Tác giả |
|
thaicuc Hội viên
Đă tham gia: 12 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 119
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 8:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
Bậc đáng được nhận sự cúng dường của chư thiên và loài người.
Ân đức Ứng cúng - Araham có 4 nghĩa:
1. Đức Phật là bậc đă xa ĺa và đoạn tuyệt mọi kẻ thù là phiền năo.
2. Đức Phật là bậc đă phá hủy ṿng luân hồi trong ba giới bốn loài.
3. Đức Phật là bậc không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo.
4. Đức Phật là bậc xứng đáng thọ nhận lễ bái cúng dường.
I. ĐỨC PHẬT LÀ BẬC ĐĂ XA L̀A VÀ ĐOẠN TUYỆT MỌI KẺ THÙ LÀ PHIỀN NĂO:
Từ Araham có nhân tố ari. Ari có nghĩa là kẻ thù. Và kẻ thù phá hoại sự an lạc của chúng sanh chính là phiền năo. Phiền năo (Kilesa) là những tâm sở bất thiện đồng sanh với những tâm bất thiện làm cho thân tâm nóng nảy, khó chịu, khổ thân, khổ tâm; phiền năo c̣n làm cho tâm, tâm sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ư, đề rồi chịu quả khổ trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai.
A. Mười Loại Phiền Năo Chính:
1. Tham (Lobha): Tâm sở tham đồng sanh với tâm tham có trạng thái ham muốn, vừa ḷng, dính mắc và say mê trong đối tượng.
2. Sân (Dosa): Tâm sở sân đồng sanh với tâm sân, có trạng thái hung dữ, tàn bạo, nóng nảy, ưu phiền, không vừa ḷng với đối tượng.
3. Si (Moha): Tâm sở si đồng sanh với tất cả tâm bất thiện, có trạng thái si mê, lầm lạc, không biết thực tánh của các pháp.
4. Tà kiến (Ditthi): Tâm sở tà kiến, đồng sanh với tâm tham hợp với tà kiến, có trạng thái thấy sai, chấp lầm ở đối tượng.
5. Ngă mạn (Mana): Tâm sở ngă mạn đồng sanh với tâm tham không hợp với tà kiến, có trạng thái so sánh "Ta" hơn người, bằng người, kém hơn người.
6. Hoài nghi (Vicikiccha): Tâm sở hoài nghi đồng sanh với tâm si, có trạng thái hoài nghi ở đối tượng.
7. Buồn chán (Thina): Tâm sở buồn chán, uể oải, buồn ngũ, đồng sanh với tâm tham, tâm sân, cần sự động viên, có trạng thái không hăng hái, buông bỏ đối tượng.
8. Phóng tâm (Uddhacca): Tâm sở phóng tâm đồng sanh với tâm bất thiện, có trạng thái không an trụ ở đối tượng.
9. Không hổ thẹn (Ahirika): Tâm sở không hổ thẹn đồng sanh với tâm bất thiện, có trạng thái không biết hổ thẹn tội lỗi khi làm điều ác.
10. Không ghê sợ (Anottappa)ï: Tâm sở không ghê sợ đồng sanh với tâm bất thiện, có trạng thái không biết ghê sợ tội lỗi khi làm điều ác.
Trong 10 loại phiền năo nầy, có 3 phiền năo trọng đại: Tham lam (Lobho) là pháp làm cho tâm dính mắc. Sân hận (Doso) là pháp làm cho tâm nóng nảy ưu phiền. Si mê (Moha) là pháp làm cho tâm lầm lạc. Ba phiền năo nầy là nguồn cội của tất cả phiền năo khác, ví như một cây to có 3 nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp bốn phía.
B. Ba Loại Phiền Năo Xếp Theo Mức Độ:
1. Phiền năo loại thô (Vitikkamakilesa): Phiền năo loại thô thể hiện ra ở những hành động ác của thân và những lời nói ác của khẩu. Loại phiền năo nầy có thể diệt bằng cách tŕ giới, giữ ǵn giới cho thân và khẩu được trong sạch, và diệt từ từ với thời gian.
2. Phiền năo loại trung (Pariyutthanakilesa): Phiền năo loại trung phát sanh ở trong tâm, làm cho tâm cảm thấy khó chịu, khổ tâm, và ngăn cản mọi thiện pháp. Loại phiền năo này có thể diệt bằng cách hành thiền chỉ (Samatha). Khi chứng đắc bậc thiền, hành giả có thể diệt bằng cách đè nén, chế ngự được loại phiền năo này.
3. Phiền năo vi tế (Anusayakilesa): Phiền năo vi tế ẩn tàng ngấm ngầm trong tâm thức, không hiện rơ. Loại phiền năo nầy chỉ có thể diệt bằng cách hành thiền minh sát (Vipassana). Khi chứng đắc Thánh Đạo Tuệ, hành giả mới có thể đoạn tuyệt được loại phiền năo nầy.
C. 1.500 Loại Phiền Năo Tính Rộng:
10 loại phiền năo vừa kể trên, khi chúng liên quan đến đối tượng làm nhân duyên để phát sinh phiền năo, tạo thành 1.500 loại phiền năo.
1.500 loại phiền năo được tính như sau đây:
Có 75 pháp làm đối tượng của phiền năo: Tâm (Lokiyacitta) là 1 pháp v́ cùng có một trạng thái biết đối tượng. Tâm sở (Citasika) là 52 pháp v́ mỗi tâm sở có một trạng thái riêng biệt. Sắc (Rupa) có 18 pháp (đất, nước, gió, lửa, nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc, nữ căn, nam căn, tâm chất, mạng căn, gọi chung là Nipphanna rupa) hiện hữu thật rơ ràng. Trạng thái của sắc có 4 pháp: Hư không (Akasa), Sanh (Jati), Già (Jara)ø, Tiềm thức (Bhavanga). Như vậy 1 + 52 + 18 + 4 = 75 pháp có thể làm đối tượng của phiền năo.
75 pháp này làm đối tượng của phiền năo ở bên trong ḿnh, là kẻ thù bên trong. 75 pháp này làm đối tượng của phiền năo ở bên ngoài ḿnh, là kẻ thù bên ngoài. Đối tượng của phiền năo bên trong ḿnh có 75 pháp và bên ngoài ḿnh có 75 pháp gồm lại thành cả thảy 150 pháp, nhân với 10 loại phiền năo (Tham, Sân, Si, Kiêu mạn, Nghi ngờ, Tà kiến, Buồn chán, Phóng tâm, Không hổ thẹn, Không ghê sợ) 150 x 10 = 1.500 loại phiền năo.
Thật ra, chỉ có 10 phiền năo bên trong tâm bất thiện của ḿnh mới trực tiếp làm khổ ḿnh, c̣n phiền năo bên ngoài của người khác không trực tiếp làm khổ ḿnh được, nếu ḿnh không tiếp nhận. Thí dụ, người ta mắng chưởi, đánh đập ḿnh. Nếu ḿnh có tâm nhẫn nại, không sân hận, phiền năo không sanh, th́ ḿnh không bị khổ tâm. Nếu tâm phiền năo sân hận phát sanh, th́ chính phiền năo bên trong ḿnh làm cho ḿnh khổ tâm, hoàn toàn không phải phiền năo bên ngoài của người khác làm cho ḿnh khổ tâm.
C̣n phần khổ thân thuộc về quả của nghiệp th́ không một ai tránh khỏi, dầu là Đức Phật hay chư bậc A La Hán. Đức Phật và bậc Thánh A La Hán diệt đoạn tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền năo rồi, nên hoàn toàn không c̣n khổ tâm nữa. Nhưng c̣n sắc thân, các ngài vẫn c̣n khổ thân cho đến khi hết tuổi thọ tịch diệt Niết bàn, chấm dứt sinh tử luân hồi trong ba giới bốn loài. Khi ấy mới thật là giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ.
D. 108 Loại Tham Ái:
Nghiệp được dẫn dắt bởi Tham ái (Tanha). Tham ái là tâm sở tham (lobha cetasika). Có tất cả là 108 loại tham ái. Cách tính 108 loại tham ái dựa trên 6 đối tượng, 3 tính chất, 2 bên, và 3 thời như sau:
1. Sáu đối tượng của tham ái là:
- Sắc ái: Sắc trần là đối tượng của tham ái.
- Thanh ái: Thanh trần là đối tượng của tham ái.
- Hương ái: Hương trần là đối tượng của tham ái.
- Vị ái: Vị trần là đối tượng của tham ái.
- Xúc ái: Xúc trần là đối tượng của tham ái.
- Pháp ái: Pháp trần là đối tượng của tham ái.
2. Ba tính chất của tham ái là:
- Ái dục (Kamatanha): Tham ái đắm ch́m trong 6 cảnh trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- Ái hữu (Bhavatanha): Tham ái trong 6 cảnh trần hợp với thường kiến và tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, trong cơi sắc giới, cơi vô sắc giới.
- Ái phi hữu (Vibhavatanha): Tham ái trong 6 cảnh trần hợp với đoạn kiến.
4. 2 bên của tham ái là:
- Bên trong: Tham ái phát sinh bên trong ḿnh.
- Bên trong: Tham ái phát sinh bên ngoài người khác.
5. 3 thời gian của tham ái là:
- Quá khứ: Tham ái phát sinh ở thời quá khứ.
- Hiện tại: Tham ái phát sinh ở thời hiện tại.
- Vị lai: Tham ái phát sanh ở thời vị lai.
Như vậy, tham ái phát sanh cho 6 đối tượng, nhân với 3 tính chất, 2 bên, và ba thời thành 108 loại (6 x 3 x 2 x 3 = 108). Tham ái nầy là nhân phát sinh cái khổ của sự tái sinh, dẫn đến khổ già, khổ bệnh, khổ chết và bao nhiêu nỗi thống khổ khác không sao kể xiết được.
E. Một Số Loại Phiền Năo Khác:
1. Pháp trầm luân (Asava hay cankers): Có 3 loại: Trầm luân trong ngũ dục (Kamasava), trầm luân trong kiến thức hay tà kiến (Ditthasava), trầm luân trong vô minh (Avijjasava).
2. Điều lầm lạc (Vipallasa hay perversions): Có 3 loại: Tư tưởng lầm lạc (sannavipallasa), Tâm lầm lạc (Cittavipallasa), Kiến thức lầm lạc (Ditthivipallasa) xem những ǵ vô thường là thường, đau khổ là hạnh phúc, vô ngă là ngă, bất tịnh là tịnh.
3. Pháp ngũ ngầm (Anusaya): Có 7 loại: T́nh dục ngũ ngầm (Kamaraganusaya), Tà kiến ngũ ngầm (Ditthanusaya), Sân hận ngũ ngầm (Patighanusaya), Hoài nghi ngũ ngầm (Vicikiccha), Ngă mạn ngũ ngầm (Mananusaya), Ái hữu ngũ ngầm (Bhavaraganusaya), Vô minh ngũ ngầm (Avijjanusaya).
4. Tư vị và đi sai đường (Agati): Có 4 loại: Tư vị v́ thương (Chandagati), Tư vị v́ giận ghét (Dosagati), Tư vị v́ si mê (Mohagati), Tư vị v́ sợ (Bhayagati).
5. Điều ràng buộc (Gantha): Có 4 loại: Ràng buộc thân sắc trong sự thèm muốn (Abhijjhakaya gantha), Ràng buộc tâm trong sự thù oán và mong hại người (Byapadakaya gantha), Ràng buộc v́ tập quán và chấp lễ cúng tế (silabbattaparamasakaya gantha), Ràng buộc v́ chấp ư kiến của ta là chơn chánh, chắc thật, c̣n ư của người khác là sai lầm (Idamsaccbhinivesakaya gantha).
6. Vực thẳm, bảo táp, hay nạn hồng thủy (Ogha): Có 4 loại: Cơn băo ngũ dục (Kamaogha), cơn băo tam giới (Bhavogha), cơn băo tà kiến (Ditthogha), Cơn băo vô minh (avijjogha).
7. Cố chấp (Upadana): Có 4 loại: Cố chấp trong ngũ dục (Kamupadana), Cố chấp trong kiến thức hay tà kiến (Dittupadana), Cố chấp trong tập quán, trong lễ cúng tế thần thánh (Silabbattupadana), Cố chấp trong thân này có bản ngă (Attavadupadana).
8. Bỏn xẻn (Macchariya): Có 5 loại: Bỏn xẻn về chỗ ở (Avasa macchariya), Bỏn xẻn về gia quyến, môn đồ, đảng phái (Kula macchariya), Bỏn sẻn về sự khen tặng và sắc tốt (Vanna macchariya), Bỏn sẻn về lợi lộc (Labha macchariya), Bỏn sẻn về giáo pháp (Dhamma macchariya).
9. Pháp thế gian (Lokadhamma): Có 8 loại: Được nhận lợi lộc và của cải (Labho), Mất lợi lộc và của cải (Alabho), Được danh vọng, nổi tiếng (Yaso), Mất danh vọng và tiếng tăm (Ayaso), Bị chê bai, phỉ báng, soi mói lỗi lầm, làm cho nhục nhă (Ninda), Được khen hoặc làm cho sung sướng (Pasamsa), Được vui vẻ (Sukha), Bị khổ (Dukkho).
10. Pháp nhơ bẩn (Mandila): Có 9 loại: Hờn giận (Kodha), Vong ơn bội nghĩa (Makkha), Issa (ganh tỵ), Bỏn xẻn (Macchariya), Làm bộ, giả dối (Maya), Khoe khoang (Satheyya), Nói láo (Musa), Tham muốn những điều xấu xa tội lỗi (Papiccha), Tà kiến (Micchaditthi).
11. Pháp tà vạy (Micchatta Dhamma): Có 10 loại: Tà kiến (Micchaditthi), Tà tư duy (Miccha sankappo), Tà ngữ (Miccha vaca), Tà nghiệp (Miccha Kammanto), Tà tinh tấn (Miccha vayamo), Tà niệm (Miccha sati), Tà định (Miccha samadhi), Tà huệ (Miccha nanam), Miccha vimutti (Tà giải thoát).
12. Nghiệp ác (Akusalakammapatha): Có 10 loại và c̣n gọi là Thập ác: Sát sanh (Panatipato), Trộm cắp (Adinnadanam), Tà dâm (Kamesu micchacaro), Nói dối (Musavado), Nói đâm thọc (Pisunavaca), Nói lời độc ác, chưởi rủa (Pharusavaca), Nói lời vô ích, viễn vong (Samphappalapo), Tham lam (Abhijjha), Thù oán mong hại người (Byapada), Tà kiến (Micchaditthi).
13. Pháp thằng thúc (Samyojana): Có 10 loại: Thân kiến (Sakkayaditthi), Hoài nghi về nhân quả (Vicikiccha), Chấp theo lễ cúng tế thần thánh, chấp theo tập quán (giới cấm thủ) (Silabbataparamasa), Vui thích t́nh dục (Kamachanda), Thù oán mong hại người (Byapada), Mê thích trong cảnh sắc (Ruparaga), Vui thích cảnh vô sắc (Aruparaga), Ngă mạn, cống cao (Mana), Phóng tâm (Uddhacca), Vô minh (Avijja).
14. Tâm ác (Akulasacittuppada): Có 12 loại: 8 tâm san tham (Lobhamula), 2 tâm sân hận (Dosamula), 2 tâm si mê (Mohamula).
F. Tiền Khiên Tật (Vasana):
Đức Bồ tát Siddharttha không những đă diệt đoạn được tất cả 1.500 loại phiền năo, 108 loại tham ái mà c̣n có khả năng tận diệt được mọi tiền khiên tật (vasana) do tích lũy từ vô lượng kiếp ở quá khứ.[ii] Cho nên, mỗi hành vi cử chỉ đi, đứng, ngồi, nằm, nói năng của Đức Phật không thể nào có thể chê trách được.
Bậc Thánh Thanh Văn A La Hán chỉ có khả năng diệt đọn được 1.500 loại phiền năo và 108 loại tham ái mà thôi, chứ không thể diệt hết tiền khiên tật. Ngài Xá Lợi Phất, người đă đắc quả A la hán và là một trong các đệ tử lớn của Phật làm thí du,ï khi đi tŕ b́nh, có thói quen nhảy qua các ḍng suối hay vũng nước nhỏ v́ một trong những kiếp trước của ngài, ngài đă từng là khỉ. Thói quen nhảy tới nhảy lui của khỉ vẫn c̣n sót lại trong bản chất của ngài. Ngài Pilindavaccha, một vị A la hán sống cùng thời với Đức Phật. Trong liên tục hơn năm trăm kiếp, ngài Pilindavaccha đă được sinh ra trong một họ tộc Bà La Môn rất kiêu ngạo và khinh người. Họ tộc nầy xem tất cả người ngoại tộc là vô lại và thường gọi những người phục vụ là "Tên vô lại nầy" hay "Kẻ du thủ du thực kia". V́ chưa hoàn toàn loại trừ được những vết tích của tâm kiêu ngạo nầy, nên dù không cố ư và đă đắc quả A La Hán, ngài Pilindavaccha vẫn vô ư phạm phải lỗi này. Lỗi của ngài không phải xuất phát từ tâm kiêu mạn của người quư tộc mà là từ một thói quen được lập đi lập lại nhiều lần trong quá khứ.[iii]
Tóm lại, Đức Bồ tát Siddharttha diệt đoạn được tất cả 1.500 loại phiền năo, 108 loại tham ái không c̣n dư sót, hoàn toàn quét sạch tất cả các tiền khiên tật c̣n sót lại trong tâm bằng 4 Thánh Đạo Tuệ dưới cội Bồ Đề vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch) trở thành bậc Chánh Đẳng Giác độc nhất vô nhị đầu tiên trong toàn thế giới chúng sanh. V́ thế, Ngài có được ân đức Araham hay Ứng Cúng--Bậc đáng cho chư thiên và loài người đănh lễ và cúng dường.
II. ĐỨC PHẬT LÀ BẬC ĐĂ PHÁ HỦY V̉NG LUÂN HỒI TRONG BA GIỚI BỐN LOÀI:
Định nghĩa nầy dựa trên 2 nhân tố của từ Araham: Ara có nghĩa là nan hoa của bánh xe và Hata là người bẻ găy. Sở dĩ bánh xe luân hồi tiếp tục lăn được là nhờ sự chống đỡ của những nan hoa được cấu trúc theo ṿng tṛn giống như những cánh hoa chung quanh trục của bánh xe. Bẻ găy những nan hoa nầy, bánh xe hoàn toàn mất tác dụng.
A. Bánh Xe Luân Hồi:
Trong đạo Phật, biểu tượng Bánh xe luân hồi (Samsaracakka) có những ư nghĩa như sau:
- Vô minh và ái hữu (avijja) làm đùm xe hay trục của bánh xe.
- 3 pháp hành (sankhara) là hành thiện (punnabhi sankhara), hành ác (apunnabhi sankhara), hành điềm tỉnh, không lay động (anenjabhi sankhara) trong cơi dục giới và sắc giới là những nan hoa hay căm xe. - 29 tác ư (cetana) là 12 tác ư ác (akusala cetana), 8 tác ư đại thiện (mahakusala), 5 tâm lành trong sắc giới (Rupavacara kusala), 4 tâm lành trong Vô sắc giới (Arupavacara jusala) làm đầu nan hoa hay căm xe tra vào đùm.
- Những tác ư tạo nghiệp ác là những nan hoa của bánh xe lăn trong 4 cơi ác (Apaya).
- Những tác ư tạo nghiệp thiện sẽ là những nan hoa của bánh xe lăn trong cơi vô sắc giới.
- Khi những hành động tạo nghiệp nầy sinh khởi, chúng sẽ khởi động và thúc đẫy cổ xe lăn bánh.
- Năng lực phát sinh từ những hành động tạo nghiệp nầy sẽ được chuyển ra phía bên ngoài vành bánh xe mà đạo Phật cho là sẽ dẫn đến sự già (Jara) và sự chết (Maranam).
Tóm lại, vô minh được ví như cái đùm xe v́ là nơi quy hội của các nhân duyên. Sự già và sự chết được ví như vành xe v́ hằng lăn tṛn đi tới và đưa chúng sanh từ cảnh nầy đến cảnh khác. Ba pháp hành ví như căm bánh xe v́ bị sự sanh và sự chết bao chung quanh.
Khi bánh xe ấy được ráp vào thùng xe là Tam giới, nó sẽ là bánh xe luân hồi. Sự sống trong ba cơi dục giới, sắc giới, và vô sắc giới được mô tả như là "thùng xe" v́ tam giới là nơi sanh và trú của chúng sanh. Sự sinh khởi không ngừng nghỉ của năm uẩn (khanda), 6 căn (ayatana) và 6 trần được xem như là "bánh xe" của cỗ xe ngựa luân hồi sinh tử nầy. Bốn pháp trầm luân (Asava) gồm trầm luân trong ái dục hay ngủ trần (Kamasavo), trầm luân trong tam giới (Bhavasavo), trầm luân trong kiến thức (Ditthasavo), trầm luân trong vô minh (Avijjasavo) ví như cái gọng xe v́ các pháp ấy là chủ động, hằng lôi kéo chúng sanh đến chỗ sanh và chỗ diệt.
Muốn chấm dứt luân hồi sinh tử, không có cách nào khác là phá đi năng lực khởi động bánh xe, nói khác đi là chặt đứt những nan hoa của bánh xe mà thực chất là những hành động tạo nghiệp thiện hoặc bất thiện xuất phát từ tâm thức của chúng sanh. Đức Phật đă làm việc nầy bằng cách đứng vững vàng trên hai chân là Sự tinh tấn (Viriya), trên mặt đất bằng phẳng là Giới (Sila), dùng hai tay là Đức Tin (Saddha) cầm cây gươm bén là Trí tuệ (Panna) chặt ră, phá tan từng mảnh cái xe luân hồi ấy dưới cội bồ đề, từ đây không c̣n chở Ngài quanh quẩn trong ba cơi, sáu đường được nữa.[iv]
B. Pháp Thập Nhị Duyên Sanh:
1. Nhân quả liên quan:
Ṿng luân hồi cũng là tượng trưng của pháp "Thập nhị nhân duyên" gồm 12 chi:
- Do vô minh làm duyên, nên hành sanh.
- Do hành làm duyên, nên thức sanh.
- Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh.
- Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh.
- Do lục nhập làm duyên, nên lục súc sanh.
- Do lục súc làm duyên, nên lục thọ sanh.
- Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh.
- Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh (Tứ thủ là thủ về ngũ dục, thủ về kiến thức, thủ về nghi lễ cúng tế, thủ rằng có ta).
- Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh (Nhị hữu là hữu nghiệp kammabhava và hữu sanh uppattibhava).
- Do nhị hữu làm duyên, nên tái sanh sanh.
- Do tái sanh làm duyên, nên lăo tử ... sanh
Từ vô minh đến lăo tử gồm 12 chi pháp. Pháp nầy làm duyên để sanh pháp kia là quả; pháp quả ấy trở lại làm duyên để sanh pháp quả khác, và cứ như vậy duyên quả liên hoàn với nhau thành ṿng luân hồi, không có chỗ bắt đầu và cuối cùng. Như vậy vô minh là nhân duyên của quá khứ, không phải là nhân bắt đầu, v́ vô minh c̣n là quả của 4 pháp trầm luân. Như Đức Phật dạy: "Asavasamudaya avijjasamudayo..." (Do có sự sanh của bốn pháp trầm luân, nên có sự sanh của vô minh).
2. Tam Luân:
Ṿng luân hồi thập nhị nhân duyên sanh này phân chia làm Tam luân, chuyển biến theo chiều hướng nhất định:[v]
- Phiền năo luân: Gồm có vô minh, lục ái và tứ thủ.
- Nghiệp luân: gồm có nghiệp hữu và hành.
- Quả luân: gồm có cảnh hữu, thức, danh sắc, lục nhập, lục xúc, lục thọ, sanh, lăo tử.
Theo ṿng luân hồi th́ không thể biết được chỗ bắt đầu và chỗ cuối cùng, nên chỉ nhận biết theo định luật nhân quả, mà nhân quả theo pháp thập nhị duyên sanh, th́ mỗi chi pháp không thuần chỉ là nhân, là quả, mà sự thật, mỗi chi pháp là quả của pháp trước, trở lại làm nhân duyên của pháp sau, và cứ tiếp tục như vậy theo định luật nhân quả liên hoàn tiếp nối với nhau thành ṿng luân chuyển không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thủy đến vô chung, trong ṿng sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài; thường chỉ có thể thấy rơ sự thay đổi về phần sắc thân hay gọi là sắc uẩn mà thôi; c̣n về tâm gọi là danh uẩn có 4 uẩn (thọ, tưởng, hành, thức) liên quan nhân duyên sanh rồi diệt, diệt rồi sanh liên tục không ngừng từ đời nầy sang đời khác, từ vô thủy đến vô chung đối với chúng sinh c̣n vô minh và tham ái.
Ṿng luân hồi "Thập nhị duyên sanh" luân chuyển, biến đổi theo ba luân: Phiền năo luân--Nghiệp luân -- Quả luân -- Phiền năo luân...
a. Phiền năo luân khiến tạo nghiệp luân:
Chúng sanh c̣n vô minh, lục ái, tứ thủ làm nhân duyên khiến tạo nên thiện nghiệp, bất thiện nghiệp do thân, khẩu, ư.
(1) Phiền năo làm nhân duyên tạo thiện nghiệp:
Số chúng sinh do vô minh không biết rơ chân lư Tứ Thánh Đế, không biết khổ của ngũ uẩn, do đó, muốn hưởng sự an lạc tạm thời nên tạo mọi thiện nghiệp như: Dục giới thiện nghiệp cho quả an lạc ở cơi dục giới. Sắc giới thiện nghiệp cho quả an lạc ở cơi sắc giới. Vô sắc giới thiện nghiệp cho quả an lạc ở cơi vô sắc giới. Sự an lạc trong cơi tam giới nầy không phải là chân lư, mà chúng chỉ có tính cách tạm thời tùy theo năng lực của thiện nghiệp ấy.
(2) Phiền năo làm nhân duyên tạo bất thiện nghiệp:
Số chúng sanh do vô minh không biết rơ bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả khổ ở kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp ở vị lai. Và cũng có số chúng sanh dầu nghe hiểu biết bất thiện nghiệp cho quả khổ như vậy, nhưng v́ vô minh, tham ái, có nhiều năng lực quá, nên xui khiến tạo mọi bất thiện nghiệp bằng thân như: sát sanh, trộm cắp, tà dâm; bằng lời nói như nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích; bằng ư như tham lam, thù hận, tà kiến.
Như vậy gọi là Phiền năo luân khiến tạo Nghiệp luân.
b. Nghiệp luân cho quả luân:
Chúng sanh c̣n phiền năo đă tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, th́ ắt phải thọ quả của thiện nghiệp, bất thiện nghiệp ấy.
Nếu thiện nghiệp cho quả, chúng sanh được thọ hưởng quả báu an lạc ở kiếp hiện tại và nhiều kiếp vị lai như sau:
(1) Quả báu ở kiếp hiện tại:
Mắt được nh́n thấy những h́nh ảnh đáng hài ḷng. Tai được nghe những âm thanh đáng hài ḷng. Mũi được ngửi những mùi đáng hài ḷng. Lưỡi được nếm những vị đáng hài ḷng. Thân được tiếp xúc êm ấm, đáng hài ḷng. Tâm được an lạc...
(2) Quả báu kiếp vị lai:
Dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, sẽ là người lục căn đầy đủ, giàu sang phú quư... hoặc tái sinh làm chư thiên ở trong 6 cơi trời dục giới, sẽ hưởng sự an lạc, sự sống lâu ở cơi trời ấy cho đến hết tuổi thọ. Sắc giới thiện nghiệp, đó là 4 bậc thiền hữu sắc, sẽ cho quả tái sinh làm phạm thiên trong 16 cơi trời sắc giới tùy theo bậc thiền sở đắc của ḿnh, và sẽ hưởng sự an lạc vi tế hơn ở cơi dục giới, sự sống lâu theo tuổi thọ của cơi trời sắc giới ấy. Vô sắc giới thiện nghhiệp, đó là 4 bậc thiền vô sắc, sẽ cho quả tái sinh làm phạm thiên có tứ uẩn (không có sắc uẩn) trong 4 cơi trời vô sắc giới tùy theo bậc thiền sở đắc của ḿnh và sẽ hưởng sự an lạc vi tế hơn ở cơi trời sắc giới, sự sống lâu theo tuổi thọ của cơi trời vô sắc giới ấy.
c. Quả luân sinh phiền năo luân:
Quả luân là sự hiện hữu của mỗi chúng sanh trong tam giới: chúng sinh có ngũ uẩn ở cơi dục giới và cơi sắc giới, hoặc chúng sinh có tứ uẩn (không có sắc uẩn) ở cơi vô sắc giới, hoặc chúng sinh có nhất uẩn là sắc uẩn (không có danh uẩn), ở cơi sắc giới Vô tưởng thiên. Tất cả chúng sinh này đều chưa diệt đoạn tuyệt được phiền năo, vô minh, tham ái..., cho nên khi có nhân duyên th́ phiền năo phát sanh, khiến tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp, rồi trở lại ṿng tam luân chuyển biến không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, từ vô thủy đến vô chung trong ṿng khổ sanh tử luân hồi trong ba giới bốn loài.
Ba luân nầy chuyển biến theo định luật nhân quả như: Phiền năo luân là Nhân - Nghiệp luân là quả ; Nghiệp luân là nhân - Quả luân là quả; Quả luân là nhân - Phiền năo luân là quả và tiếp tục như vậy thành ṿng tam luân.
Trong khi nhập đại định trọn 7 ngày đêm dưới cội bồ đề, Đức Phật đă xem xét thật vi tế sự sanh ra và sự diệt tắt của mỗi nhân duyên, xem thuận rồi xem nghịch, cho đến khi phát sanh trí tuệ thấy rơ các pháp hửu vi đều do nguyên nhân mà sanh ra, khi nguyên nhân bị diệt đi th́ các pháp ấy cũng diệt tắt theo. Khi thấy rỏ như thế rồi, Đức Thế Tôn diệt đoạn tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền năo, nhổ tận gốc rễ của vô minh và tham ái bằng 4 Thánh Đạo Tuệ. Từ đó, ṿng tam luân tan ră và Đức Phật trở thành bậc Araham với ư nghĩa là Ngài phá hủy ṿng luân hồi sanh tử trong ba giới bốn loài.
3. ĐỨC PHẬT LÀ BẬC KHÔNG BAO GIỜ HÀNH ĐIỀU ÁC Ở NƠI KÍN ĐÁO:
Giải thích nầy dựa trên 2 nhân tố gốc của từ Araham. A là không; Raha là xấu. Nơi kín đáo là nơi không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không có một ai nghi ngờ. Đối với người c̣n bất thiện tâm, nơi kín đáo là nơi dễ hành ác do thân, khẩu, ư v́ không sợ ai chê trách. Tuy nhiên đức Phật th́ khác. V́ đă hoàn toàn tận diệt được tất cả phiền năo, bất thiện tâm không c̣n nữa. Nên thân, khẩu, ư của ngài lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch thanh tịnh. Cho nên, dầu ở nơi kín đáo, không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, không một ai nghi ngờ, Đức Thế Tôn cũng không bao giờ hành ác do thân, khẩu, ư nữa.
Do đó, Đức Phật có ân đức Araham v́ ngài không bao giờ hành điều ác ở nơi khuất lấp.
4. ĐỨC PHẬT LÀ BẬC XỨNG ĐÁNG THỌ NHẬN SỰ LỄ BÁI CÚNG DƯỜNG CỦA CHƯ THIÊN VÀ NHÂN LOẠI:
Đức Thế Tôn là bậc cao thượng nhất trong tất cả thế giới chúng sinh. Thật vậy, trong toàn thế giới chúng sanh không có một người, một Sa môn, Bà La Môn, Chư thiên, Phạm thiên ... nào cao thượng hơn Đức Thế Tôn về Giới, Định, Tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Chỉ Đức Thế Tôn mới có đầy đủ 5 pháp: Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến hoàn toàn thanh tịnh mà thôi. V́ vậy, Đức Thế Tôn là bậc xứng đáng cho chúng sinh lễ bái cúng dường. Chúng sinh lễ bái cúng dường rồi, sẽ được quả báo cao quư, sự tiến hóa, sự lợi ích, sự an lạc lâu dài. Như Đức Phật dạy: "Này chư Tỳ kheo, bậc cao thượng nhất, khi xuất hiện trên thế gian để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho phần đông chúng sinh, để tế độ chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên. Bậc cao thượng độc nhất ấy là ai?
Bậc cao thượng độc nhất ấy chính là Như Lai, bậc Araham, bậc Chánh Đẳng Giác.
"Này chư Tỳ kheo, Như Lai là bậc cao thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho phần đông chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên"[vi]
Đức Phật có ân đức Araham với ư nghĩa là bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng sinh. Sự cúng dường ấy, ít hay nhiều, hèn hạ hoặc cao quư, thí chủ là bậc vua chúa oai quyền hoặc là hạng cùng đinh nghèo khó, đều được phước báo vô lượng nếu có đức tin vững chắc vào lư nhân quả và có tâm lành với đầy đủ 3 tác ư trong sự cúng dường. Đó là tác ư trong sạch đầu tiên toan tính sự dâng cúng (Pubbacetana), tác ư trong sạch khi dâng cúng (Munncana cetana), tác ư thỏa thích sau khi dâng cúng (Aparaparacetana).[vii]
Trong kinh Dipani có câu: "Tiddhante nibbute capisanam cettam samebhale" nghĩa là: "Khi Phật c̣n tại thế hay sau khi đă nhập Niết bàn rồi, nếu có thiện nhân nào, có tâm trong sạch đồng nhau cúng dường đến Phật cũng được phước báu như lúc Ngài c̣n tại thế vậy". Như thế, ta nên tin tưởng rằng dầu khi đức Thế Tôn c̣n tại thế, hay sau khi ngài nhập diệt rồi cũng vậy, quả phước phát sanh do sự cúng dường đến Ngài hoặc đến tháp thờ xá lợi của Ngài, cũng đồng nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và chú tâm lành trong sự phước thiện đồng nhau.
Trong kinh có chép lại rất nhiều sự tích về sự lễ bái cúng dường đức Thế Tôn. Từ các hàng Chư thiên, như Phạm thiên Sahamppati cúng dường Ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu Di, đức Đế Thích (Sakka), Tứ Đại Thiên Vương (Catumaharaja) v.v...; các bậc hoàng đế đồng thời với Ngài như vua Tần Bà Sa (Bimbisara), vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) v.v...; các bậc đại trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika) đă cúng dường Phật một khu viên lát bằng vàng và Visakha v.v... đến các hạng cùng đinh nghèo khổ như nàng Sumana Mala dâng bông lài, thầy Bà La Môn Culekasataka dâng khăn choàng v.v... Một thế kỷ sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, hoàng đế A dục (Asoka) xuất của kho ra 96 karof để xây 84 ngàn tu viện và thánh tháp khắp nơi trên vương quốc Jambuidipa[viii].
Tóm lại, chính nhờ Đức Thế Tôn đă xa ĺa và đoạn tuyệt mọi kẻ thù là phiền năo, đă phá hủy ṿng luân hồi trong ba giới bốn loài, đă không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo nên Ngài có danh hiệu là Araham hay Ứng cúng--Bậc xứng đáng thọ nhận lễ bái cúng dường của Chư thiên và loài người.
-ooOoo-
------------------------------------------------------------ --------------------
Về các phiền năo mà Đức Phật đă xa ĺa, xin xem Ḥa Thượng Bửu Chơn. Kinh Ân Đức Tam Bảo. Bản in không xuất bản. Trang 21- 25.
[ii] Đại đức Hộ Pháp. Sách đă dẫn. trang 29
[iii] Min Gun. Sách đă dẫn, trang 370.
[iv] Đại đức Bửu Chơn. Sách đă dẫn, trang 16
[v] Đại đức Hộ Pháp. Sách đă dẫn, trang 31- 37
[vi] Bộ Anguttaranikaya, phần Ekakadhamma. Trích dẫn trong T́m Hiểu Pháp Môn Niệm Phật. Tỳ Kheo Hộ Pháp. Trang 39
[vii] Đại đức Hộ Pháp. Sách đă dẫn, trang 38 - 39. Đại đức Bửu Chơn. Sách đă dẫn, trang 17 - 18.
Về những bậc đáng được cúng dường, chẳng những Đức Phật là bậc siêu nhân cao thượng xứng đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường mà thôi, các bậc Thánh nhân A la hán, A na hàm v.v... khác đă tận diệt phiền năo hay c̣n chút ít phiềm năo nơi tâm, hoặc các hạng phàm nhân có giới đức, tu hành chân chánh theo giáo pháp của Đức Thế Tôn cũng là những bậc đáng thọ lănh vật cúng dường của tín thí.
|
Quay trở về đầu |
|
|
thaicuc Hội viên
Đă tham gia: 12 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 119
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 15 December 2005 lúc 8:59pm | Đă lưu IP
|
|
|
LỢI ÍCH CỦA PHÁP NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT
Tất cả đề mục thiền định đều có một mục đích duy nhất là định tâm an trú trong một đề mục thiền định duy nhất, không thể phóng tâm chuyện nầy chuyện kia. Có những đề mục thiền định có thể dẫn đến cận định (Upararasamadhi) rồi tiến đến an định (Appanasamadhi) để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc.
Riêng với đề mục 9 ân đức Phật là một đề mục rất vi tế, sâu sắc, rộng lớn v́ vậy tâm của hành giả không thể an trú vào một điểm nào nhất định. Hành giả chỉ có khả năng chứng đạt đến cận định, mà không thể chứng đạt đến an định, nên không thể chứng đắc được bậc thiền hữu sắc nào. Cận định tâm của đề mục niệm Ân đức Phật vẫn c̣n là dục giới đại thiện tâm thuộc về dục giới thiện nghiệp.
I. LỢI ÍCH TRONG KIẾP HIỆN TẠI:
Cận định tâm là một đại thiện tâm thuộc dục giới. Cùng với đại thiện tâm cận định nầy là sự tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức Phật, ḷng tôn kính sâu sắc nơi Đức Phật, phát sinh hỉ lạc rất vi tế ở ư thức tâm. Hành giả có thể ngồi niệm Ân đức Phật hàng giờ vẫm cản thấy an lạc lạ thường.
Do năng lực của dục giới thiện nghiệp nầy, cuộc sống hằng ngày của hành giả thường an lạc, tránh được điều rủi ro một cách phi thường, phần đông mọi người đều kính mến, chư thiên kính yêu và hộ tŕ, vắng lặng phiền năo, có trí tuệ sáng suốt, phước thiện tăng trưởng. Hành giả sẽ luôn có cảm tưởng như gần gũi với Đức Phật, nên tâm không sợ hăi, chịu đựng được những đau đớn trong thân khi bị bệnh hoạn, luôn luôn có sự hổ thẹn và ghê sợ mọi tội lỗi, giữ ǵn giới hạnh trong sạch dễ dàng, dễ dàng lắng nghe chánh pháp, thực hành chánh pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lư Tứ Thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh quả và Niết bàn. Thân của hành giả luôn niệm ân đức của Đức Phật trở thành một ngôi chùa với h́nh ảnh thiêng liêng của Thế Tôn. Tâm của vị ấy luông hướng về sự giác ngộ tối thượng. Do đó niệm ân đức Phật là cơ sở vững chắc cho chúng ta trên đường tu tập và thành tựu Thánh Đạo và Thánh quả.
II. LỢI ÍCH TRONG KIẾP VỊ LAI:
Dục giới thiện nghiệp tạo được do tiến hành thiền định này vững chắc hơn thiện nghiệp dục giới tạo ra do Bố thí và Tŕ giới. Cho nên, khi gần chết, tâm của hành giả không mê muội. Trái lại, tâm rất b́nh tĩnh và sáng suốt. V́ vậy, sau khi chết, nếu dục giới thiện nghiệp này cho quả tái sanh làm người, th́ sẽ là người có trí tuệ. Ngay như nếu hành giả không đạt Thánh Đạo và Thánh Quả trong kiếp sống nầy, vị ấy cũng được tái sinh nơi cơi thiện giới. Nếu tái sinh làm người sẽ là người có trí tuêï, có sắc thân sinh đẹp đáng ngưỡng mộ, các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng yêu quư. Thân có hương thơm. Miệng có mùi hương tỏa ra. Có trí tuệ nhiều. Có trí tuệ sâu sắc. Có trí tuệ sắc bén. Có trí tuệ nhanh nhẹn. Có trí tuệ phong phú. Có trí tuệ phi thường. Nói lời hay có lợi ích. Có địa vị cao quư. Nếu tái sinh làm chư thiên, sẽ là một thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, hưởng được sự an lạc đặc biệt hơn các chư thiên khác.
Hơn thế nữa, tái sanh kiếp nào, sẽ có duyên lành gặp Đức Phật và giáo pháp của Ngài. Khi gặp Đức Phật hoặc giáo pháp của Ngài, vị ấy sẽ dễ dàng phát sinh đức tin nơi Tam bảo, lắng nghe chính pháp, dễ dàng chứng ngộ chân lư Tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo - 4 Thánh quả và Niết bàn, giải thoát mọi cảnh khổ sanh tử luân hồi trong 3 giới 4 loài.
Về pháp niệm Ân đức Phật, Đức Phật dạy:
"Này chư Tỳ kheo, pháp hành tùy niệm Ân Đức Phật mà hành giả đă tiến hành, đă hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sanh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh pháp - sắc pháp náy, để tận diệt tâm tham ái, sân hận, si mê; để làm vắng lặng mọi phiền năo; để làm phát sanh trí tuệ thiền tuệ thấy rơ biết rơ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngă; để chứng ngộ chân lư Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh quả và Niết bàn" [v]
III. NIỆM ÂN ĐỨC PHẬT LÀ CÁCH CÚNG DƯỜNG CAO THƯỢNG:
Niệm ân đức Phật là một trong những cách cúng dường tốt đẹp nhất đến Đấng Từ Phụ. Phật dạy cúng dường có 2 cách. Cúng dường bằng phẩm vật (amisapuja) như hương, hoa... và cúng dường bằng hành pháp (patipattipuja): hành giới, hành định, và hành tuệ. Trong 2 cách cúng dường nầy, Đức Phật tán dương cách cúng dường bằng hành pháp hay thiền định (trong đó có pháp niệm ân đức Phật) là cao thượng nhất. Khi gần tịch diệt Niết bàn, Phật dạy chỉ có hành pháp mới thật là cách cúng dường cao thượng nhất.[vi]
Khi đức Phật thông báo cho các vị tỳ kheo rơ thời gian tịch diệt Niết bàn của Ngài không c̣n lâu. Chư Tỳ kheo thường đến hầu hạ Ngài với ḷng tôn kính thương yêu. Riêng Tỳ kheo Attadattha nghĩ: "Đức Thế Tôn c̣n thời gian không lâu sẽ tịch diệt Niết bàn, c̣n ta vẫn chưa diệt được tham ái, ta nên cố gắng tiến hành thiền tuệ, chứng đắc đến A la hán Thánh đạo-A la hán Thánh quả trở thành bậc thánh A la hán khi Đức Thế Tôn c̣n hiện tiền." V́ vậy ngài ở nơi thanh vắng một ḿnh để tiến hành thiền tuệ. Một số tỳ kheo khác chê trách ngài không biết kính yêu đức Phật.
Thế Tôn bèn hỏi ngài: "Này con, con nghĩ thế nào mà hành động như vậy?"
Đại đức Attadattha thưa: "Kính bạch Thế Tôn, con được nghe biết Đức Thế Tôn không c̣n bao lâu nữa sẽ tịch diệt Niết bàn, con cố gắng tiến hành thiền tuệ để chứng đắc A la hán Thánh đạo - A la hán Thánh quả trong khi Đức Thế Tôn c̣n hiện tiền."
Nguyện cầu cho chánh pháp được trường tồn trên thế gian
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|