi một chữ toàn là Vô tướng pháp giới. Muôn hạnh đều
từ pháp giới mà ra. Cho nên kinh Tŕ Minh Tạng Nghi Quỹ nói
rằng: Chữ ÁN tức vô tướng pháp giới mà ra.
Thần
Biến Sớ nói: Vô tướng pháp giới toàn là Chơn ngôn, Chơn
ngôn toàn là vô tướng pháp giới; vả lại Chơn ngôn cũng
gọi là Tam tạng. Có tŕ chú ấy đều là Tam tạng. Nghĩa là
trong Chơn ngôn mỗi mỗi một chữ đều gm đủ cả Giới,
Định, Huệ; đủ muôn hạnh không ra ngoài Lục độ, Lục
độ không ly Tam học. Đă nói Chơn ngôn gọi Tam tạng tức
biết Chơn ngôn bao gồm muôn hạnh. Chơn ngôn là Tổng
hạnh, các pháp môn khác là chi lưu của các hạnh môn.
Hỏi:
Trên dẫn kinh nói rằng: Đà Ra Ni là Thiền Định Tạng trăm
ngh́n tam muội thường hiện tiền. Nay lại nói: Chơn ngôn
tổng hành Tam tạng, tức biết Chơn ngôn tổng chứa đủ
tất cả môn thiền định. Cớ ǵ Thiền giả ngày nay không
cho tŕ chú ư?
Đáp:
Trong các truyện kư Thiên Trúc và Trung Hoa, xưa nay các
thiền đức đêù vâng làm các điều thiện, huông ǵ Thần
chú là vô tướng định môn tâm ấn của Phật ư!
Trong
Bạch Tán Cái Đà Ra Ni có bài tụng rằng: Khai vô tướng môn
viên tịch tông, tự tự quán chiếu Kim Cang định. Lại nói:
“Du Già diệu chỉ truyền tâm ấn; Ma Ha diễn hạnh tổng
tŕ môn”. Như Long Thọ Bồ Tát trong Truyền Đăng Lục ở
Tây Thiên Thiền tông Tổ thứ 14, chép lược ra kinh Tạng Tŕ
Minh, hoằng dương Thần chú Chuẩn Đề. Ngài Nhất Hạnh
thiền sư là Thánh nhơn trong xứ Trung Hoa c̣n tán thuật
thần biến Chơn ngôn; Ngài Trí Giả được túc mạng thông,
rộng bày nghi quỹ Thần chú. Khế Phù thiền sư có người
hỏi Tối Thượng thừa pháp, Ngài liền dạy tụng Mật ngôn;
xưa các thiền sư đâu không cho tŕ chú ư?
Lại
như Thiền tôn đă noí: Tất cả các pháp đều là chơn như.
Tŕ tụng Chơn ngôn đâu không phải là chơn như? Nay có
thiền sư hoặc giảng sư thấy hoằng truyền Mật chú, sợ
mất lợi của ḿnh, tâm sinh tật đố. Vậy xin quư vị
hiện tại cũng như vị lai đề pḥng ác báo. Cho nên trong
kinh Phật Đảnh Vô Cấu Quang Minh Đà Ra Ni có nói: xưa có
ông Vô Cấu Bà la môn v́ người tuyên nói bí mật Thần chú.
Có
ông Quang Minh trưởng giả, trước kia có nhiều người quy
ngưỡng, sợ mất cái lợi của ḿnh mà sanh ác tâm, ác tâm
hưng khởi, ông liền mắc bịnh lác hủi, thọ đại khổ năo.
Cho đến khi chết đọa trong vô gián đại địa ngục chịu
khổ một kiếp; trở lại đọa vào địa ngục một kiếp
nữa mới được sinh làm người mà không có hai con mắt. V́
nhờ duyên lực kiếp trước, trở lại gặp Vô Cấu Bà la môn
đang làm bực Tỳ Kheo tuyên nói Mật chú, vừa nghe liền
sinh vui mừng rồi nhờ chú lực kia, lúc chết sinh cơi trời
… Như trên đă nói: Hủy báng tuy có lợi ích nhưng sự
lợi ích đó xa vời lắm và hủy báng đều có tội như ông
trưởng giả Quang Minh kia vậy. Bởi v́ Mật chú là tâm ấn
của chư Phật có vô lượng Minh vương, chư Thiên, Long
thần thảy đến hộ tŕ nên khiến người hủy báng hiện
đời đa phần mắc bịnh lác hủi, xin mong kẻ thời lưu
cần phải dè dặt.
7)Tứ
chúng dị tu Kim Cang thủ hộ:
Tất cả tứ chúng chỉ cần hiểu lời nói, đi, đứng,
nằm, ngồi trong bốn oai nghi được dễ dàng tụng tập.
Lại chỉ miệng tụng được gọi chơn hạnh. Năng trừ
phiền năo, an lạc pháp thân không nhờ thông suốt giáo điển,
như người bịnh được uống thuốc, uống vào liền trừ
bịnh, thân an không cần phải rộng hiểu sách thuốc. Cho nên
kinh Bát Nhă nói: Tổng tŕ cũng như diệu dược, cũng như
Thiên cam lồ, năng trị lành các bịnh, uống thứ đó thường
an vui. Phật Đảnh Đà Ra Ni sớ nói: Trai giới không bẩm
thọ mà được đầy đủ; quả chứng không xa mà có thể
được: Tiêu hết nạn, đạt lợi ích. Tự tu hành lại hóa
độ các người khác, bởi nhơn của người, bởi quả của
người, không có cái ǵ mà không do điều này mà hiện rơ
sự việc được. Lại Mạn Trà La Sớ nói: Ai niệm Thần chú
của đức Như Lai, tâm tâm ám hợp tâm của Như Lai; đọc
Mật ngôn của Bồ Tát, nguyện nguyện phù hợp nguyện của
Bồ Tát; sanh tử nào không lánh
xa, Niết Bàn nào mà không chứng đắc. Nếu y các tôn khác
tu hành, cần yếu phải biết rộng giáo lư của Phật, tỏ
ngộ được Chơn tâm, nhiên hậu tu hành mới là chánh
hạnh. Nếu chưa ngộ mà tu, th́ không phải chánh hạnh.
Như
người bịnh ở đời, cần yếu phải biết rộng sách
thuốc, hiểu rơ dược tánh mới trị được bịnh, tức khó
được trong muôn một vậy. Nên biết Thần chú hạnh môn tóm
lược công đức thâm sâu; khắp dẫn bảy chúng mau đến
Bồ đề, rất là yếu đạo. Cho nên Ngài Nghĩa Tịnh Tam
Tạng nói rằng: Lên trời cỡi rồng, sai sử trăm thần, phương
pháp lợi sanh chỉ cần thần giúp đỡ.
Hỏi:
Nếu y theo Hiển giáo sanh ḷng tin, nương theo ḷng tin phát
sanh sự hiểu biết. Nương sự hiểu biết phát khởi hạnh
tu hành, tu hành thành đắc quả. Nay Mật tông Thần chú không
cần sanh hiểu biết, chỉ cần tụng liền được đạo
quả. Đă vượt quy tắc thông thường, khó mà sanh ḷng tin?
Đáp:
Như người bịnh trong thế gian không hiểu phương thuốc,
gặp được thuốc thần diệu mà uống, liền được thân tâm
an ổn. Nếu đă không hiểu dược tánh, v́ sao trừ bịnh thân
an? Thuốc đời c̣n vậy, huống chi Thần chú không thể nghĩ
bàn của đức Như Lai và giáo lư của đức Như Lai không
thể lấy một lư mà suy. Đă nói Hiển, Mật có khác không
thể lấy một mặt mà giải. Khởi Tín Sao nói: Ép chặt
trụ đàn mà lên dây, toàn là ngu, ôm cây đợi thỏ chẳng
phải kẻ trí. Chỉ nên tin mà tu tŕ sẽ mau đắc đạo
quả. Nếu chẳng sanh ḷng tin, th́ luống uổng công chẳng
ích ǵ. Kinh Đại Bi Tâm nói: Tụng tŕ Thần chú th́ tất
cả mọi sự mong cầu đều được kết quả toại nguyện.
Chỉ trừ đối với Thần chú sanh ḷng nghi.
Lại
nói rằng: Nếu có sanh nghi không tin đó là trong trăm vạn
kiếp thường ở chỗ ác đạo, không nghe được Tam-Bảo.
Lại các kinh đă nói: Kẻ hành giả đối với Chơn ngôn
trong bốn oai nghi, có vô lượng thiên long bát bộ chúng, Kim
Cang thiện thần thường theo gia hộ. Cho nên kinh Quảng Đại
Viên Măn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói tụng tŕ Đà Ra
Ni là Vô úy tạng; Long thiên, thiện thần thường theo hộ
tŕ. Lại nói rằng: Nếu như pháp tụng chú, tức có tất
cả thiện thần, long vương Kim Cang Mật tích thường theo
hộ vệ không xa ĺa hai bên người tŕ chú, như giữ ǵn đôi
tṛng con mắt, như hộ mạng ḿnh. Lại người tŕ chú:
Hoặc ở núi non, đồng vắng, ngủ riêng một ḿnh, các
thiện thần sẽ thay nhau ngủ nghỉ để bảo vệ trừ sạch
tai chướng. Nếu ở nơi rừng sâu nuí thẳm, quên mất đường
đi; các Thiện thần, Long vương hoá làm kẻ thiện nhơn
chỉ đường về. Nếu gặp giặc, trận đánh, bị bọn cướp
giựt, trốn lạc qua nước khác, thiện thần long vương sẽ
dắt dẫn về chỗ cũ. Nếu ở nơi núi rừng, đồng vắng,
nước, lửa hiếm ít; Long vương ủng hộ hóa ra nước,
lửa. Cho nên kia có bài tụng rằng: Long Thiên chúng Thánh đồng
từ hộ, trăm ngh́n tam muội đốn huân tu. Lại trong kinh Đại
Phật Đảnh Đà Ra Ni nói: Giả sử có chúng sanh nơi tâm tán
loạn, miệng vẫn tụng Thần chú, thường được tám vạn
bốn ngàn na do tha, hằng hà sa cu chi Kim Cang Tạng Vương Bồ
Tát chủng tộc, mỗi mỗi đều có các Kim Cang chúng mà làm
quyến thuộc, ngày đêm thường theo hộ vệ người này. Dù
có ma vương phương tiện ŕnh t́m người kia, cũng không
thể được. Các tiểu quỷ thần xa lánh kẻ thiện nhơn này
ngoài mươi do tuần. Nếu quyến thuộc của ma muốn ŕnh t́m
đến xâm nhiễu kẻ thiện nhân; các chúng Kim Cang lấy chày
đập nát đầu, nhỏ như hạt bụi. Hằng ngày khiến người
này làm việc như nguyện. Cho nên lời tụng kia nói: Tám
vạn bốn ngàn Kim Cang chúng: Đi, đứng, nằm, ngồi đều
theo hộ thân (hành giả).
Mật
bộ các kinh rộng nói hộ tŕ cho người tụng chú; muốn
biết rơ, xin xem trong Tạng giáo.
8)Khiến
phàm đồng Phật Như Lai quy mạng:
Chơn ngôn người hành giả, tŕ tụng Thần chú khi khoá số
đă măn; thân, khẩu, ư ba nghiệp ra làm các việc thiện ác,
đều thành pháp môn vô lậu công đức. Cho nên Bạch Tán Cái tụng
nói rằng: Tụng xong một vạn tám ngàn biến, biến biến
nhập nhập nơi vô tướng định. Tên thành Kiến cố Kim
Cang tràng, tự tại được gọi là Phật giữa loài người.
Dù cho mắng chửi, chẳng lấy làm lỗi, chư Thiên vẫn nghe
tiếng thành ra Phạn âm. Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni nói
rằng: Tụng tŕ Đà Ra Ni ấy, trong miệng nói ra lời ǵ,
hoặc thiện hay ác tất cả thiên long nghe đều là pháp âm
thanh tịnh. Lại có bài kệ rằng:
Thí
như thuốc linh đơn;
Điểm
sắt thành vàng báu.
Tụng tŕ Đà Ra Ni;
Biến phàm làm Thánh Hiền.
Lại
Thần Biến Sớ nói rằng: Chơn ngôn hành giả năng khiến ba
nghiệp giống như ba nghiệp của Bổn Tôn. Lại kẻ hành
giả tŕ chú, được quy mạng; cho nên được chư Phật quy
mạng. Cho nên Phật Đảnh kệ rằng: Mười phương thế
giới các đức Như Lai hộ niệm, cho người đó hộ tŕ
vậy đó.
9)Đầy
đủ tha lực, tự lực hiện thành Bồ đề:Trong
Hiển giáo có Tự lực và Tha lực, hai môn Thập Trụ Luận,
Niệm Phật cảnh … nói:
1)Tự
lực môn: Nghĩa là tu
lục độ hết thảy muôn hạnh gọi là khó hành đạo, như
người đi bộ xa ngh́n
dặm th́ phải đến chậm.
2)Tha
lực môn: Các pháp môn
niệm Phật gọi là dễ hành đạo. Như người đi đường
thủy xuôi thuyền thuận gió th́ được đến mau.
Nay
trong Chơn ngôn bí Mật Thần chú đầy đủ hai lực Tự và
Tha. Trong kinh Đại Thừa Bảo Vương Đẳng và các kinh nói:
Hành giả Chơn ngôn ngày ngày được đầy đủ Ba la Mật,
viên măn công đức. Lại Phật Đảnh tụng rằng: Không tŕ
trai ấy mà gọi là tŕ trai, không tŕ giới mà xưng là tŕ
giới, Tăng pháp 250 giới, Tỳ Kheo Ni phạm Bát Ba La, khi nghe
Phật Đảnh Đà Ra Ni liền được cụ túc Thanh Văn giới. Và
trong Phật Đảnh Sớ có nói: Hạnh môn Bồ Tát tùy hành
thời đủ; nay không hành mà tự đủ, là nhờ sức của
Thần chú có đầy đủ muôn hạnh; lời nói này không sai.
Trong
Chơn ngôn Tự Lực Môn: Mỗi mỗi một chữ đều là toàn thân
của chư Phật. Kinh Mạt Pháp Trung Nhứt Tự Chú nói: Sau khi
diệt độ, Ta biến thân làm chú này … tức là Tha Lực môn.
Lại có các kinh nói: Chơn ngôn hành giả hiện đời năng thành
Vô thượng Bồ đề. Cho nên kinh Lầu các nói rằng: Ta từ
nơi vô lượng cu chi trăm ngàn kiếp, tuy hành khổ hạnh mà
không được Bồ đề nhờ có vừa nghe Đà Ra Ni th́ tăng thêm
hạnh tương ưng, liền thành chánh giác. Lại Ngũ tự Đà Ra
Ni tụng rằng: Chư Phật sức bổn thệ, hiện thành các
việc Thánh. Nghĩa là chỉ ngồi niệm một lần, liền thành
tới Chánh giác. Lại tựa Đà Ra Ni nói rằng: Nếu học
chứa nơi tâm, tức là ba nghiệp của phàm phu sẽ biến thành
chỗ chứa công đức, chỉ trong đời này liền được Bồ
đề, không cần lao nhọc tấn tu nhiều kiếp. Lại Thần
Biến Sớ nói rằng: Xét Đà Ra Ni làm Đại bất tư ngh́
thừa, thành Phật thần thông. Nghĩa là y các môn thành
Phật, như cỡi dê, ngựa, đi ngh́n dặm đường qua thời
gian rất lâu mới đến. Y Đà Ra Ni môn thành Phật, như
cỡi thần thông đi ngh́n dặm đường, móng ư liền đến nơi.
Chỗ đến tuy không khác, chỗ nương pháp có chậm, mau
vậy. Lại các môn thành Phật như mài vàng đá lấy ngọc
Như Ư, tu theo Chơn ngôn thành Phật như sức thần thông
lấy ngọc Như Ư. Lại c̣ng nói rằng: Các vị Bồ Tát v́
cầu Bồ đề, tuy tu các khổ hạnh khó làm, như sự cứu
lửa cháy đầu. Trải qua vô lượng kiếp c̣n không được
thành tựu như vậy. Chơn ngôn hành giả nếu tu không thiếu
pháp tắc th́ chỉ trong đời này sẽ được thành công, đắc
chứng Bồ đề. Cho nên Thần Biến Sao nói: Đốn siêu các
địa vị, là ví dụ nhờ các thần thông, mau xa ĺa phiền
năo ràng buộc, là v́ nhờ chú thuật, và trong Đại Giáo Vương
kinh nói: Nếu không y bí mật khóa tụng tu hành, sẽ không
thành công trọn vẹn ở cơi Vô thượng Bồ đề.
10)Chư
Phật Như Lai thượng năi cầu học:
(Các Phật Như Lai c̣n t́m
cầu học).
Như
Đại thừa Trang Nghiêm Bảo Vương kinh nói: Các Phật cũng
cầu Thần chú, huống nữa phàm phu không tŕ tụng sao? Cho nên
các kinh kia noí: Trong một lỗ chân lông của Quán Thế Âm
Bồ Tát có vô lượng chư Phật và Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ
Tát vào trong một lỗ chân lông của Quán Âm, trải qua mười
hai năm mà chẳng biết chừng đổi. Lại nói rằng: Đức Quán
Âm có sáu chữ Đại Minh Đà Ra Ni; tất cả Như Lai đều không
biết chỗ sở đắc kia. Nhơn vị Bồ Tát làm thế nào mà
biết được, đến nỗi nói: Phật trên hoa sen đă thành
Phật, để cầu sáu chữ Đại Minh này …
Hỏi:
Phật có đủ tất cả trí, đâu không biết Đà Ra Ni đó ư?
Đáp:
Có ba nghĩa:
1)Tiêu
biểu Đà Ra Ni này là thù thắng thâm sâu, khiến tôn
trọng. Như trên đă nói: Phật không biết mà tự cầu đó.
2)Phật
trong Quyền giáo: Như A la hán hay Bích chi Phật: Phật trong
Quyền giáo không thể biết được Viên tôn Mật chú. Như
Tiểu Thừa cực quả không hay biết được pháp thâm sâu
của Đại Thừa.
3)Mật
tôn Thần chú: Tức thể, lại là Viên viên quả hải cho nên
Phật không đắc được. Như Thích Đại Thừa Luận nói: Viên
viên quả hải Phật cũng không đắc được. Nay Lục Tự Đại
Minh và Chuẩn Đề Thần chú tức thể lại là Viên viên
quả hải vậy. (Nay Mật bộ tất cả Thần chú là pháp sở
thuyên trong Hiển giáo. Thật mà luận th́ hàm đủ năng thuyên
trong Hiển giáo. Nay Lục Tự và Chuẩn Đề chính là quả
hải trong Hiển giáo).
Hỏi:
Kinh Bảo Vương chỉ nói Lục Tự Đại Minh, Phật không
biết được, cớ sao nay nói Chuẩn Đề mà Phật cũng không
biết được?
Đáp:
Kinh Bảo Vương kia nói: Lục Tự Đại Minh rồi, lại liền
nói Chuẩn Đề, nên biết Chuẩn Đề là đồng quả hải.
Lại Phật chỉ biết Phật nói Chơn ngôn ở trong Ngũ bộ:
Phật bộ gồm thâu tất cả. Nay Chuẩn Đề độc riêng ngoài
Ngũ bộ; chẳng chẳng Viên viên quả hải đó là pháp ǵ?
Lại
hỏi: Luận rằng Chơn ngôn chỉ là ngôn giáo năng thuyên
tức lấy tiếng danh, câu văn thể là thể, v́ sao được
cho là viên viên quả hải?
Đáp:
Nếu hỏi câu này tức là chưa biết tôn chỉ của Mật giáo.
Nay bí Mật Thần chú trong Mật giáo tức là pháp sở thuyên.
Như trên đă nói, tất cả lời nói, văn tự thuộc về
lời năng thuyên, phần nhiều lấy thinh, danh, cú văn làm
thể hoặc lấy Duy Thức là thể. Trong Chung giáo nói: Lấy Vô
tánh chơn như làm thể. Trong Đốn giáo lấy Tuyệt đăi chơn
như làm thể. Trong Viên giáo nói lấy Thập huyền làm thể
hoặc Hải ấn tam muội làm thể. Kia trong ngôn ngữ năng
thuyên, trong Hiển giáo c̣n như vậy, tức là tuyệt đăi chơn
như thập huyền môn, huống là Mật tôn Thần chú, chính là
Nhứt chơn pháp giới trong Hiển viên ư! Lại Thích Ma Ha
Diễn Luận, căn cứ vào năng thuyên trong sanh diệt môn.
Hội tướng quy tánh, lấy chơn như làm thể hoặc lấy
Nhứt tâm làm thể. Trong chơn như môn, lấy tuyệt đăi chơn
như làm thể. Lại Thậm Thâm Huyền Lư Luận, Bất Động
Bổn Nguyên Luận, trong hai bổn Luận kia, lấy ǵ làm thể,
lấy lư suy gạn, th́ biết nói là lấy bất nhị quả hải
làm thể. Lời nói năng của nó c̣n như thế, tức cũng là
bất nhị quả hải; huống hồ Lục Tự Đại Minh, Chuẩn Đề
Thần chú, nghĩa là pháp sở thuyên trong hai bổn Luận kia ư!
Lại từ xưa, các Ngài đều cho rằng: Bí Mật Thần chú là
chư Phật tâm ấm, chỉ có Phật mới biết được chẳng
phải nhơn vị có thể hiểu. Lại nay, kinh Bảo Vương nói:
Phật cũng không biết Thần chú, nếu chẳng phải viên viên
quả hải đó th́ c̣n là ǵ nữa? Mong các học giả rộng ḷng
mà thể nhận, chớ vọng t́nh tự chấp!
Hỏi:
V́ sao chư Phật không đắc được viên viên quả hải?
Đáp:
Viên viên quả hải là pháp bổn tánh thành tựu, tiêu biểu
chẳng phải chư Phật tu nhơn đoạn chướng mà được;
lại tiêu biểu ra ngoài nhân quả vậy. V́ thế nên nói chư
Phật không được cầu mà tự cầu đó. Cứ thật mà
luận, các Phật đều biết được. Cho nên Ngài Hiền Thủ
nói: Tánh đức quả hải, tức là thập Phật cảnh giới.
Hỏi:
Lục Tự Đại Minh và Chuẩn Đề Thần chú đă là viên viên
quả hải, tức là thập Phật cảnh giới cớ ǵ phàm phu tŕ
tụng được?
Đáp:
Nay trong Mật giáo nói: Lấy Chơn ngôn bất tư ngh́ lực
khiến ba nghiệp phàm phu đồng ba nghiệp của Như Lai mà
được tŕ tụng. Lại Mật tôn Thần chú, nếu y cứ vào
chỗ hiểu biết, tức là chỉ cảnh giới của chư Phật.
Nay nhơn vị phàm phu tuy chẳng hiểu biết, chỉ nên tŕ
tụng tự nhiên diệt chướng thành đức, siêu phàm nhập Thánh.
Riêng một nghĩa này người tục nghe nói mà phát sợ. Lư vượt
thường t́nh; người đă ít nghe, kẻ phàm phu lại khó tin.
Những bậc bác học Thượng Trí, xét kỹ nơi đây mà rơ.
Ba nghĩa trên đây tùy ḷng thủ, xả (lấy hay bỏ).
Mười
môn từ trước đến đây lược bày Mật bộ, y tận kinh điển,
chẳng phải kẻ hạ ngu này hay biết được Mật chỉ. Cho nên
Thần Biến Sớ Sao nói: Chỉ có tay Kim Cang mới sờ được
chỗ kín đáo; con mắt liên hoa mới có thể nh́n suốt nơi
thâm sâu nhiệm mầu kia.
B.
HỎI, ĐÁP MẬT CHÚ PHÁP KHÍ HƠN KÉM.
Hỏi:
Mười môn như trên tŕnh bày hết trong Chơn ngôn Viên giáo,
là tất cả Chơn ngôn có hơn kém của ngũ giáo mỗi mỗi không
đồng, hay là tất cả chơn môn mà không hơn kém đều là
Viên giáo ư?
Đáp:
Theo Thần Biến Sớ có hai môn:
1)Tùy
tha ư môn: Tất cả
Chơn ngôn có hơn kém, các bộ không đồng. Lại Ngài Thanh Lương
sớ chú, ngoài ba Tạng: Kinh, Luật, Luận lập thêm một
tạng bao gồm Đà Ra Ni làm thành bốn tạng. Một trong ba
thừa đều có bốn tạng, làm thành mười hai tạng. Trong
Tam thừa đều có Đà Ra Ni, Ngũ giáo sau đây mỗi mỗi cũng
có Mật chú, như chú trong kinh A Hàm tức là Tiểu giáo. Các
chú trong kinh Bát Nhă tức là Thỉ giáo. Chú trong kinh Kim
Quang tức là Chung giáo. Chú trong Lăng Già tức là Đốn giáo.
Lục Tự Đại Minh Chơn ngôn và Chuẩn Đề Thần chú trong
kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương tức là Viên giáo.
(trong mười môn trước đây đă dẫn chứng kinh Đà Ra Ni,
phần nhiều là Viên giáo)
Phạn
ngữ Đà Ra Ni: Tàu dịch là Tổng Tŕ, là lấy Giáo, Lư,
Hạnh, Quả bốn pháp làm thể. Trong Ngũ Giáo Đà Ra Ni, mỗi
mỗi bao gồm thâu nhiếp những giáo trong đó gọi là Giáo,
Lư, Hạnh, Quả vậy.
(Hơn
kém của Ngũ giáo nay nên lên ví dụ này để kẻ mới học
được biết):
1)
Tiểu giáo như sắt.
2)
Thỉ giáo như đồng.
3)
Chung giáo như bạc.
4)
Đốn giáo như vàng.
5)
Viên giáo như ngọc Như ư.
2)
Tùy tự ư môn: Tất
cả Chơn ngôn lại không hơn kém đều là Tỳ Lô Giá Na Đại
Bất Tư Ngh́ Bí Mật Tâm Ấn. (Trong một đời giáo pháp cho
đến Chơn ngôn do quỷ thần nói đều là Tỳ Lô Giá Na Như
Lai, muốn pháp môn có lợi ích khắp chúng sanh, quư Ngài đă
biến ra các loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được; chứ
không phải thập loại quỷ thần mà nói Chơn ngôn được;
các loại khác cũng vậy). Lại Hiền Thủ Thanh Lương lấy
nghĩa phán giáo trong nhứt kinh gồm nhiều giáo. Tức là
biết Chơn ngôn trong tất cả kinh đều là Viên giáo.
Tất
cả Chơn ngôn gọi là Tổng Tŕ, năng tổng hàm nhiếp vô
tận Giáo, Lư, Hạnh, Quả. Thật mà nói: Dùng tất cả hai môn
mới phù hợp Phật tâm nhiệm mầu. Cho nên Thần Biến Sớ
nói: Chơn ngôn hành giả hay ở trong sai biệt, giải vô sai
biệt nghĩa. Ở trong vô sai biệt giải sai biệt nghĩa. Nên
biết đó là người khéo đạt tướng Chơn ngôn vậy.
Hỏi:
Trên nói Mật bộ là bao la rộng răi, thâm sâu, khó suy, khó
nghĩ: chưa xét pháp này hợp với căn khí nào.
Đáp:
Chỗ hợp căn khí có hai:
1)Tùy
tha ư môn: Chơn ngôn
đă nói có Ngũ giáo không đồng, căn khí cũng có năm món
sai khác, Đà Ra Ni trong ngũ giáo. Các giáo lư trong đó gồm
có ba căn: thượng, trung, hạn. Cho nên trong kinh Mạn Trà La
Sớ cũng có nói: Đà Ra Ni thông suốt đầy đủ các căn hơn
kém.
2)Tùy
tự ư môn: Tất cả
Đà Ra Ni đều hợp với bất tư ngh́ viên căn. Cho nên
Phật Đảnh tụng nói rằng: Thần thông thắng hóa bất tư
ngh́; Đà Ra Ni là môn tối đệ nhất. Nay có người chưa
từng tán ngưỡng Mật giáo, mà phần nhiều cho rằng Đà Ra
Ni tạng chỉ hợp hạ căn. Đây là lời nói rất sai lầm.
Nhưng trong các kinh Đà Ra Ni hoặc gọi Tối Thượng Thừa,
hoặc gọi Vô thượng Thừa, hoặc gọi Kim Cang Thừa, hoặc
gọi Bất Tư Ngh́ Thừa, đâu có phải là chỉ hợp với
hạ căn? Cho nên Ngài Thanh Lương nói: Lấy cạn làm sâu có
phải lỗi báng pháp không? Mong các học giả nên lưu tâm,
không nên cố chấp cái nghe trước mà sinh ra khinh chê.
Ngũ giáo ở Thiên Trúc và Trung Hoa Hiển Mật cả hai đều rơ
mới là bậc thông nhơn. Từ trước đến đây Hiển
Mật đều
giảng giải xong.
---o0o---
__________________ Phiền Năo Không Nhân
Bồ Đề Không Xứ Sở
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|