Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 229 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Nghi Thức Phát Tâm Bồ Đề Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 6: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

NGHI THỨC PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

Tỳ Khưu Thích Nhất Chân soạn


I. SÁM HỐI

1. PHẦN QUÁN SÁT VỀ NGUYÊN DO TẠI SAO PHẢI SÁM HỐI

Đệ tử ... con, từ vô thủy sinh tử đến nay, trôi lăn trong luân hồi, mang đủ thứ thân, từ thân cơi trời đến thân địa ngục, tạo đủ loại nghiệp, từ nghiệp nhân thiên đến nghiệp ác đạo, chiêu cảm quả báo luân hồi, chịu bao đọa đày, trải bao cam khổ, vẫn không tỉnh ngộ, đam mê trong nhà lửa ba cơi, đắm đuối trong vũng lầy tử sinh.

Được chút phúc báo cơi trời, th́ tự kiêu tự mạn, coi thường lời giáo huấn của Thế Tôn, lơ là tâm thương xót của chư Phật, nô lệ trong xiềng xích của ngũ dục, mà tưởng đâu là hạnh phúc chân thật, mù ḷa giữa tăm tối của vô minh, mà ngỡ đâu là tri kiến chính xác. Thế nên, rời xa Tam Bảo, thân cận tà đồ, lạc đường ngoại đạo, muôn kiếp sai lầm. Đệ tử ngày nay khẩn thiết, phát lộ sám hối các tội lỗi trên !

Tuy nhiên, một mai chợt tỉnh, chỉ biết lo cho chính ḿnh, hết ḷng cần cầu giải thoát, chán ghét thế gian, sợ hăi luân hồi, kinh hoàng sinh tử. Thế nên, bất tín Đại thừa, nghi ngờ đại Đạo. Là con của Phật – mà không dám phát tâm thành Phật cứu độ chúng sanh; là con của Phật – mà không dám thọ nhận bao kiếp luân hồi, hành Bồ tát đạo lợi ích chúng sanh; là con của Phật – mà bỏ mặc sự nghiệp thành Phật độ sinh, cho bất cứ ai khác gánh vác, không chút quan tâm ủng hộ, không chút tán thán khích lệ; là con của Phật – mà lại hủy báng giáo pháp Đại thừa, cho đó là pháp ngoại đạo, hoặc là ô nhiễm thế gian. Chẳng qua cũng v́ tập khí ích kỷ ngă chấp xưa nay, nên nay gặp được đại Đạo, cũng chỉ bo bo thủ giữ tự kỷ, chẳng dám phát tâm v́ người. Khiến nên ĺa xa đại Đạo, tương lai Phật chủng cằn khô, mưa pháp mai sau không c̣n người tuôn, chúng sanh khổ đau nhờ ai đắc độ ?


2. PHẦN PHÁT NGUYỆN

(Quỳ thẳng lên, chắp tay phát nguyện sám hối)

Nên con ngày nay thành tâm khẩn thiết, sám hối tâm tính ích kỷ, chỉ biết lợi ḿnh. Nguyện cùng mười phương chư Phật, vô lượng Bồ tát thánh hiền, xót thương cho con mà chứng minh gia hộ:

Từ nay cho đến vị lai, xin bảo bọc con, xin chở che con, cho con thoát khỏi mọi tội vô minh ái đắm thế gian, mọi tội tà kiến chấp trước ngoại đạo, mọi lỗi lợi kỷ không màng cứu khổ thế gian.

(Trước khi đảnh lễ nương về Tam Bảo, quán tưởng chư Phật cùng các hội chúng B tát Thanh văn của các Ngài hiện thân ra sáng rực cùng khắp hư không xung quanh ḿnh để chứng minh và gia lực hộ tŕ cho ḿnh.)

Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo tác đại chứng minh. (3 lần)


II. QUY Y TAM BẢO

1. QUY Y PHẬT

(Nhiếp tâm chân thành vừa đọc lên các lời lẽ sau đây vừa quán sát ư nghĩa chư Phật là nơi nương tựa giữa thế gian khổ đau này, và quán các lời lẽ này chính thật là tâm nguyện của ḿnh:)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng chư Phật. V́ luôn thương tưởng đến con cùng với tất cả chúng sinh, v́ hằng muốn cứu độ con cùng với tất cả chúng sinh, v́ nguyện che chở cho con cùng với tất cả chúng sinh, nên các ngài thị hiện ra đời, như các bậc tối tôn trong thế gian này. Để giữa biển khổ bao la con có hải đảo kiên cố, và giữa sóng cả năo phiền con có bờ bến vững bền, cho con và cho tất cả chúng sinh, luôn có được nơi nương tựa, luôn có được chốn an lành, để tiêu đi bao sợ hăi, để tan hết mọi ưu phiền.


(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng chư Phật, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các ngài là các Thế Tôn của con, mà con duy nhất tôn quư đảnh lễ, tin tưởng nương theo ...

(Quán tưởng chư Phật đồng đưa tay trái của các ngài lên theo ấn an úy để an ủi và trấn an cho ḿnh. Tưởng xong đảnh lễ:)

Nam mô Mười phương Vô lượng Chư Phật - Thế Tôn. (1 lạy)

(Nhiếp tâm chân thành vừa nói lên các lời lẽ sau đây vừa quán sát ư nghĩa về sự liên hệ giữa tâm từ bi của chư Phật và tâm vô minh tội lỗi của ḿnh như sự liên hệ giữa người cha bao dung thương con bất tận và người con dại dột lỗi lầm. Và an tâm tin tưởng nương tựa dứt khoát vào các Ngài)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng chư Phật, các Ngài là các cha lành của con, mà luôn coi con như là con một, ví dù tạo bao ác nghiệp, đưa con tận đến địa ngục, các Ngài cũng vẫn vào theo, để mà ra công cứu độ; dù con bao kiếp đọa đày, các Ngài cũng vẫn theo cùng, để mà bảo bọc nhắc nhở, kéo con ra khỏi đọa đày; dù con hủy báng tàn hại, các Ngài vẫn cứ một ḷng bất động thiết tha cứu vớt cho con thoát khỏi ác quả.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng chư Phật, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các Ngài là các cha lành của con, mà con duy nhất kính thương tưởng niệm – t́m về nương náu ...

(Quán tưởng chư Phật đồng đưa bàn tay phải xuống theo ấn dữ nguyện để tiếp đón ḿnh với vô lượng từ ái và hoan hỷ. Tưởng xong đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Vô Lượng Chư Phật - Từ Tôn (1 Lạy)

(Nhiếp tâm chân thành vừa đọc lên các lời lẽ sau đây vừa quán sát ư nghĩa năng lực tối thượng của chư Phật qua từ bi, trí huệ và phương tiện giác tha của các Ngài. Và an tâm nương tựa vào chư Phật xả hết mọi sợ hăi)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng chư Phật, các Bậc từ bi trải rộng thẩm nhập mười phương pháp giới, để mà che chở cho con để mà bảo bọc cho con với cùng toàn thể thế gian ĺa xa hết mọi khổ ải.

Con xin nương về chư Phật, các Bậc trí huệ sắc bén như thanh bảo kiếm kim cương, cắt đứt xích xiềng tham ái, đă bao kiếp nay trói chặt lấy con giam trong nhà lửa ba cơi ngục tù; đâm thủng lưới thép vô minh, đă bao kiếp nay bủa vây kín con ch́m trong đêm dài luân hồi bất tận; nhổ bật gốc rễ năo phiền, đă bao kiếp nay chôn chặt lấy con vùi trong mảnh đất sáu nẻo tử sinh.

Con xin nương về chư Phật, các Bậc ánh sáng giác ngộ như vầng thái dương rạng ngời, xua tan tất cả bóng ma nhân ngă chập chờn, đă bao kiếp nay luôn ŕnh rập con, để mà đe dọa đàn áp khủng bố; phá tan tất cả các cơn mộng mị của bao hành nghiệp lao xao hư vọng, tạo nên vô lượng thế gian hư ảo. Để đánh thức dậy trong con ánh sáng trí huệ chân thật, ánh sáng chan ḥa vô biên, ánh sáng chứa chan vô lượng, ánh sáng vô trụ bất động.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng chư Phật, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các Ngài là các đạo sư tối thượng của con, mà con duy nhất tuyệt đối vâng lời - triệt để tuân hành – măi măi nương theo tu học ...

(Quán tưởng chư Phật kéo ḿnh lên về phía ngực của Ngài bằng bàn tay phải và bàn tay trái của Ngài hạ xuống để đỡ lấy ḿnh mà thành ấn chuyển pháp luân, nghĩa là các Ngài sẽ nói Pháp để cứu độ ḿnh. Tưởng xong đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Vô Lượng Chư Phật – Vô Thượng Tôn.
(1 Lạy)

2. QUY Y PHÁP

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa công năng tối thượng của Pháp, chỉ dành để cứu độ ḿnh và toàn thể chúng sinh, để mà nhiếp tâm quy y)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng tối tôn Pháp là Pháp chư Phật tuyên thuyết. Các giáo pháp tối tôn này mà bản thể là đại Bi, mà thật tướng là Trí huệ, mà công năng là đại Nguyện, đă do mười phương vô lượng chư Phật một ḷng thiết tha ban bố. Các giáo pháp tối tôn này mà như phương thuốc trường sinh đưa con đến miền bất tử, hay như ngọc chúa Ma Ni cho con thỏa mọi ước nguyện, và như phương tiện tối xảo để mà cứu vớt chính con cùng với toàn thể chúng sinh đến nơi bến bờ an ổn.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa – nương tựa - mười phương vô lượng tôn Pháp, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các giáo Pháp này chính là ánh sáng – soi đường chỉ lối cho con, mà con duy nhất xin nguyện lắng nghe - bằng đôi tai nhiếp thọ - bằng con tim tùy thuận - bằng khối óc sáng tỏ, để mà nương theo – tôn kính tuân hành ...

(Quán tưởng chư Phật chuyển vận tâm từ khơi động khẩu nghiệp, từ lưỡi các Ngài phóng ra ánh sáng chan ḥa biến chiếu mười phương, rồi trở về bao trùm quanh ḿnh, như nước Pháp tưới rửa cho ḿnh. Tưởng xong đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Vô Lượng – Vô Thượng Quang Minh Pháp.

(1 Lạy)

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa Pháp vốn là chân lư thường trụ bất biến, là lối thoát cứu cánh cho bất cứ ai, bất cứ cảnh giới nào hay điều kiện nào, để mà tuyệt đối tin tưởng quy y)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng thường trụ Pháp là Pháp chư Phật giác ngộ. Các giáo pháp thường trụ này vốn là ánh sáng chân thật, và là chân lư muôn đời của chung tất cả mọi loài dù với muôn ngày sai khác. Thế nên, cho dù thế gian tràn đầy đau khổ, song chân thật Pháp vẫn thường tịch lạc; cho dù chúng sinh vô minh tối ṃ, nhưng thật tướng Pháp vẫn soi rạng ngời; và dù luân hồi nổi trôi bất tận, bản thể Pháp vẫn như như bất động; dù cho chư Phật vắng bóng nơi đời, Pháp chư Phật giác vẫn thường có mặt. Nhờ thế mà dù vô minh hay phiền năo dầy đặc, con và tất cả chúng sinh chắc chắn đều sẽ được độ.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng thường Pháp, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các giáo pháp này chính là hướng đi – vĩnh viễn măi măi của con, mà con duy nhất hướng đến noi theo – không để bao giờ mất dấu ...

(Quán tưởng ánh sáng ấy chiếu sáng thấu qua cả thân lẫn tâm, như nước Pháp cam lồ gội rửa thân tâm ḿnh sạch hết mọi trần cấu, làm cho cả trong lẫn ngoài ḿnh đều sáng rực thanh tịnh. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Vô Lượng - Thường Trụ Tịch Chiếu Pháp. (1 Lạy)

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa Pháp chính là thể tính giải thoát trong sáng của ḿnh, nên nương tựa vào Pháp là hoàn toàn hợp lư, và không có lư nào lại không thể được)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo, mười phương vô lượng pháp tính Pháp, là Pháp chư Phật khai thị, cho con và mọi loài chúng sinh ngộ nhập. Các Pháp mà là bản thể chân thật của con: bản thể của con chiếu sáng, song luôn thường hằng bất động, chính là trí huệ chân thật, tự giác tịch diệt cứu cánh; bản thể của con chiếu sáng, chiếu khắp bao la vô hạn, chính là đại bi b́nh đẳng, thể nhập pháp giới chúng sinh; bản thể của con chiếu sáng, chiếu soi tất cả không sót, chính là phương tiện thiện xảo, cứu độ trọn hết muôn loài; bản thể của con chiếu sáng, chiếu măi không bao giờ tận, chính là công đức vô lậu, nhiêu ích tất cả hữu t́nh.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng thật Pháp, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các giáo pháp này chính là hơi thở - mạng sống muôn đời của con, mà con duy nhất khuôn theo tŕ giữ - như giữ lấy chánh mạng ḿnh...

(Quán tưởng ánh sáng trong ngoài ḥa nhập làm một, thân tâm theo đó tan vào ánh sáng, trở thành vô tướng, như ánh sáng duy nhất biến khắp, chính là Pháp thân của ḿnh bao la vô hạn. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam Mô Mười Phương Vô Lượng – Pháp Tính Biến Chiếu Pháp. (1 Lạy)

3. QUY Y TĂNG

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa công đức lợi tha thiết thực của Tăng, để mà nhiếp tâm quy y)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng hải hội chúng, bao la như mây như biển, vây quanh vô lượng các đấng Như Lai.

Các ngài là các bậc con đích tử của khắp mười phương chư Phật, là các ḍng dơi chính thống của trọn mười cơi Pháp vương, và là các đấng Như Lai của mọi chúng sinh mai hậu, cùng là các bậc Thế Tôn của khắp muôn loài mai sau. Cũng v́ lợi lạc cho con và cho tất cả chúng sinh, mà các Ngài sinh vào ḍng dơi Như Lai, cũng v́ an nguy cho con và cho toàn thể chúng sinh, mà các Ngài dưỡng nuôi Phật chủng bất đoạn.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng thánh Chúng, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các Ngài là các chúng hội của con, mà con duy nhất quy kính nương theo – tôn thờ đảnh lễ...

(Quán tưởng Chư thánh chúng ở khắp mười phương đều hướng quay về ḿnh hoan hỷ tiếp nhận. Tưởng rồi đảnh lễ.)

Nam Mô Mười Phương Vô Lượng Hải Hội – Vô Thượng Chúng.
(1 Lạy)

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa công năng của Tăng nhằm để làm phát khởi mầm Đạo của ḿnh)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng ḥa hợp chúng, mênh mang như mây như biển, bao quanh vô lượng các đấng Như Lai.

Các Ngài cùng nhau ḥa hợp thanh tịnh, như nước ḥa cùng với sữa, để cho Giới pháp trường tồn, chúng sinh có nơi nương tựa.

Các Ngài cùng nhau ḥa hợp đồng tu, vây quanh chư Phật hỏi pháp, khiến cho chính Pháp tỏa rộng, chiếu sáng thế gian mù ḷa, như các tia sáng quanh vầng thái dương, tụ hội để mà tỏa rộng sáng soi mười phương tối ám.


Các Ngài cùng nhau ḥa hợp lợi sinh, tụ hợp vô lượng công đức, hợp lực phát triển mầm Đạo của con và mọi chúng sinh, như mảnh đất ruộng ph́ nhiêu, tụ hợp vô lượng mầu mỡ, tăng trưởng phát triển phong thịnh, tất cả các mầm lúa non.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng tịnh Chúng, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các Ngài là các phước điền của con, mà con duy nhất gần gũi cúng dường – tin tưởng phụng sự...

(Quán tưởng chư thánh chúng tụ tập lại quanh ḿnh, che chở ủng hộ khích lệ. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam Mô Mười Phương Vô Lượng Hải Hội - Phước Điền Chúng.
(1 Lạy)

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa phương tiện tối xảo của Tăng làm cho mọi vô minh tội lỗi của ḿnh tan biến, và nhờ Tăng mà cả hai mặt trí và bi của ḿnh đều được viên măn trang nghiêm)

Con xin hướng về đảnh lễ và nương theo mười phương vô lượng trang nghiêm chúng, man mác như mây như biển, theo quanh vô lượng các đấng Như Lai.

Các Ngài nguyện làm bằng hữu của con và của chúng sinh, nên mới cùng nhau ḥa hợp, góp bao Trí huệ chiếu soi để cho màn tối vô minh của con trở thành trong sáng. Cũng như vô lượng các v́ sao đêm, tụ hợp lại trên bầu trời, lấp lánh như ngàn kim cương, làm cho cả màn đêm đen trở nên trong sáng thanh tịnh.

Các Ngài cùng nhau ḥa hợp, tụ bao tịnh Giới trong sạch để bao tội lỗi của con được ḥa tan vào thanh tịnh. Cũng như vô lượng giọt nước trong xanh, hợp lại thành biển trong sạch, làm cho một nắm bùn con, trở nên tan loăng trong lành.

Các Ngài cùng nhau ḥa hợp, ḥa tan vô phân biệt trí, để cho ngă tướng của con, khi ḥa vào với các Ngài, sẽ được tháo gỡ tan ra, để với Pháp thân làm một. Cũng như vách tường mái trần gỡ đi, cho khoảng không nhỏ trong nhà, chan ḥa vào cơi hư không bao la vô lượng bất động.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện quy y:)

Thế nên con nguyện một ḷng, chân thành quay về nương tựa - mười phương vô lượng đạo Chúng, từ nay cho đến tận cùng vị lai, các Ngài là chúng thiện hữu của con, mà con duy nhất thiết tha ḥa hợp - cộng trụ ḥa tan như một bản thể...

(Quán tưởng từ ngực của chư thánh chúng phóng ra vô lượng ánh sáng nhiếp hộ làm cho mọi đức tướng thanh tịnh thuộc trí và bi đều được thành tựu nơi thân tâm ḿnh. Ḿnh không c̣n là ḿnh nữa mà chính là báo thân của trí và bi hiển hiện. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam Mô Mười Phương Vô Lượng Hải Hội – Trang Nghiêm Chúng. (1 Lạy)

III. PHÁT TÂM

1. PHÁT TÂM BỒ ĐỀ

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa mọi hoạt động của tâm ḿnh đều là tâm chấp ngă. Trong khi Tâm bồ đề hoàn toàn không có nơi ḿnh, thế nên cần phải phát khởi lên loại Tâm siêu việt tối thượng này để thay thế cho tâm chấp ngă của ḿnh, th́ mới cứu độ được ḿnh và mọi chúng sinh được)

Xét rằng con đă bao kiếp gặp vô lượng Phật, nghe vô lượng Pháp, tu vô lượng hành. Mà ngày nay đây vẫn cứ luẩn quẩn trong vô minh, loanh quanh nơi phiền năo, ra vào chốn tử sinh, tới lui trong luân hồi. Cũng bởi gốc chẳng biết phát Tâm đại Đạo, để cho ngă kiến hằng tồn, để cho ngă chấp chủ động, gieo nhân gặt quả trọn đều y nơi tâm Ngă:

Như khi chưa gặp Phật nghe Pháp, th́ nhất cử nhất động, đều do ngă làm chủ, sống chỉ biết lo cho Ta, xây dựng cho Ta, ích lợi cho Ta và những ǵ của Ta. Mọi hoạt động của đời sống ḿnh, chỉ là hoạt động của một cái Ta. Do đó mà ích kỷ nẩy sinh, chỉ lo cho ḿnh nên tham lam nẩy sinh, so đo với người th́ kiêu căng, tật đố, sân hại, nẩy sinh... Nhân đó mà thúc đẩy thân khẩu tạo nghiệp. Nghiệp tạo thành nhân, chiêu cảm quả báo, cứ thế mà nhân quả kéo dài, thành ra là luân hồi bất tận !

Nếu có hành thiện, th́ cũng vẫn do bản ngă điều động; trên mặt h́nh tướng th́ thiện ác là hai đối cực tương phản, song nơi mặt bản thể th́ chỉ là một cái Ta mà thôi. Thế nên, thiện ấy vẫn chỉ là các hành nghiệp luân hồi, đưa vào các cơi thú nhân thiên.

Khi được hưởng các phước trời người, th́ lại sinh ái đắm, hoặc là sinh kiêu mạn; cho nên có gặp Phật nghe Pháp, th́ hoặc là lơ là không thích hợp, hoặc là hạch hỏi xem Phật có danh vọng thế lực ǵ trong đời không mà phục, hoặc là nh́n ngắm xem Pháp có mang lại được hưởng thụ nào không mà theo, hoặc chỉ biết thực hành các pháp hữu lậu để mà hưởng công đức, hoặc lại sử dụng Phật Pháp để chỉ t́m lợi dưỡng riêng tư.

Do đó mà gặp Phật nghe Pháp cũng chỉ luống qua không, thế tục vẫn hoàn thế tục; đôi khi lại thành oan gia hủy báng, tạo thành ác nghiệp đọa lạc !

Hoặc nếu có kính Phật tin Pháp, mong muốn nương theo về Phật, th́ chỉ mong sao cho được an thân, không dám phát Tâm đại Đạo; cần cầu được hành theo Pháp, th́ cũng bị Ngă chủ động: Tôi tu, Tôi hành, Tôi đắc, Tôi chứng, cho mọi hoạt động của Ngă, mọi hành nghiệp của Tôi, là chân thật cụ thể để đưa đến Đạo quả, c̣n đối với việc phát Tâm, th́ cho là tâm tưởng xuông, không phải là điều chủ yếu. Thế nên tu hành bao nhiêu cũng chỉ khác với thế tục so trên phương diện h́nh tướng, c̣n th́ ở nơi bản thể, cũng vẫn là một hoạt động của cùng một cái Ta thôi. Do đó nên tận cùng sức, cũng lạc vào cơi Thiền, Định, ṿng vo không khỏi luân hồi.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát tâm t́m cầu thành tựu cho được Vô Thượng Bồ Đề)

Thế nên, từ nay cho đến tận cùng vị lai, con Nguyện chân thành phát Tâm đại Đạo: khát khao Phật quả, thiết tha cần cầu con Đường đưa đến Phật quả, hân hoan mong muốn thực hành con đường đại Đạo.

Con Nguyện dồn hết bao nhiêu năng lực thiết tha mong cầu trong con, một ḷng mong được Trí huệ Vô thượng Bồ đề.

Bên ngoài Trí huệ và Phật quả ra, con Nguyện xả bỏ và không nương theo, bất cứ mục tiêu mong cầu nào khác, dù là trí huệ chân thật của bậc Nhị thừa, dù là kết quả tối cao của hàng La Hán, hay dù trọn hết vô lượng công đức của mọi cơi trời cộng lại.

Con Nguyện duy nhất một ḷng - chỉ cầu thành Phật mà thôi.

(Quán tưởng chư Phật đồng thời đưa tay ra xoa đảnh ấn khả thọ kư cho ḿnh. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Thường Trụ Tam Bảo Tác Đại Chứng Minh. (3 Lạy)

2. PHÁT TÂM ĐẠI BI

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quan sát ư nghĩa Tâm từ bi siêu việt lên trên tâm Nhị thừa và công năng vi diệu tối thiện xảo của Tâm đại bi nhằm phối hợp Tâm bồ đề và tâm chấp ngă làm thành phương tiện độ sinh)

Nếu thành Phật chỉ để tự lợi mà thôi, th́ Bồ đề của Nhị thừa chính là cứu cánh. Nay con cần cầu Vô thượng Bồ đề của mười phương vô lượng chư Phật, chính là để cứu độ vô biên pháp giới chúng sinh, mà cũng là do v́ phải cứu độ hết vô biên pháp giới chúng sinh, th́ con mới chứng đắc được Vô thượng Bồ đề:

Bởi Tâm đại Đạo Vô thượng Bồ đề là Tâm giác ngộ, thấy rơ thật tướng của tất cả các Pháp là Không, vô ngă, tịch diệt, vắng lặng cứu cánh. Do tất cả các Pháp sở duyên là tịch diệt vô ngă, nên Tâm Bồ đề năng chiếu cũng vô ngă tịch diệt. Tâm và Cảnh đều không tịch vắng lặng, th́ đó vốn là cảnh giới cứu cánh tự lợi của Nhị thừa. Tâm giác của Phật không ngừng tại đó, bởi Tâm giác tuy tịch mà chiếu: chiếu thấy có ta có người, vô lượng chúng sanh đều như huyễn hóa không thật, chính tức là Không, vô ngă, tịch diệt; song v́ chúng sinh không giác, nên khởi đủ thứ hành nghiệp vọng đọng, tạo nên vô lượng cảnh giới hư ảo. Chư Phật với Tâm Bồ đề chiếu rơ cảnh giới chúng sinh huyễn ảo không thật như thế, các Ngài mới hưng khởi dậy Tâm đại Từ Bi, ứng theo nhân duyên chúng sinh, mà thành có ta có người.

Ta đó của Phật, nhân duyên theo chúng sinh mà có, thể là Đại Bi, dụng hay hành nghiệp là phương tiện độ sinh, cứu cánh là thường hằng tịch diệt, không, vô ngă. Ta đó của Phật v́ muốn cứu độ vô lượng vô biên pháp giới chúng sinh, mà ở trong nhân duyên của chúng sinh, phát tâm thành Phật, tu vô lượng công đức, hành viên măn lục độ, trong bao vô lượng kiếp, để nhiêu ích chúng sinh, để thủ hộ hữu t́nh, mà độ tận không sót.

Ta đó của Phật không phải là Ngă kiến, không phải là Ngă chấp , không phải là một cái “Tự“, đối lại với cái “Tha“ của tất cả chúng sinh; mà Ta đó do nhân duyên nơi chúng sinh mà có, Ta đó có v́ tất cả chúng sinh và cho tất cả chúng sinh, Ta đó là để độ sinh và để ích lợi cho tất cả chúng sinh. Ta đó chính là Tâm đại Từ Bi cứu độ vô lượng chúng sinh của khắp mười phương vô lượng chư Phật.

(Phần phát nguyện: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện không bao giờ xả bỏ chúng sinh cho đến bao giờ độ tận hết mới thôi.)

Thế nên, từ nay cho đến tận cùng vị lai, con Nguyện chân thành phát Đại Bi Tâm: khát khao cứu độ chúng sinh, thiết tha thực hành lục độ lợi ích chúng sinh, hân hoan tùy thuận nhiêu ích chúng sinh.

Con Nguyện dồn hết bao nhiêu năng lực t́nh cảm thiết tha trong con, đều chuyển thành Đại Bi Tâm: chúng sinh mà độ chưa hết, th́ năng lực Bi Nguyện trong con sẽ không cùng tận.

Con Nguyện vĩnh viễn sẽ không bao giờ xả bỏ chúng sinh, dù có v́ thế mà phải ĺa xa Niết Bàn, trôi lăn ở trong sinh tử; dù cho tất cả tội lỗi, phiền năo cũng như khổ đau, đều từ do nơi chúng sinh mà ra; dù bao gian nan khổ nhọc, con phải nhẫn nại chịu đựng, để mà lợi ích chúng sinh; chỉ miễn nhiêu ích chúng sinh, th́ dù chúng sinh bất tận, phiền năo chúng sinh không cùng, con nguyện cam tâm hoan hỷ.

Con nguyện duy nhất một ḷng - độ tận chúng sinh mà thôi.

(Quán tưởng mười phương chư Phật và chư Bồ tát thánh chúng cùng với vô biên pháp giới chúng sinh đều được thu nhiếp trọn hết vào Tâm nguyện đại bi của ḿnh, kết thành một khối quang minh duy nhất, vô tướng vô lượng, không trong không ngoài, không đến không đi, không thủy không chung, sáng rực biến chiếu vô hạn vô ngại, song tịch diệt và dứt lặng. Quán tưởng tất cả thân tâm đều lắng diệt không tịch, rồi đảnh lễ:)

Nam Mô Mười Phương Thường Trụ Tam Bảo Tác Đại Chứng Minh. (3 Lạy)

IV. HỒI HƯỚNG

(Nhiếp tâm vừa đọc lên vừa quán sát ư nghĩa công đức vô lượng và tối thượng của Tâm Bồ đề đối với tất cả mọi loại tâm thức. Tin tưởng hoàn toàn vào công đức vô địch của sơ phát Tâm này)

Mười phương chư Phật Thế Tôn, cùng chư đại Bồ tát, đều do phát đại Tâm Bồ đề, mà thành Chính đẳng Chính giác. Bồ đề Tâm như dũng tướng vô địch, Bồ đề Tâm như vũ khí tối lợi hại, chiến thắng và đánh bại tất cả các Ma quân ở trong cũng như ngoài. Bồ đề Tâm là đất bằng an ổn, ĺa xa sóng gió của phiền năo; Bồ đề Tâm là đầu non cao ngất, mà bao ngọn sóng xô của biển khổ, cũng không bao giờ bén mảng tới được.

Bồ đề Tâm là Tâm tối thắng trong tất cả các tâm, là Tâm tối thượng trong tất cả các tâm, bao la to lớn nhất trong tất cả các tâm, v́ Bồ đề Tâm tổng tŕ hết tất cả các tâm, nhiếp thọ hết tất cả các tâm, như hư không dung chứa trọn hết mọi pháp. Bồ đề Tâm là Tâm tối thiện, đại thiện, đệ nhất thiện, đệ nhất chân thật thiện trong tất cả các tâm thiện, v́ Bồ đề Tâm là năng lực duy nhất làm chuyển hóa và cứu độ được vô lượng chúng sinh. Bồ đề Tâm là Tâm chân thật nhất, thanh tịnh nhất, tôn quư nhất trong tất cả các tâm, v́ Bồ đề Tâm là năng lực bất tận phát sinh vô lượng vô biên không cùng tận chư Phật và chư đại Bồ tát ...

(Phần phát nguyện hồi hướng: Quỳ thẳng, chắp tay và chân thành phát nguyện hồi hướng với tất cả tấm ḷng từ bi)

Công đức của sơ phát tâm Bồ đề này, do đó mà vốn vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn. Chỉ trong một niệm phát Tâm, công đức cũng đủ không bao giờ tận, huống ǵ nay con lập nguyện – phát Tâm vô thượng Bồ đề: cho đến tận cùng vị lai, độ tận chúng sinh không sót. Công đức bất tận bất khả thuyết này, con nguyện không chút xẻn tiếc, không hề một niệm lưỡng lự, mà xin hồi hướng trọn vẹn, trao về cho mọi chúng sinh, nguyện cho toàn thể pháp giới chúng sinh, cùng con chứng đắc Vô thượng Bồ đề, đồng đẳng cùng với mười phương vô lượng chư Phật không có chút ǵ sai biệt.

(Quán tưởng tất cả cảnh giới của Pháp giới chúng sinh đều trở thành trang nghiêm thanh tịnh đồng với các cơi Tịnh độ của chư Phật. Tưởng rồi đảnh lễ:)

Nam mô Mười Phương Thường Trụ Tam Bảo Tác Đại Chứng Minh.(3 Lạy)

Source:   Chùa Phật Huệ     Aug 19, 2005


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 6: Đă gửi: 10 March 2006 lúc 10:22pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

BỒ ĐỀ TÂM

HT Thích Trí Quảng

Pháp Phật nhiều vô lượng, thường được diễn tả có 84.000 pháp môn, từ việc cúng dường, xây chùa, đúc tượng, ấn tống kinh điển cho đến nhóm cát làm pháp Phật hay chỉ niệm một câu Nam mô Phật... tất cả đều là phương tiện giúp chúng ta phác bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo cho đến ngày chứng đắc quả vị toàn giác.

Như vậy điều quan trọng chính yếu của hàng đệ tử Phật, trên bước đường tu hành, trước tiên, dù xuất gia hay tại gia đều cần phải phát bồ đề tâm.

Đức Phật dạy rằng ai cũng có bồ đề tâm, nhưng v́ trải qua nhiều đời, chúng ta bị ngũ uẩn bao bọc, ngăn che, trần ai làm ô nhiễm nên không phát được bồ đề tâm. V́ vậy, dù bồ đề tâm có sẵn, mà không đủ duyên cũng không thể phát.

Bồ đề tâm phát khởi từ đáy ḷng, từ thâm tâm thôi thúc hành giả tu, không thể làm khác được. Điển h́nh như đức Phật khi c̣n là Thái tử, sống trong cung vàng điện ngọc, sung sướng tột đỉnh, nhưng Ngài vẫn cảm thấy đây không phải là thế giới của ḿnh. Giàu sang quyền lực nhất thiên hạ mà Ngài nắm sẵn trong tay cũng chẳng đủ sức cám dỗ Ngài, chẳng qua v́ bồ đề tâm luôn vang vọng trong tâm hồn. V́ thế, từ thuở thanh xuân, Ngài đă cảm nhận cuộc đời này chỉ là giả tạm, vô ngĩa. Ư thức ấy càng thấm đậm hơn, khi Ngài dạo chơi bốn cửa thành, chạm trán với cảnh khổ đau của bệnh hoạn, già nua, chết chóc. Và h́nh ảnh thanh thoát của vị sa môn khơi dậy nơi Ngài một cái ǵ cao quư, vĩnh hằng bất tử, nói khác tâm bồ đề Ngài đă được đánh thức. Phần lớn, chúng ta phải nếm mùi cay đắng, thất bại, khổ đau rồi mới phát tâm tu. Nhưng đối với người có căn lành lớn dù sống trong nhung lụa họ vẫn ư thức cuộc sống ở Ta Bà vô thường, tạm bợ. Từ đó phát tâm, dấn thân t́m cầu nếp sống cao cả, chẳng từ gian nan, cần khổ vượt khó, trong khi người tu v́ lợi dưỡng không thể đi trọn con đường thánh thiện.

Bồ đề tâm đă phát rồi, cần được nuôi dưỡng, giữ ǵn, giúp nó phát triển, lớn mạnh cho đến ngày thành Phật mới là việc khó, ít ai thành công được. Tổ Quy Sơn cũng xác nhận việc giữ ǵn bồ đề tâm tối quan trọng, không đơn giản.

Làm cách nào để nuôi dưỡng bồ đề tâm? Đối với các bậc Bồ tát thị hiện, phước đức quá lớn, không ǵ có khả năng lay chuyển, làm tổn hại tâm bồ đề của các Ngài. Tuy nhiên, với hàng phàm phu tầm thường như chúng ta, bồ đề tâm mới phát, mà trần lao nghiệp chướng nhiều, chắc chắn dập chết tâm bồ đề chúng ta ngay. Đây là điều chúng ta cần suy nghĩ, cân nhắc trên đường tu.

Theo tôi, muốn nuôi được bồ đề tâm, chúng ta phải phát đúng thời, đúng chỗ, đúng đối tượng. Ba điều này không hội đủ, bồ đề tâm dễ bị hao gầy cho đến chết mất. Ví dụ như ta gieo hại giống vào lúc hạn hán, nhất định không thể nẩy mầm, lên cây được. Phải lựa mùa thích hợp mới gieo trồng để hưởng quả tốt. Thực tế cho thấy, có người vừa đọc quyển sách giải thích nghĩa lư thâm sâu của Phật dạy hoặc vừa nghe thuyết pháp, phát bồ đề tâm muốn tu. Nhưng gặp bạn rủ làm việc khác, bồ đề tâm bị héo liền, niệm tâm trước thích tu, niệm tâm sau đổi khác, chẳng màng đến nữa. Hoặc có người gặp vị chân Tăng, phát tâm tu ngay. Đến khi vào chúng hội, sống chung với người đồng hành không giống như ta nghĩ tưởng, khiến chúng ta nản ḷng. Và sau đó, v́ nghiệp chướng trần lao nhiều, trở về nhà cũng chạm trán với những cái bất như ư, thế là bồ đề tâm thối luôn. Không có minh sư, gặp bạn xấu và có nhiều cám dỗ lôi kéo, tất cả những bao vây xấu ác ấy giết chết tâm bồ đề vừa chớm phát.

Riêng tôi, cuộc đời tu hành vững chắc nhờ thân cận minh sư, pháp lữ đồng hành tốt, không gặp cám dỗ, gặp hoàn cảnh tốt nhiều hơn xấu, nói khác, tôi phát tâm đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng.

Thật vậy, tôi học đạo với Ḥa thượng Trí Đức là bậc chân tu, Ḥa thượng Trí Tịnh là vị thật học và Ḥa thượng Thiện Ḥa là vị quyết ḷng độ sanh. Cuộc sống các Ngài thể hiện đúng chánh pháp, thành tựu công đức, tác động tôi lập chí noi gương các Ngài, nuôi lớn tâm bồ đề. Trái lại, không may gặp thầy tu lâu, nhưng sanh chứng, nhiễm thế gian, đ̣i hoàn tục. Họ đầu độc ta bằng lời cảnh cáo: "Tôi tu 50, 60 năm c̣n chẳng được ǵ, ông liệu cái thân ông tới đâu!". Cảnh đó dễ làm chúng ta khựng lại, nghi ngờ không chừng họ nói đúng, họ tu lâu vậy c̣n chẳng được lợi lạc, trong khi chúng ta mới tu th́ thấm vào đâu, làm chúng ta nhụt chí. V́ vậy, nếu tu sai, không đắc đạo, tác động người khác bỏ tu, bị coi như phạm tội phá pháp là tội rất lớn. Ngoài việc gặp đúng đối tượng chân chính để phát tâm bồ đề, việc phát tâm đúng lúc cũng không kém quan trọng. Như tôi may mắn tu học đúng vào lúc Phật giáo được chấn hưng, Phật học đường vừa được thành lập. Tuy lúc đó trường c̣n thiếu thốn nhiều mặt, nhưng nhờ giáo dưỡng của các vị minh sư chân tu thật học, mà tôi được mở mang trí tuệ, an trú trong chánh pháp. Càng tiến sâu vào việc tu học, thấy biết về cuộc đời càng chính xác, việc làm càng có ư nghĩa, tức bồ đề tâm đă được nuôi lớn, giúp ta tiến nhanh trên đường tu, không thể nào hư hỏng, bỏ cuộc.

Trái lại, phát tâm không đúng lúc, muốn tu không được cho phép, muốn học th́ không có trường, nên trần lao nghiệp chướng bộc phát, làm chết bồ đề tâm. Ví dụ vào năm 1975, rất khó tiến tu, v́ lúc đó, các sư hoàn tục khá đông và việc tu học lại bị hạn chế nhiều mặt, không có trường dạy đạo. Thiếu chất liệu nuôi dưỡng bồ đề tâm, th́ tất yếu phải thối tâm. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây việc tu học được rất nhiều thuận lợi dễ dàng. Với hướng đổi mới, trong nước có 30 trường Cơ bản, 2 trường Cao cấp, 2 trường Cao đẳng Phật học và các khóa chuyên đào tạo giảng sư ï. Phát tâm tu trong hoàn cảnh có nhiều phương tiện tốt cho việc thăng hoa tri thức, đạo đức, chúng ta dễ dàng phát triển nếp sống đạo.

Sau khi đă phát tâm bồ đề, chúng ta nên t́m dinh dưỡng để nuôi bồ đề tâm lớn mạnh, đừng cho mất. Chất liệu nuôi sống bồ đề tâm là pháp Phật. Tu mà không tụng kinh, không nghe Pháp, không thiền định th́ đời sống tâm linh chúng ta thành yếu đuối, bệnh hoạn. Bồ đề tâm cần ăn đề hồ của diệu pháp và uống sữa Thiền định mới khỏe mạnh.

Đề hồ của diệu pháp mà bồ đề tâm hấp thu được, nghĩa là khi đọc tụng kinh điển, tâm hồn chúng ta trở nên an lạc, hiền dịu hoặc khi nghe pháp, chúng ta an trú trong pháp hỷ lạc, trần lao chẳng thể khuấy động. Trái lại, tụng kinh nhiều hay nghe pháp lâu, mà cuộc sống vẫn đầy đủ tham sân, phiền năo, đố kỵ, là biết không có bồ đề tâm hay không tiếp thu được dinh dưỡng của diệu pháp. Người có bồ đề tâm nên ăn được pháp mầu của Phật, tụng kinh, nghe pháp với niềm hăng say thích thú và thể hiện tinh ba đạo pháp trong lời nói, trong việc làm, trong cuộc sống hằng ngày của chính họ. Được như vậy mới có thể tiến xa trên đường đạo.

Song song với tụng kinh, nghe pháp, chúng ta thực hành Thiền định để nuôi lớn bồ đề tâm. Không Thiền định, tâm không b́nh ổn, chỉ sống với vọng thức, lăn xăng nghĩ tưởng đủ thứ sai lầm, từ đó phát triển nghiệp chướng trần lao, tu như vậy cùng kiếp cũng chẳng được ǵ.

Người có bồ đề tâm thường sống trong chánh định, không thích tiếp xúc với đời hoặc khi hành Bồ tát đạo, cần phải tiếp xúc, th́ cũng tiếp xúc bằng bồ đề tâm, nghĩa là dùng tâm thanh tịnh đối xử với đời. V́ vậy, để bồ đề tâm tăng trưởng, đ̣i hỏi chúng ta cần có đời sống trầm mặc, không bị phiền năo quấy rầy. Đức Phật Thích Ca được tôn kính là đấng năng nhơn trầm mặc v́ Ngài thanh tịnh tuyệt đối, tức luôn an trụ chánh định.

Thiết nghĩ thực chất của Thiền giúp tâm đứng yên, không khởi vọng thưc hơn thua, ham muốn và phát troển chơn tánh. Hoàn cảnh không chi phối, nên bồ đề tâm mỗi ngày lớn lên, thấy rơ giáo nghĩa sâu sắc và tác động cho tâm, càng yên tĩnh cao hơn.

Tóm lại, bước theo dấu chân Phật, chúng ta đọc tụng kinh điển, suy nghĩ nghĩa lư sâu xa t́m ẩn bên trong và sau cùng biến pháp tiếp thu được thành sự sống thực của chính ḿnh, mang lại an lạc, sáng suốt cho ta và người. Mong rằng tất cả phát bồ đề tâm đúng như pháp và siêng năng dùng cơm Thiền, nước pháp để trưởng dưỡng bồ đề tâm thăng hoa cho đến ngày đạt quả vị Chánh đẳng giác.

HT Thích Trí Quảng



------------------------------------------------------------ --------------------
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 6: Đă gửi: 10 March 2006 lúc 10:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Phát Bồ Đề Tâm Suối Nguồn Của Báo Hiếu

-----{-----

Thích Huệ Giáo



Khi chúng ta nghĩ về công ơn sanh thành dưỡng dục th́ đă tạo nên một mạch nguồn của ân đức, của nghĩa trọng t́nh sâu,của ḍng tâm thức luân lưu bất diệt, một suối nguồn của thơ ca, của tiếng nhạc trầm hùng lúc sâu lắng lúc th́ nhẹ nhàng đi vào nhân thế vừa bất hủvừa rung động thức tỉnh, thế mới biết giấy mực trần gian chẳng viết lên nỗi hai chữ Mẹ Ơi cho trọn vẹn.

Báo hiếu cũng vậy, lại là suối nguồn vĩ đại hơn nữa bởi lẽ báo hiếu không chỉ trong phạm vi nhớ ơn và biết ơn đến Oâng Ba-øCha Mẹ, mà c̣n là biết và nhớ ơn cao trọng t́nh Thầy tṛ,Tổ quốc, ơn những đồng loại cộng tồn. Người Phật tử khi nói đến báo hiếu th́ thật là rộng lớn nhưng nói gọn lại là việc tri ân và báo ân đến tứ ân: Ơn Tam bảo, ơn Sư trưởng, ơn Cha mẹ và cuối cùng là công ơn của Đàn việt- Chúng sanh.



Tuy nhiên, để làm được việc này,chúng ta không những thể hiện những cử chỉ đơn thuần trong hiếu để, những rung động trong t́nh cảm thường t́nh, một chiều trong suy nghĩ đối đăi, hành động lễ nghi trong thế tục mà phải lập nguyện thiết tha, phát bồ đề tâm dơng mănh. Khi có phát bồ đề tâm, th́ việc tri ân và báo ân mới đầy đủ ư nghĩa của nó.



Phát bồ đề tâm chính là lập chí nguyện mong cầu vô thượng bồ đề, đây là ư nghĩa đầu tiên và quan trọng nhất của người học Phật. Bởi lẽ, bồ đề tâm là căn bản của Bồ tát giới. Phát bồ đề tâm là khơi dậy toàn bộ bước đi của tâm thức, là ư niệm chân chánh của muôn vàn sự nhận thức, là sự thành tựu của tất cả muôn hạnh lành, cho đến con đường Phật quả cũng không ng̣ai sự bắt đầu là phải phát bồ đề tâm.



Trong bài văn khuyến khích PhátTâm Bồ Đề, chúng ta thấy rằng Ngài Thật Hiền đă không có một khỏang khắc nào Ngài lăng quên đến việc sống chết là đại sự. Sự vô thường mơng manh của đời người mà Ngài đă không quên khuyến khích tất cả người con Phật phải phát tâm và lập nguyện: Nguyện lập th́ chúng sanh độ nỗi, tâm phát th́ Phật đạo mới thành được.   Tri ân cũng phải khởi phát tâm và Báo ân cũng phải lập nguyện : � nếu quên mất tâm bồ đề mà tu hành các thiện pháp, th́ gọi là hành động theo ma vương�.   Tri ân và báo ân cũng là những lư do để phát khởi tâm bồ đề làm các việc lành và cũng thế tâm bồ đề là suối nguồn của sự báo hiếu.



Không có nỗi khổ nào lớn lao bằng nỗi khổ cứ thăng trầm măi trong luân hồi sinh tử, nỗi khổ của kẻ ngu si gây ra biết bao tội lỗi, nỗi khổ của con lừa chở nặng giữa sa mạc cháy nắng cũng không bằng nỗi khổ lên xuống sáu nẽo ba đường. Đức Phật đă thấy như thế, Ngài đă thương xót tạo nhiều phương tiện để giáo hóa, mỡ nhiều cánh cữa để chúng ta gieo trồng thiện căn, trong lúc chúng ta c̣n đọa đày đâu đó trong chốn u đồ cho đến khi có được thân người, không giây nào phút nào đức Phật tạm thời rời bỏ để chúng ta một ḿnh hành động sai trái quay về với nẽo ác.



Sở dĩ, hôm nay chúng ta có được thân người, lại gặp được Phật pháp, để biết được đâu là thiện căn đă gieo trồng từ trước nay lại sinh ra gặp được Phật pháp và đâu là ác quả nếu làm sẽ nhận lănh quả xấu trong tương lai. Tất cả những hiểu biết ấy của chúng ta hôm nay, không phải từ ân đức của đức Phật th́ ở đâu ra? Nghĩ như thế, mới biết rằng thọ hưởng được ân đức của chư Phật thậm thâm và sâu dày vô lượng, núi non sông biển không thể sánh bằng , chúng ta hiện nay phải báo đáp. Cách báo đáp duy nhất có ư nghĩa cao cả chân chánh,có khả năng báo ân trong muôn một chính là phải phát tâm bồ đề, lập hạnh Bồ tát để cứu độ chúng sanh, ǵn giữ Phật pháp trường tồn mang lợi lạc đến cho mọi loài, như đức Phật đă từng làm trải qua vô lượng kiếp. Phát tâm như thế chính là suối nguồn của sự tri ân và báo ân đến Tam bảo của người con Phật.



Sự cực nhọc của mười tháng cưu mang, ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, tranh đấu trong từng giờ giây phút để con được trưởng thành khôn lớn là một quá tŕnh vật lộn lâu dài của sự sống c̣n và sự thao thức không từng ngưng nghĩ , là sự kết tinh của tất cả tâm huyết từ Cha mẹ. Để làm ǵ?

Chỉ đặt ước vọng sao con thành người với đúng nghĩa của nó, hy vọng đủ khả năng thừa kế được gia phong, làm rạng danh tiên tộc trong ư nghĩa đời thường. Thế mà trong chúng ta, vẫn có người không nhận thức được công ơn sâu dày ấy, khi Cha mẹ c̣n sống th́ không có ngày cung phụng hầu ha, cơm nước đở đần, chết th́ quên ngày, cúng tế chạp kỵ không chu toàn. Khi Cha mẹ c̣n sanh tiền th́ chúng ta không có khả năng nuôi dưỡng cơ thể, lúc chết th́ chúng ta bất lực trong việc trợ lực nghiệp thức. Đường nào cũng thiếu sót, suy nghĩ như vậy mới thấy chúng ta tội lỗi, ích kỷvô biên , bất hiếu trầm trọng, cần phải tỉnh thức phát tâm rộng lớn để luôn luôn nhớ nghĩ và hành Phật đạo mới hầu mong tri ân và báo ân nghĩa nặng của Cha mẹ.

Như vậy, chỉ có phát tâm rộng lớn tu hành, khắp độ chúng sanh trong trăm đời ngh́n kiếp, lúc ấy chúng ta mới dám nghĩ đến công ơn sanh thành dưỡng dục và con đường của báo hiếu chân chánh. Có phát tâm như vậy th́ không những chúng ta báo ân được Cha mẹ trong một đời mà Cha mẹ trong nhiều đời cũng đầy đủ lợi lạc, đều được siêu thăng. Phát tâm như vậy, chính là suối nguồn của tri ân và báo ân đến Cha mẹ của người con Phật.



Cha mẹ cho chúng ta tấm thân, những vị Thầy tôn kính, bậc Sư trưởng cho chúng ta cái Chữ nếu là ở đời, đối với đạo Thầy chính là người cho chúng ta giới thân huệ mạng để vững bước đi trên con đường đạo thênh thang và cũng lắm chông gai. Chúng ta sở dĩ biết lễ nghĩa với Cha mẹ, tôn kính đến bậc trưởng thượng, ḥa ái với mọi người chính là được sự giáo dưỡng của Thầy và các bậc Sư trưởng. Nếu chúng ta sống ở đời mà không biết lễ nghĩa, không dùng lễ nghĩa để làm khuôn phép trong giao tiếp th́ có khác ǵ loài cầm thú. Lễ giáo, Phật pháp không hiểu th́ chẳng khác ǵ những hạng tục tử, phàm phu. Hôm nay, chúng ta có được sự trang sức của lễ nghĩa trong giao tiếp, phép tắc trong hành xữ, ân đức ấy chính là tấm ḷng tha thiết,ước vọng của Thầy, Tổ,Sư trưởng trao truyền. Như vậy, chẳng v́ lợi ích của bản thân, mà phải phát khởi bồ đề tâm, làm lợi lạc hết thảy chúng sanh, trong đó không những Thầy ở thế gian, mà Sư trưởng xuất thế đều được lợi ích. Phát tâm như vậy, chính là suối nguồn của tri ân và báo ân đến Thầy, Tổ, Sư trưởng của người con Phật.



Thế giới chúng ta đang sống là một sự kết hợp hài ḥøa giữa cái này và cái khác, giữa cái thiện và cái ác, nếu không có cây cỏ, đất nước, ánh sáng th́ bầu trời này sẽ thiếu sự thăng bằng, con người sẽ sống trong sự khập khễnh, bệnh tật và rấtø buồn chán khi thiếu tiếng chim hót lúc ban mai, thiếu hoa cỏ giữa mùa xuân, thiếu tiếng kêu róc rách của mạch nước từ hang đá lạnh trong đêm khuya, thiếu tiếng ào ạt liên tục của ḍng thác tạo thành bản nhạc rừng vĩ đại.



Con người sẽ không phải là con người toàn diện khi thiếu đồng loại của ḿnh, mỗi cá nhân là một ư tưởng hưng khởi cho ḍng tâm thức cộng đồng trôi chảy được luân lưu. Xung quanh con người nếu không có bằng hữu th́ con người sẽ sống trong cô độc, tẻû nhạt và thiếu vắng tất cả những thứ ấy th́ tâm thức con người sẽ héo ṃn mỗi ngày, rồi sẽ trở thành trơ trọi, mất sức sống.



Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới của sự tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi, thế giới của cái này có th́ cái kia có, và cái này không th́ cái kia cũng không, thế giới chúng ta đang sống là thế giới như một sự vay trả nhiều đời. Chính tấm thân của chúng ta cũng là một sự vay mượn, tâm thức của chúng ta là một ḍng luân lưu của ư thức từ nhiều người khác nhau, của ngoại cảnh và nội giới. Suy nghĩ và hiểu được sâu sắc như vậy, chúng ta mới biết được rằng hiện tại ta và chúng sanh có thể đă chung nhà, cha với con, vợ chồng, anh chị trong quá khứ và khác nhau trong hiện tại, tất cả đều nằm trong một thể b́nh đẳng nhân quả ngh́n đời.



Như vậy, khi tất cả là một thể b́nh đẳng th́ chúng ta không thể không nghĩ đến nỗi thống khổ của người khác mà hưởng lạc, cân nhắc trong hành động để không làm hại người và hại ḿnh, suy nghĩ được sâu sắc như vậy là chúng ta đă biết được cách phát tâm rộng lớn để tri ân và báo ân giữa người và người, giữa người và môi trường xung quanh tạo nên một thế giới loài người sống có ḥa ái. Phát tâm như vậy, chính là suối nguồn của tri ân và báo ân đến với đàn việt và chúng sanh.



Bên cạnh tri ân và báo ân rộng lớn được tóm tắt trong tứ trọng ân, tuy nhiên khi phát tâm và lập nguyện như vậy th́ ư nghĩa của nổi khổ trong sanh tử chúng ta cũng đă có con đường để đi ra, v́ chúng ta đă biết sống trong đạo lư làm người, và thấy con đường thoát khổ. Khi biết được sự tri ân và báo ân dựa trên căn bản phát tâm bồ đề chính là chúng ta đă tôn trọng nhân cách toàn diện của kẻ khác và cũng chính là tôn trọng tánh linh của chúng ta và của mỗi con người.



Khi biết được phải phát tâm rộng lớn để báo ân th́ cũng chính là chúng ta đă làm cho bản thân của chúng ta trở nên hoàn thiện bởi lẽ không có điều ác nào ác hơn tội bất hiếu, không có điều thiện nào thiện hơn là hiếu thảo. Suy nghĩ như vậy chính là sự hoàn thiện bản thân cách là biết hổ thẹn với những hành động sai trái của ḿnh mà sám hối vậy.



Phát tâm bồ đề rộng lớn để tri ân và báo ân chính làbước đi của ư thức vô ngă và muốn khẳng định rằng tâm thức của chúng ta thư thái, tự do và không sống trong sự lừa đảo , giả dối, không bị vướng kẹt bởi bên này và bên kia, cũng không có khiếm khuyết. Sự hoàn hảo trong tâm thức chính là dấu hiệu của an lạc và giải thoát, nếu chúng ta biết ǵn giữ và biết phát tâm dơng mănh để phát triển trạng thái tâm ấy th́ cỏi Tịnh độ đâu có xa, Niết bàn đă ngay trần thế.



Phát tâm và lập nguyện như vậy, để báo hiếu, để tri ân và báo ân, để đền ơn đáp trả không phải là sự phát tâm một chiều, như thế không phải là tà phát tâm. Sự tri ân và báo ân thấy vậy nhưng không phải là việc dễ làm, hiểu nhưng đăkhông làm, làm nhưng không hiểu, cũng không phải là việc nhỏ, không phải là việc làm chỉ trong một đời người, tuy nhiên chúng ta phát tâm rộng lớn dám làm và dám nghĩ trong chuyên cần nhớ nghĩa trong nhiều đời nhiều kiếp, như vậy đâu phải là tiểu phát tâm. Từ sự tri ân và báo ân mà nghĩ đến nỗi thống khổ sinh tử, phát khởi ḷng cần hành đạo bồ đề để làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, phát tâm như vậy đâu phải là nguỵ phát tâm báo hiếu. Suy nghĩ đến tri ân và báo ân mà phát khởi tâm bồ đề đối với chúng sanh mà thấy tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, đối với tự tánh Phật đạo nên nguyện thành tựu, từ tấm thân này mà thấy là Phật thân. Phật thân là pháp thân tṛn đầy thường hằng chính là ư nghĩa phát tâm viên măn.



Phát tâm và lập nguyện như vậy chính là căn bản của phát bồ đề tâm của bồ tát đạo là suối nguồn của báo hiếu. Đây cũng chính là ư nghĩa báo hiếu đầu tiên và quan trọng của người con Phật.



Kỳ viên- Nha trang-An cư PL: 2546.



-- o0o --

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 6: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 8:24pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

KHUYẾN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM VĂN
Đại Sư Thật Hiền Soạn
Dịch:Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn

Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quư vị thương xót, lưu ư một chút mà nghe và xét cho.

Từng nghe, cửa chính yếu để vào đạo th́ sự phát tâm làm đầu, việc khẩn cấp tu hành th́ sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập th́ có thể độ chúng sanh, tâm phát th́ Phật đạo có thể thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập cái nguyện vững bền kiên cố, th́ dù trải qua nhiều kiếp như số vi trần, cũng vẫn y nhiên ở trong ṿng luân hồi. Dù có tu hành cũng chỉ là uổng công lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Nên kinh Hoa nghiêm nói: "Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành, gọi đó là nghiệp ma". Quên mất mà c̣n như thế, huống chi chưa phát ư? Cho nên muốn học Như lai thừa th́ trước phải phát Bồ tát nguyện, không thể chậm trễ vậy.

Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra th́ làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin v́ đại chúng mà tŕnh bày sơ lược . Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên? Đời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như vậy gọi là tà. Đă không mong cầu hư danh lợi dưỡng, lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ v́ mong liễu thoát sinh tử, v́ chứng đắc Bồ đề, phát tâm như vậy gọi là chánh.

Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy. Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại. Xét xem ba cơi như lao ngục, nh́n sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.

Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh ḿnh nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất, phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào ĺa tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không, chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.

Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết quán xét kỹ càng th́ biết lấy bỏ, biết lấy bỏ th́ có thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề.

I. NIỆM PHẬT TRỌNG ÂN
Thế nào là nhớ ơn nặng của Phật? Đức Phật Thích Ca Như Lai của ta, lúc mới phát tâm, đă v́ chúng ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực. Khi ta tạo nghiệp, Đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa, mà ta ngu si, không chịu tin theo. Ta đọa địa ngục, Phật càng thương xót, muốn thay ta chịu lấy khổ sở, nhưng v́ nghiệp ta quá nặng, không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến cho ta gieo trồng căn lành.

Đời đời kiếp kiếp, Phật luôn theo ta, ḷng không tạm bỏ chốc lát. Khi Phật xuất thế ta c̣n trầm luân, nay được thân người Phật đă diệt độ. Tội lỗi ǵ mà sinh vào thời mạt pháp, phước đức nào lại được dự vào hàng ngũ xuất gia, nghiệp chướng ǵ mà không thấy được thân vàng của Phật, may mắn nào lại được cung nghinh xá lợi của Ngài. Suy nghĩ như vậy mới thấy, nếu đời quá khứ không gieo trồng căn lành th́ làm sao được nghe Phật pháp, không nghe Phật pháp th́ làm sao được biết thường thọ ân đức của Phật. Ân đức này, núi non cũng khó sánh bằng. Nếu không phát tâm quảng đại, hành Bồ tát đạo, xây dựng hộ tŕ Phật pháp, cứu độ chúng sanh, th́ dù cho tan xương nát thịt cũng không thể đền đáp được. Đó là nhân duyên thứ nhất của sự phát Tâm Bồ

II. NIỆM PHỤ MẪU ÂN
Thế nào là nhớ ơn cha mẹ? Thương thay cha mẹ sinh ta khó nhọc, mười tháng mang thai ba năm bú mớm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhả ngọt, mới được nên người. Mong ta tiếp nối gia phong, lo phần tế tự. Mà nay ta đă xuất gia, lạm xưng Thích tử, nhục hiệu Sa môn, đồ ngon vật ngọt đă không phụng dưỡng, cúng tế chạp tảo càng không chu tất. Cha mẹ c̣n sống, ta đă không thể nuôi dưỡng, khi cha mẹ qua đời, ta lại không thể hướng dẫn thần thức. Đối với phương diện thế gian là sự có lỗi lớn, đối với phương tiện xuất thế lại không có ích chi. Hai đường đều lỗi th́ tội nặng khó thoát. Suy nghĩ như thế, chỉ có có cách trong trăm đời ngàn kiếp thường hành Phật đạo, mười phương ba đời khắp độ chúng sanh. Được như thế th́ không phải chỉ cha mẹ một đời, mà song thân nhiều đời nhiều kiếp đều được độ thoát; không phải chỉ cha mẹ một người, mà song thân tất cả mọi người cùng được siêu thăng. Đó là nhân duyên thứ hai của sự phát Tâm Bồ đề.

III. NIỆM SƯ TRƯỞNG ÂN

Không hiểu biết lễ nghĩa th́ chẳng khác ǵ cầm thú, Phật pháp không hiểu th́ cũng như người phàm tục. Nay ta được biết chút ít về lễ nghĩa, được hiểu sơ lược về Phật pháp, ca sa trang nghiêm đắp thân, giới pháp nhuận thấm thân ḿnh, được như thế là nhờ ân đức sâu nặng của sư trưởng. Nếu chỉ cầu quả nhỏ th́ chỉ có lợi riêng cho bản thân ḿnh mà thôi. Nay phải phát tâm đại thừa, phổ nguyện lợi ích hết thảy chúng sanh. Như thế th́ sư trưởng thế gian và sư trưởng xuất thế đều được lợi ích. Đó là nhân duyên thứ ba của sự phát Tâm Bồ đề.

IV. NIỆM THÍ CHỦ ÂN

Nhớ ơn thí chủ là thế nào? Chúng ta ngày nay, mọi thứ cần dùng hàng ngày đâu phải của ḿnh. Cơm cháo hai buổi, quần áo bốn mùa, tật bịnh cần dùng, thân miệng tiêu xài, đều xuất từ sức lực của kẻ khác mà đem đến cho ta sử dụng. Người nhọc sức cày cấy, c̣n khó nuôi miệng, ta ngồi không mà ăn, vẫn chưa vừa ư. Kẻ dệt đan măi hoài mà vẫn gian nan cực khổ, c̣n ta an nhàn y phục thừa thăi, há không thương tiếc? Họ nhà tranh cửa lá, cực nhọc suốt đời, c̣n ta pḥng lớn sân rộng, thong thả cả năm. Đem cái cực nhọc của họ cung phụng cái an nhàn cho ta, làm sao an ḷng. Đem cái lợi ích của người để cung cấp sự no ấm cho thân xác ḿnh, có hợp lư chăng? Do đó, phải vận dụng cả hai thứ bi trí, trang nghiêm cả hai mặt phước huệ, để thí chủ nhờ ơn, chúng sanh được phước, nếu không th́ dù chỉ là một hạt gạo, một tấc vải, vẫn phải có phần trả nợ. Đó là nhân duyên thứ tư của sự phát Tâm Bồ đề.

V. NIỆM CHÚNG SINH ÂN

Thế nào là nhớ ơn chúng sanh? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp thay đổi làm cha mẹ, kia đây đều có ơn với nhau. Nay tuy cách đời hôn mê, không nhớ biết nhau, nhưng lấy lư mà suy ra th́ làm sao không đem sức báo đáp! Ngày nay đội lông mang sừng, nhưng biết đâu kiếp trước ta không phải là con cái của chúng. Hiện tại là các loài ḅ bay máy chạy, nhưng biết đâu quá khứ chúng đă không phải là cha của ta. Thường thường nh́n thấy thơ ấu mà ĺa xa cha mẹ th́ lớn lên đă quên hết h́nh dáng song thân, huống chi cha mẹ con cái đời trước, kiếp trước là họ Trương hay là họ Vương, ngày nay khó mà nhớ rơ. Họ gào thét trong địa ngục, ngất ngư trong ngạ quỉ, thống khổ ai biết, đói khát kêu ai. Tuy ta không thấy không nghe, nhưng họ tất cầu cứu độ. Ngoài Kinh ra nơi đâu bày tỏ được việc này, không Phật chẳng ai chỉ rơ cảnh ấy. C̣n kẻ tà kiến làm sao có đủ sức mà biết được. Cho nên Bồ tát quán sát sâu kiến thấy toàn là cha mẹ quá khứ và chư Phật vị lai, thường nghĩ cách lợi ích cho chúng và thường nhớ trả ơn cho chúng. Đó là nhân duyên thứ năm của sự phát Tâm Bồ đề.

VI. NIỆM SANH TỬ KHỔ

Thế nào là nhớ khổ sinh tử? Ta cùng với chúng sanh, từ vô lượng kiếp đến nay, cứ ở măi trong ṿng luân hồi sinh tử, chưa được giải thoát. Khi sanh trong loài người, lúc ở trên thiên cảnh, khi ở thế giới này, lúc ở phương khác, ra vào đủ cách, lên xuống liền liền. Thoáng chốc làm trời, thoáng chốc làm người, thoáng chốc sanh vào cơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Cửa đen sáng ra chiều về, hang sắt mới tạm ĺa khỏi lại bước vào. Lên núi đao th́ thân thể không c̣n mảnh da nguyên vẹn, vào rừng kiếm th́ tim gan cũng bị cắt xả. Sắt nóng không hết đói, mà nuốt vào th́ ruột gan cháy nát, đồng sôi đâu khỏi khát, mà uống vào th́ xương tan thịt nát. Cưa bén cắt thân, cắt đứt ra là liền lại, gió lạ thổi vào th́ chết rồi lại sống ngay. Trong thành lửa dữ chỉ nghe tiếng thét gào thảm thiết, trên bàn chưng nướng toàn nghe âm thanh đau khổ thống thiết. Băng tuyết đông lại th́ như sen xanh kết nhụy, máu thịt ră ra th́ như sen đỏ mới nở. Ở trong địa ngục, một đêm chết sống thường đến cả vạn lần, một buổi thống khổ mà như trăm năm ở nhân gian. Măi hoài làm cho ngục tốt mệt nhọc, nhưng có ai chịu nghe lời Diêm vương khuyên bảo. Khi thọ quả báo mới biết đau khổ, dẫu hối hận cũng đâu có kịp; lúc thoát khỏi cảnh khổ th́ lại quên ngay, vẫn tạo nghiệp y như cũ. Đánh con lừa đến đổ máu, đâu biết đó là cái bi thảm của mẹ ḿnh; lôi con heo đến ḷ thịt, nào hay chính là cái đau thương của cha ta.


Tâm không phải thường trụ nên giống như thương khách bôn ba giong ruổi mọi nơi, thân không có h́nh dáng cố định nên khác nào pḥng ốc thường dời đổi. Bụi nhỏ của cả đại thiên thế giới cũng khó sánh thân luân hồi, nước đầy trong bốn biển vẫn không bằng lệ biệt ly. Xương mà chất th́ hơn núi cao, thây nằm ngang dọc th́ nhiều hơn đại địa. Giả sử không được nghe lời Phật th́ việc ấy ai thấy ai nghe, chưa được đọc văn Kinh th́ lư này ai hay ai biết. Vậy mà có kẻ vẫn tham luyến như xưa, si mê như cũ, chỉ e rằng muôn kiếp ngàn đời một lần sai lầm là trăm lần sai lầm. Thân người khó được mà dễ mất, giờ tốt dễ trôi mà khó kéo. Rồi đường hướng mịt mờ, biệt ly dài dặc, ác báo tam đồ tự ḿnh phải chịu, thống khổ không nói hết được, mà ai chịu thay. Tŕnh bày đến đây, há chẳng lo sợ sao! Cho nên hăy dứt nguồn sinh tử, vượt bể ái dục, ḿnh người cùng siêu thoát, đồng lên bờ giác. Từ vô lượng kiếp cho đến nay quan trọng là ở chỗ này. Đó là nhân duyên thứ sáu của sự phát Tâm Bồ đề.

VII. TÔN TRỌNG KỶ LINH

Thế nào là trọng linh tánh của ḿnh? Tâm hiện tiền của chúng ta cùng với đức Thích Ca Như Lai không hai không khác. Vậy mà tại sao Thế Tôn từ vô lượng kiếp đă sớm thành chánh giác, c̣n chúng ta th́ vẫn c̣n là phàm phu hôn mê điên đảo. Lại nữa Đức Phật Thế Tôn th́ có vô lượng thần thông, trí huệ, công đức trang nghiêm, c̣n chúng ta chỉ có vô biên nghiệp chướng phiền năo, sinh tử buộc ràng. Tâm tánh là một mà v́ mê ngộ nên cách xa một trời một vực. Lặng đi mà nghĩ mới thấy hổ thẹn. Ví như ngọc báu vô giá vùi xuống bùn dơ mà xem như ngói gạch, không chút thương tiếc quí trọng. V́ thế hăy dùng vô lượng thiện pháp mà đối trị vô biên phiền năo. Tu đức có công, th́ tánh đức mới lộ. Bấy giờ th́ như ngọc báu được rửa, treo trên phướn cao, ánh sáng rực rỡ, chói lấp tất cả. Thế mới gọi là không uổng công Đức Phật giáo hóa, không phụ tánh linh của ḿnh. Đó là nhân duyên thứ bảy của sự phát Tâm Bồ đề.

VIII. SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG

Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Kinh dạy: "Phạm một tội kiết la cũng phải đọa địa ngục bằng năm trăm tuổi thọ của bốn Thiên vương. Kiết la là tội nhỏ mà c̣n bị quả báo đến thế, huống chi tội nặng, quả báo thật khó tả. Nay chúng ta, mỗi cử chỉ động tác hằng ngày, hằng trái với giới luật, lúc ăn lúc uống thường phạm vào thi la. Một ngày tội lỗi đă phạm, cũng đă vô lượng, huống chi trọn đời nhiều kiếp, tội lỗi đă phạm khó mà nói hết. Cứ lấy ngũ giới mà xét, th́ mười người đă có đến chín người phạm, phát lộ th́ ít mà che giấu lại nhiều. Ngũ giới là giới của Ưu bà tắc mà c̣n không giữ ǵn đầy đủ, huống chi các giới Sa di, Tỳ kheo, Bồ tát, th́ không cần nói đến vậy.

Hỏi cái tên th́ nói "Tôi là Tỳ kheo", hỏi cái thật th́ hăy c̣n chưa đủ làm Ưu bà tắc, như thế mà không xấu hổ sao! Phải biết, giới luật của Phật không thọ th́ thôi, thọ th́ không được hủy phạm, v́ không phạm th́ thôi, phạm th́ cuối cùng nhất định bị đọa lạc. Trừ phi cảm thương thân ḿnh, thân người, lại xót xa cho ḿnh và kẻ khác, thân và khẩu cùng tha thiết, lệ rơi theo tiếng, khắp cùng với chúng sanh khẩn cầu sám hối, nếu chẳng thế th́ quả báo ác ngàn đời muôn kiếp cũng khó tránh khỏi. Đó là nhân duyên thứ tám của sự phát Tâm Bồ đề.

IX. CẦU SANH TỊNH ĐỘ

Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? Ở cơi này tu hành th́ sự tiến đạo rất khó khăn, văng sinh cơi kia th́ sự thành Phật cũng rất dễ dàng. Dễ dàng nên một đời đă có thể đạt đến, khó nên nhiều kiếp vẫn chưa thành tựu. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước, người người xu hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn, chỗ chỗ chỉ qui. Sự tu hành trong thời kỳ mạt pháp này, không có pháp nào vượt qua pháp môn này. Nhưng kinh đă nói : " Căn lành nhỏ th́ khó được văng sanh, phước đức nhiều mới chắc chắn đến được". Nói phước đức nhiều th́ không chi bằng sự chấp tŕ danh hiệu, nói căn lành lớn th́ không chi bằng sự phát tâm quảng đại. V́ thế tạm tŕ danh hiệu Phật hơn cả trăm năm bố thí, một niệm phát tâm Bồ đề rộng lớn vượt hơn cả sự tu hành trong nhiều kiếp. V́ niệm Phật vốn mong thành Phật, vậy tâm lớn không phát th́ niệm Phật để làm chi; c̣n phát tâm vốn để tu hành, vậy Tịnh độ không sanh th́ có phát cũng dễ thối chuyển. Cho nên gieo hạt giống Bồ đề, cày bằng lưỡi cày niệm Phật, th́ đạo quả tự nhiên lớn lên; ngồi chiếc thuyền đại nguyện, vào trong bể cả Tịnh độ, th́ Tây phương Cực Lạc quyết định văng sanh. Đó là nhân duyên thứ chín của sự phát Tâm Bồ đề.

X. LINH CHÁNH PHÁP CỬU TRỤ

Thế nào là làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài? Đức Thế Tôn của ta, từ vô lượng kiếp đến nay, v́ chúng ta mà tu đạo Bồ đề, Ngài đă làm việc khó làm, nhẫn sự khó nhẫn, nhân tṛn, quả măn, mới được thành Phật. Sau khi thành Phật, giáo hóa tṛn đầy, nhập vào Niết bàn. Nay th́ thời kỳ Chánh pháp tượng pháp đă diệt tận, chỉ c̣n tồn tại thời kỳ mạt pháp. Giáo pháp c̣n đó mà không người hành tŕ, tà chánh không phân, đúng sai lẫn lộn, tranh giành nhân ngă, măi chạy theo danh lợi. Mở mắt ra là thấy đầy dẫy thiên hạ đều là như vậy. Chẳng ai biết Phật là bực nào, Pháp là nghĩa ǵ, Tăng là người chi. Suy tàn đến thế, bất nhẫn thốt ra lời. Mỗi khi nghĩ đến, bất giác rơi lệ. Ta là con Phật mà ta không thể báo đáp ân đức của ngài. Trong vô ích cho ḿnh, ngoài vô ích cho người, sống vô ích đương thời, chết vô ích mai sau. Trời tuy cao cũng không che nổi ta, đất tuy dày cũng khó chở ta. Tội nhân cực trọng, không phải ta th́ là ai?

V́ thế mà đau ḷng không thể nhẫn nổi, nhưng suy nghĩ th́ lại không thấy có cách nào khác hơn, nên quên ngay tư cách quê mùa, liền phát tâm rộng lớn. Tuy không thể văn hồi mạt vận ngay lúc này, nhưng quyết có thể hộ tŕ chánh pháp trong mai sau. V́ thế nên cùng với chư thiện hữu, cùng đến đạo tràng, soạn thuật sám pháp, lập pháp hội này, phát bốn mươi tám điều đại nguyện, nguyện nguyện hóa độ chúng sanh, mong thâm tâm suốt trăm ngàn đời kiếp, tâm tâm thành Phật, từ ngày hôm nay cho đến cùng tận đời vị lai, hết một đời này nguyện sanh Cực Lạc, lên chín phẩm xong th́ trở lại Ta bà. Khiến cho mặt trời Phật pháp rạng soi, pháp môn rộng mở, để tăng giới được trong lặng ở cơi này, dân chúng được tiếp hóa ngay cơi phương Đông, vận Chánh pháp nhờ đó mà kéo dài thêm nữa, Phật pháp do đó được tồn tại lâu dài. Đây là tấm ḷng khổ tâm chân thành, tha thiết nhỏ mọn của tôi. Đó là nhân duyên thứ mười của sự phát Tâm Bồ đề.

Lưu Thông Phần (Phần Lưu Thông)

Như trên vậy mười nhân duyên đă hiểu rơ, tám tướng trạng đă biết, th́ xu hướng có lối, phát tâm có chỗ. Chúng ta nay được thân người, ở xứ Hoa Hạ, sáu căn khỏe mạnh đầy đủ, tứ đại nhẹ nhàng an lạc, tín tâm đầy đủ, may mắn lại không có chướng. Huống chi chúng ta ngày nay c̣n được xuất gia, được thọ cụ túc giới, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi, được tu tập sám pháp, được gặp bạn lành, được nhân duyên thù thắng tốt đẹp. Nếu ngày nay không phát tâm rộng lớn, th́ c̣n chờ đến ngày nào.
Cúi xin đại chúng thương cho tâm thành ngu muội của tôi, xót cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập nguyện ấy, đồng phát tâm này. Nếu chưa phát th́ nay phát, phát rồi th́ tăng trưởng, tăng trưởng rồi th́ tương tục không gián đoạn. Chớ sợ gian nan mà khiếp sợ thối lui, đừng cho dễ mà khinh thường, hời hợt, đừng ham mau mà chẳng lâu bền, đừng biếng nhác giải đăi mà thiếu dũng mănh, đừng uể oải mà không phấn khởi, đừng chần chờ mà kỳ hẹn măi, đừng v́ tối dốt mà cứ măi vô tâm, đừng v́ căn cơ cạn cợt mà tự khinh không có phần. Như trồng cây, trồng lâu th́ rễ cạn ngày càng sâu; như mài dao, mài măi th́ dao đùi cũng thành sắc bén; chẳng nên v́ rễ cạn mà không trồng, mặc cây khô héo, v́ dao đùi mà không mài, để dao vô dụng.


Lại nữa, nếu cho tu hành là cực khổ mà không biết biếng nhác lại c̣n khổ hơn. Tu th́ khó nhọc tạm thời mà an vui vĩnh kiếp, c̣n biếng nhác th́ một đời tạm nhàn nhưng lắm kiếp chịu sự khổ đau. Huống chi lấy pháp môn Tịnh độ làm thuyền tàu th́ lo ǵ thối chuyển, lại được vô sanh làm sức nhẫn th́ sợ ǵ khó khăn. Nên biết, kẻ tội nhân trong cơi địa ngục mà c̣n phát Tâm Bồ đề từ bao kiếp trước, huống chi đă làm người, lại làm con Phật, mà không lập đại nguyện ngay trong đời này. Từ vô thỉ đến nay hôn mê mờ mịt, việc ǵ đă qua rồi đă không thể cản ngăn, mà ngày nay tỉnh ngộ, những việc trong tương lai c̣n có thể theo. Mê mà chưa ngộ, cố nhiên đáng thương; c̣n biết mà không làm, mới càng đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục th́ sự tinh tấn tự sinh, nhớ cái vô thường tấn tốc th́ tính biếng nhác không khởi. Lại nữa cần lấy Phật pháp làm roi dục, lấy thiện hữu làm tay dắt, trong khoảnh khắc cũng không tách rời, suốt cả một đời vẫn cố nương theo, th́ không lo lắng c̣n có sự thối chuyển nữa. Chớ bảo một niệm phát nguyện là nhỏ nhặt, đừng cho nguyện suông là vô ích. Tâm chân th́ sự thật, nguyện rộng th́ hạnh sâu. Hư không chẳng rộng lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có cứng chắc, nguyện lực mới chắc. Đại chúng nếu không chê bỏ lời tôi, th́ quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp, bạn hữu Liên xă từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Như vậy th́ biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này chẳng bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay. Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như thế thật vô cùng may mắn!

Phụ Lục : Đại sư Tỉnh Am
Thật Hiền Đại sư tự Tư Tề, hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh, con nhà họ Thời ở Thường Thục. Xuất gia từ thuở bé, sau khi xuất gia, nghiêm tŕ giới luật, giảng kinh thuyết pháp, nghiên cứu pháp môn tánh tướng. Bốn tháng tham cứu câu "Niệm Phật Là Ai", hoát nhiên khai ngộ, và nói: "Tôi đă tỉnh giấc mơ!". Từ đó cơ phong lanh lẹ sắc bén, biện tài tung hoành, ngày duyệt Tam tạng kinh, đêm chuyên tŕ Phật hiệu. Ngài đốt ngón tay ở tháp A Dục Vương, rồi trước Phật phát bốn mươi tám điều đại nguyện, lúc ấy cảm ứng xá lợi phóng hào quang rực rỡ. Ngài làm bài văn "Khuyên phát tâm Bồ đề", khích lệ tứ chúng, nhiều người đọc bài văn này đều rơi lệ.

Ngày mười bốn tháng tư, niên hiệu Ung Chánh thứ mười hai, Đại sư hướng về Tây ngồi viên tịch. Hàng đạo tục các nơi nghe tin hội về đưa tiễn rất đông. Đại sư bỗng mở mắt nói: "Tôi đi không bao lâu sẽ trở lại, sanh tử là việc lớn, mỗi người nên tự thanh tịnh tâm, niệm Phật th́ có thể giải quyết được việc sanh tử!". Dặn ḍ xong, chắp tay niệm danh hiệu Phật rồi thị tịch.

Bài tán rằng:

Tâm từ rộng lớn,

Làm bài văn "Khuyến phát Tâm Bồ đề "

Bốn tám nguyện lớn,

Nguyện lực rộng sâu

Hành nguyện chân thật,

Điềm lành cảm ứng vô biên

Liên tông mạng mạch,

Nhờ Ngài trường tồn.

Hoặc nói kệ rằng:

Kiến hiền tư tề tinh tấn tu hành

Nghiệp Nho đọc sách như núi đồi

Học Phật tu hành nghiêm tŕ giới luật

Tham thiền triệt ngộ ai tự do

Lớn thay khuyên phát tâm Bồ đề

Cao thay lời thệ nguyện như trời đất

Xá lợi phóng quang chiếu soi thiên cổ

Tôn giả ân đức lưu ngàn đời.

 











































Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 5 of 6: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 9:13pm | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Cám ơn anh rất nhiều.

Các bài viết rất cần thiết và quư giá đối với những nguời tu học.

Nam Mô đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 6 of 6: Đă gửi: 13 March 2006 lúc 8:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

BÀI VĂN KHUYẾN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

Đại Sư Thật Hiền Soạn

Ḥa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng



Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm: Khuyến phát, là chúng ta vốn chưa phát tâm, nay Đại sư Tỉnh Am dùng ngôn ngữ vô cùng hợp lư, hợp pháp, để khuyên nhắc khuyến khích chúng ta, khiến chúng ta phát tâm. Phát tâm ǵ ? Chính là phát tâm Bồ đề.

Thế nào là tâm Bồ đề ? Tâm Bồ đề là tâm rơ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rơ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm. Trong chân tâm, không có các tướng ủy khúc quanh co, cũng chẳng có các hành vi bất chánh. Tâm Bồ đề cũng có thể nói rằng là tâm lợi người, tâm tự giác giác tha, tâm tự lợi lợi tha. "Bồ đề" là tiếng Phạn, dịch là "giác đạo". Giác đạo có nghĩa là hiểu rơ đạo, khiến chúng ta hiểu rơ đạo này, hiểu rơ con đường này. Hiểu rơ đạo mới có thể tu hành ; nếu không hiểu đạo th́ không thể tu hành, thường hay điên đảo, cho phải là trái, cho trái là phải, trắng đen không rơ, nón giày lẫn lộn, vị trí đảo ngược. Hiểu rơ đạo th́ có thể đi trên con đường chân chánh ; không hiểu rơ đạo th́ sẽ bước vào đường tà. Tóm lại, không làm các việc ác, làm các điều lành, đó chính là tâm Bồ đề. Cho nên cũng chính là giữ ǵn giới luật, chúng ta giữ ǵn giới luật quy củ, đó chính là tâm Bồ đề ; không giữ ǵn quy củ tức là làm mất đi tâm Bồ đề. Đó chính là ư nghĩa khái quát của tâm Bồ đề.

"Văn", là văn chương. V́ nó là từng thiên từng thiên, từng chương từng chương, nên gọi là văn chương. Nó có các loại văn pháp như khai hợp chuyển tích, có "chi hồ giả dă hỹ yên tai", lại có khởi thừa chuyển hợp, và lời văn viết ra mạch lạc, gọn gàng, trong đó bao gồm nhiều ư nghĩa. Bài "Văn Khuyên Phát Tâm Bồ đề" này, cũng giống như kinh điển vậy. Tuy chữ không nhiều, nhưng lư luận của bài văn rất viên măn, v́ thế trong Phật giáo, bài văn này chiếm địa vị vô cùng quan trọng.

 

Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn



Giảng:

Cổ Hàng : Từ xưa đến nay đều có một chỗ như thế, là chỗ nào ? Chính là Hàng Châu. Hàng Châu là nơi Phật pháp phát triển hưng thạnh, có Tây Thiên Mục, Đông Thiên Mục, Nam Thiên Mục, Bắc Thiên Mục, lại có Thiên Thai Sơn, bảy đời chư Phật quá khứ đều xuất thế tại đây. Tại sao Trung Quốc có nhiều chúng sanh có căn tánh Đại thừa như thế ? Chính là v́ chư Phật trước kia thường chọn Trung Quốc làm nơi xuất thế, v́ thế chủng tử Đại thừa vốn đă gieo trồng tại đây.



Chùa Phạm Thiên : Phạm có nghĩa là thanh tịnh, chính là ngôi tự viện "Thanh Tịnh Thiên" này.



Sa môn : Sa môn là tiếng Phạn, là tiếng gọi chung của người xuất gia, dịch là "cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si". Siêng tu giới định huệ có nghĩa là không điên đảo ; dứt trừ tham sân si, có nghĩa là không hồ đồ, không có vô minh. V́ thế danh hiệu chung của người xuất gia gọi là cần tức – cần tu giới định huệ, tức diệt tham sân si. Vậy th́ vị xuất gia này pháp hiệu là chi ? Chính là Thật Hiền. Ngài vốn gọi là Tư Tề, chính là "Kiến hiền tư tề yên", thấy người hiền có đức hạnh thanh cao, muốn cố gắng làm cho được bằng người; lại có một tên riêng gọi là Tỉnh Am. V́ thế người ta thường gọi "Tỉnh Am Đại sư khuyến phát Bồ đề tâm văn".



Soạn : là soạn thuật, thuật là nói ra; soạn là đỗ soạn, chính là viết ra. Vậy th́ bài văn này do ai soạn? Chính là do Đại sư Tỉnh Am biên soạn. Sau khi Ngài biên soạn ra, không biết đúng hay sai, v́ thế nên khách khí, chỉ nói là soạn, không nói là do Ngài trước tác. Lại nữa Ngài cho rằng ư nghĩa mà Ngài viết ra, trước kia chưa có ; vậy th́ sau này có không ? Không biết được, v́ thế gọi là đỗ soạn. Đỗ soạn chính là chỉ có một, không giống với người khác ; cũng chính là sáng tạo ra h́nh thức độc đáo mới mẻ khác người.



Phần Tựa (Tự phần)



Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng bất tiếu ngu hèn, khóc ra lệ máu cúi đầu kính lạy, đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền, cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời. Cúi mong quư vị thương xót, lưu ư một chút mà nghe và xét cho.

Từng nghe, cửa chính yếu để vào đạo th́ sự phát tâm làm đầu, việc khẩn cấp tu hành th́ sự lập nguyện đứng trước. Nguyện lập th́ có thể độ chúng sanh, tâm phát th́ Phật đạo có thể thành. Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập cái nguyện vững bền kiên cố, th́ dù trải qua nhiều kiếp như số vi trần, cũng vẫn y nhiên ở trong ṿng luân hồi. Dù có tu hành cũng chỉ là uổng công lao nhọc, khổ sở một cách vô ích. Nên kinh Hoa nghiêm nói: "Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành, gọi đó là nghiệp ma". Quên mất mà c̣n như thế, huống chi chưa phát ư? Cho nên muốn học Như lai thừa th́ trước phải phát Bồ tát nguyện, không thể chậm trễ vậy.



Giảng:

Bất tiếu: là không giống. Không giống cái chi ? không giống trí huệ của chư Phật Bồ tát, Cao Tăng Đại Đức từ xưa. V́ các Ngài có trí huệ, v́ thế bất luận viết ra cái ǵ, đều rất đáng tin cậy. Bất tiếu c̣n có cách giải thích khác. Ví dụ, cha là quan lớn, c̣n ḿnh chỉ là một kẻ nông phu, v́ thế gọi là bất tiếu; hoặc cha là người giàu có sang trọng, ḿnh lại là người nghèo hèn cực khổ, đó cũng gọi là bất tiếu. Tóm lại, không bằng tiền nhân, gọi đó là bất tiếu. Giống như Đế Nghiêu nhường thiên hạ cho Đế Thuấn, không truyền cho con ḿnh là Đan Chu, v́ Đan Chu bất tiếu, v́ thế Ngài truyền thiên hạ cho người khác. "Bất tiếu" cũng chính là không giống với cha, không giống với tổ tiên. Mà Đại sư Tỉnh Am "bất tiếu" ư là nói tư tưởng tâm lư của Ngài không giống với chư Phật, chư Bồ tát. Tại sao không giống? V́ Ngài không có trí huệ của Phật và Bồ tát.



Thật Hiền tôi là kẻ phàm phu Tăng : Tôi là kẻ phàm phu, không phải là bậc thánh nhân; kẻ phàm phu Tăng này là ai? là Thật Hiền.

Tuy Ngài là phàm phu Tăng ngu hèn, rất ngu si, rất hạ liệt, là kẻ phàm phu hạ bạc, nhưng Ngài có tấm ḷng thành, có chân tâm, nói ra lời chân thành phát xuất từ chân tâm. Chân thành đến mức độ nào ? Chính là khóc ra lệ máu : khóc đến nỗi ra máu. Quư vị thử tưởng tượng nếu không phải chân thành đến cực điểm, khóc đến cực điểm, th́ làm sao khóc ra lệ máu ? không bao giờ! Tuy đây là từ h́nh dung, nhưng cũng chính là sự biểu lộ tâm chân thành tha thiết của Ngài. Cúi đầu kính lạy chính là dập đầu xuống đất.



Đau buồn khẩn thiết thưa với chư đại chúng hiện tiền : Tôi a ! Khóc không ra tiếng, đau buồn khẩn thiết thưa với đại chúng hiện tiền. Đại chúng này bao gồm xuất gia, tại gia và tất cả chúng sanh; không những người mà tất cả chúng sanh khác đều bao gồm bên trong. Đại là quảng đại rộng lớn ; chúng là chúng sanh ; v́ thế ở đây không những nói về người mà bao gồm tất cả chúng sanh. Cùng với chư thiện nam tín nữ có đức tin trong sạch trong hiện đời: đây cũng có thể nói là hiện tại, cũng chính là đương thời, cũng giống như "hiện tiền" vậy, nhưng về mặt văn pháp th́ Ngài dùng như thế. Thiện nam tín nữ v.v… cũng chính bao gồm tất cả người tại gia ở trong.



Cúi mong quư vị thương xót, lưu ư một chút mà nghe và xét cho : Tôi hôm nay chỉ mong quư vị mỗi người từ bi thương xót để ra một chút ít thời gian, nghe lời tôi nói và xem xét, suy nghĩ. Chữ "xét" này chính là xem xét, suy nghĩ ; tiếng Anh gọi là think it over.



Từng nghe, cửa chính yếu để vào đạo th́ sự phát tâm làm đầu : Tôi thường nghe người ta nói rằng. Nói cái ǵ ? Nói nếu muốn tu hành học đạo, th́ con đường chính yếu quan trọng của nó là ǵ ? Nhất định trước cần phải phát tâm Bồ đề, đây mới là điều quan trọng nhất. Việc khẩn cấp tu hành th́ sự lập nguyện đứng trước : Tu hành th́ điều quan trọng nhất cần phải hiểu là ǵ ? Đó là cần phải phát nguyện, nếu không phát nguyện th́ không thể tu hành ; dù nói nói rất nỗ lực tu hành, cũng đều là giả. V́ ngay cả nguyện chúng ta c̣n không dám phát, th́ c̣n tu đạo ǵ ? Bạn nói tu đạo chính là đang gạt người vậy ! Nếu chân chánh muốn tu hành, tại sao không dám phát nguyện ? V́ thế nói, tu hành th́ sự lập nguyện đứng trước, trước cần phải lập một nguyện.



Nguyện lập th́ có thể độ chúng sanh : chúng ta đă có nguyện lực, có nghĩa là đă có thuyền bè, mới có thể độ người. Nếu không có thuyền, th́ làm sao có thể độ người, đưa người đến bờ bên kia ? Nguyện giống như chiếc thuyền vậy. Nếu chúng ta không có nguyện, th́ dù nói : "Tôi tu hành, tôi tu hành" A ! Nhưng đến lúc đó th́ quên mất không c̣n nhớ nữa. V́ thế lập nguyện đứng trước, đă có nguyện hộ tŕ, mới có thể hóa độ chúng sanh. Tâm phát th́ Phật đạo có thể thành : Nếu ông đă phát tâm Bồ đề th́ mới có đủ tư cách thành Phật ; nếu không phát tâm Bồ đề, th́ không có cơ hội thành Phật. Cho nên, điều này rất vô cùng khẩn thiết, vô cùng quan trọng.



Nếu không phát tâm rộng lớn, không lập cái nguyện vững bền kiên cố : Nếu như ông không phát tâm rộng lớn, mà cứ hẹp ḥi, nhỏ mọn. một chút thiệt tḥi cũng không chịu, cũng không thể xả bỏ. C̣n phải lập nguyện kiên cố vững bền nhất ; nguyện này tôi đă tŕnh bày, th́ nhất định cần phải làm như thế, không thể thay đổi, đó gọi là nguyện kiên cố vững bền, nếu không phát tâm rộng lớn, không lập nguyện kiên cố vững bền, th́ dù trải qua nhiều kiếp như số vi trần, cũng vẫn y nhiên ở trong ṿng luân hồi : th́ dù có trải qua nhiều kiếp như số vi trần, cũng không thể thoát ra ṿng luân hồi. Luân hồi, chính là lục đạo luân hồi – thiên đạo, nhân đạo, a tu la là tam thiện đạo; và địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là tam ác đạo. Vẫn phải xoay chuyển trong ṿng luân hồi ; dù cho là làm việc lành nào, hoặc là sanh thiên, hoặc làm người hưởng phước báu cũng không có ư nghĩa ǵ, vẫn y nguyên ở trong ṿng luân hồi ! Dù có tu hành cũng chỉ là uổng công lao nhọc : Tuy ăn chay, tụng kinh, niệm Phật, nhưng bất luận chúng ta cố gắng bỏ ra bao nhiêu công phu, đều là uổng công lao nhọc một cách vô ích, rất cực khổ ; chúng ta tu pháp môn ǵ, cũng không phải cứu cánh.



Nên kinh Hoa nghiêm nói: "Nếu quên mất tâm Bồ đề mà tu các pháp lành, gọi đó là nghiệp ma" : V́ thế Kinh Hoa Nghiêm nói : Nếu như quên mất tâm Bồ đề, dù có tu các pháp lành, cũng là tu các nghiệp thiên ma ở sáu cơi trời Dục giới". V́ vô minh của ḿnh chưa đoạn, tâm dâm dục chưa đoạn, tu các pháp này đều là tạo nghiệp thiên ma. Quên mất tâm Bồ đề chính là niệm không thanh tịnh. Nếu niệm thanh tịnh chính là tâm Bồ đề, tâm niệm không thanh tịnh chính là ma nghiệp. Quên mất mà c̣n như thế, huống chi chưa phát ư? : Quên mất tâm Bồ đề, dù tu các pháp lành, cũng đều là ma nghiệp, huống hồ là chưa phát ư ! Nếu không phát tâm Bồ đề, th́ chúng ta có thể tu cái ǵ ? Tu cái ǵ cũng đều là ma nghiệp.



Cho nên muốn học Như lai thừa th́ trước phải phát Bồ tát nguyện, không thể chậm trễ vậy : V́ thế cho nên chúng ta muốn học Phật pháp, muốn học Phật thừa, nhất định trước phải phát nguyện lực Bồ tát. Nếu chúng ta không phát nguyện lực này, th́ thường xoay chuyển trong hang động của ma, cứ lui tới trong hang động của ma. V́ thế tâm Bồ đề này, chúng ta không thể chờ đợi, không thể nói rằng : "Chúng ta sau này sẽ phát Tâm Bồ đề, lập nguyện Bồ tát!". Không thể như thế được ! Chúng ta nhất định phải ngay hiện tiền lập tức phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát đạo, mới có thể vượt ra ṿng luân hồi, liễu thoát sanh tử !



 

Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều tướng trạng khác nhau, nếu không chỉ ra th́ làm sao biết mà xu hướng đến. Nay xin v́ đại chúng mà tŕnh bày sơ lược . Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên? Đời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc mong cầu lợi dưỡng, hoặc ưa thích hư danh, hoặc ham dục lạc hiện đời, hoặc mong cầu phước báo mai sau, phát tâm như vậy gọi là tà. Đă không mong cầu hư danh lợi dưỡng, lại không ham quả báu dục lạc đời sau, chỉ v́ mong liễu thoát sinh tử, v́ chứng đắc Bồ đề, phát tâm như vậy gọi là chánh.



Giảng:

Nhưng tâm nguyện vốn có nhiều : Đă là như thế, chúng ta nhất định phải phát tâm Bồ đề, lập nguyện kiên cố vững bền. Nếu không phát tâm Bồ đề, th́ không bao giờ có thể thành tựu Phật đạo ; không lập nguyện kiên cố bền vững sẽ không đạt đến mục đích, không đạt đến chỗ cứu cánh. Nhưng tâm nguyện phát ra có rất nhiều loại không giống nhau, v́ thế nên nói tướng trạng khác nhau: phát tâm chính là tư tưởng của người, mục đích của người, chí nguyện của người, mục tiêu của người; căn tướng này rất nhiều, có thể nói nhiều đến tám vạn bốn ngàn.



Nếu không chỉ ra th́ làm sao biết mà xu hướng đến. Nếu tôi không chỉ ra rơ ràng điều này, không tŕnh bày cặn kẽ, th́ làm sao quư vị biết mà tiến lên phía trước ? Xu, là tiến lên phía trước, đến chỗ đó. Hướng, là hướng đến chỗ đó ; đối diện với chỗ đó, gọi là đối hướng. Xu hướng, chính là ta làm sao để có được mục tiêu ? Ta làm sao để có phương châm, tông chỉ ? Nay xin v́ đại chúng mà tŕnh bày sơ lược: Đại sư Tỉnh Am nói, tôi nay v́ đại chúng tŕnh bày sơ lược những điều quan trọng. Lược, là giản lược, không thể nói hết ; nói đơn giản một chút, nói ít một chút.



Sự phát tâm lập nguyện gồm tám tướng : Tướng trạng này tổng quát th́ có tám loại. Tám loại là ǵ ? là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên: Có tà, có chánh,có chân có ngụy, có đại có tiểu, có thiên có viên.

Thế nào gọi là tà ? Chính là ḷng ích kỷ, chỉ biết lợi ích riêng ḿnh. Thế nào gọi là chánh ? Chính là không ích kỷ. Thế nào gọi là chân ? Chính là lợi người không lợi ḿnh. C̣n ngụy chính là lợi ḿnh không lợi người. Quư vị dùng sáu đại tông chỉ (1) để xem th́ có thể hiểu rơ.

Thế nào gọi là tiểu, thế nào gọi là đại ? Tiểu chính là v́ ḿnh, đại là v́ đại chúng. Nên nói "V́ người không v́ ḿnh, cuối cùng là Phật thể, v́ ḿnh không v́ đại chúng, rốt cuộc uổng phí cuộc đời". Dù có bỏ cả sanh mạng ḿnh, cũng không có ích dụng ǵ. Đại là phát tâm quảng đại, cũng chính là hành Bồ tát đạo. Vậy nếu không phát đại tâm mà phát tiểu tâm th́ sao ? Chính là không hành Bồ tát đạo, ích kỷ tự lợi, tranh giành, tham lam, ham cầu, chỉ tính toán cho ḿnh, đó đều là tiểu. Nếu lo toan cho đại chúng, chí công vô tư, chánh trực không thiên vị, khắp cùng cúng dường, lấy pháp giới làm thể, lấy hư không làm dụng, đó gọi là đại.

Thiên là thiên về một bên, vào một chỗ nhỏ, không có viên dung. Viên là bao la vạn hữu, chính là viên măn Bồ đề, không có chỗ nào mà không bao bọc, chẳng có chỗ nào mà không dung chứa. Tôi có một bài kệ tụng có thể dùng để h́nh dung cái "viên" này :

"Pháp giới vi thể hữu hà ngoại,

Hư không thị dụng vô bất dung.

Vạn vật b́nh đẳng ĺa phân biệt,

Nhất niệm bất sanh tuyệt ngôn tông".

Dịch :

Pháp giới là thể có chi ngoài,

Hư không là dụng đều dung chứa.

Vạn vật b́nh đẳng ĺa phân biệt,

Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn.

Viên, chính là "Pháp giới là thể có chi ngoài", lấy pháp giới làm thể, th́ có cái ǵ ở bên ngoài pháp giới đâu ? "Hư không là dụng đều dung chứa", hư không là một đại dụng th́ không có ǵ không bao bọc bên trong. "Vạn vật b́nh đẳng ĺa phân biệt", đối với vạn sự vạn vật đều xem b́nh đẳng. "Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn", một niệm không sanh đường ngôn ngữ tuyệt, đây có thể nói là "viên" ! Ở đoạn văn sau Đại sư Tỉnh Am sẽ giải thích "thiên viên", ở đây tôi chiếu theo ư nghĩa đại khái của chữ để giải thích mà thôi. Bài "Văn khuyên phát tâm Bồ đề" của Đại sư Tỉnh Am, nếu kết hợp với sáu đại tông chỉ của chúng ta, th́ như áo trời không thấy vết chỉ may, thật là hoàn hảo toàn mỹ!



Như thế nào là tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên?

Đời có kẻ tu hành mà từ trước đến nay chỉ một bề hành theo sự tướng, không biết tham cứu tự tâm : Thế gian có người tu hành, là người xuất gia. Người ấy tu hành th́ tu hành, nhưng cứ măi chấp trước, chuyên làm những việc bên ngoài. Ví dụ, hàng ngày bái sám, lễ Phật, tụng kinh, chỉ để cho người ta xem, c̣n ḿnh th́ không biết hồi quang phản chiếu : Trong tâm ḿnh có bái sám không ? Có niệm Phật chăng ? Có lễ Phật chăng ? Có tụng kinh chăng ? Niệm ở trong tâm mới gọi là chân ! Nếu cứ làm những việc ngoài mặt màu mè, làm điệu bộ như ḿnh là lăo tu hành, bất luận dụng công phu ǵ, đều muốn cho người ta xem : Ví dụ quét nhà, quét sân cũng đợi có người đến mới quét, cho người ta biết ḿnh đang làm việc cực khổ ! Cứ làm những việc bên ngoài, chẳng những không có công đức, mà c̣n là tà ! Đó chính là không chánh đáng, chỉ để khoe công ! Đối với người có chút việc lành, việc tốt nào, bèn nói : "Bạn biết không ? V́ bạn mà tôi như thế, như thế ...", khiến người ta cảm kích ḿnh, đó gọi là tà. Quư vị nên triệt để hiểu rằng, thi ân không cầu báo ; giúp người không hối hận, ḿnh đối với ai có làm điều tốt ǵ, đều nên quên đi, không nên thường nhớ đến, mở miệng là nhắc đến, một ngày từ sáng đến tối, cứ dùng cái này làm quảng cáo, làm bảng hiệu : "A ! Tôi đă làm việc tốt đó, bạn có biết không ? ngôi chùa ở đó là do tôi tu bổ, bạn có nh́n thấy trên tấm biểu có tên của tôi chăng ?". Sợ người khác không biết đến ḿnh, kêu người ta nh́n trên tấm biển có tên ḿnh không, cứ ở chỗ đó tham danh vọng lợi dưỡng đó chính là tà. Nếu không phải người như thế th́ chính là chánh. V́ thế, tà chánh th́ trái ngược nhau, tà th́ thuộc về âm, chánh th́ thuộc về dương. Tà th́ nh́n không thấy trời, nh́n không thấy ánh sáng. Chánh th́ chánh đại quang minh, bất luận chỗ nào đều cũng có thể làm được. Nhất hướng tu hành chính là từ trước đến nay tu hành. Nay là nói có người tu hành từ trước đến nay không ở tự tâm dụng công phu, chuyên môn hướng bên ngoài dong ruổi t́m cầu.



Chỉ lo những việc ở ngoài : Chỉ biết làm những việc bề mặt bên ngoài, như tụng kinh cho người, bái sám cho người…… Bạn xem, rất náo nhiệt, từ sáng đến tối mệt muốn chết, vô cùng cực khổ. "A ! Ta thật là v́ pháp quên ḿnh ! Các ông có biết tôi không ?". Đó là cứ măi khoe công với người, biểu thị đức hạnh của ḿnh, tuyên dương thanh thế, không thể giấu kín tài năng, không có tu dưỡng, không có hàm dưỡng. Tại sao người này chỉ giong ruổi đeo đuổi theo những việc bên ngoài ?



Hoặc mong cầu lợi dưỡng : Chính là v́ lợi ích cho chính ḿnh, dạy người cúng dường ḿnh, tin tưởng ḿnh, bảo người hoặc là chưng nhân sâm, hoặc là nấu nấm mèo cho ḿnh ăn v.v… V́ thế, các ông nếu là đệ tử chân chánh của tôi, không ai được làm thức ăn cho tôi dùng. Dù sao đi nữa hiện nay tôi vẫn chưa chết đói mà ! Ông nay nấu nồi canh, ngày mai lại làm món khác, rườm rà, thật đáng ghét ! Quư vị cho rằng đó là thành tâm chăng ? Ông không nghĩ đến rằng đó là giúp kẻ xấu làm điều ác ! Chính là làm một người tu hành không c̣n tu hành nữa. Quư vị hiểu chưa ? V́ thế không nên riêng cúng dường cho người nào.



Hoặc ưa thích hư danh : Hoặc là mong muốn kẻ khác đi khắp nơi thay ḿnh tuyên truyền : "Thầy đó thật là lăo tu hành ! Thật là vị đại tu hành a ! Thật là tốt a ! Như thế a ! ……". Phái rất nhiều thủ hạ, rất nhiều nhân viên đi khắp nơi tuyên truyền. Giống như "Phật giáo thương mại hóa" chăng? Đây chính là tội nhân trong Phật giáo, kẻ bại loại trong Phật giáo ! Phật giáo làm sao thương mại hóa được ? Muốn thương mại hóa th́ ra khỏi nhà (xuất gia) ǵ ? Ở nhà cũng có thể làm thương mại, ai cũng đều có thể buôn bán kiếm tiền, tại sao người xuất gia, Phật giáo đồ lại làm thương mại? Người thường c̣n nói : "Ai da ! Phật giáo thương mại hóa, hay a ! được a !…..". Đi về hướng địa ngục mà c̣n không biết ! lại c̣n cho rằng hay, rằng tốt ! Đó chính là cầu mong lợi dưỡng, cứ măi kêu người đưa tiền cho ḿnh, Ô ! Ta làm cái ǵ, làm cái ǵ …… Thật là tham cái danh vọng hăo huyền.



Hoặc ham dục lạc hiện đời : Loại người xuất gia này, không phải tham hiện tại dục lạc th́ làm việc ǵ ? Suốt ngày ăn ăn uống uống, lại ăn thịt, uống rượu, lộn xộn bừa băi, cái ǵ cũng đều làm, đó chính là tham dục lạc hiện tại, đó không phải là gieo giống địa ngục th́ là cái chi ?



Hoặc mong cầu phước báo mai sau : Hoặc là nay làm các thứ công đức, là v́ mong muốn tương lai làm quốc vương, hoặc như thế như thế, tương lai có quả báu tốt như thế. Đó đều là tà ! Khi tôi nói, th́ nói hết những ǵ tôi biết, tôi biết th́ không ǵ không nói, đă nói th́ không ǵ không nói cho hết.



Phát tâm như vậy gọi là tà : Quư vị đă không nhận thức, lại a dua phụ họa theo "A ! chỗ đó xây dựng rất hay a, rất đẹp, giống như hoàng cung vậy". Hoàng cung th́ làm sao ? Vua trong hoàng cung vẫn đọa lạc như thường có ǵ hay ho đâu ? Các ông không hiểu đạo lư, cứ măi chạy theo tà tri tà kiến, tham sự náo nhiệt nhất thời th́ không nên !

Cái ǵ gọi là chánh ? Đă không mong cầu hư danh lợi dưỡng : Đă không tham danh vọng lợi dưỡng, cũng không muốn làm cho thanh danh của ḿnh rộng lớn, cũng không muốn mọi người cúng dường cho ḿnh. Lại không ham quả báu dục lạc đời sau : Cũng không tham dục lạc, cũng không nghĩ đến việc hưởng thụ. Tôi không thể nói tôi chánh, nhưng tôi bảo với các ông, tôi đến nước Mỹ hơn 20 năm, chưa bao giờ đi đến Disney Land. Các ông thử nghĩ xem, các ông đến nước Mỹ phần đông đều đi tham quan Disney Land? Thậm chí không ít người xuất gia đến nước Mỹ cũng đều muốn tham quan Disney Land. C̣n tôi là người quê mùa, nên không tham quan, tôi cũng không muốn biết cái đó.

Vậy không tham vọng dục lạc, cũng không tham hưởng thụ, quả báo ; chỉ v́ mong liễu thoát sinh tử, v́ chứng đắc Bồ đề : chỉ là v́ mong liễu thoát sanh tử, v́ mong giác ngộ, mong cầu trí huệ chân chánh.



Phát tâm như vậy gọi là chánh : Phát tâm như thế gọi là chánh. Nếu không phải v́ liễu thoát sanh tử, không phải v́ phát tâm Bồ đề, đó chính là tà. V́ thế, mọi người nên nhận rơ điều này; không nhận rơ điều này, tu hoài tu măi đều là ma nghiệp, đều làm quyến thuộc của ma vương.

 

 

Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh, nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ, thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh, như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc, phát tâm như vậy gọi là chân. Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong trược ngoài thanh, trước siêng năng sau biếng lười, dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn, dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm, phát tâm như vậy gọi là ngụy. Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành, phát tâm như vậy gọi là đại. Xét xem ba cơi như lao ngục, nh́n sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không muốn độ người, phát tâm như vậy gọi là tiểu.



Giảng:

Đại sư Tỉnh Am ở trên đă giảng về "tà chánh", nay giảng về "chân ngụy". Niệm niệm trên cầu Phật đạo : Đây là nói niệm niệm không quên, tâm tâm niệm niệm, không nghĩ điều ǵ khác, chỉ nghĩ đến việc trên cầu Phật đạo, mong cầu thành Phật. Tâm tâm dưới độ chúng sanh : thành Phật cần phải lập công, chớ nên nói không có một chút công lao cũng có thể thành Phật. Vậy th́ như thế nào mới có thể thành Phật ? Chính là cần phải lập công đức. Ở chỗ nào lập công đức ? Chính là giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh bỏ tà quy chánh, bỏ vọng quy chân, bỏ ngụy quy chân. Nếu khiến chúng sanh giác ngộ, th́ chính chúng ta đă lập được công đức ở trong Phật giáo.



Nghe con đường thành Phật lâu xa cũng không sanh tâm thối chí khiếp sợ : Nhưng mà thành Phật không phải chuyện dễ dàng, Phật đạo là con đường rất dài lâu ; Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phải trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp mới thành Phật. A tăng kỳ là Phạn ngữ, dịch là "Vô lượng số". Ba A tăng kỳ kiếp là ba vô lượng số ; không những là ba vô lượng số, mà c̣n là ba vô lượng số lớn, nên gọi là ba đại tăng kỳ kiếp. Vậy th́ khi nh́n thấy thời gian lâu dài như thế, th́"vọng dương hưng thán", nh́n biển cả thấy ḿnh nhỏ bé, sanh ḷng thối chí sợ hăi lên, nói : "Ôi ! Thời gian lâu dài như thế, ta làm sao có thể tu hành được !". Như chúng ta tụng kinh, nói : "A ! Bộ kinh này dài như thế ! Ta phải tụng đến lúc nào tụng xong, đến lúc nào mới có thể thuộc ḷng ?". Đây đều là tâm thối chí khiếp sợ. Phật đạo tuy dài lâu, quư vị cũng không nên sanh tâm thối chí khiếp sợ, mà nên dơng mănh tinh tấn, hướng lên phía trước, trên cầu Phật đạo, dưới hạ hóa chúng sanh, không quên bổn phận tu hành học đạo của ḿnh.



Thấy chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi : chúng sanh th́ rất khó độ, quư vị kêu nó bỏ đi tật xấu, nó chẳng những không bỏ mà c̣n tăng thêm những tật khác. Quư vị xem ! chúng sanh th́ lạ kỳ như thế. Quư vị muốn độ nó, th́ nó cứ không nhận sự hóa độ của quư vị, thật không dễ dàng chút nào ; nhưng nếu quư vị sanh tâm chán nản mệt mỏi, th́ đó không phải là chân tâm !

Nếu không sanh tâm chán nản mệt mỏi, th́ giống như cái ǵ ? Như leo núi cao vạn trượng cũng quyết trèo lên tận đỉnh : giống như leo núi cao vạn trượng cũng nhất quyết trèo lên tận đỉnh. Vạn nhẫn, có thể nói là vạn dặm, cũng có thể nói là một vạn miles, cao như thế, lại có thể nói là vạn trượng ; tóm lại là leo lên ngọn núi rất cao. Như lên tháp lớn chín tầng cũng cố lên đến tột nóc : cũng giống như bảo tháp chín tầng, cũng quyết chí lên tột nóc.



Phát tâm như vậy gọi là chân : Phát tâm như thế, không dẫm chân tại chỗ, không nửa đường bỏ phế, có thủy có chung, đó gọi là chân chánh phát tâm Bồ đề.

Sao gọi là ngụy ? Có tội không sám hối : Người ấy vốn có tội, lại giấu giếm, không hướng đại chúng phát lồ sám hối, không nói thật với mọi người. Có lỗi không trừ bỏ : Rơ ràng biết ḿnh có sai lầm, có tật xấu, lại nói : "Ai da ! Tôi làm sao được, đây là tật khí khi sanh ra đă có". Không muốn trừ đi tội lỗi sai lầm. Trong trược ngoài thanh : bên trong đều là tật đố chướng ngại, si tâm vọng tưởng, tham sân si mạn nghi v.v… Bên ngoài th́ "sắc trang giả hồ", giả bộ làm ra dáng thanh cao. Trước siêng năng sau biếng lười : Khi xuất gia tu hành lúc ban đầu th́ rất siêng năng, rất tinh tấn; rốt cuộc có thủy không có chung, sau cùng lại lơ là lơi lỏng.



Dù có tâm tốt phần lớn cũng bị danh lợi xen lẫn : Tuy có tâm tốt, nhưng phần đông lại bị danh lợi xen lẫn. Tại sao người ấy muốn làm việc tốt ? V́ mong muốn được tiếng tốt, muốn có cái tên ngụy thiện, làm những việc gạt người, cho nên nhứt cử nhứt động đều là v́ lợi v́ danh mà làm, không phải chân chánh v́ Phật giáo mà làm.



Dù tu thiện pháp phần nhiều cũng bị nghiệp tội làm ô nhiễm : Tuy Phật pháp th́ rất thiện, người lại ở trong thiện pháp làm những việc dâm dục, làm những việc không dám công khai với người. Như nay trong một tôn phái nọ, bừa băi buông thả theo dục lạc, khắp nơi lộn xộn lăng nhăng, lại c̣n nói với người : "Tôn phái của chúng tôi phải là như thế", thật là hại chết người không ! vậy mà có một số người vô tri lại nghe theo mà nói : "Đây thật là pháp môn bí mật nhất", thằng mù dẫn thằng đui, đó chính là nhiễm ô !



Phát tâm như vậy gọi là ngụy : Người phát tâm như thế chính là ngụy.

Thế nào gọi là đại ? Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết : Chúng sanh giới tận có nghĩa là chúng sanh đă độ hết, như Bồ tát Địa Tạng Vương : "Địa ngục vị không thệ bất thành Phật ; chúng sanh độ tận phương chứng Bồ đề", đó chính là chúng sanh giới hết, phiền năo nghiệp hết, nguyện của ta mới hết ; độ hết chúng sanh nguyện lực của ta mới là hết. Đạo Bồ đề thành nguyện ta mới thành : Bồ đề giác đạo – Phật đạo, tu thành công, th́ nguyện lực của ta mới thành tựu.



Phát tâm như vậy gọi là đại : Phát tâm Bồ đề như thế th́ không có ǵ lớn hơn nữa.

Chúng sanh độ hết, nguyện ta mới hết, là Bồ tát phát tâm ; Xét xem ba cơi như lao ngục, nh́n sanh tử như oan gia : Đây chính là tiểu thừa. Nhị thừa th́ tự độ ḿnh, nh́n thấy ba cơi – dục giới, sắc giới, vô sắc giới, th́ thấy khổ như lao tù ; nh́n thấy sanh rồi lại sanh, chết rồi lại chết, sanh sanh tử tử, th́ giống như oan gia đối đầu. Chỉ mong tự độ, không muốn độ người : V́ thế chỉ biết độ ḿnh, không muốn độ kẻ khác.



Phát tâm như vậy gọi là tiểu : Phát Tâm Bồ đề như thế gọi là tiểu. Tiểu nghĩa là tâm lượng quá nhỏ hẹp. Đại nghĩa là vô cùng rộng lớn, hết sức tinh vi. Bài "Pháp giới tụng" tôi viết trước kia cũng chính là biểu hiện cho đại :

"Pháp giới vi thể hữu hà ngoại,

Hư không thị dụng vô bất dung.

Vạn vật b́nh đẳng ĺa phân biệt,

Nhất niệm bất sanh tuyệt ngôn tông"

Dịch :

Pháp giới là thể có chi ngoài,

Hư không là dụng đều dung chứa.

Vạn vật b́nh đẳng ĺa phân biệt,

Một niệm không sanh bặt ngữ ngôn.


Đó chính là tâm lớn ! Lại nữa :

"Tánh tận nhân kỷ tham thiên địa,

Tâm đồng nhật nguyệt diệu dương xuân".

Dịch :

"Tánh hết ḿnh người trùm trời đất,

Tâm như nhật nguyệt sáng trời xuân"

Xem tất cả vạn sự vạn vật đều là một, th́ không c̣n ǵ phân biệt.



 

Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh ḿnh nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tiêu mất, phát tâm như vậy gọi là thiên. Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành, không thấy một pháp nào ĺa tâm mà riêng có, lấy cái tâm hư không phát cái nguyện như hư không, làm cái hạnh như hư không, chứng cái quả hư không, cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được, phát tâm như vậy gọi là viên.

Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng, biết quán xét kỹ càng th́ biết lấy bỏ, biết lấy bỏ th́ có thể phát tâm. Quán xét như thế nào? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên. Lấy bỏ như thế nào? Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên, lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề.



Giảng:

Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh ḿnh nguyện độ, có Phật đạo nguyện thành : Giả như ở bên ngoài tâm của ḿnh thấy có chúng sanh có thể độ, thấy Phật đạo có thể thành, bèn nguyện độ thoát chúng sanh ở ngoài tâm, nguyện thành tựu Phật ở ngoài tâm. Công phu không xả : Cho rằng độ chúng sanh thành Phật th́ có công đức, thường không quên ; liền mong muốn thành Phật, sanh ra tâm chấp trước. Thấy biết không tiêu mất : Không thể diệt trừ tà tri tà kiến, chính là không có trừ bỏ đi.



Phát tâm như vậy gọi là thiên : Phát tâm như thế, trong tâm thường chấp trước vào một vật, đó gọi là thiên. V́ ông không hiểu rơ đạo lư, vẫn c̣n thiên kiến.



Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát : nếu biết tự tánh chính là chúng sanh, chúng sanh không ĺa tự tánh, tất cả chúng sanh đều ở trong tự tánh. Nếu có thể nh́n thấu suốt như thế, th́ tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ, tự tánh phiền năo thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn thệ nguyện học, tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. Tự tánh là Phật đạo nên nguyện viên thành : V́ thành tựu tự tánh Phật đạo, không ĺa tự tánh, nên mong muốn thành Phật. Không thấy một pháp nào ĺa tâm mà riêng có : không có pháp nào mà có thể chấp trước, bạn không nên sanh ra pháp chấp nào. Nếu cảm thấy có pháp để học, th́ đó là bạn ở ngoài tâm học pháp, ngoài tâm cầu pháp, đó là ngoại đạo. Vậy th́ phải như thế nào ? Lấy cái tâm hư không : giống như hư không vậy. Phát cái nguyện như hư không : Nguyện của ông cần rộng lớn như hư không. Làm cái hạnh như hư không : Các hạnh nguyện của ḿnh cũng phải giống như hư không vậy. Chứng cái quả hư không : Chứng đắc quả vị rộng lớn như hư không. Cũng không có cái tướng hư không có thể đắc được : nhưng vẫn không chấp trước, không chấp trước hư không có tướng ǵ ; nếu chấp trước có một tướng tồn tại th́ đă là chấp trước. V́ thế phát tâm như vậy gọi là viên : phát tâm như thế gọi là viên.



Biết tám tướng trạng khác nhau trên đây là biết quán xét kỹ càng : đă biết tám tướng trạng khác nhau này, th́ nên cẩn thận quán xét kỹ càng. Biết quán xét kỹ càng th́ biết lấy bỏ, biết lấy bỏ th́ có thể phát tâm : Biết quán xét kỹ càng th́ biết bỏ cái ǵ, lấy cái ǵ ; như thế mới có thể phát tâm.



Quán xét như thế nào? Quán xét như thế nào ? Là xem sự phát tâm của ta, trong tám tướng trạng trên đây : chính là xem sự phát tâm của ta, trong tám loại phát tâm này, là tà hay chánh, chân hay ngụy, đại hay tiểu, thiên hay viên : là tà, hay là chánh ? là chân hay là ngụy ? là lớn hay là nhỏ ? là thiên hay là viên ? Tự hỏi lấy ḿnh. Lấy bỏ như thế nào? Sau khi quán sát kỹ càng, đă biết rồi, th́ nên bỏ cái ǵ, lấy cái ǵ ? chính là Là bỏ tà, bỏ ngụy, bỏ tiểu, bỏ thiên : cái tà, cái ngụy th́ cần phải bỏ đi ; cái nhỏ, cái thiên cũng cần phải bỏ đi. lấy chân, lấy đại, lấy viên ; cần phải lấy chánh, lấy chân, lấy đại, lấy viên. Phát tâm như vậy mới được gọi là chân chánh phát Tâm Bồ đề : Phát tâm như thế, mới có thể gọi là chân chánh hiểu rơ phát Tâm Bồ đề, sau này mới có thể viên măn Bồ đề rộng lớn như hư không.

Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 4.9531 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO