Tác giả |
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 1 of 73: Đă gửi: 27 June 2009 lúc 10:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Hôm nay nn bắt đầu post các sách vở về Theosophy như đă hứa. Nhưng để các bạn chưa biết ǵ về Theosophy có thể hiểu được, nn sẽ giải thích sơ qua một chút. Những vị nào có yêu cầu cần đọc nhanh quyển sách nào th́ nn sẽ đưa lên trước.
Năm 1875, Hội Theosophia đă ra đời, với 2 vị sáng lập viên là 2 vị đệ tử lớn, bà Helena Petrovna Blavatsky và ông Henry Steel Olscott.
Về khoa học: Các nghiên cứu của hội Theosophia nhằm t́m ra những nguyên lư tiềm ẩn trong tự nhiên và giải đáp tất cả những thắc mắc của con người về tự nhiên. Ai yêu thích vẻ đẹp của các quy luật vũ trụ hẳn sẽ không thất vọng với kho kiến thức mênh mông này.
Về tôn giáo: giáo lư của Hội chỉ ra rằng mọi tôn giáo đều là sự biểu lộ một phần của chân lư duy nhất, do vậy không có vấn đề đúng sai và chia rẽ. Tia sáng mặt trời chiếu qua kính thủy tinh màu vàng sẽ cho ra màu vàng, tấm thủy tinh màu xanh cho màu xanh. Có lư nào v́ ta hợp với màu xanh mà ta nói màu xanh là chân lư, c̣n màu vàng là sai lầm?
Về t́nh huynh đệ: một sự thật mà không phải ai cũng thấy là tất cả mọi người đều là anh em của nhau. Sự sống trong mỗi người đều giống nhau và xuất phát từ nơi sự sống vũ trụ, và như vậy t́nh huynh đệ đại đồng là một cái mầm chắc chắn sẽ nảy nở trong tương lai mà ngay bây giờ mọi người đều cần chăm bón.
Các sách cơ bản nên đọc trước:
http://thongthienhoc.com/sach%20tthocgiangluoc.htm
http://thongthienhoc.com/sach%20tthoc%20dan%20giai.htm
http://thongthienhoc.com/sach%20tth%20khailuoc.htm
Sau đó sẽ là một số sách khác, nên đọc nhiều và có một tầm nh́n rộng trước khi đi sâu vào vấn đề. Một khi thấy được vai tṛ của các mảnh kiến thức trong miếng ghép h́nh lớn, mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng rất hơn nhiều. NN sẽ lần lượt post các sách mà ư kiến chủ quan của nn nghĩ là quan trọng. C̣n th́ các bạn có thể t́m đọc những ǵ ḿnh thích trên các trang web sau đây:
Tiếng Việt: www.thongthienhoc.com
www.phungsutheosophia.org
Tiếng Anh: www.anandgholap.net
http://www.blavatskyarchives.com/
http://www.blavatskyarchives.com/leadbeaterbib
www.lucistrust.org (cần đăng kư tài khoản miễn phí)
Nếu có thắc mắc hay yêu cầu ǵ, xin các bạn cứ nêu rơ, nn sẽ cố gắng hết sức trong khả năng của ḿnh.
Sửa lại bởi nickname : 27 June 2009 lúc 9:37pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 2 of 73: Đă gửi: 27 June 2009 lúc 9:38pm | Đă lưu IP
|
|
|
KHOA HỌC VÀ TÔN GIÁO:
Nhiều người nghĩ Theosophia là một tổ chức tôn giáo mới nên các giáo lư không đáng tin cậy. Nhưng thật ra, Hội hoàn toàn không có một tín điều nào cả. Một theosophist chỉ nói “tôi biết” chứ không nói “tôi tin”. Khía cạnh tôn giáo của theosophy hoàn toàn được xây dựng trên nền tảng của khoa học và sự thật. Ví dụ như theosophy nói về nhân quả, ta có thể chứng minh điều này rất dễ dàng. Hẳn mọi người đều nhận thấy ư nghĩa nhân quả của định luật 3 Newton. Định luật phát biểu như sau: khi tác dụng một lực F1 lên một vật th́ vật sẽ tác dụng lại một lực F2 cùng độ lớn ngược chiều. Một sự kiện tiếp theo một sự kiện, đó là nội dụng của luật nhân quả. V́ vậy luật nhân quả là một sự hiển nhiên, hoàn toàn dựa trên sự thật chứ không phải một giáo lư mơ hồ. Luật nhân quả có thể xem là một phần của sự cân bằng vũ trụ. Bất kỳ một lực nào được tạo ra cũng có thể gây ra sự xáo trộn, v́ vậy luật cân bằng vũ trụ tạo ra một lực đúng y như vậy để giữ cân bằng. Cho nên, từ ngày xưa các thánh nhân đă hiểu biết rất rơ những điều này và luôn dạy bảo con người “làm lành lánh dữ”. Bởi hễ làm lành th́ ta cũng nhận lại điều lành tương ứng, làm lành cho người cũng là làm lành cho ta vậy. Luật trời hoạt động hoàn hảo, không có một cố gắng nhỏ nhất nào bị bỏ sót, v́ vậy không bao giờ có ǵ gọi là bất công cả.
Như vậy, theosophy là một tôn giáo, mà cũng không phải tôn giáo, tùy cách nh́n nhận của mọi người. Theosophy là triết lư về Sự Thật, tiêu ngữ của Hội luôn luôn là “Không tôn giáo nào qua Sự Thật”. Trở lại, một theosophist chỉ nói “tôi biết” mà không nói “tôi tin”. Nhưng các kiến thức của theosophy có nói về thần thánh, về các cơi giới vô h́nh, nếu ta không thấy được những thứ đó, không phải là ta cũng chỉ “tin” chứ không hề “biết” hay sao? Thật sự th́ sự biết có 2 loại:
+ Cái biết trực tiếp: đây là cái biết thực sự và đúng nghĩa. Ta biết có thần thánh khi ta nh́n thấy thần thánh, ta biết các tác lực vô h́nh khi ta nh́n thấy chúng, bằng clairvoyance (thông nhăn, thông nhĩ) chẳng hạn. Khi đă biết trực tiếp, hiển nhiên mọi niềm tin là vô giá trị, ta biết 1+1=2 chứ ta không việc ǵ phải tin điều đó như hồi lớp 1 cả.
+ Cái biết gián tiếp: khi ta chưa có được các quan năng tuyệt vời trên để có thể trực tiếp t́m hiểu mọi thứ, th́ hiển nhiên ta đạt được hiểu biết qua sách vở, qua người khác, đây là cái biết gián tiếp. Cũng như khi ta đi học. Ta đâu có trực tiếp làm thí nghiệm với các nguyên tử để mà biết phản ứng hạt nhân nó ra làm sao. Ta học kiến thức của người khác, tạm đặt niềm tin nơi họ, và tạm cho điều đó là đúng nếu khả năng suy luận hoặc trực giác cho ta biết điều đó. Khả năng suy luận và hơn nữa là trực giác là 2 thứ quan trọng khi mà ta chưa thể đạt được cái biết trực tiếp. Nhưng cuối cùng, khi nào ta thật sự biết th́ nó mới là biết, c̣n tạm biết th́ vẫn chưa.
Kiến thức theosophy có các nguồn gốc:
+ Do các vị Chân Sư dạy các đệ tử và các vị này truyền ra ngoài.
+ Các theosophist nghiên cứu bằng khả năng của ḿnh. Mục đích của theosophy là nâng cao con người để đạt đến chân lư, v́ vậy cách tiếp cận của họ khác với khoa học, và cũng khác với thông linh học. Các nhà khoa học cải tiến công cụ làm việc của họ để nhận biết gián tiếp thế giới, như làm ra kính hiển vi để nh́n những vật nhỏ mà mắt thường không thấy chẳng hạn. Đối với Hội Theosophia, cách nghiên cứu là phát triển các quan năng để nhận biết trực tiếp thể giới. Nếu muốn nghiên cứu vi khuẩn, họ sẽ dùng thông nhăn. Câu chuyện Phật dùng Huệ nhăn của ḿnh nh́n thấy trong ly nước có nhiều vật sống có thể có thật có thể không thật, nhưng về lư thuyết chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra. Các quan năng như thông nhăn đang nói đến hoàn toàn không phải cái ǵ cao siêu, mà đơn giản chỉ là những giác quan mà tất cả mọi người đều có, nhưng đa số vẫn c̣n nằm ở dạng tiềm ẩn và chưa biểu lộ. Sự phát triển của các giác quan này cũng giống y như khung xương, năo bộ vậy thôi. Ta đều biết qua bao triệu năm, khung sọ và năo bộ con người thay đổi như thế nào. V́ sự phát triển của mỗi người một khác, như một người b́nh thường làm sao so trí tuệ với các nhân vật cỡ như Einstein, nên có người đă đạt được những khả năgn này, có người th́ chưa. Nhưng một điều chắc chắn là trong tương lai, tất cả mọi người đều có các khả năng này. Phật nói chúng sinh là Phật sẽ thành, nên các quan năng này chỉ là tṛ trẻ con so với tương lai huy hoàng không thể tưởng tượng của con người.
Về thông linh học, khoa này chuyên nghiên cứu cơi giới vô h́nh bằng phương pháp gián tiếp là qua các đồng tử. Theosophy cho rằng không cần thiết phải làm như vậy nếu ta có thể bằng cách tiến lên tự ḿnh đạt đến những cơi giới đó và nghiên cứu nó bằng chính khả năng của ḿnh. Việc để các vong linh chiếm hữu thân xác là một điều rất không mong muốn và hoàn toàn không có ǵ để bào đảm họ không lừa gạt ta. Như nn đă có nói, khi sống thể nào th́ khi chết đi con người ta vẫn giống y vậy, không có chút ǵ thay đổi về bản chất và tính cách cả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 3 of 73: Đă gửi: 29 June 2009 lúc 2:22am | Đă lưu IP
|
|
|
Để mọi người hiểu hơn về cách thức sử dụng các quan năng cao trong công việc nghiên cứu thế giới của chúng ta, nn sẽ dịch một phần trong quyển Clairvoyance của ông Charles W. Leadbeater. NN sẽ chỉ dịch một phần để giới thiệu sơ qua v́ c̣n rất nhiều điều để nói. Các bạn chỉ cần đọc sơ qua và nắm các ư cơ bản để biết chắc rằng các nghiên cứu của theosophy là hoàn toàn khoa học chứ không phải là những lư thuyết tưởng tượng. Sau khi mà nền tảng kiến thức đă vững chắc, ta có thể quay trở lại để nghiên cứu tiếp về vấn đề vô cùng thú vị này. V́ khả năng nn rất có hạn nên nn khuyên các bạn nếu có thể nên đọc nguyên bản sách tiếng Anh trên trang www.anandgholap.net.
Clairvoyance
by
C. W. Leadbeater
The Theosophical Publishing Society 26, Charing Cross, S.W, London
1899
Chương 1
NHĂN THÔNG LÀ G̀
Nhăn thông có nghĩa đen không ǵ hơn là “sự thấy rơ ràng”, và nó là một từ vẫn thường bị dùng sai một cách đáng tiếc, và thậm chí bị dùng để miêu tả mánh lừa của một tay lang băm trong một màn tŕnh diễn. Ngay cả trong nhận thức bị giới hạn, nó chứa đựng một phạm vi rộng lớn các hiện tượng, với những thay đổi rất lớn về tính chất đến nỗi thật khó khăn để có thể đưa ra một định nghĩa về mặt từ ngữ có thể vừa cô đọng vừa chính xác. Nó từng được gọi là “nhăn quan tâm linh”, nhưng không có sự diễn tả nào có thể sai lạc hơn, bởi trong đại đa số các trường hợp không có năng lực nào liên kết với nó xứng đáng được ca ngợi bằng một tên gọi cao quư như vậy.
V́ mục đích của bài luận, chúng ta có thể định nghĩa nó là năng lực nh́n thấy được những ǵ mắt thường không thấy. Cũng cần thiết phải nói rằng rất thường khi (mặc dù không phải là luôn luôn) nhăn thông đi kèm với nhĩ thông, tức là khả năng nghe được những ǵ lỗ tai b́nh thường không nghe được; và v́ vậy trong lúc này khi nói đến nhăn thông ta sẽ ngầm hiểu có kèm theo nhĩ thông, để tránh việc cứ phải dùng hai chữ dài luộm thuộm khi mà một chữ cũng đă đủ.
Cho phép tôi làm rơ hai điểm trước khi bắt đầu. Đầu tiên, tôi không có ư định viết cho những người không tin rằng có một thứ gọi là nhăn thông; cũng như tôi không t́m cách thuyết phục những ai c̣n nghi ngờ về vấn đề này. Trong quyển sách nhỏ này tôi không có đủ chỗ để làm công việc đó; những người đó phải đọc nhiều sách chứa về các trường hợp này, hoặc tự làm thí nghiệm theo hướng khoa thôi miên. Tôi tự xác định độc giả của ḿnh là những người biết nhăn thông tồn tại, và đủ thích thú với chủ đề để t́m kiếm những thông tin về các cách thức và khả năng của nó; và tôi chắc chắn với họ rằng những điều tôi viết là kết quả của những nghiên cứu và thí nghiệm hết sức kỹ lưỡng, và mặc dù nhiều năng lực mà tôi sẽ phải miêu tả có vẻ mới mẻ và thật tuyệt vời đối với họ, tôi hoàn toàn không nói một điều nào mà tôi chưa tự ḿnh chứng kiến.
Thứ hai, mặc dù tôi sẽ cố gắng tránh các thuật ngữ chuyên môn càng nhiều càng tốt, nhưng v́ tôi viết chủ yếu cho những nghiên cứu sinh của Theosophy, tôi cảm thấy đôi khi có thể sử dụng các thuật ngữ Theosophy mà tôi tin là quen thuộc, để được ngắn gọn và không cần phải giải thích chi tiết.
Với những ai cảm thấy khó khăn với các thuật ngữ này, tôi chỉ có thể xin lỗi và khuyên họ t́m đọc những tác phẩm Theosophy căn bản, như các tác phẩm của bà Besant hoặc trước khi mà có thể giải thích chi tiết về nhăn thông, chúng ta nên dùng một ít thời gian xem xét các vấn đề căn bản, để ta có thể có trong đầu một vài hiểu biết rộng răi về các cơi giới khác nhau mà trên đó thông nhăn vận hành, và những điều kiện để nó có thể hoạt động được.
Chúng ta luôn luôn biết chắc rằng trong các tác phẩm Theosophy những năng lực này là di sản của nhân loại nói chung – rằng, ví dụ như, khả năng nhăn thông là tiềm ẩn trong tất cả mọi người, và những người có nhăn thông đă biểu lộ đơn giản là tiến bộ hơn một chút trên một phương diện so với những người khác. Đây là sự thật, và mặc dù nó có vẻ mơ hồ và không thực đối với phần lớn mọi người, đơn giản bởi v́ họ cho rằng một năng lực như vậy là một cái ǵ đó hoàn toàn khác lạ với những ǵ họ từng kinh nghiệm qua, và cảm thấy khá chắc chắn rằng họ, ở mọi mức độ, không thuộc về phạm vi phát triển của nó.
Sẽ là có ích để xóa bỏ ảo giác này nếu chúng ta hiểu rằng nhăn thông, những giống như nhiều thứ khác trong tự nhiên chủ yếu chỉ là một vấn đề vè rung động, và thực tế không có ǵ hơn là sự phát triển của những năng lực mà tất cả chúng ta đều đang sử dụng hàng ngày. Chúng ta sống trong một biển không khí và dĩ thái, cái sau thấu nhập vào cái trước, cũng như tất cả vật chất cơi trần; và trong cái biển vật chất mệnh mông đó, những ấn tượng tạo lên chúng ta từ bên ngoài chủ yếu là do các rung động. Điều này tất cả chúng ta đều biết, nhưng, có lẽ chưa bao giờ đối với chúng ta, số rung động mà chúng ta có khả năng đáp ứng thật sự là rất ít.
Giữa những rung động cực nhanh ảnh hưởng đến chất dĩ thái có một phần nhỏ - rất nhỏ - mà vơng mạc mắt người có khả năng đáp ứng, và những rung động này tạo ra nơi chúng ta một cảm giác mà ta gọi là ánh sáng. Cần nói rằng, chúng ta chỉ có khả năng nh́n thấy những vật thể phát hoặc phản xạ ánh sáng thuộc một loại riêng biệt.
Cũng với cơ chế tương tự mà màng nhĩ tai người có khả năng đáp ứng với một phạm vi rất nhỏ những rung động tương đối chậm – đủ chậm để tác động lên không khí xung quanh chúng ta; và ta cũng chỉ có thể nghe những âm thanh phát ra từ những vật có thể tạo rung động ở một khoảng tần số riêng biệt.
Trong cả hai trường hợp có một vấn đề mà khoa học đă biết rơ là có một lượng rất lớn những rung động cả cao hơn và thấp hơn hai khoảng rung động này, và do đó có rất nhiều ánh sáng ta không thể thấy, và rất nhiều âm thanh ta không thể nghe. Trong trường hợp của ánh sáng, tác động của những rung động cao hơn và thấp hơn là dễ hiểu với hiệu ứng gây ra bởi các tia quang hóa ở một đầu quang phổ và các tia nhiệt ở đầu c̣n lại.
Sửa lại bởi nickname : 29 June 2009 lúc 2:26am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 4 of 73: Đă gửi: 29 June 2009 lúc 9:57am | Đă lưu IP
|
|
|
Sự thật là các rung động tồn tại ở mọi mức tốc độ mà ta có thể tưởng tượng ra được, lấp đầy toàn bộ khoảng giữa các sóng chậm, như âm thanh, và sóng nhanh, như ánh sáng; và không chỉ như vậy, bởi chắc chắn rằng có những rung động c̣n chậm hơn âm thanh, và vô hạn các rung động c̣n nhanh hơn ánh sáng. Như vậy ta bắt đầu hiểu rằng những rung động mà ta nh́n hoặc nghe chỉ giống như hai nhóm nhỏ xíu những dây được chọn từ cây đàn hạc khổng lồ của sự vô hạn, và khi ta nghĩ đến những ǵ mà ta đă học hỏi và phỏng đoán được chỉ từ những mảnh vụn nhỏ nhoi đó, ta mơ hồ thấy được những ǵ có thể nằm phía trước nếu ta có khả năng sử dụng cái toàn bộ vĩ đại và tuyệt dịu.
Một sự thật khác cần được nh́n nhận trong mối liên hệ là có sự khác biệt rất lớn giữa người này với người khác, mặc dù vẫn nằm trong giới hạn khá nhỏ hẹp, trong khả năng đáp ứng với ngay cả rất ít những rung động nằm trong khả năng của giác quan thông thường. Tôi không nói về sự thính tai hay mắt cho phép một người nh́n thấy một vật mờ hay nghe một âm thanh nhỏ hơn người khác; đó hoàn toàn không phải vấn đề về sức mạnh nhăn quan, mà là tính nhạy cảm.
Ví dụ, nếu một người nào đó làm một lăng kính , và tạo một quang phổ lên một tờ giấy trắng, sau đó cho một số người đánh dấu lên tờ giấy giới hạn tối đa của quang phổ mà mỗi người nh́n thấy được, nhà thí nghiệm chắc hẳn sẽ nhận ra rằng sức mạnh nhăn quang của họ khác biệt thấy rơ. Một số người sẽ nh́n thấy màu tím xa hơn nhiều so với đa số mọi người; những người khác nh́n màu tím kém hơn, trong khi nh́n xa hơn về phía màu đỏ một lượng tương ứng. Vài người lại có thể nh́n xa hơn cả về hai đầu, và đó là những người mà ta gọi là những người nhạy cảm – nhạy bén với một khoảng rung động rộng hơn đa số người ngày nay.
Trong việc nghe, sai biệt tương tự cũng có thể được kiểm tra bằng cách tạo ra một âm thanh không quá cao để vẫn nghe được – nằm trên ŕa của vùng nghe được – và t́m xem có bao nhiêu người có thể nghe được nó. Một ví dụ cho trường hợp như vậy là tiếng rít của một con dơi, và thí nghiệm sẽ chỉ ra rằng vào một đêm mùa hè, khi toàn bộ không khí đầy những tiếng lanh lảnh, tiếng kêu the thé của những loài vật nhỏ, có một số lớn những người hoàn toàn không hề hay biết ǵ về nó, cũng như không thể nghe thấy ǵ cả.
Những ví dụ đă cho thấy rất rơ rằng không có một giới hạn xác định cho khả năng đáp ứng của con người đối với những rung động của cả không khí lẫn dĩ thái, mà giữa chúng ta có những người đă có một năng lực rộng răi hơn những người khác; và người ta cũng thấy được là khả năng của cùng một người dao động trong những hoàn cảnh khác nhau. Không khó để chúng ta h́nh dung con người có khả năng phát triển năng lực này, và học hỏi để nh́n thấy nhiều thứ vô h́nh, nghe nhiều thứ vô thanh với những người khác, bởi chúng ta đă biết chắc chắn sự tồn tại của một số lượng khổng lồ những rung độ thêm vào, và đơn giản như nó vẫn là, chờ để được nhận biết.
Những thí nghiệm với tia Röntgen cho ta một ví dụ về những kết quả đầy kinh ngạc được tạo ra khi mà ngay cả rất ít những rung động thêm vào những rung động thêm vào được đưa vào trong khả năng nhận biết của con người, và sự trong suốt đối với tia này của nhiều loại vật chất đến nay được cho là không hề trong suốt ngay lập tức cho ta một cách mà ít nhất có thể giải thích một loại nhăn thông cơ bản như đọc một lá thư bên trong hộp kín, hay mô tả sự hiện diện trong căn pḥng bên cạnh. Học cách nh́n bằng tia Röntgen thêm vào những tia sáng thông thường sẽ đủ để bất kỳ ai thực hiện một phép thuật loại này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 5 of 73: Đă gửi: 29 June 2009 lúc 8:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cho đến lúc này chúng ta chỉ mới nghĩ về sự mở rộng của các giác quan thuộc về vật chất cơi trần của con người; và khi ta nhớ rằng thể dĩ thái của một người thật sự chỉ là phần thanh của cơ thể vật chất, và v́ vậy tất cả giác quan chứa một lượng lớn chất dĩ thái ở mọi cấp độ đậm đặc, những khả năng của nó vẫn c̣n tiềm ở ẩn đa số chúng ta, ta sẽ thấy được là ngay cả khi hạn chế bản thân chỉ trên con đường phát triển này th́ cũng đă có đủ mọi loại khả năng to lớn sẵn sàng mở ra trước mắt chúng ta.
Nhưng bên cạnh và vượt xa hơn tất cả những thứ này ta biết rằng con người sở hữu một thể cảm xúc và một thể trí, mỗi cái này đều dần dần được đánh thức theo thời gian, và sẽ đáp ứng với những rung động của vật chất nơi cơi giới của nó, từ đó mở ra trước mắt Linh Hồn, khi nó học được cách hoạt động thông qua những thể này, hai thế giới hoàn toàn mới mẻ và rộng lớn của minh triết và quyền năng. Những cơi giới này, mặc dù chúng đều ở xung quanh ta và tự do thấu nhập vào nhau, không thể được xem như có vật chất riêng biệt và hoàn toàn không dính dáng ǵ với nhau, mà đúng hơn là cái này tan chảy thành cái khác, vật chất thấp nhất cơi trung giới tạo thành một chuỗi trực tiếp với vật chất cao nhất cơi trần, cũng như vật chất thấp nhất cơi thượng giới làm thành chuỗi với vật chất cao nhất cơi trung giới. Ta không nên nghĩ chúng như một loại vật chất mới mẻ và khác lạ, mà đơn giản là vật chất cơi trần được phân chia thành thanh nhẹ hơn và có rung động nhanh hơn, tạo nên những điều kiện và tính chất hoàn toàn mới.
Không khó để chúng ta có thể nắm bắt khả năng về một sự mở rộng dần dần và đều đặn của các giác quan, v́ thế chúng ta có thể nghe và nh́n với những rung động cao hơn hoặc thấp hơn nhiều so với những ǵ mà chúng ta thường nhận biết. Một phần lớn những rung động thêm vào này thuộc về cơi trần, và sẽ cho chúng ta khả năng nhận biết những ấn tượng liên quan đến chất dĩ thái, cái mà cho đến nay vẫn là một quyển sách đóng kín đối với chúng ta. Những ấn tượng như vậy vẫn sẽ được thu nhận thông qua vơng mạc của mắt; dĩ nhiên chúng sẽ tác động lên phần dĩ thái chứ không phải vật chất rắn của vơng mạc, tuy nhiên ta sẽ có thể cảm thấy là chỉ có một cơ quan đặc biệt thu nhận chúng, chứ không phải toàn bộ bề mặt thể dĩ thái.
Có những trường hợp đặc bất thường, trong đó những phần khác thuộc thể dĩ thái đáp ứng với các rung động thêm vào dễ dàng như, hoặc thậm chí là hơn so với cặp mắt. T́nh trạng bất thường như vậy có thể được giải thích theo nhiều cách, nhưng phần lớn đó là những tác động của sự phát triển thể cảm xúc, từ đó các phần nhạy cảm của cơ thể hầu như luôn luôn tương ứng với một trong những luân xa, các trung tâm sinh lực của thể cảm xúc. Và mặc dù, nếu ư thức trên cơi trung giới chưa phát triển, những trung tâm này có thể không hoạt động trên cơi giới của nó, chúng vẫn đủ mạnh để kích thích hoạt động của chất dĩ thái mà chúng thấm nhập vào.
Chú thích của nn: trường hợp một người bịt mắt đọc sách, chỉ cần không che ấn đường, có lẽ thuộc loại này.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 6 of 73: Đă gửi: 30 June 2009 lúc 6:48am | Đă lưu IP
|
|
|
Đến đây có lẽ có nhiều thứ có thể gây khó khăn cho nhiều bạn, nhất là những bạn mới làm quen với Theosophy. NN xin được giải thích một chút về các khái niệm như dĩ thái, cơi trung giới, thượng giới. V́ đây là các khái niệm rất cơ bản của Theosophy, các bạn nên đọc thêm trong các sách và nắm thật kỹ.
Vũ trụ chia làm 7 cơi, nơi trần gian mà chúng ta đang sống đây là cơi thấp nhất, cơi thứ 7, thường được gọi là cơi trần. Lên một cơi là trung giới, lên thêm 1 cơi nữa là thượng giới. Cơi càng cao th́ vật chất càng thanh nhẹ, hay nói đúng hơn, chính vật chất cơi trên kết hợp theo một cách đặc biệt bởi huyền lực tạo nên vật chất cho cơi dưới. V́ vậy các cơi này không nằm riêng biệt mà xen lẫn, thấu nhập vào nhau, như nước thấm vào cát vậy. Các cơi này có thể xem là các bầu đồng tâm với nhau, và cơi càng cao th́ vật chất càng nhẹ nên vươn ra xa hơn. Sự khác biệt giữa các cơi không nằm ở vị trí địa lư mà nằm ở giới hạn tâm thức.
Cơi trần: physical plane
+ Vật chất cơi trần chia làm 2 loại, loại b́nh thường ta vẫn biết và 1 loại gọi là dĩ thái, ether. Sự phân chia này là do trạng thái của vật chất, mức độ đậm đặc của chúng. Như chúng ta đều biết các trạng thái rắn, lỏng, khí của vật chất, trên 3 trạng thái đó c̣n có 4 trạng thái khác, thanh nhẹ hơn. 4 trạng thái đó có thể được phân chia ra để nghiên cứu, nhưng cũng có thể gọi chung là dĩ thái.
+ Thể xác dùng để hoạt động tại cơi trần này không chỉ gồm phần rắn chắc như ta đă biết mà c̣n phần thanh nhẹ bằng dĩ thái, gọi là thể dĩ thái (etheric body). Thể này là một phần của thân xác vật chất chứ không phải một thể riêng như thể cảm xúc hay thể trí. Thể này có h́nh dáng giống hệt thể xác rắn chắc, chỉ ló ra bên ngoài thêm chừng nửa phân, nên c̣n gọi là etheric double. Nhiệm vụ của thể này là cung cấp và chuyển hóa sinh lực cho cơ thể, các huyệt đạo và luân xa không nằm trên thể xác đậm đặc mà vốn nằm trên thể này. Các phương pháp châm cứu, bấm huyệt, nhân điện, các phép luyện tập khai mở luận xa… đều được thực hiện trên thể này.
Cơi trung giới: astral plane
+ Đây là cơi giới của người chết, sau khi bỏ thân xác th́ họ sinh hoạt trong cơi giới này. Như đă nói, sự khác biệt không nằm ở vị trí địa lư mà nằm ở giới hạn tâm thức. V́ vậy người chết vẫn ở xung quanh ta và có thể nh́n thấy ta rất rơ ràng, nhưng ta th́ không. Đặc tính cơi này rất khác với cơi trần, v́ vậy nó tạo ra rất nhiều hiện tượng mà ta gọi là “tâm linh”, nhưng thật ra đó là một từ bị lạm dụng và những trường hợp ngồi đồng, sự hiện h́nh của ma quỷ… không có ǵ đáng để dùng một từ như vậy cả. Các bạn nên đọc nhiều về cơi này, v́ nó giúp ta giải thích được rất nhiều hiện tượng nan giải, hiểu biết về cơi này sẽ cho ta một cái nh́n thoáng qua về cách thức các lực cơi cao vận hành và biểu lộ nơi cơi trần.
+ Cơ thể mà linh hồn dùng để hoạt động nơi cơi này là thể cảm xúc. Trước đây các từ astral body, emotional body, desire body được dịch là cái vía, nhưng v́ khái niệm “vía” có thể được dùng ở nhiều nơi khác với các nghĩa khác nhau, nên nn muốn tránh sữ dụng từ này. Sau khi chết, linh hồn và các thể khác rút khỏi thể xác qua đỉnh đầu, khi này thể vía mới được sắp xếp lại và được linh hồn sử dụng như một thể độc lập, hoàn toàn giống như lúc ở cơi trần linh hồn nhận thức thông qua thể xác vậy. Dĩ nhiên là thể xác được tạo nên từ vật chất cơi trần, th́ thể cảm xúc cũng được tạo nên từ vật chất cơi trung giới, cùng tính chất th́ mới nhận biết nhau được. Nhiệm vụ của thể này là biểu lộ các đặc tính về cảm xúc và ham muốn. Khi ta bị kim chích, tín hiệu từ thể xác được truyền lên cái vía, rồi đưa linh hồn nhận biết, sau đó tín hiệu lại đi trên đường cũ theo chiều ngược lại trở về thể xác mới tạo thành cảm giác đau.
Cơi thượng giới:
+ Hay c̣n gọi là cơi trí tuệ (mental plane), thiên đàng (devachan), cơi trời sắc giới là 4 cảnh (hay cơi phụ, subplane) thấp, cơi trời vô sắc là 3 cảnh cao của cơi này. Tính chất cơi này quá khác biệt và vượt xa khả năng nhận biết của năo bộ nên ta không cần đi quá sâu vào. Sau khi chết, linh hồn trú ngụ trong thể cảm xúc nơi cơi trung giới một thời gain dài ngắn tùy người, với đa số người b́nh thường th́ khoảng vài chục năm. Sau đó, linh hồn và các thể cao bắt đầu rút khỏi thể cảm xúc, rồi th́ linh hồn tiến lên cơi thượng giới, sử dụng thể trí để hoạt động. Cơi này ngập tràn phúc lạc, thời gian lưu ngụ tại đây phụ thuộc vào những tư tưởng tốt đẹp của con người khi c̣n ở cơi trần. Dù với một người tàn ác, suốt cả cuộc đời chỉ có duy nhất 1 lần y biết yêu thương hay cảm nhận điều tốt đẹp của cuộc đời th́ y cũng sẽ được lên cơi này một thời gian ngắn, gặt hái phần thưởng xứng đáng của y. Rồi khi chén phúc lạc đă được uống cạn, linh hồn rũ bỏ thể trí, chuẩn bị cho lần đầu thai tiếp theo.
+ Thể trí (mind, mental body) thường được chia làm 2 phần: hạ trí (lower mind) và thượng trí (higher mind). Hạ trí là nơi bắt nguồn các tư tưởng cụ thể, các hoạt động trí tuệ bắt nguồn từ nơi đây, truyền xuống thể cảm xúc nhuộm màu ham muốn, rồi xuống đến bộ năo, bộ năo chỉ làm công việc của một cái máy đánh chữ.
+ Thượng trí c̣n gọi là nhân thể (causal body, Phật gọi là A lại da thức), là nơi của các tư tưởng trừu tượng, và chứa đựng các nguyên nhân, hay nghiệp, dùng cho việc luân hồi. Các tư tưởng xấu chỉ thấy nơi hạ trí, không bao giờ chạm được nơi đây.
+ Linh hồn: ngụ tại phần cao của cơi này, ở đa số mọi người linh hồn c̣n ở cảnh thứ 3, chưa lên cao hơn được.
Hy vọng những điều trên giúp các bạn có thể đọc hiểu được phần nào quyển Claivoyant.
Sửa lại bởi nickname : 30 June 2009 lúc 6:48am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 7 of 73: Đă gửi: 30 June 2009 lúc 10:29am | Đă lưu IP
|
|
|
Ở đoạn kế cuối của msg 5, nn ghi dư chữ "đặc", đúng ra chỉ là "Có những trường hợp bất thường...". NN xin dịch tiếp quyển sách.
Khi ta làm việc với các giác quan cơi trung giới, cách thức hoạt động lại rất khác. Thể cảm xúc không có một giác quan chuyên biệt – một thực tế mà có lẽ cần có đôi lời giải thích, bởi nhiều nghiên cứu sinh Theosophy cố gắng nắm bắt sinh lư học cảm thấy khó mà dung ḥa điều đó với những tuyên bố rằng vật chất trung giới thấu nhập hoàn toàn vào vật chất cơi trần, giữa hai thể có sự tương ứng chính xác và thực tế là mỗi một vật thể cơi trần đều có một đối phần bằng chất liệu cơi trung giới.
Tất cả những phát biểu trên đều đúng, và những người không nh́n thấy cơi trung giới rất có khả năng hiểu sai điều đó. Tất cả vật cơi trần đều có vật tương ứng bằng chất liệu trung giới liên kết với nó luôn luôn – không thể bị chia cắt trừ khi do một huyền lực cực kỳ mạnh mẽ, và ngay cả khi đó sự chia cắt cũng chỉ diễn ra đến khi nào huyền lực c̣n được duy tŕ. Nhưng liên kết giữa các hạt vật chất trung giới với vật chất cùng loại lỏng lẻo hơn nhiều với vật chất cơi trần tương ứng của nó.
Lấy ví dụ một thỏi sắt, ta có một khối phân tử cơi trần ở trạng thái rắn – ta có thể nói rằng các phân tử đó có thể, dù không nhiều, thay đổi vị trí tương đối giữa chúng, mặc dù mỗi hạt rung động rất mau trong phạm vi của nó. Đối phần bằng chất liệu trung giới của nó là những ǵ mà ta thường gọi là vật chất rắn trung giới – vật chất thuộc cơi phụ thấp nhất và đậm đặc nhất của cơi trung giới; tuy nhiên các hạt của nó thay đổi vị trí tương đối luôn luôn và rất mau chóng, di chuyển cũng dễ dàng như các hạt trong chất lỏng cơi trần vậy. V́ vậy không có sự liên kết lâu dài giữa bất cứ hạt thuộc cơi trần nào với cùng lượng vật chất trung giới là đối phần của nó tại một thời điểm cho trước.
Điều này cũng hoàn toàn đúng với thể cảm xúc của con người, để tiện lợi chúng ta có thể xem nó gồm hai phần – khối đậm đặc choán chính xác toàn bộ vị trí của thể xác, và phần vật chất trung giới loăng hơn xung quanh khối đó. Trong cả hai phần này, và giữa chúng, các hạt, như đă mô tả, lưu thông không ngừng, v́ thế khi một người quan sát chuyển động của các phân tử trong thể cảm xúc sẽ nghĩ đến h́nh ảnh các phân tử nước đang sôi.
V́ vậy, dễ dàng để hiểu rằng mặt dù mỗi cơ quan của thể xác luôn luôn phải có đối phần của nó với cùng lượng vật chất trung giới, nó không hề giữ cùng các hạt trong hơn một giây đồng hồ, và do đó không có sự tương ứng nào đối với các dây thần kinh cơi trần chuyên biệt – vật chất tạo thành dây thần kinh mắt hoặc tai, và cứ thế. V́ thế mặc dù mắt hay tai cơi trần chắc chắn luôn luôn có đối phần trung giới của nó, mảnh vật chất trung giới riêng biệt đó không có khả năng đáp ứng với các rung động tạo nên cái nh́n hay nghe trung giới nhiều hơn (hay ít hơn) bất kỳ phần nào khác của thể cảm xúc.
Đừng quên rằng mặc dù ta luôn nói đến “cái nh́n trung giới” hay “cái nghe trung giới” là để cho dễ hiểu, chúng ta biết rằng những ấn tượng đó là hoạt động đáp ứng của các rung động truyền các thông tin đến ư thức của con người, khi y hoạt động trong thể cảm xúc, có cùng tính chất như khi truyền đến y bằng mắt và tai khi y ở trong thể xác. Nhưng với các điều kiện hoàn toàn khác biệt của cơi trung giới, các cơ quan chuyên biệt là không cần thiết để có thể tạo ra kết quả này; vật chất thuộc mỗi phần của thể cảm xúc đều có khả năng cho ra những đáp ứng như vậy, và do đó một người hoạt động trong thể cảm xúc nh́n thấy các sự vật đằng sau, bên dưới, phía trên một cách rơ ràng, mà không cần phải quay đầu.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 8 of 73: Đă gửi: 30 June 2009 lúc 11:02pm | Đă lưu IP
|
|
|
Có một điểm sẽ là không công bằng nếu bị bỏ qua hoàn toàn, đó là vấn đề các luân xa đă được nhắc tới ở trên. Các nghiên cứu sinh Theosophy đều quen thuộc với ư tưởng về sự tồn tại của một số trung tâm lực ở trong cả thể dĩ thái và thể cảm xúc, lần lượt được sinh động hóa bởi ngọn lửa hỏa xà thiêng liêng khi con người tiến hóa cao. Mặc dù các trung tâm này không thể được mô tả như là các cơ quan theo cách hiểu thông thường, bởi v́ con người không nh́n hay nghe thông qua đó, như khi nh́n hay nghe bằng mắt và tai, nhưng rơ ràng là năng lượng để kích hoạt các giác quan trung giới, mà mỗi cái khi phát triển cung cấp khả năng đáp ứng với các rung động mới cho toàn bộ thể cảm xúc, được cung cấp thông qua sự sinh động hóa đó.
Tuy nhiên, những trung tâm này cũng không có lượng vật chất trung giới cố định nào. Chúng đơn giản là những xoáy tṛn trong vật chất của thể - các xoáy mà thông qua đó tất cả các hạt lần lượt được chuyển qua - những điểm, có lẽ, tại nơi mà lực từ các cơi cao ảnh hưởng lên thể cảm xúc. Sự mô tả này cũng chỉ có thể diễn đạt phần nào, bởi v́ thật ra chúng là các xoáy bốn chiều, v́ vậy lực đi qua và tạo ra chúng có vẻ như tự nhiên xuất hiện mà không đến từ đâu cả. Nhưng trong mọi trường hợp, bởi v́ tất cả các hạt đều lần lượt đi qua mỗi nơi đó, rơ ràng là mỗi trung tâm hoàn toàn có thể tuần tự đánh thức năng lực tiếp nhận các mức độ rung động khác nhau ở tất cả các hạt trong thể cảm xúc, do đó tất cả các giác quan trung giới đều hoạt động tích cực như nhau ở mọi phần của thể.
Cái nh́n trên cơi thượng giới một lần nữa lại khác hẳn, trong trường hợp này ta không c̣n có thể nói về các giác quan riêng biệt như thị giác hay thính giác, mà đúng hơn phải xem đó là một giác quan chung đáp ứng đầy đủ mọi rung động truyền đến, khi một đối tượng được ư thức, nó lập tức nhận biết đầy đủ, giống như nó nh́n, nghe, cảm nhận, và biết tất cả mọi thứ có thể biết về đối tượng của nó chỉ với một vận động tức th́. Và ngay cả năng lực tuyệt vời này cũng chỉ khác biệt ở mức độ mà không phải ở bản chất so với những ǵ chúng ta có vào lúc này; trên cơi thượng giới, cũng như ở hạ giới, những ấn tượng truyền từ vật quan sát đến người quan sát đều nằm dưới dạng các rung động.
Nơi cơi bồ đề lần đầu tiên chúng ta bắt gặp một năng lực mới mẻ hoàn toàn không có một điểm chung nào với những ǵ ta đang nói đến, bởi ở đó một người ư thức mọi thứ theo cách hoàn toàn khác, mà trong đó những rung động bên ngoài hoàn toàn không có một vai tṛ ǵ hết. Khách thể trở thành một phần của chủ thể, và y nghiên cứu nó từ bên trong thay v́ từ bên ngoài. Nhưng nhăn thông hoàn toàn không có liên quan ǵ với loại năng lực này.
Sự phát triển, hoàn toàn hay một phần, của một trong những năng lực này sẽ nằm trong định nghĩa của chúng ta về nhăn thông - sức mạnh nh́n thấy những ǵ vô h́nh đối với mắt thường. Nhưng các năng lực này có thể được phát triển theo rất nhiều cách, và có lẽ nên nói sơ về các hướng phát triển này.
Chúng ta có thể giả sử rằng một người có thể bị tách biệt trong suốt quá tŕnh tiến hóa của y trừ ra những ảnh hưởng bên ngoài nhẹ nhàng nhất, bắt đầu theo cách hoàn toàn b́nh thường, y chắc hẳn cũng sẽ phát triển các giác quan theo cách thông thường. Y sẽ thấy các giác quan cơi trần chậm răi mở rộng tầm hoạt động cho đến khi có khả năng đáp ứng với tất cả các rung động cơi trần, của chất dĩ thái cũng như vật chất đậm đặc; sau đó, tuần tự, là khả năng cảm nhận phần thô trược của cơi trung giới, rồi đến phần thanh nhẹ cũng được thêm vào, cho đến một thời điểm mà năng lực nơi cơi thượng giới ló dạng.
Tuy nhiên, trong đời sống thực, sự phát triển thông thường như vậy rất hiếm gặp, và rất nhiều người đôi khi lóe lên cảm giác về cơi trung giới mà không hề có cái nh́n dĩ thái. Và sự bất thường trong phát triển này là một trong những nguyên nhân chính gây ra những sai lầm trong nhăn thông của những người phát triển không đồng bộ - một khiếm khuyết không thể tránh được trừ khi có một khóa huấn luyện lâu dài dưới sự hướng dẫn của một vị thầy đủ khả năng.
Sửa lại bởi nickname : 30 June 2009 lúc 11:04pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 9 of 73: Đă gửi: 01 July 2009 lúc 10:25am | Đă lưu IP
|
|
|
Đến đây nn xin bỏ qua một số đoạn và dịch tiếp phần tiếp theo. Có 1 chỗ sách có nói về quyển "Rationale of Mesmerism" của ông Sinnnett, các bạn có thể tham khảo thêm.
Để làm việc với hiện tượng này, chúng ta sẽ sắp xếp chúng dựa theo khả năng quan sát mà không phải là trên các cơi mà nó được thực hiện, do đó ta có thể phân loại các trường hợp nhăn thông với các đề mục sau:
1- Nhăn thông đơn giản – đúng như tên gọi, đơn thuần là sự khai mở nhăn quan, cho phép người sở hữu khả năng này nh́n thấy bất cứ thực thể bằng chất dĩ thái hay trung giới nào hiện diện xung quanh y, nhưng không bao gồm năng lực quan sát các vật ở xa hay các h́nh ảnh thuộc một thời điểm khác hiện tại.
2- Nhăn thông không gian – khả năng nh́n thấy những cảnh vật hay sự kiện ở xa người quan sát về, và cùng quá xa cho sự quan sát thông thường hoặc bị che khuất bởi các vật thể trung gian.
3- Nhăn thông thời gian – như tên gọi, là khả năng nh́n thấy những vật hay sự kiện xảy ra tại một thời điểm nào đó, hay, nói cách khác, năng lực nh́n vào quá khứ hay tương lai.
CHƯƠNG -2-
NHĂN THÔNG ĐƠN GIẢN: ĐẦY ĐỦ
Chúng ta đă định nghĩa điều này là một sự khai mở đơn thuần về thị lực dĩ thái hay trung giới, cho phép người sở hữu khả năng này thấy mọi thứ xung quanh y trên các cấp độ tương ứng, nhưng không thường kèm theo khả năng nh́n ở một khoảng cách xa hay đọc được quá khứ hay tương lai. Nhưng thật khó có thể bỏ qua những năng lực sau, bởi nhăn quan trung giới luôn luôn có một phạm vi rộng lớn hơn nhiều so với ở cơi trần, và những h́nh ảnh rời rạc thuộc cả quá khứ và tương lai lại thường t́nh cờ được nh́n thấy bởi ngay cả những người có nhăn thông nhưng không biết cách làm chủ chúng; tuy nhiên có một sự phân biệt rất rơ ràng giữa những cái nh́n ngẫu nhiên thoáng qua và năng lực nhất định cho phép thực hiện việc nh́n trong không gian hoặc thời gian.
Ta thấy ở nơi những người nhạy cảm mọi mức độ nhăn thông loại này, từ những người có những ấn tượng mơ hồ khó có thể được gọi là nh́n, cho đến sự sở hữu hoàn toàn thị lực tương ứng với dĩ thái và trung giới. Có lẽ cách đơn giản nhất là chúng ta sẽ bắt đầu miêu tả những ǵ sẽ được nh́n thấy trong trường hợp của sự phát triển đầy đủ năng lực này, cũng như những trường hợp chỉ sở hữu một phần năng lực tự nhiên xuất hiện nơi họ.
Ta hăy bắt đầu với thị lực dĩ thái trước. Loại này đơn giản bao gồm, như đă nói, sự nhạy cảm với nhiều mức độ rung động hơn so với b́nh thường, tuy nghiên người sở hữu nó nh́n thấy nhiều thứ mà đa số nhân loại chưa thấy được. Ta hăy xem xét những thay đổi đạt được nơi các vật thể thông thường, sống động và chết cứng, để thấy những yếu tố hoàn toàn mới mẻ mà nó giới thiệu đến chúng ta. Nhưng xin nhớ những ǵ tôi sắp sửa miêu tả là kết quả của sự sở hữu năng lực đó một cách đầy đủ và hoàn toàn có kiểm soát, và hầu hết các trường hợp gặp trong đời thực sẽ dễ dàng bị thiếu sót ở một khía cạnh nào đó.
Thay đổi ấn tượng nhất sinh ra trong h́nh dạng của các vật thể không có sự sống khi đạt được năng lực này là hầu hết chúng đều trở nên trong suốt, do sự khác biệt về bước sóng của một số rung động mà người quan sát hiện đă trở nên nhạy cảm với chúng. Y thấy ḿnh có khả năng thực hiện thật dễ dàng câu thành ngữ “nh́n xuyên qua một bức tường gạch”, bởi với thị lực mới đạt được bức tường gạch dường như không có vẻ ǵ đặc hơn một màng sương mỏng. V́ vậy y thấy mọt thứ diễn ra trong một căn pḥng bên cạnh giống như không hề có bức tường nào che chắn; y có thể miêu tả chính xác bên trong một hộp bị khóa, hay đọc một bức thư được niêm phong; với một chút luyện tập y có thể đọc một đoạn văn trong một cuốn sách đóng kín. Khả năng cuối cùng này, mặc dù hoàn toàn dễ dàng với thị lực trung giới, nhưng khá khó dùng với thị lực dĩ thái, bởi thực tế là mỗi trang phải được nh́n xuyên qua tất cả những ǵ chồng lên trên nó.
Một câu hỏi thường gặp là dưới những hoàn cảnh nào một người luôn nh́n thấy thị lực bất thường này, hay chỉ khi y muốn như vậy. Câu trả lời là nếu năng lực đă phát triển đầy đủ nó sẽ hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của người đó, và y có thể dùng nó hay thị lực thông thường theo ư muốn. Y chuyển từ cái này sang cái khác cũng dễ dàng và tự nhiên như ta thay đổi sự tập trung của cặp mắt từ nh́n vào quyển sách đến theo dơi sự chuyển động của một vật cách đó một dặm. Đó là sự tập trung của ư thức vào một khía cạnh của vật quan sát: và mặc dù y sẽ hoàn toàn nh́n rơ khía cạnh mà y đang chú ư, y cũng sẽ luôn luôn ư thức lờ mờ về khía cạnh khác, cũng như khi ta tập trung nh́n vào một vật đang cầm trong tay th́ cùng lúc ta cũng thấy mờ mờ bức tường đối diện của căn pḥng như một cái phông nền.
Một thay đổi thú vị khác, đến từ sự sở hữu thị lực loại này, là mặt đất cứng mà người đó đi trên bỗng trở nên trong suốt đến một chừng mực, do đó y có thể nh́n xuống một độ sâu đáng kể, cũng như ta nh́n vào mặt nước tương đối trong suốt. Điều này cho phép y quan sát một sinh vật đào bới dưới đất, cho tới phân biệt một mạch than đá hay kim loại nếu không nằm quá sâu, và cứ như vậy.
Giới hạn của thị lực dĩ thái khi nh́n xuyên chất rắn có vẻ tương tự với cách chúng ta nh́n xuyên qua nước hay sương mù. Ta không thể thấy xa hơn một khoảng cách nhất định, bởi trung gian mà ta nh́n xuyên qua không hoàn toàn trong suốt.
H́nh ảnh của những vật thể sống cũng thay đổi đáng kể với người đă tăng cường sức mạnh nhăn quan đến mức độ này. Cơ thể người và động vật trong suốt đối với y, do đó y có thể quan sát hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể, và chuẩn đoán bệnh tật ở một mức độ nào đó.
Sửa lại bởi nickname : 01 July 2009 lúc 10:26am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 10 of 73: Đă gửi: 01 July 2009 lúc 8:51pm | Đă lưu IP
|
|
|
NN xin nói thêm 1 chút về vấn đề dĩ thái và phong thủy. V́ đây là ư kiến riêng của nn nên không dám khẳng định là đúng, chỉ xin nói qua để mọi người tham khảo thêm.
Như đă nói, dĩ thái là vật chất ở trạng thái thanh nhẹ hơn các dạng rắn, lỏng, hơi. Đây là khái niệm mà khoa phong thủy gọi là “khí”. Đôi khi đọc sách xưa ta thấy nói “nh́n thấy khí bốc lên”, th́ đó không phải là nhăn quan thông thường, v́ ngay cả dạng hơi không màu th́ mắt thường cũng không nh́n thấy th́ làm sao thấy “khí” vốn ở một trạng thái c̣n tinh vi, nhẹ nhàng hơn. Đó chính xác là cái trong sách gọi là thị lực dĩ thái, tức khả năng đáp ứng với các rung động nhanh hơn b́nh thường, từ đó nh́n được các vật thể làm bằng chất dĩ thái. Những thánh nhân làm ra khoa phong thủy chắc chắn đều nh́n thấy khí này, bởi chỉ có như vậy họ mới có thể biết được dạng đất nào là xấu, dạng nào là tốt, biết được các huyệt vị, long mạch… Bởi v́ không nhiều người có được khả năng đó nên các thánh nhân mới dạy cách dùng h́nh để luận khí, nh́n vào các vật hữu h́nh mà đoán cái vô h́nh và luận định tốt xấu.
Khi hiểu rằng “khí” cũng là vật chất, ta có thể giải thích dễ dàng một số điểm căn bản của khoa phong thủy như sau:
+ Khí có ở khắp nơi, xuyên thấu qua đất cát, nước, không khí bởi nó thanh nhẹ hơn. Điều này tương tự như nước thấm qua đất cát vậy.
+ H́nh và Khí liên quan mật thiết với nhau. Đó là do lực hấp dẫn. Chất rắn đậm đặc hơn nên gây lực hấp dẫn lớn lên chất “khí” thanh nhẹ, v́ vậy khí thường được tạo h́nh giống y như h́nh thế đất.
+ Các nơi kết huyệt có lẽ giống như các huyệt đạo trên cơ thể người vậy. Tất cả đều làm bằng chất dĩ thái. Có thể những người vừa học y vừa học phong thủy đều biết điều này.
+ Tại sao khí của khu đất có thể ảnh hưởng đến con người. Chúng ta biết rằng con người có một thể dĩ thái, cùng mức độ với khí này. V́ vậy, theo luật đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, chúng ảnh hưởng lẫn nhau.
+ Tại sao có người hưởng được cái tốt của khu đất có người không? Tại sao cái “đức” lại quan trọng? Người không tốt th́ “khí”, hay thể dĩ thái cũng bị biến đổi thành xấu đi ở mức nào đó. Khi đó khí đến người từ tốt cũng thành xấu. Điều này cũng tương tự như nước trong lành mà cho chảy qua một đường ống dơ bẩn vậy.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 11 of 73: Đă gửi: 01 July 2009 lúc 11:45pm | Đă lưu IP
|
|
|
(bỏ qua vài đoạn và tiếp tục)
Bất cứ ai sở hữu loại thị lực mà chúng ta đang nói đến cũng sẽ có khả năng thấy được thể dĩ thái của con người; nhưng v́ thể này có kích thước gần như bằng với thể xác, nên sẽ khó có thể gây được sự chú ư trừ khi nó đang được bảo vệ tạm thời trong trạng thái hôn mê hay dưới tác dụng của thuốc tê. Sau khi chết, khi thể dĩ thái đă rút khỏi thể xác hoàn toàn, nó sẽ trở nên rơ ràng với người quan sát, và y sẽ thường cuyên nh́n thấy nó lơ lửng nơi những mồ mả mới xây khi đi ngang qua một nghĩa trang nhà thờ hay một nghĩa địa. Nếu y tham dự một buổi cầu hồn y sẽ thấy chết dĩ thái rỉ ra khỏi người đồng tử, và sẽ quan sát được nhiều cách mà các thực thể thông linh sử dụng nó.
Ư kiến của nn: việc nh́n thấy thể dĩ thái là một lợi thế lớn trong việc chẩn đoán và chữa bệnh. Khoa nhân điện, châm cứu, bấm huyệt có lẽ thực hiện việc điều trị trên thể này. Trong lên đồng, người đồng tử sẽ bị thực thể rút bớt sinh lực từ thể dĩ thái này, dẫn đến mệt mỏi thậm chí gây nguy hiểm, ai ngồi đồng thường xuyên đều biết, và đây là một trong rất nhiều lư do khiến Theosophy không đồng ư với việc này.
Một thực tế khác khó mà không gây được sự chú ư của y là sự mở rộng nhận thức về màu sắc. Y sẽ nhận ra y có khả năng thấy được những màu sắc hoàn toàn mới, không hề giống một chút nào những ǵ nằm trong quan phổ như chúng ta đang biết, và do đó tất nhiên không thể miêu tả nó bằng bất cứ từ ngữ nào. Và y không chỉ thấy các vật thể hoàn toàn tạo nên bởi những màu sắc này, mà y c̣n thấy được những thay đổi trong màu sắc của nhiều vật thể quen thuộc y từng thấy, chúng sẽ có hay không có một màu nhẹ nào đó trong những màu mới, trộn lẫn với những màu cũ. V́ vậy hai mặt có màu sắc hợp với nhau hoàn toàn với mắt thường sẽ có thể có những sắc thái hoàn toàn khác biệt trong nhăn quan sắc bén của y.
Ư kiến của nn: chúng ta có thể làm một phép so sánh cho về vấn đề này. Giả sử loài người chỉ có khả năng nh́n thấy các màu như trắng , đen, xám. Khi đó có một người bỗng thấy được 7 màu, th́ y sẽ không thể t́m được từ ngữ nào để diễn tả cho những người bạn của y biết được các màu đỏ, xanh… mà y nh́n thấy. Và lá cây từ màu xám bây giờ có màu xanh tươi đẹp. Nếu con người chỉ thấy lá cây màu xám th́ làm sao t́m ra được chất diệp lục tố khiến cây có thể quang hợp, và c̣n biết bao nhiêu quan niệm về thế giới mà ta có được chỉ từ 7 màu hiện tại. Sự mở rộng thị lực dĩ thái cũng có ư nghĩa quan trọng như vậy, nó mở ra một chân trời mới mà ta khó có thể h́nh dung ra được. Và đây là điều mà đa số mọi người đều đạt được trong vài trăm năm tới, khi mà ḍng tiến hóa vẫn tiếp tục chảy về phía trước, c̣n hiện tại, một số người đă đi trước những người anh em của họ. Lúc này đây chúng ta đă chạm đến một số thay đổi chính về thế giới của một người khi y đạt được thị lực dĩ thái; và cần nhớ rằng trong đa số các trường hợp một sự thay đổi tương ứng ở các giác quan khác cũng sẽ xảy ra cùng lúc, v́ vậy y có thể nghe, và thậm chí sờ được, nhiều hơn những người quanh y. Bây giờ giả sử một người có đạt được luôn cả thị lực trung giới, những thay đổi xa hơn nào sẽ được nh́n thấy?
Sửa lại bởi nickname : 01 July 2009 lúc 11:47pm
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 12 of 73: Đă gửi: 02 July 2009 lúc 1:06am | Đă lưu IP
|
|
|
Vâng, nhiều thay đổi lớn sẽ xảy ra; thực tế, một thế giới hoàn toàn mới sẽ mở ra trước mắt y. Ta hăy xem xét ngắn gọn những điều kỳ diệu của nó với cùng thứ tự như ở trên, và xem những khác biệt ǵ sẽ xảy ra đối với những vật thể không có sự sống trước tiên. Ở điểm này tôi có thể khởi đầu bằng cách trích dẫn một vấn đề khá lạ trong quyển The Vâhan.
Ư kiến của nn: quyển The Vâhan có lẽ do bà Blavatsky viết. Chữ Vâhan có nghĩa như Vehicle, tức là thể, hay phương tiện, có nghĩa gần giống body. Các thể xác, thể cảm xúc, thể trí… đều là những vehicle của linh hồn dùng để biểu lộ và hoạt động trên các cơi tương ứng. Linh hồn là một nguyên lư, chỉ có thể biểu lộ nơi thế giới vật chất thông qua vật chất.
“Có một sự khác biệt rơ rệt giữa nhăn quan dĩ thái và nhăn quan trung giới, và cái sau dường như có liên hệ với chiều không gian thứ tư…
“Cách dễ nhất để hiểu sự khác biệt này là lấy một ví dụ. Nếu bạn nh́n vào một người lần lượt với cả hai loại thị lực, bạn sẽ thấy những nút ở phía sau cổ áo của y trong cả hai trường hợp; nếu chỉ dùng thị lực dĩ thái bạn sẽ thấy chúng xuyên qua y, và sẽ thấy mặt sau gần với bạn nhất, nhưng nếu bạn nh́n bằng thị lực trung giới, bạn sẽ không chỉ thấy như vậy, mà giống như bạn cũng đang đồng thời đứng đằng sau y vậy.
“Hay nếu bạn nh́n một khối lập phương bằng gỗ có viết chữ lên tất cả các mặt bằng thị lực dĩ thái , nó sẽ giống như khối vuông làm bằng thủy tinh, do đó bạn có thể nh́n xuyên qua nó, và bạn sẽ nh́n chữ viết ở các mặt đối diện từ đằng sau, trong khi đó bên phải và bên trái sẽ không thấy rơ trừ khi bạn di chuyển, bởi v́ bạn nh́n nó từ phía cạnh. Nhưng nếu bạn nh́n nó bằng thị lực trung giới bạn sẽ thấy tất cả các cạnh cùng lúc, và từ đúng hướng của nó, như thể toàn khối vuông được trải phẳng ra trước bạn, va bạn cũng sẽ từng hạt bên trong nó – không xuyên qua những hạt khác, mà tất cả được trải phẳng. Bạn sẽ nh́n nó từ một hướng khác, thẳng góc với mọi hướng chúng ta biết.
“Nếu bạn nh́n vào phía sau một cái đồng hồ bằng thị lực dĩ thái bạn thấy tất cả các bánh răng xuyên qua nó, và mặt trước xuyên qua chúng; nếu bạn nh́n bằng thị lực trung giới, bạn thấy mặt đồng hồ từ phía trên và tất cả bánh răng nằm tách biệt nhau, nhưng không cái nào nằm trên cái nào.
Ở đây ta có ngay ư chủ đạo, nhân tố chính của thay đổi; người quan sát nh́n một thứ từ một góc nh́n hoàn toàn mới, nằm ngoài tất cả những ǵ mà y từng tưởng tượng trước đây. Y không c̣n gặp một khó khăn nhỏ nhất nào trong việc đọc bất cứ trang nào của quyển sách đóng, bởi y không c̣n nh́n nó xuyên qua tất cả những trang khác trước hay sau nó, mà nh́n thẳng từ trên xuống như thể nó là trang duy nhất được nh́n thấy. Độ sâu của một mạch kim loại hay than đá không c̣n là vật chắn đối với nhăn quan của y, bởi v́ y không c̣n nh́n xuyên qua chiều sâu của mặt đất. Bề dày của một bức tường, hay nhiều bức tường giữa người quan sát và vật, sẽ tạo nên một khác biệt lớn trong việc nh́n rơ với thị lực dĩ thái; chúng không tạo ra một khác biệt nào đối với thị lực trung giới, bởi trên cơi trung giới chúng không hề chắn giữa người quan sát và vật. Dĩ nhiên điều đó nghe có vẻ ngược ngạo và vô lư, và thật sự không thể giải thích được đối với một đầu óc chưa được luyện tập để nắm bắt ư tưởng này; nhưng điều đó không hề làm giảm bớt tính đúng đắn của nó.
Ư kiến của nn: ta có thể xem xét một ví dụ sau. Giả sử một sinh vật sinh sống và chỉ có khả năng ư thức trong không gian 2 chiều. Trên mặt phẳng đó có một h́nh chữ nhật. Sinh vật đó chỉ có thể nh́n thấy 1 đến 2 cạnh của h́nh chữ nhật, v́ các cạnh c̣n lại bị các cạnh này che chắn. Nhưng đối với chúng ta, có khả năng nhận thức đến 3 chiều không gian. Nh́n từ phía trên xuống mặt phẳng đó, chúng ta thấy rơ ràng cả 4 cạnh của h́nh chữ nhật, không hề bị che chắn. Cũng như vậy nếu chúng ta có khả năng ư thức trên cơi trung giới, khi đó chúng ta sẽ ư thức thêm được chiều thứ 4, khi đó một khối vuông hoàn toàn phẳng ĺ với ta như h́nh chữ nhật kia vậy. Xin lưu ư là không phải cơi trần có 3 chiều và cơi trung giới có 4 chiều, không gian vốn có nhiều chiều, chỉ là năo bộ bị giới hạn trong tư duy 3 chiều, c̣n thể cảm xúc có thể ư thức 4 chiều. Các bạn nên đọc quyển Scientific Romances của ông C.H.Hinton, phần viết về không gian 4 chiều rất hay.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 13 of 73: Đă gửi: 05 July 2009 lúc 10:05am | Đă lưu IP
|
|
|
Điều này đưa chúng ta đi thằng đến vấn đề đầy tranh căi về chiều không gian thứ tư – một vấn đề vô cùng thú vị, nhưng chúng ta cũng không thể thảo luận tại đây này được. Những ai muốn nghiên cứu nó nghiêm túc như nó xứng đáng nên bắt đầu với quyển Scientific Romances của ông C.H.Hinton hay Another World của Tiến sĩ A.T.Schofield, và sau đó là tác phẩm lớn A New Era of Thought của tác giả trước. Ông Hinton không chỉ khẳng định ông có khả năng hiểu rơ một số h́nh ảnh trong không gian bốn chiều, mà c̣n nói rằng bất cứ ai chịu khó làm theo chỉ dẫn của ông đều có thể dần dần hiểu được như ông. Tôi không dám chắc năng lực đó có thể đạt được bởi bất cứ ai, như ông ấy nghĩ, bởi đối với tôi nó đ̣i hỏi một khả năng đáng kể về toán; nhưng dù sao đi nữa tôi có thể làm chứng rằng tesseract hay h́nh khối vuông bốn chiều mà ông miêu tả là đúng sự thật, v́ nó là một h́nh dạng thường thấy nơi cơi trung giới.
(bỏ qua một vài đoạn)
Nhưng ngay cả điều này cũng chưa phải là tất cả những khả năng mà loại thị lực này đem lại cho người sở hữu nó. Y không chỉ thấy bên trong cũng rơ như bên ngoài của tất cả mọi vật, mà c̣n cả đối phần trung giới của nó. Mỗi nguyên tử và phân tử vật chất cơi trần đều có nguyên tử và phân tử trung giới tương ứng với nó, và khối được tạo bởi chúng hoàn toàn rơ ràng rơ ràng trước mắt người có nhăn thông của chúng ta. Thông thường phần trung giới của bất kỳ vật nào cũng phóng một chút ra bên ngoài phần cơi trần, và v́ vậy kim loại, đá và những thứ khác được nh́n thấy bao quanh bởi hào quang trung giới.
Ta có thể ngay lập tức thấy rằng ngay cả trong nghiên cứu vật vô sinh một người thu được rất nhiều nhờ loại thị lực này. Y không chỉ thấy phần trung giới của vật mà y nh́n, mà trước đây hoàn toàn vô h́nh với y; mà y c̣n thấy được nhiều hơn kết cấu vật chất so với trước đó. Một giây cân nhắc sẽ cho y thấy rằng cái nh́n mới đúng đắn rất nhiều theo nhận thức so với nhăn quan thông thường. Lấy ví dụ, nếu y nh́n một khối vuông bằng thủy tinh bằng thị lực trung giới, các cạnh của nó đều có vẻ bằng nhau, như ta biết chúng là như vậy, trong khi trên cơi trần y thấy các cạnh xa hơn theo luật phối cảnh – có nghĩa là, nó có vẻ nhỏ hơn so với cạnh ở gần, điều đó, dĩ nhiên chỉ là ảo giác do giới hạn của cơi trần.
(bỏ qua một vài đoạn)
CHƯƠNG -3-
NHĂN THÔNG ĐƠN GIẢN: KHÔNG ĐẦY ĐỦ
Những kinh nghiệm thuộc về nhăn thông chưa được huấn luyện – và cần nhớ rằng phân nhóm này bao gồm tất cả những nhà thông nhăn Âu châu ngoại trừ một số rất ít – sẽ thường thiếu sót rất nhiều so với những ǵ tôi đă tŕnh bày; họ sẽ có thiếu sót theo rất nhiều dạng – nhiều mức độ, trạng thái, hay sự lâu dài, và trên tất cả là sự chính xác.
Đôi khi, ví dụ như, thông nhăn của một người giữ được lâu dài, những rất bất toàn, chỉ có khả năng nh́n thấy một hay hai loại hiện tượng; y sẽ thấy ḿnh thấy được một vài mảnh linh ảnh rời rạc ở cơi cao, mà dường như không sở hữu các năng lực khác cho phép nh́n thấy những thứ theo sau hay đi trước mảnh linh ảnh đó. Ví dụ như một trong những người bạn thân nhất của tôi, cả cuộc đời của y đă có năng lực nh́n thấy nguyên tử dĩ thái và nguyên tử trung giới, và nhận biết được cấu trúc của chúng, trong bóng tối cũng như dưới ánh sáng, như là thấu nhập mọi thứ khác; nhưng y chỉ rất hiếm khi nh́n thấy được những thực thể có cơ thể được cấu tạo từ vật chất rơ ràng hơn của dĩ thái thấp hoặc vật chất trung giới đậm đặc, dù sao cũng không phải là hoàn toàn không thể thấy được chúng. Y đơn giản là nhận thấy ḿnh sở hữu loại năng lực đặc biệt này, mà không có lư do rơ ràng nào, hay t́m thấy một mối liên hệ với một thứ ǵ khác.
(bỏ qua một đoạn)
Có nhiều trường hợp tương tự như vậy – tương tự, tôi muốn nói là, không phải là sở hữu chính xác loại năng lực đó (đây chỉ là kinh nghiệm riêng của tôi), mà là bộc lộ sự phát triển của một phần nhỏ trong thị lực đầy đủ nơi cơi trung giới cũng như dĩ thái. Tuy nhiên, chín trên mười trường hợp, nhăn thông bất toàn như vậy sẽ cùng lúc thiếu sự chính xác – có nghĩa là, sẽ có một lượng lớn những suy luận và ấn tượng mơ hồ trong đó, thay v́ sự xác định dứt khoát và chắc chắn của một người đă được huấn luyện. Ví dụ về loại này rất thường gặp, đặc biệt trong số những người tự quảng cáo là “nhăn thông thương mại và sát hạch”.
Kế đó là, những người chỉ có nhăn thông tạm thời dưới những điều kiện nhất định. Giữa những người này có rất nhiều phân lớp, một số có khả năng khôi phục trạng thái nhăn thông khi muốn bằng cách lặp lại một số điều kiện giống nhau, trong khi với những người khác nó xảy đến không đều đặn, mà không có một điều kiện thấy được nào liên quan đến môi trường xung quanh và với những người khác năng lực này chỉ xảy ra một hay hai lần trong suốt cuộc đời.
Phân lớp thứ nhất thuộc về những người chỉ có nhăn thông trong trạng thái xuất thần thôi miên – những người mà lúc b́nh thường không có khả năng nh́n hay nghe thấy điều ǵ bất thường. Những người này đôi khi đạt đến những tầm mức hiểu biết rất cao và sự chính xác đặc biệt trong diễn đạt, nhưng khi điều đó xảy ra họ thường đang tham gia một khóa huấn luyện chính thức, mặc dù có một số lư do khiến họ chưa thể tự do thoát khỏi gánh nặng trần tục buộc họ phải nói rằng không có sự hỗ trợ nào khác.
Cũng trong phân lớp đó ta có thể thêm vào những người – chủ yếu ở phương Đông – chỉ đạt được nhăn lực tạm thời dưới ảnh hưởng của các loại thuốc hay bằng cách thực hành các nghi thức nào đó. Người thực hiện nghi thức đôi khi tự thôi miên chính y bằng những sự lặp lại, và trong trạng thái đó trở nên có nhăn thông ở một mức độ nào đó; thường thấy hơn là y tự giảm bản thân đến một trạng thái thụ động khiến cho một thực thể khác có thể ám và nói thông qua y. Đôi khi, trở lại, những nghi thức của y không nhằm ảnh hưởng chính y, mà để kêu gọi một thực thể trung giới nào đó sẽ cho thông tin cần biết; những tất nhiên đó là một dạng phép thuật, mà không thuộc về nhăn thông. Cả thuốc và nghi thức đều là những phương pháp dứt khoát phải tránh xa bởi những người mong muốn đạt đến nhăn thông từ khía cạnh cao, và sử dụng nó cho sự tiến bộ của bản thân và giúp ích những người khác. Thầy phù thủy dùng bùa ngải (medicine-man) Trung Phi hay các thầy mo (witch doctor) và một số Pháp sư Tác-ta (Tartar Shaman) là những ví dụ điển h́nh của loại này.
Sửa lại bởi nickname : 05 July 2009 lúc 10:06am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 14 of 73: Đă gửi: 05 July 2009 lúc 7:53pm | Đă lưu IP
|
|
|
Với những người có một lượng năng lực nhăn thông nhất định chỉ đôi khi xảy ra, và không liên quan ǵ đến ư muốn của bản thân, thường là những người bị kích động hay có thần kinh quá nhạy cảm, trong một chừng mực nào đó với họ năng lực này là một trong những triệu chứng của bệnh tật. Sự xuất hiện của nó cho thấy rằng cơ thể vật chất đă bị làm suy yếu đến mức không c̣n đủ sức che chắn được dù là một lượng nhỏ h́nh ảnh dĩ thái hay trung giới. Một ví dụ đặc biệt của loại này là người say rượu đến mức mê sảng, và trong t́nh trạng mà thân xác hoàn toàn bị hủy hoại và sự kích thích “tâm linh” ô uế được tạo ra bởi sự tàn phá của tệ nạn ghê sợ đó, có khả năng tạm thời thấy được các loài tinh linh ngũ hành ghê tởm và các thực thể khác mà y đă thu hút xung quanh bởi thời gian dài nghiện ngập trụy lạc và thoái hóa. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp khác trong đó năng lực nh́n xuất hiện và biến mất mà không liên quan ǵ đến t́nh trạng sức khỏe vật chất; nhưng dường như có thể là ngay cả trong trường hợp đó, nếu họ có thể đă quan sát đủ tỉ mỉ, một thay đổi nào đó trong điều kiện của thể dĩ thái có thể được nhận ra.
Những người chỉ có một trường hợp xuất hiện nhăn thông trong suốt cuộc đời là nhóm khó để có thể phân loại cho thấu đáo, bởi có rất nhiều các trạng thái phụ thêm vào. Trong số họ có những người có kinh nghiệm đến từ một khoảng khắc quan trọng nhất trong đời họ, có thể hiểu rằng khi đó có thể có một sự kích thích tạm thời đến mức đạt được năng lực đó.
Trong trường hợp của một phân lớp khác, troùng hợp người ẩn sĩ nh́n thường thấy sự hiện h́nh của một người bạn hay người thân lúc chết. Chúng ta có thể lực chọn trong hai khả năng, và trong mỗi trường hợp ư muốn của người sắp chết là lực thúc đẩy. Nguồn lực đó có thể đă cho phép y vật chất hóa bản thân để hiện h́nh trong một lúc, trong trường hợp đó dĩ nhiên không cần phải có nhăn thông; hay khả năng cao hơn là nó đă thôi miên người tiếp nhận, và tạm thời làm giảm cảm giác ở cơi trần và kích thích sự nhạy cảm cơi cao. Trong cả hai trường hợp linh ảnh là sản phẩm của t́nh trạng khẩn cấp và không dễ dàng được lặp lại v́ các điều kiện cần thiết không hề lặp lại.
Tuy nhiên, c̣n có những trường hợp không thể giải thích được ví dụ như sự thực hành thông nhăn rất rơ ràng, trong khi các nguyên nhân dường như hoàn toàn tầm thường và không quan trọng. Với những trường hợp như vậy ta chỉ có thể đề ra các giả thuyết; những điều kiện chính yếu rơ ràng không thuộc về cơi trần, và một việc nghiên cứu một trường hợp đơn lẻ sẽ là cần thiết trước khi ta có thể khẳng định được nguyên nhân của nó. Trong các trường hợp như vậy có khi một thực thể trung giới đang cố gắng giao tiếp, và chỉ có thể gây ấn tượng được một chi tiết không quan trọng lên chủ thể của nó - phần có ích hay quan trọng mà nó muốn nói đă không thể đi vào nhận thức của chủ thể.
Khi nghiên cứu các hiện tượng nhăn thông có thể gặp phải tất cả những loại này và nhiều loại khác nữa, và một số trường hợp chỉ là ảo giác chắc chắn cũng sẽ xảy ra, và sẽ phải được loại bỏ khỏi danh sách các ví dụ. Người nghiên cứu một chủ đề như vậy cần có tính kiên nhẫn tột độ và sự kiên định vững vàng, nhưng nếu y làm việc đủ lâu y sẽ bắt đầu mơ hồ nhận thức được trật tự đằng sau sự hỗn loạn, và sẽ dần dần có một vài ư tưởng về những định luật vĩ đại đang hoạt động bên dưới toàn bộ quá tŕnh tiến hóa.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 15 of 73: Đă gửi: 06 July 2009 lúc 12:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Nó sẽ giúp ích rất nhiều trong các kết quả đạt được nếu y làm theo thứ tự mà chúng ta vừa đi theo – đó là, trước tiên y sẽ chịu khó làm quen thật kỹ lưỡng với những thực tế liên quan đến các cơi giới mà nhăn thông b́nh thường làm việc trên đó. Y sẽ nghiên cứu những ǵ thật sự được nh́n thấy bằng thị lực trung giới và dĩ thái, và những giới hạn riêng của chúng, kế đó y sẽ có, như nó vẫn là như vậy, một tiêu chuẩn để so sánh các trường hợp mà y quan sát được. Bởi v́ tất cả các trường hợp nhăn thông bất toàn nhất thiết phải ăn khớp ở chỗ thích hợp trong cái toàn thể, nếu y có được nét phác thảo chung của toàn bộ hệ thống trong đầu y sẽ thấy nó tương đối dễ dàng với một ít thực hành để có thể phân loại được các trường hợp mà y đang nghiên cứu.
Chúng ta vẫn chưa nói ǵ về những khả năng tuyệt vời hơn của nhăn thông trên cơi thượng giới, mà thật sự cũng không cần phải nói nhiều đến mức đó, v́ gần như không có khả năng là người nghiên cứu sẽ bắt gặp một ví dụ nào về nó ngoại trừ giữa những học viên được huấn luyện thích đáng trong những trường Huyền bí học cao nhất. Với họ nó mở ra một thế giới khác hoàn toàn mới, rộng lớn hơn tất cả những ǵ bên dưới – một thế giới mà với nó tất cả những ǵ chúng ta có thể tưởng tượng đến như là sự huy hoàng và lộng lẫy tột bực đều chỉ là những điều tầm thường. Một vài điều về năng lực kỳ diệu, niềm phúc lạc vô bờ, những cơ hội tuyệt vời để học hỏi và làm việc của nó được nó đến trong quyển sách nhỏ thứ sáu của Hội, và các nghiên cứu sinh có thể tham khảo trong đó.
Đó là tất cả những ǵ cần nói – ít ra là tất cả những ǵ y có thể đồng hóa – nằm trong tầm với của những học sinh đă được huấn luyện, nhưng với những nhà thần nhăn chưa được huấn luyện nó khó mà hơn được một khả năng trống rỗng. Nó đă được thực hiện trong trạng thái thôi miên, nhưng điều này cũng rất hiếm khi xảy ra, v́ nó đ̣i hỏi những phẩm chất gần như của bậc thánh nhân, với khát vọng tâm linh cao ngất và sự trong sạch tuyệt đối về tư tưởng và ư muốn ở cả nơi đối tượng và người thực hiện.
Với một loại nhăn thông như vậy, và thậm chí c̣n đầy đủ hơn nơi cơi cao, tên gọi nhăn quan tâm linh có thể được sử dụng; và v́ trên cơi trời, nơi khai sáng chúng ta nằm ngay xung quanh ta tại đây và vào lúc này, ta có thể nói rằng những chỉ dẫn vừa qua có thể được đặt dưới tiêu đề nhăn thông đơn giản, mặc dù nó có thể được dùng lại khi làm việc với nhăn quan không gian mà chúng ta sẽ nghiên cứu tiếp theo.
Chú ư: NN dịch loạt bài này chỉ v́ mục đích nghiên cứu mà mở rộng hiểu biết. NN hoàn toàn không có ư khuyến khích bất kỳ sự t́m học hay cố gắng đạt được thần nhăn. Thiên nhiên có lư do khi chưa cho con người có thần nhăn. Cũng như ta không thể cho em bé cầm dao chơi, bất cứ ai c̣n chưa tinh lọc bản thân thật tinh khiết, c̣n một chút ham muốn tầm thường, ích kỷ nào cũng không bao giờ nên t́m kiếm các loại quyền năng. Nếu ai muốn mau chóng có được nhăn thông hay bất cứ loại quyền năng nào, nn chỉ có một lời khuyên là hăy dọn ḿnh trong sạch, khi đó các quyền năng sẽ tự t́m đến. Đă có quá nhiều đau thương, chết chóc, điên loạn v́ t́m kiếm quyền năng ngoài tầm kiểm soát rồi.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 16 of 73: Đă gửi: 06 July 2009 lúc 6:16am | Đă lưu IP
|
|
|
Để hiểu rơ mối nguy hiểm chực chờ của thông nhăn đối với những ai chưa sẵn sàng, mà nn tin là tất cả, chúng ta chỉ cần tưởng tượng đến điều sẽ xảy ra khi có được nó nhưng không thể kiểm soát được. Mỗi khi đi làm về, một hồn ma bay ra với h́nh dạng ghê rợn nhất và rú lên một cách khiếp đảm. Đêm đêm khi ngủ, bỗng ta trở ḿnh dậy và thấy 1 con ma đang cố bóp cổ ta. Những tiếng khóc than, những tiếng gào thét không lúc nào buông tha, những h́nh bóng cứ lượn lờ phảng phất quanh ta… Liệu có ai nghĩ ḿnh đủ can đảm để trải qua hàng năm trời như vậy mà không phải vào nhà thương điên hay tự sát không? Đó chỉ là một số điều, mà có lẽ chưa phải là những ǵ đáng sợ nhất, có thể xảy ra. Chỉ có duy nhất một cách có nhăn thông chắc chắn an toàn đó là loại bỏ tất cả mọi ham muốn, tư tưởng xấu xa khỏi ta, đến mức hoàn toàn trong sạch, chỉ khi đó nhăn thông sẽ tự đến với sự kiểm soát đầy đủ và tuyệt đối an toàn. Ngoài ra, không có cách nào khác. Những năng lực huyền bí là dùng để phụng sự nhân loại, nếu sử dụng v́ mục đích ích kỷ th́ sẽ gánh lấy hậu quả rất nặng nề. Mong mọi người sẽ tránh xa mọi h́nh thức được quảng cáo là phát triển nhăn quan tâm linh an toàn, chẳng có chút an toàn nào trong đó cả.
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 17 of 73: Đă gửi: 06 July 2009 lúc 7:59am | Đă lưu IP
|
|
|
Phần nhăn thông đơn giản đă kết thúc, nhăn thông không gian và thời gian rất khó và chỉ có thể hiểu được khi đă nắm vững những phần căn bản. V́ vậy nn sẽ dịch trước chương 9. Hy vọng sẽ không có thêm ai khác t́m kiếm những năng lực này.
CHƯƠNG -9-
CÁC PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN
Khi một người bắt đầu bị thuyết phục bởi tính xác thực về sức mạnh to lớn của thông nhăn, câu hỏi đầu tiên của y thường là, “Làm thế nào để tôi có thể phát triển năng lực này, năng lực tiềm tàng trong tất cả mọi người?”
Bây giờ thực tế là có nhiều phương pháp để có thể phát triển thông nhăn, nhưng chỉ có duy nhất một cách chắc chắn là an toàn để có thể được giới thiệu rộng răi – chúng ta sẽ nói về nó sau cùng. Giữa những quốc gia kém phát triển của thế giới t́nh trạng nhăn thông đă được tạo ra theo nhiều dạng cần bị phản đối; trong một số bộ lạc không phải dân Aryan ở Ấn Độ (Ấn Độ có người Ấn da trắng và thổ dân -nn), chỉ là sử dụng các loại thuốc có độc tính hay hít các khói xông gây mụ mị; giữa những thầy tu Hồi giáo, là bằng cách quay cuồng trong một điệu nhảy điên loạn say sưa tín ngưỡng cho đến khi chóng mặt và bất tỉnh đột ngột; giữa những người đi theo sự thực hành ghê rơn của phép cúng bái Tà thuật (Voodoo cult), bằng cách tế thần kinh khủng và các nghi thức ghê tởm của ma thuật đen. Điều đáng mừng là các phương pháp như vậy không nhiều trong loài người hiện nay, tuy rằng vẫn c̣n một số lớn những người học đ̣i loại huyền thuật cổ xưa này làm theo phương pháp tự thôi miên, chẳng hạn như nh́n chằm chằm vào một điểm sáng hay lặp lại một thể thức nào đó cho đến khi trạng thái mụ mị bán phần được tạo ra; trong khi đó có một trường phái khác trong số đó sẽ cố gắng đạt đến kết quả tương tự bằng cách sử dụng một số phương pháp điều tức của Ấn Độ.
Tất cả những phương pháp như vậy phải bị loại bỏ dứt khoát v́ hoàn toàn không an toàn cho việc thực hành của một người b́nh thường không có một ư niệm ǵ về những việc y đang làm – y đơn giản tạo ra những thí nghiệm mơ hồ về một thế giới mà y không biết ǵ hết. Ngay cả phương pháp đạt được nhăn thông bằng cách cho phép bị thôi miên bởi một người khác cũng là một trong những cách mà tôi sẽ rùng ḿnh với sự khinh ghét rơ nét nhất; và tất nhiên nó không bao giờ nên được thực hiện trừ khi có những điều kiện là t́nh cảm và sự tin tưởng tuyệt đối giữa người thôi miên và người bị thôi miên, và sự tinh khiết hoàn toàn trong tầm hồn và linh hồn, trong tư tưởng và ư muốn, những điều kiện như vậy thật sự hiếm thấy được ở bất cứ ai trừ ra những vị thánh cao cả nhất.
Các thí nghiệm liên quan đến trạng thái thôi miên đặc biệt vô cùng lư thú, khi mà nó đưa ra (giữa nhiều thứ khác) một khả năng của bằng chứng cho thực tế về nhăn thông đến những người hoài nghi, mặc dù ngoại trừ dưới những điều kiện như tôi vừa nhắc đến – những điều kiện, tôi thừa nhận, hầu như không thể thành hiện thực – tôi sẽ không bao giờ khuyên bảo bất cứ một ai làm đối tượng cho các thí nghiệm đó.
Sửa lại bởi nickname : 06 July 2009 lúc 8:12am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 18 of 73: Đă gửi: 07 July 2009 lúc 7:36am | Đă lưu IP
|
|
|
Trị bệnh bằng thôi miên, (trong đó, không đưa bệnh nhân vào trạng thái xuất thần, có một nỗ lực nhằm xoa dịu cơn đau, xua tan bệnh tật, hay truyền sinh lực vào y bằng các luồng từ lực) có một chỗ đứng hoàn toàn khác; và nếu người thôi miên, dù hoàn toàn chưa được huấn luyện, ở trong điều kiện sức khỏe tốt và mục đích trong sạch, có thể sẽ không gây ra tác hại nào lên đối tượng bị thôi miên. Trong trường hợp đặc biệt của một ca phẫu thuật, một người có thể đi vào trạng thái hôm mê thôi miên một cách hợp lư, những chắc chắn đó không phải là một điều kiện để một người có thể thực hiện cuộc thí nghiệm. Thật vậy, với bất cứ ai hỏi ư kiến tôi về vấn đề này, tôi sẽ mạnh mẽ nói rằng không nên thực hiện bất kỳ sự nghiên cứu thí nghiệm nào về cái mà với y vẫn c̣n là các lực khác thường của tự nhiên, cho đến khi mà trước hết y đă đọc thật kỹ tất cả mọi thứ viết về vấn đề, hay – tốt hơn hết – cho đến khi y được sự hướng dẫn của một vị thầy đủ tư cách.
Nhưng ở nơi đâu mà người thầy đủ tư cách có thể được t́m thấy? Chắc chắn không phải là giữa những người tự quảng cáo họ là những bậc thầy, những người sẽ đề nghị truyền đạt các bí ẩn thiêng liêng của các thời đại với một ít tiền, hay vẽ “ṿng tṛn tiến hóa” mà những ứng viên ngẫu nhiên được nhận vào cũng với giá đó.
Nhiều điều đă được nói trong luận thuyết này về sự cần thiết của sự rèn luyện kỹ lưỡng – về những lợi thế to lớn của những nhà thần nhăn được huấn luyện với những người chưa được huấn luyện; nhưng điều đó lại một lần nữa đưa chúng ta trở lại cùng một câu hỏi – sự huấn luyện này có thể được t́m thấy ở đâu?
Câu trả lời là sự huấn luyện có thể ở chính xác nơi nó vẫn luôn được t́m thấy từ khi lịch sử của thế giới bắt đầu – trong tay của the Great White Brotherhood of Adept, đứng ở, như nó vẫn luôn đứng đó, ngay phía sau quá tŕnh tiến hóa của nhân loại, d́u dắt và hỗ trợ nó dưới dưới sự ngự trị của các Định luật Vũ trụ vĩ đại thay mặt cho Ư chí của Đấng Bất Diệt.
Nhưng làm thế nào, người ta sẽ hỏi như vậy, để được vào đó? Làm thế nào sự khát khao mong mỏi kiến thức có thể nói họ biết rằng y đang ao ước được chỉ dẫn?
Một lần nữa, chỉ bởi những phương pháp được kính chuộng từ muôn đời. Không có loại chứng chỉ mới nào không gây rắc rối có thể khiến một người được trở thành học viên của Ngôi trường đó – không có con đường hoàng gia dẫn đến sự hiểu biết đạt được nơi đó. Ngày nay, cũng như trong khói mù của thời xa xưa, người nào muốn thu hút sự chú ư của Họ phải bước vào con đường chậm chạp và gian truân của sự tự phát triển – phải học trước hết cách chế ngự bản thân và trở thành người mà y nên trở thành. Các bước tiến trên con đường có không có ǵ bí mật; tôi đă nói chi tiết về chúng trong From those who are pressing into this path the great Masters select their pupils, và chỉ bằng cách làm cho bản thân xứng đáng được dạy bảo mà một người có thể được dạy bảo. Không có phẩm chất xứng đáng, tư cách thành viên của bất kỳ Hội hay Tổ chức nào, dù bí mật hay không, sẽ không giúp ích ǵ cho mục tiêu của y dù chỉ là một chút. Đúng là, như tất cả chúng ta đều biết, theo đề nghị của một số những vị Chân Sư này mà Hội Theosophia đă được thành lập, và trong hàng ngũ của nó một số người đă được chọn ra để có liên hệ mật thiết hơn với họ. Nhưng sự lựa chọn đó dựa trên sự nhiệt thành của ứng viên, chứ không phải v́ y là thành viên của Hội hay v́ bất cứ ai trong đó.
ư kiến của nn: không phải chỉ Hội Theosophia mà tất cả các tôn giáo trên đời cũng đều từ Great White Brotherhood of Adept mà ra, các hội kín như Hội Tam Điểm cũng vậy. V́ vậy mà chân lư được các tôn giáo đưa ra đều hoàn toàn giống nhau .
Sửa lại bởi nickname : 07 July 2009 lúc 8:01am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 19 of 73: Đă gửi: 07 July 2009 lúc 9:38am | Đă lưu IP
|
|
|
V́ vậy, đó là cách duy nhất an toàn để phát triển thông nhăn – đi bằng tất cả nghị lực trên con đường tiến hóa tinh thần và trí tuệ, đến một giai đoạn năng lực này và những năng lực cao hơn nữa sẽ tự động bắt đầu biểu lộ. Tuy vậy vẫn c̣n một cách thực hành được chỉ dẫn giống nhau bởi tất cả các tôn giáo – nếu được làm theo một cách cẩn thận và cung kính có thể không gây tác hại nào, nhưng từ đó một loại nhăn thông rất thuần khiết đôi khi được phát triển và đó là sự thực hành thiền định.
Một người hăy chọn một giờ nhất định mỗi ngày – một thời điểm mà y có thể chắc chắn là yên tĩnh và không bị quấy nhiễu, mặc dù ban ngày tốt hơn ban đêm – và tại thời điểm đó y giữ tâm trí hoàn toàn tự do khỏi mọi loại suy nghĩ trần tục trong vài phút và, khi đạt đến đó, hướng toàn bộ năng lượng trong sự sống của y về lư tưởng tinh thần cao cả nhất mà y biết được.Y sẽ nhận ra rằng để đạt được sự kiểm soát tư tưởng hoàn hảo thật sự là vô cùng khó khăn so với những ǵ y nghĩ, nhưng khi đạt được nó, nó không thể khác hơn là điều hữu ích nhất đối với y, và khi y phát triển hơn và dễ dàng nâng cao và tập trung tư tưởng hơn, y sẽ từ từ nhận ra rằng những thế giới mới đang mở ra trước mắt y.
[Như một sự rèn luyện sơ khởi cho thành tựu tốt đẹp của việc tham thiền đó, y sẽ thấy rất nên thực hành sự tập trung trong những công việc thường ngày – ngay cả trong việc nhỏ nhất. Nếu y viết một lá thư, đừng nghĩ ǵ khác ngoài lá thư đó cho đến khi nó được hoàn thành; nếu y đọc một quyển sách, hăy nh́n thấy rằng tư tưởng của y không bao giờ được phép lang thang ra khỏi những ǵ tác giả muốn nói. Y phải học cách kiểm soát tư tưởng, và làm chủ nó hoàn toàn, cũng như các cảm xúc thấp hơn; y phải lao động cần cù để đạt được sự kiểm soát hoàn toàn về tư tưởng, từ đó y sẽ luôn biết chính xác ḿnh đang nghĩ ǵ, và tại sao – nhờ đó y có thể sử dụng tâm trí, điều chỉnh hay giữ yên nó, như một kiếm sĩ kinh nghiệm điều khiển vũ khí theo ư muốn]
Dù sao, cuối cùng th́, nếu những ai tha thiết ham muốn thần nhăn có thể sở hữu nó tạm thời trong một ngày hay thậm chí là một giờ, chắc chắn là họ sẽ chọn để được giữ lại khả năng đó. Thật vậy, nó mở ra trước mắt họ những thế giới mới của tri thức, những sức mạnh mới đầy hữu ích, và với nguyên nhân sau này hầu hết chúng ta đều cảm thấy nó đáng giá; nhưng nên nhớ rằng với một người mà bổn phận sống nơi thế gian vẫn c̣n kêu gọi th́ nó hoàn toàn không phải là một phúc lành thuần túy. Nơi người mà nhăn quan đă khai mở, kẻ đau đớn và người bất hạnh, kẻ xấu xa và người giàu sang đè lên họ như một gánh nặng hằng hữu, cho đến khi trong những ngày hiểu biết sau đó (nguyên văn until in the earlier day, nn nghĩ có thể trang web in sai?) y thường cảm thấy bị thôi thúc muốn lặp lại lời cầu khẩn tha thiết trong những ḍng thơ cuộn trào của Schiller:
Dein Orakel zu verkünden, warum warfest du mich hin In die Stadt der ewing Blinden, mit dem augfeschloss'nen Sinn? Frommt's, den Schleier aufzuheben, wo das name Schreckniss droht? Nur der Irrthum ist das Leben; dieses Wissen ist der Tod. Nimm, O nimm die trau'ge Karlheit mir vom Aug' den blut'gen Schein! Schrecklich ist es deiner Wahrheit sterbliches Gefäss zu seyn!
which may perhaps be translated,
"Why hast thou cast me thus into the town of the ever-blind, to proclaim thine oracle by the opened sense? What profits it to lift the veil where the near darkness threatens? Only ignorance is life; this knowledge is death. Take back this sad clear-sightedness; take from mine eyes this cruel light! It is horrible to be the mortal channel of thy truth"
Và sau đó y thét lên lần nữa,
"Trả lại đây sự đui mù, bóng tối hạnh phúc ôi giác quan của tôi; lấy lại đi món quà đáng sợ của người đi!".
Sửa lại bởi nickname : 07 July 2009 lúc 10:01am
|
Quay trở về đầu |
|
|
nickname Hội viên
Đă tham gia: 05 November 2008
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 247
|
Msg 20 of 73: Đă gửi: 08 July 2009 lúc 2:49am | Đă lưu IP
|
|
|
Nhưng dĩ nhiên đây là một cảm giác sẽ qua đi, khi mà nhăn quan cao hơn sẽ sớm chỉ cho người học viên thấy vài điều vượt xa nỗi thống khổ - linh hồn y sẽ sớm ngập tràn sự chắc chắn rằng, bất cứ điều ǵ hiện ra dưới đây dường như đều cho thấy điều đó, mọi thứ, không c̣n nghi ngờ ǵ nữa, đang làm việc cùng nhau v́ điều tốt đẹp sẽ đến. Y suy ngẫm rằng kẻ tội lỗi và kẻ thống khổ vẫn ở đó, dù y có khả năng hiểu được họ không, và khi y có thể hiểu rơ họ, y có thể giúp đỡ họ tốt hơn là nếu y làm việc trong bóng tối; và v́ vậy, dưới nhiều mức độ, y học được cách gánh vác một phần nghiệp quả nặng nề của thế giới.
Một vài người lạc lối, có được may mắn sở hữu một phần nhỏ của năng lực này, nhưng lại hoàn toàn không có hiểu biết đúng đắn về nó khi dùng nó cho những mục đích hèn hạ nhất – đến mức tự quảng cáo như những “nhà thông nhăn thực sự và được kiểm chứng”. Không cần thiết phải nó, việc sử dụng năng lực như vậy chỉ là một sự bán rẻ và hạ nhục nó, cho thấy rằng người sở hữu thiếu may mắn đă bằng cách nào đó nắm được nó trước khi mặt đạo đức nằm trong bản chất y được phát triển thích đáng để có thể chịu được sức căng mà nó gây ra. Sự ư thức về lượng nghiệp quả xấu có thể được tạo ra bởi hành động như vậy sẽ rất nhanh chóng biến sự ghê tởm của một người thành sự thương hại cho kẻ bất hạnh đă làm điều báng bổ rồ dại đó.
Đôi khi người ta phản đối rằng việc sở hữu nhăn thông phá bỏ mọi sự riêng tư, và tạo ra khả năng vô hạn khám phá các bí mật của người khác. Không nghi ngờ ǵ nó sẽ tạo ra một khả năng như vậy, tuy nhiên sự gợi ư đó khá là buồn cười với những ai thực sự có hiểu biết về vấn đề. Một sự phản đối như vậy có thể có cơ sở đối với những năng lực rất hạn chế của “nhà thông nhăn thực sự và được kiểm chứng”, nhưng người dùng nó để chống lại những người đă có năng lực rộng mở trong khi được dạy bảo, và từ đó sở hữu nó đầy đủ, đă quên mất ba điều: thứ nhất, thực sự là không thể hiểu được nếu bất kỳ ai, có trước mắt y cả một vùng trời kỳ vĩ để học hỏi mà những nhà thần nhăn thực sự đều nh́n thấy, lại có thể có khi nào muốn ṭ ṃ những bí mật tạp nhạp nho nhỏ của người khác; thứ hai, ngay cả nếu bởi một sự t́nh cờ không thể xảy ra mà nhà thần nhăn của chúng ta có sự ṭ ṃ khiếm nhă như vậy về những chuyện tầm phào lặt vặt, th́, sau cùng, một thứ như là danh dự của một quư ông, cái mà, trên cơi giới đó cũng như tại đây, chắc chắn sẽ ngăn cản y nghĩ về, dù trong giây lát, ư tưởng về việc thỏa măn nó; và thứ ba, trong một khả năng chưa từng nghe nói đến, một người có thể gặp phải một pitri bậc thấp mà với ngài những lư do trên là vô nghĩa, những chỉ dẫn đầy đủ luôn được đưa đến mọi học viên, ngay khi y phát triển bất cứ dấu hiệu nào về năng lực này, cho đến giới hạn được đặt ra trong việc sử dụng nó.
Sửa lại bởi nickname : 08 July 2009 lúc 2:49am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|