Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 80 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Ngũ căn – Ngũ lực Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thaicuc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 12 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 119
Msg 1 of 1: Đă gửi: 10 January 2006 lúc 5:15am | Đă lưu IP Trích dẫn thaicuc

Ngũ căn và ngũ lực là hai hành pháp thứ tư và thứ năm thuộc bảy hành phẩm trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Năm căn và năm lực ở đây thuộc nền tảng căn bản thúc đẩy để từ đó phát sinh ra kết quả tùy thuộc vào tác nhân tạo ra chúng hoặc thiện hoặc ác, hoặc tốt hoặc xấu… Năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh và tăng thượng các thiện nghiệp, th́ năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền năo bất thiện và tác dụng các khả năng tăng thượng các pháp lành.


- NGŨ CĂN (Pañcānām indriyāṇām) ở đây chỉ cho năm vô lậu căn, là năm nền tảng căn bản để đưa đến việc sản sinh và tăng trưởng thiện nghiệp, là con đường đưa về Thánh đạo; chúng câu hữu với tác dụng tăng thượng giải thoát cho hành giả, cho nên gọi là năm căn. Theo Luận Trí Độ 10, giải th́: “Năm căn này là nền tảng căn bản để phát sanh ra tất cả các thiện pháp, nên gọi là ngũ căn”. Và theo luận Câu-xá 3 th́: “Đối trong pháp thanh tịnh th́ năm căn này có tác dụng tăng thượng. V́ sao vậy? V́ thế lực của chúng có khả năng hàng phục tất cả các thứ phiền năo, đưa hành giả đến Thánh đạo.” Năm căn ấy là:

Tín căn (Śraddhendriya)

Tấn căn (Vīryendriya)

Niệm căn (Smṛtīndriya)

Định căn (Samādhīndriya)

Huệ căn (Prajñendriya).

1. Tín căn (Śraddhendriya): là ḷng tin được đặt trên chiều hướng câu hữu với thiện pháp và đưa đến giải thoát, tức là tin một cách vững chắc vào Tam bảo, tin một cách như thật vào đạo lư Tứ đế. Ḷng tin này được đặt trên nền tảng như thật không giống như ḷng tin mù mờ, vô căn cứ, không thấy, không biết, không nghe mà vẫn cứ tin, đó gọi là tin mù quáng, mê tín dị đoan không có cơ sở, bất chấp sự thật của hầu hết các bộ phái ngoại đạo. Ḷng tin ở đây là con đẻ của lư trí, là kết quả của sự suy luận so sánh đối chiếu sáng suốt, của sự quan sát tư duy kỹ càng chứ không phải của t́nh cảm đam mê lú lẫn. Đức Đạo sư không bao giờ bắt buộc chúng ta tin một điều ǵ mà không t́m hiểu suy xét về nó, không giải thích tường tận rơ ràng về nó. V́ vậy cho nên, Ngài thường dạy cho các đệ tử của Ngài là: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta!” Ḷng tin của chúng ta phát khởi từ trí tuệ, có xét đoán t́m hiểu một cách rơ ràng minh bạch th́ ḷng tin đó nó mới vững chắc, mănh liệt. Chính nó là nền tảng căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: “Tin là mẹ vô lượng công đức”. Nhưng hành giả chúng ta tin cái ǵ cho đúng với thiện pháp, đúng với giải thoát? Đó chính là tin vào ba ngôi báu:

a) Tin Phật: Chúng ta biết rằng đức đức Đạo sư là bậc hoàn toàn giác ngộ và giải thoát tất cả mọi vướng bận của khổ đau thế gian. V́ vậy, hành giả chúng ta lúc nào cũng luôn luôn tin tưởng về Phật và hướng mục tiêu hoàn thành giác ngộ, cũng như giải thoát cuối cùng của chúng ta như chính đức Đạo sư đă thân chứng.

b) Tin pháp: Hành giả chúng ta tin vào Pháp là chân lư sống, là pháp như thật mà đức Đạo sư đă thân chứng và truyền lại cho những người đi sau như chúng ta. Hay nói một cách khác, pháp đó chính là giáo lư chỉ cho bốn sự thật mà đức Đạo sư đă thuyết minh lần đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như tại vườn nai. Chúng ta tin tưởng một cách tuyệt đối vào những giáo lư ấy, v́ người nói ra là đức Đạo sư, Ngài đă tự thân tác chứng và giác ngộ được cũng nhờ vào giáo lư ấy.

c) Tin Tăng: Hành giả chúng ta tin tưởng vào Tăng là những người thật hành các giáo lư của đức Đạo sư, để tự thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ư, giác ngộ ḿnh, giác ngộ người khác, là những vị đại diện cho đức Đạo sư đưa cao ngọn đuốc chánh pháp sáng soi cho mọi người đi theo. Nên hành giả quyết trọn đời phải tin tưởng và quy hướng về Tăng để thực hành giải thoát.


2. Tấn căn (Vīryendriya): Là sự nỗ lực siêng năng, tinh tấn dũng mănh trong việc thực hành tu tập các pháp lành mà hành giả đă lựa chọn, không bao giờ để cho thối lui. Nếu hành giả đă có ḷng tin chắc chắn vào pháp tu mà không nỗ lực siêng năng tinh tấn thực hiện, th́ ḷng tin suông trên lư thuyết đó sẽ trở thành vô dụng, không đưa hành giả chúng ta đạt đến cứu cánh giải thoát được.

V́ thế, hành giả nào đă tin tưởng vào Tam bảo, th́ phải luôn luôn nỗ lực siêng năng, tinh tấn thực hành giáo lư của Phật mà ḿnh đă chọn. Theo Nhiếp đại thừa luận, tinh tấn có ba:

a) Bị giáp tinh tấn: Mặc áo giáp tinh tấn, là một trong những thứ vũ khí lợi hại khi chiến đấu với các loại giặc, các loại ma trong đó có nội ma ngoại ma. Trong cuộc chiến đấu này, hành giả bắt buộc phải cần đến áo giáp tinh tấn, nó là một trong những lợi khí khi xông pha vào trận địa “phiền năo”, nó luôn luôn động viên và thúc giục hành giả tiến lên phía trước một cách cam đảm dũng mănh mà không c̣n sợ sệt ma quân hăm hại. Nhờ có áo giáp này, nó là một năng lực khiến chúng ta hùng dũng tiến tới, không sợ gian nan nguy hiểm, không lùi bước trước một trở ngại hay một địch thủ nào, nên siêng năng tinh tấn là một trợ lực rất có hiệu quả cho hành giả trên bước đường tu tập thực hành để đạt giải thoát.

b) Gia hành tinh tấn: Hành giả luôn luôn nỗ lực gắng sức không bao giờ lười nhác dừng nghỉ trên bước đường tu tập đi đến giải thoát. Với thứ tinh tấn này, nỗ lực của sức mạnh tiếp sức này tức là chỉ cho những duyên phụ thuộc kích thích hành giả chúng ta càng tiến lên càng tạo thêm sức mạnh càng hăng, càng kích thích phấn chí nhiều hơn và chúng sẽ làm cho hành giả không c̣n mệt mỏi biếng nhác nữa.

c) Vô hỷ túc tinh tấn: Là không vui sướng tự măn với thành quả vừa đạt được trong lúc tu tập thực hành mà cho là vừa đủ, không cần cố gắng tiến lên nữa. Hành giả nào chưa vào được Thánh đạo th́ dứt khoát phải c̣n gia công gắng sức tu tập măi măi, chứ không chịu dừng lại, mà hưởng vui với một quả vị thấp kém, tạm thời. Như người đi bộ khi chưa đến đích cuối cùng th́ vẫn c̣n hăng hái tiến bước măi càng nhanh càng tốt, chứ không chịu chấm dứt cuộc hành tŕnh của ḿnh với dạng lấy lệ, hay cho như vậy là đủ bằng cách an phận nghỉ ngơi măi trong quán trọ bên đường, làm cho tiến độ càng ngày càng suy giảm tốc độ dần cho đến khi quên mất mục đích tối hậu của ḿnh.


3. Niệm căn (Smṛtīndriya): Mục tiêu của niệm là nhớ nghĩ đến những pháp câu hữu với giải thoát, giúp hành giả nếu muốn đạt được mục đích th́ cần phải nhờ vào những pháp phương tiện trợ duyên pháp hành của ḿnh. Nhớ nghĩ ở đây liên quan đến:

a) Niệm thí: Là nhớ nghĩ đến việc tu tập bố thí. Hành giả ở đây ngoài việc tự làm lợi cho chính ḿnh, mà c̣n phải lúc nào cũng phải nhớ nghĩ đến việc đem tài sản bố thí cho người nghèo khổ; đem hùng lực vô úy của chính ḿnh cứu giúp cho những người sợ hăi nhút nhát; đem chánh pháp chỉ giáo bày vẽ cho người si mê, khiến họ hết khổ được vui như ḿnh.

b) Niệm giới: Là nhớ nghĩ đến việc tŕ tịnh giới để đoạn trừ các phiền năo nghiệp chướng mà hành giả đă lỡ tạo ra trong quá khứ gần hay xa và ngăn ngừa những nghiệp nhân ác bất thiện có thể xảy ra trong hiện tại, cùng làm tăng trưởng mọi pháp lành trong quá khứ qua những tác nhân trong hiện tại. Hành giả ở đây cũng vậy, ngoài việc tự lợi cho chính ḿnh trong việc giữ ǵn giới cho thanh tịnh mà c̣n ảnh hưởng hỗ tương đến mọi người chung quanh qua việc sống với người trong một cộng đồng cọng hưởng qua ba loại Giới:

- Nhiếp luật nghi giới: Những giới điều để ngăn cấm các tác nghiệp thô xấu qua các oai nghi có thể xảy ra trong hiện tại, đồng thời cùng lúc đoạn trừ các nghiệp chướng nơi thân tâm có thể xảy ra trong tương lai.

- Nhiếp thiện pháp giới: Những giới điều được đặt ra đúng pháp và lợi ích, chúng câu hữu với giải thoát. Hành giả tu tập thực hành giữ ǵn theo nó, có thể thành tựu tất cả mọi pháp lành trong tương lai.

- Nhiêu ích hữu t́nh giới: Những giới điều đưa đến làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh khi hành giả thực hành tu tập giữ ǵn chúng. V́ sự tương quan tương duyên sinh khởi nên một khi hành giả thành tựu pháp tu th́ tất cả đều cùng lúc thành tựu trong sự hiện hữu đồng thời của chúng.

c) Niệm thiên: Lúc nào hành giả cũng nhớ nghĩ đến sự giàu sang vui sướng của chư thiên và bố thí tŕ giới để tạo ra các thiện nghiệp cho tương lai th́ chắc chắn sẽ hưởng được mọi thứ công đức này khi thọ thân trời, phóng ra ánh sáng, không đâu là không chiếu tới. Như Kinh Tăng Nhất A-hàm 2, phẩm Quảng diễn, đức Đạo sư dạy: “Nếu có Tỳ-kheo nào, chánh thân chánh ư, ngồi kiết già, cột niệm phía trước, không tưởng nghĩ đến việc khác, chỉ nhớ nghĩ đến trời, thân khẩu ư thanh tịnh, không tạo ra các việc xấu. Giữ ǵn giới, thành tựu thân giới th́ thân phóng ra ánh sáng, không đâu không đến… lúc nào cũng nhớ nghĩ đến trời không bao giờ quên th́, sẽ thu được mọi thứ công đức thiện này.” Hay Nhiếp Đại Thừa luận nói: “Niệm thiên là an trụ vào bốn món thiền định”. Vậy niệm thiên là nhớ nghĩ đến cách tu tập bốn thiền định, để thanh lọc hết tất cả phiền năo mà giải thoát.

4. Định căn (Samādhīndriya): Định nói cho đủ là Chánh định, dịch nghĩa từ chữ Samādhi phiên âm là Tam-ma-địa. Định là khiến tâm hành giả trụ vào một nơi, một chỗ để lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, không cho tâm hành giả tán loạn mà quán sát suy đạt thật nghĩa của nó. C̣n căn phạn ngữ gọi là indriya bao gồm vừa có nghĩa tăng thượng, vừa có nghĩa sinh khởi. Do đó định căn có nhiệm vụ khiến cho tâm hành giả dừng lại một chỗ, không v́ hoàn cảnh ngoại tại mà sức thiền định bị dao động; v́ sức thiền định này có khả năng sinh khởi ra mọi thứ công đức và làm chúng tăng trưởng lên, cho nên gọi là căn. Theo Thành duy thức luận 9, trong Thập độ tam hành, độ thứ năm là Thiền độ tam hạnh th́ tịnh lự (định) có thể chia làm ba bậc:

a) An trụ tịnh lự: Để tâm an trụ vào định, nên vọng tưởng không có cơ hội để khởi lên, nhờ vậy mà hành giả đi sâu vào trong thiền định và từ đó phiền năo được diệt trừ.

b) Dẫn phát tịnh lự: Nhờ phiền năo đă được đoạn trừ nên trí tuệ được hiện hữu phát sinh các thứ công đức thù thắng.

c) Biện sự tịnh lự: Nhờ đă phát sinh các thứ công đức viên thành, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải thoát sanh tử, chứng đắc Niết-bàn.

5. Huệ căn (Prajñendriya): Quán trí phát sinh được nhờ trong định và cũng từ đó mà hành giả hiểu rơ được chân lư như thật của muôn pháp. Quán đạt chân lư gọi là tuệ; khi trí huệ đầy đủ th́ tất cả mọi thứ phiền năo tự tiêu trừ và các năng lực thiện pháp xuất hiện, thành tựu trọn vẹn mọi thứ công đức, cho đến lúc thành đạo. Cho nên gọi là Huệ căn. Theo Nhiếp Đại Thừa, trí huệ có ba thứ:

a) Vô phân biệt gia hành huệ: Trí tuệ nầy không c̣n có sự phân biệt nữa, nhưng c̣n cần phải thực hành thêm, nghĩa là c̣n cần sự dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn trí vô phân biệt. V́ thế, nên gọi là “vô phân biệt gia hành huệ”.

b) Vô phân biệt huệ: Trí huệ nầy không c̣n có sự phân biệt và cũng không cần phải thực hành thêm nữa v́ nó đă đầy đủ và thuần phục. Nhờ trí huệ này, mà hành giả thể chứng Chân như một cách tự tại.

c) Vô phân biệt hậu đắc huệ: C̣n gọi là hậu đắc trí, là trí huệ có được sau khi đă chứng được Chân như. Trí huệ này không c̣n phân biệt nữa, hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sanh. Nói một cách tổng quát giản dị, huệ căn là trí huệ nhờ thiền định làm lặng sạch có được. Nó thông đạt được sự thật của các pháp; nó là nền tảng mà phát sanh ra mọi việc vĩ đại để giải thoát chúng sinh ra khỏi khổ đau.

Tóm lại, v́ năm căn này là nền tảng có khả năng sinh sản ra tất cả các pháp thiện, nên gọi là năm căn. Hơn nữa ‘căn’ ở đây nó cũng mang ư nghĩa tăng thượng, như trên chúng ta đă biết, năm loại căn này cũng có thể khiến cho con người sản sinh ra Thánh đạo vô lậu nên cũng gọi là căn. Theo Đại thừa nghĩa chương 16 nói về ư nghĩa của căn “V́ sức mạnh của năm căn này nghiêng nặng hơn về việc sản sinh ra Thánh đạo xuất thế, nên gọi là căn.” Năm loại căn này c̣n có tác dụng dùng để đối trị với những người: không có ḷng tin (bất tín), biếng nhác (giải đăi), buông lung (phóng dật), táy máy thân h́nh (trạo cử), phiền năo vô minh, nên cũng gọi là căn. Ngoài ra theo phần một quyển 7, Chỉ Quán bổ hành truyện hoằng quyết, th́ người tu hành tuy mầm thiện chưa phát, v́ căn chưa sinh, song nay nếu tu tập năm pháp này th́ sẽ khiến cho thiện căn sẽ sinh ra, nên năm pháp này được gọi là căn.

- NGŨ LỰC (Pañcānāṃ balānām): tức là năm lực này có được nhờ vào năm căn tăng trưởng sinh ra trong lúc hành giả tu hành, chúng chính là sức mạnh duy tŕ sự liên tục đưa đến giải thoát cho hành giả. Đó chính là thần lực của năm căn, chúng có khả năng đối trị thế lực của năm chướng. Nói một cách dễ hiểu: Ngũ căn như năm cánh tay của chúng ta, c̣n ngũ lực như là sức mạnh của năm cánh tay ấy.

1. Tín lực (Śraddhā-bala): Tức là sức mạnh do tín căn sinh ra, với công năng là phá hủy tất cả mọi thứ tà tín.

2. Tấn lực (Vīrya-bala): Tức sức mạnh do tinh tấn căn sinh ra, có công năng phá hủy mọi sự lười biếng nhác nhớm của thân và lúc nào cũng siêng năng tinh cần trong việc chỉ ác hành thiện, trong việc thực hành tu tập Tứ chánh cần.

3. Niệm lực (Smriti-bala): Tức là sức mạnh do niệm căn sinh ra, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn, với khả năng phá hủy mọi thứ tà niệm và dùng pháp tứ niệm xứ để giữ ǵn chánh niệm.

4. Định lực (Samādhi-bala): Tức sức mạnh do định căn sinh ra, với khả năng chống phá các thứ loạn tưởng, bằng vào chuyên tâm thiền định để đoạn trừ các dục phiền năo.

5. Huệ lực (Prajñā-bala): Tức sức mạnh do huệ căn sinh ra, với khả năng phá hoại các hoặc của ba cơi, bằng vào quán ngộ Tứ đế, thành tựu trí tuệ, mà đạt được giải thoát.

Năm lực này v́ chúng có công năng phá hủy mọi thứ ác pháp nên gọi là năm thứ sức mạnh. Theo Trí độ luận 19: “Năm căn tăng trưởng, không bị phiền năo phá hoại, đó gọi là lực.” hay: “Thiên ma ngoại đạo không thể làm trở ngại, đó gọi là lực.” Nội dung ư nghĩa và công dụng của chúng cùng với năm vô lậu căn giống nhau, v́ Phật giáo là một đạo thực tiễn nên việc thực hành những giáo pháp này là cần thiết theo thứ tự từ trước đến sau, từ trên xuống dưới. Những sức mạnh nầy là kết quả đă đạt được từ sự nỗ lực tinh tấn siêng năng tu tập của Ngũ căn. Nó như là một ngọn lửa được bật lên sau khi hành giả đă nỗ lực tinh tấn cọ sát hai cây gỗ vào nhau để có kết quả ngọn lửa được sinh ra.



Tóm lại, năm căn là nền tảng có khả năng sản sinh ra và làm tăng thượng các thiện nghiệp, th́ năm lực chính là sức mạnh để chận đứng, triệt tiêu các thế lực vô minh phiền năo bất thiện và tác dụng của nó có khả năng tăng thượng các pháp lành. Qua những tŕnh bày ở trên, chúng ta thấy ngũ căn và ngũ lực vừa là những nền tảng căn bản phát sinh các thiện pháp và làm tăng thượng vô lượng công đức thù thắng đưa hành giả đến Thánh đạo, vừa có khả năng chận đứng tiêu diệt các pháp ác bất thiện vô minh, giải thoát mọi thứ phiền năo để đạt Niết-bàn an vui. Chúng là những nền tảng cơ bản để hành giả làm nhân tư lương tốt trong việc thực hiện giải thoát đưa về Thánh
Quay trở về đầu Xem thaicuc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thaicuc
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.6094 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO