tranthanh03 Hội viên
Đă tham gia: 01 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 84
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 06 September 2008 lúc 7:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Chuyển Hóa Tư Tưởng
Từ ngữ chuyển hóa có nghĩa là thay đổi, một sự thay đổi hài ḥa và làm cho đẹp thêm. Sự thay đổi nầy không phải loại bỏ cái cũ để chấp nhận cái mới mà là có khuynh hướng ôm quyện, biến chế từ cái cũ thoát thai để h́nh thành một cái mới, nhưng vẫn có sự tương quan tương duyên với cái cũ.
Nói về tư tưởng lẽ tất nhiên phải nói đến hai khía cạnh: Tư tưởng lành mạnh và tư tưởng xấu ác.
Như chúng ta đă biết, cuộc chiến tranh ư thức hệ ngày nay càng lúc càng gia tăng một cách khốc liệt, điều đó cũng đủ chứng minh rằng nhân loại đang tiến đần đến chỗ tự tiêu diệt do chính tư tưởng xấu ác của con người. Như vậy muốn đem lại cho chính ḿnh và nhân loại một cuộc sống mới có ư nghĩa, chỉ có một con đường duy nhất là chính chúng ta phải biết chuyển hóa tư tưởng của chính ḿnh. V́ thế Đạo Phật chủ trương chuyển hoá tư tưởng, hoặc giải phóng những tư tưởng xấu ác để có được những tư tưởng lành mạnh tức là chúng ta được giải thoát.
Phương cách chuyển hóa hoặc giải phóng tư tưởng xấu ác là suy nghĩ chơn chánh, hay c̣n gọi là Chánh Tư Duy.
Chánh Tư Duy là một chi pháp trong Tám Chánh Đạo. Trong Ba Huệ Học, sự Suy Tư là một pháp rèn luyện trí huệ, nhưng suy tư đó phải là một thứ suy nghĩ chơn chánh. Có suy nghĩ chân chánh th́ cái thấy mới chơn chánh, cái thấy chân chánh th́ hành động và lời nói mới chân chánh. Như thế chúng ta thấy rằng, Sự Suy Tư Chân Chánh đóng một vai tṛ quan trọng trong việc tu tập để chóng đạt tới đích giải thoát giác ngộ. Tư tưởng xấu ác th́ có rất nhiều nhưng ở đây xin được gợi nhắc ba thứ vọng tưởng hay ba loại tà tư duy:
1- Tư Tưởng Tham Cầu(Dục Tưởng)
Là loại tư tưởng luôn luôn suy nghĩ đến dục lạc, nói một cách khác là tư tưởng bám víu trong tài, sắc, lợi, danh hay trong ngũ trần: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc.
2- Tư Tưởng Sân Si(Sân Tưởng)
Là nuôi tâm niệm bất b́nh giận hờn ganh ghét về những đối tượng không vừa ḷng hợp ư.
3- Tư Tưởng Hảm Hại(Hại Tưởng)
Suy nghĩ những phương kế hăm hại kẻ thù nghịch với ḿnh, nhất là tiêu diệt đối thủ.
Được coi là tư tưởng chân chánh là những tư tưởng lành mạnh dùng để đối trị những tư tưởng xấu ác.
1- Tư Tưởng Xa Ĺa Dục Lạc(Ly Dục Tưởng)
Để đối trị với tư tưởng tham đắm Dục Lạc, một người có tư tưởng lành mạnh, luôn luôn suy nghĩ đến tính cách vô thường, tạm bợ của các pháp. Đức Phật đă ví sự thành tựu và tan rả của năm trần hay nói chung là pháp hữu vi như trong Kinh Kim Cang đă dạy:
- Nhất thiết hữu vi pháp,
Như mộng, huyễn, bào, ảnh,
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là:
- Tất cả các pháp hữu vi
Như giấc mộng,
Như trí huyễn hóa,
Như bọt nước,
Như ảo ảnh,
Như sương mai,
Như ánh chớp trên không trung
Là người học Phật, chúng ta suy nghĩ như thế là để thoát dần ra khỏi trói buộc của đam mê năm trần. Một khi thoát ra khỏi năm trần, đời sống của chúng ta chắc hẳn sẽ tự tại, hạnh phúc hơn khi không c̣n bị dục lạc chi phối. Cho nên Đức Phật thường khuyến khích chúng ta:
- Muốn có được những hạnh phúc cao thượng th́ hăy lánh xa những lạc thú đê hèn.
Hoặc là:
- Bỏ tất cả, để được tất cả.
Bỏ tất cả, tức là vứt bỏ hết những sự đam mê trần cảnh. Để được tất cả tức là khi chúng ta không c̣n trần duyên chi phối lúc đó thân tâm an nhàn thư thái, thân tâm có an nhàn thư thái th́ chúng ta mới có thể phục vụ, d́u dắt chúng sanh cùng đi trên đường vui như chúng ta đă và đang đi. Sư từ bỏ của đức Phật, là một sự từ bỏ cao thượng
2- Tư Tưởng Xa Ĺa Sân Hận(Ly Sân Tưởng)
Là không nuôi trong ḷng những tư tưởng sân hận. Trong Kinh Pháp Cú Đức Phật có dạy:
- Người kia nhục mạ ta, đánh đập ta,
Chiến thắng ta và cướp đoạt của ta.
Người nào hằng ôm ấp những tâm niệm như thế
Th́ oán hận không bao giờ nguôi ...
Nhưng kẻ nào xả ly được những tâm niệm ấy th́ oán hận ắt phải tiêu tan.
Một đoạn kinh khác dạy:
- Phải dứt bỏ sân hận, phải tránh xa ngă mạn và đoạn ĺa mọi ràng buộc th́ phiền năo không thể chi phối được.
Thật vậy người ôm ấp tư tưởng sân hận tự đốt cháy lấy ḿnh bằng chính tư tưởng sân hận đó trước khi gia hại được kẻ khác.
Muốn chuyển hóa tư tưởng ra khỏi sân hận, trước hết phải diệt trừ tâm niệm đó bằng cách rèn luyện Đức tính Từ Bi Hỷ Xả. V́ chỉ có ḷng Từ Bi mới diệt được hận thù. Trái lại hận thù chỉ làm cho hận thù thêm chồng chất.
Trong 40 đề mục thiền định, đề mục đối trị tâm niệm sân hận là Từ Bi Quán. Từ Bi Quán là rải tâm từ bi đến tất cả chúng sanh không phân biệt thân hay thù, người hay vật. Như vậy người hành Từ Bi Quán phải luôn luôn giữ tâm cởi mở, trong lành và mát dịu như nước cam lồ, phải hằng niệm tưởng như vầy:
- Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái lẫn nhau, hăy đến với nhau bằng t́nh thân thiện, và hăy cho nhau bằng niềm an vui và hạnh phúc.
Đó cũng chính là lư do, mỗi khi chúng ta làm bất cứ việc ǵ, từ việc nhỏ cho đến việc lớn, chúng ta cũng đều phải hồi hướng:
- Nguyện đem công đức nầy
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo.
Chúng ta có thể niệm tưởng như thế bất cứ lúc nào chứ không cần phải ngồi kiết già hàng giờ như khi thực hành các đề mục thiền định khác. Như vậy hồi hướng công đức sau mỗi lúc chúng ta làm được một điều phước thiện, cũng là một h́nh thức khác của Từ Bi Quán. Nhờ niệm tâm từ mà dần dần chúng ta dẹp bỏ được ḷng oán hận, ganh tị, bỏn sẻn, vị kỷ và phát huy tâm bác ái, hoan hỷ, quảng đại, vị tha.
Một bậc chỉ có thể gọi là Bồ Tát khi đă phát tâm cứu độ chúng sanh, nghĩa là phải có tâm từ bi rộng lớn, chứ không thể tự xem ḿnh là Bồ Tát khi tâm c̣n ôm ấp hận thù oan trái.
3- Tư Tưởng Xa Ĺa Sự Hảm Hại(Ly Hại Tưởng)
Là dẹp bỏ những ư nghĩ hăm hại người khác. Con người v́ quá coi trọng bản thân của ḿnh nên sẵn sàng hăm hại, tiêu diệt bất cứ những ai đụng đến quyền lợi, danh dự của ḿnh. Là người học Phật, chúng ta nên ư thức:
- Nếu ḿnh biết tự ái, biết tự bảo vệ hạnh phúc và sự sống c̣n của ḿnh, th́ chúng ta cũng phải biết tôn trọng hạnh phúc và sự an nguy của kẻ khác.
Trong văn học Trung Hoa Đức Khổng Tử cũng đă từng dạy:
- Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.
Nghĩa là:
- Cái ǵ chúng ta không muốn th́ đừng làm cho người.
Vậy chúng ta không muốn đau khổ th́ chúng ta cũng đừng nên t́m hạnh phúc trên sự đau khổ của kẻ khác, mà chúng ta phải t́m hạnh phúc cho chúng ta bằng cách đem an vui đến cho người khác. Do vậy là người Phật tử nên ghi nhớ lời dạy sau đây của Đức Từ phụ:
- Ai ai cũng sợ gươm đao,
Ai ai cũng đều sợ chết.
Lấy bụng ta suy bụng người,
Không nên giết hại,
Cũng không nên bảo ai giết hại
Mà phải thực hành tâm hỷ xả, bao dung
Để diệt trừ tâm niệm hăm hại kẻ khác.
Vừa rồi qúy vị đă nghe qua ba phương pháp suy tư lành mạnh để đối trị với ba tư tưởng xấu ác. Để có thêm tư liệu trong việc thực tập giáo pháp giải thoát, trong kinh Đức Phật lại dạy thêm 10 phương cách suy tư khác để chuyển hóa mười loại suy tư không lành mạnh. Pháp Tư Duy nầy gọi là Thập Tưởng.
1- Tư Tưởng Vô Thường(Vô Thường Tưởng)
Suy tưởng đến nguyên lư thứ nhất của vạn hữu là Vô Thường. Nh́n sự sinh diệt của hiện tượng ngoại giới cũng như chính nội tâm, ta biết rằng:
- Các Pháp do nhân duyên hợp khởi đều phải bị định luật vô thường làm biến đổi chi phối.
Có suy nghĩ như thế th́ chúng ta mới chuyển hoá tư tưởng ra khỏi các vọng tưởng, chấp tướng.
2- Tư Tưởng Khổ Đau(Khổ Tưởng)
Là suy nghĩ đến tính cách khổ năo của đời sống trong hiện tượng giới. Chữ khổ ở đây không hoàn toàn ám chỉ thân khổ hay tâm khổ như:
- Sinh, già, đau, chết, phiền muộn, uất ức ...
Mà c̣n bao hàm tính cách bất lợi, phiền toái của pháp hữu vi. Để cho vấn đề sáng tỏ chúng tôi xin mượn lời dạy của Đức Lăo Tử:
- Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả,
Vị ngô hữu thân
Cập ngô vô thân
Ngô hữu hà hoạn.
Nghĩa là:
- Tôi sở dĩ mà có cái khổ
Là v́ tôi có thân
Nếu như không có thân
Th́ làm sao có khổ.
Cái thân mà Đức Lăo Tử nói đây thuộc về pháp hữu vi, nghĩa là do nhân duyên sinh khởi và cái đại hoạn đó chính là chữ Khổ trong Đạo Phật. Pháp hữu vi khiến ta vướng mắc không được tự tại nên là đại hoạn, là khổ vậy.
3- Tư Tưởng Vô Ngă(Vô Ngă Tưởng)
Là suy nghĩ đến bản chất không thật có của các pháp. Các hiện tượng luôn luôn biến đổi nên không có thực thể, kể cả thân con người cũng được xem như là một hiện tượng tâm vật lư, bao gồm danh hay tâm giới và sắc hay vật thể giới. Một cách vắn tắt, con người được cấu tạo bởi bảy đại và một sự kết hợp hài ḥa với năm uẩn ... Vậy toàn bộ cái mà người người ai cũng gọi là Ta cũng không có thực thể, nghĩa là vô ngă. Không phải riêng hiện tượng tâm vật lư mới là vô ngă, mà tất cả các pháp đều không có thực thể. Nhờ suy tưởng như thế mà dần dần chúng ta thoát ra khỏi chấp ngă và ngă sở để đi đến chỗ tự tại vô ngại.
4- Tư Tưởng Xa Ĺa Ăn Uống(Yếm Ly Thực Tưởng)
Là tư tưởng không vướng bận trong việc tham đắm ăn mặc trong cuộc sống hằng ngày. Tục ngữ có câu:
- Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.
V́ vậy Đức Phật dạy các vị Tỳ Kheo phải tiết độ trong việc ẩm thực, và quán tưởng vật thực chỉ là tứ đại. Chúng ta phải dùng chánh tư duy để duy tŕ sức khoẻ trong việc tu hành theo đạo cao thượng. Quán tưởng như vậy là để chúng ta không c̣n bị nô lệ vào vật chất một cách quá đáng. Mới xem ra tư tưởng xa ĺa ăn uống có vẻ tầm thường, nhưng trong lịch sử đă chứng minh nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu từ cổ chí kim, gây ra bởi tranh giành ảnh hưởng kinh tế, tất cả đều v́ miếng cơm manh áo mà ra.
Như thế chúng ta phải nên xem ăn uống chỉ là phương tiện, chứ đừng đặt nó làm mục đích của cuộc sống, v́ cứu cánh của đời sống phải là một cái ǵ đó cao thượng hơn.
5- Tư Tưởng Tất Cả Thế Gian Không An Vui(Nhất Thiết Thế Gian Bất Khả Lạc Tưởng)
Đây chính là loại tư tưởng tự tại đối với tất cả các pháp của thế gian. Chữ Thế gian theo nghĩa tục đế là những ǵ phát xuất từ các căn bản của: Tham, Sân và Si. Nói một cách khác là kết quả của vô minh và ái dục. Đức Phật dạy rằng, chúng sanh luôn luôn bị chi phối bởi Tám Pháp Thế Gian là:
- Được lợi,
- Mất lợi,
- Được danh,
- Mất danh,
- Được khen,
- Bị chê,
- Được vui,
- Bị khổ.
Những ai biết chuyển hóa tư tưởng ra khỏi ba căn bất thiện, không vướng mắc trong các pháp của thế gian th́ chắc chắn được tự do, giải thoát.
6- Tư Tưởng Chết(Tử Tưởng)
Là suy nghĩ đến cái chết trước sau ǵ cũng xảy ra, không phải chỉ riêng bản thân ḿnh mà tất cả mọi người ai cũng phải có một lần như vậy. Có người mới nghe đến hai chữ Tử Tưởng đă vội cho rằng đạo Phật bi quan đến nỗi đang sống mà đă nghĩ đến cái chết, nhưng thật ra đó là một thái độ rất tích cực và can đảm. Can đảm v́ dám đối diện với một sự thật phũ phàng, và tích cực v́ không bó tay chịu chết mà đứng lên tranh đấu và sẵn sàng đối phó với tử thần. Như một nhà tư tưởng nói rằng:
- Nghệ thuật sống giống như lái xe chạy trên đường, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng để đối phó với những sự kiện bất ngờ có thể xảy ra: Một là người ta đụng ḿnh, hai là ḿnh đụng người ta.
Hơn nữa Đức Phật dạy suy nghĩ đến cái chết là gián tiếp bảo chúng ta phải:
a- Chiến đấu từng giây từng phút, không để mất một giờ khắc nào trong sứ mạng tự giác, giác tha.
b- Chấp nhận cái chết như một sự kiện hiển nhiên, trong khi nỗ lực tu niệm như một chiến sĩ cảm tử ra mặt trận. Người lính cảm tử nầy đă chấp nhận trước cái chết của ḿnh nên mới dám xông pha trong gươm giáo, súng đạn.
c- Thấy sống chết là sự thường để không c̣n bị chi phối bởi những thăng trầm của cuộc đời.
7- Tư Tưởng Nhiều Tội Lỗi(Đa Quá Tội Tưởng)
V́ sao Đức Phật dạy ta phải quán tưởng thân bất tịnh? Như chúng ta từng thấy, nhiều người v́ quá trọng thân xác và bảo vệ nó với bất cứ giá nào. Đạo Phật gọi đó là thân kiến, thân kiến là một trong mười kiết sử mà một người muốn giải thoát phải cắt đứt. Nhưng đừng hiểu lầm rằng diệt thân kiến là tự hủy bỏ xác thân ḿnh. Chính đức Phật dạy:
- Phải giữ ǵn cho thân thể tráng kiện để dễ dàng tu niệm.
Và chúng ta phải biết rằng giữ ǵn thân thể khoẻ mạnh là khác, c̣n quá quí trọng thân xác là chuyện khác. Một người khoẻ mạnh có thể hy sinh thân ḿnh cho nghĩa cử vị tha cao đẹp, c̣n người quá quí trọng xác thân th́ trái lại có thể hăm hại kẻ khác để ḿnh được vinh thân ph́ gia.
8- Tư Tưởng Xa Ĺa(Ly Tưởng)
Tư tưởng xa ĺa mà chúng tôi muốn nói ở đây là xa ĺa Ba Giới:
- Dục Giới,
- Sắc Giới và
- Vô Sắc Giới.
Một trong bốn điều làm cho chúng sanh ch́m đắm trong ṿng luân hồi là dục lậu, có nghĩa là mê chấp vào sự hiện hữu trong tam giới. Ngay cả bậc thiền cao nhất là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ cũng c̣n gọi là hữu lậu. Bao lâu chưa diệt tận hữu lậu th́ chưa thể giải thoát được. Lúc Bồ Tát Tất Đạt Đa vào rừng t́m đạo, Ngài được nhiều vị thiền sư Bà La Môn chỉ giáo, và chẳng bao lâu Ngài đắc được các bậc thiền. Đối với sự đắc đạo của những vị thiền sư Bà La Môn, họ tự cho là đă giải thoát, nhưng Bồ Tát Tất Đạt Đa tự thấy tư tưởng của ḿnh vẫn c̣n lệ thuộc trong ṿng tam giới, thế là Ngài quyết thoát ra khỏi những hữu lậu vi tế nhất c̣n tiềm tàng ngay trong các thiền tâm. Cuối cùng dưới cội cây Bồ đề bên ḍng sông Ni Liên Ngài đă toàn tất cuộc giải phóng tối hậu và đă được siêu xuất tam giới.
9- Tư Tưởng Tiêu Diệt(Diệt Tưởng)
Là hằng hoài băo tâm niệm tiêu diệt hết các phiền năo. Phiền năo có nhiều thứ, như 10 kiết sử, 14 tâm sở bất thiện, 11 thứ là phiền năo; bốn hoặc lậu ... nhưng nói chung là tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính phiền năo là một cái lưới phong tỏa, hay ḷ thiêu đốt chúng sanh. Tư tưởng chỉ được chuyển hóa trở nên tốt đẹp hơn khi đă dẹp tan được những kềm chế của những phiền năo.
10- Tư Tưởng Không Ái Nhiễm(Vô Ái Tưởng)
Cuối cùng là chuyển tư tưởng ra khỏi ái dục. Kinh Pháp Cú dạy rằng:
- Ái dục sinh ra sầu muộn, ái dục sinh ra lo sợ. Người đă hoàn toàn dập tắt ái dục không c̣n sầu muộn, lo sợ nữa.
Thật vậy, tư tưởng của chúng ta c̣n bị ảnh hưởng ái dục th́ chưa thể tự tại vô ngại được.
Nói tóm lại, chuyển hóa tư tưởng là một cuộc cách mạng khó khăn nhất trước sau ǵ cũng là cuộc cách mạng của tự bản thân, nghĩa là chúng ta biết chấp nhận những yếu kém của ḿnh, và phải có tinh thần cầu tiến trong công cuộc chuyển hóa tư tưởng ra khỏi sự ràng buộc của ngoại giới, cũng như những ô nhiễm nội tâm. V́ vậy cho nên nó đ̣i hỏi chúng ta phải có nghị lực dồi dào, và sự phấn đấu liên tục để vượt qua những thử thách cam go của các giai đoạn huấn luyện, và những thử thách cần thiết. Cho đến khi chúng ta tự chuyển hóa tư tưởng, và đạt được hoàn toàn tự chủ không lệ thuộc vào một sở tri chướng, một phiền năo chướng nào, th́ chúng ta đă đạt đến mục đích tự tại vô ngại.
--o0o--
|