Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 251 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: THIỀN Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 1 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

THIỀN

Lư do và phương pháp

-Tại sao phải tập Thiền ?

-Thiền có ǵ quan trọng ?

Hẳn là bạn muốn t́m hiểu, nếu không bạn đă không đọc những ḍng này . Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta .

Con người rất lạ là luôn nghĩ về tương lai hay quá khứ . người trẻ th́ nghĩ đến tương lai ở phía trước . Người già th́ nhớ về quá khứ đă sống qua . Nhưng để kinh nghiệm cuộc đời, chúng ta cần phải sống trong giờ phút hiện tại . Cuộc đời không có ở quá khứ . Đó chỉ là kỷ niệm, hoài ức . Cuộc đời không xảy ra trong tương lai . Đó chỉ là dự tính . Thời điểm duy nhất chúng ta thực sự sống là hiện tại trước mắt . Và chúng ta phải tập sống như thế . Cuộc đời con người có thể kéo dài trong 60 hay 70 năm, nhưng ta phải học sống ngay trong giờ phút hiện tại . Đời sống sẽ bớt bao phiền toái, nếu như ta chỉ sống trong giờ phút hiện tại .

Nói th́ dễ nhưng thực hành, khó lắm thay ! Ai đă từng làm thử hẳn đă kinh nghiệm được điều này . Ai chưa từng thử sẽ tự khám phá ra điều ấy . Một lời khuyên đơn giản, nhưng không phải dễ thực hiện . Và không có phương pháp nào giúp chúng ta sống cho từng giây phút hiện tại hữu hiệu bằng tham thiền .

Tất cả chúng ta đều biết giữ cho thân thể sạch sẽ . Ta tắm rửa mỗi ngày ít nhất một lần hay nhiều hơn . Khi ra đường,ta mặc quần áo sạch sẽ . Tối đến ta lo cho thân ngủ nghỉ . Nếu không, ta không đủ sức đương đầu với những khó khăn trong cuộc đời . Ta cần có một mái nhà ở để che cho thân khỏi mưa, gió, nóng, lạnh . Thiếu những thứ đó, thân sẽ không chịu đựng nổi . Ta c̣n bồi dưỡng cơ thể bằng những thức ăn chọn lọc, bổ dưỡng, lo tập thể dục cho thân được cường tráng, khỏe mạnh . dầu không tập, chúng ta cũng đi đứng, hoạt động, v́ nếu không chân tay ta sẽ teo tóp . Tâm cũng cần được chăm sóc giống như thế .

Đúng ra ta phải chăm sóc cho tâm hơn cả thân, v́ tâm là chủ, c̣n thân chỉ là người đầy tớ . Một người đầy tớ khỏe mạnh, cường tráng, năng nổ nhưng có một ông chủ yếu đuối, thiếu kiên quyết không biết ḿnh phải làm ǵ, cũng khó có thể làm nên việc . Người chủ phải biết điều khiển, chỉ huy người đầy tớ của ḿnh . Ngay nếu như người đầy tớ không được khỏe mạnh, tháo vát nhưng ông chủ khôn ngoan, giỏi dắn th́ "ngôi nhà" của ta được tự tại .

Tâm và thân này làm nên "ngôi nhà" của chúng ta . Nếu ngôi nhà nội tâm không được yên, th́ ngôi nhà bên ngoài của ta cũng khó ổn . Ngôi nhà chúng ta sống, và làm việc tuỳ thuộc vào sự an khang của ngôi nhà nội tâm . Người chủ, người điều khiển phải sống trong những điều kiện hoàn hảo nhất .

Không có ǵ trong vũ trụ này có thể so sánh hay thay thế được tâm . Tâm tạo ra mọi thứ . Nhưng tất cả chúng ta đều coi thường tâm ḿnh . Đó cũng là một nghịch lư của cuộc đời . Không ai coi thường thân thể ḿnh, nếu nó bịnh, ta vội vă chạy đi bác sĩ . Nếu có mệt mỏi ta vội vă cho nó nghỉ ngơi . Nhưng ta đă làm ǵ cho tâm ta ? H́nh như chỉ có các vị Thiền sư là chú trọng đến tâm của họ .

Muốn tâm được phát triển sâu rộng, ta cần phải chăm sóc tâm . Nếu không tâm ta luôn nh́n cuộc đời bằng con mắt nhị nguyên (hai chiều) : Tốt, xấu, ngày mai hay quá khứ; yêu (tôi thích thứ nầy) ghét (tôi không ưa thứ kia) có (tôi sở hữu cái này), không (không sở hữu thứ kia); cái này của tôi, cái kia của anh . chỉ khi tâm đă được rèn luyện, ta mới có thể thay đổi cái nh́n của ḿnh để có thể nh́n thấy được "chiều" khác của sự vật .

Việc ta cần làm trước tiên cho Tâm là tẩy rửa, tắm gội cho nó, không chỉ mỗi ngày một lần hay hai lần như đối với cơ thể, nhưng trong mỗi giây phút tỉnh thức . Để làm được điều đó, chúng ta phải biết phương pháp . Với cơ thể điều đó khá dễ, chỉ cần dùng xà pḥng và nước . Chúng ta đă quen làm như thế từ ngày c̣n nhỏ . Nhưng tâm chỉ có thể gội rửa bằng tâm . Những ǵ tâm đă thâu nhận, chỉ có tâm mới có thể cởi bỏ . Mỗi giây phút tỉnh thức trong thiền là mỗi giây phút tâm được sàng lọc v́ may mắn thay, tâm không thể làm hai việc cùng một lúc . Dầu rằng, như Đức Phật đă nói trong nháy mắt ta có thể có đến hàng ngàn ư tưởng dấy lên, nhưng thực tế ít ai nghĩ nhiều đến vậy và nhất là không thể có tất cả những suy tưởng đó trong cùng một lúc . Chúng tiếp nối nhau cái này sau cái khác thoáng qua nhanh chóng trong đầu ta .

Khi ta Thiền quán, ngũ dục, tham vọng, không thể hiện ra v́ tâm chỉ có thể làm một công việc một lúc . Do đó nếu thời gian tọa thiền tăng lên, các vết nhơ bẩn trong tâm ta sẽ được gột rửa ngày một trở nên sạch hơn .

Tâm, vật độc nhất vô nhị trong vũ trụ, báu vật duy nhất chúng ta sở hữu . Khi có món đồ quư dĩ nhiên là ta phải giữ ǵn cẩn thận . Chùi rửa, đánh bóng, vô dầu mỡ, thỉnh thoảng cho nó nghỉ . C̣n đây ta có tâm quư báu nầy, chỉ có tâm giúp cho ta làm được mọi việc, kể cả việc giác ngộ, nhưng biết ǵn giữ nó hay không tất cả tuỳ thuộc chúng ta . Tâm sẽ trở thành vô dụng nếu không được giữ ǵn, trau chuốt .

Lúc ngồi Thiền, ta tập gạt bỏ ra khỏi tâm những ǵ ta không cần thiết . Để chỉ giữ trong tâm những điều ta muốn nghĩ đến . Khi đă thành thói quen chúng ta có thể áp dụng phương pháp tu Thiền vào các sinh hoạt đời thường, để giúp ta dứt bỏ những tư tưởng không lành mạnh . Như thế nhờ ngồi Thiền, ta có thể dứt bỏ chạy đuổi theo vọng tưởng trong sinh hoạt đời thường, ngược lại việc chúng ta không chạy đuổi theo vọng tưởng trong đời sống giúp cho việc ngồi Thiền của ta dễ dàng hơn . Người có thể làm chủ tư tưởng ḿnh, khiến tâm chỉ nghĩ đến những ǵ mà họ muốn nghĩ được gọi là A La Hán hay đấng Giác Ngộ .

Đừng ngạc nhiên nếu không phải lúc nào ta cũng có thể dứt bỏ vọng tưởng . Thật dễ chịu khi ta có thể chỉ nghĩ đến những điều ta muốn nghĩ đến, v́ như thế là ta đă làm chủ được tâm của ḿnh , hơn là tâm làm chủ ta . Luôn chạy đuổi theo bất cứ tư tưởng nào dấy khởi lên trong tâm, dù hạnh phúc hay đau khổ, đó là thói quen chúng ta muốn từ bỏ khi ngồi Thiền .

Bước kế tiếp là tập luyện tâm . Tâm không kiềm chế giống như những lượn sóng trồi lên trụt xuống, chạy lăng xăng từ chuyện này qua chuyện khác, không bao giờ có thể trụ yên một chỗ . Ai chẳng từng kinh nghiệm có khi đọc sách, đến cuối trang mới bỗng nhận ra không biết ḿnh vừa đọc ǵ, phải đọc lại cả trang . Ta phải luyện tập để tâm ở yên một chỗ, giống như ta phải thúc đẩy, vận động các bắp thịt, khi ta tập hít thở, tập tạ. Sự phát triển, nẩy nở chỉ có thể có được từ sự tập luyện tâm làm theo ư ta, đứng yên khi ta muốn nó đứng yên .

Sự luyện tập cũng giúp tâm thêm vững mạnh, v́ tâm đă được rèn luyện biết buông bỏ . Chúng ta không phải là A la hán, ai cũng chấp Ngă . Chính cá nhân chủ nghĩa, thái độ "cái này của tôi, cái kia của anh" đă tạo nên bao vấn đề trên thế giới . Chúng ta xác định "bản ngă" của ḿnh qua những ǵ ta suy nghĩ, qua sách báo, phim ảnh đă xem đă đọc, hoặc sử dụng tâm trí để làm những việc củng cố thêm cho cá nhân ḿnh . Điều quan trọng nhất ta học được trong lúc ngồi Thiền, là biết buông bỏ, không chạy đuổi theo vọng tưởng . Khi không c̣n ai suy tưởng, không c̣n có cái Ngă.

Lúc đầu, ta chỉ có thể buông bỏ được vọng tưởng trong khoảng thời gian ngắn, nhưng đó chỉ là buớc đầu . Con đường tâm linh cuối cùng rồi cũng dẫn ta đến sự hoàn toàn buông xả . Không có ǵ ta cần phải đạt được hay bám víu vào . Những điều này đă được lập đi lập lại nhiều lần , nhưng ta không cách ǵ khác hơn để diễn tả chúng . Đúng vậy, con đường tâm linh là con đường dẫn ta đến việc chối bỏ, buông xả tất cả những ǵ đă được ta tích lũy, chất chứa từ bấy lâu nay . Sự sở hữu, các thói quen, tư tưởng, thành kiến, các lối suy nghĩ theo khuôn mẫu . Tuy nhiên lúc ngồi Thiền, không phải dễ buông bỏ vọng tâm, v́ cái Tôi không dễ đầu hàng; cái Tôi sẽ cảm thấy lạc lơng khi không có suy tưởng . Tâm sẽ phản ứng ngay bằng cách kêu lên :"Việc ǵ đă xảy ra?" – và rồi nếu không biết buông xả, tâm ta lại chạy đuổi theo vọng tưởng .

Làm thế nào để bắt tâm ở yên một chỗ, là góp phần vào việc phát triển "bắp thịt" của tâm, tạo cho tâm thêm sức mạnh và quyền lực . Giáo lư của Đức Phật rất thâm thúy, cao siêu, và chỉ có những tâm thâm thúy, cao siêu mới có thể lănh hội đầy đủ những lời dạy của Ngài . V́ thế chúng ta cần luyện tâm thêm vững mạnh .

Một thân thể cường tráng có thể chịu đựng đựơc tất cả những ǵ ta bắt nó phải chịu đựng . một Tâm vững mạnh cũng giống như thế . tâm vững mạnh có thể chịu đựng sự nhàm chán, căng thẳng tuyệt vọng hay đau khổ – v́ tâm không bám víu những ǵ nó không thích . thường xuyên thực tập thiền định là một cách luyện tâm .

Là một bộ phận vô giá, tuyệt vời nhất trên đời, tâm hơn tất cả mọi thứ cần phải được chăm sóc . vậy mà ta đă không ngừng suy nghĩ, tính toán từ lúc c̣n ấu thơ, và từ bao nhiêu lượng kiếp trước đó . Suốt ngày chúng ta suy nghĩ, suốt đêm chúng ta mộng mị . Chẳng có phút giây nào ngưng nghỉ . Chúng ta có thể nghỉ hè, đi thư giăn . Nhưng thực ra cái ǵ thư giăn ? Chính là cơ thể được thư giăn . Nó đi lên núi, xuống biển, du lịch chân trời, góc biển, nhưng c̣n tâm th́ sao ? Thay v́ suy nghĩ những chuyện phải làm ở nhà, nó bận rộn thâu nhận những âm thanh, cảnh quang, mùi vị mới lạ . Tâm ta chẳng hề được nghỉ ngơi, nó chỉ thay đổi công tác thôi .

Nếu cơ thể chúng ta không được nghỉ ngơi một đêm, nó khó mà làm việc ngày hôm sau . tâm ta cũng cần nghỉ ngơi, nhưng không phải bằng giấc ngủ . Tâm chỉ có thể nghỉ ngơi khi nó ngừng mọi suy nghĩ, mà chỉ cảm nhận . Ta có thể ví tâm như một màn ảnh trắng, trên đó các phim ảnh được liên tục chiếu lên, không bao giờ ngưng nghỉ . V́ cuốn phim –tư tưởng - liên tục chiếu, người ta quên mất c̣n có tấm màn h́nh ở đằng sau đó .

Nếu chúng ta có thể tạm ngưng lúc tham thiền, chúng ta sẽ cảm nhận được sự tĩnh lặng thường hằng của tâm . đó là giây phút tuyệt vời . Giây phút hạnh phúc không thể kiếm ở đâu, qua bất cứ phương tiện nào . Niềm hạnh phúc tuyệt vời, không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện bên ngoài nào, trừ thực tập Thiền . Không phải tùy thuộc vào món ngon, thời tiết tốt, bạn qúy, người đồng cảm, sự hỗ trợ tinh thần hay của cải vật chất . Tất cả những thứ đó đều không tùy thuộc vào, v́ chúng luôn thay đổi . Chỉ có bản tâm, chánh niệm là không bỏ rơi chúng ta nếu ta tiếp tục thực hành Thiền .

Khi tiếng động trong tâm tạm dừng, không chỉ có sự im lặng, mà c̣n có cả cảm giác hài hoà . Tâm cuối cùng được nghỉ ngơi . Nó đă t́m được đến nhà . Ta sẽ đau khổ biết bao nếu không có cái nhà che chở xác thân . Tâm cũng thế . Giây phút b́nh an, tĩnh lặng đó là "ngôi nhà" của tâm . Nó trở về nhà nghỉ ngơi giống như sau một ngày làm việc, chúng ta trở về nhà, ngả người trên chiếc ghế êm ả hay nằm xuống giường để thân nghỉ ngơi . Tâm bây giờ cũng thế . được nghỉ ngơi, không phải suy nghĩ . Suy nghĩ, vọng tưởng là đau khổ, cho dù chúng ta nghĩ về bất cứ thứ ǵ . V́ có sự chuyển động là có va chạm . Tất cả những ǵ chuyển động sẽ sinh ra va chạm, cọ xát, khổ đau .

Giây phút chúng ta thư giăn, nghỉ ngơi, tâm tăng thêm sức mạnh và an lạc v́ nó biết nó có thể trở về nhà bất cứ lúc nào . Sự an lạc chúng ta t́m thấy được khi ngồi thiền sẽ ở trong ta suốt ngày, cả trong những sinh hoạt đời thường ta cũng t́m thấy nó. Tâm an lạc v́ tâm biết rằng không có ǵ cản trở nó trở về nhà, t́m sự tĩnh lặng, hài hoà .

Đó chính là những lư do để giải thích tại sao cuộc đời ta sẽ không bao giờ đầy đủ nếu không có Thiền . Những lạc thú bên ngoài mà cuộc đời mang đến cho ta, không thể so sánh được với niềm vui nội tâm . Sự buông xả, không bám víu giúp chúng ta hiểu rằng "cái tôi" luôn đ̣i hỏi, do đó tâm luôn đ̣i suy tưởng . Khi ta ngưng mọi ham muốn, ta không cần phải suy nghĩ, vọng tưởng . Khi chúng ta ngưng đ̣i hỏi, tất cả mọi sự thất vọng , đau khổ đều biến mất . Đó là lư do tại sao chúng ta cần phải tu tập Thiền .

Trước hết chúng ta phải chú trọng đến hơi thở ra, hơi thở vào nơi mũi . hơi thở là gió, nên khi gió vào hay ra, ta đều cảm thấy . Cảm giác đó giúp chúng ta chú tâm ở nơi mũi . Việc làm đó lúc đầu khó tránh khỏi khó khăn .

Hơi thở là mạng sống của chúng ta, v́ thế c̣n ǵ thích hợp là dùng hơi thở để thiền quán : Ta sống nhờ hơi thở, không thể tách rời khỏi nó giây phút nào . Vậy mà ít khi ta nghĩ đến nó . Ta quên khuấy nó, cho đến khi ta mất nó, nghẹt thở, chết đuối hay chết ngạt . lúc đó ta mới thấy hơi thở quan trọng biết bao . Nhưng khi hơi thở c̣n ở với chúng ta, ta chẳng bao giờ nhớ tới, dầu hơi thở là sự sống c̣n của ta, là báu vật qúy nhất của tất cả chúng ta . Hơi thở c̣n trực tiếp hỗ trợ cho tâm. Khi ta xúc động hay vội vă, hơi thở trở nên gấp rút . Khi tâm ta thanh tịnh, tĩnh lặng, hơi thở nhẹ nhàng, thanh thoát . Khi hơi thở trở nên mong manh đến nỗi khó t́m thấy, là khi chúng ta ở trạng thái Thiền định . Tập chú trọng vào hơi thở là phương pháp giúp chúng ta đạt đến trạng thái đó .Thở là một hành động vừa tự nhiên, vừa có thể được kiểm soát . Ta có thể làm cho hơi thở sâu, dài hay ngắn hay ngưng lại giây lát .

Có nhiều cách để chú tâm vào hơi thở . Ta có thể theo dơi hơi thở vào, hơi thở ra khi ta chú tâm đến nó. Muốn thực tập phương cách này, không cần phải thay đổi cách thở chỉ im lặng theo dơi nó vào ra .

Hoặc tập chú tâm bằng cách kết hợp hơi thở với tụng niệm, thí dụ "Nam Mô". Nam khi hít vào, Mô khi thở ra .

Ta cũng có thể đếm một khi hít vào, một khi thở ra . Hai khi hít vào, hai khi thở ra . Không đếm dưới 5, không đếm quá 10 . Khi đếm đến 10, lại bắt đầu trở lại một . Khi tâm lang thang, bắt đầu đếm lại 1. Lúc bắt đầu, nếu bạn không bao giờ đếm quá hai, đừng nản ḷng. Hăy kiên tŕ thực tập .

Tất cả tâm đều giống nhau . Bạn không cần phải nghĩ :"Tôi không thể tập Thiền . Thiền không thích hợp với tôi ." Nhưng "tôi" ở đây là ai ? Nó chỉ là một tâm không kềm chế so với tâm đă được kềm chế .Một vận động viên có tập luyện sẽ chạy nhanh, chạy giỏi hơn người không tập . Thế thôi. Nếu không có sự cố gắng tập luyện, không thể bảo rằng :"Tôi vô dụng . Tôi không thể chạy nhanh" .

Đếm hơi thở, niệm chú, chú tâm ở hơi thở nơi mũi hay theo dơi hơi thở ra vào . Hăy thử xem phương pháp nào thích hợp với bạn, rồi giữ lấy phương pháp đó . Nếu bạn có thể tập chú tâm, bằng cách theo dơi hơi thở phồng lên xệp xuống ở bụng th́ cứ làm như thế . Chân xếp như thế nào để bạn có thể ngồi lâu . Lưng thẳng nhưng không gồng . Vai, bụng, và cổ cũng phải thư giăn, mềm . Khi bạn ngồi bị ngă chúi, hăy ngồi thẳng lại . Đầu cũng phải giữ thẳng . Ngồi chúi, đầu gục xuống dễ làm ta buồn ngủ hơn là tĩnh tâm . Khi ngồi Thiền chúng ta cần phải hoàn toàn tỉnh thức .

Bạn sẽ thấy rằng không phải lúc nào tâm cũng trụ vào hơi thở , dù bạn tập bằng phương pháp nào : niệm chú, đếm 1-1,2-2 hay chú tâm vào hơi thở ở mũi hay theo dơi hơi thở vào ra . Tâm vẫn lăng xăng, trừ khi bạn đă từng tập ngồi thiền một thời gian dài . Vọng tưởng cuốn phim vẫn c̣n đó . Chỉ có cách là tập gọi tên các vọng tưởng, nhưng nếu gặp khó khăn, có thể đơn giản hoá bằng cách gọi chung chung như "tư tưởng", "hồi ức""lầm lẫn", "dự tính" hay "nhảm nhí" . Không quan trọng . V́ ngay lúc ta đặt cho vọng tưởng một cái tên, là lúc ta đă tách ta ra khỏi nó . Nếu không, bạn không phải là ngồi thiền mà là ngồi suy nghĩ và bạn sẽ hoàn toàn bị dẫn dắt, lôi cuốn theo các suy tưởng của ḿnh . Bạn sẽ lo cho con mèo bị nhốt ngoài cửa, lo không biết mấy đứa nhỏ ngủ chưa… Bất cứ ǵ, th́ bạn đang lo nghĩ, dĩ nhiên tâm bạn sẽ tự bào chữa rằng:"Nhưng tôi cần phải biết những điều đó chứ". Khi tọa thiền bạn không cần biết về vấn đề ǵ cả . Cuộc đời vẫn cứ tuần tự trôi đi, không cần đến sự lo lắng của chúng ta . Mỗi giây phút, nó đến rồi đi .

Khi vọng tưởng dấy lên, hăy nh́n thẳng vào nó, đặt tên cho nó . Trúng, sai không thành vấn đề . Khi một vọng tưởng đă được đặt tên, có nghĩa là ta có thể buông bỏ nó . Dần dần thói quen này sẽ được chúng ta áp dụng vào mọi phút giây tỉnh thức . Nhờ thế khi có những tư tưởng không trong sáng, ta có thể buông bỏ chúng . Bạn sẽ tập chỉ nghĩ đến điều ḿnh muốn nghĩ, và khi làm được như thế, bạn sẽ không bao giờ thấy khổ đau nữa . Chỉ có kẻ khờ mới tự nguyện đau khổ .

Đặt tên cho các tư tưởng, đó là cách giúp ta nhận biết vọng tưởng trong đời sống hàng ngày, nhưng khi ngồi thiền ta gọi đó là sự tỉnh thức . Đó là cách thực tập Chánh niệm . Đức Phật nói :"Tỉnh thức là phương pháp duy nhất để giải thoát con người, giúp họ tránh thất vọng, bước vào con đường giác ngộ, thoát khỏi khổ đau". Biết rằng "Tôi đang suy nghĩ . Tôi đang lơ đễnh, lo lắng, bứt rứt, mơ mộng về tương lai . Mong ước …" Chỉ nhận biết rồi trở về với hơi thở . Nếu bạn có hàng ngàn vọng tưởng, th́ hăy nhận biết chúng hàng ngàn lần . Nhận biết sự dấy khỏi của vọng tưởng và nội dung của chúng . Đấy là nền tảng của sự tỉnh thức một cách chủ động, con đường duy nhất đưa đến giải thoát – nếu ta thực sự thực hành chúng .

Cơ thể của chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu v́ phải ngồi trong một tư thế không quen thuộc, và nhất là v́ ta bắt nó phải ngồi yên . Thân không bao giờ thích phải ở yên một chỗ dù chỉ trong thời gian ngắn . Ngay như khi nằm trên chiếc giường êm ái, thoải mái, thân cũng lăn trở suốt đêm. Thân muốn di chuyển để thoát khỏi sự khó chịu, nên dù ta đang ngủ, thân vẫn chuyển động . Cũng thế, khi chúng ta ngồi thiền, sự khó chịu dấy lên . Thay v́ lập tức nghe theo thân, thay đổi thế ngồi như ta vẫn thường làm, thường phản ứng khi đau đớn, khó chịu dấy lên, hăy nhận biết nó . Quan sát cảm giác khó chịu từ đâu tới . Có phải v́ sự tiếp xúc với gối, sàn nhà hay với chân kia . Từ sự tiếp xúc sinh ra cảm giác . Từ cảm giác dẫn đến hành động. (Đây cũng chính là ṿng luân hồi luẩn quẩn của chúng ta . Chính phản ứng của chúng ta đối với các cảm giác đưa chúng ta đến luân hồi sanh tử) .

Chỉ có ba loại cảm giác : dễ chịu, trung tính, khó chịu . Ngồi Thiền gây cảm giác khó chịu, nên tâm lên tiếng :"Á, cảm giác khó chịu , đau đớn quá . Tôi không chịu nổi, tôi muốn thoát ra khỏi cảm giác này" . Chúng ta sống, phản ứng như thế mỗi ngày, từ sáng đến tối, đều như thế . Bất cứ điều ǵ làm chúng ta khó chịu chúng ta chạy trốn, xua đuổi hay cố gắng thay đổi các nguyên nhân bên ngoài chúng ta . Bằng mọi cách chúng ta xua đuổi khổ đau . Nhưng sẽ không có cách ǵ làm được, trừ khi chúng ta dứt bỏ được ḷng tham muốn . Bất cứ điều ǵ ta làm cho thân, xoay chuyển chiều nào rồi nó cũng sẽ khó chịu, v́ sự thoải mái không thể kéo dài .

Hăy quan sát ṿng lẩn quẩn đó : tiếp xúc, cảm giác, phản ứng . "Tôi cảm thấy đau. Tôi muốn chạy khỏi chỗ này". Nhưng thay v́ chạy trốn, hăy đặt hết sự chú tâm vào nơi đang bị đau đớn, để cảm nhận sự thay đổi của nó . Bạn sẽ thấy cảm giác đau đớn hoặc là di chuyển đến nơi khác, hoặc là thay đổi cường độ . Cảm giác đó không phải là một khối đông đặc, nó di chuyển, nó đổi thay .

Hăy nhớ rơ rằng, cơ thể ta không có sự đau đớn, nhưng nó đang đau đớn . Chỉ có như thế ta mới hiểu sự thật về những đau đớn của con người . Không phải là thỉnh thoảng cơ thể ta mới bị đau đớn, khó chịu mà nó luôn luôn đau đớn khó chịu . Nó không thể nằm hay ngồi yên mà không cảm thấy khó chịu . Hăy nhận biết tánh vô thường đó . Hăy nhận biết tính chất khổ đau đă được ươm mầm trong cơ thể con người. Hăy nhận biết là cảm giác chúng tự đến, không có lời mời của chúng ta . Vậy tại sao gọi chúng là "của tôi" ? Hăy nhận biết chúng từ các cảm giác khó chịu này, rồi th́ chuyển đổi nếu cần, không phải là ngay lập tức . Chỉ chuyển đổi sau khi chúng ta đă quán sát tại sao cần làm vậy . Chuyển đổi nhẹ nhàng, đầy chánh niệm để không làm phiền đến người chung quanh .

Cứ ngồi nguyên một chỗ cắn răng chịu đựng, và tự nhủ "Tôi sẽ ngồi nguyên bằng mọi giá . Tôi không chịu đựng nổi nữa, nhưng tôi vẫn cố chịu" không đem lại lợi lộc ǵ cho sự ngồi thiền của chúng ta . Đó là một phản ứng sai lầm không khác ǵ sự đầu hàng nhanh chóng . Một đằng là chạy đuổi theo sự thoải mái, đằng khác là sự bám víu vào khổ đau . Chúng chỉ là hai mặt của một đồng tiền . Cách tốt nhất là làm sao hiểu rơ nội tâm, hiểu rơ hành động của ta , và như thế mới thật sự mang lại kết quả . Hăy tiếp xúc với tư tưởng và cảm giác khi chúng dấy khởi . Quan sát tính cách vô thường của chúng . Chúng đến, rồi chúng đi . vậy tại sao ta nhận chúng là ḿnh ? Ta có mời chúng không ? Chắc chắn là không . Ta chỉ có ư định ngồi thiền thôi phải không ? Vậy tại sao tâm ta đầy những vọng tưởng ? Chúng có phải là ta không ? Chúng có phải là sự khổ đau không ?

Vô thường, khổ đau, vô ngă là ba đặc tính bao trùm vạn vật . Trừ khi ta nhận biết chúng từ trong tâm thức của ta , chiúng ta sẽ không bao giờ hiểu Đức Phật nói ǵ . Thiền là phương pháp giúp chúng ta hiểu ra điều ấy . Thiền là hành động . C̣n tất cả chỉ là ngôn từ .



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 2 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

ẢNH HƯỞNG CỦA THIỀN
ĐẾN ĐỜI SỐNG CHÚNG TA





Trước hết ta phải tẩy uế, thanh lọc tâm . Nhưng không thể có tâm thanh tịnh, nếu như thân ô uế, v́ thế, ta cũng cần tẩy rửa các thứ tạp uế đă chất chứa trên thân thể ta bấy lâu nay .

Hăy tưởng tượng một người đă sống trong một ngôi nhà đă hơn hai mươi, ba mươi năm không dọn dẹp . Bao nhiêu thức ăn thừa thăi, quần áo bẩn thỉu, rác rưởi đă chất đến trần nhà . Phải sống giữa đống rác đó thật hôi thối khó chịu . Nhưng người chủ sống ở đó th́ chẳng hề bận tâm, cho đến một ngày có người bạn ghé qua và nói : "Sao bạn không dọn nhà ḿnh cho sạch sẽ ?" Rồi hai người bạn bắt tay vào dọn dẹp một góc nhà . Sau đó người chủ bắt đầu thấy sống ở góc pḥng sạch sẽ đó dễ chịu hơn. Nên dọn dẹp cả căn nhà, người chủ bây giờ có thể ngắm quang cảnh bên ngoài, có đủ chỗ đi qua lại trong nhà . Khi chỗ ở đă trở nên thoải mái dễ chịu, người chủ mới có thể quay vào chú trọng đến nội tâm của ḿnh .

Căn nhà đó là thân chúng ta . Bất kể chúng ta đi đâu : từ thành phố này đến xứ sở kia, từ chỗ trọ này đến nơi ở khác, không biết bao nhiêu lần . Ta cũng lôi kéo thân đi cùng khắp cho đến ngày nó rời ră, hư hoại, chỉ c̣n là một đống xương, một nhúm cát bụi . Nhưng c̣n chưa tới ngày ấy, ta c̣n phải mang thân này . C̣n phải sống, ta c̣n cần phải dọn dẹp cho "căn nhà" này được thông thoáng sạch sẽ dễ chịu .

Các phản ứng tâm lư chất chứa bên trong lâu ngày đă che mắt tâm ta . Tâm đă dung chứa chúng th́ chính tâm cũng phải tháo gỡ chúng . Trong Thiền, điều này đồng nghĩa với "nhận biết các cảm thọ, nhưng không phản ứng, rồi buông bỏ" . Bản chất của Thiền là không phản ứng . Đặc tính quan trọng đó giúp ta t́m được sự an lạc, quân b́nh trong tâm hồn, v́ các phản ứng giống như sự chuyển động của các làn sóng phủ chụp ta, làm ta mờ mịt không thấy lối ra . Và chúng ta tiếp tục u mê . Chúng ta có thể nghe, chúng ta có thể cảm thấy, nhưng không thể nh́n thấy "nội tâm " của ta . Nội tâm đó đă bị che phủ bởi các hành động, những phản ứng t́nh cảm của chúng ta .

Khi các vọng tưởng khởi lên trong lúc tọa thiền, ta chỉ cần biết chúng dấy khởi, mà không cần có phản ứng . Và ta cũng chỉ cần làm có thế . Thái độ không phản ứng này cũng có thể được mang áp dụng vào đời sống hàng ngày của ta . Cảm thọ nào dấy khởi, ta chỉ cần nhận biết nó đó đến, rồi để nó đi . Nếu chúng ta có thể quán tưởng được như thế lúc ngồi thiền, là ta đă học được một trong những bài học quan trọng nhất trong việc tự giải thoát ḿnh . Thật sai lầm nếu nghĩ rằng v́ chúng ta đang sống, tất nhiên ta phải biết nghệ thuật sống . Đó là một nghịch lư khác của cuộc đời. Sống là một nghệ thuật . ai trong chúng ta chẳng từng vấp ngă một đôi lần trong đời . Ta gọi đó là thảm kịch, bất hạnh "của tôi" . Thật ra đó chỉ là nghệ thuật sống chưa được hoàn hảo .

Đặc tính thứ ba nhưng không kém phần quan trọng của việc tu thiền là ta có thể kinh nghiệm được tính cách vô thường của sự vật . Trừ khi tự chúng ta kinh ngiệm được điều đó, nếu không tính cách vô thường của sự vật cũng chỉ là những lời nói vô nghĩa . Và lời nói không giúp chúng ta giải thoát được . Phải tự chứng nghiệm . Con đường Đức Phật chỉ cho chúng ta là con đường nhằm đưa đến giải thoát một sự tự do hoàn toàn, tuyệt đối, và điều đó mỗi người phải tự chứng nghiệm lấy . Khi tham thiền, hăy kinh nghiệm sự vô thường trực tiếp qua việc chú tâm vào hơi thở, ta biết rằng một hơi thở vừa vào, lại một hơi thở ra . Hơi thở trước không giống hơi thở sau . Cảm thọ này dấy lên, rồi qua đi . Tiếp theo một cảm thọ khác lại đến . Rồi nối nối các cảm thọ khác dấy lên, cuối cùng không c̣n ǵ nữa . Một cảm giác đau ở chân, ta trở ḿnh, cảm giác đau biến mất . Cảm thọ đến, rồi cảm thọ đi .

Với chút kinh nghiệm tu tập thiền, ta có thể dễ dàng nhận ra được sự vô thường của cảm thọ, đồng thời ta cũng nhận ra được sự vô thường của bản thân . Ai cũng biết thế . Người có hiểu biết đều biết rằng thân của ta, của tất cả mọi người đều vô thường, hoại diệt . Nhưng tất cả chúng ta đều sống như thể ta sẽ không bao giờ mất, ta đau khổ, khóc than khi thân này bị hủy hoại theo luật tự nhiên, như thế đó là việc ta không bao giờ ngờ tới .

Đó là một sự suy nghĩ sai lầm, vô lư lắm phải không ? Đó là v́ chúng ta tự quay lưng lại với thực tại . Ta chỉ muốn chấp nhận cái tốt đẹp . C̣n khi phải đối mặt với sự thật phũ phàng, ta t́m cách đổ lỗi cho kẻ khác . Có người c̣n đổ cho quỷ thần, trời đất . Không cần biết ta trách móc người chung quanh hay trách trời đất, sự thật cuộc đời là đầy những vô thường, chúng ta phải chấp nhận sự thật đó để sống cho đúng .

Khi chúng ta suy nghĩ thêm, ta sẽ thấy là mỗi giờ phút trôi qua, các tế bào trong cơ thể cũng thay đổi . Chúng ta ai không học điều này ở nhà trường .

Rơ ràng là chúng ta có thể kiểm nghiệm được điều này . Khi lắng sâu trong Thiền định, ta có thể cảm được từng cảm giác trên da thịt ḿnh . Ta sẽ có cái nh́n khác về chính bản thân ta, cũng như về cuộc đời, v́ giờ ta đă thấu hiểu bằng chính kinh nghiệm của ḿnh rằng không có ǵ bền vững, tồn tại măi, nhất là với thân này .

Khoa học đă chứng minh rằng không có ǵ trong vũ trụ là một khối . Tất cả vật chất là hiện hữu đều được tạo thành bởi những phân tử di chuyển với tốc độ nhanh đến cùng với nhau và ră tan cùng nhau, do đó chúng ta ảo tưởng cùng một khối vững chắc . Đức Phật 2500 năm về trước đă nói như thế về các phân tử, không cần đến các pḥng thí nghiệm để chứng minh điều đó. Ngài đă từng kinh nghiệm điều đó và đă Giác ngộ . Các nhà khoa học cũng biết tất cả những điều này, nhưng họ không phải là đấng giác ngộ, v́ điều họ thiếu sót là kinh nghiệm bản thân, chính họ không tự chứng được những điều này .

Ta cũng tự biết với một chút phán đoán thông minh rằng không có ǵ là một khối cứng rắn . Nếu không sẽ không có cơ thể chúng ta, mà chỉ có những cái xác người . Nhưng đó là sự phán đoán của lư trí . Chưa đủ . Ta c̣n phải cảm nhận được điều ấy . Khi ta cảm nhận được như thế trong Thiền định, ta thật sự "biết" . Không ai có thể bàn căi ǵ được về những kinh nghiệm của chính bản thân ta . Ngay chính như nếu có ai đó nói với ta rằng :"Không . Không phải vậy . thân ta là một khối . Sao bạn không thử nắn thân thể ḿnh th́ biết . Nó là một khối cứng rắn phải không ?" Ta cũng sẽ không muốn bàn căi, không để bị thuyết phục . Nhưng khi có người tranh luận về những điều Đức Phật dạy, Ngài đă không căi lại . Ngài không phải bảo vệ cho giaó lư của ḿnh . v́ Ngài đang nói về các kinh nghiệm tự chứng .

Với sự chú tâm nhất quán, thậm sâu, ta có thể "thấy" được những thay đổi không ngừng trong ta . Chính tâm ta cảm nhận được điều đó, bên trong cơ thể ta, vậy th́ tâm phải đứng ngoài mới nh́n thấy được, vậy làm sao nói được ta là một khối rắn chắc . Tâm có thể nói rằng :"Nếu luôn luôn có sự chuyển đổi bên trong ta, vầy th́ cái "tôi" ở đâu ?" Tất cả các cảm giác luôn thay đổi . Phút trước có, phút sau không . Cơ thể luôn biến đổi . Không có ǵ để "tôi" bám víu vào . Tư tưởng luôn thay đổi, vậy "tôi" ở đâu ? Nhưng dĩ nhiên là con người chạy t́m một h́nh ảnh tưởng tượng để ẩn trú vào như là một con người siêu phàm (higher self) một tâm linh, một linh hồn v.v… Nhưng xét kỹ ra, tất cả đều là ảo tưởng . Chúng ta phải chấp nhận vô thường .

Một đặc tính nữa của việc tập Thiền, chính là phương pháp Thiền mà Đức Phật đă nhắc đến trong lúc thuyết giảng về nền tảng của sự chú tâm, thiền quán về bốn yếu tố : đất, nước, gió, lửa . Cảm giác về sự cứng rắn trong cơ thể thuộc về đất . Chúng ta cũng cảm được thể rắn chắc trong chiếc bồ đoàn ta ngồi . Yếu tố rắn chắc (Đất) có mặt ở khắp mọi nơi . Ngay cả trong nước cũng có, nếu không, ta không thể lội trong đó, hay đặt thuyền lên nước . Yếu tố đó có cả trong không khí, nếu không chim, máy bay không thể bay trong đó .

Yếu tố lửa- nhiệt độ – cũng ở khắp nơi . Nếu để ư, chúng ta có thể cảm thấy sức nóng trong thân ḿnh . Thường ta chỉ để ư đến yếu tố này khi đang lạnh cóng, bị nóng quá hay lúc bị cảm sốt . Nhưng nhiệt độ luôn có mặt trong cơ thể ta . Cũng như trong tất cả mọi sinh vật .Yếu tố Nước ở trong máu, nước miếng, nước tiểu của chúng ta . Yếu tố nước cũng là sức kết, bện . Khi ta có bột, đổ nước vào, bột sẽ dính vào nhau . Nước là yếu tố kết, bền có mặt ở khắp mọi nơi . Không có nó, tất cả các tế bào di chuyển trong thân ta, sẽ tan ră . Chúng ta sẽ không thể ngồi đây nếu không có nó để giữ cơ thể chúng ta lại .

Tất cả những khám phá này thật lư thú phải không ? Nhưng chúng cũng vô dụng nếu ta không kinh nghiệm chúng . Chúng sẽ vẫn chỉ là những kiến thức tiêu khiển trong lúc tán gẫu với bạn bè . Nhưng khi ta có thể tự kinh nghiệm được, chúng sẽ trở thành sự hiểu biết sâu sắc bên trong, về vật chất quanh ta . Trí tuệ, sự nhận biết được bản chất thật của sự vật là điều Đức Phật thường hay nhắc tới .

Cuối cùng là yếu tố không gian (Gió) . Có không gian – những chỗ mở – trong ta, như là lỗ mũi, bên trong miệng . Ngay trong nội tạng cũng có những chỗ mở . Vũ trụ là không gian . Nếu chúng ta nhận ra được những điều này, chúng ta sẽ thấy là tất cả đều cùng một thể, ta sẽ bớt được những suy nghĩ như "Đây là tôi và tôi sẽ chỉ lo cho một ḿnh tôi , không cần biết đến thế giới quanh tôi . Mong là họ cũng sống an lành, nhưng đừng có trông cậy vào tôi" . Khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta có cũng chỉ là do các duyên hợp lại, rồi tan đi, chúng ta không là ǵ ngoài bốn thứ gió, lửa, đất và nước hợp lại, th́ "tôi"là ǵ, đến nỗi lúc nào ta cũng chăm chăm bảo vệ nó bằng mọi cách . Và thế giới c̣n lại, người chung quanh ta là ǵ, để ta cảm thấy bị họ đe dọa ?

Thiền là nhắm đạt được giác ngộ, và giác ngộ là mục đích của người Phật tử tu thiền . Các phương tiện là những dụng cụ . Ta sử dụng chúng cách nào cho hữu hiệu hơn cả . Mỗi người một cách khác nhau . Nhưng ta càng sử dụng chúng thuần thục, th́ kết quả càng nhanh chóng, dễ dàng hơn . Nên nhớ phải chú tâm vào phương tiện, không vào kết quả . Chỉ có như thế th́ sự dễ dàng, thuần thục mới đến với chúng ta .



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 3 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:35pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

AN LẠC VÀ TỈNH THỨC






Có rất nhiều phương pháp tu Thiền . Trong "Đường đến thanh tịnh hoá" (Path of Purification) có hơn 40 cách được liệt kê, nhưng chỉ có hai phương hướng, hai con đường ta phải đi đến : An lạc và Tỉnh Thức . An lạc và Tỉnh Thức luôn đi đôi với nhau. Giống như phương hướng và mục tiêu . Ta phải biết con đường để đi đến mục tiêu .
Ta cần phải thực tập cả hai phương cách, An lạc và Tỉnh thức, để đạt được những kết quả mà Thiền sẽ mang đến cho ta . Phần đông chúng ta đều muốn được an lạc . Ai cũng muốn được b́nh yên, muốn được có cảm giác vui sướng măn nguyện . Trong Thiền định, nếu ta thoáng bắt được cảm giác an lạc đó, ta sẽ hạnh phúc biết bao . Nhiều người đă thoả măn khi đạt được đến tŕnh độ đó . Nhưng an lạc không phải là mục đích của Thiền . Đó chỉ là phương tiện đưa đến cứu cánh . An lạc là phương tiện . Sự tỉnh thức trong nội tâm mới là cứu cánh . Phương tiện rất cần thiết nhưng không thể lầm lẫn chúng với cứu cánh . Nhưng v́ phương tiện đó tạo ra sự thoải mái, dễ chịu, ta trở nên bám víu vào chúng .

Vấn đề của chúng ta là luôn chạy đuổi theo sự dễ chịu và xa lánh sự khó chịu . V́ chúng ta coi mục đích của cuộc đời là được dễ chịu, hạnh phúc, nên dường như ta chẳng có mục đích ǵ cả trong cuộc đời . Không thể nào tước bỏ hết tất cả những điều khó chịu, đau khổ trong đời, mà chỉ giữ lại những ǵ ta ưa thích . Chừng nào ta c̣n coi đó là mục đích của ḿnh th́ ta không có mục đích ǵ cả . Trong Thiền cũng thế .

Như thế th́ làm cách nào chúng ta có thể đạt được sự an lạc, và điều đó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào ? Bằng cách thực tập chú tâm vào hơi thở, dần dần ta sẽ t́m được sự an lạc . Tâm ta sẽ ngưng suy nghĩ trong một giây phút nào đó, và ta sẽ cảm thấy hoàn toàn thư thái, dễ chịu . Tâm suy nghĩ không bao giờ được thư thái, v́ suy nghĩ là một quá tŕnh chuyển động, và bất cứ sự chuyển động nào cũng tạo ra ma sát . Tuy nhiên ta có thể t́m được sự an lạc trong một giây phút nào đó, hay dài hơn, nếu ta tiếp tục tu tập và tăng thời gian tham Thiền lên . Điều đó không có ǵ khó . Có thể lúc đầu ta thấy khó khăn, nhưng với sự kiên tŕ, nhẫn nại, một chút duyên lành và một nơi yên tĩnh, ta có thể làm được điều đó .

Chắc rằng chúng ta đều có duyên lành, nếu không ta đă không có mặt nơi này. Những người có ác nghiệp sẽ không t́m được đến với Thiền, hoặc giả như có, họ cũng không trụ lại . Do đó nói ta có sẵn duyên lành là vậy .

Về ḷng kiên nhẫn, bạn cũng không thiếu, nếu như bạn đă chịu khó đọc đến những ḍng này . Chỉ cần thêm một yếu tố nữa đó là ư chí, sự quyết tâm . khi ngồi xuống chiếu Thiền, bạn cần tự nhủ : "Tôi sẽ chú tâm vào từng hơi thở, nếu tôi có lơ là, tôi sẽ bắt đầu trở lại" . Cần làm như thế để giữ cho tâm thăng bằng, giống như người đi trên dây xiếc . Mỗi lần lao đao, ta phải lấy lại thế cân bằng . V́ thế ta cần có sự quyết tâm .

Khi cảm giác an lạc, thư thái dấy lên –cái cảm giác mà Phật gọi là sự an lạc ngay giờ phút hiện tại –rồi qua đi, không thể khác được, v́ bất cứ điều ǵ đă có th́ phải hoại, phản ứng đầu tiên mà tâm phải có là nhận ra tính cách vô thường của sự vật, chứ không phải để thất vọng kêu lên :"Ồ, nó lại qua mất rồi" . Hoặc là "cảm giác vừa rồi dễ chịu quá, làm sao để có lại cảm giác ấy", như cách ta vẫn phản ứng lâu nay .

Sống theo Pháp, làm theo Pháp, là những hành động không b́nh thường . Khác với mọi người chung quanh . Khi Phật c̣n ngồi dưới cây bồ đề, trước khi giác ngộ, khi Sujata mang dâng Ngài sữa trong chiếc tô vàng, cô cũng cúng dường luôn chiếc tô quư . đức Phật sau khi uống xong, đă thả chiếc tô vàng xuống ḍng sông trước mặt, và nói nếu như cái tô chảy ngược với ḍng nước sông, Ngài sẽ giác ngộ . Và cái tô đă chảy ngược ḍng . Điều đó có thể xảy ra không ? Có lẽ pháp thoại đó muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng khi ta sống với Pháp, chúng ta phải đi ngược lại với ḍng chảy của bản năng, của các khuynh hướng tự nhiên . Chúng ta phải đi ngược lại với những sự dễ dăi, thoải mái, những ǵ tất cả mọi người khác đều theo đuổi . chảy ngược ḍng bao giờ cũng khó hơn là thuận, xuôi theo ḍng .

Cảm giác thoải mái tự tại mà ta cảm nhận được trước hết ở thân, rồi đến tâm, cũng sẽ qua đi . Chúng ta phải nhận ra tính cách vô thường của nó, để ta có thể sử dụng nó cho một mục đích . Nếu không, ta chỉ sử dụng cảm giác an lạc đó cho sự thoải mái của riêng ta . Mà chỉ để thoải mái cho thân ta là ta đă ích kỷ, chỉ biết đến riêng ḿnh, không phải là để tiến tới vô ngă, là cái gốc của những điều Phật dạy .

Giaó lư của Phật hướng ta đến vô ngă . Ngài nói :"Tôi chỉ dạy một điều, đó là giải thoát, chấm dứt khổ đau" . Điều đó không có nghĩa là tất cả khổ đau trên đời đều chấm dứt . điều đó có nghĩa là nếu không có một cái tôi để đón nhận khổ đau, th́ không có khổ đau. Cái tôi sẽ biến mất . Nếu không có ai ở đây có vấn đề, th́ làm ǵ có vấn đề ? Nếu dùng cảm giác tự tại chỉ cho riêng ḿnh , th́ ta đi ngược lại với lời Phật dạy .

Luôn trở về với hơi thở sẽ giúp ta đạt đến trạng thái an lạc . Chánh niệm, trong Bát chánh đạo, dạy ta sự chú tâm đúng, đưa đến Thiền định . Theo dơi hơi thở là việc cần làm, nhưng không có ai đạt được thiền định chỉ bằng ao ước hay một vài buổi ngồi thiền . Tất cả cần có thời gian . Do đó khi ngồi thiền, ta cần đưa bất cứ vọng tưởng nào dấy lên trở về với sự tỉnh thức . Bất cứ ư tưởng nào cũng thế, chúng không phải đến để phá rối chúng ta, cũng không phải là dấu hiệu chứng tỏ ta không thích hợp với Thiền, cũng không phải cảm giác làm ta thấy quá nóng hay quá lạnh . Không có ǵ giống như thế cả . Vọng tưởng không phải là kẻ phá rối trật tự của chúng ta . Chúng là ông thầy của chúng ta .

Mỗi vọng tưởng là một ông thầy, "dạy" cho ta biết tâm ta lăng xăng, không thể nương tựa, không thể tin cậy được . Nó suy nghĩ về cả những điều ta không muốn nghĩ đến, cả khi ta chỉ muốn được hoàn toàn yên tĩnh và tự tại . Ta biết được trước hết là tâm không phải là một phần tuyệt vời của chúng ta , dù rằng nhờ nó ta có thể thu thập được kiến thức, có thể hồi tưởng, có thể hiểu một số khái niệm và phạm trù . Tuy nhiên nó là một cái tâm lăng xăng, luôn thay đổi và nó sẽ làm những ǵ chúng ta đ̣i hỏi ở nó.

Điều thứ hai, ta cần nhớ, là khó thể tin vào tâm. Ta không nên tin vào tất cả mọi tư tưởng qua đầu ta. Chúng đă đến không mời mọc, th́ tự chúng cũng sẽ ra đi. Chúng chẳng có ích lợi ǵ, nhất là khi ta đang ngồi thiền. Chúng có thể làm những ǵ đă xảy ra trong quá khứ. Hay chỉ thuần là vọng tưởng. Đôi khi chúng làm ta khó chịu hay chỉ nhẹ nhàng như một giấc mơ. Có khi chúng đến lộn xộn không đầu đuôi. Chúng nhanh chóng đi qua đầu ta, trước khi ta kịp nhận mặt chúng. Vậy tại sao ta lại tin vào những điều ḿnh thường suy nghĩ ?

Trong lúc ngồi Thiền, chúng ta có cơ hội để quan sát tâm – tư tưởng đi qua trong đầu – và luyện tập không để bị chúng lôi kéo. Thế th́ tại sao trong đời sống hàng ngày, ta lại tin vào chúng và để chúng lôi kéo ta theo ? Khi tâm nói " Người này thật xấu", "Người kia nói láo" ta tin theo những điều đó. Khi tâm nói "Tôi chán quá. Mệt mỏi quá", "Tôi cần thứ này" hay "Tôi phải có thứ kia", ta nghe theo. Ta tin theo tất cả – nhưng tại sao ta phải tin chúng ? Trong khi tất cả mọi suy tưởng đều xảy ra theo một tiến tŕnh, trong đời thường cũng như lúc hành thiền. Tư tưởng dấy khởi lên, dừng lại trong chốc lát, rồi qua đi không theo một mẫu mực nào hay lư do nào.

Khi đă thực sự nắm bắt được ư nghĩa của tiến tŕnh này, ta có thể thay đổi những suy nghĩ hiện lên trong đầu và các tư tưởng ta muốn nghĩ tới. Điều đó có thể thực hiện được khi ta không c̣n tin vào những điều Tâm nói nữa, mà chỉ quan sát tiến tŕnh của chúng. Cũng như với không khí chung quanh ta. Ta không nắm không khí trong tay và bảo rằng không khí là của riêng ḿnh, dầu rằng không có nó ta không thể nào sống nổi. Đơn giản là không khí có mặt ở mọi nơi. Tư tưởng cũng thế. Tiến tŕnh của tư tưởng xảy ra tự nhiên trong tâm ta, và khi nào chúng ta c̣n sống, tiến tŕnh đó triền miên tiếp tục, dầu rằng chúng không đáng tin, không thể dựa vào. Bởi thế, nếu ta có thể gạt bỏ phần lớn các suy tưởng trong đầu ḿnh, th́ lại tốt hơn.

Ta c̣n có thể quan sát về tâm ở một khiá cạnh khác. Là khi ta ngồi thiền, nhưng không thể tập trung tư tưởng. Khi ta buồn ngủ, không chú tâm. Ta hiểu rằng khi tâm không được "Giải buồn", nó muốn ngủ. Tâm luôn muốn được tiêu khiển. Nó cần đọc sách, coi tivi, thăm hàng xóm, nó cần được làm một thứ ǵ đó, bất cứ thứ ǵ để giải buồn, để được bận rộn. Nó không chịu ngồi yên. Đó là một điều thú vị để biết về chính ḿnh.

Hăy tưởng tượng bạn phải ở một ḿnh trong một tuần, chỉ ở một ḿnh, không có bất cứ thứ ǵ để tiêu khiển. Bạn sẽ coi đó là cực h́nh. Mà thực vậy, v́ tâm không thể chịu đựng nổi. Nó luôn cần được "Cho ăn", giống như thân cần được ăn, tâm cũng vậy. Nó cần một thứ ǵ đó từ bên ngoài, v́ chính tự nó không thể thỏa măn với chính ḿnh. Khi ngồi thiền, ta sẽ khám phá ra điều đó về tâm.

Nhưng các vọng tâm th́ vô thường. Chúng dấy lên, rồi qua đi. Chúng không luôn có mặt như hơi thở của ta. Nếu chú tâm ta sẽ nhận biết khi nào vọng tưởng dấy khởi. Khi chúng qua đi, dễ nhận biết hơn là khi nào chúng đến. Ta không thể giữ chúng lại phải không ? Tất cả những suy nghĩ nửa giờ trước đây đă qua đi phải không?

Vô thường và vô sở hữu : Ta đâu có làm chủ được chúng phải không ? Và chúng cũng chẳng đáng để ta giữ lại phải không ? Vậy tại sao ta muốn làm chủ chúng? Muốn nghĩ chúng là ta ? Sao không nghĩ chúng chỉ là một hiện tượng tự nhiên hiện ra, rồi tan mất. Chỉ có thế. Cũng thế, với thân này – nó có thực là ta không ? Nó cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên phát sinh ra bằng khái niệm, và tan biến đi qua cái chết, một định luật tự nhiên, một sự kiện tự nhiên mà nếu c̣n chấp Ngă ta không thể nào chấp nhận được điều đó.

Chấp Ngă hay Ngă mạn không có nghĩa là ta ngă mạn. Chấp ngă đồng nghĩa với u mê. Chỉ có các vị A la hán là không có ngă mạn. Ngă mạn có nghĩa là ta đang nh́n thế giới và chính ta từ quan điểm của "Cái tôi", qua cái nh́n đó, thế giới bên ngoài cũng như người chung quanh ta trở nên là mối đe doạ của chúng ta, v́ "cái tôi" của ta dễ vỡ, dễ bị chạm, và dễ đau khổ.

Tất cả các vọng tâm dấy lên, khi ngồi thiền sẽ giúp cho chúng ta hiểu về chính ḿnh hơn, về tính cách vô thường của các hiện tượng của thân, tâm về tính vô sở hữu của chúng. Nếu ta thật sự làm chủ những suy nghĩ của ḿnh, th́ tại sao ta lại không làm chủ những suy nghĩ đáng có ? Ai muốn làm chủ một đống rác ? Như tôi sẽ cố gắng để những vật thuộc sở hữu của tôi trở thành quí báu.

Điều thứ ba ta rút ra được từ sự quán tâm là : đây là Dukkha (đau khổ) hay sự không vừa ḷng, thỏa măn. Dukkha không chỉ có nghĩa là sự khổ đau mà c̣n bao gồm cả tất cả những điều không như ư, là một khái niệm bao quát hơn gồm tất cả những ǵ ta đă kinh nghiệm qua, cả những việc vừa ư cũng làm ta khổ v́ chúng sẽ qua đi (vô thường). Sự không như ư của quá tŕnh tư duy sẽ hiện ra rất rơ trong thiền quán, v́ ở đây trong lúc ta thực sự muốn chú tâm, ta lại chỉ toàn ngồi suy nghĩ vẩn vơ.

Ta phải nhận biết về tính cách vô thường, không như ư và vô ngă bằng chính kinh nghiệm bản thân của ḿnh. Không ai "biết" ba điều này mà chẳng từng kinh qua chúng. Nếu ta không thực sự hiểu một cách trực tiếp bằng nội tâm của ḿnh th́ chúng chỉ là những lời hoa mỹ, ở đầu môi. V́ nhiều người vẫn kinh nghiệm những điều này từng giây phút, nhưng chẳng hề nhận ra được chúng.

Chúng ta đang chết từng giây phút, nhưng chúng ta cũng chẳng để ư đến điều đó. Cần phải có chánh niệm để nhận biết chúng, và chánh niệm là điều ta có thể đạt được trong quá tŕnh tu tập thiền. Hăy quan sát sự không như ư trong tiến tŕnh tư duy như là một đặc tính không thể thiếu của nó.

Nếu ta có thể nh́n mọi sự vật như chúng hiện hữu, bằng con mắt tỉnh thức th́ ta đă hiểu điều Phật dạy. Thiệt là vô ích để ngồi đó nghĩ "Giá mà tôi không suy nghĩ", "Giá mà tôi có thể chú tâm", "Giá mà ngồi thiền không khó thế này", hay "Giá mà chân phải tôi không đau đến thế". Đó là mộng. Đó là ước mơ. Chúng ta không thể chỉ ngồi mơ mộng hay ước mơ nếu chúng ta muốn thấu đạt được nguyên nhân đă làm ta đau đớn .

Phật đă nói tất cả chúng sinh đều bịnh, và Pháp là thuốc chữa . Phật có danh hiệu là Đức Dược sư . Như với mọi thứ thuốc chữa bệnh khác, nếu chúng ta chỉ biết về chúng hay đọc toa thuốc th́ không thể hết bệnh . Nhân loại đă đọc toa thuốc hàng ngàn năm nay . Hăy ngưng đọc toa thuốc để uống thuốc . Khi đă phân biệt được sự khác biệt giữa đọc toa thuốc và uống thuốc, ta sẽ dễ dàng biết ḿnh phải làm ǵ .

Khi cảm giác khó chịu dấy lên v́ phải ngồi chuyên một chỗ, tâm thức sẽ lên tiếng phản đối, cằn nhằn . Nó vội nói "Tôi không thích chút nào . Thiệt khó chịu hết sức . Tôi sẽ không chịu nổi nữa . Tôi cần ngồi lên ghế", hay "Tại sao phải ngồi như thế này ? Tự cực h́nh ḿnh à ?" hay "Biết có đáng không . Biết có đáng để chịu bao cực khổ ngồi thiền không", và nhiều thứ nữa . Tâm có khả năng nói với ta bất cứ điều ǵ . Nó có thể nói về mọi vấn đề, và mọi khía cạnh của vấn đề . Nó vừa đề cao một vấn đề đă quay ra hất đổ nó . Bất cứ tâm của ai cũng làm thế được . Tâm có thể xoay ngang xoay ngửa .

Đừng ngồi đó nghĩ "Tôi không thích chút nào, chân phải của tôi, lưng tôi, cổ tôi –hay bất cứ thứ ǵ –đau quá" .Không . Hăy dùng các cảm thọ vừa dấy lên như một cách để tỉnh thức . Cảm xúc là nền tảng của cuộc sống . Nhưng chúng ta phản ứng thế nào là do sự tiếp xúc với các căn của ta : Sắc, thanh, hương, vị, xúc và thức (Đức Phật nói về tâm, quá tŕnh tư duy như là giác quan thứ 6 của ta) . Thí dụ như nếu ta không nh́n thấy, thế giới sẽ khác hơn bây giờ . Hay điếc, hay câm…thiếu một giác quan nào cũng thay đổi cái nh́n của ta về thế giới bên ngoài . Nhưng khi có đủ sáu căn, tiếp xúc với sáu trần, từ đó sinh ra các phản ứng, các cảm thọ . Điều đó không thể tránh . Chúng ta không thể không có cảm xúc . Một vị A la hán cũng có cảm thọ dễ chịu, khó chịu hay trung tính . Ai cũng có cảm thọ . Cảm thọ trung tính có thể ta không biết đến v́ ta chưa có sự chú tâm đủ . Chúng ta chưa đủ chánh niệm . Nhưng với cái cảm thọ dễ chịu ta nhận biết ngay, ta bám víu vào chúng, và t́m mọi cách để giữ chúng lại . Mọi nền kinh tế trên thế giới đều dựa vào việc tạo nên các cảm thọ dễ chịu, và t́m cách làm cho người ta càng muốn thụ hưởng chúng nhiều hơn . Nếu mọi người đều từ bỏ các cảm thọ dễ chịu, th́ có mấy nền kinh tế trên thế giới đứng vững được . Các cảm thọ dễ chịu phát sinh ra nhờ quạt máy, tủ lạnh, nệm êm, nước nóng, nước lạnh, đủ loại thực phẩm và c̣n nhiều, nhiều nữa .

Ai cũng có cảm thọ : dễ chịu, khó chịu hay trung tính . Chúng dấy khởi liên tục. Phần đông chúng ta bỏ cả cuộc đời ḿnh để đi t́m, nắm giữ các cảm thọ dễ chịu, và xua đuổi, trốn tránh các cảm thọ khó chịu . Một cuộc chiến đấu vô vọng . Không tưởng . V́ không ai có thể nắm giữ măi các cảm thọ dễ chịu . Cũng không có ai có thể trốn tránh các cảm giác khó chịu măi . Khi ta già đi các cảm thọ khó chịu tăng lên so với lúc trẻ . Không có sự ngoại lệ đối với ai cả . Đó là định luật tự nhiên . Cái chết sẽ đến, đi kèm theo với những cảm thọ khó chịu . Tuy nhiên các khổ thọ này không chỉ dành cho tuổi già, cho những người gần đất xa trời . Các người trẻ nhất, mạnh nhất cũng đầy những cảm giác, t́nh cảm khó chịu đau khổ .

Nếu ta quyết ngồi yên giây lát, tự soi lại ḿnh, không c̣n chạy trốn các cảm giác khó chịu, đau khổ, bám chặt vào các cảm giác dễ chịu – có thể chỉ trong một buổi thiền – ta sẽ biết về ḿnh rất nhiều . Quan sát các khổ thọ dấy lên trong khi ngồi thiền – điều này sẽ xảy ra cho nhiều người trong chúng ta – cũng là một cách để t́m hiểu các phản ứng hành động của chính ḿnh . Ta muốn thay đổi cảm giác đó, muốn chạy trốn nó . Một phản ứng gần như phản xạ, lập tức đối với cảm giác khó chịu là di chuyển, thay đổi thế ngồi để tránh sự đau đớn càng sớm càng tốt .

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta trốn tránh các khổ thọ bằng cách trốn tránh, xa lánh những người đă tạo cho ta cảm giác đó, chạy trốn hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác, thay v́ nhận biết các cảm thọ của ḿnh và nói :"À, nó đă dấy lên . Nó sẽ ở lại giây lát, rồi đi qua . Không có ǵ tồn tại . Nếu ta nhận biết được cảm thọ của ḿnh, là ta đang soi lại nó trong chánh niệm, thay v́ phản ứng bằng hành động" .

Phản ứng của chúng ta, bằng cách xua đuổi các khổ thọ, bám giữ các lạc thọ, là lư do khiến chúng ta lẩn quẩn trong ṿng luân hồi sinh tử, v́ ta không có một phương hướng, một ngă rẽ nào khác . Đó là sự chuyển động trong một ṿng tṛn . Ta không thể thoát khỏi sức hút của nó . Đó là một tṛ chơi quay ṿng . Không có lối ra . Chúng ta quay ṿng, quay ṿng theo lạc thọ, xua đuổi các khổ thọ, một ṿng tṛn không kẽ hở . Chỉ có một cách để thoát khỏi sức hút đó, là ngưng lại quan sát các cảm thọ và không phản ứng bằng hành động . Nếu trong lúc ngồi thiền, ta có thể làm được như thế dù chỉ trong giây lát, th́ ta cũng có thể làm được như thế trong các sinh hoạt đời thường .

Tất cả chúng ta ai chẳng từng buồn phiền, khổ đau trong cuộc đời . Người nầy nói lời trái tai ta không muốn nghe . Kẻ khác làm những điều ta không muốn thấy . Ta bị hiểu lầm người ta không nhớ ơn ta, không ngợi khen, không thương yêu ta . Người bỏ đi khi ta muốn giữ họ lại . Họ ở bên ta, khi ta muốn xa lánh họ . không ai tránh khỏi những đau khổ này . Chính Đức Phật cũng không tránh khỏi . Đức Phật chỉ khác chúng ta là Ngài chỉ cảm nhận các cảm thọ, mà không phản ứng bằng hành động .

Chỉ nhận biết các cảm thọ . Khi các cảm giác khó chịu dấy lên v́ phải ngồi lâu một chỗ, đừng trách móc ai, hay việc ǵ . Không có ai hay việc ǵ tạo ra các cảm giác đó cả . Chúng chỉ đến rồi đi . Quan sát và nhận biết các cảm giác đó, ta sẽ không thể thay đổi được ǵ, trừ khi ta có thể tách ḿnh ra khỏi cảm giác khó chịu đó, để không đau khổ v́ nó . Ta không thể làm khác hơn thế . Trong hoàn cảnh này ta chỉ cần biết các cảm giác khó chịu cũng chỉ là cảm giác . Không ai là chúng cả . Ta đâu có mời chúng đến . Vậy tại sao lại nhận chúng là ḿnh ?

Trừ khi chúng ta nhận biết được những ǵ xảy ra cho tâm khi những cảm giác này dấy lên, chúng ta sẽ lại rơi vào thói quen phản ứng của ḿnh . Những suy nghĩ quen thuộc, các phản ứng theo thói quen, ngày này qua ngày khác đă tạo thành rănh, thành nếp trong tâm tưởng ta . Giống như một con đường śnh lầy, khi bánh xe chạy qua chạy lại, các vết lún, càng lún sâu thêm . Tâm của ta cũng thế . Các vết lún sâu, sâu măi cho đến lúc ta bị dính cứng một chỗ, không thể tiến tới nữa .

Đây là cơ hội, hoàn cảnh thuận tiện để chúng ta quan sát phản ứng của tâm đối với các cảm giác khó chịu . Đừng phân tích "Ngồi như vậy máu không lưu thông được, không tốt cho tôi các bác sĩ đă nói…" Chỉ quan sát phản ứng của tâm . Tâm ta rất khôn ngoan, lém lỉnh . Nó có thể làm tất cả mọi việc . Ta gọi nó là nhà ảo thuật, cũng không sai . Nó có thể biến hóa ra con thỏ trong chiếc nón không . Nó có thể phân tích lư luận đến chỗ mà ta thấy tất cả mọi người khác đều sai, và ta th́ luôn luôn đúng.

Đó là điều ta phải luyện tập trong lúc tu tập thiền : Không thể lúc nào cũng hoàn toàn đúng , 100% là đúng . Phần lớn chúng ta tranh căi đều để bảo vệ một lập trường, dựa trên quan điểm của chính cá nhân ta . V́ ta chấp ngă, chấp có "cái tôi" ảo tưởng, tất cả các quan điểm, ư kiến của chúng ta đều được lọc qua con mắt của Ngă. Không thể là ǵ khác hơn thế . Nếu ta nh́n qua một màu kính màu đen, tất cả mọi thứ bên ngoài đều đen .

Khi ta đă thấu rơ tâm , các phản ứng của nó qua thiền định, chúng ta dễ chấp nhận sự thật là khi ta nghĩ một điều, bốn triệu người khác có thể nghĩ về một điều hoàn toàn khác ta . Làm sao có thể là ta đúng và bốn triệu người c̣n lại sai ? Chúng ta tranh căi bảo vệ cho những quan điểm – đôi khi có thể đúng – nhưng chỉ đúng trong hoàn cảnh, cái nh́n của riêng ta . Chỉ có các vị A la hán, những người đă không c̣n chấp Ngă, là có thể hoàn toàn đúng .

Tất cả các phương pháp nhằm giúp ta đạt được sự tỉnh thức, cần được áp dụng không phải chỉ trong lúc tâm đang theo dơi hơi thở, mà cả khi tâm phản ứng theo cảm giác, hay sự suy tưởng . Ta cần phải luôn áp dụng chúng để đạt được sự tỉnh thức, và từ đó đưa đến sự an lạc . Mỗi phút tỉnh thức là mỗi phút an lạc . Khi không c̣n cần phải để ư đến các suy tưởng của ḿnh, ta dễ buông bỏ chúng hơn . Khi không c̣n cần phải phản ứng theo các cảm giác, ta dễ buông bỏ các hành động phản ứng . Mỗi phút an lạc cũng là mỗi phút tỉnh thức . Cả hai đi đôi với nhau như h́nh với bóng .

Những điều Phật dạy đi ngược lại với bản năng của chúng ta, do đó không dễ cho ta chấp nhận, thấu hiểu . Chỉ có tâm đă được tôi luyện mới có thể thấu hiểu được Phật pháp . Trong khi tâm b́nh thường nghi ngờ, lư luận đó chỉ là việc làm lăng phí thời gian, vô bổ . Muốn thật sự hiểu được Phật pháp bằng chính nội tâm của ḿnh, ta phải nhiếp tâm, giữ tâm tĩnh lặng, và tâm đó phải biết bản chất thực của Ngă, chỉ là những hiện tượng đến rồi đi .

Tất cả có thể xảy ra trong lúc ta ngồi thiền và theo dơi hơi thở .

An lạc và tỉnh thức . Tỉnh thức là mục đích . An lạc là phương tiện . Nếu tâm không an lạc, tâm sẽ đầy những luồng sóng, sóng của sự ghét, sự ưa . Các làn sóng sẽ phủ trùm mắt nh́n của ta . Ta sẽ không thể soi thấy ḿnh trên mặt hồ đầy sóng phủ . Mặt nước phải lặng trong . Cũng thế mặt hồ tâm cũng phải lặng, trong trước khi tâm được khai sáng . Lúc đó ta mới có thể thấy thấu suốt rơ ràng .

Thiền định cũng đem lại cho ta những kết quả tương tự . Khi chúng ta chú tâm, theo dơi từng cử động, an lạc sẽ đến . Nếu vọng tưởng có dấy lên, ta dùng chúng để nhận biết những diễn biến của tâm .

Việc đặt tên các suy tưởng cũng là một cách để theo dơi tâm, trong lúc ngồi thiền, cũng như trong các sinh hoạt hàng ngày . Khi có tâm sân si dấy lên, người có chánh niệm sẽ biết buông bỏ chúng . Đó là phương thức để thanh tịnh hóa tâm . Và sự an lạc của tâm tùy thuộc vào sự thanh tịnh hoá của tâm . Sự thanh tịnh hoá cũng có thể đạt được qua tỉnh thức, qua sự "biết" chính ḿnh . Việc đặt tên cho ta biết tâm đang nghĩ ǵ . Nhưng khi thực tập thiền, tất cả các tên đặt, các tư tưởng đều phải được buông bỏ . Trong đời sống hàng ngày, những thứ tên gọi không ích lợi, không tốt cần được buông xả . Khi ta đă làm được như thế là ta đă thanh tịnh hoá tâm .

Con đường dẫn đến sự thanh tịnh chấm dứt mọi khổ đau .






__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 4 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:36pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

TỨ VÔ LƯỢNG TÂM

Trong mỗi chúng ta có bốn người bạn tốt (tứ vô lượng tâm), sẵn sàng giúp đỡ ta. Tuy nhiên cạnh đó ta cũng có năm kẻ thù chực chờ nhảy ra tấn công bất cứ lúc nào. Chúng không bao giờ để ta yên. Nhưng vấn đề là có mấy ai trong chúng ta đủ sức mạnh để đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ cho những người bạn tốt của ḿnh. Lại có người c̣n không biết rằng đó là việc tốt, nên làm.

Bốn người bạn đó là bốn tánh tốt của ta : Từ, Bi, Hỉ, và xả. Ta phải t́m kiếm chúng trong trái tim ḿnh. Nếu không thể t́m ra, và tự biết đó là một thiếu sót của ḿnh, ta phải bắt đầu lo tạo ra chúng, phát triển chúng.

TỪ

Ngôn từ thật nguy hiểm. Chúng tạo cho chúng ta một cảm giác của sự trường tồn, bất biến. Chúng ta bị phủ lấp bởi ngôn từ, nhưng chúng chẳng khác ǵ hơn là những khái niệm. Chúng không có thật. Hăy tưởng tượng ra một ḍng sông : danh từ "ḍng sông" không phải là thực thể của một ḍng nước chảy. Từ "ḍng sông" cố định: nhưng bản thể của ḍng sông th́ lưu chuyển.

Từ tâm chỉ có thể xuất phát từ trái tim. Ḷng từ sẽ trở nên trống rỗng, vô nghĩa, nếu nó chỉ nằm trong ngôn từ. Tự nó không có nghĩa ǵ, giống như từ "ḍng sông" chỉ gợi cho ta một cái ǵ đó, khi ta đă kinh nghiệm qua. Nếu ta bảo với một đứa trẻ thơ về "ḍng sông", nó không biết ta nói ǵ. Nhưng nếu bạn bỏ tay em xuống nước, để em cảm nhận ḍng nước chảy, th́ em sẽ thật sự biết ḍng sông là như thế nào, không kể em có biết đến danh từ "ḍng sông" hay không.

Đối với Ḷng Từ cũng thế. Danh từ ấy không có nghĩa ǵ. Chỉ khi nào bạn cảm được nó từ trong tim ḿnh, th́ bạn mới hiểu những điều Phật đă nói về ḷng Từ trong các bài thuyết pháp của ḿnh. Cuộc đời sẽ thiếu sót biết bao khi không chứa đựng cả lư trí và tấm ḷng. Nếu chỉ sống bằng traí tim, con người dễ trở thành t́nh cả, một bản tính thường được đồng hóa với người phụ nữ. T́nh cảm có nghĩa là ta phản ứng với mọi thứ, điều đó không tốt. Lư triù cũng có chỗ đứng của nó. Con người cũng cần hiểu những ǵ xảy ra quanh họ. Nhưng nếu chỉ hiểu với cái đầu, nó có thể vượt bực về kiến thức, nhưng con tim sẽ thiếu đồng cảm. T́nh và lư phải luôn đi đôi với nhau. Ta phải hiểu bằng lư trí và phải dùng t́nh cảm một cách khôn ngoan, t́nh cảm tràn đầy, mang đến sự an lạc và hoà đồng của trái tim.

Ḷng Từ hay t́nh thương, không phải là t́nh cảm tạo nên bởi sự có mặt của một người dễ thương, hay v́ ta đang sống bên cạnh những người thân của ḿnh, hay một người đáng yêu. Uy quyền hay những phản ứng bản năng cũng không liên quan ǵ đến loại t́nh thương nầy. Yêu thương con cháu của ḿnh, yêu thương cha mẹ ḿnh không khó khăn ǵ. Phần đông chúng ta đều làm được, trừ một số ít. Nhưng t́nh thương đó không phải là ḷng Từ (metta).

Khi Phật nói về ḷng Từ, Ngài muốn nói đến thứ t́nh cảm không có sự phân biệt trong trái tim ta. T́nh cảm cao thượng đó đ̣i hỏi chúng ta phải yêu thương tất cả mọi người như thể người mẹ yêu thương đứa con duy nhất của ḿnh. Tất cả những ai có con sẽ biết được sự khác biệt khi họ yêu thương con ḿnh và người khác. Nhưng đó chính là điều ta phải sửa đổi. Nếu không, ta khó thể hiểu về ḷng Từ và sự quan trọng của nó.

Nếu bạn thấy một em bé bị té xe, ngồi khóc, tự nhiên là ta sẽ đỡ em dậy, dỗ em. Ḷng Từ đó cũng không khó thực hiện. Khó là sự thể hiện ḷng từ trong tâm ta với tất cả mọi người, kể cả những kẻ đáng ghét nhất. Không phải tất cả chúng ta đều dễ thương, trừ bậc A la hán. Ngay chính ta cũng không hoàn toàn dễ thương, th́ sao lại mong mỏi điều đó ở người khác. Tại sao ta phải phân biệt giữa người ta có cảm t́nh và người ta không ưa. Chúng ta tự cho ḿnh có lư khi không ưa những người mà theo sự đánh giá của chúng ta, họ đă hành động sai quấy. Nhưng ngay chính ta, đâu phải lúc nào ta cũng hành động đúng. Suy cho cùng trong chúng ta có ai không từng làm những chuyện đáng hối tiếc. Tôi không biết về bạn, nhưng chỉ cần soi lại chính ḿnh, tôi cũng hiểu bạn thế nào. Ai cũng lầm lỗi, th́ tại sao lại đ̣i hỏi người khác phải hoàn toàn, muốn người khác làm chuyện ta không thể làm được.

Có ba loại ḷng Từ. Thứ nhất là ḷng tốt (good will). Chúng ta phải có ḷng tốt đối với nhau. Đó là điều kiện tiên quyết để sống với nhau. Nếu chúng ta không tốt với nhau, ta không thể cùng ngồi thiền với nhau. Ta sẽ đứng dậy, đi lung tung. Sẽ làm ồn ào khi mọi người quanh ta cần yên tĩnh. Sẽ không có xứ sở nào tồn tại, nếu người ta không có ḷng tốt với nhau. Bạn có nhận thấy chúng ta lệ thuộc vào nhau rất nhiều không ? Chúng ta cậy vào người phát thư để có thông tin, nhờ người bán rau cải, nhờ nhà nông để có lương thực. Chúng ta lệ thuộc vào ḷng tử tế của các nhà hàng xóm. V́ ḷng tử tế là điều kiện tối cần cho cuộc sống, chúng ta không thể thiếu nó, không có nó cuộc sống sẽ đảo lộn.

Thứ hai là t́nh bằng hữu. Ta cảm thấy gần gũi, thân thiện với một số người như bạn bè, hàng xóm, người quen biết, người giúp đỡ chúng ta. Sự thân thiện là một bước đến gần hơn với ḷng Từ, nhưng chưa phải là ḷng Từ thật sự. Nó làm chúng ta thấy gần gũi với người khác, cũng như đem người khác lại gần chúng ta, nhưng nó cũng có khía cạnh nguy hiểm của nó. Đó là ḷng ưa thích. Thường ta nghĩ chẳng có ǵ xấu trong đó, nhưng trong sự ưa thích, đă có sự bám víu. Bám víu vào bạn bè ta, người quen, kẻ ban ơn cho ta, người thân chung quanh ta. Sự bám víu đó sẽ khiến ta đau khổ, sân hận, không phải đối với người thân của ta, nhưng đối với cái ư tưởng là ta sẽ phải mất họ. Sẽ sinh ra ḷng sợ hăi, v́ ta chỉ có thể sợ hăi những ǵ ta không ưa thích. Do đó t́nh thương thuần khiết không c̣n nữa. V́ chính sự bám víu đă làm hoen ố nó, làm cho nó không c̣n hoàn bích. Không bao giờ ta có thể t́m được an vui với thứ t́nh cảm đó. Điều đó thường xảy ra trong các gia đ́nh. Đó là lư do tại sao con người không thể t́m được hạnh phúc trong loại t́nh thương đó.

Tuy nhiên t́nh thương chúng ta dành cho người thân trong gia đ́nh ḿnh có thể dùng làm hạt giống để vun trồng ḷng Từ. Rồi từ đó ta phát triển, nhân rộng nó lên. Chỉ có như thế t́nh cảm gia đ́nh mới có ư nghĩa. Nếu không, nó trở thành nơi ươm mầm của t́nh cảm sân hận – như vẫn thường thấy trong các gia đ́nh – như nước sôi trong chiếc ấm đậy nắp. T́nh cảm gia đ́nh cần được vun trồng trong tim ta vô điều kiện, không cứ phải là chồng tôi, vợ tôi, con gái tôi, con trai tôi, cậu tôi, mợ tôi. Đầy tính cách sở hữu của cái tôi. Nếu như chúng ta không thể vượt lên và chuyển đổi những t́nh cảm đó thành vô điều kiện, th́ t́nh cảm gia đ́nh đă không được sử dụng đúng chức năng của nó. Trong trường hợp đó, nó được dùng để củng cố cái tôi, để đảm bảo cho sự sinh tồn. Nhưng sinh tồn không phải là một vấn đề, ta không nên phí th́ giờ lo chuyện đó. Dù có bom nguyên tử hay không, chúng ta cũng không thể tồn tại măi được, có phải không ? Chỉ có một nơi chốn cho tất cả chúng ta, nơi mọi người cuối cùng rồi sẽ hội ngộ.

T́nh bằng hữu cũng đưa đến sự bám víu. Chúng ra bám víu vào bạn bè. Sợ mất họ, ta tốt với bạn bè v́ muốn họ măi là bạn ḿnh. Nhưng nếu họ đối xử trả lại không được tốt, ta lập tức nghĩ xem có nên tiếp tục làm bạn với họ không. Ta đ̣i hỏi ở họ một sự thân thiết, lo lắng, quan tâm trả lại. Giống như kinh doanh thương mại. Một sự trao đổi ṣng phẳng. Đó là điều hầu như tất cả chúng ta đều làm, đến nỗi ta chẳng bao giờ để ư đến. Đối với bạn bè th́ thế, đối với gia đ́nh, chúng ta c̣n đ̣i hỏi hơn thế nữa. Nếu người thân ta không thương trả lại, ta hờn tủi, thất vọng, trầm uất. Nếu họ bỏ rơi ta, t́nh thương trong ta cạn kiệt. Thật là kỳ lạ, khi t́nh thương chỉ giới hạn trong một nhóm người.

T́nh thương không thể ẩn tiềm trong con người. Con người chỉ là một đăi xương bao bọc bởi da. Làm sao có thể t́m thấy t́nh thương trong đó. Nhưng đó là bi kịch của bao người. Romeo và Juliet, Cuốn theo chiều gió… là những bi kịch sân khấu về người này ra đi v́ người kia không yêu ḿnh, hay chia tay nhau bằng cái chết. Con người trước sau ǵ cũng phải xa nhau, qua cái chết hay qua sự thay đổi t́nh cảm, tư tưởng. Họ cần chi phải hành động như thế. Làm sao t́nh yêu có thể ẩn tiềm trong những người như thế ?

T́nh thương tiềm ẩn trong cảm xúc. Nếu ta không sử dụng t́nh cảm gia đ́nh làm nẩy nở thêm cảm xúc này, ta sẽ bị mất thăng bằng khi người ta thương yêu, bám víu vào biến mất đi v́ lư do nào đó. Mục đích chính của t́nh cảm gia đ́nh là để giúp ta biết thế nào là cảm xúc thương yêu, và từ đó nhân rộng ra.

Phát triển tâm Từ không phải bằng cách dự một lớp 10 ngày về thiền hay nghe thuyết pháp về ḷng Từ. Chúng ta không thể mở tắt t́nh cảm, lư trí của ḿnh như một tắt mở bóng đèn. Ta cần luyện tập có phương pháp một cách kiên nhẫn và với ḷng quyết tâm.

Trái tim ta cần được rèn luyện để yêu thương v́ nó không phải được tạo ra để lúc nào cũng tràn đầy ḷng thương yêu. Nó có thể yêu mà cũng có thể ghét. Nó cũng chứa đầy ư xấu, sân si, sợ hăi cũng như t́nh thương. Nhưng nếu như ta không làm giảm bớt sự hận thù và phát triển thêm t́nh thương bằng cách thay đổi cách cư xử của ta trong đời sống hằng ngày, tâm ta sẽ không thể an lạc, sự an lạc mà Từ tâm có thể mang đến cho ta.

Khi trong ta đầy t́nh thương – loại t́nh thương không có điều kiện đối với tha nhân – th́ ta tràn đầy an lạc. Khi ta có thể làm chủ được các hành động của ḿnh. Trở nên tự tin. Không sợ hăi điều ǵ. Ta tự biết ḿnh đă được rèn luyện đến độ sẽ không thể có một phản ứng giận dữ, ghen ghét, dù nhỏ đến đâu có thể xảy ra để làm ta mất đi sự b́nh yên. Đó là kết quả đầu tiên và hoàn thiện nhất mà ta có thể có được do đă ươm trồng ḷng Từ trong tim ta.

Quan trọng hơn cả là t́nh thương đó đă được vun trồng dành cho những kẻ không "đáng thương" chút nào. Đó chính là cơ hội thực tập để thay đổi con tim và lư trí của ḿnh. Chúng ta ai không từng biết một đôi người "khó thương" nhưng hăy coi họ là người giúp ta tự rèn luyện tâm. Sau khi chuyện đă rồi, nh́n lại cũng là dễ chấp nhận, nhưng ngay lúc ta phải đối mặt với người đó th́ tất cả những t́nh cảm tiêu cực ấy lên trong ta : ghét, giận, biện hộ cho thái độ giận ghét của ḿnh v.v… đó đúng là lúc ta cần sử dụng t́nh thương của ḿnh. Đúng khi ta đang sân si.

Đừng bỏ lỡ những cơ hội đó. Hăy mang t́nh thương đến với mọi người, dù là người ta ghét hay ta thương. Mỗi người ta tiếp xúc đều mang đến cho ta những cơ hội để học tập, thực hành ḷng Từ, bất kể người đó là ai. Không kể họ nói ǵ, không cần họ có quan tâm đến bạn hay không, hay chính họ có ḷng từ hay không. Không có ǵ đáng kể, cái đáng kể là những ǵ đang xảy ra trong ḷng bạn, và đó là điều duy nhất bạn cần nói tới. "Nếu trong ḷng tôi chỉ có t́nh thương, ḷng thương xót, chấp nhận, nếu tôi có thể dẹp bỏ sân si trong ḷng, th́ tôi đă đi được những bước chân đến gần hơn với đạo pháp". Giáo lư đức Phật dạy cần phải được hiểu thấu đáo, rồi đem áp dụng, thể hiện chúng trong cuộc sống của chúng ta.

Ai cũng có cơ hội để sửa đổi các cách ứng xử của ḿnh với người khác. Chúng ta luôn tiếp xúc trao đổi với người khác, và lúc nào cũng sẽ có người không đồng ư với chúng ta. Khi đó nếu chúng ta làm thinh, không thèm trả lời th́ đó không phải là phản ứng của ḷng Từ. Trái lại, nó chỉ đem lại sân hận, bất măn, lo âu, rồi dẫn đến bất cần, lạnh nhạt. Tất cả những thứ đó không ích lợi ǵ, và cũng chẳng giúp chúng ta thanh tịnh được. Chỉ khi nào ta có thể hành xử với trái tim đầy t́nh thương, ta mới t́m thấy được sự an lạc, b́nh an với chính ḿnh.

Phật đă nói về 11 điều lợi ích của ḷng Từ. Ba điều đầu tiên là :"ngủ ngo, không ác mộng, và tỉnh giấc sảng khoái". Nếu ai bị mất ngủ, bạn có thể đoán rằng là ít nhiều họ đă thiếu ḷng Từ và thuốc ngủ khó thể chữa được bệnh cho họ. Nhưng ḷng Từ có thể giúp họ dễ ngủ. Và v́ tiềm thức không có ǵ bứt rứt, nên không có ác mộng, không ác mộng th́ thức dậy cũng sảng khoái như khi họ lên giường ngủ, đó chính là nhờ họ có ḷng Từ, tính nhân ái đối với tất cả mọi người.

Một cách ứng dụng là trước khi đi ngủ, chúng ta hăy thử làm một bảng cân đối (balance sheet) bằng ư nghĩ hay viết xuống trên giấy. Chia tờ giấy làm hai cột : hôm nay tôi đối xử tử tế với người khác được bao nhiêu lần ? Cột bên kia ghi : bao nhiêu lần tôi cảm thấy giận dữ, đau đớn, sợ hăi, bứt rứt khi đối đầu với người khác ? Rồi cộng lại hai cột. Nếu cột tiêu cực nhiều hơn tích cực, th́ ta cần phải tu sửa. Giống như người bán hàng kiểm tra hàng hóa của ḿnh, những món hàng không ai mua, tất nhiên phải đem trả lại.

Đó là phương cách tập luyện. Không có ǵ là bẩm sinh, dù tánh xấu hay tánh tốt. Ta phải luôn luôn huân tập sửa đổi bản thân cho đến khi tất cả những ô uế ở thân tâm đều được tẩy sạch. Nhưng không phải v́ nhờ ai cũng tốt. Không. Nếu ai cũng tốt, mọi người đều đang ở cơi trời hết cả rồi. Đâu phải có mặt ở đây làm ǵ. Đây là cơi thứ năm tính từ dưới lên trong 31 cơi. Thử nghĩ xem chúng ta đang ở cơi thứ 5 trong 31 cơi, cũng khó thể mong đợi ǵ hơn ở con người trong cơi ấy ?

Chúng ta có rất nhiều điều phải học trong cơi này, và có lẽ mục đích của cơi này chính là thế, để con người có cơ hội rèn luyện ḿnh thêm. Không phải để chúng ta t́m kiếm sự thoải mái, tiền bạc, của cải, sở hữu. Cuộc đời chính là một trường học. Đây là bài học quan trọng nhất, bài học để giúp trái tim ta thêm bao la. Không thể có bài học nào quan trọng hơn. Giống như trong một khu vườn, khi cỏ dại mọc quanh một khóm hoa hồng, th́ bao nhiêu phân bón cho hoa hồng đều vô ích, hồng sẽ không thể ra hoa, con người sẽ chẳng được ngửi mùi hương của hoa. Dần dần cỏ dại sẽ phủ trùm lên hoa. Trái tim ta cũng thế. Khóm hoa hồng là ḷng Từ đang được ươm trồng. Nếu chúng ta không nhổ cỏ dại để cây được ra hoa, tỏa hương th́ dần dần cây hoa Từ cũng tàn lụi. Cỏ dại chính là ḷng sân si của chúng ta.

Phần đông chúng ta đều đi t́m người yêu thương ḿnh. Cũng có người t́m được một đôi kẻ yêu thương họ và họ có thể thương trả lại. Nhưng có biết bao kẻ xấu số khác không thể t́m được ai. Họ trở nên cay đắng hờn tủi. Trong khi mọi việc đáng lư phải làm ngược lại. V́ nếu chúng ta là người đầy ḷng thương đối với mọi người th́ sẽ có bao nhiêu người đến với chúng ta, v́ có ai mà không muốn được yêu thương. Được người khác thương yêu không có nghĩa là ta cũng đầy t́nh thương. Chính kẻ yêu ta mới có t́nh cảm yêu thương. Trong khi có thể ta chẳng có cảm giác ǵ cả, ngoài ḷng thỏa măn là đă có người thấy ta dễ thương. Điều đó chỉ làm cái tôi của chúng ta thêm lớn. Trong khi yêu thương người khác th́ cái tôi của ta nhỏ bé lại.

T́nh thương của ta càng bao la, ta càng có thể yêu thương nhiều người, cũng như được nhiều người yêu thương lại. Càng cho bao nhiêu, th́ ta lại càng được bấy nhiêu. Đó là phép tính cân đối đơn giản nhưng ít có ai thấy ra điều đó. Ai cũng đi kiếm thêm người yêu ḿnh, nhưng không muốn ban phát t́nh thương cho ai cả. Điều đó thật không tưởng, thật nghịch lư. Nhưng trong đời sống của ta có biết bao điều nghịch lư.

Đây cũng là điều đức Phật đă nói trong 11 điều lợi ích "Ta được con người và muôn loài yêu thương". Nếu ta ban phát t́nh thương đến cho người khác, th́ tự họ sẽ t́m đến với ta. Không thiếu người yêu thương ta. Ta ban phát cho người khác t́nh thương, không phải v́ ta muốn cho, không phải v́ họ cần, không phải v́ họ đáng để cho, nhưng v́ trái tim ta đă được rèn luyện để làm như thế. Giống như người ta được rèn luyện về toán. Khi những con số được đưa cho họ, họ sẽ tổng cộng chúng lại nếu họ muốn biết tổng số. Không có cách ǵ khác hơn. Cũng thế, nếu trái tim ta đă được rèn luyện để yêu thương th́ nó sẽ yêu thương vô điều kiện.

Chắc sẽ có người lên tiếng phản đối rằng : "Nếu người khác cộc cằn thô lỗ với ḿnh, mà ḿnh đối xử với họ đầy t́nh thương, họ sẽ lợi dụng ta sao ?". Nếu người khác có làm như thế, điều đó có thể xảy ra lắm v́ bản tính người đời là thế. Nhưng đó là nghiệp ác của họ có phải không ? Trong khi người tử tế không có ǵ mất cả. Làm sao bạn có thể mất được t́nh thương vẫn đầy ắp trong tim ḿnh ? Nếu có bị lợi dụng, th́ đó cũng là cơ hội để ta thử kiểm chứng lại trái tim ḿnh xem nó đă được tôi luyện đến mực nào, xem chính ḿnh có trở nên hờn giận hay vẫn có thể tiếp tục đối xử tốt với kẻ xấu đó. Là dịp để ta xét soi ḿnh có hành động đúng không ? Trong t́nh thương có cả sự quan tâm đến người khác. Do đó một kẻ lợi dụng không thể có t́nh thương. Không nên sợ t́nh thương làm ḿnh có vẻ yếu đuối,v́ t́nh thương yêu thật sự chỉ làm con người trở nên mạnh mẽ hơn, không phải yếu đuối. Một người không có ǵ ngoá t́nh cảm thương yêu sẽ luôn cảm thấy an ổn, hoàn toàn tự tin v́ người đó biết rằng không có ǵ có thể lay chuyển được t́nh cảm của họ. T́nh thương vô điều kiện tăng thêm sức mạnh cho con người, không phải sự yếu đuối. Nhưng nếu t́nh thương đi đôi với đam mê như người ta vẫn thường mê lầm, th́ t́nh thương lúc đó sẽ làm con người yếu đuối v́ họ trở nên bám víu, ích kỷ. Trong khi nếu t́nh thương đến từ trái tim th́ t́nh cảm đó bền vững hơn đá.

Một điều lợi ích khác của ḷng Từ là nó giúp ta dễ nhiếp tâm. Đó là lư do tại sao ta nên bắt đầu một buổi ngồi thiền với những ư tưởng tốt đẹp về chính ḿnh. Tâm không thể trụ nếu không có ba điều căn bản : sự rộng lượng, đạo đức và ḷng từ. Đó là ba cột trụ của thiền, giúp ta thực tập thiền. Ḷng từ phát xuất từ trái tim, không thể thiếu khi ta ngồi thiền v́ t́nh cảm ấy đem lại cho ta sự b́nh an, tĩnh lặng trong tâm. Nếu thiếu điều đó ta cần thực tập chú tâm vào từ tâm trước mỗi buổi ngồi thiền để phát triển ḷng từ trong ta.

Ta không thể thương yêu người khác nếu trước tiên ta không biết yêu thương chính ḿnh. Nhưng không phải bằng cách phụng sự nó. T́m đủ cách để cho nó được êm ấm, thoải mái không được có một con muỗi ở bên cạnh, đầy đủ thức ăn mà ta ưa thích. Đó không phải là thương yêu mà là phục dịch . giống như t́nh thương của người mẹ dành cho con của ḿnh phải sáng suốt. Nếu người mẹ chỉ biết cưng chiều đứa trẻ, th́ nó và cả mẹ nó, sẽ phải trả giá cho sự cưng chiều đó. Nhưng nếu người mẹ yêu thương con thực sự, bà sẽ không nuông chiều nó thái quá. Bà sẽ dạy con với ḷng thương và trí sáng suốt, uốn nắn tánh tính nó. Đó chính là điều ta phải làm đối với bản thân ta. V́ thương chính ḿnh, ta phải bắt ḿnh tuân theo một số điều lệ hành động. Thực tập thiền là một cách thương yêu ḿnh.

Sự chú tâm ta có thể đạt được trong lúc toạ thiền tùy thuộc vào ḷng từ trong tim ta. Đồng thời cũng tùy thuộc vào sự thực tập. Nếu thiếu thực tập, ḷng từ khó thể giúp cho sự chú tâm đến với chúng ta.

"Da dẻ hồng hào" có nghĩa là trên gương mặt ta biểu lộ sự an b́nh. Không có thứ thuốc sửa sắc đẹp nào có thể sánh kịp. Đó là nét đẹp từ bên trong. Người trẻ tuổi có thể chỉ có cái đẹp bề ngoài, nhưng trống rỗng bên trong. Nếu quan sát, người ta cũng dễ dàng nhận được vẻ đẹp toát ra bên trong. Phật thường được tả như thế. Có người chỉ cần nh́n thấy Phật một lần, đi trên đường là đă phát sinh ḷng yêu kính Ngài, muốn được theo Ngài để trở thành đệ tử của Ngài. Có lần Rahula, con trai của Ngài tỏ ra hănh diện v́ được giống Ngài. Phật liền quở dạy : "Phải coi tất cả h́nh tướng bề ngoài như thế này. Đây không phải là của tôi, không phải là tôi, tất cả chỉ là giả tưởng".

Một điều lợi ích nữa của từ tâm là "Lửa thuốc độc làn tên không thể hại tới ta". Ngày nay người ta không dùng tên nữa, mà dùng súng đạn, dùi cui, c̣n lửa và thuốc độc muôn thưở vẫn là những thứ dùng để tấn công. Nói thế không có nghĩa là ta trở nên bất khả xâm phạm nhưng những người đầy từ tâm hiếm khi rơi vào những hoàn cảnh đó. Và dù có lâm vào những hoàn cảnh như thế, ḷng họ cũng không hề bị xao xuyến. Của cải họ có thể bị hao hụt, nhưng trái tim của họ th́ không. Trái tim không thể bị khuất phục khi trái tim chỉ có t́nh thương, không c̣n ḷng hờn ghét.

"Ta sẽ được chết b́nh an". Tất cả chúng ta ai rồi cũng chết. Giờ phút ĺa khỏi đời rất quan trọng, v́ đó chính là giây phút của tái sinh, đúng ra đó là ngày sinh nhật. Nhưng ta thường nói về cái chết với sự đau buồn mất mát. Thực ra nếu ta có thể đón chờ cái chết với tỉnh thức, với từ tâm th́ đó chính là ngày sinh tốt đẹp của ta. Tất cả đều không khác, trừ khi bạn là một A la hán. Thói quen suy tưởng, xúc cảm hằng ngày sẽ theo ta đến tận cuối đời, giây phút lâm chung. Các thói quen đó không thể thay đổi đột ngột. V́ thế nếu các thói quen đó xuất phát từ ḷng từ th́ ta sẽ rất tỉnh thức, không thấy sợ hăi, ḷng đầy b́nh an, và vững niềm tin. Giây phút lià đời phải là giây phút tốt đẹp v́ đó là bước khởi đầu của sự tái sinh.

Ḷng từ nuôi dưỡng trong tâm sẽ đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Ai đó đă nói rất đúng. Từ tâm chính là ḷng thương yêu chính ḿnh. Đúng thế, nhưng t́nh thương này không phải là t́nh thương tầm thường ích kỷ, mà nó là bàn đạp để đưa chúng ta đến cái đích cuối cùng : Vô Ngă. Thật thế khi trái tim ta càng có nhiều ḷng từ, ta càng như thể không c̣n nghĩ đến chính bản thân ḿnh, đến cái tôi của ḿnh. Và khi cái tôi trở nên nhỏ bé hơn th́ t́nh thương yêu càng dễ phát triển hơn. Khi ta nghĩ đến người khác nhiều hơn, th́ Ngă phải nhường chỗ cho họ trong trái tim. Dĩ nhiên họ là người được lợi nhưng đó chỉ là thứ yếu. Chỉ có ta mới có thể tự giải thoát cho chính ḿnh. Ai cũng phải ra đi một ḿnh. Nhưng nếu có những người bạn đồng hành cùng muốn đi theo con đường của ta, th́ ta cũng mở rộng ṿng tay đón mời họ, v́ con đường, chuyến xe này hăy c̣n vắng vẻ làm sao.

BI

Người bạn thứ hai là Bi. Đối nghịch với Bi là sự ác độc. Đừng lầm Bi với ḷng thương hại. Ḷng thương hại dấy khởi khi ta cảm thấy tội nghiệp cho ai đó. Bi là khi chúng ta chia sẻ ḷng xót thương với họ. Bi là cùng cảm thông với một người khác.

Bi phát sinh khi ta cảm nhận được sự đau khổ, không như ư của người khác trong chính bản thân ta. Chỉ có như thế ta mới thực sự cảm thông được với người khác. Nếu không, ta sẽ tiếp tục sống với ảo tưởng là đối với ta, mọi việc đều b́nh thường, chỉ có người khác là có vấn đề là đau khổ. Nếu ta có thể nhận diện được tất cả những trạng thái bất như ư, dồn dập xảy ra trong ta, sự không ưa thích và chán ghét, hối hận và hờn trách, sợ hăi và lo lắng, căng thẳng, th́ ta hiểu rằng tất cả chúng ta đều cùng một số phận. Để khi người khác gặp chuyện khó khăn, ta có thể thông cảm với họ, v́ ta biết rằng chính ḿnh cũng có khổ đau.

Sự cảm thông (Bi) là bước đầu dẫn đến t́nh thương. Nếu ta có thể thực sự dấy lên tong ḷng một cảm xúc chân thành cho ai đó, cảm thông sâu sắc nỗi khó khăn của họ, những ǵ họ phải hứng chịu, th́ sự thương cảm đối với họ cũng tự nhiên đến trong ḷng ta.

Tuy nhiên ta không nên có sự phân biệt giữa người này, kẻ kia theo thói thường t́nh. Thường chúngta dễ cảm thông với những người có liên hệ ǵ đó với ta. Như người đồng tôn giáo cùng nhóm bạn, đồng quê hương láng giềng hay ǵ ǵ đó mà ta cũng quan tâm đến. Một cái ǵ đó để ta có thể nói "của tôi" th́ ta chọn lựa cái đó. Sự lựa chọn này đẩy con người ra xa nhau, và dầu họ đi đến đâu tên thế giới này tinh thần chia rẽ đi theo đến đó. Làm con người sâu xé nhau.

Sự chia rẽ này do quan niệm chấp "Ngă" mà ra. Đây là cái tôi, tôi phải bảo vệ cái tôi của ḿnh. Cái tôi bị đe doạ, cái tôi thường xuyên cảm thấy đe doạ, đến nỗi tôi cũng không biết rơ về ḿnh, không thực sự biết "cái tôi" này là ǵ. Tất cả cái ta biết là sự đe doạ đến cái tôi làm tôi sợ hăi. Nơi nào có sự sợ hăi, nơi đó không có cảm thông (Bi) v́ sợ hăi xuất phát từ sân hận. Chúng ta chỉ sợ những ǵ ta ghét. Những ǵ ta ưa thích, ta không sợ. Trái tim nào càng có nhiều sự sợ hăi, trái tim đó càng ít có sự đồng cảm (Bi). Sợ hăi luôn núp dưới bóng của ngă. Một vị A lán hán hoàn toàn không có sự sợ hăi. Không có sự sợ hăi ở người đă giác ngộ. Không có sự sợ hăi, v́ không có ǵ để được hay mất. Tất cả đều trở thành tầm thường không đáng kể. Càng nhiềuu ngă chấp, sự sợ hăi càng tăng. Sợ bóng tối, sợ trộm cướp, sợ thời tiết xấu, sợ tương lai, đủ thứ sợ. Sự sợ hăi xuất phát từ ḷng muốn bảo vệ cái tôi giả tạo. Và càng muốn bảo vệ cái tôi bao nhiêu, ḷng cảm thông (Bi) càng bị giới hạn.

Tuy nhiên sự cảm thông dễ trở thành những điều nói ở đầu môi. Ta có thể không thật. Phần lớn chúng ta đều rất giỏi "đóng kịch". Một lần Pessa, con của người dạy voi, đến gặp Phật và nói với Ngài ; "Con chẳng gặp khó khăn ǵ với lũ voi. H́nh như chúng nghĩ sao, làm vậy. Khi chúng có một ư định ǵ đó, con hiểu ngay, và chúng làm đúng theo ư định đó. Nhưng sao con người khó hiểu quá. Họ nói một đường và làm một nẻo". Phật nói :"Đúng vậy, voi sống trong rừng cây, c̣n con người th́ sống trong rừng tâm tưởng". Con người nói một điều, nhưng ư nghĩ hành động lại khác. Tệ hại hơn nữa là ta không hề ư thức chuyện đó là không tốt. Ta tưởng đó là việc phải làm. Là luật ứng xử, phong tục, truyền thống nên chúng ta không xét lại kỹ lưỡng ư tứ, lời nói và hành động của ḿnh.

Chỉ nghĩ nào ta soi lại ḿnh một cách thấu đáo, với ḷng thiết tha thành khẩn, ta mới có thể thật sự hiểu được những điều Phật dạy. Phật đă giảng nghĩa rơ ràng về bản tánh của chúng ta. Ngoài mặt, tất cả chúng ta đều như khác nhau nhưng bên tong tất cả đều giống nhau. Chúng ta giống như từ một khuôn ra, chạy đuổi theo cùng thứ, đi theo cùng con đường. Sự khác nhau chúng ta thấy chỉ là giả tạo. Tuỳ thuộc vào cái nh́n của bản Ngă.

Tất cả những người có ư thức đều than phiền về chiến tranh giữa các quốc gia. Ai cũng muốn nh́n thấy thế giới được hoà b́nh. Dĩ nhiên là điều đó không thể có. Ơû thế kỷ này h́nh như lúc nào cũng có chiến tranh ở nơi này nơi khác. Các xứ sở đua nhau thành lập những hàng pḥng thủ kiên cố, đổ vào đó bao nhiêu là năng lực, tiền bạc, và con người. Chính các hệ thống pḥng thủ này biến thành hệ thống tấn công ngay lập tức nếu như có ai tuyên bố lời nào không thân thiện hay hơi có vẻ đụng chạm đến không phận hay hải phận của họ. Hành động này được giải thích biện hộ bằng "chúng ta phải bảo vệ biên giới của ḿnh để bảo vệ dân cư ở đó". Việc băi bỏ vũ khí chỉ là ước vọng, một lời cầu nguyện, không phải là thực tế. Tại v́ sao ? V́ việc băi bỏ vũ khí phải bắt đầu từ trái tim của mọi người, nếu không việc băi bỏ vũ khí đại trà sẽ không thể nào xảy ra.

Việc pḥng thủ và tấn công nói rộng ra luôn xảy ra trong chính mỗi chúng ta. Chúng ta không ngừng bảo vệ cái tôi của ḿnh. nếu ai đó nh́n chúng ta một cách không thân thiện, hoặc tỏ ra không biết ơn, không thương yêu ta giống như ta mong muốn, hay trách cứ chúng ta điều ǵ th́ sự pḥng thủ đó biến thành sự tấn công. Lư luận rằng ta phải bảo vệ người này "xứ sở" nọ, là bảo vệ "cái tôi" để bảo vệ dân cư là bảo vệ cái ngă của ḿnh. V́ hầu hết mọi người đều hành động như thế, nên các quốc gia cũng làm như thế. Không thể hy vọng có sự thay đổi xảy ra trừ khi mỗi cá nhân biết tự sửa đổi. Do đó, mỗi người chúng ta phải tự phấn đấu để t́m hoà b́nh cho chính nội tâm ḿnh. Điều đó có thể xảy ra nếu mỗi cái tôi có thể thu nhỏ lại bớt, và vấn đề ngă chấp chỉ có thể giảm thiểu khi chúng ta có thể thật ḷng soi rọi lại ḿnh.

Một cách để làm việc đó là đặt tên cho các tư tưởng của ḿnh (labelling). Có thế ta mới khám phá ra các tư tưởng xấu của ḿnh, từ đó bớt quan trọng hóa ḿnh, hay tư tưởng của ḿnh. Đó là hành Thiền.

Một cách khác để soi ḿnh cặn kẽ là biết chấp nhận sự thật khi trong ta dấy lên những tư tưởng xấu và không thể đè nén chúng. Phải nhận ra rằng con người luôn khao khát thoả măn các ngũ dục. Sự thành thật cặn kẽ này giúp cho cái tôi của chúng ta bớt trương phồng lên. Khi ta làm được như thế, ḷng cảm thông (Bi) trở nên là một hiện thực – ḷng cảm thông chân thật, không chỉ là lời nói đầu môi. Nói th́ dễ thôi, ai cũng làm được điều đó. Từ 6 tuổi trở lên là đă có thể học thuộc ḷng bài thiền quán về ḷng từ. Những lời này rất hay, nhưng thực sự chúng giúp được ǵ cho ta ? Sự lập đi lập lại những lời này khiến ta đánh mất xúc cảm ban đầu, trong khi ta sống tùy thuộc vào xúc cảm của ḿnh. Đừng hiểu lầm rằng ta sống theo lư trí. Sự thật là mọi việc bắt đầu bằng xúc cảm, rồi phát sinh ra hành động. Sau cùng tiến tŕnh tư tưởng mới xuất hiện để lư giải cho hành động của ḿnh.

Hiểu được cảm xúc của ḿnh là một điều tối quan trọng. Đó là điều cơ bản. Làm sao chúng ta "tri thức" biết thế nào là t́nh thương, ḷng cảm thông nếu chúng ta không có những xúc cảm đó ? Chúng ta có thể biết về chúng nhưng làm sao thể hiện chúng, nếu ta không có xúc cảm đó ? Giải thoát không phải là một "tri thức", nó là ột cảm xúc.

Ḷng cảm thông (Bi) là một t́nh cảm xuất phát từ trái tim , không cần có lư do hay điều kiện ǵ đặc biệt. Ta không cần phải đợi một dịp nào để cảm nhận được rằng ai đó đang phải đối mặt với một bi kịch trong đời hay cơ thể họ đang làm họ đau đớn. Nếu ḷng cảm thông của ta phải được kích thích gọi mời th́ ḷng cảm thông không phải luôn luôn có mặt trong tim ta mà lúc có lúc không nhưng phần nhiều là không. Đó không phải là một trái tim đầy cảm xúc. Một trái tim đầy cảm xúc – cũng giống như một trái tim đầy t́nh thương – luôn đầy thương cảm v́ biết rằng ai cũng có nỗi khổ. Sự đau khổ đă được nhắc đến trong đế đầu tiên của tứ đế (khổ đế) của Phật pháp. Không có ai thoát khỏi sự đau khổ v́ cuộc đời – sự hiện hữu của ta – chính là sự khổ đau. Nhưng nó không phải là bi kịch. Nó chỉ có nghĩa là vạn pháp trên đời đều ẩn chứa trong đó sự xung đột, bất như ư, bực dọc, ḷng mong muốn được có nhiều hơn, muốn không bị mất mát, thay đổi hay hoại diệt. Trừ các vị A la hán, bản tánh con người không phải dễ dàng buông xả, v́ thế ḷng cảm thông (Bi) cần luôn có mặt, không đợi đến khi người khác bị cảnh long đong.

Nếu quá chấp Ngă, người ta khó thể cảm thông với người khác. Chấp Ngă là nguồn gốc của bao vấn đề giữa con người với nhau. V́ nếu ai cũng bận rộn lo cho cái tôi của ḿnh, th́ làm sao c̣n cảm xúc cho người khác. Thường người quan tâm đến kẻ khác bị coi là cá biệt, không giống ai. Thật đáng tiếc v́ chính người có ḷng thương và cảm thông đối với người khác mới thật là người hạnh phúc. Tuy nhiên, phần lớn chúng ta thiếu ḷng từ bi. Hạnh phúc thực sự khó t́m thấy ở mọi nơi. Trong khi chính hai t́nh cảm này (Từ và Bi) đem lại cho ta niềm vui v́ giúp chúng ta bớt nghĩ đến cái tôi của ḿnh, bớt chấp ngă. Người mà quá chấp ngă, không thể có niềm vui v́ họ không bao giờ măn nguyện trong việc thoả măn cái tôi của ḿnh. Không bao giờ ta có thể giải quyết hết những vấn đề của ḿnh, v́ hết điều này th́ đă có điều khác dấy lên. Nhưng khi ta buông bỏ nó mà hướng tất cả chú tâm vào sự không toại nguyện, đau khổ mà mọi chúng sinh đều phải đối mặt, ta sẽ nhận ra được cái khổ của tất cả nhân loại. Lúc đó những nỗi niềm riêng của chúng ta trở thành quá nhỏ mọn, không đáng kể. Nỗi đau của ta chỉ là một phần của sự hiện hữu chung. Lúc đó ḷng cảm thương cho chính ḿnh và cho tha nhân sẽ phát sinh. Và quyết tâm để tận diệt mọi khổ đau sẽ được thêm sức mạnh cần thiết để làm điều đó.

HỈ

Người bạn kế trong bốn người bạn của ta là sự biết chia sẻ niềm vui với ngướ khác hay là hỉ. Đối nghịch với hỉ là ḷng ganh tị. Chớ lầm hỉ với sự đăi bôi, giả đạo đức, nói một điều mà nghĩ một điều. Thí dụ nếu có ai được may mắn ǵ đó, ta phải chúc mừng nhưng trong ḷng không có t́nh cảm đó, hay tệ hại hơn nói một điều mà nghĩ một điều khác. Giống như là "Sao tôi không là người may mắn đó ? Sao lúc nào cũng là người khác ? "

Chia sẻ niềm vui với người khác là liều thuốc nhiệm mầu, chữa bệnh trầm cảm. Ai đang vướng chứng bệnh này là v́ họ không biết chia sẻ niềm vui với kẻ khác, họ thiếu hỉ tính. Trong cuộc đời ta không có nhiều dịp để măn nguyện, vui mừng, nhưng nếu ta biết chia sẻ niềm vui của kẻ khác th́ chắc chắn là ta sẽ có nhiều cơ hội để hạnh phúc hơn.

Ta có thể chia sẻ niềm vui với những người có khả năng. Nhiều người khó chấp nhận sự tài giỏi của người khác. Họ sẽ miễn cưỡng nói rằng :
"Ừ, cho là ngườii đó có thể làm được như vậy đi, nhưng mà…" và lập tức chê bai thay v́ chia sẻ niềm vui với người tài giỏi hơn ḿnh. Người khác có thể làm bao nhiêu việc giỏi hơn ta. Ngướ biết hát, người biết vẽ, biết nhảy, biết phiên dịch, người có thể làm ra tiền, người có thể sống không cần đến nó. Mọi người đều có một khả năng ǵ đó. Ta sẽ có biết bao niềm vui nếu biết chia sẻ với họ.

Chia sẻ niềm vui với người khác cũng là một cách tạo nghiệp lành. Tôi đă ở ột làng nhỏ nơi có phong tục là khi có chuyện ǵ vui trong làng, người ta lại ra chùa đánh chuông báo với mọi người. Được mùa, gả vợ gả chồng cho con , xuất viện, làm ăn tốt, sửa được nhà… bất cứ điều ǵ có thể làm cho người ta vui mừng. Khi tiếng chuông vang lên, mọi người đều nh́n ra hướng đó mà nói lời chúc mừng. Người đánh chuông đă tạo nghiệp lành bằng cách làm cho mọi người có thể chia sẻ niềm vui với ḿnh. Những người kia cũng tạo được nghiệp lành v́ đă chia sẻ niềm vui với người khác.

Nhiều nơi khác không có phong tục đó. Ta phải tự rung tiếng chuông hoan hỷ trong ḷng ḿnh. Đó là một điều rất quan trọng để nhớ, phải nhớ những điều Phật dạy trong mọi hoàn cảnh, để thực hành chúng. Không phải chỉ nhớ trong một hoàn cảnh nào đó, hay khi có tai biến, nhưng phải luôn luôn nhớ đến chúng v́ đó là bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và b́nh an. Phật đă nói : "Ta chỉ dạy một điều là đau khổ, và đoạn diệt khổ". Phật đă đại nguyện thệ như thế và đă thực hiện được những điều đó. Đó là Phật pháp – đoạn diệt khổ. Ta phải luôn nhớ chấp ngă là nguồn gốc của mọi vấn đề và cố gắng sửa đổi, nếu không là ta đă quên lời Phật dạy. Những lời đó phải thường trú trong tâm trí chúng ta v́ lợi ích của chúng không chỉ là lợi ích nhất thời.

XẢ

Người bạn cuối cùng của chúng ta là ḷng an nhiên tự tại (Xả), một trong những t́nh cảm cao thương nhất. Đối nghịch với nó là sự lo lắng bồn chồn. Nhưng chớ lầm xả với sự thờ ơ lănh đạm. Thờ ơ là trạng thái tâm hồn nói rằng : "Tôi chẳng quan tâm khi việc đó chẳng xảy ra cho tôi hay gia đ́nh tôi. Tôi không muốn biết chuyện đó. Tôi không muốn phải bận tâm v́ nó". Sự thờ ơ là thaí độ lạnh nhạt xa lánh. Thái độ đó không dung chứa t́nh thương, ḷng từ. Ta chỉ muốn bảo vệ riêng cho ḿnh, v́ thế ta trở nên thờ ơ lănh đạm.

Trong khi xả, hay sự b́nh an tự tại dựa trên trí tuệ, dựa trên sự hiểu biết rằng mọi sự vật đều thay đổi, đều hoàn toàn vô thường. Dầu chuyện ǵ xảy ra rồi nó cũng qua đi. Cái ǵ sẽ xảy đến cũng chẳng quan trọng ǵ. Cánh cửa đưa đến bất tử qua vô thường là cánh cửa không tên, có nghĩa là không có ǵ quan trọng cả. Trong cả vũ trụ này, không có ǵ quan trọng cả trừ sự giải thoát. V́ vậy sự thanh thản an nhiên (xả) phải xuất phát từ ư thức nội tâm rằng tất cả mọi vật đều thay đổi, dù cho chuyện ǵ đă xảy ra, tốt hay xấu, cũng không làm ta vui mừng hay buồn bă. Nó chỉ xảy ra. Chúng ta chỉ có mặt ở nơi này trong 60, 70, hay 80 năm. Vậy tất cả những lo lắng, chộn rộn là cho cái ǵ ? Có ǵ để nắm giữ, có ǵ để mong cầu ? Sự việc chỉ xảy ra.

V́ muốn bảo vệ cái tôi mà ta không có tâm xả, hoàn toàn an nhiên tự tại. Chúng ta sợ rằng "tôi có thể bị nguy hiểm, việc này việc nọ sắp ảnh hưởng tới tôi nên cuộc sống ta không yên ổn". Sự yên ổn mà mọi người theo đuổi chỉ là viễn vọng, ảo tưởng. Không có sự yên ổn thật sự. Ai cũng phải đối mặt với cái chết. Tất cả những ǵ chúng ta sở hữu đều sẽ bị hủy diệt. Tất cả những người thương của ta sẽ chết, hoại diệt, bệnh hoạn, bỏ rơi ta, thay đổi t́nh cảm…

Không có ǵ có thể yên ổn trong những điều kiện như thế. Sự xáo trộn, không an ổn phát sinh khi những việc không như ư xảy ra là do ta ảo tưởng rằng ta đă đánh mất cái ǵ đó rất quan trọng cho sự sống c̣n của ḿnh. Hành động như thế là để bảo ệ cái tôi của ḿnh. Nhưng ngay chính sự sống c̣n của chúng ta cũng là ảo tưởng v́ có ǵ để bảo đảm rằng chúng ta sẽ luôn khỏe mạnh, luôn an toàn bảo đảm.

Để có được tâm xả không chỉ có quyết tâm muốn an nhiên tự tại là đủ. Quyết tâm là cần thiết nhưng nó dễ đưa đến sự dồn nén. Chúng ta thường đè nén những t́nh cảm mănh liệt của ḿnh. Làm vậy cũng chẳng có ích lợi ǵ, v́ lần lần những dồn nén cũng bị nổ tung. Ta dồn nén thứ này th́ nó cũng phát ra thứ khác. Dồn nén có thể dẫn đến bệnh hoạn trầm uất. Nếu ta không bị xáo trộn v́ việc này th́ cũng sẽ bị xáo trộn về việc khác.

Sự an nhiên hay tâm xả cần xuất phát từ bên trong. Khi được ươm trồng tốt, tâm xả là một trong những bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ. Chỉ có đấng giác ngộ mới có được tâm buông xả vô lượng. Nhưng nếu chúng ta không bắt đầu thực hành tâm buông xả ngay từ bây giờ, th́ đến lúc nào ta mới tiến hơn, trưởng thành hơn ?

Qua thiền định ta có thể bắt đầu thấy được sự chộn rộn thay đổi luôn luôn của tâm, có ai nhớ được ḿnh nghĩ ǵ trong 10 phút trước đây không ? Trong kỳ ngồi thiền trước ? Hay lần trước đó nữa ? Tuyệt nhiên không, ta không nhớ ǵ cả, không giữ lại được ư nghĩ ǵ. Tất cả là thoáng chốc, không phải v́ ta đă có căn nhà hay người thân nào đó bên cạnh ḿnh suốt 30 mấy năm nay mà ta nghĩ rằng ta có thể giữ họ măi bên ḿnh. Chỉ v́ những thứ ấy đă ở bên ta một thời gian dài, ta tưởng như các thứ ấy là vĩnh cửu. Nhưng những khi ngồi thiền ta có thể thấy là các tư tưởng của ta đến rồi đi, không bao giờ ở lại với ta. Do đó có ǵ đâu để lo phiền, nếu như mọi vật đều thay đổi, luôn đến rồi đi.

Lúc nào c̣n những chộn rộn đó là c̣n có một con người đằng sau đó. Trái tim c̣n nhịp thở, máu c̣n luân, tư tưởng, t́nh cảm c̣n thay đổi, các tế bào c̣n sinh diệt, th́ ta c̣n sống. Khi tất cả ngưng lại ta chỉ c̣n là một cái xác. Tất cả những thay đổi bất ổn định chính là sự sống. Vậy mà ta cứ cố làm cho mọi thứ vĩnh viễn không thay đổi. Ta muốn chúng bất di dịch. Đây là Tôi và tôi muốn tất cả đều biết như thế. Tôi có một cái tên và có một số người, một số của cải thuộc về tôi. Tôi có những quan điểm và tôi muốn tất cả mọi người đều biết như thế. Đó là sự gán ghép tính cách vĩnh viễn vào một con người. Tuy nhiên khi c̣n là con người, c̣n có những thay đổi, để cuối cùng nó sẽ biến đổi thành một xác chết, lúc đó th́ ta có thể bắt đầu lại tất cả.

Để có được tâm xả ḷng thanh thản ta c̣n phải có những tánh tốt cơ bản khác. Như sự chấp nhận nếu không biết chấp nhận, ta sẽ sinh ra khổ đau chính là sự phản kháng của ḿnh. Đối nghịch với chấp nhận là phản kháng, chống đối và làm như thế chỉ mang lại đau khổ. Như khi ta đẩy ngược lại với một lực ǵ tay ta sẽ đau nhưng nếu xuôi theo nó th́ sẽ không đau, chấp nhận sự việc như nó xảy ra sẽ đem lại thanh thản, an nhiên tự tại cho ta và sự thanh thản đem an lạc lại cho ta.

Tứ vô lượng tâm hay bốn trạng thái t́nh cảm vừa nêu trên (từ, bi, hỉ, xả) đem lại niềm vui trong ḷng ta nếu ta biết vun trồng các t́nh cảm này đến một mức độ nào đó, ta sẽ cảm thấy tự tại an b́nh thoải mái v́ ta nhận ra rằng cho dù thế giới có đảo điên nghiêng ngả, ta không hề bị lay chuyển như Phật nói " tôi không tranh chấp với thế gian, chính thế gian tranh chấp với tôi".

Thật là b́nh an, thanh thản !





__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 5 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:37pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

TỪ BI QUÁN.

Hăy chú tâm vào hơi thở của bạn trong giây lát.

Hăy soi ḷng ḿnh xem có điều ǵ lo âu, sợ hăi, đau đớn, ghét bỏ, ăn năn, chán nản, khó xử, bất an không. Nếu có, hăy để chúng trôi đi như một đám mây đen ……

Hăy để sự ấm áp, thân thiện dành cho chính bản thân ḿnh tràn đầy trong ḷng, v́ chỉ có ta là người bạn tốt nhất của chính ḿnh. Hăy bao bọc tâm bạn với những tư tưởng thân yêu, tự bằng ḷng phát xuất từ nội tâm ……

Hăy bao bọc người gần kề bên bạn với những tư tưởng thương yêu, che phủ người đó trong b́nh an và chúc cho người đó được hạnh phúc ……

Hăy bao phủ mọi người chung quanh với những tư tưởng thương yêu ……

Hăy để cảm giác b́nh an đến với mọi người nơi đây, và hăy tự coi ḿnh là bạn tốt của mọi người ……

Hăy nghĩ tới cha mẹ, dầu cho họ c̣n tại thế hay đă mất. Bao bọc họ với t́nh thương. Phủ đầy b́nh an lên họ và biết ơn tất cả những ǵ họ đă làm cho bạn, hăy là người bạn tốt của họ.

Hăy nghĩ đến những người gần gũi, thân thiết nhất của bạn. Hăy yêu thương họ, trao tặng cho họ món quà của sự b́nh an mà không trông đợi một sự đáp trả nào.

Hăy nghĩ đến các bạn bè. Hăy mở ḷng ra với họ, để cho họ thấy t́nh bạn của ta, sự quan tâm, t́nh thương của ta, tất cả ta dành tặng cho họ mà không mong đợi một sự đáp trả nào ……

Hăy nghĩ đến hàng xóm láng giềng của ta, bạn đồng nghiệp, những người ta gặp ngoài đường, ở phố chợ, hăy đối xử với họ như bạn bè, hăy để họ đến với bạn mà không nghi ngại ǵ. Hăy chỉ cho họ biết yêu thương.

Hăy nghĩ đến những kẻ ta không thích hay người đă có tranh căi với ta, người làm khó ta, những người ta không coi là bạn. Hăy nghĩ đến họ với sự biết ơn, như thể họ là vị thầy đă dạy cho ta biết về chính những hành động của ḿnh. Hăy trải ḷng đến họ, v́ chính họ cũng có những khổ đau riêng. Hăy tha thứ và lăng quên. Hăy làm bạn với họ.

Hăy nghĩ đến những kẻ bất hạnh hơn ta, bịnh nhân trong bịnh viện, kẻ tù tội, trẻ bơ vơ trong các cô nhi viện hay ở các xứ sở có chiến tranh, kẻ đói khát, tàn tật, mù ḷa, cô đơn, vô gia cư, những kẻ khó nghe được Pháp. Hăy mở rộng ḷng ra với họ. Hăy làm bạn với họ, chỉ cho họ biết yêu thương, cầu mong cho họ được hạnh phúc.

Hăy trở về với bạn. Cảm thấy an lạc từ bên trong v́ đă có những ư nghĩ thiện, hạnh phúc đến từ ḷng thương, và hỉ lạc đến từ sự bố thí. Hăy nhận biết những t́nh cảm này, hăy kinh nghiệm sự ấm áp chúng tạo ra trong ta, chung quanh ta ……

Hăy cầu mong mọi người được hạnh phúc.



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 6 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:44pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

NĂM CHƯỚNG NGẠI

Phần lớn chúng ta đều nghe danh hiệu Ma Vương, đều biết nó bằng cách này hay cách khác . Nó chính là sự cám dỗ . Nó cám dỗ chúng ta vào các con đường tội lỗi. Ma Vương đến khi Đức Phật ngồi dưới cây bồ đề tĩnh tâm t́m sự giải thoát . Rơ ràng Ma Vương không phải là h́nh ảnh của lũ quỷ với lửa đỏ tuôn tràn ra hai lỗ tai, lôi kéo ta xuống địa ngục . Ma Vương là sự cám dỗ đang ngự trong ḷng ta . Nếu Ma Vương có thể đến quấy rầy Đức Phật trước khi Ngài nhập Niết bàn – dấy khởi cám dỗ trong ḷng Ngài- th́ kể ǵ đến chúng ta ?

Điều khác biệt là Phật biết đó là Ma Vương – Sự cám dỗ . Ngài biết, trong khi chúng ta th́ không . Chúng ta lư giải và biện hộ cho nó . Tôi đă nh́n thấy những ḍng chữ dán trên một chiếc xe hơi như sau :"Cái ǵ đem lại cho ta sự thoải mái cái đó đúng" . Nhưng có bao nhiêu điều, bao nhiêu thứ đem lại khoái lạc cho ta mà hoàn toàn sai, có người coi việc sát hại người khác là niềm vui .

Sự cám dỗ trong ḷng ta là ô trược của chính chúng ta, chúng ẩn nấp ở đó để sẵn sàng tạo ra thêm tội lỗi . V́ chúng ta không thích nhận tâm thân ta ô uế cần được tẩy sạch, ta t́m đủ mọi lư lẽ để biện hộ cho các hành động của ḿnh :" Tôi cũng có quyền được hưởng thụ chứ", " Đó là điều tôi ước muốn, nên hẳn là tôi rất cần" .

Sự cám dỗ có thể nói là luôn có mặt trong ta, nhưng v́ không nhận ra nó, ta luôn ở trong t́nh thế bối rối, khó xử . Ta luôn bị nó lôi kéo vào thứ này, thứ kia . Thí dụ ngay bây giờ : ta biết tốt hơn hết là ngồi đây nghe Pháp, nhưng cám dỗ bảo : giấc ngủ cũng tốt vậy ? Nếu không có người chung quanh chắc là ta đă trèo lên giường ngủ rồi .

Ma Vương luôn kề cạnh bên ta . Nó kêu gọi ta làm những ǵ mang lại sự thoải mái, khoái lạc, mà không nhận ra rằng tất cả các khoái lạc do ngũ dục mang đến chỉ tạm thời, không thực có .

Đức Phật bảo rằng có 5 trạng thái t́nh cảm là kẻ thù của mọi người : năm chứơng ngại hay năm triền cái . Tất cả chúng ta đều có, tất cả chúng ta đều bị chúng cám dỗ . Hai trạng thái đầu là tồi tệ nhất, đem đến những hậu quả trầm trọng nhất .

ÁI DỤC

Kẻ thù đầu tiên là ái dục . Là kẻ thù khó nhận diện nhất v́ nó được chấp nhận rộng răi trong xă hội . Tất cả các mục quảng cáo , trên truyền h́nh, trong các cửa hiệu, các cửa kính đều nhắm vào ḷng khơi dậy ham muốn trong ta . Thật vậy con người càng thỏa măn được các ham muốn có xe to, nhà mới, quần áo đẹp, họ càng được xem là thành công trong xă hội . V́ việc thỏa măn các ham muốn đem lại những sung sướng nhất thời, nó làm ta lầm tưởng nó là điều tốt . "Điều ǵ đem lại cho ta sự thoải mái, điều đó hẳn là đúng" .Nó có hào quang giả tạo của nó . Không ai trách được người luôn cố gắng để thoả măn ham muốn của họ . Chính chúng ta c̣n chưa biết ḿnh đang làm ǵ . Thật kỳ lạ khi con người hoàn toàn không biết ḿnh đang làm ǵ .

Với kẻ thù thứ hai – sân hận – th́ trái ngược . Nó luôn bị trách móc . Nó không mang lại lạc thú ǵ . Mọi người đều chối bỏ nó . Tuy rằng đôi khi chúng ta cũng t́m cách biện hộ cho nó . " tôi tức giận v́ cô đó, anh kia, họ… làm những chuyện đáng giận quá" . Nhưng Sân không được xă hội chấp nhận, nó không đem sự thoải mái, do đó nó không tạo ra ảo giác nó là điều tốt . Sân hận, ghét bỏ, oán giận, sợ hăi, bứt rứt, thảy là phiền năo, và người có tánh hay giận dữ thường bị kẻ khác phiền trách .

Ḷng ái dục khi được thỏa măn ít nhiều ǵ cũng mang đến cho ta sung sướng khoái lạc . Dù vậy nó cũng là kẻ thù đáng ghê sợ như sân hận . Chúng chỉ là hai mặt của một đồng tiền . có thứ này th́ phải có thứ kia đi kèm theo . Dục vọng dấy khởi những ham muốn thường khó thoả măn được . Chúng ta không thể có tất cả những ǵ ta muốn . Càng có nhiều ham muốn, càng dễ bị thất vọng . Từ đó người ta trở nên sân hận v́ không thể có được điều ḿnh ước muốn . Không ai lúc nào cũng có thể thoả măn hết tất cả các ước muốn của ḿnh . Điều đó thật là không tưởng .

Aùi dục và sân là hai kẻ thù gây nhiều khốn khó cho chúng ta trong đời sống hàng ngày cũng như gây nhiều trở ngăi cho việc tu Thiền của ta . Nếu có ai đó tự hỏi – mà tôi chắc là có rất nhiều – tại sao họ thường gặp trở ngại khi tu thiền, nhất là với người mới tu tập, th́ đây là những lư do .

Dục vọng là kẻ nói " Tôi thích ngồi thoải mái hơn" Dục vọng là kẻ nói :"Tôi muốn đi ngủ" Dục vọng là kẻ nói :" Tôi muốn chuyện văn . Tôi thích đi dạo một chút . Nóng quá . Tôi phải đi tắm . Đói quá . Tôi cần ăn môt thứ ǵ đó . Khát quá . Tôi phải uống ǵ đó . Tôi khó chịu quá, làm sao ngồi thiền". Đó là tiếng nói của dục vọng , lúc nào cũng đ̣i hỏi thứ này thứ nọ .

Dục vọng sẽ ngưng đ̣i hỏi khi kinh nghiệm thiền định sẽ mang lại cho ta nhiều thích thú hơn sự thỏa măn các dục vọng . Khi Thiền định mang đến hạnh phúc và sự tĩnh lặng . Lúc đó các dục vọng sẽ biến mất khi ta ngồi thiền, không phải là măi măi , mà chỉ là trong khoảng thời gian ngắn đó .

V́ khi sinh ra chúng ta đă có các giác quan, nên ta muốn nuôi dưỡng chúng . Giống như ta muốn nuôi dưỡng thân . Nếu không, ta sẽ bệnh .

Trước khi các nhà phi hành đầu tiên được gởi lên phi thuyền, một trong những phương pháp được dùng để huấn luyện họ ở Mỹ là một căn pḥng nơi đó không có sức hút nên không có xúc giác . Pḥng cách âm và không có ǵ để nh́n . Mọi thứ đều có màu xám . Những món đồ ăn vô vị được chuyển tới bằng những ống dẫn . Họ được dặn là khi nào không chịu đựng nổi nữa, họ có thể rung chuông ra hiệu . H́nh như người chịu đựng lâu nhất là tám tiếng .

Thực phẩm sẽ ngon hơn nếu có sự kích thích của các giác quan, ta đă quen như thế . Sự quen thuộc bám víu này tạo cho ta cái ảo giác rằng đây là điều tối hệ trọng, đây là hướng ta phải theo – nh́n cảnh đẹp, nghe những âm thanh dễ chịu, nếm mùi vị ngon, ngửi mùi thơm, những xúc chạm mang đến sự dễ chịu và nghĩ đến những điều làm ta thích thú .

Một cách sống như thế – và tất cả những người chưa được nghe pháp, không tu tập thiền đều vướng phải – không thể mang đến thành công . Đó là châu báu của kẻ dại khờ . Nó nhấp nháy sáng nhưng nó chẳng có giá trị ǵ v́ nó quá ngắn ngủi .

Hăy tưởng tượng bạn được ăn một buổi thật ngon, bạn tấm tắc :" Ngon, thật là ngon" Một ngừơi bạn nói:" Nếu ngon vậy, xin mời bạn cứ tiếp tục ăn . Bạn có thể ở đây ăn đến sáng hôm sau" . Lúc đó cái ngon thành khổ thân khổ tâm . Một bữa ăn dù ngon mấy chỉ có thể thưởng thức trong 20 hay 25 phút là cùng . Cũng vậy, vào một ngày nóng nực bạn muốn được tắm mát . Khi được tắm bạn thích thú nói :" Tuyệt quá. Tôi thấy mát mẻ dễ chịu làm sao" . Lúc đó người bạn lại nói:" Nếu thế, sao bạn không ở trong đó thêm 5 hay 6 tiếng nữa ?" Nếu làm thế th́ hành xác c̣n ǵ . Không ai muốn làm thế . Mười phút , mười lăm phút tắm là cùng .

Đối với tất cả mọi ham muốn khác cũng thế . Sự thích thú sẽ biến mất khi nó được kéo dài ra . Nó biến thành cực h́nh . Vậy mà tất cả chúng sanh đều chạy đuổi theo các lạc thú ngắn ngủi đó . Người ta t́m lạc thú trong rượu, nhưng khi say rượu làm sao c̣n có được cảm giác vui thú nào . Tất cả những hạnh phúc con người t́m kiếm qua thỏa măn các giác quan của ḿnh đều dần đến sự thất bại . Các cảm giác chỉ là sự biểu lộ cụ thể của các giác quan có cảm giác như tai, mắt, mũi, lưỡi, thân . không có ǵ đặc biệt về chúng, không có ǵ tội lỗi hay không tội lỗi . Các cảm giác không tạo ra nghiệp tốt hay xấu . Nghiệp xấu được tạo ra bên trong ta khi tâm muốn duy tŕ hoặc t́m lại các cảm giác khoái lạc .

Có người t́m các cảm giác khoái lạc qua các hành động như uống rượu, hành hung người khác, hút sách, t́nh dục . Đây là những khoái cảm thấp hèn tội lỗi . Kẻ khác lại t́m cảm giác thích thú trong việc ngắm hoa, nh́n mặt trời lặn, nghe âm nhạc . Đây cũng là lạc thọ nhưng cao thượng hơn .

Khổ đau dấy khởi khi ta muốn chiếm hữu, giữ chặt, hưởng thụ các cảm giác khoái lạc đó măi . Khi nh́n thấy một bông hoa đẹp, ta thường muốn ngắt hái cho riêng ḿnh . Sao không để chúng đó cho mọi người ngắm nh́n ? Không . Tôi muốn chiếm hữu tất cả những ǵ đẹp đẽ .

Khi con người biết sống thanh cao hơn, các cách hưởng thụ cũng sẽ cao đẹp hơn . Một cảm giác hưởng thụ có thể rất b́nh thường, nhưng nó trở nên nguy hiểm khi đi đôi với ḷng ham muốn . Sự ham muốn – ḷng khao khát – mang đến phiền năo v́ ḷng ham muốn không bao giờ có thể được thỏa măn . Chúng ta luôn cảm thấy thiếu thốn . Lúc nào cũng có cái đẹp hơn để nh́n, nhiều điều hay hơn để nghe, để xúc chạm. Lúc nào cũng có một cái ǵ khác để ta chạy đuổi theo . điều này khiến ta trở nên chộn rộn, bứt rứt v́ ta chẳng bao giờ được hoàn toàn thỏa măn .

Khi trong ḷng ta không được an b́nh, ta đổ lỗi cho hoàn cảnh quanh ta . Ta nghĩ phải có một cái ǵ đó tuyệt diệu hơn cần được khám phá . V́ thế ta đi khắp thế giới để t́m kiếm . Một việc chẳng khó khăn ǵ hiện nay . Chỉ cần cái vé máy bay . Người ta đi đó đi đây để t́m những xúc cảm mới, cảnh vật mới, kinh nghiệm mới . Thu thập kinh nghiệm đă trở nên một phong trào . nhưng rồi ta cũng không vừa ḷng, v́ kinh ngiệm nhanh chóng qua đi . Không có kinh nghiệm ǵ c̣n ở lại . Tất cả đă qua. Tất cả đă thành kư ức, không có ǵ có thể được lưu giữ . Sưu tầm tem thư có lẽ c̣n ích lợi hơn là lưu trữ kinh nghiệm .

Aí Dục đă được Đức Phật ví như mắc nợ . Nếu bạn mua nhà, bạn vay tiền ngân hàng, mỗi tháng bạn phải đến đó trả tiền vay và tiền lăi . Nhưng với nợ nhà, dần dần ta c̣n trả hết . Chứ với dục vọng không có chuyện sẽ dứt nợ . Dục vọng dấy lên tiếp, tiếp nhau . Chẳng bao giờ dứt . Ta luôn đói . Luôn khát . Ta luôn muốn được nh́n, nghe, nếm , xúc chạm thêm lên nữa .

Đức Phật cũng ví nó với một người lữ hành không phương hướng . Anh ta đói khát . Nh́n thấy trước mặt là một ngôi làng, mừng rỡ, anh thầm nghĩ "À, kià có ngôi làng để ta xin đồ ăn thức uống" Nhưng khi đến nơi đó chỉ là một ngôi làng hoang vắng . Anh lại tiếp tục kiếm t́m . Lại một ngôi làng bỏ phế nữa .

Ḷng hy vọng và ước đoán về việc thỏa măn các dục vọng làm dục vọng thêm hấp dẫn . Nhưng khi đă thỏa măn tất cả đă qua đi, ham muốn khác lại dấy khởi lên .

Đức Phật cũng so sánh dục vọng như một cái hồ với nhiều màu sắc được trộn vào đó . Ḷng khao khát dục vọng hiện ra dưới nhiều dạng, bao trùm cả tâm trí sáng suốt của ta . Đó là nỗi khổ của ta . Ta bị cuốn hút bởi ḷng ham muốn, và không c̣n thấy ǵ khác có thể quan trọng hơn . Ta chỉ thấy có sự ham muốn và cơ hội để thỏa măn nó . Ta tự đánh mất ḿnh .

Đức Phật đă cho ta rất nhiều ẩn dụ về ḷng tham dục . Nhưng ẩn dụ quan trọng nhất, trước tiên là phải hiểu rằng dục vọng là kẻ thù có thể đánh qụy tâm ta , tạo ra nỗi sợ hăi không đạt được điều ḿnh mong muốn, ḷng ganh ghét đối với người được điều ta mong muốn – ghen ghét – ganh tỵ – và những trạng thái tâm hồn bất ổn, đau khổ mà ta không thể có nếu như không có ḷng muốn cái người khác có .

Ta phải hiểu đó là nguồn gốc của những phiền năo của con người : mong muốn được có cảm giác dễ chịu thích thú, mong muốn được thỏa măn, nhưng thường ta không đạt được chúng, hay nếu có được cũng chẳng bao giờ có thể giữ chúng măi . Buông bỏ ham muốn có nghĩa là buông bỏ thất vọng . Nhưng điều đó không thể thực hiện chóng vánh bằng lời nói, hay suy nghĩ suông . Đó là một quá tŕnh huân tập lâu dài . Bước đầu tiên là phải biết ngồi trong tư thế không được thoải mái . Không được nghiêng ngửa, đổi thế ngồi để cho bớt khó chịu . Không thể trốn tránh sự đau khổ . Không thể thoát khỏi đau khổ bằng cách ấy . Chỉ có một cách duy nhất là buông bỏ ham muốn . Phải hoàn toàn dứt bỏ chúng .

Sự khó chịu trong tư thế ngồi thiền là cơ hội để ta kiểm soát các dục vọng của ḿnh . Nếu ta không t́m hiểu chúng từ tư thế này, ta sẽ khó thể biết về chúng cách nào khác. Không thể học ở trường học, giảng đường . Cũng không ai dạy ta về chúng ở gia đ́nh . Ở đó, ai cũng đang t́m mọi cách để được sung sướng, thoải mái . Nếu bạn có thể ngồi thoải mái, đó là điều tốt . Nhưng nếu bạn ngồi một cách khổ sở, điều đó cũng không xấu . tựu trung là bạn đang có cơ hội để tu tập ngay ở nơi chân, hay lưng hay bất cứ nơi nào .

Ước muốn được thoải mái và xoay trở để đạt được điều này chính là việc mà mọi người đang làm ở khắp mọi nơi . Và họ phải mất khá nhiều thời gian tiền bạc cho điều đó . Đó là lư do tại sao người làm tăng ca, đi du lịch, t́m kiếm các thú giải trí, cũng là để xoay trở ra khỏi sự đau khổ, phiền năo . Nhưng đó là điều vô ích, tại sao ta đi t́m những cái vô ích ? V́ một khi ta vừa thoát ra khỏi các phiền năo, bực bội này, th́ lập tức phiền năo, bực bội khác lại dấy lên . Khi một thú tiêu khiển vừa dứt, sự chán nản buồn bă lại đến . Chân mặt vừa dễ chịu v́ bạn vừa chuyển thế ngồi, th́ chân trái lại đau nhức . Thật là dại khờ để chạy theo những điều vô ích đó . Tốt hơn là nên làm theo Pháp . Pháp đă được chứng nghiệm là sự thật . Đức Phật đă chứng nghiệm điều đó và tất cả những người giác ngộ sau Ngài cũng đă chứng nghiệm điều đó .

Buổi chiều, khi bao tử bạn kêu đói, tâm liền khởi nghĩ :" Không biết có nên bỏ ăn buổi tối không ?" Hoặc tâm đă lăng xăng chạy nghĩ đến nhà bếp với những món bạn có thể làm đó là dục vọng . Nếu tâm cố gắng chống cự lại cám dỗ th́ bạn đă bị dục vọng lôi cuốn . Nhưng nếu bạn có thể nh́n vào sự đ̣i hỏi vừa dấy lên, mỉm cười và nói :" Đấy đúng là cám dỗ của Ma Vương " th́ bạn đă thấy được Pháp . Không cần phải nghe nhiều, đọc nhiều về Ma Vương . Chỉ cần nhận biết nó khi nó xuất hiện v́ nó không có nơi nào khác để hoạt động trừ ngay trong chính mỗi chúng ta . Nó rất sung sướng được ngự trị trong ấy v́ chúng ta luôn ṭng phục theo nó .

Một trong những điều mà Đức Phật khuyên răn nhằm chế ngự sự tham dục là tiết độ trong ăn uống . Và đó là lư do tại sao có giới luật không ăn sau 12 giờ trưa . Tiết độ ăn uống không có nghĩa là không ăn uống ǵ . Mà chỉ ăn đủ để giữ sức khoẻ cho cơ thể . Nhưng sự ham muốn này rất dễ được thỏa măn, v́ thế nó liên tục dấy khởi . Đối với một số người có khi bốn, năm hay sáu lần ăn trong một ngày . Nếu chúng ta có khả năng chống lại được một ham muốn, chúng ta sẽ có khả năng để chống lại những ham muốn khác . V́ thế để bắt đầu, ta nên chọn sự ham muốn mà ta dễ dàng chịu thua và nó luôn dấy khởi, đó là tiết chế sự ăn uống .

Một thứ thuốc giải độc khác để chữa trị dục vọng mà Đức Phật khuyên ta nên theo là nh́n sự vật từng phần hơn là tổng thể . Có lẽ ta chẳng lạ ǵ với chuyện nh́n cơ thể với ba mươi hai phần :

Trong thân thể này từ gót chân trở lên, từ đỉnh đầu trở xuống đều được bao bọc bởi dăy da hôi thối, trong cơ thể này có tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tuỷ xương, thận, tim, gan, màng mạc, tỳ tạng, phổi, ruột già, ruột non, cổ họng, phân, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất nhờn trên da, nước miếng, đờm dăi, dung dịch ở các khớp nước tiểu và óc .

Nếu bạn có ḷng ưa thích một người nào đó, thay v́ nh́n vẻ đẹp bề ngoài của họ , hăy nhớ đấy chỉ là lớp " giấy gói quà" màu sắc bên ngoài, bên trong con người đó có bao nhiêu phần nhỏ khác . Ba mươi hai phần của cơ thể với "tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt…" V́ thế thay v́ nh́n vẻ ngoài đẹp đẽ, chỉ nên nh́n răng ?

Có câu chuyện về một tăng sĩ, có lẽ là một vị A la hán cùng thời với Đức Phật. Có một đôi vợ chồng căi nhau rất dữ dội, và sau đó người vợ không c̣n muốn ở với chồng ḿnh nữa . Cô mặc tất cả những quần áo đẹp nhất, đeo các vàng bạc, nữ trang quư giá nhất khi bỏ trốn đi v́ cô muốn đem theo tất cả của cải . Người chồng rượt đuổi theo nhưng không bắt kịp, có lẽ v́ người vợ đă bỏ đi sớm hơn anh ta tưởng . Khi người đàn ông chạy trên đường t́m kiếm vợ, anh ta gặp vị sư . Anh liền đến để hỏi nhà sư có gặp một người đàn bà tóc đen, đẹp đẽ mặc một chiếc sa ri đỏ, với rất nhiều trang sức quư giá chạy trên đường không ? Nhà sư trả lời :" Tôi không trông thấy người đàn bà nào, chỉ thấy một hàm răng chạy qua thôi " .

Có lẽ nh́n được như nhà sư hơi khó cho chúng ta, nhưng câu chuyện đă nói lên được điều Đức Phật muốn răn dạy chúng ta : Đừng nh́n toàn bộ, th́ có ai sẽ yêu đương nổi một hàm răng . Ai đam mê nổi một bao tử ? Thí dụ như khi ta khởi ḷng ham muốn một chiếc xe đắt tiền, nếu ta chỉ nh́n dáng vẻ bề ngoài của nó, màu sắc của nó, ta dễ bị sa ngă phải mua chiếc xe ấy, để rồi phải trả nợ trong ṿng hai chục năm . Nhưng nếu ta nhận ra rằng chiếc xe ấy cũng chỉ được tạo ra bởi tay lái, bàn đạp ga, bộ máy, ống lọc không khí, với bao nhiêu là bù lon con tán trong đó, th́ chắc ta không đến nỗi mê đắm chiếc xe đó v́ những bộ phận rời rạc đó, cũng như không thể mê đắm một người nào đó v́ từng bộ phận của họ .

Đối với người dễ bám theo các vẻ đẹp bề ngoài, có lẽ cần thiền quán về các bộ phận của chính thân ḿnh . Chúng ta cũng được làm bởi ba mươi hai bộ phận đó . Không ai khác ai . Nếu bỏ lớp da bọc ngoài tất cả mọi người đều giống nhau .

Liều thuốc giải độc cho cả năm chướng ngại – năm kẻ thù của ta – là có bạn tốt và có điêù tốt . Có được những người bạn mà ta có thể trao đổi về phương cách để áp dụng Pháp Phật vào đời sống thường ngày, chứ không phải loại bạn để nói về thời tiết, chính trị, đàm tiếu về người khác . Thiện tri thức rất quan trọng trong cuộc đời ta . Khi A nan, người em bà con của Đức Phật và là thị gỉa của Ngài, nói :" Bạch Thế Tôn! Có được một người bạn tốt là có được nửa cuộc đời thánh thiện" . Phật bảo :" Không phải thế A nan. Một người bạn tốt là cả cuộc đời thánh thiện" . Không có ǵ có thể thay thế một người bạn tinh thần . Đó là người quan trọng nhất trong đời bạn – người nhắc nhở ta đi trên đường chánh đạo .

Vấn đề là phải nhập tâm . Khi ta nhớ những điều này, ta có thể làm được, nhưng nhiều lúc ta quên . những cuộc đàm đạo hữu ích với thiện tri thức giúp chúng ta luôn soi lại ḷng ḿnh, và nhận ra rằng phần lớn vấn đề của chúng ta xuất phát từ ḷng ham muốn, từ dục vọng của chúng ta .

Ta không muốn ăn các chất độc hại . Ta không muốn cơ thể ta chứa đầy những thứ độc hại . Cũng thế, ta không nên bỏ đầy tâm trí ta với các chuyện nhảm nhí, độc hại . Tâm ta chỉ nên chứa những chuyện về Pháp, chuyện tốt, những câu chuyện làm ta phấn khởi, giúp đỡ ta, xoa dịu ta, làm ta an lạc, chữa lành cho ta, và quan trọng nhất là giúp ta thấy được con đường để thoát ra khỏi những vấn đề làm khổ năo tất cả chúng sanh .

Nếu chúng ta may mắn có được những người thiện tri thức ở quanh ta, th́ cách bày tỏ ḷng biết ơn tốt nhất là trở thành một thiện tri thức đối với người khác . Là bạn tốt giống như phản ứng dây chuyền . Bạn không nên chỉ đi t́m bạn tốt . Chính bạn cũng nên là bạn tốt .

SÂN

Chúng ta luôn phải đối đầu với bao kẻ thù . V́ chúng trụ ở bên trong ta, ta khó nhận ra chúng . Do đó trước hết ta phải ngó lơ chúng để chú tâm vào việc thanh tịnh hoá tâm , dần dần chúng không c̣n là một phần của ta nữa .

Con đường tâm linh, con đường thanh tịnh hoá, đoạn tuyệt, tự do là con đường dẫn ta đến sự thay đổi bản tánh của ḿnh . Nếu ta không bắt đầu bằng bước đó, ta sẽ không thể bước vào thế giới thanh tịnh . Mọi thứ khác đều là ngoại giới, chỉ có bản tánh là nội tâm . Mặc dầu ngoại giới có thể đẹp đẽ, có thể mang cho ta cảm giác thoải mái, nhưng chúng không thể thay đổi nội tâm ta . Và chỉ có sự thay đổi đó mới phân biệt được một người cao cả với người b́nh thường . Người b́nh thường hành động theo sự sai bảo của bản năng . Người cao cả chuyển hoá chúng .

Chướng ngại thứ hai cũng như các tội lỗi khác gây bao điều tai hại cho ta đó là sân hận, nóng giận . Mức độ nóng giận có thể nặng, nhẹ . Khi bùng nổ ra ngoài khi gặm nhấm bên trong . Khi nó được bộc lộ ra lời, thường làm người khác cũng sinh giận dữ . Từ đó gây ra căi vă trong gia đ́nh, xích mích ở xóm giềng . Nảy sinh ra oán thù giữa các cộng đồng, chiến tranh giữa các quốc gia hay trên cả thế giới .

Tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ trong tâm ta, nên ta phải nhận ra rằng thế giới không phải là tha nhân . Mà mỗi chúng ta là một thế giới, do đó trừ khi ta t́m thấy an b́nh trong chính tâm ta, ta sẽ không thể t́m thấy điều đó ở đâu khác . Không cần kể là người khác đang tức giận, bực bội, sai quấy, hay ngă mạn . Không có ǵ đáng kể cả.

Điều quan trọng chính là thái độ của chúng ta trong hoàn cảnh đó . Không thể có sự an ổn tuyệt đối trên thế giới này . Dưới thời Đức Phật đă không có . Dưới thời các vĩ nhân, các vị thánh đă không có . Trái lại lịch sử đă bày cho ta thấy bao nhiêu cảnh tranh giành thế lực chính trị, chiến tranh, anh em xâu xé nhau .

Sự b́nh an duy nhất ta có thể có được là sự b́nh an tự trong trái tim ta . Sự an lạc Đức Phật đă t́m thấy cho chính ḿnh, lại âm vang đến cả thế giới . Ngài là người đă t́m thấy an b́nh với chính ḿnh, với thế giới và sự an b́nh đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, hơn hai mươi lăm ngàn năm sau trong Pháp của Ngài . Năm trăm triệu người trên thế giới đă thệ nguyện làm đệ tử của Ngài .

Rơ ràng là nghiệp của chúng ta không giống nhau . Nhưng nếu ta có thể truyền cho người thân trong gia đ́nh, sự an b́nh, tự tại trong tâm ta, cũng đă quá tốt . Đó cũng là một thành tích có phải không ? Khi tất cả mọi người trong gia đ́nh đă được truyền cho sự b́nh an, th́ an b́nh cũng có thể lan truyền đến hàng xóm, láng giềng . Được thế càng tốt hơn . Ta không cần là Phật mới có thể ảnh hưởng sâu xa đến người khác .

Aûnh hưởng sâu xa chỉ có thể nảy sinh khi trong tâm ta chỉ có sự b́nh an, tâm không c̣n dấy khởi sân hận . Chỉ có các vị A la hán mới đoạn diệt được hết các niệm sanh ra sân hận . Dầu vậy nếu ta có thể kềm chế sân hận vẫn hơn lúc nào cũng giận dữ, căi lẩy, hờn oán, thương tổn, trách móc người khác .

Sân hận dấy khởi cho ta cảm thấy bị thương tổn, đau đớn, và phản ứng của con người lạ lùng thay, là cũng gây đau đớn lại cho người khác . Ta sẽ không thể sửa đổi, nếu như không nhận biết điều đó . Nhưng không phải ai cũng gây đau đớn cho người khác, có người tự gây thương tích cho ḿnh . Họ nuốt giận, chôn dấu nó, nhưng nó vẫn sôi sục ở bên trong . Và rồi tất cả sự giận dữ đó sẽ phát lộ ra bằng các chứng bệnh, thiếu nghị lực, trầm uất, tiêu cực, thiếu hỷ lạc và b́nh an .

Rất ít người chúng ta gặp trên đường phố có nét mặt vui vẻ, hạnh phúc . Bạn có nhận thấy không ? Không chỉ ở đây mà ở khắp nơi : Sidney, London, Amsterdam hay Paris . Bất kể ở đâu, con người đều giống nhau .

Những đau đớn ta đă kinh nghiệm trong cuộc đời, mà ta luôn phải chống trả, tạo cho ta cái ư nghĩ là nếu ta trả đũa lại, th́ sự đau đớn , tổn thất của ta sẽ mất đi . Sự thật th́ trái lại, điều đó chỉ làm cho sự đau đớn tăng lên gấp bội .

Đức Phật đă so sánh sân hận như bịnh sôi mật . Khi bạn giận dữ – và tôi đoán chắc rằng không ai thoát khỏi – bạn hiểu cảm giác đó thế nào ? Cảm giác khó chịu – vậy mà ta cứ măi sân hận . Nếu đó không là kỳ quái th́ là cái ǵ ? Giống như người tự đánh ḿnh, mỗi lần đánh đều thấy đau, nhưng vẫn cứ lập đi, lập lại .

Đức Phật cũng ví giận dữ cũng như cầm than đỏ bằng tay không, chọi vào người ta đang giận . Ai sẽ phỏng trước ? Dĩ nhiên là người giận .

Ngài cũng ví sân hận như cái hồ trong đó nước sôi sục . Nếu nước sôi ta không thể có một mặt hồ tĩnh lặng để soi ḿnh vào đó . Khi ta giận dữ ta không c̣n biết tất cả v́ mục đích ǵ, sự tỉnh thức của ta bị ch́m lấp . Ta quên hết mọi thứ, chỉ c̣n biết cơn giận của ḿnh . Nếu lúc đó ta có thể nh́n vào kiếng th́ gương mặt ta nh́n thấy sẽ xấu xí biết bao . Nhưng lúc đó không ai c̣n th́ giờ để nh́n vào kiếng . Họ bị cuốn lấp trong cơn giận .

Đức Phật dạy khi sân hận dấy khởi, điều đầu tiên ta nên nhớ là " Ta là chủ nghiệp ta" . Sự nhắc nhở đó rất quan trọng ở giây phút căng thẳng nhất . "Tôi làm chủ nghiệp của tôi, nên nếu như tôi tức giận, tôi sẽ lănh nghiệp báo của hành động đó". Bất kể người kia đă làm ǵ cho bạn giận .

Có một câu chuyện rất hay về Khantivàdin, vị thầy của sự kiên nhẫn . Hay v́ nó mô tả được sự vô lư của ḷng giận dữ . Vua Kausala là một vị vua rất giàu . Ông có rất nhiều vợ . Một ngày kia vua báo cho các bà vợ là ông muốn đi chơi ở ngoại thành . Các người đầu bếp sửa soạn thức ăn, đầy tớ lo sửa soạn voi, quân lính sửa soạn quân phục .

Sáng hôm sau cả triều đ́nh, vua và đoàn tuỳ tùng ra đi . Đến một khu rừng có những thảm cỏ thật đẹp, họ dừng lại . Nhà vua ăn và uống quá nhiều . Ngay sau bữa ăn, Ngài thiếp ngủ . Các bà vợ bảo nhau :" Đây là dịp cho chúng ta dạo chơi quanh đây, v́ có mấy khi ta được ra tới bên ngoài" . Nói rồi họ dắt nhau đi bắt bướm, ngắm cây cảnh, tận hưởng vẻ đẹp của khu rừng .



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 7 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:45pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

Khơng lâu họ đến căn lều của vị Thầy của lịng kiên nhẫn mà họ hằng nghe tiếng . Ngài Khantivàdin (Khanti –lịng kiên nhẫn, vàdin –Thầy) . tất cả họ đều bái lạy, xin Ngài ban cho những lời chỉ dạy . Vị thầy vui vẻ nĩi cho họ nghe về các hành động thiện, lịng từ bi và rộng lượng .

Trong lúc đĩ, nhà vua tỉnh giấc ,khơng thấy bà vợ nào ở bên cạnh ḿnh . Nổi giận . Ơng sai lính đi kiếm các bà vợ . Quân hầu trở về báo là họ đang ngồi nghe giảng thuyết . Nhà vua khơng nghe lư lẽ ǵ, ơng sai quân gọi các bà vợ về và bắt vị thầy Kiên nhẫn trĩi vào gốc cây .

Sau đĩ nhà vua rút gươm giận dữ đến nĩi với Khantivàdin " Đồ khốn kiếp sao nhà ngươi dám dụ dỗ các bà vợ của ta ?" Ơng chém vào chân của vị thầy và hỏi :" Bây giờ th́ lịng kiên nhẫn của ơng ở đâu ?" Khantivàdin trả lời :" Thưa Ngài, nĩ khơng nằm ở chân tơi" . Nhà vua càng tức giận, càng chém vị thầy và tiếp tục hỏi cùng câu hỏi, trong lúc vị thầy cứ trả lời giống như cũ .

Khi Khantivàdin sắp chết, các quân lính quỳ xuống xin Khantivàdin " Xin Ngài hăy thương xĩt , chúng con khơng cĩ lỗi, chính nhà vua là người đă ra lệnh" . Và Khantivàdin trả lời :" Khơng . Ta khơng ốn hận ai . Ta cầu mong cho nhà vua sống lâu và hạnh phúc" . Nĩi rồi vị Thầy chết . Theo câu chuyện sau đĩ nhà vua bị đất lấp chết .

Câu chuyện đă cho ta thấy dù đă bị cắt ra từng mảnh, vị Thầy cũng khơng tỏ ǵ giận dữ . Cĩ lẽ điều đĩ khĩ chấp nhận đối với chúng ta . Rơ ràng Khantivàdin là một vị A la hán v́ khi ơng nĩi " Lịng kiên nhẫn của tơi khơng cĩ ở trong bàn chân của tơi", ơng muốn chứng tỏ rằng dù cho sự đau đớn thể xác cĩ như thế nào, tinh thần ơng vẫn khơng nao núng . Đối với chúng ta, điều đĩ thật khĩ tưởng tượng . Sự đau đớn của thân luơn ảnh hưởng đến tâm ta . Nếu như ta cĩ thể nhớ được câu chuyện này cũng như lời Đức Thế Tơn dạy :"Kẻ nào khơng làm giống như thế, khơng hiểu Pháp của ta", ta sẽ hiểu rằng lịng sân hận là chính là tội nghiệp ta tự gây ra cho ḿnh . Chẳng phải do hành động của tha nhân .

Hiểu được như thế , ta sẽ dễ sửa đổi nếu như ta tỉnh thức và ư thức được khi nào sân hận dấy khởi . Sự tỉnh thức giống như bàn thắng trên xe hơi . Thử tưởng tượng sự nguy hiểm của một chiếc xe khơng cĩ thắng . Khơng cĩ sự tỉnh thức, cuộc đời ta cũng nguy hiểm như thế đấy .

Mỗi khi sân hận nổi lên, ta đạp thắng " tỉnh thức", và ta biết rằng ḿnh vừa "phạm tội". Biết rằng ta vừa làm một việc chẳng tốt đẹp, lợi lộc ǵ . Dựa vào các nhận thức này, ta cĩ thể làm giảm bớt khá nhiều sức mạnh của cơn giận, giống như khi đạp thắng, ta đă giảm bớt được tốc độ của xe, đi chậm lại . Biết rằng sân hận là khơng tốt, cũng cĩ thể làm thay đổi cả quá tŕnh giận dữ, đơi khi cịn làm vơ hiệu hố nĩ . Ta cĩ thể quan sát khi một sự giận dữ đă bị vơ hiệu hố, để nhận ra sự vơ ích của cơn giận . Bạn sẽ nhận ra sự đau đớn ḿnh tự gây ra cho ḿnh, và sự u mê khi tự ḿnh làm ḿnh đau khổ .

Sự u mê lớn nhất của con người là tự làm khổ ḿnh bằng chính những hành động của ḿnh . Cần phải cĩ quyết tâm sửa đổi để một ngày nào đĩ – cĩ thể hơm nay, năm tới hay một cuộc đời khác – để khơng tự gây đau khổ cho ḿnh nữa . Hăy ngưng phản ứng một cách tiêu cực đối với bất cứ việc ǵ xảy ra quanh ta, v́ ta biết rằng tất cả chúng đều ơ trược, tội lỗi, và chính sự ơ trược đĩ khiến cho phiền năo sinh ra .

Cả thế giới này đều ơ trược . Thật vậy hăy thử cầm một tờ báo như Newsweek. Bạn thấy ǵ ? Khơng cĩ ǵ ngồi tội lỗi ơ trược . Nếu chúng ta nhận thấy cả thế giới đều bị nhiễm ơ uế, th́ tại sao ta khơng rẽ vào con đường chánh định, khơng để ḿnh đi theo đồn xiếc tội lỗi ? Tại sao ta khơng tách ra khỏi đám đơng và quan sát vạn pháp dưới mọi khía cạnh ? Chúng ta chỉ cĩ thể hành động như thế khi ta khơng cịn cĩ những phản ứng tiêu cực trong đĩ tệ hại nhất là lịng giận dữ và ốn ghét .

Con người khơng bao giờ hết nĩi bậy, làm bậy . Chỉ khi nào ta cĩ thể huân tập cho ḿnh luơn sống trong Pháp th́ ta mới mong sửa đổi được . Nếu ta phải đối mặt với việc làm sai trái, thái độ bất nhă, ích kỷ, địi hỏi ta nhiều hơn ta cĩ thể cho, th́ đă sao? Quan trọng là sự b́nh an và hạnh phúc trong lịng ta . Tất cả mọi thứ khác đều là phiền năo, khơng nên cĩ, mà ta lại thường tự gán vào ḿnh . Tất cả các phiền năo khổ đau này phát sinh là do hành động của chúng ta, nhưng ta lại cĩ khuynh hướng đổ lỗi cho người khác là nguyên nhân tạo tác . Ta nổi giận nên ta đổ cho người làm ta giận . Ta buồn rầu nên ta đổ cho người khác hay hồn cảnh làm ta buồn rầu . Nhưng ta quên rằng nếu trong ta khơng cĩ sẵn các mầm mống, khuynh hướng giận dữ hay buồn rầu, th́ khơng thể xảy ra chuyện ǵ cả .

Giống như mĩn đồ chơi trẻ con Jack in the box, là một cái hộp trong đĩ cĩ một búp bê h́nh nộm mà hễ ta vừachạm tay tới cái nắp, lập tức h́nh nộm nhảy phĩc ra khỏi hộp . Nhưng nếu ta lấy h́nh nộm ra khỏi hộp, th́ dù ta cĩ dùng búa để đập nắp hộp cũng khơng cĩ ǵ xảy ra . Khơng cĩ ǵ ở bên trong đĩ, th́ dù cĩ nguyên nhân tạo tác nào cũng khơng cĩ ǵ ở bên trong để bật ra ngồi .

Cách duy nhất để t́m sự an b́nh cho chính ḿnh, t́m con đường đưa đến giải thốt, là tu sửa ḿnh, khơng phải thay đổi thế giới bên ngồi . Mọi người phải tự sửa đổi chính ḿnh . Đức Phật khơng thể thay đổi chúng ta . Nhưng Ngài chỉ chúng ta phương cách tu sửa . Chúng ta phải tự ḿnh hành động thơi . Càng bắt đầu sớm càng nhanh chĩng cĩ cơ hội t́m hạnh phúc cho chính ḿnh mà khơng phải phụ thuộc vào bất cứ thứ ǵ ở bên ngồi chúng ta .

Khơng mấy ai lại được tất cả mọi thứù trong cơi đời này . Ai cũng cĩ những điều bất như ư . Hoặc là nhà cửa chật chội, lương bổng thấp kém hay bà con bạn bè xích mích, hay hàng xĩm quá ồn ào, hay khơng cĩ bằng cấp cao… Lúc nào cũng cĩ việc ǵ đĩ trục trặc . Khơng ai cĩ một hồn cảnh hồn tồn như ư cả, nhưng nếu chúng ta khơng bắt đầu sửa đổi mà chỉ ngồi chờ đợi tốt hơn th́ chúng khơng bao giờ xảy ra cả . Mơi trường lư tưởng chỉ cĩ thể hiện hữu trong tâm chúng ta . Điều đĩ cĩ thể thực hiện được .

Đức Phật bảo cơi người là cơi tốt nhất để tu giải thốt . V́ chúng ta cĩ những nỗi khổ, bất như ư để thúc đẩy ta phải làm một điều ǵ đĩ . Mặt khác ta cũng cĩ những niềm vui, hạnh phúc để ta khơng đến nỗi hồn tồn tuyệt vọng v́ những đau khổ của ḿnh, nên ta cịn cĩ thể hy vọng . Điều tai hại là ta chỉ hy vọng hăo huyền, hy vọng rằng hồn cảnh sẽ thay đổi, hy vọng người khơng yêu ta sẽ yêu ta hay người ta yêu sẽ ở măi măi bên ta, hy vọng ta sẽ giàu cĩ . Hy vọng ta sẽ khơn ngoan để khơng mắc phải lỗi lầm nào . Tất cả chỉ là những hy vọng hăo huyền .

Lịng hy vọng này cĩ thể được sử dụng một cách tích cực hơn . Ta hy vọng v́ ta biết cĩ ǵ đĩ khơng ổn với ta, nhưng ta khơng bĩ tay . Chúng ta chỉ biết điều khơng ổn đĩ là xấu xa, ơ trược . Nhưng khơng biết phải làm ǵ . Chúng ta cần hy vọng cĩ thể sửa đổi chúng ngay bây giờ, khơng phải trong tương lai, v́ tương lai chỉ là tưởng tượng. Cĩ ai biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện ǵ ? Cĩ lẽ khơng cĩ ai, nhưng ta cĩ thể biết ngay lúc này khi nào phiền năo, ơ trược dấy khởi trong lịng ta . Khi ta nổi giận, ta biết ta đang giận . Ta chỉ cĩ thể sửa đổi cái ta biết .

Khi bạn giận dữ về bất cứ điều ǵ, điều đầu tiên phải nhớ là "Tơi làm chủ nghiệp căn tơi" . Thứ hai là đừng tự trách ḿnh v́ đă nổi giận . Thứ ba là thay đổi thái độ .

T́nh cảm khĩ chịu, bực bội nhất làkhi ta nổi giận với ai đĩ . Nếu ta giận một vật ǵ đĩ, th́ cái giận cũng nhỏ, khơng đáng kể , khơng sâu xa . Trước khi để sự tức giận ai đĩ bùng nổ, khơng thể thay đổi được nữa, ta cĩ thể cố gắng thay t́nh cảm đĩ bằng lịng từ . Chắc bạn sẽ phản đối rằng" Làm sao tơi từ bi với con người đĩ được ?". Điều đĩ cũng đúng .

Việc ta cần làm là phải đảo lộ t́nh thế như làm xiếc vậy . Nĩi rơ ra là phải nhận biết giận dữ là vơ ích . Nĩ chỉ làm cho ta đau khổ . Làm người khác đau khổ . Khơng chỉ thế nĩ cịn tạo cho ta thĩi quen hay nĩng giận, khiến càng ngày ta càng dễ nổi giận hơn . Đĩ là lư do tại sao nhiều người càng già càng hay càu nhàu, giận dữ . Khơng cĩ ǵ làm họ vừa lịng . Họ khơng bao giờ cĩ hạnh phúc v́ thĩi quen giận dữ đă hằn nếp trong tâm họ, họ khơng thể sửa đổi nữa .

Biết được sự nguy hiểm này, lần sau khi ta giận dữ với ai, ta nên t́m điều ǵ tốt về họ : việc họ làm tốt, lời nĩi lành của họ . Điều đĩ cĩ thể thực hiện được nếu ta biết về người đĩ . Ai mà khơng cĩ điều ǵ tốt .

Nhưng nếu ta đă quá giận dữ, khơng cịn t́m thấy điều ǵ tốt ở tha nhân , th́ hăy nhớ là chỉ những kẻ khổ đau mới làm việc độc ác xấu xa . Người hạnh phúc, vui sướng sẽ khơng hành động, nĩi năng như thế, họ sẽ khơng làm cho người khác phải giận dữ . Do đĩ, người đang làm ta giận hẳn là đang trải qua một sự đau khổ nào đĩ . Chính họ đang đau khổ . Hăy thương xĩt người đang đau khổ v́ một vết thương thể xác hay v́ họ chẳng bao giờ được nghe Pháp . Hay v́ điều ǵ đĩ ta khơng rơ lư do xác thực . Nhưng điều đĩ khơng quan trọng, hăy tỏ lịng thương xĩt họ .

Hơn thế nữa, nếu chúng ta đă quá giận dữ, khơng cịn nhớ điều ǵ tốt về tha nhân, cũng khơng thể xĩt thương họ, th́ hăy cố nghĩ ta như là cha mẹ đối với đứa con của ta . Cha mẹ của người ấy th́ phải thương yêu họ rồi . Nếu chúng ta nhớ lời Phật dạy, như trong bài về lịng từ đă nĩi, ta sẽ nhớ là người mẹ phải thương con ḿnh, để cố gắng khởi lên t́nh thương đĩ trong ta .

Tất cả những sửa đổi đĩ trong tâm ta sẽ mang lại kết quả . Cần phải cĩ thời gian để cĩ kết quả như mong muốn . Nhưng nếu ta cứ tiếp tục thực hành, nĩ sẽ trở thành thĩi quen hay quán tính . Sân hận vẫn cịn dấy khởi, nhưng đă mất tính chất mănh liệt, cuồng nộ, v́ ta đă luyện tập cách để chuyển đổi nĩ .

Người cĩ thể kếm giữ cơn giận đang dấy lên .

Như người đang cầm cương xe tuấn mă

Đúng là một người giữ cương giỏi –tơi nghĩ

Những người khác chỉ là giữ dây cương cho nai

Dhammapada v.222 (Kinh Pháp Cú)

Sân khơng nhất thiết phải là một t́nh cảm mănh liệt . Nĩ cĩ thể là sự hờn dỗi ai đĩ . Cĩ thể là sự chống báng những người khơng cùng suy nghĩ, niềm tin hay hành động giống như ta . Điều đĩ vẫn thường xảy ra trên đời . Nạn kỳ thị chủng tộc hay tín ngưỡng là những ví dụ . Sự chống báng người khác đồng nghĩa với lịng thù ghét .

Khi ta thiếu thốn vật chất, gặp các cơ hội khơng thuận lợi ta cũng cĩ thể ốn trách người khác, nghĩ là họ đă cản trở bước tiến của ta . Đĩ cũng là sân, nhưng được đè nén . Đơi khi ta khơng dám chấp nhận sự thật với chính ḿnh, điều đĩ càng làm ta khĩ sửa đổi, trừ khi ta biết chấp nhận sự thật . Đè nén cĩ thể đem đến cho chúng ta những nội kết, khiến ta khơng thể phán xét sự việc bằng cơng tâm . Mọi thứ đều được nh́n dưới con mắt của sự đè nén, của lịng sân hận .

Đức Phật khuyên ta cĩ các hành động từ ái, thiền quán về lịng từ bi để chữa trị căn bệnh này . Tập quán tưởng như thế cũng tốt, nhưng tựu trung lại nĩ cũng chỉ là lời nĩi, và phần đơng chúng ta đều cĩ nghe qua những lời nĩi này nhiều lần .Cĩ người nhiếp tâm những lời này, nhiều người khơng . Đĩ là sự nguy hiểm của lời nĩi . Sự nguy hiểm của ngoại giới . Chúng ta thường mắc phải lỗi lầm là v́ chúng ta đă nĩi những lời ấy, nhiếp tâm chúng, đă tŕ tụng chúng, đă nghe chúng được tŕ tụng, ta tưởng là ḿnh đă thực sự hành chúng . Tất cả chỉ là do ta đă sửa soạn tự trong lịng những t́nh cảm dào dạt t́nh thương để thể hiện ra ngồi . T́nh cảm đĩ là lịng từ ái nhưng chúng khơng giúp ta sửa đổi được ǵ .

Những lời nĩi chỉ là các dấu mốc, một bảng chỉ đường . Chúng chỉ cho ta một phương hướng phải đi tới . Lời dạy của Đức Phật cũng chỉ vạch cho ta con đường đúng phải đi . Chúng khơng giúp ích ǵ cho ta, nếu như ta khơng tự thay đổi tâm, trí . Và ta biết rằng ta cĩ thể thay đổi tâm trí của ḿnh . Hằng ngày ta vẫn chẳng thường nĩi "Tơi đă đổi ư… đĩ sao ? Sao khơng thêm một lần đổi ư ?

Hành động từ ái là việc ta cĩ thể làm với chủ tâm, nhưng chúng cũng chỉ là phương tiện giúp ta thay đổi tâm trí . Khơng phải là cứu cánh . Chúng chỉ là phương tiện . Quán tưởng về lịng từ cũng như hành thiện, cả hai chỉ là các phương tiện, cơng cụ . Chúng khơng phải là mục đích . Mục đích cuối cùng là sự thay đổi từ bên trong tâm trí chúng ta .

Hành động từ ái –mà ta biết chỉ là phương tiện – là chăm sĩc người đau yếu, thăm hỏi sức khỏe, viếng thăm họ ở bệnh viện, mang cho họ thực phẩm khi họ khơng cĩ khả năng tự lo, quan tâm về người khác, giúp đỡ người khác . Càng giúp được ai càng nhiều càng tốt, dĩ nhiên là ta cĩ thể bắt đầu từ chính trong gia đ́nh ḿnh . Nhưng đĩ chỉ là bước đầu . V́ giúp cho gia đ́nh ḿnh th́ cũng giống như giúp cho cái Tơi của ta được nhân rộng ra . Cĩ rất nhiều cách để giúp đỡ người khác . Khơng nên thu hẹp hành động từ ái cho chỉ một nhĩm người nào, hành động này phải cần được trải rộng ra khắp nơi, tới khắp mọi người .

Đây là những vị thuốc Đức Phật cho ta để chữa trị bịnh sân hận, bên cạnh các phương thức khác như kết bạn với thiện tri thức, nĩi điều tốt lành, để giúp cho tâm hồn ta được trong sạch hơn .

TRẠO CỮƠ VÀ HƠN TRẦM

Tơi đă nĩi các bạn về hai kẻ thù của chúng ta, bất hạnh, thay ta cịn ba kẻ thù khác nữa . Hai kẻ thù đầu : tham và sân, là chướng ngại lớn nhất của con người . Nĩi vậy khơng cĩ nghĩa là ta khơng cĩ cái đối trị . Đĩ là sự rộng lượng và lịng từ bi . Vấn đề là ta phải biết gieo trồng cái tốt và trừ bỏ cái xấu .

Nĩi th́ dễ nhưng hành khĩ lắm thay . Nhưng nếu ta khơng cố thực hành chúng th́ ta đă khơng đi theo con đường Phật dạy . Đĩ là những cơng việc ta phải làm khơng ngừng nghỉ . Những cơng việc này khơng liên quan ǵ đến việc ngồi thiền . Chúng địi hỏi tất cả thời gian của ta . Giả thử ta ngủ nghỉ khoảng 5,6 hay 7 tiếng một ngày, ta cịn lại 17 tiếng . Nếu ta nghĩ rằng khi ngồi thiền một, hai tiếng sáng chiều là đă thực hành được những điều này, nghĩ như thế ta chẳng đi tới đâu cả . Nếu ta chỉ nhớ lời Đức Phật dạy trong vài tiếng mỗi ngày, cịn lại khơng nhớ tới – điều này nghe cĩ vẻ lạ, nhưng vẫn thường xảy ra – th́ ta khĩ thể t́m được sự Giải thốt .

Kẻ thù thứ ba của ta là trạo cữ, hơn trầm hay thụy miên, uể oải, và mê ngủ, hai kẻ thù của ta lúc tọa thiền cĩ phải khơng ? Chúng ta chắc ai cũng kinh nghiệm qua . Đĩ là lúc tâm khơng ngủ, nhưng cũng khơng thức . Trạng thái dật dờ khĩ thể làm nên chuyện ǵ . Chỉ khác với cái ngủ là ta cĩ thể dễ dàng ra khỏi đĩ hơn . Nhưng dầu khơng mê man như khi ngủ, nĩ vẫn đáo đi, đáo lại .

Tâm trạng này ở ngồi đời được coi là khơng cĩ phương hướng, từ đĩ dẫn đến thiếu nghị lực . Nĩ là một trạng thái thơng thường đến nỗi, khi một người nào đĩ cĩ nghị lực, ta sẽ nhận ra ngay . Và Nghị lực là một trong bảy yếu tố dẫn đến sự Giác Ngộ . Thật là một điều khơng thể thiếu trong việc rèn luyện tâm .

Nghị lực nẩy sinh khi ta cĩ một phương hướng nhất định . Ta biết rơ con đường phải đi và miệt mài đi tới . Nhưng khi ta khơng cĩ mục đích ǵ rơ ràng hơn là giữ cho thân thể tứ đại này sống, th́ khơng cĩ nghị lực ǵ cĩ thể phát sinh . Sống như thế khơng cĩ ǵ hứng thú cả . Khơng ai cĩ thể sống được như thế ! Dồn tất cả sức lực, tâm trí vào chỉ để sống khơng phải là một việc làm hiệu quả, ta sẽ khơng thể cĩ nghị lực để sống như thế . Trái lại, ta cịn cảm thấy bị đè nén tŕ kéo xuống .

Đức Phật đă so sánh hơn trầm và thụy miên giống như một nhà tù . Khi ta bị giam trong một căn phịng nhỏ, trong tù ta khĩ cĩ thể làm được ǵ cho đến khi được tự do . Khi tâm trí ta bị sự uể oải, ngầy ngật (uể oải ở thân thể, và ngầy ngật trong tâm) giam hăm, tù túng đến nỗi ta chỉ cĩ đủ nghị lực để kéo lê một kiếp sống .

Phần đơng chúng ta khơng biết hay khơng nghĩ hành thiền là một việc làm cần thiết cho ta, nên tâm ta dễ dàng đầu hàng các trở ngại . Ta phải nắm thật rơ về sự lợi ích của việc tọa thiền . Ta khơng chỉ cần ăn ngủ, tắm rửa, giặt giũ, là những chuyện b́nh thường trong cuộc sống, khơng cần nhiều đến năng lực . Chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng . Nhưng hành thiền địi hỏi ta phải cĩ nghị lực, và nghị lực chỉ cĩ thể phát sinh khi tâm biết được tầm quan trọng của thiền, nếu tâm ta biết rơ điều đĩ th́ ta biết là ta phải làm ǵ .

Khi mê đọc một quyển sách, ta cĩ thể thức đến nửa đêm để đọc, mà khơng thấy mệt, ta chỉ ngồi đĩ miệt mài đọc . Hay khi dự đám tiệc, ta cĩ thể nĩi suốt buổi mà khơng mệt v́ ta vui thích .

Tu tập thiền cũng phải làm ta say mê . Khi đĩ khơng cịn lư do ǵ mà tâm khơng phấn khởi . Lúc đầu, tập thiền thật khơng thú vị chút nào . Nĩ cĩ vẻ phiền phức quá . Khĩ quá . Đau quá . Nhưng khi tâm đă hiểu ra được tầm quan trọng của việc ta làm, biết từng giây phút tâm khởi niệm, ta sẽ thấy hứng thú để t́m hiểu chính tâm ta . Cịn ǵ hấp dẫn hơn thế chứ ? Đọc một quyển sách hay trị chuyện với người khác, ta chỉ biết về người khác . Nhưng nếu ta cĩ thể theo dơi tâm từng giây phút, lúc nĩ dấy niệm, lúc nĩ tĩnh lặng, rồi lại dấy niệm, lại tĩnh lặng, th́ đĩ là một việc hấp dẫn và lợi ích nhất mà ta cĩ thể làm cho chính ḿnh .

Một lần Mahà Moggallàna đến sám hối với Phật rằng ơng đă ngủ gục trong khi tọa thiền . Đức Phật đă khuyên răn ơng điều ǵ ? Phật dạy rằng khi cảm thấy bù ngủ, hăy mở mắt ra, nh́n ngọn đèn, chà xát mặt, kéo tai, cử động thân ḿnh để cho máu chạy đều, và nếu cần đứng dậy đi . Ǵ cũng được miễn là đừng cĩ nằm xuống ngủ .

Đĩ là cách thức bên ngồi để chữa trị bịnh bù ngủ, nhưng ta cũng cĩ những cách thức khác để dẫn tâm đi theo đúng hướng đă vạch như là quán tưởng về cuộc đời th́ vơ thường, sự chết th́ bất ngờ . Đây là cơ hội tốt nhất để ta tham thiền . Ta cĩ bạn đồng tu, cĩ thầy dẫn dắt . Cĩ đủ ăn, cĩ nơi ở, thân khơng bịnh hoạn . Tất cả các thứ này khơng phải ai cũng cĩ được . Chúng là kết quả của căn lành của ta . Đĩ là phương cách giúp tâm ta tăng thêm nghị lực .

Hăy nhớ là khơng cịn lúc nào khác hơn là lúc này . Tương lai dường như chắc chắn trước mặt nhưng đĩ chỉ là ảo tưởng . Ta cĩ thể chết bất cứ lúc nào . Khi ta chết – điều khơng ai tránh khỏi – và tái sinh – ai cũng thế trừ khi ta là các vị A la hán- để bắt đầu trở lại tất cả . Ta phải học đi, học nĩi, ăn, mặc… Phải đi học trở lại, kết hơn, cĩ con, gả con . Đĩ là tất cả những ǵ ta vẫn làm đi làm lại từ kiếp này qua kiếp khác. V́ thế, hăy dùng thời gian cịn lại cho những ǵ quan trọng nhất . Ta đă trải qua tất cả những thứ đĩ . Đă học đi , học nĩi, ăn mặc . Đă qua bao nhiêu trường học . Cĩ con cái. Đă chứng kiến con ḿnh thành lập gia đ́nh . V́ thế ngay bây giờ là thời điểm để đổi thay . Khơng cĩ lúc nào tốt hơn lúc này .

Nếu ta dùng phương cách này để tăng thêm nghị lực cho tâm thiền định, th́ nghị lực sẽ tự phát sinh , giống như khi ta bật cơng tắc điện lên, bĩng đèn phát sáng, và một khi cịn cĩ dịng điện th́ ngọn đèn cịn sáng .

Tu tập thiền cần rất nhiều năng lực . Thật là lạ khi ta ngồi (tọa thiền) hay đi chậm răi (thiền hành) mà ta vẫn cịn nhiều năng lực . Lư do tại sao ta cần nhiều năng lực v́ tâm ta khơng ngừng làm việc . Nếu tâm khơng luơn phát khởi các vọng tưởng, hy vọng, ước nguyện, th́ tâm đă khơng mệt nhọc chút nào . Khơng phải do các hoạt động của thân thể hàng ngày, mà tất cả chúng ta ai cũng mệt lử sau một ngày . Nhưng là v́ tâm luơn hoạt động lăng xăng, luơn phán đốn . Tơi thích cái này, tơi khơng thích cái kia . Tơi phải cĩ thứ này, tơi sẽ vất thứ kia – chính những thứ đĩ làm mệt mỏi tâm trí ta . V́ thế người làm việc bằng đầu ĩc cũng mệt như hay hơn cả người trồng cây hay làm đường .

Khi ta cĩ thể chú tâm, giữ tâm lắng đọng th́ tâm được nghỉ ngơi . Nhưng trước khi ta cĩ thể làm được như thế, ta vẫn phải dùng tâm để tự nhủ ta khơng được bỏ cuộc. Chịu thua trước cái địi hỏi bản năng là thĩi thường t́nh của nhân thế . bản năng ta là muốn được thoải mái, dễ chịu . Trong khi Đức Phật nĩi rằng :" Thắng một vạn quân, khơng bằng thắng lịng ḿnh" . Thắng lịng ḿnh cĩ nghĩa là khơng chịu thua trước các địi hỏi của bản năng, khơng để tâm nghe theo những điều đĩ .

Muốn được ngồi yên tọa thiền phải cĩ một lư do chính đáng nào đĩ để tâm cĩ đủ nghị lực làm điều đĩ . V́ ước muốn được chứng ngộ, khơng phải là một lư do chính đáng . Lư do đĩ khơng đủ mạnh để giúp ta tu tập thiền, nhưng phần đơng chúng ta đều tu thiền với mục đích đĩ . Do đĩ ta sẽ dễ bị thất vọng, v́ được chứng ngộ khơng phải là điều dễ dàng đạt được . Lúc đĩ nghị lực để giúp ta thiền định sẽ biến mất v́ ta khơng đạt được điều ta muốn, lúc đĩ việc thiền quán cũng là một thứ phiền năo như bao thứ phiền năo khác .

Thiền chỉ cĩ một mục đích duy nhất là sửa soạn cho tâm thốt khỏi những đau khổ, chuẩn bị cho tâm được giải thốt . Đĩ là cứu cánh của phương tiện này, chứ khơng phải là để được chứng ngộ . Việc đĩ cũng sẽ xảy ra, tại sao khơng ? Hăy cảm ơn rằng việc đĩ cĩ thể xảy ra , và coi đĩ như một động lực giúp ta tiếp tục cơng việc của ḿnh . Nhưng khi nĩ khơng xảy ra th́ cũng chẳng làm sao . điểm chính là tâm ta phải tu tập thiền để được giải thốt .

Đức Phật đă so sánh trạo cữ và hơn trầm giống như ao hồ mà bùn đă nổi lên mặt . Mặt hồ đấy bùn th́ ta khơng thể soi mặt vào, chỉ cĩ bĩng đen . Trong trạng thái tranh sáng tranh tối giữa ngủ thức ta khơng thể cĩ sự tỉnh thức . Ngay trong đời thường, khi tâm ta bắt đầu nĩi "Tơi chán ngấy .Khĩ khăn quá . Tơi khơng thể tiếp tục. Tơi khơng muốn làm nữa . Tại sao tơi phải làm chứ ? Đâu cĩ ai làm giống như tơi đâu", đĩ là tâm đầy bùn, khơng cĩ sự sáng suốt, khơng cĩ một phương hướng rơ ràng cho chính ḿnh .

Một phương hướng rơ ràng đem lại cho ta nghị lực cần thiết . Khi ta biết đường ta đi, nơi ta đến . ta cĩ thể hăng hái sánh bước . Khi ta khơng cĩ đích đến, ta khơng cĩ niềm say mê, hứng thú với điều ǵ . Thật khĩ t́m được một hướng đi đúng trong cuộc đời này, nhưng Đức Phật đă chỉ cho ta con đường mà Ngài đă chứng nghiệm, để đi đến sự tự do, đoạn tiệt khổ đau, giải thốt, Niết bàn .

TRẠO CỮ

Kẻ thù kế tiếp là trạo cữ, lăng xăng lo lắng hay lo ra . ai cũng bị đau khổ v́ kẻ thù này, nên nĩ rất quen thuộc với chúng ta . Thực ra, cả năm chướng ngại đều rất quen thuộc với chúng ta . Ai cũng mắc chúng ở những mức độ khác nhau . V́ thế ta cần phải suy gẫm xem chướng ngại nào là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với ta . Tất cả đều nằm trong ta chờ cơ hội để lộ diện . Nhưng cĩ một hay hai chướng ngại chỉ cần ta khẽ động tịnh là nhảy ra ngay , làm chủ ta . Đĩ là những chướng ngại ta cần đối đầu tu sửa .

Tâm lăng xăng khiến thân cũng chẳng yên . Thân là tên đầy tớ ngoan ngỗn của tâm . Thân chỉ là một xác chết khi khơng cĩ tâm . Bất cứ thân làm điều ǵ cũng là do tâm điều khiển, dầu ta cĩ ư thức về điều đĩ hay khơng . Thơng thường các phản ứng của ta xảy ra tức th́, theo bản năng nên ta khơng biết rằng tâm đă ra lệnh : "Làm cái này, làm cái kia", ta nghĩ là thân ta hành, nhưng khơng thể cĩ thân hành, nếu khơng cĩ tâm khiển .

Tâm sinh ra lăng xăng phần lớn là do những kinh nghiệm xảy ra trong quá khứ, những chuyện ta đă làm, hay đă khơng làm, tất cả những thứ ta ước muốn thực hiện trong đời, nhưng đă khơng thực hiện . tâm lăng xăng khĩ tập trung v́ niệm cứ dấy khởi liên tiếp .

Đức Phật đă so sánh nĩ với một mặt hồ đầy sĩng giĩ . Khi t́nh cảm ta đầy sĩng giĩ, ta sẽ chết đắm v́ nĩ . Ta khơng cịn thấy sự việc rơ ràng nữa .

Lo lắng thường v́ tương lai, và nhiều người trong chúng ta rất hay lo lắng, mà quên ngừng lại để suy nghĩ sự lo lắng đĩ thật vơ ích và kỳ quặc . Lo lắng về tương lai là điều vơ ích . V́ cĩ lo lắng về tương lai, ta cũng chẳng thể sống cho tương lai đĩ . V́ cuộc đời là vơ thường luơn cĩ sự thay đổi, khơng những ta sẽ già hơn, khơn ngoan hơn - hy vọng là thế – mà hồn cảnh cũng đổi khác, t́nh cảm, suy nghĩ của ta cũng khác . Th́ lo lắng về tương lai thật vơ ích .

Nếu bạn cĩ những tấm h́nh khi bạn ở lứa tuổi 4,8,hay 12,15, hăy lấy chúng ra và soi gương , so sánh gương mặt nào là của bạn . Bạn là chú, cơ bé 4 tuổi, 8 tuổi, 15 tuổi hay là người đang nh́n vào kiếng bây giờ, hay tất cả cũng là bạn ? Nếu tất cả là bạn, th́ bạn đă là hàng ngàn con người khác nhau . Và đĩ chính là chúng ta, luơn biến đổi . Th́ cơ, chú bé 15 , 20 tuổi đi lo về chuyện ǵ sẽ xảy ra cho một người già 60, cĩ phải là vơ ích khơng ? Ta sẽ khơng thể nhớ cơ, chú bé đĩ đă suy nghĩ, lo lắng điều ǵ . Cũng thế đối với sự lo lắng cho ngày mai . Dầu cho ta cố nhớ được ḿnh đă lo lắng điều ǵ , cũng chẳng ích chi . Một con người hồn tồn khác ngày hơm nay sẽ sống ở ngày mai .

Điều đĩ khơng cĩ nghĩa là ta khơng thể dự định điều ǵ . Dự tính và lo lắng là hai việc khác nhau . Dự tính sẽ trở thành lo lắng khi ta tự hỏi khơng biết những dự tính của ta cĩ thành sự thật khơng . Khơng cĩ ǵ sai với sự dự tính, nhưng sau nĩ hăy quên nĩ đi cho đến ngày ta cĩ thể thực hiện được mà khơng cần phải lo lắng với những chuyện ǵ sẽ xảy ra ở tương lai .

Lo lắng làm ta đau khổ, tâm ta bấn loạn . Nĩ tách ta ra khỏi thế giới thực tại, ngay giây phút này, là khoảnh khắc duy nhất ta thực sự sống trong đĩ . Những giờ phút ta đă đắm ch́m trong lo lắng, là những giờ phút bị đánh mất đi . Nếu ta khơng sống cho từng giây phút hiện tại, cĩ nghĩa là ta đánh mất cuộc sống . Khi ta hối tiếc dĩ văng, lo lắng cho tương lai, ta khơng thực sự sống . Ta chỉ hồi niệm và phỏng đốn . Đĩ khơng phải là cuộc sống . Cuộc sống khơng phải để suy tưởng về nĩ, mà để ta sống trong đĩ . Chỉ cĩ như thế th́ cuộc đời mới cĩ ư nghĩa, và kinh nghiệm sống mới cĩ thể xảy ra từng giây phút . Đĩ là một trong những nghệ thuật, thiền cĩ thể truyền cho chúng ta, sống trong giờ phút hiện tại mới thật là sống .

Tâm ta sẽ chẳng bao giờ được an b́nh, hạnh phúc hay tĩnh lặng nếu ta khơng sống trong giờ phút hiện tại . Tâm sẽ đắm ch́m trong đấu tranh tư tưởng để làm những việc ta nghĩ đáng lư ra ta phải làm, để đến những nơi ta nghĩ là ta phải cĩ mặt, để bảo vệ những tài sản ta cho là quư giá . Một cuộc chiến đấu gay go, đau khổ khơng ngừng nghỉ . Hạnh phúc, an lạc h́nh như khơng thuộc số phận chúng ta . nhưng ta cĩ thể đạt được những thứ đĩ nếu ta cố gắng , nếu ta biết nhận diện kẻ thù và đuổi chúng ra khỏi nhà tâm của ta .

Căn nhà nội tâm của ta là nơi cĩ bao vị khách khơng mời mà đến . V́ lịng hiếu khách ta để họ vào . Để rồi ta khám phá ra họ làm hư bàn ghế, đánh cắp đồ quư, phá hỏng cửa nẻo . Nhưng thay v́ đĩng cửa và khơng để họ vào lần nữa, hơm sau ta lại để họ vào . Đĩ là nội tâm của ta, bị xâm chiếm bởi bao kẻ thù . họ tạo ra bao rối loạn trong tâm ta, khơng để ta cĩ được an lạc, hồ b́nh mà ta khơng biết tại sao . Ta luơn đi t́m những lư do ở bên ngồi để tự biện hộ . Mỗi người cĩ những lư do khác nhau nhưng đều giống nhau ở một chỗ . Chúng khơng thật , tất cả đều do ta tưởng tượng ra . Lư do chính là v́ ngơi nhà tâm của ta khơng được yên ổn . Bên trong khơng an ổn th́ căn nhà bên ngồi làm sao yên . Ta phản chiếu ra bên ngồi, những ǵ chứa đựng bên trong chúng ta .

Lăng xăng lo lắng khơng những vơ ích mà cịn là dại khờ . Đức phật bảo chúng ta hành động u mê v́ khơng nh́n thấy sự thật . Nhưng ta cĩ thể thay đổi điều đĩ cĩ phải khơng ? Lăng xăng và lo lắng được gọi chung là lơ đăng . Chúng ta lơ đăng trong cơng việc ḿnh làm, như là thiền quán . Nhưng điều đĩ cũng khơng chỉ thu hẹp trong việc thực tập thiền, nĩ cịn ảnh hưởng đến đời sống thường ngày của ta . Ta quên ch́a khố, khơng biết để nĩ nơi nào . Ta khơng nhớ ḿnh đang làm ǵ, v́ ta xao lăng, lo lắng vấn đề ǵ đĩ . Ta khĩ hồn thành cơng việc của ḿnh tốt đẹp, an tồn khi tâm ta đang ở một nơi nào khác .

Đức Phật chỉ cho ta năm cách để đối trị những tư tưởng xao lăng, lo ra, bằng các câu chuyện ẩn dụ . Như một người thợ mộc đĩng hai khúc gỗ vào nhau và thấy là chúng khơng vừa nhau . Ơng lấy ra và thay khúc gỗ khác vừa hơn . Đĩ là nhờ cĩ thay đổi . Nếu tâm ta cứ lo lắng về tương lai, tiếc nuối quá khứ th́ cũng cĩ sự khơng ăn khớp . Khơng cĩ hạnh phúc khơng cĩ an b́nh trong đĩ . Vậy th́ hăy thay đổi ! Hăy thay bằng cái vừa vặn, ăn khớp hơn . Khi tu thiền hăy để tâm thiền lắng sâu vào ta . Trong đời sống hàng ngày hăy để cho tâm được trọn vẹn hữu ích . hăy thay đổi !

Aån dụ thứ hai là về một người thanh niên và một cơ thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ để đi ra ngồi . Khi ra tới đường , họ mới nhận ra cĩ ở cổ mỗi người toịng teng xác một con thú chết . Quá xấu hổ, họ vội vă chạy về để gội rửa . Ta cũng nên xấu hổ khi tâm ta khơng trong sạch . Xấu hổ khi tâm ta đầy tiêu cực . Đức Phật nĩi sự xấu hổ và sợ hăi là những chiến sĩ bảo vệ cho thế giới . Khơng cĩ chúng, thế giới sẽ càng tồi tệ hơn . hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ cĩ bụi bặm, vết nhơ trên quần áo, hay thân thể mới cĩ thể thấy được, nhưng đĩ chỉ là ảo tưởng . Những vết nhơ trong tâm ta cũng cĩ thể nh́n thấy được, khơng phải bằng con mắt thường mà bằng mắt tâm . Ta biết khi nh́n một người giận hờn dù khơng nĩi lời nào . Ta biết khi một người ngă mạn . Hành động của họ, lời nĩi của họ đă mách với chúng ta điều ấy . V́ hành động cũng như lời nĩi đều xuất phát từ trong tâm chúng ta . Nhất là hành động, ta thường khơng để ư đến lời người khác nĩi, trong khi hành động của họ mới chính là phản ảnh của nội tâm họ, tốt hay xấu . Hăy nhớ là những vết bẩn trong tâm ta cũng giống như xác thú chết ta đeo trên cổ . Nhưng ta cĩ thể gỡ bỏ nĩ ra, và chỉ đi ra ngồi khi ta đă sạch sẽ, đẹp đẽ trở lại .

Một ẩn dụ khác của Đức Phật để ví những tư tưởng xao lăng, lo ra giống như gặp người quen ở bên kia đường . Khơng nên băng qua đường để chào hỏi, bắt chuyện, mà cứ giữ con đường ḿnh đang đi . Khơng nên để ư ! Điều đĩ hơi khĩ . V́ khi ta khơng để ư đến chúng th́ ta cũng đă bắt đầu cĩ sự thay đổi . Làm được như thế địi hỏi phải cĩ một tâm cứng rắn . hai trường hợp đầu dễ xử hơn . Người ta cĩ thể dễ xấu hổ v́ ai cũng cĩ lương tâm . nhưng bỏ qua coi thường các tư tưởng đi qua đầu khơng phải là điều dễ, nĩ địi hỏi nhiều nghị lực hơn .

Aån dụ tiếp theo kể về một người đàn ơng đang chạy trên đường, bổn phận thấy ḿnh khơng được thoải mái, và nghĩ :"Tại sao ta phải chạy? Ta cĩ thể đi mà". Nên anh ta bắt đầu đi, vẫn thấy khĩ chịu anh đứng lại . Rồi cũng khơng mấy tốt hơn, anh quyết định ngồi xuống, cuối cùng anh quyết định nằm xuống, và thấy thật là thoải mái .

Hăy nhận biết những khĩ chịu trong tâm, trong cả con người ta, khi những ư nghĩ vơ ích, lo lắng, lăng xăng, xao lăng dấy khởi trong ta . Chúng khơng mang lại cho ta niềm vui, sự thoải mái nào, trái lại th́ cĩ . chúng làm ta lo lắng bực dọc . Hăy nhận ra sự phiền năo này và biết rằng khơng ai ngồi ta trên thế gian này cĩ thể đem lại sự thoải mái cho chính ta . Đức Phật khơng làm được, giáo lư giải thốt của Ngài khơng làm được , cha mẹ ta, các thầy ta, bạn bè ta, tất cả đều khơng thể làm thay cho ta được . Chính chúng ta phải tự làm cho tâm ḿnh được thoải mái, vui vẻ .

Đĩ là bốn phương cách ta cĩ thể sử dụng, nếu một cách khơng thành cơng, ta dùng cách kia, cách kia nữa . Nếu tất cả cách đều thất bại th́ ta phải dùng đến biện pháp đè nén . Đức Phật dùng ẩn dụ về một người mạnh mẽ, to lớn, nắm cổ một người yếu hơn, d́m xuống nước . Cũng thế ta dùng sức mạnh của ḿnh để đẩy các ư nghĩ vơ bổ ra khỏi tâm ḿnh, và buộc tâm khơng nghĩ về chúng . Đĩ là biện pháp tối hậu, nhưng ta cĩ thể thấy rằng thà là đè nén những ư nghĩ xấu, tiêu cực hơn là tiếp tục nghĩ về chúng . Dần dần ta sẽ học được cách thay thế chúng bằng những ư nghĩ cao đẹp hơn . Khi đè nén những tư tưởng thấp hèn, cĩ nghĩa là ta khơng cho phép chúng tạo nếp, tạo rănh trong tâm ta . Ta khơng thể để cho tâm ta cĩ thĩi quen chứa đựng những tư tưởng này . Tâm mà cứ luơn nghĩ lăng xăng, lo lắng một cách tiêu cực, một cách giận dữ, ích kỷ th́ khĩ mà bỏ được thĩi quen này . Trong trường hợp đĩ, sự đè nén là giải pháp tốt nhất .

Để đối trị các tư tưởng lăng xăng, lo lắng, Đức Phật dạy ta hăy học Pháp, học kinh nhiều hơn . Khi ta thấu hiểu được lời dạy của Ngài, ta cĩ thể hướng tâm ḿnh đến đĩ . Nhớ được lời Phật dạy, thuộc kinh điển Phật, khi ấy h́nh như ta dễ t́m ra những lời giải đáp rơ ràng, dứt khốt cho các vấn đề của ta hơn . Các câu trả lời của Phật đều dẫn ta đến chỗ giải thốt . Dẫn ta ra khỏi ngă mạn, nhưng khơng phải dễ dàng để theo . Đĩ là lư do tại sao ít người làm theo lời Ngài, ai cũng muốn được thoải mái, cũng dễ dăi với chính ḿnh .

Cách đối trị khác nữa là làm bạn với người khơn ngoan, đứng đắn, bên cạnh những người bạn đạo . Cĩ nghĩa là ta phải cẩn thận trong việc chọn bạn mà giao tiếp . Điều đĩ khơng cĩ nghĩa là ta phải bỏ hết những người bạn cũ của ḿnh, nhưng ta phải t́m những người ta cĩ thể trao đổi với họ những câu chuyện tinh tế, phâùn chấn ta . Ta chọn bạn như thế nào cũng nĩi lên được con người ta thế ấy .

NGHI HOẶC

Kẻ thù cuối cùng của ta là lịng nghi hoặc . Đức Phật đă ví nĩ giống như một cuộc hành tŕnh đến sa mạc mà khơng mang theo vật dụng, khơng cĩ bản đồ, do đĩ ta cứ đi luẩn quẩn để rồi bị cướp, bị đĩi khát .

Ngài cũng ví lịng nghi hoặc như một mặt hồ phủ đầy cỏ cây . Làm sao ta cĩ thể nh́n thấy đáy nước với một mặt hồ như thế .

Lịng nghi hoặc thường cĩ mặt như khi ta nghi ngờ về sự Giác ngộ của Đức Phật , về sự thật của Pháp, về sự diễn giảng Pháp của Tăng đồn .Nhưng ảnh hưởng nặng nề hơn cả cho sự tiến bộ của bản thân là nghi ngờ về chính khả năng của ḿnh, về trực giác tâm linh của ḿnh .

Lịng tự tin sẽ phát sinh khi ta cĩ thể làm được những điều mà ta đă vạch định . Trong thiền, điều đĩ cĩ nghĩa là ta cĩ thể ngồi cho đến khi tâm ta ch́m sâu trong tĩnh lặng . Như thế ta sẽ cĩ thêm lịng tự tin trong lần tọa thiền sau, v́ ta biết là ta cĩ thể làm được điều ta muốn làm với tâm . Ta biết là phần nào ta đă làm chủ được tâm .

Lịng tự tin cĩ nhiều khía cạnh . Đĩ khơng phải là sự càn bướng, mà là một cảm giác tin tưởng rằng ḿnh cĩ thể hồn tồn dựa vào chính ḿnh . Sự nương tựa đĩ chỉ cĩ thể xảy ra khi ta cĩ thể làm chủ được t́nh cảm ḿnh . Khơng thể cĩ lịng tự tin, khi ta cịn lệ thuộc vào t́nh cảm của ḿnh . Khi ta cịn bực tức, giận dữ, lo âu, sợ sệt, thèm muốn, ghen ghét, tham lam, khi tất cả những thứ t́nh cảm này cịn làm chủ ta, th́ khĩ thể t́m được sự an b́nh . Và khi khơng an b́nh, ta đâm ra thiếu tự tin . Chỉ khi nào mọi thứ t́nh cảm sân si trong ta đă được điều phục, ta mới cĩ được nội tâm cứng rắn, mới chắc rằng dù bất cứ chuyện ǵ xảy ra ta sẽ phản ứng nhẹ nhàng, tự chủ, lúc đĩ ta mới thực sự cĩ lịng tự tin .

Đĩ là một khía cạnh quan trọng của lịng nghi hoặc v́ chỉ khi ta cĩ lịng tự tin về chính bản thân, lúc đĩ ta mới cĩ đủ lịng tự tin để đi theo con đường đạo cho đến tận cùng . Tĩm lại nhờ vào lịng tự tin, ta mới cĩ thể nĩi :"tơi cĩ thể làm được, tơi sẽ theo đuổi việc đĩ tới cùng ".

Lịng nghi hoặc thường dấy khởi trong những người khơng cĩ lịng từ . Nếu khơng cĩ từ tâm, ta khơng thể phụng sự một lư tưởng nào, dốc lịng tin theo mợt con đường đạo nào . Khơng cĩ từ tâm, ta khĩ thể dâng hiến cả đời ḿnh cho một lư tưởng nào đĩ . Nếu ta khơng thể dâng hiến đời ḿnh cho con đường ta đă chọn th́ cũng giống như ta đă thành hơn, nhưng nghĩ ḿnh sẽ gặp được một người tốt hơn người bạn đời của ḿnh . Khơng thể cĩ một hơn nhân tốt đẹp được khi ta cĩ những ư nghĩ như thế.

Con đường tâm linh cịn địi hỏi một sự dốc tâm hơn thế nữa . V́ chỉ cĩ ta, khơng cĩ người thứ hai nào bên cạnh gĩp sức vào để vun bồi cho sự hồ hợp này . Ta phải hiểu con đường từ trong trái tim ḿnh . Như thế sẽ khơng cĩ nỗi nghi hoặc nào cĩ thể xen vào . Ta sẽ khơng cần tự hỏi :"khơng biết Đức Phật cĩ Giác Ngộ khơng ?". Đĩ là một câu hỏi thừa thăi . Khi chúng ta đi theo con đường của Ngài, th́ tự ta sẽ khám phá ra thơi .

Muốn trọn vẹn đi theo con đường của Đức Phật là một việc làm trọn cả cuộc đời . Điều đĩ khơng cĩ nghĩa là ta khơng thể cĩ cuộc sống riêng, hay làm những chuyện khác, nhưng nĩ cĩ nghĩa là tất cả phải làm được trong tinh thần của Pháp . Lúc đĩ bất cứ ta làm ǵ cũng là cơ hội để ta học hỏi thêm .

Đức Phật chỉ cách đối trị cho lịng nghi hoặc cũng giống như trạo cữ, lo lắng; đĩ là học hỏi thêm Phật Pháp, giao tiếp với bạn hiền, bạn đạo .

Đức Phật nĩi người đă bỏ hết được năm điều chướng ngại kể trên là người đă hồn tất cuộc đời ḿnh, khơng cịn ǵ để làm nữa . Năm chướng ngại này là tờ hộ chiếu đưa ta đến cơi tái sinh . Chúng là thơng hành vĩnh cửu của ta . Ta phải làm một điều ǵ đĩ, nếu ta muốn thốt ra khỏi vịng sanh tử này . Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ cũng làm cuộc đời ta dễ chịu hơn . Và đĩ chẳng phải là điều mà tất cả chúng đều đang kiếm t́m sao ? Sự thoải mái, hạnh phúc . Nhưng khơng phải là thứ lạc thọ ta cĩ t́m thấy qua việc thoả măn vật chất . hạnh phúc mà ta kiếm t́m chỉ cĩ thể cĩ được qua tâm an lạc và năm kẻ thù này là nguồn gốc của tâm khơng an lạc .



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 8 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:47pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

NGHIỆP & LUÂN HỒI.





"Tôi làm chủ nghiệp của ḿnh. Tôi kế thừa nghiệp. Sinh ra tôi đă mang nghiệp. Tôi và nghiệp tương quan lẫn nhau. Tôi sống theo sự dẫn dắt của nghiệp. Tôi tạo ra nghiệp ǵ, xấu hay tốt, tôi sẽ là người thọ lănh sau này". Đức Phật dạy rằng ta phải tự nhắc nhở ḿnh như thế mỗi ngày. Những điều này quan trọng thế nào mà ta phải tâm niệm mỗi ngày như thế ?.

Karma có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật, nó đă được dùng với nghĩa như thế. ‘Karma Yoga’ có nghĩa là Yoga của hành động. Nhưng Đức Phật nói: "Karma, hỡi các vị tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm". Karma không chỉ bất cứ hành động nào, nhưng chỉ vào sự chủ tâm ở sau mỗi hành động. Không chỉ sự chủ tâm khi hành động mà cả trong lúc nghĩ suy, nói năng. Mộät cách lư thuyết, nếu ta dùng từ Karma để chỉ hành động, và kết quả của hành động, là không đúng, nhưng v́ đă được sử dụng quá lâu theo nghĩa đó, người ta khó có thể hiểu Karma một cách khác hơn.

Hành động ta làm với sự chủ tâm th́ rất khác với hành động vô tâm. Nếu ta vô ư dẫm chết một con kiến, th́ đó không phải là nghiệp sát sanh, dầu ta có thiếu chánh niệm. V́ không có sự cố ư, chủ tâm sau hành động đó. Nhưng nếu có một ổ kiến trong vườn, và ta muốn dẹp sạch nó bằng cách xịt thuốc lên ổ kiến, cố ư giết chúng càng nhiều càng tốt, th́ đó là ta đă tạo nghiệp sát sanh v́ đă có sự chủ tâm đằng sau hành động đó.

Bất cứ điều ǵ ta làm với chủ tâm đều mang lại hậu quả, do ta đă có sự suy nghĩ về chúng trước khi hành động. V́ thế ta nên cảnh giác với mọi tư tưởng của ḿnh. Đó là điều ta có thể luyện tập khi tham thiền. Phải biết rơ quá tŕnh tư duy của ḿnh, mới mong tạo ra nghiệp thiện, nếu không ta chỉ hành động mà không có sự chủ tâm, cố ư. Khi ta biết tâm, tư tưởng của chính ḿnh, ta có thể sửa đổi chúng cho tốt hơn, theo một hướng đúng hơn, theo hướng để tạo ra nghiệp thiện.

Người ta thường nói: "Tôi tạo ra nghiệp thiện để khi tái sinh tôi được đẹp đẽ hơn". Đó là một sự trao đổi đó có tính cách thương mại. Làm một cái ǵ đó để đổi lấy một cái khác. Dầu có tốt hơn so với hành động theo bản năng, thiếu chủ tâm, nhưng cũng khó đem lại cho ta kết quả tốt đẹp hơn v́ phương cách đó đầy ngă chấp.

Hành động thiện cần được làm trong sự sáng suốt, biết rằng nếu không làm thế, ta chỉ đem lại đau khổ cho chính ḿnh. Tâm thiện là điều tiên quyết giúp ta sống an b́nh, ḥa nhịp với chính ta, với tha nhân. Nghĩ đến kết quả là có sự chờ đợi, mong mỏi, bám víu. Tất cả những mong mỏi chỉ mang đến sự thất vọng. Không có sự mong mỏi nào trở thành hiện thực như ta đă mong muốn. Sự mong mỏi dẫn ta đến tương lai hơn là trụ ở giờ phút hiện tại. Kiếp sau, hay kiếp sau nữa, hay sau sau nữa, kiếp nào? Năm phút tới th́ sao? Hành động thiện đúng ra phải được làm với tất cả tâm hồn đến nỗi không c̣n có thể nghĩ đến ǵ khác nữa. Nhưng nếu như có điều ǵ khác nữa chen vào, lúc đó trí tuệ sẽ bảo cho ta cách chọn lựa đúng.

Khi hai người cùng làm một hành động, họ sẽ không có cùng một nghiệp quả. Đức Phật so sánh việc tạo nghiệp ác của hai người với bỏ một muỗng muối vào ly nước hay bỏ xuống sông Hằng. Ly nước muối sẽ không uống được, nhưng nước sông Hằng có ǵ thay đổi đâu. Cũng thế, với người có cả một ḍng ‘sông thiện’ th́ một hành động sai quấy cũng không ảnh hưởng ǵ. Nhưng nếu ta chỉ có một ‘ly nước phúc’ th́ chỉ một hành động sai quấy cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời. V́ ta không biết ḿnh đă tạo tác ra những ǵ ở các kiếp trước, tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc của ta chỉ đầy một ly nước. Đôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những người làm bao điều ác mà vẫn sống hạnh phúc. Gia đ́nh, tiền bạc, sức khoẻ đều tốt lành. Tại sao họ không bị trừng phạt? Họ chưa bị trừng phạt đó thôi. Họ sẽ lănh những hậu quả của việc họ làm. Họ không có ǵ gọi là tai nạn hay may rủi. Không có ǵ xảy ra ngẫu nhiên trong vũ trụ này. Trăng, sao, mặt trời – mọi việc đều đi theo một định luật, trái đất ta đang sống cũng thế. Nghiệp của ta cũng thế.

Nghiệp không phân biệt, ta nên nhớ điều đó. Nó không biết thiên vị ai. Nó là nhân quả. Nó không để ư đến người hành động. Những ǵ đă được giữ trong ḍng sông nhân, sẽ ở đó và sẽ tựu quả khi ‘chín mùi’.

Ta mang theo một số ‘thói quen’ từ trong những kiếp sống trước, nhưng phần lớn những ǵ xảy ra cho chúng ta đều là quả của các hành động trong đời sống hiện tại. Ta không cần phải nghĩ: "À, có lẽ đó là kết quả những việc tôi đă làm hai, ba kiếp về trước", hay "Nếu tôi làm như thế, kiếp sau tôi sẽ được an toàn". Suy nghĩ như thế là trốn tránh trách nhiệm. Nếu ta có trách nhiệm với chính ḿnh th́ chắc là ta sẽ nhớ lại ta đă làm ǵ đó hay đă bỏ qua không làm ǵ đó; ngay trong chính cuộc đời này để đưa đến những kết quả như ngày hôm nay, như ngay hiện tại này.

Ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương quan. Bất cứ hành động khéo léo, tốt đẹp nào ta đă làm trong đời sống hiện tại, cũng cho ta kết quả.Chúng tiềm ẩn trong khả năng, sức mạnh, sức khoẻ, cá tính của ta. Chúng ta là người tạo ra số phận của ḿnh. Không ai có thể thực sự làm ǵ cho ta được. Nếu ta c̣n tin rằng ai đó có thể hành động thay ta, th́ ta đă không hiểu ư nghĩa của câu: "Tôi làm chủ nghiệp của tôi". Nghiệp là thứ duy nhất ta có thể sở hữu. Mọi thứ khác đều là vay mượn. Ta sẽ không mang theo được ǵ trừ nghiệp. Mọi thứ khác kẻ hậu sinh ta sẽ thừa hưởng. Chỉ có nghiệp là của ta.

Khi tái sinh, ta mang theo các nghiệp duyên, và chính nghiệp duyên tạo ra các hoàn cảnh, cơ hội cho ta. Ta có sự lựa chọn, nhưng không phải là tuyệt đối. Tất cả chúng ta đều có sự lựa chọn là có nên đến thiền viện không. Khi bạn đă chọn có mặt ở nơi đó, bạn đă tạo một nghiệp lành. Khi nghe Pháp, bạn có sự chọn lựa hoặc là nghe mơ mơ màng màng hay nghe với cả tâm hồn. Khi đă dốc tâm nghe, bạn có lựa chọn là quên liền sau đó hay cố gắng lưu giữ lại. Và nếu có giữ, bạn sẽ giữ bằng cách luôn thực hành chúng hay chỉ nhớ v́ chúng lư thú. Khi đă chọn sống theo Pháp, bạn lại có thể hoặc chọn luôn sống như thế này hay chỉ khi có dịp, có hoàn cảnh thuận tiện.

Có được sự lựa chọn không ngừng nghỉ, từng giây phút là quyền của chúng ta. Mỗi giây phút, trừ lúc ngủ, là mỗi phút giây tạo nghiệp. Đó là lư do tại sao chúng ta cần hoàn chỉnh nghệ thuật sống của ḿnh từng giây phút một. Nếu ta không canh chừng từng giây phút tạo nghiệp của ḿnh, th́ nó khó tạo ra nhiều điều có lợi cho chúng ta. Có bao nhiêu giây phút tội lỗi có thể xảy ra. V́ thế tâm cần phải được canh giữ từng giây từng phút v́ đó lànhững giây phút có sự lựa chọn, những giây phút của nghiệp. Ta càng có những sự chọn lựa khôn ngoan, khéo léo, ta càng tạo ra nhiều cơ hội tốt cho ḿnh. Giống như sống trong một ngôi nhà có nhiều cửa chính, cửa sổ, ta sẽ có bấy nhiêu cánh cửa để chọn lựa khi cần ra khỏi nhà. Nếu ta cứ tiếp tục có những chọn lựa sai lầm, th́ cơ hội của ta sẽ giảm dần cho đến khi ta tỉnh dậy trong lao tù, nơi cơ hội đă ở đằng sau cánh cửa của sự lựa chọn. Lúc ấy, ta sẽ chẳng có sự lựa chọn nào cho đến khi được giải thoát. Đôi khi ta tự hỏi sao người khác h́nh như có nhiều chọn lựa để làm bao công việc thú vị, trong khi ta chẳng có chọn lựa nào cả, th́ đó là v́ các nghiệp ta đă tạo ra.

Đức Phật nói có những người sanh ra trong ánh sáng và đi về phía ánh sáng. Có người sanh ra trong ánh sáng, để đi vào bóng tối. Có người sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng. Và cuối cùng là có những người sanh ra trong bóng tối, để tiếp tục đi trong bóng tối. Điều đó có nghĩa là, dầu ta được sanh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta vẫn có nhiều cơ hội để lựa chọn.

Có một phụ nữ tên là Helen Keller khi sinh ra bị điếc, câm và mù. Vậy mà bà vẫn học hành, viết sách và chỉ dạy những người khuyết tật khác sống tốt hơn. Rơ ràng là bà đă sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng.

Tất cả chúng ta trong mỗi giây phút đều có một cơ hội đến với ḿnh. Nếu ta để lỡ mất cơ hội đó, có thể ta sẽ chẳng bao giờ có một cơ hội thứ hai như thế nữa. V́ khi ta đánh mất một cơ hội, cũng giống như ta đă khóa bớt một cánh cửa của căn nhà cuộc đời ta lại. Do đó hoàn toàn chú tâm cho từng giây phút là một việc làm cần thiết.

Đức Phật cũng ví nghiệp giống như một ổ nhện giăng, một ổ nhện đă được bện quá khéo léo đến nỗi ta không biết đâu là sợi nhện đầu tiên đâu là sợi cuối. Chúng ta không thể biết nếu ḿnh bịnh hôm nay là do đă làm việc ǵ đó không tốt mười lăm năm về trước hay v́ ta đă không để ư đến vấn đề ăn uống hôm qua. Nhân quả của ta cũng là những sợi dây nhện đan chéo nhau đến nỗi ta không biết rơ ràng tại sao sự việc xảy ra thế này, thế nọ. Tuy nhiên ta có thể hiểu lư do của những việc quan trọng xảy ra trong đời ta. Ta có thể dễ dàng nhớ lại những lựa chọn sai lầm v́ dễ dăi với chính ḿnh, và hậu quả của chúng gây ra.

Nghiệp đến từ quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai không quan trọng, v́ quá khứ giống như một giấc mộng c̣n tương lai th́ chưa đến. Việc ta nên quan tâm là ngay giờ phút hiện tại, c̣n lại tất cả chỉ là một giấc mộng, trong đó ta không biết ḿnh tỉnh hay mê, không biết việc ǵ đang xảy ra. Không có ǵ vui thích trong một cuộc sống như thế khi thực tại như phủ một lớp sương mù. Tất cả chúng ta khi chưa giác ngộ th́ c̣n sống trong lớp sương mù đó, nhưng ta có thể thức tỉnh ḿnh ra khỏi giấc mơ đó. Thực ra có giây phút nào khác hơn là giây phút hiện tại. Ta không thể sống lại trong quá khứ hay kinh nghiệm trước tương lai. Chỉ có một việc duy nhất ta có thể làm là: sống cho giây phút này. Để làm được thế, ta phải hoàn toàn tỉnh thức, nhận biết. Tỉnh thức và nhận biết về chủ tâm của ta.

Tâm là chủ. Không có ǵ có thể hiện hữu nếu không do tâm tạo ra. Tâm là động lực tiềm ẩn của bao nghiệp ta tạo ra. Ta có ba cửa ngơ: tư duy, ngữ và hành (thân, khẩu, ư). Đây là ba cửa đưa ta đến sự tạo ra nghiệp, và ta tiếp xúc với thế giới bên ngoài qua ba cửa này.

Dầu rằng tư duy là động lực tiềm ẩn, nó tạo ra nghiệp nhẹ nhất nếu không thể hiện ra bằng lời nói hay hành động. Thí dụ như ta thù ghét ai, và một tư tưởng lóe qua đầu: "Nếu hắn đến gần ta nữa, ta sẽ giết hắn", nhưng ta không nói ǵ hay làm ǵ. Dầu đó là một tư tưởng xấu, tạo ra nghiệp ác, nhưng v́ không có hành động cụ thể, nên nghiệp báo cũng nhẹ. Nhưng nếu ta cứ tiếp tục suy nghĩ như thế nó sẽ tạo dần thói quen dẫn thốt ra lời nói. Nếu kẻ ta ghét đến gần, ta thực sự nói: "Nếu anh đến gần tôi, tôi sẽ giết anh", th́ nghiệp sẽ nặng hơn. Truớc mắt là ta sẽ tạo ra kẻ thù, và ta đă củng cố tư tưởng xấu bằng lời nói. Và nếu cứ tiếp tục nói lời ác đó, nó sẽ dẫn ta đến hành động. Lúc đó nghiệp báo thật nặng nề và mang lại bao hậu quả thảm khốc. Ư nghĩ, tư tưởng cần phải được canh giữ và sửa đổi nếu cần. Nếu một tư tưởng xấu dấy lên, tốt nhất giữ đừng cho nó biến thành lời nói hay hành động.

LUÂN HỒI.

Luân hồi là một trong những đề tài được nhiều người bàn căi sôi nổi, đầy hy vọng, phấn khởi hay phản đối, bác bỏ. Một trong những ẩn dụ cổ điển về luân hồi là về cây nến. Một ngọn nến đă được đốt cháy đến tận tim. Một ngọn nến khác được đốt từ ánh nến sắp tàn đó, rồi lại tàn đi, rồi một ngọn nến khác lại được thắp sáng lên. Rơ ràng là đă có ngọn nến sáp khác, nhưng c̣n ngọn lửa, đó có phải là ngọn lửa cũ được tiếp tục đốt hay ngọn lửa mới? Nếu ta làm một cuộc trưng cầu ư kiến, th́ chắc rằng phân nửa sẽ bảo là cũ, phân nử bảo là mới. Sự thật th́ không ai trúng cả. Ở đây chỉ là sự tiếp nối của năng lượng. Sức nóng đă được chuyển tiếp. Sức nóng là năng lượng, và điều đó cũng giống như luân hồi của chúng ta –một sự tiếp nối của sức nóng, năng lượng của ḷng yêu sự sống. Nỗi đam mê được trường tồn sẽ không bao giờ giảm cho đến khi giải thoát.

Một hôm người cùng tử Vacchagotta hỏi Đức Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, sau khi chết kẻ Gíác Ngộ đi về đâu?". Đức Phật đáp : "Này Cùng tử, hăy lượm những que củi nhỏ quanh đây và nhóm lửa lên". Người cùng tử lượm các que củi và đốt lửa. Đức Phật lại nói : "Hăy bỏ thêm củi vào!". Người cùng tử làm theo lời Đức Phật dạy. Đức Phật hỏi : "Thế nào rồi?". Vacchagotta đáp : "Dạ, lửa cháy rất tốt". Đức Phật lại bảo: "Thôi đừng bỏ thêm củi vào nữa". Sau đó đám lửa lụi tàn. Đức Phật hỏi : "Thế nào rồi?". "Dạ, đám lửa đă tàn, htưa Ngài". Đức Phật nói : "Vậy đám lửa đă đi đâu? Đi tới trước ? Hay phía sau? Trái? Phải? Lên hay xuống?". Ngựi Cùng tử trả lời : "Dạ không đi đâu cả. Nó chỉ tắt". Đức Phật nói : "Đúng thế. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho kẻ Giác Ngộ sau khi chết".

Không chêm thêm củi vào ngọn lửa đam mê, ham muốn, cầu sinh tử, th́ ngọn ưa sẽ tắt. Đấng Giác Ngộ không tạo ra nghiệp th́ họ sẽ không luân hồi. Với chúng ta – vẫn c̣n ḷng ham muốn sinh tồn – và đó là hộ chiếu đưa chúng ta đi vào luân hồi sanh tử. Sức nóng của đam mê là năng lượng chuyển tiếp. Đôi khi cũng có những nỗi đam mê trái ngược lại phát sinh. Tôi không muốn sống v́ đời sống quá khổ. "Tôi muốn sống" hay "Tôi không muốn sống", đều chỉ là các ảo tưởng của ngă chấp. Muốn được sống là nỗi ao ước mănh liệt nhất. Mănh liệt đến nỗi trên giường đợi chết, cũng có ít người buông tay, chịu thuamột cách nhẹ nhàng.

Người ta nói giây phút hấp hối là giây phút hiếm quí nhất để ta giác ngộ, v́ giây phút đó là giây phút ta từ bỏ sở hữu của thân. Nhưng phần lớn chúng ta không muốn xuôi tay. Dầu cơ thể ta đă bất lực, ta vẫn chống cự, vùng vẫy. Tuy nhiên, nếu ta tự ư buông xuôi th́ đó có thể là giây phút giác ngộ. Khi cuộc sống của ta c̣n thoải mái và mọi thứ trên đời c̣n như ư : ta có thức ăn ngon, thân thể khỏe mạnh, người quanh ta thương mến – th́ ta không thấy nhu cầu phải từ bỏ cuộc sống này. Giải thoát lúc đó không phải là điều tối ưu. Nhưng khi sắp chết, đó có thể là điều chúng ta phải làm : buông tay theo số mệnh.

Những ǵ đă được khắc ghi trong tâm qua các thói quen suy nghĩ, lời nói và hành động tạo ra chất chồng nghiệp. Những ǵ luân hồi, tái sinh sẽ là một đồ họa di truyền, một đồ họa của nghiệp, hoàn toàn không phân biệt. Đức Phật nói thật là sai lầm khi nghĩ rằng người tạo nghiệp và người lănh nghiệp báo là một ; mà nghĩ rằng khác cũng sai. Sự thật là cả hai. Có một sự kế thừa nhưng không có một thực thể. Không có một cá nhân nào gây nhân và lănh quả, nhưng có sự tiếp nối. Ngựi tái sinh không phải là cùng một con người vừa mất đi có lẽ dễ hiểu v́ thân, tâm, t́nh cảm đă thay đổi. Mọi thứ đều đă thay đổi kể từ giây phút nghiệp được tạo ra cho đến lúc nghiệp báo. Nhưng có một sự tiếp nối giữa người gieo nhân và người lănh quả, điều đó cũng rơ. V́ nghiệp bao trùm cả đời ta. Trong đó đă bao hàm các nghiệp quá khứ, nhưng không có nghĩa là ta có thể nói: "Ồ, đó chỉ là nghiệp của tôi", rồi bó tay đầu hàng.

Có những vị thầy dưới thời Đức Phật đă dạy rằng tất cả mọi thứ đều do nghiệp tạo ra, do đó ta không có sự lựa chọn nào. Đức Phật bác bỏ lối dạy đó. Cũng có các vị dưới thời Đức Phật nói không có nghiệp. Bất kể ta làm ǵ, không có hậu quả ǵ cả. Đức Phật cũng không tán thành lối suy nghĩ này. Có tạo nghiệp, có nghiệp báo, nhưng chúng ta cũng có quyền lựa chọn của ḿnh.

Khi giảng về luân hồi, tái sinh, Đức Phật đă so sánh tư tưởng cuối cùng của ta trước khi chết với một đàn gia súc trong chuồng. Nếu không có gia súc nào mạnh nhất, th́ con vật thường là đầu đàn sẽ dẫn cả nhóm ra khỏi chuồng. Nếu thường không có con đầu đàn, th́ con đứng cạnh cửa chuồng sẽ đi ra trước. Nếu không tất cả mọi con đều tranh nhau để ra trước.

Điều đó có nghĩa là ư nghĩ của ta trước giờ lâm chung sẽ tạo sức đẩy cho luân hồi, tái sinh. Điều đó không có nghĩa là tất cả các nghiệp quá khứ đều đă hoại diệt, mà chỉ là hoàn cảnh tái sinh của ta bị ảnh hưởng. Nghiệp căn nào mạnh nhất, nặng nề nhất chắc chắn sẽ hiện lên lúc đó và dẫn ta theo nó. Nếu không có, th́ các suy nghĩ ta thường có sẽ hiện ra trong tâm ta. Nếu ta thường nghĩ về ḷng từ bi, th́ điều đó sẽ là những ư nghĩ cuối cùng của ta. Nếu ta không hay suy nghĩ về điều ǵ rơ ràng, th́ điều ǵ xảy ra cận kề cánh cửa tử thần sẽ hiện ra trong tâm ta. Thính giác là giác quan cuối cùng ra đi. V́ thế muốn giúp đỡ người đang hấp hối, ta nên nói với họ về những hành động tốt họ đă làm. Những điều tốt đẹp đó có thể dẫn dắt họ đến một sự tái sinh tốt đẹp hơn. Không có những điều như thế, th́ tất cả tư tưởng đều hiện lên lộn xộn, và bất cứ điều ǵ cũng có thể xảy ra. May nhờ, rủi chịu.

Tất cả chúng ta đều phải trải qua giờ phút hấp hối, th́ tại sao ta không sửa soạn cho chúng. Ta cần phải chuẩn bị cho giây phút ấy. Sửa soạn cho sự ra đi của ḿnh bằng cách tập luyện để có những thói quen suy nghĩ một cách khôn ngoan. Th́ ta sẽ được tái sinh một cách khôn ngoan. Khi ta giữ năm giới luật, không có thói quen phạm giới, ta sẽ được sanh trở lại làm người. Phần đông chúng ta có những giây phút lơ là, không giữ năm giới, nhưng tạo ra thói quen phạm giới sẽ làm cho việc tái sinh trở lại kiếp người rất khó khăn.

Có chuyện kể rằng một hôm Đức Phật đi với các đệ tử của Ngài dọc bờ biển, và Ngài nói với họ: "Này các đệ tử, nếu có rùa mù bơi qua các biển của vũ trụ và một khúc gỗ trôi. Chú rùa mù chỉ trồi lên thở không khí mỗi một trăm năm, các đệ tử có nghĩ là chú rùa có thể đụng đầu vào khúc gỗ không ?". Các đệ tử trả lời: "Không thể nào, thưa Ngài. Chúng không thể nào ở cùng một chỗ trong một khoảng thời gian, nếu như chúng cùng lội quanh các biển vũ trụ". Đức Phật nói: "Không. Không phải là không thể nào. Mà là không có thể". Rồi Đức Phật tiếp: "Cũng thế cơ hội để được tái sinh làm người cũng khó khăn như thế". Điều đó đáng cho chúng ta suy nghĩ xem cần phải làm ǵ khi ta đă may mắn được sinh trở lại làm người. Nếu không, ta khó có thể trở lại làm người.

Chúng ta không chỉ được tái sinh làm người – là một điều quá may mắn – nhưng chúng ta lại có đầy đủ tay chân, các giác quan. Ta có đủ thức ăn để sống, sức khỏe đủ tốt để tọa thiền. Chúng ta cũng rất may mắn được biết Pháp. Có thể nói là chúng ta được ở trên đỉnh cao so với nhiều người khác, nếu không coi đó là một đặc quyền th́ ta khó có thể hiểu thế nào là làm chủ nghiệp của ḿnh. Đó không chỉ là một cơ hội, một thuận lợi cho chúng ta mà c̣n là một bổn phận nữa. Chúng ta phải sử dụng kiếp tái sinh này sao cho hữu ích.

Cũng cần phải nói thêm rằng: chúng ta đang tái sinh từng giây phút. Rất ít người có đủ chánh niệm hay chủ tâm để cảm nhận điều đó. Nhưng ta có thể nhận ra ta được tái sinh mỗi buổi sáng. Điều đó không khó khăn ǵ. Ngày đă qua, đêm tới. Thân tâm ta "chết" mệt, ta ngủ thiếp đi. Vào buổi sáng ta có cảm giác hồi sinh khi thức giấc. Ta trở nên nhẹ nhàng trở lại. Thân tâm lại tươi mát, trẻ trung, ta lại có một ngày trước mặt để sử dụng sao cho tốt nhất, giống như nó là một cuộc đời mới. Hăy tập nh́n mỗi buổi sáng như một sự hồi sinh, th́ ta có thể hiểu chỉ có một ngày này hiện hữu. Ta cũng có thể tạo ra thói quen sử dụng mỗi ngày tối đa cho sự tăng trưởng – phát triển về tinh thần, tâm linh, t́nh cảm. Không có nghĩa là lăng xăng làm thật nhiều việc vào.

Sự tái sinh được nh́n dưới khía cạnh đó th́ ích lợi hơn là nghĩ đến kiếp sau. Việc ǵ sẽ xảy ra cho chúng ta ở kiếp sau, hoàn toàn tùy thuộc vào những ǵ ta đang làm bây giờ, v́ thế chỉ có "hiện tại" mới quan trọng. "Hiện tại" là nhân, kiếp sau là quả. Nó cũng quan trọng hơn là ngồi suy nghĩ xem ḿnh đă làm ǵ trong kiếp trước. Điều đó đă qua rồi. Việc ta không thể nhớ những kiếp sống trước cũng là một điều tốt. Ta đă đau khổ đủ trong cuộc sống này, làm sống lại làm ǵ những nỗi đau cũ trong tiền kiếp. Một tâm hồn vẫn c̣n đau khổ với những bất như ư trong cuộc đời này, làm sao có đủ sức chịu đựng những nỗi đau khổ gấp đôi.

Sự hồi sinh mỗi buổi sáng cũng đủ để mang đến cho ta cảm giác thúc bách, một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống tâm linh. Tính cấp bách phát sinh khi ta nhận biết được sự đau khổ thực sự. Tính cấp bách bắt ta phải bắt tay ngay vào cuộc, và không thể chờ đợi nữa.



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 9 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:48pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

BỐN HỶ LẠC

Tất cả chúng ta đều kiếm t́m hạnh phúc, nhưng rất ít người bắt được . Hai điều trong tứ diệu đế của đức Phật đă nói rằng hạnh phúc thế gian là ảo tưởng, vậy mà ta chẳng bao giờ từ bỏ hy vọng t́m thấy nó. Tuy nhiên điều đó cũng không hoàn toàn xấu, v́ nếu không có ḷng mưu cầu hạnh phúc, ta sẽ trở nên thối chí, nản ḷng khi không thể t́m được hạnh phúc hoàn toàn .

DỤC GIỚI

Đức Phật nói về bốn loại, bốn cấp bực của hạnh phúc . Thứ nhất là dục giới, do sự xúc chạm của các giác quan mang đến . Đức Phật ví đó giống như một con ḅ chỉ có da, trong khi bọn ruồi đậu th́ cố t́m thịt sống , nên luôn tạo ra sự đau khổ . Đó là một cái nh́n sâu sắc về ngũ dục . Đức Phật cũng nói về ngũ dục là phương tiện đầu tiên đem lại cho ta hạnh phúc . Và phần đông chúng sanh trụ ở cấp bậc này . Nhưng không phải lúc nào ta cũng nắm bắt được dục lạc ta t́m kiếm, ngay như ta có t́m được, th́ nó cũng đến rồi đi, do đó không thể có hạnh phúc trường cửu qua sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần . Khi sự xúc chạm đem lại cảm giác dễ chịu ta thấy hạnh phúc . Nhưng cũng có những sự xúc chạm, đem lại khó chịu, khi cơ thể ta không được thoải mái hay khi ta không được nghe những lời mát ḷng mà ta muốn được nghe, không được nếm những mùi vị ta ưa thích, hay ngửi phải mùi hôi thối, hay nh́n thấy những cảnh ta không thích . Không ai thoát khỏi những cảnh này . Không ai có thể sống mà không kinh qua những xúc chạm gây khó chịu .

Nhưng cũng không có ai đi qua cuộc đời mà không kinh qua những cảm xúc dễ chịu . Nếu có nghiệp thiện ta có 50 – 50 cơ hội . Phân nửa thời gian ta được những xúc chạm dễ chịu, phân nửa không . Phần đông chúng ta t́m cách để tăng thời gian của xúc chạm dễ chịu lên, và muốn chúng xảy ra 100% lần, là điều không thể có . Không thể nào có chuyện đó, nhưng người ta vẫn theo đuổi chúng . Và lại trách cho hoàn cảnh bên ngoài khi cảm xúc khó chịu hay cảm giác đau đớn dấy khởi làm cho ta đau khổ . Lư do thật sự , dĩ nhiên nằm bên trong chúng ta, v́ chúng ta phản ứng lại với các cảm xúc .

Người càng trong sạch càng có nhiều lạc thọ . Một tâm hồn trong sáng sẽ t́m thấy niềm vui ở nhiều điều nhỏ nhặt nhất . Một ngày đẹp trời, thảm cỏ xanh, một cuộc đàm thoại thú vị .

Người không trong sạch có lẽ chẳng để ư đến thứ này . Có thể họ chẳng bao giờ biết ngắm bầu trời đẹp hay một thảm cỏ xanh . Có lẽ họ đi t́m cảm xúc ở những thứ tầm thường hơn . Rượu , thuốc phiện, đồ ăn ngon, gái đẹp, có lẽ là những thứ mang đến cho lạc thú hơn .

Nếu các cảm xúc thanh tao, vô hại th́ đâu có ǵ là xấu . Tuy nhiên Đức Phật cho rằng chúng nguy hiểm v́ ta dễ biến chúng thành mục đích của đời sống, con đường ta phải theo đuổi, ta cố gắng t́m thêm, t́m thêm, và chúng lại bên ta măi măi . Đó chính là sai lầm của ta, v́ điều đó không thể thực hiện được . Không có cảm thọ nào vĩnh viễn cả . Thật ra nếu chúng vĩnh viễn th́ chưa chắc chúng c̣n cho ta những cảm giác thích thú . Hơn nữa cũng không thể chắc là ta có thể t́m được các khoái cảm. Việc t́m kiếm làm chúng ta mất th́ giờ, sức lực, ta sẽ không c̣n th́ giờ để làm những việc có ư nghĩa hơn .

Thân có các giác quan . Điều đó hiển nhiên . Tuy nhiên, nếu chánh niệm ta có thể thấy rằng các cảm giác dễ chịu do sáu căn mang lại đều là của báu của người ngu. Chúng lấp lánh, nhưng chẳng có giá . Ta có thể nh́n ngắm vẻ hào nhoáng đó, nhưng chớ bám víu vào chúng . Vậy mà chúng sinh vẫn cứ luôn đau khổ v́ không thể có được những ǵ do sáu căn đem lại .

TRỜI DỤC GIỚI

Hạnh phúc thứ hai là hạnh phúc ở cơi Trời Dục Giới . Nói thế không có nghĩa ta phải là thành thánh, hay phải chết trước đă, mới được vào cơi Trời Dục Giới . Điều đó xa vời, không liên quan ǵ đến đời sống hiện tại của ta . Nhưng thật ra, người đă vun trồng được bốn đặc tính cao quư (tứ vô lượng tâm ): từ, bi, hỉ và xả sẽ được hưởng niềm vui của cơi Trời Dục Giới . Thứ hạnh phúc đó được so sánh sống trong thiên đàng ở cơi giới . Thứ hạnh phúc đó không tùy thuộc vào ngũ dục mà chỉ tuỳ thuộc vào tâm ta . Điều kiện duy nhất là phải thanh tịnh hoá tâm ta để có thể chứa đựng được từ, bi . Cả từ và bi là hai đặc tính của trái tim, cũng như thông minh là đặc tính của trí tuệ, chúng có thể được vun trồng, nuôi dưỡng . Khi ta đạt được những điều đó, th́ hạnh phúc, an lạc sẽ ở tại tâm . Tha nhân cũng sẽ được nhờ, nhưng ta là người được hưởng quả an lạc trước tiên, v́ lúc đó tâm ta hoàn toàn không phụ thuộc vào những ǵ xảy ra quanh ta . Người khác nói ǵ, làm ǵ, chuyện ǵ xảy ra hay không xảy ra trên thế giới này, đều không ảnh hưởng đến ta . Khi tim ta được ươm trồng thanh tịnh với từ, bi th́ không có ǵ có thể đụng chạm đến nó . Có một sự an lạc, hài hoà, dễ chịu, một cảm giác an toàn luôn ngự trị trong tâm trí ta .

Niềm vui này thanh cao hơn so với niềm vui do ngũ dục mang đến . Tự nó không dẫn đến sự giải thoát , nhưng chắc chắn nó là hành trang cần thiết trên đường đến giải thoát .

Từ và bi, tự chúng không sinh ra cái thấy bên trong . Chúng chỉ làm lắng dịu những ngọn sóng t́nh cảm . Khi những làn sóng của đau khổ, buồn phiền, lo âu, sợ hăi, ganh ghét, tỵ hiềm, hối hận, cuối cùng lắng xuống th́ mặt nước sẽ trong xanh, không gợn sóng giống như một tấm gương , tấm gương của tâm . Tấm gương đó giúp ta thấy mọi việc rơ ràng . Không có sự vun trồng những t́nh cảm tốt đẹp đó, ta không thể phát triển hơn . Ta có thể hiểu Pháp, nói Pháp nhưng ta không thể đoạn trừ đau khổ . Những ngọn sóng t́nh cảm là vực chắn . Chúng không chỉ ngăn trở cái nh́n của ta được dễ dàng, mà c̣n che khuất chính con đường ta phải đi . Khi c̣n u mê, mờ mịt ta sẽ không biết ḿnh đang đi đâu . Thậm chí có thể quên rằng ḿnh đang dự vào cuộc hành tŕnh nào đó .

An lạc ở cơi Trời Dục Giới không tùy thuộc và luân hồi, sinh tử . Nó có thể xảy ra ngay ở đời sống hiện tại . Đó là sự tu tâm và ai cũng có thể tu được . Không cần phải khoá thiền nào, hay phải là người đặc biệt ǵ, ai cũng có thể làm được . Đây là một niềm vui có thể t́m thấy do chính sự tu tập không cầøn phải t́m kiếm đâu xa .

NHIẾP TÂM

Niềm vui thứ ba đến từ sự nhiếp tâm trong thiền định . Niềm vui này cũng chỉ có được khi ta thanh tịnh há hành động của ḿnh, đă có được sự độ lượng , ḷng từ ái trong tâm hồn . Nó cũng không đ̣i hỏi ta phải là người hoàn toàn, chỉ có bậc A la hán mới được như thế. Nó chỉ đ̣i hỏi chút khoáng đạt trong tâm .

Ngừơi tu thiền thường t́m được niềm vui như thế . Nhưng ta cần phải huân tập sự chú tâm, thường xuyên thực hành tọa thiền để đạt được sự lắng sâu trong thiền định . Có rất nhiều mức độ của niềm vui, thanh thoát, dễ chịu khi thiền định . Chúng giúp cho tâm được an lạc ngay cả sau khi đă xả thiền .

Người mà có thể lắng tâm trong thiền định và t́m được hỷ lạc trong đó là người có thể t́m thấy niềm vui ngay cả trong những hoàn cảnh bất như ư . Người đó biết rằng bất cứ lúc nào ḿnh cũng có thể được sự an lạc của trong thiền định . Biết được như thế, tạo cho họ cảm giác dễ chịu trong tâm v́ không có ǵ c̣n là quan trọng với họ nữa . Khi một người có thể nhập định lúc nào họ muốn, trong bao lâu tùy họ, th́ đó là thực tại của họ, không phải những tranh giành, căi cọ, chiến tranh, tương lai, quá khứ làm họ bận tâm như bao nhiêu người khác . Những thứ đó không c̣n quan trọng đối với họ . Thực tại trụ ở trong niềm vui của thiền định .

Nhiếp tâm hay chánh niệm cũng sửa soạn cho tâm . Nó mang đến cho tâm không những chỉ khả năng hạnh phúc, mà cả khả năng duy tŕ niềm vui đó . Tâm có thể ổn định theo ư ḿnh, là tâm kiên cố . Tâm chúng sinh khó ổn định . Nó luôn dao động mà không cần một động lực nào tác khởi, v́ đó là bản thể của nó . Nó không đủ sức mạnh để xuyên qua bức tường ảo tưởng . Trước bất cứ trở ngại nhỏ bé, hoặc một lời chê bai nhẹ nhàng, hay hơi khó chịu của cơ thể, tâm yếu đuối như bún lập tức tan thành mảnh vụn . Nó c̣n làm đựơc ǵ khác hơn chứ ?

Tâm kiên cố cứng như đá tảng, không thể lay chuyển . Một tảng đá kiên cố chắc chắn là một dụng cụ tốt hơn cọng bún để đập bể bức tường . Tâm kiên cố sẽ không lay chuyển trước những khó khăn nào . nó có đủ sức mạnh để xuyên qua thực tại của cuộc sống, tiến đến một thực tại tuyệt đối hơn .

Có tám mức độ của sự nhiếp tâm trong thiền định, giống như tám căn pḥng trong một ngôi nhà . Nếu cuối cùng ta có thể t́m được đúng ch́a khóa để mở căn pḥng thứ nhất ở cửa ngoài, th́ không có lư do ǵ ta cũng không thể đi vào những căn pḥng khác . Không có ǵ khó để t́m ra ch́a khoá và căn pḥng đầu tiên . Ch́a khóa là sự chủ tâm và hơi thở, và cánh cửa pḥng ngoài được mở khi ta tiếp tục hành thiền với ḷng kiên tŕ và quyết tâm . Ta sẽ không bỏ nửa chừng "À, đủ rồi chân ta đă đau rồi", hay "Có ích ǵ ?" hay "Cho kiếp sau à ?" hay "Khó quá cho tôi", hay bất cứ lư do nào khác .

Đức Phật nói "Kẻ ngu nói :"Sớm quá, trễ quá . Nóng quá, lạnh quá . No quá, đói quá" cánh cửa đằng trước mặt chỉ chờ ta mở ra . Ta lại có ch́a khoá . Và ta chỉ cần tra ch́a khoá vào ổ khoá . Khi cửa mở ta sẽ thấy các pḥng đều hoành tráng . Sự hoành tráng ở ngay trong tâm trí ta nhưng hiện giờ nó c̣n bị khóa . Ta sẽ không thể mở khoá nếu như ta không biết tu thiền . Nhiều người không bao giờ có thể mở được khóa v́ họ không biết ch́a khoá là ǵ hoặc không biết có một cửa vào như thế . Chúng ta rất may mắn được biết lối vào, và có thể cửa đă hé mở cho ánh sáng tràn vào .

Khi sự nhiếp tâm đă được kiên định một thời gian, tâm sẽ trở nên trong sáng, và thân thanh tịnh . Mỗi giây phút nhiếp tâm là mỗi giây phút thanh tịnh . Những ô trược mà ta thường đắm ch́m, mang lại cho ta bao đau khổ, phiền năo được gạt sang một bên trong thiền định . Càng có cơ hội để gạt chúng sang một bên, chúng càng khó thể trở thành thói quen của ta . Ta càng thường có thể nhiếp tâm, ta càng dễ lăng quên chúng . Lúc đó việc đạt được một tâm trong sạch, xán lạn chỉ là việc dễ dàng thôi .

Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng những cảm giác dễ chịu . Những cảm giác này dấy khởi v́ tâm ở trong trạng thái đó không bị quấy nhiễu . Điều này chứng tỏ cho chúng ta thấy là nếu ta không phiền năo, và giữ được tâm luôn trong sáng, thanh tịnh th́ ta luôn có những cảm giác thoải mái dễ chịu .

Ở đây ta biết về những thành quả ta có thể đạt được, điều đó làm ta muốn được ở trong trạng thái đó lâu dài . Niềm mong ước lành mạnh, lợi ích dần dần đưa ta đến trạng thái không c̣n mong cầu, do đó không c̣n đau khổ thất vọng .

Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng cảm giác dễ chịu, rồi dần dần đưa ta đến trạng thái an lạc, hạnh phúc . Điều này chứng tỏ một lần nữa là tâm thanh tịnh chỉ biết có an lạc. Khi có phiền năo th́ có ô trược . Hai thứ này đi với nhau như h́nh với bóng . Người an lạc không mong đạt được hạnh phúc qua các căn trần v́ họ biết chúng rất ngắn ngủi . Người hạnh phúc thật sự là người luôn an lạc mà không phụ thuộc vào ngoại cảnh . Người như thế sẽ dễ dàng nhiếp tâm thiền định, để t́m cho tâm ḿnh một chỗ an trú thanh tịnh, không c̣n phiền năo dấy khởi . c̣n phiền năo là do tâm ta c̣n chưa thanh tịnh . Khi có phiền năo dấy khởi , nếu ta nghiệm xét sẽ thấy rằng do có sự ô trược ngầm ẩn chứa trong tâm . Nếu không t́m ra được điều đó, th́ do ta chưa thật sự soi xét lại ḿnh .

Khi ở trong thiền định, tâm không c̣n bị năm chướng ngại quấy nhiễu . Khi các cảm giác dễ chịu, an lạc dấy khởi th́ tâm hỉ, xả cũng theo sau . Xả bỏ đưa đến cảm giác không c̣n ham muốn điều ǵ . Có người c̣n có cảm giác ḿnh hoàn toàn không c̣n tham ái dục nữa nhưng đó chỉ là ảo giác . Dầu ǵ, ít ra trong những giây phút đó, ḷng ham muốn bị cũng bị hoại diệt .

Đó là một kinh nghiệm qúy báu khi đạt đến trạng thái không c̣n tham dục . Đó là một niềm hạnh phúc tuyệt đối . Một hạnh phúc đáng kiếm t́m . Khi đă kinh qua kinh nghiệm đó, ta sẽ biết được ḿnh phải theo đuổi điều ǵ . Không phải là theo đuổi để được việc ǵ . Mà theo đuổi để cởi bỏ hết mọi thứ . Đây là điều nhiều người đă lầm tưởng một cách khá buồn cười . Khi mới bắt đầu tọa thiền, ta mong t́m được an b́nh, vui vẻ, hạnh phúc tuyệt vời, là những điều ta chỉ có thể có được khi ta đă buông bỏ những thứ khác . Như chấp ngă và tham dục .

Khi ta đă được nếm – dầu chỉ trong giây phút – niềm hạnh phúc tuyệt vời của ḷng không tham dục, ta biết ḿnh phải làm ǵ . Không phải để đuổi theo sự hỷ lạc, mà cái ta cần ươm trồng chính là sự cởi bỏ, buông xả . Không có sự buông xả, đời sống là một chuỗi dài của ham muốn . Sự buông xả là câu trả lời cho mọi chứng bịnh đạt thành tích; dầu trong thế gian hay trong đời sống tu hành . Cố gắng để đạt được cái ǵ đó trong đời sống tu hành th́ cũng mê muội như cố gắng đạt được điều ǵ trong đời sống thế gian . Không có ǵ cần đạt được . Chỉ cần tập buông xả . Càng cởi bỏ nhiều ràng buộc với chấp ngă, ḷng ham muốn và những thứ tương tự, th́ hạnh phúc tuyệt vời càng dễ đến hơn .

Niềm an lạc do thiền định mang đến dựa vào sự thanh tịnh . Cũng vậy, trong đời thường, nếu ta biết gieo trồng thanh tịnh, th́ ta cũng sẽ được an vui . Tuy các cảm giác dễ chịu , an lạc, xả bỏ trong thiền định thâm sâu hơn các lạc thọ thế gian, nhưng trước hết ta phải thanh tịnh trong đời thường, rồi ta mới có thể t́m được sự thanh tịnh trong thiền định . Chúng đi đôi với nhau . Ta càng khó t́m được cảm giác dễ chịu khi tham thiền, th́ ta càng phải nỗ lực thực tập thanh tịnh hoá thân tâm hơn .

Niềm vui trong thiền định được coi là thành quả tối ưu mà ta có thể đạt đựơc . Đó là một sai lầm v́ niềm vui đó cũng chỉ tạm thời , mà không hoàn toàn độc lập, hay vô điều kiện . Có nhiều điều kiện kèm theo như là : phải có nơi yên tịnh, thân thế phải khỏe mạnh để có thể ngồi yên, và có khả năng nhiếp tâm . Dầu niềm vui này không phụ thuộc căn trần bên ngoài, nó vẫn c̣n phải tùy thuộc vào các điều kiện của thân , tâm . Niềm vui đó chưa phải là tuyệt đối .

KIẾN TÁNH

Niềm hạnh phúc thứ tư ở cấp bậc cao nhất, là niềm vui của nội tâm, kiến tánh . Kiến tánh trong ngôn từ Phật học, được dùng khi nói đến sự hiểu biết về vô thường, phiền năo và vô ngă . Nếu ta có thể thấy rơ được bản tánh của một trong ba đặc tính này, th́ ta biết tất cả, v́ chúng liên hệ nhau .

Niềm hạnh phúc tuyệt vời của kiến tánh có nghĩa là ta đă dẹp bỏ được chấp ngă . Khi ta có thể buông bỏ cái tôi, th́ ta sẽ nhẹ nhàng giải thoát xiết bao .

Ramana Maharsi , một hiền triết ở miền Nam Aán Độ , so sánh những vọng tưởng về Ngă chấp giống như một người hành khách trên tàu hoả . Đă bước vào toa rồi, người ấy cứ ôm chặt các hành lư trong tay, thay v́ bỏ các hành lư vào chỗ để hành lư . Cũng thế , dầu không cần thiết, ta luôn mang mớ hành lư nặng nề của ngă chấp theo bên ḿnh . Những vọng tưởng về ngă chấp làm ta thấy mọi việc có vẻ đe doạ, tấn công ta, họa hoằn lắm th́ bảo vệ ta , nhưng khó đối trị ,như ngọn núi ta phải vượt qua . Nó làm cho cuộc đời thêm khó khăn .

Các món phiền năo , ô trược là ḷng ham muốn, sân hận, yếu đuối, lo âu, càn bướng, bám víu và quan điểm riêng của ḿnh . "Khi ta hoàn toàn buông bỏ các quan điểm, ư kiến của ḿnh, ta có thể nh́n thấy bản vẽ của mọi vật rơ ràng hơn", đó là đức tính của bậc A la hán . Với chúng ta các quan điểm, ư kiến chính là sự thất bại của ta . Khi ta bắt đầu bảo vệ quan điểm, ư kiến của ḿnh , th́ thực ra ta đang bảo vệ cho cái tôi của ḿnh . Sự tranh căi về một quan điểm cho ta thấy rằng quan điểm đó không được thiết lập dựa trên kinh nghiệm . V́ người ta không cần bào chữa cho kinh nghiệm . Giaó lư của Đức Phật dựa trên kinh nghiệm mà có . Trong khi quan điểm dựa vào Ngă chấp . Cả hai (quan điểm và Ngă) đều không phải là sự thật tuyệt đối .

Nh́n thấy rơ ràng tất cả những thăng trầm, biến đổi của vạn vật, trong đó có bản thân chúng ta , giúp ta thấy rằng không có ǵ trong cơi đời này đáng ǵn giữ, bám víu . Nhờ có kiến tánh, ta không chống báng quan điểm của ngừơi khác, tránh nẩy sinh ra bao nhiêu phiền phức trong cuộc đời . Mỗi người có quan điểm riêng của ḿnh. Không có ǵ tốt hơn là chúc phúc cho họ thay v́ tranh căi . Sự bám viú vào quan điểm của ḿnh cho thấy là ta vẫn chưa hiểu rơ tính cách vô thường của sự vật . Nếu hiểu rơ đượïc sự vô thường , ta sẽ không nói " Tôi thế này, tôi thế nọ" để có thể xem xét sự việc cẩn trọng hơn . Tôi là ai ? Tôi có phải là ngừơi sáng hôm qua được thiền định? Hay là người sáng nay tọa thiền mà cứ lo ra ? Là kẻ có tâm nghi hoặc hay người hết ḷng tin tưởng vào Phật Pháp ? Người nào là tôi ? Hay tôi là tất cả những ngừơi ấy ? Nếu thế, tôi thật là hỗn tạp . Tôi phải là thiên hạ, chứ không phải một người . Vậy th́ ta phải chọn lựa : Tôi là tất cả hay là không . Nếu không nhận là không th́ phải là tất cả . Thử tưởng tượng cả trăm ngàn con người khác nhau trong một con người . Nói thế không phải là khuếch đại đâu, trong suốt cuộc đời ta đă có hằng triệu tư tưởng , ư nghĩ, cảm giác, quan điểm, phản ứng khác nhau, đó là chỉ một cuộc đời . Nếu ta chọn làm tất cả th́ cuộc đời ta sẽ phức tạp, đau khổ hơn nếu ta không là ai trong họ cả . Vậy th́ tại sao không chọn cái không ?

Kiến tánh không dung chứa Ngă chấp . Tại sao ? V́ "cái Tôi" muốn hiện hữu . Muốn được là ǵ đó . Là ǵ ? Là ai ? Ở đâu ? Để làm ǵ ? Tất cả chỉ là các quan điểm, được điều kiện hoá qua quá tŕnh tư duy của ta . Khi ta không chấp vào bất cứ điều ǵ, an lạc sẽ đến với ta . Ta hạnh phúc trong sự biết chấp nhận . Không có ǵ cần đựơc hoàn thành, tạo tác hay thay đổi . Tất cả đều như tự thể của chúng .

Bốn mức độ của niềm vui khởi đi từ ngũ dục đến kiến tánh là một quá tŕnh thanh tịnh hoá liên tục . Tất cả chỉ có thể chứng nghiệm bằng kinh nghiệm của bản thân . V́ lẽ đó sự tu tập của đời sống nội tâm phải được ưu tiên . Ta không thể lơ là, chễnh măng dù đang ở đâu, làm ǵ : ở băi biển, trong thiền viện, đang lái xe, hay ở trên máy bay . Không được nghỉ ngơi . Để thoát ra khỏi ngũ dục, ta cần nghĩ đến việc phục vụ cho người khác trước tiên . Nghĩa là tu tập từ bi . Phục vụ cho người khác nghĩa là tập quên ḿnh . Phục vụ người khác có thể bằng nhiều h́nh thức . Giúp người rửa tay chân hay giúp người tu thiền, cũng là phục vụ, không có ǵ khác nhau . Phục vụ là ḷng từ, từ tâm là phục vụ . Tâm định có đựơc là nhờ ḷng từ . Một trong mười một điều lợi ích khi có từ tâm là tâm ta sẽ vào định dễ dàng .

Không nên coi Định như là một mục đích, cứu cánh của ta . Đó chỉ là phương tiện . Phương tiện nuôi dưỡng tâm để quán xét thực tại . Có hai loại thực tại : tương đối và tuyệt đối . Ai cũng biết thực tại tương đối . Trong đó có đàn ông, đàn bà, trẻ già, giàu, nghèo, ngu, khôn . Có thú vật, cây cỏ, bông hoa, trăng sao, thiên đàng và tất cả những thứ mà ta nghĩ sẽ ban cho ta hạnh phúc . Trong thực tại tuyệt đối, không có ǵ giống như thế . Chỉ có các bản thể vật chất của những thứ taọ ra bởi tâm . Tất cả chỉ có thế . Không có cái gọi là "tôi", là "anh" . Không có ǵ chỉ có bản thể sự vật luôn biến đổi . Ngay đến vũ trụ quanh ta cũng thay đổi . Và chúng ta cũng thế .

Tâm định, an lạc. hạnh phúc là tâm có thể chấp nhận đực thế giới luôn biến đổi này và sử dụng nó như thế nào để có ích . Tâm không ổn định sẽ không thể chấp nhận những việc bất như ư, họ nói :"Nhưng tôi muốn được hạnh phúc, sung sướng" . Đó là tâm của đa số chúng sanh . Tâm luôn an lạc và không phụ thuộc vào ngoại giới, là tâm có thể nói :"Đây là sự giải thoát ra khỏi những khổ đau . đây là hạnh phúc thực sự" . Tâm đó sẽ nh́n rơ thực tại tuyệt đối của tất cả những ǵ đang xảy ra trên thế giới, không phải bám víu, nương tựa vào bất cứ điều ǵ, không phải trở thành ǵ, hay là ǵ đó trong đời . Tâm chỉ làm những ǵ cần thiết phải làm ở một thời điểm nào đó, rồi buông xả .

Niềm vui kiến tánh không phải là sự lâng lâng, oà vỡ . Đó là thứ hạnh phúc chứa đựng an b́nh, không phải có được do tham cầu, mong ước . Khi không c̣n vọng tưởng, tâm chân thật sẽ nhận biết được điều đó .




__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 10 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:49pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

NGŨ UẨN

Khi mới bắt đầu thực tập thiền, ai cũng rất phấn khởi , "Tôi sẽ thực tập thiền thật tốt kể từ hôm nay" . Sau vài ngày, khi đă quen quen, th́ tâm bắt đầu suy nghĩ :"Không biết tu tập đến chừng nào đây ? Biết bao giờ mới chấm dứt ?" nó sẽ chấm dứt , tôi bảo đảm với bạn, v́ mọi thứ đều phải chấm dứt, không có ǵ vĩnh cửu .

Khi tâm bắt đầu bàn ra, ta cần nhận biết điều đó để tự nhủ :"À, tâm lại sắp dở tṛ ǵ đây ?" . Đừng nghe theo nó . Ta đă không nghe nó khi đang tọa thiền th́ tại sao lại phải nghe nó lúc khác . Có tọa thiền hay không, tâm cũng thích đùa cợt ta .

Mỗi khi tâm nói những lời như :"Tôi bỏ cuộc , tôi sẽ chẳng bao giờ có thể giác ngộ" hay "Tôi tiến bộ quá rồi, tôi có thể nghỉ xả hơi", th́ ta phải trấn an tâm bằng : "hăy im đi tôi đang hành thiền đây" . Vấn đề là ta phải có quyết tâm, kiên định, là một trong mười điều thiện . Không có ḷng quyết tâm , ta sẽ chẳng đi tới đâu cả .

Không chỉ vậy , tâm c̣n biết bao điều khác để nói . Không được hưởng dục lạc, tâm muốn được tiêu khiển bằng những tṛ chơi khác . Nó vẫn thường được giúp vui, bằng bao nhiêu tṛ hấp dẫn . Nó thường được chuyện tṛ, đi đó đi đây, xem bao nhiêu cảnh lạ, đi mua sắm, chọn lựa những thứ nó ưa thích . Nó thường được gặp, làm quen với bao nhiêu bạn bè mới . C̣n ở đây, toàn những khuôn mặt quen cũ . Không có ǵ mới lạ, không có ǵ đáng bàn căi, thảo luận . Nó thường được thưởng thức bao nhiêu thức ăn ngon và có quyền chọn lựa món ḿnh thích . C̣n ở đây, chỉ những ǵ được dọn lên .

Tất cả những thứ này làm tâm bực dọc, v́ nó vẫn từng được mọi thứ nó muốn . Cái TÔI nói :"Tôi muốn làm theo ư tôi, không theo ư ai cả" . Chúng ta đă quá quen suy nghĩ như thế đến nỗi ta chẳng bao giờ ngừng lại để suy xét về thái độ này . Nếu biết suy xét ta đă thấy rằng : đó là ḷng ham muốn, tham đắm . Chính ḷng ham muốn đó sẽ đưa ta đến khổ đau . Không thể khác hơn được .

Khi tâm bắt đầu "dở chứng" ta phải biết cách đối trị tâm . Hăy làm bà mẹ . Để nói với tâm, như một đứa trẻ đang quấy rầy, rằng bạn chỉ muốn điều tốt lành cho tâm, muốn bảo vệ tâm và bạn biết điều ǵ tốt cho nó . Hăy vừa làm người mẹ, vừa là đứa con . Thông thường ta là năm mươi hay cả trăm con người khác nhau . Nghĩ tốt, nghĩ xấu, thương người này, ghét kẻ kia, tạo bao lăng xăng lộn xộn bên trong . Và ở đây cũng vậy, ta là mẹ, mà cũng là con . Đứa con muốn tất cả mọi thứ phải chiều theo ư nó , và người mẹ khuyên lơn :"Không . Ta phải làm cách ǵ tốt nhất, không hẳn là dễ chịu nhất, nhưng khôn ngoan nhất " .

Lư do tại sao có những khó khăn này đă được Đức Phật giải thích do sự bám víu vào ngũ uẩn của chúng ta . Là những ǵ ta đă được cấu tạo thành . Ngũ uẩn ở trong chúng ta . Nhưng ta vẽ vời thêm cho chúng . Rồi tin vào những điều đó như thật theo như ư muốn của tâm .

THÂN

Cơ quan lớn nhất, dễ nhận thấy nhất của ngũ uẩn là thân . Không ai không có, và không ai không khổ v́ nó, không lúc này th́ lúc khác . "Tôi không ngồi được . Đầu

gối tôi đau . Lưng tôi mỏi . Bụng tôi khó chịu . Tôi chóng mặt . Tôi mệt mỏi" .

Đức Phật nói kẻ không giác ngộ, không tu tập có hai mũi tên làm đau hắn, và người giác ngộ, tu tập th́ chỉ có một . Hai mũi tên đó là thân và tâm, và một mũi tên là thân . Đức Phật thỉnh thoảng vẫn có bịnh nhưng Ngài vẫn tiếp tục thuyết pháp . Bịnh hoạn không cản trở được Ngài . Cuối đời, Ngài bịnh rất nặng, khi sắp sửa ra đi . Ngài nhập thiền định rồi tịch .

Các đấng Giác ngộ có tu tập cũng không thoát ra khỏi cái khổ do thân gây ra . Thân không hoàn toàn và luôn bất như ư . Đối với người không biết tu khi bị bệnh, bị ảnh hưởng bởi căn bệnh, tâm họ phản ứng bằng cách kêu lên :"Tôi không khỏe . Tôi không thể làm được điều này, điều kia v́ bịnh; cơ thể tôi đau nhức quá, tôi không ngồi, nằm hay đứng được " hoặc bất cứ thứ ǵ đă làm họ đau đớn . Tệ hại nhất là khi ta phải thay đổi tất cả các sinh hoạt của ḿnh theo sự đ̣i hỏi của thân . Có sự thay đổi nào rồi làm vừa ḷng thân không ? Có ai đă t́m ra phương cách ǵ để thân luôn cảm thấy thoải mái không ? Bạn có thể di chuyển nơi này, nơi nọ, thay đổi khí hậu, dời từ ghế qua giường, từ giừơng xuống đất , rồi trở lại ghế . Có ǵ thay đổi không ? Tất nhiên không . Lúc nào cũng có vấn đề . Nên tốt nhất là cứ ngồi yên trên gối thiền .

Thân này, một trong năm uẩn, có đặc tính là vô thường, luôn thay đổi . không ai chối căi điều này, nhưng tính vô thường mang đến phiền năo . Nếu ta có thể ngồi thoải mái th́ cũng năm hay mười phút sau là thân thấy khác . Sự khó chịu đau đớn lại phát sinh . Ngay như tối ngủ, nằm trên giường êm, thân vẫn không chịu yên .

V́ thân mang tính cách vô thường , biến đổi nên luôn có sự va chạm . Sự tuần hoàn của máu, chuyển động của phổi, tim, hơi thở – tất cả để duy tŕ sự sống, nhưng mỗi chuyển động gây ra cọ xát, va chạm . Đâu có thể nào khác hơn . Sự chuyển động gây ra những khó chịu nhỏ . Càng tỉnh thức, ta càng nhận biết rơ hơn các cảm giác khó chịu đó . Ta càng nhận ra rằng khi nào c̣n có thân là ta c̣n có khổ . Dần dần ta phải tập bỏ quên thân, không chạy theo mọi đ̣i hỏi của nó . V́ thân luôn có những đ̣i hỏi mới . Khi đă no bụng, nó đ̣i được bài tiết . Xong lại đ̣i ăn . Thân luôn đ̣i hỏi và không bao giờ chịu thỏa măn . V́ thân luôn thay đổi, nó cần cho vào , cho ra luôn, nếu không nó không thể tồn tại .

Đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta là con đường đi đến giải thoát là phải biết quán sát thân với chánh niệm . Ngài nói ai không biết quán sát thân bằng chánh niệm sẽ không thoát khỏi ṿng sanh tử . Điều đó khuyến khích ta buông bỏ không chạy theo mọi đ̣i hỏi vô lư của thân, cũng như giúp ta soi rọi lại tâm để thấy câu nói "Đây là thân tôi" là vọng tưởng . Nếu thật sự đây là "thân tôi", nếu tôi thật sự là chủ thân này th́ tại sao thân không làm theo những điều tôi muốn nó làm ? Sao nó không luôn trẻ đẹp , mạnh khỏe ? Ngay cả khi trẻ đẹp, mạnh khỏe, tại sao thân có những đ̣i hỏi ta không thể thỏa măn được như muốn luôn được thoải mái ? Tại sao nó chết khi ta c̣n muốn sống ?

Cho nên hoặc là tất cả đều đảo lộn, hay là ta đă có những quan niệm sai lầm trong tâm về thân, Ngă, và sự sống chết . Chúng ta ai cũng tin tưởng mănh liệt rằng thân này là của ta . Nhưng ta chẳng có thể làm được ǵ với thân ngoài việc luôn thoả măn các đ̣i hỏi của nó . Cho nó vào giừơng khi nó mệt, cho ăn khi nó đói, cho uống khi nó khát v.v…Ta bám theo các đ̣i hỏi của thân mà không thật sự làm chủ nó . Chánh niệm giúp ta chú tâm vào các chuyển động của thân, các đặc tính của thân, để dần dần nhận rơ ra rằng thân chỉ là một tổ hợp của nhiều thứ mà khi nào c̣n có sự sống , chúng c̣n hợp tác nhau làm việc . Sự hợp tác của các thành phần này cũng không phải là luôn ăn khớp, nếu không ta đă không cảm thấy đau nhức chỗ này, chỗ nọ, và sự hợp tác đó cũng chỉ kéo dài một khoảng thời gian nào đó thôi .

Ta gọi thân này là "của tôi", tạo ra ảo tưởng của Ngă . Chúng ta nghĩ là "Tôi biết tôi ra sao mà . Khi nh́n vào gương, tôi thấy "tôi" và tôi biết"tôi" . Vậy mà nếu ta quan sát kỹ hơn, ta sẽ thấy có cả ngàn "cái tôi" đủ kích cỡ, màu sắc . Đôi khi mập hơn, đôi khi ốm hơn, trước thấp , sau cao, tóc đen rồi tóc trắng, lúc đau khổ, lúc mừng vui . vậy th́ câu hỏi sẽ là " cái nào là tôi ?" Nếu câu trả lời là"Tôi là tất cả những người khác nhau đó" th́ ít nhất ta cũng nhận ra rằng ḿnh không phải là một, mà có thể là hàng trăm ngàn người như đă nói trước đây . Ai trong số cả trăm ngàn người đó thực sự là tôi ? Phải có một người nào đó thực sự để duy tŕ "cái tôi". Không thể một người mà là hàng trăm người khác có phải không ?

Chúng ta có thể nghĩ :"Tôi sẽ chọn "tôi" ở ngay lúc này". Nhưng c̣n những giây phút đó th́ sao ? Mười năm sau th́ thế nào ? Luôn luôn ở giây phút hiện tại, đó là tôi . Cuối cùng với cái tôi luôn thay đổi ta trở thành khó nhận diện nổi . Vậy mà ta cứ nghĩ thân này là của tôi, và coi nó quan trọng xiết bao . Tất nhiên là ta phải chăm sóc thân này . Nếu không ta có khác nào kẻ khờ . Nhưng để thân làm chủ cuộc đời ta th́ thật vô vọng, v́ thân chẳng bao giờ biết thỏa măn . Cho tới giờ lâm chung, thân luôn đ̣i hỏi sự thoải mái . Trong các bài thuyết giảng về nền tảng của Chánh niệm . Đức Phật có nhắc đến một số phương pháp thiền định có thể giúp ta buông bỏ sự bám viú vào thân, ảo tưởng chấp Ngă .

Phải có sự hài hoà giữa b́nh an và trí tuệ . Trí tuệ là điều tiên quyết và có thể đạt được vô điều kiện . Sự b́nh an sẽ phát sinh khi ta có khả năng chú tâm . Nếu v́ lư do ǵ đó, thân không thể ngồi yên, th́ sự b́nh an, tĩnh lặng cũng biến mất và trí tuệ đă không phát sinh . Trí tuệ về thân phải là một phần, là trang bị của con đường tâm linh.

Cách quán thân Đức Phật đă dạy chúng ta trong các bài giảng về chánh niệm gọi là quán thây ma hay cách quán về cái chết của chính ḿnh . Ai rồi cũng phải chết, nên tốt nhất là chúng ta nên chấp nhận nó ngay từ bây giờ, chứ đừng đợi đến khi nó xảy ra . Hôm nay có thể ta c̣n thấy sợ hăi mỗi khi tim ta đập sai nhịp hay khi ta cảm thấy không được khỏe mạnh như hồi c̣n trẻ . Một trong những cách quán về sự chết là tự nh́n ḿnh như là một bộ xương . Hăy tưởng tượng ra một bộ xương đang ngồi trong tư thế tọa Thiền . Kế tiếp lấy từ bộ xương ra những mảnh xương nhỏ xếp từng cái bên nhau . Hăy để bộ xương tan ră thành cát bụi . Phép quán này làm tan đi những mộng tưởng về ngă và sự bám viú vào thân xác này .

Một trong những yếu điểm của ta là ḷng ưa thích được thoải mái tấm thân . Chúng ta không dám thức khuya v́ sợ nó mệt . Lo bảo vệ nó khỏi muỗi ṃng, khỏi thời tiết nóng lạnh, khỏi tất cả những ǵ có thể gây cho thân sự khó chịu . Chúng ta luôn bận rộn bảo vệ thân và mất quá nhiều th́ giờ quư báu cho việc này .

Biết về cái chết là một chuyện, nhưng có thể tưởng tượng ra cái chết của chính ḿnh trong đầu và chấp nhận nó với tinh thần xả bỏ là một chuyện khác nữa . Hăy thử phép quán này trong lần tọa Thiền tới . Hăy quan sát cái chết của ḿnh, và ghi nhận các phản ứng của ḿnh . Có thể phản ứng đầu tiên sẽ là :"Không, tôi không thể thực hiện được, tôi không muốn làm điều đó" Hăy cố gắng lên . Các bài giảng căn bản về chánh niệm nổi tiếng v́ nó giúp ta đạt được trạng thái không c̣n sanh tử, gọi là giải thoát . Phần đông chúng ta thực hành Thiền quán v́ ta cần t́m sự an b́nh, tĩnh lặng . V́ ta muốn trốn chạy những phiền năo, t́m niềm vui trong thiền định . Tốt thôi . Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của Pháp . Đức Phật gọi đó là "hạnh phúc thường hằng" do những điều kiện thuận lợi mang tới . Tuy nhiên có nhiều người không thể ngồi Thiền do những điều kiện của thân thể không cho phép . Có người đă bỏ cuộc ra về , v́ tâm họ không chịu được sự khó chịu của thân . Tất cả chúng ta đều có thể phản ứng như thế . Hăy cẩn thận trước khi nó xảy ra, và sửa đổi bằng cách nh́n thân đúng hơn .

THỌ

Kế tiếp là thọ uẩn, gồm các cảm giác vui buồn của chúng ta . Thọ uẩn cũng góp phần quan trọng về việc tạo ra ảo tưởng về cái Tôi, v́ chúng ta thường nghĩ rằng các cảm giác là Ta . Tôi cảm thấy vui, cảm thấy buồn, thấy b́nh an, thấy bất an . Tuy nhiên nếu chúng là của ta, th́ sao ta không có quyền hạn ǵ đối với chúng cả ? Sao ta không thể lúc nào cũng được vui, được hạnh phúc ? Tại sao không ? Ai là người có quyền quyết định sự vui buồn của ta ?

Aûo tưởng về Ngă chấp phát sinh v́ ta tin rằng thân này, các cảm thọ này là của ta . Tuy nhiên khi thật sự quán xét về chúng, ta thấy rằng ta chẳng có quyền hạn ǵ với chúng cả . Mọi việc chỉ xảy ra như thế . Th́ tại sao ta nghĩ chúng là ta ? Khi có cảm giác khó chịu, buồn khổ, bực bội, tuyệt vọng th́ ta trở nên khó chịu , buồn bực, chán nản, tuyệt vọng . Chúng ta phản ứng bằng cách đeo bám vào các cảm thọ, thay v́ chỉ nhận biết là chúng đă dấy khởi, rồi chúng sẽ qua đi như tất cả mọi cảm thọ khác .

Ngay giây phút ta có thể bỏ qua, không chú tâm đến các cảm thọ vui buồn, chán nản, tưởng chừng không thể chịu đựng được, th́ chúng sẽ biến mất qua đi . Nhưng thay v́ thế, ta lại tin rằng những cảm thọ này sẽ ở lại với ta, để bị chúng lôi cuốn theo . Khi cảm giác sân giận dấy khởi, ta trở nên sân giận, thay v́ chỉ nói :"À, đúng rồi đó là cảm giác giận hờn . Nó sẽ qua thôi . Tôi sẽ không để ư đến nó" . Sẽ không có ǵ tạo ra cái Tôi, nếu như không có niềm tin rằng :" Thân này là tôi . Các cảm giác này là tôi ".

TƯỞNG

Kế tiếp là tưởng có nhiệm vụ cho ta biết về các sự vật . Khi mắt nh́n thấy vật ǵ, nó chỉ có thể nhận ra h́nh dáng, màu sắc . Mắt chỉ có thể thấy là vật đó vuông , trắng ở phía trước, phiá sau đen . Nhưng v́ ta đă nh́n thấy vật đó nhiều lần trước đây, ta biết đó là cái đồng hồ . Lúc đó trong đầu ta sẽ nói "đồng hồ" rồi nói tiếp theo"không biết đó là đồng hồ nội hay ngoại, có thể là ngoại ở Úùc chăng ? Không biết bên đó giá bao nhiêu ?" Đó là sự đối thoại của tâm . Nhưng nếu đó là một em bé ba tuổi, th́ em không thể biết đó là cái đồng hồ, mà tưởng rằng đó chỉ là một món đồ chơi . Là những thứ em bé đă quen thuộc . Đó là cái Tưởng của bé về chiếc đồng hồ .

Thị giác chỉ nh́n thấy h́nh thể, màu sắc, nhưng chính là cái Tưởng có những điều kiện của kư ức cho ta biết việc này, việc nọ . Người không có đồng hồ sẽ có thể nghĩ :"Tôi muốn có một cái như thế" . Trong khi người có cái tốt hơn , sẽ có thể nghĩ :"Cái của tôi giá trị hơn nhiều". Ngă chấp lập tức dấy khởi, khẳng định ḷng ham muốn hay cảm giác hơn người . Trên thực tế tất cả chúng ta đều thấy một cái hộp vuông, trắng ở phía trước, phía sau đen . Nhưng v́ ảo tưởng về cái Tôi, các điều kiện hoá cái Tưởng đă tạo ra một quá tŕnh tư duy làm ta tin rằng thế này thế nọ . V́ chưa bao giờ mổ xẻ, quán sát sự suy tưởng của ḿnh, ta tin vào đó . Sự tin tưởng đó của ta càng nuôi dưỡng thêm ḷng chấp Ngă . Lúc nào ta cũng suy nghĩ v́ ta cần nuôi dưỡng ảo tưởng về cái Ngă của ḿnh . Tự Ngă rất mong manh, nó sẽ ngă đổ nếu không có sự tiếp sức của ta . Khi chúng ta luôn thoả măn những đ̣i hỏi của thân, và trở thành các cảm thọ để nâng đỡ cho ảo tưởng về Ngă . Nhưng nếu chúng ta có thể quán xét các cảm thọ và nói rằng :"Đó chỉ là một cảm thọ", th́ ngă chấp đă không được tăng trưởng .

Tự Ngă luôn cần được nâng đỡ v́ nó không có thật . Ta không cần phải luôn nói :"Đây là cái nhà . Đây là cái nhà to . Đây là cái nhà cũ" . Điều đó quá rơ ràng v́ cái nhà có thật . Nhưng tự Ngă th́ không , do đó nó cần khẳng định về nó luôn luôn . Sự ủng hộ này do quá tŕnh tư duy, cộng thêm các giác quan, các cảm giác được thương , được yêu, và cái Tưởng của ta mang đến .

HÀNH

Hành được coi là nguyên nhân của nghiệp . Hành tạo ra nghiệp . Ngay giây phút, ta có tư tưởng suy nghĩ, ta đang tạo ra nghiệp của ḿnh . Nếu như ai đó thấy chiếc đồng hồ và nói :"Đó là cái đồng hồ tôi không có, ước chi tôi có một cái"lúc đó nghiệp đă tạo h́nh, đó là nghiệp tham ái . Hay có người nói :"Cái đó đẹp quá . Của tôi không đẹp bằng" Đó là nghiệp ganh tỵ . Ngay khi tư tưỏng dấy khởi, th́ một nghiệp đó liền được tạo h́nh . Có nghiệp trung tính . Không có ảnh hưởng ǵ . Như khi người ta nói :"À, đó là cái đồng hồ" đó là một nhận xét khách quan . Nhưng phần đông chúng ta đều tạo nghiệp lành hay nghiệp ác . Nếu thấy một màu sắc nào đó, ta có thể nói :"Tôi sẽ sơn nhà tôi cũng màu đó", đó có thể là trung tính, không lành, không ác . Nhưng đằng sau đó, có thể ta đă có một ư muốn có được cái nhà đẹp hơn hàng xóm . Th́ đó không phải là nghiệp lành .

Khi ta tin vào tất cả những ǵ đi qua tâm trí ḿnh, là ta đă vô t́nh nuôi dưỡng thêm ḷng chấp Ngă . V́ lẽ đó khi tọa Thiền, ta khó dẹp bỏ hết mọi suy nghĩ . V́ làm thế th́ sự nâng đỡ cho tự Ngă không c̣n . Ngay như khi ta có thể ngưng suy nghĩ trong chốc lát, và có được sự an b́nh, tĩnh lặng, lập tức tư tưởng quay trở về :"Cái ǵ vậy ? Ồ , cảm giác dễ chịu quá". Vậy là sự chú tâm của ta bị gián đoạn, lại phải bắt đầu trở lại . V́ ta suy nghĩ không ngừng, nghiệp của ta đă được tác tạo liên tục . Nào là phán đoán, quyết định , bám víu, xô đuổi . Chỉ có tâm chánh niệm từng giây phút mới có thể giúp ta quán xét đúng . Lúc đó ta sẽ có thể biết ḿnh đang làm ǵ, và không phải tin vào tất cả những ǵ trong đầu ta . Trong khi tham Thiền, ta có thể thấy là hầu hết những suy nghĩ của ta đều không chính đáng . Có thể chúng quá xưa cũ, đă qua rồi hay chưa xảy đến . Hay chỉ thuần là tưởng tượng . Phần lớn các tư tưởng đi qua trong đầu thật sự không dính dánh với những ǵ ở quanh ta . Tâm ta chỉ chờ có chất xúc tác nào đó, là bám lấy để giở tṛ đùa với chúng ta .

THỨC

Uẩn cuối cùng là Thức, tức sự cảm nhận của các giác quan . Là sự xúc chạm của các giác quan . Mắt, vật thể và thị giác, tạo nên cái nh́n . Tai, âm thanh và cảm nhận của tai, tất cả tạo nên cái nghe . v.v… Chúng ta luôn sử dụng các giác quan . Ngay bây giờ các bạn đang sử dụng thính giác, thị giác, xúc giác và tâm thức . Thị giác giúp bạn quan sát sự vật quanh ḿnh, thính giác giúp bạn nghe được tôi nói, và xúc giác giúp được bạn biết được vị trí chỗ ngồi của ḿnh . Trong khi tâm giải mă những điều nó đă tiếp thu được . Chúng ta luôn cố gắng tạo ra những điều kiện, trạng thái để các sự xúc chạm sẽ đem đến cho ta sự dễ chịu . Nhưng chỉ hoài công . Khó thể có được những cảm giác xúc chạm hoàn toàn dễ chịu . Qua các giác quan lúc nào ta cũng gặp phải sự đối kháng từ bên ngoài . Đó là cuộc đời của mọi chúng sanh hữu t́nh, nhất là ở cơi giới của người . Thí dụ như khi có tiếng động lớn, ta thường sợ hăi . Ngay với những thứ âm thanh dễ chịu, nhưng nếu ta phải tiếp tục nghe chúng, ta cũng không thể chịu nổi .

Các giác quan không giống như ta nghĩ . Thực ra ta cũng không để ư đến chúng, coi sự có mặt của chúng như là đương nhiên, và chỉ nghĩ đến các cảm giác khoái lạc . Dĩ nhiên là ta có thể t́m được các cảm giác khoái lạc qua các giác quan, nhưng ít ai nghĩ được rằng chính chúng đem lại đau khổ cho ta . Chúng không ngừng thúc đẩy , áp lực ta từ mọi hướng, để t́m cảm giác thoải mái cho chúng .

Đức Phật đă kể một ẩn dụ về thân, sự đ̣i hỏi không ngừng của nó và kết quả khổ đau của nó . Một cặp vợ chồng đi qua sa mạc với đứa con nhỏ . Họ không c̣n thức ăn, nhưng cứ tiếp tục cuộc hành tŕnh cho đến khi quá kiệt sức, đói khát họ không thể cất bước . Cuối cùng họ phải giết đứa con để ăn thịt .

Thức th́ được so sánh như một kẻ tù đày đang bị hai người bạn kéo vào ḷ lửa . Cũng thế quá tŕnh tư duy của ta, dầu tốt hay xấu, cũng kéo ta vào ngọn lửa luân hồi . Với các câu chuyện này , Đức Phật cho ta thấy đau khổ đă gắn với kiếp con người, để ta cố gắng tu sửa để thoát ra khỏi ṿng luân hồi sinh tử . Chúng ta phải hiểu rằng không có ai là chủ của thân, của thọ, tưởng , hành và thức . Đó là điều khó nhất trong giáo lư Phật giaó . Khó để h́nh dung và khó để chứng nghiệm . Không có Thiền quán, điều đó sẽ măi chỉ là một sự thực tập có tính cách trí tuệ .



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 11 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

MƯỜI ĐIỀU THIỆN





Bố thí, Giói hạnh, với Xả ly
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Tù bi,
Và Xả bỏ nữa là mười .

Lời Phật dạy
Buddhavamsa II Verb. 76

Muốn tu Thiền, hành giả cần có ba đức tính : độ lượng, đức hạnh và từ tâm . Nhưng cuộc sống tâm linh cao đẹp c̣n cần đến những đức hạnh khác nữa và chúng cũng cần được vun trồng .

Những đức hạnh này là paramis (parama) có nghĩa là tối thượng (ba la mật), là bản tánh chân thật đă có sẵn trong chúng ta . Nếu không, có khác nào ta vun trồng từ mảnh đất hoang . V́ chúng đă có sẵn trong ta , ta có thể bắt đầu từ đó . Tuy nhiên nếu ta không có ư muốn thực hành những điều thiện này, ta sẽ không có được một tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tôi cần để làm chủ nghiệp ḿnh . Chúng ta luôn phải dựa vào t́nh cảm và ḷng tốt của người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái của thân . Chừng nào chúng ta c̣n phải dựa vào một hay tất cả những thứ kể trên , là ta c̣n phải nô lệ chúng . Mà phải sống kiếp nô lệ th́ chẳng thú vị ǵ . Phải luôn sống trong sự sợ hăi . Dĩ nhiên, ai cũng có những nỗi sợ hăi, nhưng phải tùy thuộc vào người khác, hay hoàn cảnh th́ không thể có được sự tự do suy nghĩ hay hành động . Những thứ tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát . Nói như thế không có nghĩa là chúng ta muốn làm ǵ cũng được . Tự do tư tưởng có nghĩa là ta có những suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định hành động của ḿnh .

BỐ THÍ

Điều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu với là bố thí, ch́a khóa mở mọi cánh cửa . Không có nghĩa là những đức hạnh khác kém quan trọng, nhưng nếu ḷng bố thí không được vun trồng, th́ con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó thể khai thông . Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành tŕnh và đó là bước đầu tiên, là đức hạnh đầu tiên ta cần phải có .

Đức Phật nói về ba loại bố thí : cho người ăn xin , loại cho bằng hữu và loại vương tước . Loại bố thí cho người ăn xin là khi ta bố thí những thứ ta không cần đến – những thứ khi dọn dẹp nhà cửa ta cần vất đi . Bố thí những thứ này, dầu có tốt hơn là không bố thí, nhưng không được rộng răi lắm , v́ ta không làm giảm bớt những tham muốn và bám víu của ḿnh .

Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẻ những ǵ ta có với người quanh ta . Ta bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại phần khác .

Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta giữ lại . Rất hiếm thấy có phải không ? Phần đông chúng ta không làm thế .

Bố thí cần phải có động lực chính đáng . Nếu ta bố thí v́ muốn đánh đổi lại một thứ ǵ đó – lợi lộc, lời khen tặng, ḷng biết ơn – th́ sẽ chẳng lợi ích ǵ . Điều này nghe có vẻ nghịch lư : Bố thí không phải để được nhận trả lại điều ǵ đó . Bố thí chỉ v́ ta muốn bố thí . Nhưng nếu suy xét kỹ ta sẽ thấy sự thật rất rơ ràng . Nếu ta bố thí chỉ v́ muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh phúc, vui vẻ, tâm an b́nh và sung sướng . Người ta có thể bố thí v́ cảm thấy ḿnh dư dả . Hay v́ muốn chia sẻ với người khác sự sung túc, giàu có của ḿnh . Hoặc bố thí v́ ḷng từ bi đối với người khác . Đức Phật bố thí v́ ḷng từ bi đối với chúng sanh .

Bố thí không chỉ bằng tài vật . Không phải ai cũng có của cải vật chất để ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó . Thật ra phần đông chúng ta không nhớ ḿnh có ǵ nữa, cho đến khi phải dọn nhà, lúc đó ta mới thấy ḿnh có quá nhiều . Chúng ta qua có nhiều những đồ dùng trong nhà đến nỗi ta có thể cho bớt đi mà vẫn không thấy thiếu thốn . Nhưng của cải không phải là thứ duy nhất ta có thể san sẻ . Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm chăm sóc của ḿnh cũng như chia sẻ tài năng khả năng của ḿnh . Đó là mặt quan trọng của bố thí , và sự bố thí này được chính phủ cũng như các cơ quan từ thiện thực hành rộng răi . Chỉ có một điều là với những h́nh thức từ thiện này, đôi khi người trực tiếp làm các công tác này chỉ làm v́ đồng lương chứ không v́ ḷng từ bi thật sự, nên công việc làm của họ có tính cách thương mại . Nhưng nếu ta bố thí khả năng, tài năng của ḿnh, mà không nghĩ ǵ đến việc trả ơn th́ ta bố thí v́ ḷng từ . Đức Phật đă bố thí Pháp với ḷng thương xót cho chúng sanh .

Sự bố thí này không chỉ có đi mà cũng có lại . Ta càng bố thí v́ ḷng từ bi , ḷng từ bi trong ta càng tăng trưởng . Điều này cũng dễ hiểu thôi nhưng ít ai nghĩ đến . Có người bố thí để được người khác tử tế lại với ḿnh . Nhưng nếu ta bố thí thật sự v́ ḷng tốt phát ra từ trái tim, th́ rơ ràng ta phải có nhiều ḷng tốt hơn thế để an phát cho người khác .

Tuy nhiên bố thí dù dưới h́nh thức nào cũng giúp ta bớt chấp ngă, và đó là lư do tại sao bố thí được kể đầu tiên trong mười điều thiện mà ta cần vun trồng, bảo vệ . Khi Đức Phật chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài hoàn thiện và có bao nhiêu câu chuyện về các đức tính này của Đức Phật trong quyển Jataka, chuyện từ các tiền kiếp của Đức Phật .

Ḷng từ bi của bậc Bồ tát c̣n đi xa hơn nữa, họ c̣n bố thí cả thân ḿnh . Hy sinh tánh mạng ḿnh cho ai là cách bố thí cao cả nhất . Người tầm thường như chúng ta khó mà làm nổi . Tuy nhiên có nhiều mức độ bố thí, mà một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm giảm bớt ḷng chấp Ngă của ta . Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều hơn nữa ḷng chấp Ngă, nếu đằng sau đó là những động lực chính đáng .

Làm giảm Ngă chấp là mục đích trên con đường thanh tịnh hoá, dần dẫn ta đến kinh ngiệm của sự vô ngă . Ta không thể chỉ hy vọng, cầu nguyện hay tưởng tượng ḿnh sẽ được có kinh nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu làm ǵ đó để thay đổi sự bám viú vào tự Ngă . Bằng cách nào ? Bố thí là một sự khởi đầu tuyệt vời .

GIỚI HẠNH

Kế đến là giới hạnh, liên quan đến việc giữ ǵn năm giới . Đức hạnh này làm giảm bớt và dần giúp ta chế ngự được ḷng tham và sân . Làm giảm bớt ḷng sân tham cũng là một cách để làm giảm Ngă chấp v́ sân tham chỉ có thể phát sinh do có các ảo tưởng về Ngă .

Tất cả các Pháp của Đức Phật cũng là như thế . Đôi khi ta cảm thấy bối rối trước các giáo lư của Đức Phật về sự giải thoát tâm linh . Nhưng các giáo lư này giống như những mảnh rời của một bản h́nh xếp khổng lồ . Khi ta có thể đặt một vài mảnh vào đúng vị trí của chúng, th́ các mảnh c̣n lại sẽ được an bài thôi . Tất cả Pháp đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm ḷng chấp Ngă, rồi dần dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngă chấp, để đi đến Vô ngă .

Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng thể đó . Khi chúng ta không làm hại đến các sinh vật khác, th́ ḷng ta bớt sân hận . Ta chỉ có thể làm hại hay huỷ hoại những ǵ ta không thích . Khi ta không lấy những ǵ không phải của ḿnh, th́ ḷng tham được giảm xuống . Chỉ khi có ḷng tham , ta mới lấy lại của cải của người . Cũng thế đối với những sai phạm trong t́nh dục . Aùc ngữ là do ḷng tham hay sân mà ra . Các thứ độc hại như rượu, ma túy là do ḷng tham muốn thỏa măn nhục dục mà những thứ này có thể dễ dàng mang đến cho ta .

XẢ LY

Xả ly thường được nghĩ đến như một đức tính của riêng các tăng ni, các thầy yoga hay những người sống ẩn dật trong các hang núi, nhưng đó không phải là một suy nghĩ hoàn toàn đúng . Xả ly có nghĩa là buông xả những ảo tưởng về tự Ngă . Nếu trong khi toạ Thiền ta không cố gắng phần nào làm được như thế, th́ ta khó mà đạt được Thiền định . Cái Ngă của ta thích được nuông chiều, chú ư đến luôn . Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm điều ǵ thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi t́nh trạng đó bằng những việc làm như tṛ chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ thứ ǵ vừa ḷng nó . Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen này, việc tọa Thiền của ta khó thể thành công .

Cũng thế tất cả các thiện tánh đều giúp cho sự tọa thiền của ta . Chúng nâng đỡ cột sống của ta . Thiền định cần có một cột sống vững mạnh, không phải chỉ do ngồi thẳng, mà c̣n phải có tâm chánh niệm .

Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải biết xả ly . Điều đó có nghĩa là buông bỏ mọi ư niệm về cái tôi, mọi tham vọng , ước muốn của cái tôi . Tất cả những suy nghĩ đó chỉ cũng chỉ củng cố thêm ḷng chấp ngă, đưa ta đến chỗ sai lầm . Những ǵ ta nghĩ ta sở hữu – cái nhà "của tôi" bàn ghế "của tôi", chồng "của tôi" vợ "của tôi", con cái "của tôi" thân quyến "của tôi", xe "của tôi" , nghề nghiệp "của tôi", văn pḥng "của tôi", bạn bè "của tôi" – làm cho "cái tôi" cảm thấy an toàn hơn v́ tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ . Tạo cho tự Ngă những ảo tưởng về một sự vững bền . Nhưng không có người nào hay sở hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến đổi.

Nếu thật sự có sự bền vững đó, th́ cái nhà , cái xe càng to, càng có nhiều bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều chồng , th́ con người càng cảm thấy thêm an tâm . Thực tế th́ càng có nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm phiền năo, lo âu . Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà vợ thay v́ một . Hăy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó ! Đó chỉ là một trong những tà kiến về những ǵ có thể mang đến cho con người sự an tâm . Ta chỉ thích bao bọc ḿnh với những ǵ tạo nên "cái tôi", "cái của tôi" . Tư duy của ta khiến ta trở nên như thế, dầu rơ ràng ta không thể làm chủ ai khác được . Con người có thể ra đi không định trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu, hay bỏ rơi nhau không lời từ giă . Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ . Vậy mà ta vẫn gọi họ là "của tôi", và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng ta . Một khi ta tin như thế ta bám viú vào họ suốt đời . Họ phải lúc nào cũng là "của tôi". Đó là quá tŕnh tự xác định cái Ngă với gia đ́nh của chúng ta, với công việc của chúng ta và với tất cả những sở hữu của chúng ta . Thay v́ với chỉ một "cái tôi", giờ chúng ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác nữa . Như thế chúng ta trở nên to lớn thêm .

Xả ly sự xác định này là một bước quan trọng khởi đầu : chỉ khi nào ta có thể tự đứng một ḿnh, ta mới có thể thực sự tu tập theo con đường đạo . Không có nghĩa là ta phải đuổi mọi người ra khỏi nhà . Nhưng khi ta c̣n tùy thuộc vào ư kiến, hành động của người khác, th́ làm sao ta có thể thực tập cho sự tự do, giải thoát của chính ḿnh ? Không có sự dựa dẫm này, cái Tôi sẽ trở về kích thước b́nh thường, của chỉ cái tôi, không có ǵ hơn . Như thế dầu tự Ngă vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả năng chế ngự của ta . Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám viú vào bao nhiêu người, bao nhiêu thứ khác .

Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt được điều ǵ đó hay trở nên thế này thế nọ, th́ cũng chỉ là một cách củng cố thêm Ngă chấp . Thay v́ có mặt trong giờ phút hiện tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở nên, là một cái ǵ thuộc về tương lai . Có thể nói ǵ về tương lai chứ ? Không có ǵ . Tương lai th́ hoàn toàn trống không . Nhưng có mặt , ngay trong hiện tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm .

Trở nenâ, trở thành một thứ ǵ hơn chính chúng ta – một thiền sư đạt đạo, một ông chủ có danh vọng giàu có, được mến mộ – sẽ làm cho ḷng chấp Ngă của ta thêm nặng . Trở nên, trở thành không ích lợi ǵ, là như thế nào là ích lợi hơn . Lúc đó ta sẽ dễ đối trị ngă chấp hơn . Ta có thể chánh niệm về sự có mặt đích thực của ḿnh . Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ trở thành . Nó không có thực . Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày . Nó chỉ là ước mơ và hy vọng . Nó là điều ta muốn xả ly .

Trong quá tŕnh xả ly, ta có thể buông bỏ sở hữu, sự khẳng định của cái tôi và các vọng tưởng . Nếu trong đời thường, ta không biết buông xả, th́ ta càng khó buông xả hơn trong Thiền . Khi Thiền định ta phải buông xả tư duy , ước vọng, mọi phán đoán, ḷng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc . Ta phải biết buông bỏ nếu ta muốn hành Thiền, v́ thế ta cần phải thực tập sự xả bỏ mọi lúc, mọi nơi . Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu hay xa lánh gia đ́nh . Tâm chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định ḿnh qua những thứ đó .

Xả ly có nhiều h́nh thái . Nó có thể là sự tự khắc kỷ như dậy sớm hơn thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn được hưởng thụ . Xả ly cũng có nghĩa không phải lúc nào muốn ăn th́ ăn, mà phải chờ đến lúc thật sự đói . Khi từ giă cuộc đời, ta phải buông bỏ mọi thứ . Ta không thể mang theo của cải hay người thân mà ta coi là của chúng ta, cũng như không thể mang theo thân của ḿnh . Tốt hơn hết là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến . Đó là lư do tại sao người ta thường vật vă trước giờ ra đi . Một số ít người có thể ra đi một cách b́nh thản, nhưng phần đông không thế, v́ họ chưa sẵn sàng để buông bỏ tất cả . Trước đó , họ chẳng bao giờ nghĩ đến giờ phút này.

Tất cả những ǵ ta bám viú vào là một trở ngại, một vật cản . Thí dụ như nếu tôi cứ ôm măi chiếc gối này, không chịu bỏ ra, th́ tôi sẽ gặp trở ngại khi bước ra cửa . Thực tế, ta thường bám víu vào người khác và điều đó cần phải buông bỏ . Không có nghĩa là ta phải xua đuổi người khác . Nhưng có nghĩa là ta phải đoạn diệt thái độ bám viú của ta với người khác, đó mới chính là trở ngại lớn nhất . Nếu ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của ta cũng bị trở ngại thôi, v́ ta cũng sẽ bám viú vào tư tưởng, hy vọng, ước muốn của ta .

Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của ḿnh, vẫn mặc quần áo đó, vẫn không có ǵ thay đổi về h́nh dáng bề ngoài, nhưng bên trong ta đă xả ly được những dính mắc của ḿnh . Không có nghĩa là ta không c̣n thương yêu gia đ́nh của ḿnh nữa . Ngược lại, t́nh thương mà không có sự bám viú, sở hữu là loại t́nh thương không có ḷng sợ hăi, hoàn toàn thuần khiết . Trong khi t́nh thương với ḷng bám viú, sở hữu là một cực h́nh . Nó bao gồm những làn sóng t́nh cảm và thường tạo nên những hàng rào kẽm gai vô h́nh . T́nh yêu thật sự là t́nh yêu không có sự sở hữu, được cho mà không mong đợi một sự trả lại . Nó cho ta cảm giác có người đứng cận kề nhưng không dựa vào ta .

TRÍ TUỆ

Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có nghiệp thiện kế tiếp là trí tuệ . Bổ sung cho trí tuệ là đức tin . Đức tin và trí tuệ là hai đức tính không thể tách rời .

Đức Phật đă so sánh Đức tin như một người khổng lồ mù với một gă nhỏ bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ . Đức tin đă nói với Trí tuệ rằng :"Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy đường đi tới . C̣n anh yếu đuối, nhưng mắt anh th́ tinh . Hăy đến ngồi lên vai tôi . Hai chúng ta hợp lại th́ nơi nào mà ta không đến được. Ḷng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ không biết dời ngọn núi nào . Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường cho ḷng tin . Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt .

Trí tuệ là một đức tin khá đặc biệt, v́ ta không thể đạt được trí tuệ nếu không có tâm thanh tịnh .

Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn . Đầu tiên là sự học hỏi sẽ mang đến kiến thức . Ta có thể có được kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời nói của các bậc uyên thâm . Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đă học hỏi được để chúng trở thành một phần của nội tâm ta . Như khi thực phẩm vào cơ thể ta, những ǵ cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài . Những thứ khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực . Cũng thế với kiến thức . Ta có thể tiêu hoá kiến thức, thải bỏ những ǵ ta không cần đến và đưa những cái bổ ích vào máu . Chúng sẽ dần dần chuyển đổi để tạo nên trí tuệ, cũng như đồ ăn được tiêu hoá dần chuyển đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn . Đây là sự chuyển đổi nội tâm và không đ̣i hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa hàng tấn kiến thức . Nó không đ̣i hỏi số lượng , mà cần chất lượng, cũng như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy .

Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được trước khi tiêu hoá chúng . Điều này đ̣i hỏi phải có tâm hành, đó là một phần quan trọng trong sự trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất đúng chất lượng là yếu tố quan trọng cho cơ thể tăng trưởng . Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với những điều Phật dạy, th́ những điều đó vẫn là lời của Phật , của Tăng . Chúng sẽ không bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi , lập lại biết bao nhiêu lần . Trừ khi ta nghiền ngẫm , hấp thụ, tiêu hoá được những điều ta đă học hỏi, ta mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm .

Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời sống b́nh an không có nhiều biến động lên xuống . Thiếu trí tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều hoàn cảnh . Đôi khi phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi . Nếu có trí tuệ ta đă không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi . Hơn nữa bên cạnh trí tuệ c̣n có thêm ḷng tin th́ nó càng thêm sức mạnh . Ḷng tin rộng lớn đầy tự tin, không có ǵ có thể lay chuyển được . Cộng thêm đôi mắt sáng của trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng .

Chỉ có trí tuệ không có ḷng tin, đôi khi đưa ta đến cái nh́n hai chiều . Đối với vấn đề ǵ, thắc mắc ǵ ta cũng nh́n theo hai chiều . Nó không có sự gắn bó bên trong như đối với ḷng tin . Ḷng tin không cần dựa vào một thứ ǵ ở bên ngoài . Ḷng tin mà dựa vào yếu tố bên ngoài nào đó, th́ ḷng tin đó không bền vững, v́ nó cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh, không thể nghi ngờ ǵ . Không ai có quyền được nghi ngờ về những ǵ họ tin vào . Ḷng tin hữu hiệu nhất là ḷng tin vào chính khả năng thành công của ḿnh . Thêm nữa, ḷng tin có thể phát sinh khi ta đă chọn được con đường đi đúng . Đó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp, cộng với con mắt sáng của trí tuệ .



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 12 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

NĂNG LỰC

Kế tiếp là năng lực mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy . Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho ḿnh . Đó cũng là một trong bảy yếu tố của Giác ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào .

Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều h́nh thức . Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng ḷng tốt của ai . Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực .

Năng lực có thể khiến ta lăng xăng . Chạy từ việc này qua việc nọ, nghĩ thứ này, thứ kia . Nó có thể mang ta từ nơi này của thế giới đến nơi khác, cố t́m cho được cái ǵ có thể làm thoả măn nó . Nếu không sử dụng năng lực đúng chỗ, nó sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực . Chính tự nó không toàn diện . Nó chỉ là nhiên liệu c̣n bổn phận của ta là t́m cho nó một chiếc xe đúng loại .

Đức Phật đă nói về năm yếu tố tâm linh và so sánh chúng với một đoàn ngựa kéo một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau . Con ngựa dẫn đầu là chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó . Nó không cần phải cân xứng, chờ đợi ai . Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan trọng nhất . Không có nó toa xe không thể đi tới . Nhưng hai cặp ngựa c̣n lại phải cân xứng nhau . Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng với sự chú tâm .

Sự chú tâm giúp ta ổn định . Nhưng nếu chỉ chú tâm mà không có năng lực, sẽ khiến ta hôn trầm . Làm ta trở nên trơ đá, không xúc cảm . Loại chú tâm này không ích lợi ǵ . Nó cần có năng lực để giữ thăng bằng . Nhưng có năng lực mà không có chú tâm th́ cũng vô ích v́ nó có thể khiến ta quá lăng xăng đến nỗi, lúc nào ta cũng phải làm cái ǵ đó .

Năng lực phải có định hướng . Không lợi ích ǵ nếu chỉ đổ nhiên liệu vào xe, nổ máy nhưng không biết phải đi đến đâu . Làm thế chỉ lăng phí nhiên liệu thôi phải không ? Trên thế giới việc khủng hoảng năng lực cứ liên tục xảy ra, v́ thế thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lăng phí nhiên liệu , có phải không ? Chúng ta cần phải biết rơ chiếc xe của ta cần đi về hướng nào . Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi . Thẳng tiến đến sự lớn mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.

Khi ta lớn lên cái nh́n của ta bao quát hơn . Khi đă đạt được sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể nh́n mọi thứ như một người đứng trên cao nh́n xuống, những ǵ xảy ra ở dưới đường không ảnh hưởng đến ta . Dầu có lụt lội, hạn hán, động đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên không trung, sự tỉnh thức của ta cũng không hề bị ảnh hưởng . Có cái nh́n của con chim ở trên tầng không , ta có thể nh́n mọi vật một cách tổng quát chứ không phải cá thể . Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những ǵ ta có thể thấy được là căn pḥng này .

Cũng thế đối với cái nh́n bên trong . Cái nh́n hạn hẹp chỉ có thể thấy được cái ǵ ngay trước mắt nó : cái đau của thân, sự sợ hăi, lo lắng cho tương lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét những người chung quanh ta . Ta chỉ có thể thấy những thứ như thế v́ cái nh́n không được phát triển . Nhưng khi cái nh́n đă thay đổi, ta có thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không c̣n phải lo âu, sợ hăi nữa v́ ta biết rằng tương lai và quá khứ là một . Chỉ có giây phút hiện tại .

Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm vào một việc mới mong có kết quả . Chúng ta phải hao hụt một phần lớn năng lực tinh thần trong Thiền định : năng lực duy nhất trong vũ trụ này . Tất cả mọi vật chất chỉ là kết quả của năng lực tinh thần . Khi ta đă tu Thiền một thời gian, sự tiêu tốn năng lực không c̣n làm ta mệt mỏi . Trái lại là khác . Ta cảm thấy như hấp thụ được nguồn năng lực mới qua Thiền định .

Để làm chủ các bản năng, đ̣i hỏi phải có năng lực . Sống theo bản năng là cuộc sống của loài thú . Con người hơn loài thú là có khả năng tư duy, vậy mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có tính cách bản năng ở chính ta và người . V́ bản tính con người là phản ứng theo bản năng, ta cần phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng . Những ǵ có vẻ tự nhiên đối với ta – đến với ta một cách dễ dàng – là những cái ta cần chế ngự . Chỉ sống buông trôi theo bản năng sẽ đem lại đau khổ cho ta . Chuyển đổi từ một người tầm thường thành một người cao quư (ariya) là những bước đến với sự giải thoát . Cần phải có nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng và phản ứng một cách tầm thường trần tục .

Tất cả những ǵ ta làm ta đều cần có năng lực . Sự quyết tâm là buớc khởi đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước . Và ta chỉ có thể tiến bước không chùng ch́nh nếu ta biết rơ hướng đi của ḿnh . Người có thể làm được như thế là những người có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được người khác ngưỡng mộ . Không có ǵ to tát cả . Họ chỉ là những người giỏi điều khiển năng lực của ḿnh .

KIÊN NHẪN

Kế tiếp là kiên nhẫn . Nếu trong cuộc sống hàng ngày, ta không có ḷng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm . Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả .

Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ có tâm chấp Ngă v́ ta muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự định . Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi . Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của ḿnh . Ta quên là c̣n có nhiều yếu tố khác , nhiều nhân duyên liên hệ khác . Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỷ người trên quả đất này, và quả đất này chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và c̣n có hằng hà sa số các tinh cầu khác nữa . V́ tư lợi của ḿnh, ta bỏ quên những điều ấy . Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ư ḿnh ngay lập tức . Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của ḿnh, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ . Đó là một ṿng tṛn oái ăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận

Sự kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được. Đôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại này. Nếu ta không thể chấp nhận những ǵ xảy ra trong cuộc đời ḿnh, th́ ta càng thêm đau khổ. Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, th́ sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội . Như khi ta đấm tay vào một vật cứng , tay ta sẽ bị đau . Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta vẫn không thấy đau . Phản kháng hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau .

Người kiên nhẫn có cái nh́n tổng thể hơn, họ có thể nh́n thấy sự vật thay đổi, chuyển và trôi theo ḍng chảy . Có những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, th́ ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng cũng b́nh thường . Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, th́ hôm nay chúng không có ư nghĩa ǵ nữa với ta . Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc ǵ có thể xảy ra . Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nh́n chúng như một phần của ḍng đời lên xuống .

Những đức tính này chỉ có thể vun trồng trên mảnh đất mầu mỡ của nội tâm . Nội tâm ẩn náu bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng , trong khi kiên nhẫn và xả ly cần có để đối trị với ngă mạn , v́ tất cả đều vô thường, khổ và vô ngă .

"Nội tâm " trong ngôn ngữ Phật giáo có sự là sự suy gẫm thậm sâu về ba đặc tính trên : vô thường, khổ và vô ngă . Chúng không ngừng xảy ra . Chỉ có sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại . Ta thường t́m cách trốn tránh chúng . Ta không thích vô thường, khổ và vô ngă, nên ta phản kháng lại chúng . Ta từ chối sự hiện hữu của chúng , và luôn nghĩ ra đủ mọi cách để trốn tránh chúng . Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó là cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu . Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu .

Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính ḿnh . Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả . Nếu không có kiên nhẫn với chính ḿnh, tức là ta không biết tự quư trọng ḿnh . Ta phóng đại về khả năng của ḿnh, sự quan trọng của ḿnh, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng th́ ta tức giận . Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không cần ngủ nghỉ . Đủ thứ "phải" . Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiếu kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ .

Tuy nhiên cũng không nên đồng hoá tính kiên nhẫn với sự dễ dăi . Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng . Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, ḷng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dăi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm ǵ cũng vô ích , là một điều không đúng sự thật . Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh . Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính . Dầu cho biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn .

Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nh́n y phục của ḿnh và nói : "Dơ rồi. Nhưng ta có thể làm được ǵ chứ ? Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ". Đó là một ví dụ cực đoan. Giống như một người nh́n quanh pḥng rồi nói : "Pḥng dơ quá. Mà pḥng nào rồi cũng dơ". Hay có người quan sát nhà ḿnh rồi nói : "Nước sơn đă bạc màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu". Đó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở h́nh thức hay nội tâm. Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói : "Ôi, c̣n làm ǵ được nữa ? Ai không tham lam, sân hận" và rồi để mọi việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.

Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người ḿnh, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều này cũng chẳng ích lợi chi. Tất cả mọi thứ đều cần thời gian. Từ vô thủy ta đă lập đi lập lại những tánh xấu này. Ta cần phải có thời gian để thay đổi. Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi th́ không.

CHÂN THẬT

Tiếp theo là chân thật và đức tính này có nhiều khiá cạnh. Đầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật. Đó là giới luật thứ tư – không nói dối. Nhưng c̣n hơn thế nữa. Ta cần phải tự khám phá ḿnh với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm. Đó là một việc khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết lầm lỗi của ḿnh, không phải của người. T́m lỗi của người không khó. Lỗi của người khá hiển nhiên. Nhưng để t́m ra lỗi của ḿnh, đó là điều khó làm, ta cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.

Điều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn ḿnh. Khi câu hỏi đầu tiên được trả lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trả lời đó "Tại sao tôi lại hành động như thế : tại sao tôi lại có những cảm thọ đó ? Tại sao tôi phản ứng như thế ?" Cuối cùng các câu trả lời đều đưa về một "cái ngă", nếu ta đă tự phân tích ḿnh đầy đủ.

Các phản ứng dễ dăi như "ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm ǵ khác hơn" hay "đó là nghiệp của tôi rồi", không ích lợi ǵ. Cả hai thái độ đều vô hiệu quả, v́ nếu ta đă thật sự tự phân tích ḿnh rốt ráo, và đă nhận ra đó là do ngă mà ra, th́ ta phải t́m cách tháo gỡ sự bám víu vào cái ngă.

Rất khó nh́n ta như người khác nh́n ta. Ta phải đặt một tấm gương trước mặt, không phải để soi h́nh dáng bề ngoài, mà là để theo dơi sự h́nh thành của tâm sinh lư của ta. Tấm gương đó gọi là chánh nghiệp. Đôi khi cách người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực v́ có cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công việc chính của ta là phải tự chất vấn ḿnh thôi.

Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật tức là biết điều bốn sự thật cao quư (tứ diệu đế) và đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao quư đó có nghĩa là ta đă quan sát chúng bằng cái nh́n nội tâm : sự thật về khổ, sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân ; sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế) nghĩa là sự giải thoát ; và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế) đó là bát chánh đạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.

Tất cả các chân lư cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát. Con người ta có thể đi t́m chân lư bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lư thuyết học. Có nhiều lư thuyết đáng kinh sợ v́ nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người này và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt lư thuyết của ḿnh dựa trên ảo tưởng về ngă chấp, do đó chúng không thể nào đem lại sự thỏa măn hoàn toàn.

Đi t́m chân lư là một điều nên làm, tuổi trẻ nên đeo đuổi theo chân lư và người già không nên ngừng nghỉ. Đáng buồn thay, sự t́m kiếm chân lư có bị gián đoạn. Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày v́ mục đích sinh tồn, đến nỗi sự t́m kiếm chân lư có vẻ vượt quá khả năng của họ. Họ không c̣n đủ năng lực hay ư chí. Thật đáng tiếc, khi người trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, c̣n người già th́ không c̣n đủ năng lực. Như Bernard Shaw đă nói : "Tuổi trẻ bị lăng phí bởi những trẻ tuổi".

Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc t́m kiếm chân lư, dù chỉ một phút. Nếu ta tiếp tục cuộc kiếm t́m, th́ chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng chân lư không thể là một sản phẩm của loài người. Chân lư phải có tính cách toàn cầu. Phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một loại người nào, một tầng lớp xă hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia, tôn giáo nào. Chân lư phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người tuyệt đối, măi măi – không chỉ tạm thời cho một nhóm người nào đó thôi.

Chân lư phải là sự thật tuyệt đối,chứ không phải tương đối. Chân lư tuyệt đối nằm trên những khổ đau và kiếm t́m của con người. Nó nằm trong những cuộc kiếm t́m của tâm linh và chân lư chỉ có thể t́m được trên các con đường tâm linh. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều. Nó có ngày mai và hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và tôi không muốn, tiềm ẩn trong đó. Trong đó có cá tính "của tôi" và cá nhân "của tôi" mà "tôi" muốn khẳng định và "tôi" muốn bành trướng. Điều đó chỉ có tính cách tương đối và không phải là chân lư tuyệt đối, có thể làm thỏa măn mọi người. Ai đó phải chịu thiệt tḥi trong thế giới đó. Chân lư tuyệt đối bỏ qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá nhân, ta sẽ nhận ra rằng những ǵ được coi là "tôi", "của tôi" là một sai lầm và những ǵ là "anh", "của anh" cũng là một hiểu lầm đáng tiếc. Không có tha nhân để ta lo ngại sợ hăi. Tất cả chỉ là một ḍng chảy và thể chất chiû là lớp vỏ bên ngoài. Chân lư tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào. Nó có tính cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con người bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính này tạo nên sức mạnh bên trong ta, và để phá vỡ sự thật tương đối, t́m ra chân lư tuyệt đối, ta cần phải có rất nhiều sức mạnh.

QUYẾT TÂM

Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp là sự quyết tâm, không có quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được ǵ. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy cũng cần có quyết tâm. Tuy nhiên, có việc đ̣i hỏi nhiều quyết tâm hơn các việc khác, thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi thiền không có ǵ hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không mang lại kết quả tức thời.

Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết quả tức thời. Nhấn một cái nút, tức th́ các số tiền mua sắm được tổng cộng ngay. Nhấn một cái nút khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ. Nhấn một nút nữa, đèn được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức. Xă hội chúng ta hơn bao giờ hết, đ̣i hỏi các kết quả ngay tức thời. Đó là lư do tại sao các viên thuốc giảm đau được người ta ưa thích hơn các loại thuốc đông y thường cần thời gian lâu hơn mới có công hiệu.

Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm bảo. Muốn tu Thiền, ta cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên cường. Tâm yếu đuối không thể có quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ, định tĩnh th́ traí lại. Mỗi khi ngồi xuống tọa Thiền, ta cần phải quyết tâm ngồi một chỗ không nhúc nhích, để giữ tâm ở yên một chỗ, để chú tâm vào việc ta đang làm.

Trong đời sống hàng ngày, ta cũng cần có quyết tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ cơ hội, th́ cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta cần phải làm một cái ǵ đó. Phải có quyết tâm bạn mới đến Thiền viện để học Thiền, v́ ở nhà th́ thoải mái hơn rồi.

Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện trong ta. Ai cũng biết điều tốt xấu. Nếu không, thế giới này càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta đều có tính quyết tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những đức tính này là những người bạn tốt của ḿnh. Ta phải cố gắng gần gũi chúng, ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng ta là những nguyên liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, b́nh an và không thể thiếu trong sự phát triển tâm linh.

Đó là tất cả những ǵ cuộc đời có thể mang đến cho ta : sự phát triển tâm linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc giả tạm nguy hiểm v́ chúng lôi kéo ta vào sự buông xuôi. Khi ta đă hiểu rơ ràng như thế, th́ quyết tâm sẽ phát khởi để ta đem sự pháttriển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Để làm được điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu. Ta có thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những ǵ xảy ra cho ta đều có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một căn bịnh, chết chóc, sự ác tâm của người, mất tài sản, thân thọ khổ, hay mất t́nh yêu, danh vọng. Sự bám víu vào người khác, lo lắng cho họ cũng cho ta một bài học. Không nên coi thường ǵ cả, mà hăy xử dụng mọi thứ để tu học, phát triển.

Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc đời này không có ǵ giá trị để cho ta, trừ sự phát triển tâm linh và giải thoát cuối cùng. Không cần phải thay đổi cách sống của ḿnh, nhưng cần phải thay đổi thái độ, hành động, nhận thức về những ǵ xảy ra quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang đến cho ta hạnh phúc v́ trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường đạo. Như thế quyết tâm tự nạp năng lực cho ḿnh. Quyết tâm b́nh thường đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một quyết tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường tâm linh, nó không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn v́ nó mang lại niềm vui cho người có quyết tâm.

TỪ & XẢ

Hai đức tính cuối cùng : từ bi và hỉ xả, bạn đă được nghe nói đến nhiều. Đă được nhắc đến ở những chương trước. Xả là t́nh cảm đáng được trân trọng nhất. Nó giúp đoạn diệt ảo tưởng về Ngă. Nếu ta không thực biết rằng chính Ngă chấp đă tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, th́ ta không thể thực sự phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta không thể có tâm an b́nh. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.

Mười nghiệp thiện này cần được phát triển đời này qua đời khác, liên tục cho đến khi chúng đủ sức mạnh để đưa ta đến con đường cao quí, con đường giúp ta có cái nh́n nội tâm về tứ diệu đế ở trọng tâm của bánh xe Phật pháp.





__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 13 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:53pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

TỨ DIỆU ĐẾ & BÁT CHÁNH ĐẠO .




Khi Đức Phật rời bỏ gia đ́nh để đi t́m sự giải thoát cho chúng sanh khỏi những khổ đau, Ngài đă t́m đến tu học với hai vị Thiền sư nổi tiếng .

Alara Kalama, vị thầy đầu tiên, dạy Đức Phật về Tứ Thiền (Vô sở Hữu Xứ Định) . Đức Phật là người học tṛ rất thông minh, Ngài học rất nhanh . Chẳng lâu sau, vị thầy nhờ Ngài ở lại dạy v́ sự hiểu biết của Ngài đă ngang bằng với thầy . Nhưng Đức Phật, lúc đó hăy c̣n là Thái tử Siddhartha Gotama, từ chối và nói rằng Ngài chưa đạt được mục đích của ḿnh, và từ giă thầy đến với vị thầy thứ hai, ngài Uddaka Ramaputta. Người thầy thứ hai dạy Đức Phật về Tứ thiền ở cơi vô sắc giới (Phi phi tưởng xứ), là loại Thiền định vi tế hơn, khó đạt được hơn loại Thiền trước đó. Lần nữa, Đức Phật lại chứng tỏ ḿnh là một người học tṛ xuất sắc, và thầy Ngài lại yêu cầu Ngài hăy ở lại hướng dẫn các đệ tử khác . Lần nữa, Thái tử lại từ chối v́ Ngài nhận thấy rằng dù Ngài đă đạt được một trạng thái Thiền cao hơn, nhưng khi xả định, Ngài vẫn thấy khổ đau, phiền năo như trước. Không có ǵ thay đổi nhiều . V́ thầy Uddaka Ramaputta nói không c̣n ǵ nữa để dạy, Thái tử biết rằng Ngài phải tự ḿnh đi t́m chân lư. Ngài từ giă năm người bạn đồng tu với ḿnh . Họ không muốn theo Ngài, mà chọn lựa sự an ổn, bảo đảm v́ có được một người thầy danh tiếng.

Khi Thái tử đi đến gốc cây Bồ đề ở Bodhgaya, bắc Ấn Độ, Ngài có quyết tâm lớn. Ngài thề nguyện sẽ ngồi đó không nhúc nhích, không đứng dậy cho đến khi t́m được sự giải thoát, dầu cho thịt xương của Ngài có vữa ra. Thế là Ngài ngồi và dùng các khả năng Thiền ḿnh đă học để đi sâu vào định từ sơ Thiền đến bát Thiền và trở lại từ đầu. Trong lúc ngồi, Ma vương đến cám dỗ, nhưng Ngài đă chiến thắng nó . Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh, an định, không mảy may lay động, Ngài đă đạt được sự Giác Ngộ sâu xa nhất. Khi xả định, Ngài nhận ra rằng Tứ diệu đế và Bát Chánh Đạo là một thực tại nội tâm thông suốt . Sau những việc đó, Ngài nhận ra ḿnh đă chứng đắc, trở thành Đức Phật, bậc Đại Giác Ngộ .

Đức Phật sau đó trong niềm hân hoan của sự giải thoát, cảm nhận ơn cây bồ đề đă chở che cho Ngài . Đức Phật ở đó một tháng, rồi theo lời khẩn cầu của Phạm Thiên (Brahma Sahampati), Đức Phật quyết định đi truyền bá giáo lư của ḿnh. Lúc đầu nghĩ rằng giáo lư của Ngài quá cao siêu, quá khó hiểu . Sợ rằng khi truyền đạt lại cho chúng sanh, Ngài sẽ thất vọng v́ sự không thông suốt của họ . Nhưng cuối cùng Đức Phật xuôi ḷng, và đồng ư dạy v́ lợi ích của người và trời .

Trước hết Đức Phật nghĩ đến những vị thầy của ḿnh . Nhưng khi dùng nhăn thông để t́m kiếm họ, Đức Phật khám phá ra họ đă qua đời . Sau đó Đức Phật quyết định dạy cho năm người bạn đạo cũ của ḿnh . Đức Phật t́m ra họ đang ở gần Benares . Đức Phật quyết định đi đến đó để gặp họ .

Đức Phật đi bộ suốt cả chặng đường . Trong bốn mươi lăm năm truyền giáo, Ngài đi như thế đến khắp mọi nơi . Đức Phật chẳng bao giờ dùng xe, v́ trong những ngày ấy xe đều do súc vật kéo, và Đức Phật không bao giờ muốn phải làm khổ con vật nào. Do đó, một trong những giới luật cho tăng ni là không được dùng xe do súc vật kéo. Ngày nay chúng ta may mắn hơn, có những loại xe khác. Đức Phật lúc nào cũng đi bộ .

Hằng ngày, Đức Phật đều thuyết giảng . Nhờ thế ngày nay ta có thể thừa hưởng được gia tài đồ sộ của Ngài. Trong các kinh điển có hơn 17.500 bài giảng .

Khi Đức Phật đi đến gần Benares, năm nhà sư đạo hạnh trông thấy Đức Phật đang đi đến gần . Họ nói với nhau, ‘Nh́n ḱa ông Gotama đang đi đến. Ông ấy đă từ bỏ cuộc sống đạo hạnh . Ông ấy không c̣n là một tu sĩ nữa . Trông ông ấy khỏe mạnh, sạch sẽ quá . Chúng ta nhất quyết không chào hỏi khi ông ấy đến gần’. Nhưng khi Đức Phật đến gần hơn, họ không thực hiện được dự định v́ dáng vẻ oai nghi và khuôn mặt rạng ngời của Phật . Họ chào hỏi Đức Phật rất lễ phép .

Lúc đó Đức Phật bảo với họ rằng, ‘Ta đă thành Phật và ta sẽ truyền dạy cho các người giáo lư của ta’. Ngạc nhiên, họ hỏi: ‘Nhưng làm sao chúng tôi biết đó là sự thật? Làm cách nào để chứng minh?’ Đức Phật nói: ‘Các người đă biết ta hơn sáu năm. Có bao giờ ta dối gạt các người điều ǵ không?’ Họ nói Không. Rồi Đức Phật nói "Hăy nghe một thời pháp của ta". Các vị đạo sĩ bằng ḷng. Nói cách khác là họ đồng ư cho Đức Phật một cơ hội . Họ sửa soạn chỗ ngồi cho Đức Phật trong vườn nai Isipatanna, ngoại ô Benares và ở đó với Đức Phật một tuần. Mỗi ngày họ thay nhau đi khất thực .

Lúc đó Đức Phật bắt đầu thuyết giảng bài kinh đầu tiên sau khi Giác Ngộ – Kinh Chuyển Pháp Luân . Đức Phật bắt đầu chuyển bánh xe Pháp với bài giảng đầu tiên và may mắn làm sao, cho tới ngày nay bánh xe Pháp vẫn c̣n luân chuyển. Cũng có nhiều thời mạt Pháp xảy ra, lúc đó thật là khó khăn. Thí dụ đă có những lúc ở Sri Lanka người ta không thấy bóng dáng một nhà tu. Phật Pháp thường bị đe dọa, chống đối v́ nó đi ngược lại với bản năng con người. Ngược với ḍng chảy, ngược triều lưu.

Khi Đức Phật kết thúc bài Pháp, một trong năm vị đạo sĩ đă chứng đắc. Đức Phật nói: "Anna Kondanno thấy, Anna Kondanno biết". Thấy và biết . Biết thôi chưa đủ . Thấy là cái thấy của nội tâm, bản tánh của tâm, làm thay đổi hoàn toàn cái nh́n và quan điểm của con người . Anna Kondanno là vị A-la-hán đầu tiên và cũng là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên.

Đức Phật cũng được gọi là một vị A-la-hán: "Namo tassa bhagavato arahato samma sambuddhassa". Ngài là A-la-hán mà cũng là Phật . Điều khác biệt là Đức Phật tự t́m ra Tứ Thánh đế và Bát chánh đạo, không có thầy dẫn dắt, trong khi một vị A-la-hán giác ngộ nhờ nương theo Đức Phật. Khi Phật Pháp không c̣n hiện hữu, sau nhiều a tăng kỳ kiếp một Đức Phật khác sẽ xuất hiện, để t́m ra được đúng những giáo lư về Tứ diệu đế và Bát chánh đạo. Đức Phật là người có khả năng thuyết Pháp. Đó là một khả năng hiếm có. Có các Đức Phật được gọi là Paccekabuddha (Độc Giác Phật, Bích Chi Phật, Duyên Giác Phật). Họ Giác Ngộ nhưng họ không tài giảng Pháp.

Khi chúng ta đọc tụng kinh pháp, ta thường ngỡ ngàng trước việc Đức Phật nhiều lần lập lại cùng những từ ngữ. Dầu trong tiếng Pali ta nghe du dương, nhưng được lập đi, lập lại nhiều lần, ta không hỏi tự hỏi tại sao. Nhưng không có ǵ đáng ngạc nhiên cả. Khi nói, ai cũng thường lập đi, lập lại. Hơn nữa, Đức Phật nhận ra rằng rất khó suy nghĩ sâu xa về một sự thật thậm sâu bằng thính giác, v́ lẽ đó Đức Phật đă nhấn mạnh bằng cách lập đi, lập lại .

TỨ DIỆU ĐEÁ.

Tứ diệu đế bắt đầu bằng sự thật của khổ đau . Năm người bạn mà Đức Phật giảng bài Pháp đầu tiên là năm đạo sư đă tu khổ hạnh trong sáu năm . Đức Phật cũng đă làm như thế, nhưng sau đó Đức Phật nhận thấy rằng sự hành xác không đem lại Giác Ngộ . Trái lại, cách sống buông trôi hưởng lạc như Đức Phật đă từng sống khi c̣n là Thái tử trong cung điện, cũng không mang lại hạnh phúc . Đức Phật nhận ra rằng chỉ có con đường duy nhất – con đường trung đạo . Không có sự cực đoan nào là tốt cả . Các vị đạo sư này đă tu ép xác . Họ hiểu về những đau khổ của thân . Đức Phật không cần phải nhấn mạnh về điều đó . Họ có thể hiểu dễ dàng .

Nhưng đối với chúng ta không dễ . Dầu khi ngồi Thiền ta có kinh nghiệm về những đau đớn, khó chịu ở thân, nhưng sau khi xả Thiền, về nhà, đau đớn cũng không c̣n nữa . Như thế đó chỉ là những đau đớn tạm thời, ta có thể chịu đựng được . Điều chúng ta có thể không biết là thân không chỉ có những đau đớn, mà chính thân là một cái khổ . Nói một cách là có thân là có khổ . Phải lo cho thân là khổ . Ở đây không chỉ nói về cái khổ khi ta phải hứng chịu một tai họa nào đó . Tai họa là một chuyện, sự thật khổ đau là một chuyện khác nữa . Đức Phật nói :

-Sanh khổ

-Tử khổ

-Hoại diệt khổ

-Không được cái ḿnh muốn th́ khổ

Đây là những nỗi khổ lớn cho cả chúng sanh, c̣n bao nhiêu cái khổ nữa bên cạnh sinh, già, bệnh, chết . Rơ ràng là lúc vui vẻ an ổn, ta không biết đến cái khổ trong ta . Ta có thể thương hại ai đó, vui mừng v́ ḿnh không ở trong cùng cảnh khổ, quên rằng cái khổ luôn có mặt trong ta . Ngay chính trong lúc vui, ta cũng khổ v́ không thể kéo dài niềm vui . Dục lạc biến mất khi ta muốn duy tŕ nó măi . Mỗi khi ta muốn bám viú vào chúng, chúng lại qua đi , và ta lại phải bỏ công đi t́m .

Ngay chính thân ta cũng không thể duy tŕ được sự sống nếu như nó không luôn được bồi dưỡng , tắm rửa, vận động và chữa trị . Đủ loại chữa trị : kính, răng, máy trợ thính, thuốc bổ, thuốc ho, dầu gội, v.v…Bao nhiêu tiền đă phải đổ ra để giữ thân thể tiếp tục hoạt động, chứ chưa nói đến việc làm cho nó tốt hơn . Ta không thể làm cho nó trẻ ra, dầu có bao nhiêu người đă cố gắng làm việc đó . Bao công sức, năng lực, tiền tài đă đổ ra chỉ để giữ cho thân thể hoạt động . Nếu không thân thể sẽ họai diệt . Ta sẽ không thể sử dụng được nó nữa . Việc nó không nghe lời ta van cầu được trẻ măi , có sức khỏe, đẹp đẽ, sống lâu, mà chỉ làm trái ngược, cũng có thể coi là một cái khổ .

Cái khổ nhất của thân là nó luôn đ̣i hỏi nọ kia, mà đôi khi ta phải bỏ hết cả đời chỉ mong thỏa măn nó . Tất cả những tiền của người ta tạo ra, bao nhiêu công sức người ta phải tổn hao, là chỉ để giữ cho thân được an toàn sung sướng . Ta phải làm việc cực nhọc để có ăn, có nhà cửa, quần áo, thuốc men . Nếu không có thân ta đâu phải vất vả như thế . Vậy mà nhiều người c̣n bỏ ra bao nhiêu th́ giờ, tiền bạc để làm cho thân thoải mái, sung sướng hơn thế nữa . Đó có lẽ là nỗi khổ nhất- phải hoang phí cuộc đời cho những mục tiêu như thế .

Nhưng không chỉ có thân là khổ . Tâm cũng thế . Tâm đâu có nghe theo ta . Nó chỉ làm theo ư nó, thay v́ ở yên theo ư ta . Nó luôn nghĩ về những điều làm ta thêm đau khổ . Nếu đó không gọi là đau khổ, th́ ǵ mới là đau khổ ? Nó c̣n u mê nữa . Và đó cũng là một cái khổ .

Tâm nhảy từ việc này qua việc khác . Chính quá tŕnh tư duy cũng là một cái khổ, ngay cả những tư tưởng khôn ngoan, khéo léo cũng có mầm bất tịnh trong đó . Khi c̣n phải suy tư về bất cứ điều ǵ th́ không thể thực sự có an tĩnh .

Cả thân và tâm đều là khổ . Đức Phật nói chỉ có một lư do, một nguyên nhân chính ta đau khổ đó là ái dục, ḷng ham muốn . Có ba loại ái dục chính mà những ham muốn khác đều từ đó mà ra . Đó là ham sống, ham muốn được thỏa măn dục lạc và ham muốn bỏ thân này . V́ ba điều ham muốn đó, ta trầm luân trong khổ đau bởi chúng ở ngoài tầm tay ta . Khó thể đạt được, khó thể làm ta thoả măn . Chúng ta ở trong một cuộc chiến không có hy vọng thắng, và đó là cái khổ .

Ta chiến đấu để được trường tồn, nhưng không có ai c̣n hiện hữu khi cuộc sống của người ấy đă chấm dứt . Muốn được có dục lạc, ta cũng phải tranh đấu vật vă không kém, nhưng điều đó cũng vô vọng v́ dục lạc thế gian chỉ tạm thời, chóng qua . Chúng không thể kéo dài . Điều ham muốn thứ ba, muốn bỏ thân này, là cái đối nghịch với ḷng ham muốn được sống . Ḷng ham muốn này phát sinh khi trong mắt ta cuộc đời trở nên quá đen tối . Nhưng điều này cũng khó thể thực hiện v́ trừ đấng Giác Ngộ, không ai có thể hiện hữu mà không có thân .

Hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế cho thấy ta đang sống một cuộc đời thiếu ư nghĩa . Không cần biết tư tưởng ta tốt đẹp thế nào, chúng đều sẽ bị hoại diệt . Nếu ta thấy rơ ràng rằng ḷng ham muốn của ta khó thể được thỏa măn, th́ ta phải t́m phương cách để thoát ra những cảnh khổ mà ai cũng phải chịu . Không ngoại trừ một ai . Hiểu như thế, ta sẽ thấy thương cảm mọi người, dầu họ là người xấu xa, đáng ghét hay ngu si . Không có kẽ hở nào nhưng có con đường để thoát ra .

Con đường thoát ra hướng vào bên trong chúng ta . Nếu suy gẫm, ta sẽ thấy ta không thể t́m được ǵ ở bên ngoài ta . Số đông đi t́m giải pháp ở bên ngoài, qua những điều kiện tốt hơn, người tốt hơn, ít việc hơn, ít khổ hơn . Nếu ta có thể nh́n thấy được những điều ấy vô vọng làm sao, ta sẽ không c̣n đi t́m kiếm ở bên ngoài nữa . Thay vào đó, ta sẽ quay nh́n vào bên trong, để dần dần đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau , gọi là giải thoát .

Đức Phật không thực sự giải thích Giải thoát là ǵ . Nhưng Đức Phật đă nói những ǵ không phải là Giải thoát . Đức Phật biết rằng có giải thích cũng vô ích v́ khi người ta chưa kinh qua Giải thoát, người ta không thể hiểu được điều đó . Nhưng có thể nói được thế nào là không phải Giải thoát, như thế ít nhất con người cũng không t́m kiếm ở một chỗ khác .

Câu chuyện sau đây sẽ minh hoạ cho ư tưởng trên . Xưa có một con cá và một con rùa kết bạn với nhau . Chúng đă sống trong cùng một ao hồ một thời gian dài . Một ngày kia, rùa quyết định đi thăm quang cảnh quanh hồ . Ruà đă nh́n được bao nhiêu cảnh đẹp, lạ để về kể cho bạn ḿnh là cá nghe . Cá rất thú vị và hỏi ruà về quang cảnh trên mặt đất thế nào . Ruà trả lời rằng rất đẹp . Cá muốn biết là mọi thứ trên mặt đất có trong suốt, mát, bóng bẩy, mịn màng, trơn láng, dễ tuột, ướt át không? Khi ruà trả lời rằng trên mặt đất không có những ǵ giống như thế cả, cá liền nói :"Vậy th́ mặt đất có ǵ tốt đẹp đâu?"



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 14 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:54pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

BÁT CHÁNH ĐẠO

Con đường dẫn đến sự đọan diệt khổ đau, để được tự do , giải thoát, là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo . Giống như các lời dạy khác của Đức Phật, Bát chánh đạo cũng dựa vào ba phần : cư xử có đạo đức (thân), sự chú tâm và trí tuệ .

Bát chánh đạo cần được xem như tám con đường song song, tám phần ngang nhau, mà ta cần thực hành tất cả tám, chứ không phải như một cái thang, mà ta cần phải leo xong cấp bực này mới bước lên bậc thang khác . Nhưng Bát chánh đạo cũng có thể được xem như là một chuyển động ṿng tṛn v́ nó bắt đầu bằng chánh kiến và cuối cùng kết thúc bằng chánh kiến . Dầu chánh kiến chỉ được nhắc ở lúc ban đầu, nhưng kết quả của việc đi qua Bát chánh đạo phải là chánh kiến .

Chánh Kiến

Chánh kiến là bước đầu tiên v́ trước hết ta phải thấy rơ ràng chẳng có thể làm ǵ khác trong cuộc đời này hơn là đi t́m con đường giải thoát khổ đau qua những giới luật tâm linh . Như thế chắc chắn là ta phải t́m cho được những giới luật đúng để giúp ta biết được ḿnh đă làm ǵ sai . Những chướng ngại của chúng ta là khổ đau, thất vọng, áy náy, cảm giác không trọn vẹn . Có một khoảng trống trong trái tim ta cần được phủ lấp bằng một hay nhiều người, bằng tư tưởng, bằng công việc, hay một niềm hy vọng . Rút cuộc không có ǵ lấp nó đầy .

Khi một điều luật có thể giải thích được tại sao ta phiền năo và chỉ cho ta phương cách đoạn trừ phiền năo, tiến tới sự an vui, th́ các điều luật đó phải rất đáng tin cậy . Hơn nữa, các lời thuyết giảng cũng phải gần gũi với các kinh nghiệm của chúng sanh . Pháp của Đức Phật có thể làm được những điều đó .

Chánh kiến bao gồm việc nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều có thể thực sự tu sửa để tiến tới giải thoát . Chánh kiến cũng có nghĩa là hiểu biết về nghiệp, biết rằng chỉ có ta chịu trách nhiệm về tất cả những ǵ đă xảy ra cho ta, không đổ thừa hoàn cảnh, đổ lỗi cho người khác hay bất cứ thứ ǵ ở bên ngoài ta . Có nghĩa là ta làm chủ nghiệp của ta . Rằng ta có thể thay đổi .

Biết rằng ta có thể thay đổi không chưa đủ, cần phải có quyết tâm thay đổi . Đó là hai cách nh́n đúng : hiểu biết về nghiệp và ước muốn thay đổi để thoát ra khỏi những khổ đau . Không phải là thay đổi thế giới ta đang sống , hay người chung quanh ta mà là thay đổi chính chúng ta . Ta không thể thay đổi được vấn đề, nhưng ta có thể thay đổi phản ứng của ḿnh trước một vấn đề . Ngoài ra ta c̣n có thể dần dần đi hết con đường Bát chánh đạo để đạt được một chánh kiến về tự ngă, đó là vô ngă .

Ta cần có trí tuệ để thực hành các giới luật tâm linh . Không có trí tuệ để biết ḿnh cần phải làm ǵ, ta sẽ không thể tu Thiền .

V́ có khổ đau con người mới có cơ hội để thực hành . Thay v́ lúc nào cũng trốn tránh mọi phiền năo, cố gạt chúng ra khỏi mắt ta hay than khóc, đau đớn v́ chúng, ta nên mang ơn chúng . Đó là người thầy tốt của ta . Vị Thầy duy nhất của ta, nhưng tiếc thay không phải ai cũng biết học hỏi từ thầy ḿnh .

Có nhiều cách để đối phó với khổ đau . Cách đầu tiên và cũng là thông dụng nhất là đổ lỗi cho người khác . Điều đó th́ dễ rồi . Mọi người không ít th́ nhiều, đều hành động như thế, nhưng cách đó hơi trẻ con . Cách thứ hai để đối phó với khổ đau, thất vọng là trở nên chán nản, đắm ch́m trong khổ đau . Cách thứ ba là tự thương hại ḿnh, cảm thấy như ḿnh là người đang mang những nỗi khổ đau của cả thế giới . Không có ai đau khổ bằng ḿnh, việc đó rơ ràng không đúng sự thật . Khi ta tự thương thân trách phận, ta cũng muốn cho người khác phải khổ đau như ta . Nhưng hoài công. Hành động như thế ta chỉ làm cho người khác khó chịu bực ḿnh . Một cách đối phó nữa với đau khổ là nghiến răng, đè nén t́nh cảm và làm như nó không có mặt . Cách đó cũng không giải quyết được ǵ v́ làm ngơ th́ chẳng giải quyết được ǵ cả .

Cách thứ năm là nh́n thẳng vào khổ đau, và nói rằng :"À, bạn cũ của tôi lại đến rồi . Lần này tôi sẽ học được ǵ đây?". Đó là chánh kiến . Lúc đó ta mới thật sự hiểu rằng cơi người là cơi tốt nhất cho sự Giác ngộ . Khổ đau là người thầy tốt nhất của ta v́ nó sẽ nắm chặt lấy ta, nhấn ch́m ta trong đau khổ, cho đến khi ta học được điều ǵ từ đó . Lúc ấy, sự đau khổ mới buông thả ta . Nếu ta không học được ǵ trong sự đau khổ đó, chắc chắn là lần sau nó lại đến với ta nữa, v́ cuộc đời có ǵ khác hơn là một lớp học cho người lớn . Nếu ta không qua được một môn ǵ đó, chắc chắn ta phải ngồi lại đó măi . Bài học nào ta vắng mặt, ta sẽ gặp lại nó . Đó là lư do tại sao ta bắt gặp ḿnh nhiều lần phản ứng cùng một cách trong những hoàn cảnh tương tự . Tuy nhiên rồi cũng có lúc ta nhận ra điều đó, và chánh kiến phát sinh :"Tôi phải làm cái ǵ đó để tự thay đổi . Tôi cứ gặp phải vấn đề này măi "

Chánh kiến là nền móng căn bản ta phải có để bước vào con đường đạo . Chánh kiến lúc mới đầu chưa giúp ta có cái nh́n đúng về tự ngă . Phải đợi đến một lúc sau . Căn bản, chánh kiến liên quan đến hai sự thật, đầu tiên trong Tứ diệu đế . Khi ta thấy đúng sự thật là ta đang ở trong một cuộc chiến vô vọng nếu ta cứ tiếp tục đ̣i hỏi dục lạc, và bảo vệ cho cái tôi của ḿnh, đó là ta đang đi trên con đường đạo . Đó là lúc ta bước vào đạo, và đó là giây phút tuyệt vời . Lúc đó ta cảm thấy chắc chắn rằng ta đă t́m ra con đường đạo, và chắc chắn là ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng . Chỉ c̣n vấn đề thời gian . Cảm giác vui mừng đó cần thiết cho việc tu Thiền, và tu Thiền là điều kiện tiên quyết để đi trọn con đường .

Mỗi chúng ta là một minh chứng cho lời Phật dạy . Chúng ta có đau khổ, có tham muốn, nhưng chúng ta cũng có chánh kiến và có thể nhận biết nghiệp quả của ḿnh . Chúng ta có thể thay đổi và biết học hỏi từ những kinh nghiệm khổ đau trong quá khứ . Có rất nhiều cách để ta chứng minh lời Đức Phật dạy, nếu chúng ta để ư quan sát đủ . Điều đó tạo cho chúng ta niềm tin rằng ta có thể đi đến cuối con đường của Bát chánh đạo . Ḷng tự tin này rất cần thiết cho sự tu tập của ta . Tự tin không có nghĩa là cao ngạo, mà là độc lập . Mỗi người chúng ta phải tự t́m sự giải thoát cho chính ḿnh .

Đức Phật dạy rằng ta không nên nghe theo lời Phật dạy một cách mù quáng mà phải tự t́m hiểu và chứng nghiệm được những điều Phật dạy . Trong bài thuyết giảng nổi tiếng Kalama, Đức Phật đă nói về mười lư do ngăn trở ta đi theo con đường tâm linh . Những điều này cũng có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay cũng như cho dân tộc Kalama trước đây . Chúng mang đầy ư nghĩa đối với ta bây giờ cũng như trước đó .

Người Kalama đă đến gặp Phật khi Ngài đến viếng thủ đô của Kesaputta và họ thưa với Đức Phật :"Bạch Thế Tôn, đă có rất nhiều vị giáo chủ đến thành phố của chúng con, mỗi vị đều có những giáo lư làm chúng con tin tưởng được . Tuy nhiên các vị giáo chủ lại bác bỏ, thoá mạ lẫn nhau . Giờ th́ chúng con hoàn toàn không biết tin vào ai nữa . Chúng con rất hoang mang ". Đức Phật nói :"Hỡi người Kalama, các người có nghi ngờ, thắc mắc là đúng". Rồi Đức Phật giảng cho họ về năm giới luật, và hỏi họ rằng có phải họ sẽ được hạnh phúc nếu họ giữ theo năm giới luật này và đau khổ nếu họ phạm giới . Người Kalama đồng ư với Đức Phật như thế . Lúc đó Đức Phật thuyết, "Đừng bao giờ tin vào kinh điển, chỉ v́ chúng đă được đọc tụng; biên chép hay được các Thầy truyền trao xuống , hay v́ mọi người chung quanh chúng ta đều tin ; cũng không nên tin v́ chúng có tính cách huyền bí hay chúng giống như những điều ḿnh vẫn tin tưởng, hay v́ chúng hợp lư . Cũng đừng tin v́ đó là những quan điểm ḿnh cần bênh vực; hay v́ người nói là một vị thầy nổi tiếng hay chỉ bởi v́ vị Thầy ḿnh đă nói như thế" .

Sau khi nghe lời giảng của Phật , người Kalama trở nên đệ tử của Đức Phật . Những lời hướng dẫn đó vẫn c̣n đúng cho đến ngày nay . Đừng tin tưởng vào điều ǵ đó v́ nó là truyền thống, hay v́ mọi người quanh ta tin, hay v́ chúng đă được viết trong sách vở, nhưng Đức Phật nói chỉ nên tin sau khi ta đă t́m hiểu và nhận biết rằng điều đó có ích và đúng .

Rơ ràng là ta đă t́m thấy đau khổ nơi chính bản thân ta và càng hướng vào bên trong để suy gẫm, ta càng thấy có nhiều bất như ư . Nhưng khi chúng ta không c̣n muốn biến sự đau khổ của cá nhân ḿnh thành niềm vui cho chỉ riêng ḿnh, th́ sự xung đột sẽ biến mất, khổ đau sẽ qua đi . Chấp nhận mọi việc như chúng xảy ra cũng là chánh kiến .

Những người Bà la môn , các thầy cúng ở Aán Độ thời đó, không thích Phật v́ Ngài đe dọa cách kiếm sống của họ . Ngài dạy rằng con người không cần phải có người làm trung gian giữa họ với đấng thần linh, mới có được hạnh phúc, và việc đổ hương lên các thần đá, hay dâng cúng hương hoa đều vô ích . V́ đó là cách kiếm sống của người Bà la môn, nên dù cũng có nhiều người Bà la môn sau trở thành đệ tử Phật, số khác không khỏi có ḷng thù hằn Đức Phật .

Một hôm, một trong những người Bà la môn thù Phật đă đến chỗ đức Phật đang thuyết giảng, đi qua đi lại trước mặt đức Phật . Rồi ông ta dùng lời lẽ thô tục để chửi mắng Phật . Ông ta cho rằng Phật đă truyền dạy những giaó lư sai lầm, Phật đáng bị đuổi ra khỏi nước, rằng Phật đă phá vỡ nền tảng gia đ́nh v́ những người trai trẻ đi theo Đức Phật trở thành các vị tu sĩ, rằng dân chúng không nên ủng hộ Phật ; nghĩa là ông ta mạ lỵ Phật bằng đủ mọi lời lẽ .

Khi người Bà la môn đă hết lời chửi bới, Đức Phật, người từ năy giờ đă ngồi im lặng nói :"Nầy, ông Bà la môn, ông thường có khách đến nhà không?" người Bà la môn trả lời :"Dĩ nhiên tôi luôn có khách đến nhà". Đức Phật lại nói :"Khi có khách trong nhà ông có tiếp đăi họ không? Có cho họ đồ ăn, uống không?" Người Bà la môn trả lời:"Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên là tôi cho họ đồ ăn, thức uống". Đức Phật lại tiếp:"Vậy nếu họ không nhận sự tử tế ấy, họ từ chối những đồ ông cho, th́ những món đồ đó thuộc về ai ?"Người Bà la môn nói :"Cuả tôi , của tôi" Đức Phật nói :"Đúng vậy ông à la môn, khi ta không nhận những món đồ của ông . Chúng thuộc về ông" .

Đây là một câu chuyện đáng cho chúng ta nhớ . Bất cứ sự công kích , sân hận đe dọa nào, đều thuộc về người nói ra những lời ấy . Chúng ta không phải nhận chúng là của ta .

Chánh tư duy

Phần thứ hai trong Bát chánh đạo là chánh tư duy . Chánh tư duy là kết quả của chánh kiến . Nếu có tà kiến, th́ không thể nào có tư duy đúng . Do đó ta phải cẩn thận với những suy nghĩ của ḿnh . Tất cả mọi tư duy đều bị ảnh hưởng của ngă chấp . Ta nh́n mọi sự theo quan điểm của "theo tôi thấy", v́ vậy dầu quan điểm của ta đúng trong đời thường, trong đời sống tâm linh hành xử như thế cũng là không đúng . Tuy nhiên ta phải bắt đầu từ cái ḿnh có . Không thể ngồi chờ đến ngày sự hiểu biết của ta tiến bộ hơn . Ngày đó sẽ chẳng bao giờ đến, nếu ta không bắt đầu tu sửa ngay từ bây giờ .

Hạnh phúc, an lạc không phải sinh ra là ta đă có được . Phải qua bao kiên tŕ cố gắng tu tập, ta mới có được . Cố gắng để làm sao ta luôn có chánh kiến, từ đó đưa đến sự suy nghĩ đúng . Chánh kiến và chánh tư duy là phần trí tuệ của Bát chánh đạo .

Trước khi Đức Phật Giác ngộ, khi Ngài c̣n là một vị Bồ Tát, Ngài luôn theo dơi tất cả những hoạt động của tâm, và Ngài nhận ra rằng khi các ác kiến, sân hận, ái dục phát khởi trong tâm, th́ chính Ngài là người đau khổ . Nhưng khi Ngài có những tư tưởng xả bỏ từ bi, vô nhiễm th́ chính Ngài là người được lợi ích . Từ đó Đức Phật đă rèn luyện tâm đến chỗ Ngài có thể đoạn diệt hết mọi tà kiến .

Chánh tư duy có ba đặc tính : xả, từ và vô nhiễm . Ta không thể có tâm xả bỏ chỉ bằng ao ứơc hay tự đè nén . Mà phải dùng chánh kiến suy nghĩ rằng ái dục chỉ đem lại khổ đau . Nếu ta có thể thực chứng điều đó ngay nơi ta th́ tự nhiên ta sẽ buông bỏ mọi tham muốn dấy khởi . Và ta sẽ làm điều đó một cách vui vẻ, cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái khi buông bỏ mọi phiền năo, khổ đau .

Ḷng tham muốn bao giờ cũng mang lại khổ đau, v́ nó chỉ dấy khởi khi ta không có được cái mà ta muốn có . Có thể là vật chất hay tinh thần, không quan trọng . Nhưng đó là điều ta không có, nên ta ao ước, do đó ta coi sự thiếu sót đó là một khổ đau . Đến khi không được toại nguyện, th́ ta buồn bực, tuyệt vọng, đau đớn, khổ sở . Rơ ràng là ta khổ v́ ta không được cái ta muốn .

Tuy nhiên khi đạt được điều ḿnh mong ước, ta cũng bị phiền năo v́ theo kinh nghiệm quá khứ, ta biết là sự thỏa măn, toại nguyện không thể kéo dài . Có rồi, ta lo lắng t́m cách để giữ lại bên ḿnh, để duy tŕ nó . Lo lắng là khổ, mà khi cái ta được mất đi th́ ta cũng khổ .

Khi cố gắng để duy tŕ một cái ǵ đó đều đem đến cho ta sự căng thẳng, sợ hăi. Thí dụ như ta lo sợ phải đánh mất người thân, của cải, t́nh cảm hay hoàn cảnh thuận lợi . Lo lắng sợ không có được điều ta mong muốn . Khi đă thực chứng cái khổ này trong ta, ta sẽ có thể buông bỏ chúng . Sự bám viú vào người, vào vật ta không muốn xa lià, làm ta đau khổ . Không có ǵ hơn là đau khổ phiền năo cho đến ngày chính ta cũng phải ra đi . Nếu không nh́n ra được sự thật đó, ta sẽ không thể thay đổi .

Khi ta có thể cho người khác vật mà ta đang quư trọng, lúc đó ta mới thật sự thực hành tâm buông xả . Nếu ta có thể cho một cách vui vẻ, chứ không phải nghiến răng, nhắm mắt v́ không muốn thấy nó mất đi, th́ quả rằng ta đă biết sự bám viú, chấp chặt vào ǵ đó là đau khổ .

Nhưng buông bỏ vật chất không quan trọng bằng buông bỏ những cái nh́n định kiến của ta về tự ngă, về thế giới và về cách những người ở chung quanh ta phải sống, cư xử như thế nào, nhất là những người thân của ta . Bám viú vào ham mốn sở hữu, làm chủ, tất cả đều là khổ đau .

Ngoài ra c̣n có ḷng ham muốn về tinh thần, thí dụ được yêu . Được làm vợ, làm mẹ, được nổi tiếng, được biết ơn . Bất cứ ham muốn nào cũng là đau khổ, cản trở ta được sống hạnh phúc , an nhiên tự tại . Không chấp nhận chính ḿnh cũng là khổ đau . Điều này khác với việc ta tu tập , cố gắng tự sửa đổi ḿnh dần dần . V́ sự ao ước trong tâm tưởng là kết quả của một cảm giác thiếu hụt, không vẹn toàn, gây ra khổ . Chỉ là buông xả mới có thể dứt khỏi khổ đau . Khi c̣n ham muốn, ta c̣n đau khổ . Trong chánh tư duy đă tiềm ẩn sự buông xả . từ bi, vô nhiễm đối với đồng loại cộng với sự hiểu biết về sự thật khổ đau hướng ta đến những tư duy đúng . Tất cả bốn sự thật (tứ diệu đế) đan kết vào nhau v́ chúng đi vào tận trong tư duy sâu thẳm của ta . Nếu ta hiểu đúng, th́ ta sẽ hành động đúng . Những khổ đau của chúng ta cũng là khổ đau của chúng sanh được lập đi lập lại qua không biết bao nhiêu lâu .

Thí dụ nếu ta ngắm một con chim . Thay v́ để ư bộ lông nó đẹp biết bao nhiêu, giọng hót nó líu lo làm sao, nó có thể bay dễ dàng trên không trung, đi đến bất cứ nơi nào nó muốn, hăy nh́n kỹ hơn nữa . Chú chim luôn ngó qua ngó lại, quay đầu qua phải, qua trái, lo sợ con thú khác có thể tấn công nó, phá hoại ổ của nó . Lúc khác th́ v́ vấn đề sinh tồn, nó luôn phải đi kiếm thức ăn . Và đó chỉ là một động vật trong bao nhiêu động vật khác .

Hăy quan sát người chung quanh ta, nh́n nét mặt họ . Đức Phật khuyên chúng ta cần phải biết thế giới bên trong và bên ngoài ta . Đó là chánh niệm, tỉnh thức và biết . Nếu chúng ta có thể thấy rằng tất cả những người ta tiếp xúc đều có khổ đau, ta có thể suy ra, không nghi ngờ ǵ, đó cũng là sự thật đối với tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi . Nhưng nếu tâm ta không hoàn toàn tin phục vào điều đó, ta sẽ khó khởi tâm đại bi . Lúc nào cũng có những lời bài bác nổi lên trong đầu :"Tôi cũng thương cô ấy chứ, nếu cô ấy không nói năng như thế hay hành động như thế". Hay"Tôi thương hại cô ấy chứ, nhưng cũng là do cô ấy tự mang hoạ đến cho ḿnh thôi". Những cách suy nghĩ như thế không cần thiết . Tất cả chúng ta đều khổ đau, nhưng nếu ta không nhận ra điều ấy, th́ ḷng từ bi bác ái của ta sẽ trở thành một thứ lúc có lúc không . Khi mọi chuyện ổn thỏa , ta có thể chịu đựng được . Nhưng khi có khó khăn , ta chịu thua . Chánh tư duy có nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải cẩn trọng trong hành động và ứng xử khéo léo . Không thể tuỳ thuộc vào trạng thái tâm hồn của ta hay hành động của người khác .

Chánh tư duy là quá tŕnh tạo nghiệp của chúng ta, khi tâm thức ta đang tạo ra tư duy . Chánh kiến có thể có được nhờ vào trí tuệ và tánh giác . Đó là nền tảng tư duy của chúng ta . Tư duy luôn phát khởi với mỗi hành động hay phản ứng của chúng ta . "Nghiệp, này các Tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm", đó là những lời Phật dạy . Đó là cách chúng ta tạo nghiệp, và nếu ta thật sự tin tưởng rằng nghiệp thiện cần thiết cho một đời sống lành mạnh, th́ ta cần phải cẩn thận với tư duy của ḿnh .

Một đặc điểm thú vị của tư duy là nó giống như một tảng băng : một phần ba nổi trên mặt nước, nhưng hai phần c̣n lại ở dưới nước . Ta chỉ có thể thấy được phần nổi ở trên . Như chúng ta bố thí vật ǵ đó, ta nghĩ đó là ḷng rộng lượng , nhưng ta có thực sự quán sát cái chủ tâm ở đằng sau ḷng rộng lượng đó không? Để tự hiểu ḿnh, ta phải t́m hiểu nội tâm ḿnh thấu đáo . Có rất nhiều ngơ ngách trong tâm hồn con người ta . Chúng ta không muốn nh́n sự thật v́ có những điều không tốt đẹp ở nơi đó . Nhưng đó là v́ chúng ta chỉ là con người, nếu không ta đă ở cơi trời rồi . Tốt hơn hết là ta nên nh́n nhận khuyết điểm của ḿnh . Chỉ có những ǵ được mang ra ánh sáng, mới có thể được lau chùi, làm cho tốt đẹp . Bụi bặm ở dưới chiếu sẽ không được quét sạch, nếu không ta dở tấm chiếu lên . Đức Phật đă so sánh những nhiễm ô của ta giống như rơm ướt . Nếu ta cất chúng trong những chỗ kín, chúng sẽ rũ mục . Nhưng nếu ta đem ra phơi nắng, th́ chúng sẽ khô và có thể sử dụng được . Hăy nh́n vào góc tối của tâm hồn ta và quán sát kỹ chủ tâm của ta .

Ba phần kế trên con đường Bát chánh đạo nói về hành động đạo đức :chánh ngữ, chánh mạng và chánh nghiệp .

Chánh Ngữ

Lời nói rất quan trọng , ta cần phải giữ ư tứ hơn trong lời nói . Không phải v́ ta có khả năng sử dụng ngôn ngữ, là ta biết nghệ thuật nói chuyện .

Đức Phật đă có lời khuyên rất sâu sắc về ngôn ngữ, rất đáng để ta ghi nhớ :"Nếu bạn biết chuyện có hại, và không đúng , đừng nói ra . Nếu bạn biết chuyện có ích, nhưng không đúng , đừng nói ra . Nếu bạn biết chuyện có ích, và đúng sự thật, hăy đợi đúng thời điểm để nói ra " .

Chúng ta phải tập bỏ nói những lời giả dối . Trước hết ta cần phải suy nghĩ những lời ḿnh nói, để biết chắc rằng chúng hữu ích, chân thật và đúng thời, đúng lúc để nói . Khi người khác chịu lắng nghe trong một trạng thái b́nh tâm, tỉnh trí, th́ đó là đúng lúc . Nhưng quan trọng hơn cả, những lời nói đó phải phát xuất từ ḷng thương yêu của ta . Chỉ những lúc ấy ta mới nên nói điều ǵ . Nếu trong ta có ḷng giận ghét, ḱnh chống người nghe dù chỉ là chút ít, điều đó cũng sẽ hiện ra trong lời nói của ta, như thế lời nói của ta cũng vô ích . Ai cũng có lúc cảm thấy cần bảo người khác không nên làm điều này, điều nọ . Khi phát ngôn, hăy nhớ những lời khuyên trên để lời nói của ta có hiệu quả hơn .

Chánh ngữ thường được hiểu là không nói lời điêu ngoa, không nói chuyện người, nói hai lưỡi, nói đâm thọc, nói lời dữ ác hay chửi rủa người khác . Đức Phật dạy rằng lời nói có thể gây thù hay kết bạn , đem lại hạnh phúc gia đ́nh hay đổ vỡ . Nó là cội rễ của t́nh bạn đậm đà hay gây nên oán thù . Đức Phật cũng nói rằng chánh ngữ cũng có nghĩa là không đi đến cực đoan, nghĩa là lúc quá nhiều lời, lúc cạy miệng không ra . Làm thế nào cũng bằng nói dối . Nó bắt nguồn từ ư muốn làm ḿnh thêm quan trọng .

Khi La Hầu La, con của Đức Phật, được 7 tuổi, Đức Phật đă dạy con về việc không nói dối, là điều quan trọng cho trẻ con cũng như người lớn . Nếu điều đó không quan trọng đến việc dạy dỗ cho La Hầu La, Đức Phật đă không nói đến . Đức Phật cho con coi một cái b́nh có ít nước trong đó và nói với La Hầu La :"La Hầu La thấy ǵ trong đây?" Đứa trẻ trả lời :"Con thấy một ít nước". Đức Phật nói :"Ḷng tin cậy của người khác đối với kẻ nói dối cũng ít như thế". Rồi Ngài đổ nước ra khỏi b́nh nói:"Giờ th́ con thấy ǵ?" La Hầu La trả lời :"Cái b́nh giờ trống rỗng". Đức Phật nói :"Đúng vậy, người nói dối cũng trống rỗng giống như thế". Rồi Ngài lật ngược cái b́nh lại , nói :"La Hầu La giờ con thấy ǵ ?" La Hầu La đáp :"Cái b́nh bị úp xuống ". Đức Phật nói :"Đúng vậy, người mà nói dối th́ cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn như thế".

Nói dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật khác . Người ta nói dối để tự bảo vệ ḿnh, v́ tham lam, để được nhiều hơn phần ḿnh đáng được, đôi khi v́ ḷng sân hận , người ta nói dối để hăm hại người khác .

Lời nói dựa vào tư tưởng , v́ thế nếu ta có thể chế ngự tư tưởng của ḿnh, ta mới có thể chế ngự được lời nói . Chúng ta sẽ chánh niệm những ǵ chúng ta suy nghĩ, để đổi nó từ xấu xa đến thanh tịnh . Nếu ta không thể học kềm chế lời nói của ḿnh, ta sẽ không có nhiều bạn .

Mặt khác ta phải nói lời có ư nghĩa . Tán gẫu cũng là tà ngữ . Thí dụ chỉ nói để mà nói, như là nói chuyện gia đ́nh, đồ ăn uống, thời tiết , thăm hỏi xă giao . Nói để giải khuây , giết thời giờ . Trừ khi ta có chánh niệm, biết rơ điều ḿnh nói, bằng không ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của ḿnh .

Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Những ân sủng lớn (Great Blessings discourse) . Thật là may mắn, nếu ta biết nói lời tử tế, lịch sự đầy ư nghĩa, đầy chân thật . Hai người có thể nói cùng một điều, với hai chủ đích khác nhau, v́ thế nghiệp quả của họ cũng khác đi . Nếu ta thực sự bằng cách quán tâm của ḿnh th́ dần dần ta có thể biết được sự chủ tâm của ḿnh, nhưng ta không thể làm thế trong khi nói .

Giới luật thứ tư trong năm giới, kềm giữ, không nói dối, nói lời không thật, cần phải được xét lại xem nó có ư nghĩa ǵ trong cuộc đời ta . Nếu ta thực sự chọn hành động theo lời Phật dạy, th́ giới luật đó phải được đưa lên hàng đầu, v́ ai cũng nói suốt cả ngày . Khi ta nói những lời thật có ư nghĩa, mọi người sẽ lắng nghe . Khi ta nói lời tử tế, người khác sẽ vui mừng . Khi ta nói lời lịch sự ta sẽ có thêm bạn . Lời chân thật, ta sẽ được uy tín . Không có lời xiên xỏ, đâm thọc ta sẽ được tin cậy . Ta có thể tâm sự, chia sẻ với người khác về những khó khăn hay bí mật của ḿnh . Nếu ta có thể trở nên một người như thế, ta sẽ có nhiều bạn bè và một cuộc sống b́nh an, v́ trong tâm ta không có ǵ cần phải được che dấu . Ta không cần phải lo lắng về những điều ḿnh nói, nói như thế nào, hay không biết điều ḿnh nói có đúng không . Lời nói của ta sẽ thành dễ dàng v́ đằng sau chúng là những chủ đích tốt đẹp .

Đức Phật cũng nói về việc giảng Pháp . Cần phải chính xác, nghĩa là ta phải biết ḿnh đang nghĩ ǵ, cảm giác ra làm sao . Điều này rất quan trọng . Mọi người khi nói Pháp, ngay cả khi nói về việc Thiền định của chính ḿnh , cũng phải chính xác . Có nghĩa là tâm ta phải rơ ràng, lúc đó ngôn ngữ chính xác mới có thể phát ra . Đây là những khả năng ta có thể huân tập được qua sự chánh niệm . Không phải qua những bài học về thuật hùng biện .

Chánh Nghiệp

Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng . Nếu có chủ tâm đúng, dựa trên chánh kiến, th́ chánh nghiệp sẽ theo sau . Tất cả đều tạo ra nghiệp cho ta, v́ tất cả đều là kết quả của sự chủ tâm . Lời nói dựa vào chủ tâm . Hành động cũng dựa vào chủ tâm . Tất cả tạo ra nghiệp – tốt, xấu hay không tốt không xấu – không phải là cho ngay kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại . Nghiệp và nghiệp quả xảy ra từng giây phút . Trừ khi ta để ư đến kết quả, ta sẽ không biết rằng chúng có liên hệ với những ǵ ta vừa nói, vừa nghĩ hay vừa làm .

Nhờ có chánh nghiệp ta không làm hại đến sinh vật khác dưới bất cứ h́nh thức nào, từ bỏ ḷng tham lam ác độc . Không thể đè nén ḷng thamvà sự ác độc . Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách khác . Ta cần phải có tâm buông bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định . Khi tọa Thiền , ta phải dứt bỏ mọi tham ái, nếu không sẽ không có Thiền định . Chỉ có vọng tưởng, hy vọng, ước mong, sợ hăi, nhớ tưởng . Nếu không buông bỏ được những trạng thái này của tâm , th́ ta khó thể tham Thiền . Thiền định là xả, buông bỏ mọi lăng xăng của tâm, ngă tưởng và ái dục . V́ ta chưa thực tập buông bỏ được nhiều, ta rất khó ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ dễ tọa Thiền hơn . Cố gắng đè nén chúng không có kết quả ǵ, nhưng sự buông bỏ cái ư muốn suy nghĩ, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem lại kết quả khả quan nhất . Buông bỏ ḷng ham muốn là con đường duy nhất dẫn tới sự b́nh an, và khi đă kinh nghiệm được như thế, ta sẽ hiểu được rằng buông bỏ ḷng ham muốn trong đời sống hàng ngày sẽ mang lại cho ta hạnh phúc .

Chánh nghiệp có thể thực hiện được trong mọi hoàn cảnh, bởi bất cứ ai,bất cứ lúc nào, dầu ở trong nhà, hay nơi công sở, hay chốn tu hành . Bất cứ nơi nào, bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta đều phải hành động . Chúng ta có thể xét xem những hành động có ích lợi cho người khác hay cho chúng ta . Ngay cả việc nấu ăn hay dọn dẹp nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, không phải v́ bổn phận, v́ được yêu cầu hay v́ sợ người khác . Lư do chánh để ta làm điều đó là v́ ở đúng một thời điểm nào đó, việc đó cần đuợc thực hiện với một mục đích . Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta biết được chủ đích thực sự và quan điểm của ḿnh trong các hành động . Ta có thể thấy được sự liên kết giữa thân và tâm, mà không cần phải để ư đến những thứ bên ngoài ta . Sẽ không có sự miễn cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm với cả tấm ḷng . Chỉ có như thế th́ hành động của ta mới mang lại kết quả ǵ .

Thường người ta nghĩ rằng công việc làm ta không c̣n th́ giờ vui chơi, tiêu khiển . Đó rơ ràng là một cái nh́n sai lầm . Chính sự vui chơi mới là sự gián đoạn cho công việc . Dầu làm bất cứ nghề ǵ, công việc cũng là phương tiện để ta cảm thấy hữu ích, sống có mục đích . Công việc là phương tiện giúp ta hoàn toàn chú tâm đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân . Công việc là cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người , phát triển các kỹ năng và biểu lộ t́nh thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ . Không có phương tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hoá thân tâm bằng công việc . Không chỉ làm để kiếm sống hay v́ người khác đ̣i hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm ḷng như một phương tiện để thấu hiểu mọi việc hơn .

Chánh Mạng

Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh . Chánh Mạng có nghĩa là phương tiện ta kiếm sống không làm hại đến ai . Mỗi người phải tự ḿnh biết điều đó. Có nhiều cách kiếm sống được coi là "đúng", hơn là "sai", nhưng cũng có những cách kiếm sống thật tai hại . Để đánh giá ta có thể dựa vào năm giới luật . Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm điều cấm, th́ rơ ràng đó là sai .

Chánh Mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh hóa, v́ nếu ta theo đuổi mộc cách kiếm sống sai lầm, ta trở nên chai lỳ, và thói quen tội lỗi sẽ thành h́nh. Một người đồ tể , trong các ḷ sát sinh, chẳng hạn, phải giết chết hết mọi cảm xúc của ḿnh mới có thể tiếp tục làm công việc này . Nếu không anh ta khó mà làm công việc này . Một con người như thế sẽ trở nên chai cứng, không c̣n ḷng thương xót đối với các chúng sanh .

Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại . Nói dối, uống rượu , lấy của người, tất cả là những phương tiện kiếm sống không lương thiện . Cũng có người sinh sống bằng những quan hệ t́nh dục sai tráí . Rơ ràng là những cách kiếm sống dựa trên ái dục, không chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề này mà c̣n gây khổ lụy cho người khác . Và họ tiếp tục làm những việc này bằng cách tự biện hộ lư giải cho hành động của họ . Nhưng đó là tà kiến của họ . Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần phải dựa vào chánh kiến .



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
tuyetson
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 08 January 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 45
Msg 15 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:55pm | Đă lưu IP Trích dẫn tuyetson

Chánh Tinh Tấn

Sự tinh tấn và năng lượng có ảnh hưởng cộng sinh . Nhờ có năng lượng , ta mới có tinh tấn . Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh tấn, th́ năng lượng càng tăng thêm . Năng lượng là nhiên liệu của sự tinh tấn, cũng như ngược lại . Tinh tấn có vẻ như đối nghịch với sự thoải mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp tục tham Thiền, đến một lúc nào đó, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ có tinh tấn ta mới có được sự thoải mái, dễ chịu .

Đức Phật đă chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật làm những phương tiện hữu ích . Chúng được gọi là "ba la mật"(tối thượng) v́ chúng rất hữu ích và cũng rất khó thực hiện . "Đừng để một ư xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi . Đừng để nó tiếp tục, nếu nó đă phát sinh . Hăy dấy khởi ư niệm lành, nếu nó chưa phát sinh . Hăy nuôi dưỡng ư niệm lành, nếu nó đă dấy khởi ".

Để làm được như thế ta phải theo dơi tâm ḿnh, và phải biết phân biệt giữa cái tốt và cái xấu . Đó là một trong những lư do tại sao tôi đă khuyên các bạn nên đặt tên cho tư tưởng của ḿnh, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền . Chỉ khi nào ta biết ḿnh nghĩ ǵ, ta mới có thể có những biện pháp thích ứng . Ta cần biết tâm ḿnh đang có những ác niệm hay niệm lành, cần biết phân biệt rơ ràng như thế, ta mới có thể thực hành được lời dạy trên của Đức Phật .

Cần phải có rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác niệm không dấy khởi, v́ ta phải biết rơ về chủ đích ở đằng sau đó . Với những tư tưởng đang dấy khởi, điều đó dễ dàng hơn . V́ thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta có đủ khả năng để biết một điều ǵ đó không được tốt đang chực chờ bộc phát, , để ngăn chận không cho nó xuất hiện .

Khi Thiền định, mọi tư tưởng đều vô ích v́ ta không mốn suy nghĩ ,mà muốn Thiền . Trong cuộc sống hàng ngày th́ lại khác . Ta cần phải dẹp bỏ mọi ác niệm . Cố gắng đè nén chúng không ích lợi ǵ . Mà nên buông bỏ chúng, hoặc thay chúng bằng những thiện niệm . Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng bằng sự chủ tâm vào Thiền quán . Ta có làm được điều đó hiệu quả hay không trong Thiền định, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật trong đời sống hàng ngày . Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta có thực hành tốt hay không bốn tinh tấn ba la mật, th́ điều này lại phản ánh trong lúc ta tu tập Thiền . Những ác niệm trong đời sống hàng ngày hiện lên trong sự lăng xăng, không yên tĩnh lúc ta tọa Thiền . Trong khi những ư niệm lành luôn được nuôi dưỡng, và không bao giờ sai lệch, sẽ đem lại an b́nh và yên tĩnh cho tâm ta .

Nếu ta không thể nhớ ǵ về những điều Phật dạy trừ bốn tinh tấn ba la mật này, th́ cũng là đủ . Những điều khác, nếu chúng ta có nhớ, có thể giúp ta thêm phấn khởi, thêm thanh cao, nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp người thực tập chúng dễ dàng đạt được sự thanh tịnh .

Cần phải có chánh kiến để nhận ra rằng đó là những điều chúng ta cần làm, và muốn thực hành, ta cần phải huân tập công phu . Trên cơi đời này rất ít có người hoàn toàn không có ác niệm . V́ ta tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống trong một thế giới cũng nhiễu nhương , hỗn loạn . Không phải là các ngôi nhà cao tầng, xe cộ hay các cơ chế chính quyền làm nên thế giới này . Nhưng chính là quá tŕnh tư duy của chúng ta đă làm nên sự khác biệt giữa chiến tranh hay hoà b́nh, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngoài ta .

Đặt tên cho các ư nghĩa của ḿnh, có nghĩa là ta biết ta đang nghĩ ǵ . Tốt nhất là ta thực hành các điều này khi hành Thiền, là khi ta có thể thấy rơ ràng tâm ta luôn luôn lăng xăng . Các tư tưởng của ta có thể xấu hoặc là tốt hoặc là trung tính, không tốt không xấu, có thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng, lo âu hay sợ sệt, ghen ghét, ganh tỵ hay hoàn toàn mù mịt . Trừ khi ta biết rơ những điều này, ta không thể nh́n trở vào để tự quán sát, ta sẽ không bao giờ hiểu tại sao ḿnh lại có những cảm giác như thế hay hành động như thế .

Bốn tinh tấn ba la mật là những điểm cơ bản trên con đường đạo . Trong khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuông, chùa chiền chỉ là những thứ trang sức bên ngoài . "Đừng để một ư xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi . Đừng để nó tiếp tục, nếu nó đă phát sinh . Hăy dấy khởi ư niệm lành, nếu nó chưa phát sinh . Hăy nuôi dưỡng ư niệm lành, nếu nó đă dấy khởi". Đó là quá tŕnh thanh tịnh hoá tư tưởng , và cũng đưa đến sự thanh tịnh hoá của lời nói và việc làm . Khi những điều đó xảy ra, ta có thể thấy rơ ràng hơn . Một tấm gương trong suốt với mặt gương sạch bóng không dính buị dơ, là tấm gương có thể phản chiếu được một h́nh ảnh trong sạch .

Ta cần phải tinh tiến trong bất cứ việc ǵ ḿnh làm , nhất là trong lúc tọa Thiền . V́ dầu hành Thiền một cách tinh tấn, ta cũng không thể thấy những kết quả tức thời . Điều đó có thể khiến tâm thoái hoá, không có được sự tinh tấn ban đầu . Khi tâm đ̣i phải có kết quả tức thời, đó là sự trói buộc, bám viú, đ̣i hỏi . Đó là ḷng ham muốn, do đó đưa đến đau khổ .

Làm điều ǵ cũng thế . Ta thường trông mong kết quả, rồi khi kết quả không như ư, th́ sinh ra chán nản, buồn rầu . Tinh tấn v́ tinh tấn, không v́ mong muốn kết quả . Có được chánh tinh tấn là một thiện nghiệp, không cần biết đến kết quả như thế nào . Như khi tham Thiền, dầu ta chưa thấy kết quả rơ ràng, tức thời, nghiệp thiện cũng đă được h́nh thành do có chủ đích tốt .

Chỉ cần có chánh tinh tấn, ta cũng đă có được lợi ích, nhưng ít khi ta để ư đến điều đó . Ta c̣n măi trông đợi những phần thưởng vật chất . "Tôi đă quá cố gắng mà vẫn không thể chú tâm"hay"Tôi đă thương yêu con cái biết bao nhiêu, nhưng chúng chẳng hề biết ơn", "Tôi đă chăm sóc cho cô tôi bao nhiêu lâu, vậy mà cô ấy chưa bao giờ nói lời tử tế với tôi". Đó là một thái độ sai lầm . Sự cố gắng của ta đă là một nghiệp thiện, đó chính là kết quả . Không cần biết ai khác nói ǵ hay kết quả ra làm sao, đó là vấn đề thứ yếu . Đôi khi ta đạt được sự chủ tâm . Đôi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ . Nhưng điều đó không liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta . Nếu ta không thay đổi cách nh́n, th́ ta luôn phải phụ thuộc vào kết quả . Như thế sự tinh tấn của ta sẽ lúc có, lúc không v́ kết quả cũng lúc co,ù lúc không . Nếu tinh tấn không luôn có mặt, rơ ràng nó không có hiệu lực . Chánh tinh tấn cần phải luôn vững chắc .

Chánh Niệm

Kế tiếp là chánh niệm . Nếu bạn đă thực hành chánh niệm, bạn sẽ biết chánh niệm là ǵ . Khi ta đặt chân xuống đất và không biết đến ǵ khác hơn là việc đặt chân xuống đất, đó là chánh niệm . Khi đưa đũa lên miệng, ta không biết ǵ khác hơn là như thế, đó là chánh niệm . Điều đó rất khác với việc ta làm hàng ngày, nhưng nếu ta không biết sự khác biệt đó, th́ ta chưa biết thực hành chánh niệm . Lúc ta hoàn toàn chánh niệm ta không thấy ǵ khác hơn . Đó là sự chủ tâm vào một điểm . Điều đó giúp ta quên đi những phiền năo của ḿnh, v́ ta không thể nghĩ về hai điều cùng một lúc . Một trọng tâm điểm khi đem ứng dụng vào Thiền, dần dần ta sẽ có thể đạt định . Trong cuộc sống hàng ngày , sự thực hành chánh niệm giúp ta quên đi những vấn đề của ta, v́ nó không c̣n chiếm ngự tâm ta , và trong Thiền, nó giúp ta đạt định .

Chánh niệm c̣n có thể giúp ta tự thanh tịnh hoá . Khi người ta biết rơ ḿnh đang làm ǵ, nói ǵ hay nghĩ ǵ, người ta sẽ trở nên cẩn thận để thân, khẩu và ư đều không sai phạm, không để nó bị những hành động bản năng, cấu uế làm chủ . Bằng cách đó, ta được thanh tịnh hoá .

Đôi khi có sự hiểu lầm về từ "chánh"niệm. Chánh niệm có nghĩa là luôn luôn. Lúc nào ta cũng có sự chú tâm . Làm sao ta có thể sửa đổi ác nghiệp, nếu ta không chú tâm, không biết đến sự hiện diện của chúng?

Có bốn chánh niệm căn bản : chánh niệm về thân – như hành động, sự chuyển động, ba mươi hai bộ phận, dáng đi đứng , xác của thân; chánh niệm về các cảm thọ- như các giác tâm sinh lư; chánh niệm về ư – như quá tŕnh tư duy, biết rằng ta đang suy nghĩ, tâm đang hoạt động, biết rằng có suy tưởng và biết tư tưởng; và cuối cùng là chánh niệm về đối tượng của tâm – như biết rằng tư tưởng nào đó là cấu uế hay trong sạch .

Theo truyền thống, chánh niệm về đối tượng của tâm trước đó là coi như là sự chú tâm để xem coi phần nào là của năm uẩn hay bảy thất chi, Bát chánh đạo hay sáu trần dấy khởi . Nhưng trong thực tế, trong ứng dụng hàng ngày, điều đó quá phiền toái. Phần đông chúng ta không nhớ hết mọi chi tiết để tra xét . Chỉ cần biết tư tưởng đó có trong sạch hay ô uế là đủ rồi . Cũng thế, rơ ràng ta khó thực hành bốn thứ chánh niệm cùng một lúc . Ta có thể lựa chọn khi hành Thiền . Hoặc là chú tâm vào hơi thở vào ra hay Thiền hành, cả hai việc này đều khiến ta phải quán thân . Hay ta có thể quán về các cảm thọ do tâm sinh lư gây ra . Nếu ta nhận thấy ḿnh bị phiền năo v́ vọng tưởng, th́ đó là kết quả của sự quán tâm . Khi ta đặt tên cho các vọng niệm, và biết đó là thương , ghét , từ, sân th́ là ta đang thực hành quán về đối tượng của tâm . Tóm lại, khi tham Thiền, chính ta là người lựa chọn đặt sự chú tâm của ḿnh vào đâu .

Nhưng trong cuộc sống hàng ngày th́ khác . Ta phải đặt chú tâm vào việc ǵ đúng ở thời điểm nó đang xảy ra . Thí dụ như khi đang băng qua một con đường có nhiều xe cộ, mà ta lại phải chú tâm vào từng bước chân của ḿnh, th́ e rằng đó không phải là một cách giữ mạng sống . Ta phải chú ư xe cộ chạy ra làm sao . Trong trường hợp này, có nghĩa là ta phải chú tâm vào những ǵ đang xảy ra quanh ta . Hay khi đang tṛ chuyện qua điện thoại, chắc ta khó chú tâm vào cái ống nghe, v́ làm thế th́ ta sẽ chẳng biết ḿnh nói ǵ . Ta phải chú tâm vào quá tŕnh tư duy và kết quả của nó là những lời ta nói ra. Bất cứ ǵ hợp lư, đó là nơi ta phải đặt chú tâm vào.

Chánh niệm là một yếu tố tâm linh mà ta có thể và phải thực tập mỗi giây phút tỉnh thức. Có hai mươi bốn giờ trong một ngày, và nếu mọi việc suôn sẻ, ta có thể tham Thiền một tiếng vào buổi sáng, một tiếng buổi tối. Ta có thể ngủ sáu hay bảy tiếng, như vậy ta c̣n lại khoảng mười lăm tiếng mỗi ngày. Nếu suốt thời gian đó ta không nhớ để chánh niệm, th́ chi bằng ta quên luôn việc hành Thiền và thực tập lời Phật dạy. Nếu ta làm thế th́ ta chỉ có giỏi nói mà quên thực hành.

Khi ta luôn thực hành chánh niệm, dần dần nósẽ trở thành một thói quen, giúp cho cuộc sống ta ít phiền năo, v́ nhờ chánh niệm ta có thể tránh được những sai lầm, vấp ngă. Chánh niệm giống như bàn thắng của xe. Lái xe mà không có thắng th́ xiết bao nguy hiểm. Nếu ta sống cuộc đời không có chánh niệm, th́ cũng nguy hiểm như thế. Lúc nào ta cũng có thể va vấp, đụng chạm người khác, tự làm hại ḿnh, hại người.

Khi ta thực tập chánh niệm, không có nghĩa là ta trở nên thụ động, và phản ứng theo ư muốn của người khác. Đó không phải là chánh niệm, đó là nhượng bộ. Chánh niệm là biết rơ ḿnh đang nghĩ ǵ, cảm thâư ǵ, hành động ra sao. Khi ta biết như thế, ta sẽ trở nên chú tâm đến phản ứng của ta hơn. Ta sẽ không nghĩ đến việc hành động theo như ư người khác. Mà ta sẽ quan tâm đến việc tự thanh tịnh hóa ḿnh.

Chánh tinh tấn – bốn tinh tấn ba la mật – chỉ có thể thành công nếu đi đôi với chánh niệm. Hơn thế nữa, tất cả mọi vi nhánh của Bát chánh đạo đều cần có sự hỗ trợ của chánh niệm.

Chánh niệm đi đôi với cái biết rơ ràng. Chánh niệm là yếu tố biết – chỉ có cái biết – đă được diễn tả đầy đủ trong một bài thơ Haiku của Nhật như sau :

Ao cũ

Cóc nhảy vào

Phộp.

Khi con cóc nhảy vào một ao hồ, có rất nhiều việc xảy ra, mặt nước gợn sóng, con cóc biến mất, có thể có ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt ao. Tất cả những thứ này đều là yếu tố thêm thắt. Trong khi chánh niệm đi vào trọng tâm, điểm chánh yếu, và đó là tiếng ‘Phộp’. Đó là tất cả. Đó là trọng điểm.

Chỉ có cái biết, cùng với bạn đồng hành của nó là sự thấu suốt. Tính thấu suốt giúp ta biết ngay việc ǵ đang xảy ra, để sử dụng cái biết đó. Tính thấu suốt gồm bốn phần: biết mục đích, biết phương tiện có khéo léo không, biết mục đích và phương tiện có nằm trong Pháp không; và biết rằng người ta có đạt được mục đích không.

Khi ta nói không với một mục đích ǵ, tức là ta đă bỏ quên chánh niệm và tánh thấu suốt. Khi ta nói có mục đích, nhưng không biết diễn tả như thế nào, tức là ta không có phương tiện khéo léo. Sự chú tâm phân biệt giúp ta biết thân, khẩu và ư của ḿnh có nằm trong Pháp chân thật không. Nếu ta không đạt được kết quả mong muốn, th́ rơ ràng là ta đă không dùng đúng phương tiện. Chánh niệm trong lời nói và hành động cần có tính thấu suốt đi kèm: biết mục đích, phương tiện khéo léo, tuân theo Pháp giới và kết quả. Khi ta sống có chánh niệm, sự chú tâm của ta khác hẳn b́nh thường. Chúng ta biết việc ǵ đang xảy ra nhưng không quan tâm đến nó. Khi sân nổi lên, ta biết nó đang dấy khởi, nhưng ta không cần phải trở nên giận dữ. Đó là một kỹ năng tuyệt vời. Khi chán nản, ta biết chán nản đang dấy khởi, nhưng ta không phải trở nên chán nản, hay tuyệt vọng. Ta chỉ biết sự dấy khởi và sự đoạn diệt của mọi trạng thái tâm.

Chánh niệm là cho mọi người, ai cũng có thể sử dụng nó để sinh tồn, nhưng v́ vấn đề tranh đấu để sinh tồn chỉ là hoài công, nên tốt hơn, ta nên sử dụng nó vào việc giải thoát, Giác Ngộ. Chánh niệm là một phương tiện khéo léo, và thấu suốt, là trí tuệ giúp ta phân biệt. Chánh niệm không có sự phán đoán, nhưng thấu suốt có yếu tố phân biệt, v́ thế ta có thể thay đổi hướng đi nếu cần thiết.

Chánh Định

Khi vào sâu trong Thiền định, ta có thể t́m được chánh định, là điều Đức Phật đă nói đến trong nhiều bài giảng như con đường, như phương tiện, chứ không phải là mục đích.

Chánh định căn bản vẫn cần các vi nhánh khác của Bát chánh đạo. Nếu không có giới hạnh, không có chánh tư duy, chánh kiến, chánh tinh tấn, th́ không thể có được chánh định. V́ thế chánh định được nhắc đến sau cùng. Và cũng v́ nó là điểm khởi hành của ta từ một người b́nh thường trở thành người có Giác Ngộ. Chánh kiến đứng ở vị trí đầu tiên trong Bát chánh đạo, v́ không có chánh kiến, không có ǵ có thể xảy ra. Chánh định đứng ở vị trí cuối v́ nó cần tất cả những yếu tố khác để có thể thành h́nh và tạo ra phương tiện để đạt được sự tự tại.

Khi đă có chánh định, và đă cố gắng soi rọi lại nội tâm ḿnh, lúc đó chánh kiến lại rơ ràng hơn. Đó là chánh kiến về sự giải thoát. Như thế cuối cùng ta đă đi hết ṿng tṛn để trở lại với chánh kiến về ‘cái ngă’, tức là vô ngă. Chúng ta không thể t́m thấy cái ‘vô ngă’. Chúng ta không thể t́m thấy cái ǵ không có mặt. V́ thế ta phải luôn chất vấn, t́m hiểu về cái ǵ mà ta tin là ‘tự ngă’. Chúng ta tin vào thân, vào thọ, tư duy, tâm hành là cái ta. Th́ ta cần phải xem xét lại tất cả những ǵ được coi là ‘cái tôi’ ấy. Trừ khi ta biết rơ ràng về ‘cái ngă’ đang có trong tay, làm chủ nó, nếu không ta không thể buông bỏ nó. Nếu tôi không biết cái đồng hồ của ḿnh ở đâu, nếu tôi không có nó ở trong tay, th́ tôi không thể bỏ nó đi. Tôi chỉ có thể làm được điều đó khi tôi biết đích xác nó là ǵ, đang ở đâu. Nếu tôi đi t́m đồng hồ mà không thấy, th́ tôi không thể làm ǵ được với nó cả. Đối với ‘cái ngă’ của ta cũng thế.

Cuộc truy t́m là về ‘cái ta’. Cái thân này là ǵ? Đó có thật là ‘tôi’, là ‘của tôi’ không? Nếu nó là cái xác, nó có c̣n là ‘tôi’ không? Những cảm thọ này có thật là của tôi không? Tại sao chúng lại đến, khi tôi chẳng mong chờ? Tại sao tôi có những ư tưởng chỉ làm tôi đau khổ? Ai đang đau khổ? Ai là ‘tôi’? Có phải là ‘cái tôi’ của ngày hôm qua, hôm nay hay ngày mai? Cứ như thế, những câu hỏi để t́m ra ở đâu là ‘cái tôi’, cái ǵ là ‘tôi’. Và cuối cùng khi tôi t́m ra được nó, lúc đó tôi mới có thể buông bỏ được ảo tưởng về nó.

Tóm lại, để t́m hiểu về ‘vô ngă’, ta phải bắt đầu với ‘cái ngă’, và khi nó trở nên ngày một rơ ràng đó chỉ là tư duy sai lầm về ‘cái ngă’, nó cũng trở nên rơ ràng là quá tŕnh tư duy của ta có thể chuyển hệ.

Tất cả những yếu tố ta đă bàn ở đây chỉ là con đường, là phương tiện để làm giảm bớt ḷng chấp ngă, làm cho nó trở thành nhỏ hơn. Định là một yếu tố quan trọng, v́ lúc mà tâm hoàn toàn định, th́ không c̣n tư tưởng như ‘tôi là, tôi có thể, tôi sẽ, tôi muốn, tôi không muốn’. Khi Thiền định được thực hành thường xuyên ‘cái tôi thường nhỏ lại, và người ta có thể nh́n sự việc một cách rơ ràng hơn. Ngược lại, nếu ta không tu tập định hay chú tâm, ngă chấp của ta vẫn không thay đổi.

Bát chánh đạo đi từ cái nh́n đúng một cách tương đối tới cái chánh kiến tuyệt đối,và cuối cùng, chính con người trở nên Bát chánh đạo. Lúc đó không cần phải thực tập Bát chánh đạo nữa hay cố gắng để nhớ tới chúng. Không cần phải cố gắng với từng bước, v́ Bát chánh đạo đă trở thành bản năng tự nhiên của ta. A-la-hán lúc nào cũng có chánh kiến, chánh tư duy. Các Ngài không có tà ngữ, hành động sai trái hay nghịch mạng. Nhưng lúc nào cũng chánh tính tấn, chánh niệm, và chánh định. Với chúng ta mỗi ngày một ít. Chỉ có thực hành mới giúp ta hoàn thiện Bát chánh đạo.



__________________
Ḥn ngọc Viễn Đông
Quay trở về đầu Xem tuyetson's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuyetson
 
bachngoc
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 46
Msg 16 of 23: Đă gửi: 08 March 2006 lúc 9:58pm | Đă lưu IP Trích dẫn bachngoc

MỘT CUỘC BẮT ĐẦU MỚI.

Các bạn đă ở đây được mười ngày, và sẽ trở về lại nhà trong một khung cảnh hoàn toàn khác.Việc hành Thiền cũng như sự hiểu biết của các bạn về Phật pháp tiến bộ thấy rơ. Khi trở lại nhà, các bạn có thể nghĩ là người thân ở nhà đă thay đổi. Đột nhiên họ như không hiểu những điều bạn nói nữa. Họ lại quan tâm đến những việc đối với bạn không có ǵ quan trọng cả. Khi đó bạn nên biết rằng không phải họ là người đă thay đổi, mà chính bạn mới là người thay đổi.

Khi bạn xuống phố, quan sát mọi người, xe cộ qua lại bạn có thể tự hỏi: "Tại sao mọi người vội vă thế? Họ cần đi đâu? Có cần phải vội vă như thế không?". Bạn đứng yên ở một chỗ, quan sát và than rằng: "Tôi không thể hiểu tại sao mọi người lại cần vội vă đến thế?". Rồi chừng ba tuần hay ba tháng sau, tùy theo sự thực tập của bạn, mọi việc lại trở lại b́nh thường trong mắt bạn. Ai cũng thế, và bạn cũng thế. Và điều đó chứng tỏ rằng bạn đă chểnh mảng trong thực tập, bạn không c̣n tự tại nữa, có nghĩa là bạn cần dự một khóa tu học khác nữa.

Vậy bạn cần phải làm ǵ trước những sự kiện này? Ngội thiền một tiếng buổi sáng, một tiếng buổi tối, có lẽ là lời khuyên hữu dụng nhất. Nếu bạn có thể thực tập nhiều hơn, càng tốt.

Tóm lại có nhiều việc bạn có thể làm. Trong nhà, bạn có chỗ riêng để ăn uống, ngủ nghỉ, làm việc, tắm gội. Hăy chọn một chỗ nhất định, không dời đổi để tọa Thiền. Bạn không thường xuyên dời đổi chỗ ngồi ăn, hay chỗ ngủ nghỉ. Cũng thế, hăy dành một góc nào đó trong nhà, vừa đủ một chỗ ngồi cho bạn. Để gối Thiền hay tọa cụ ở đó và không dời đổi. Nếu mỗi lần cần ngồi thiền mà bạn phải đi t́m kiếm những thứ này, th́ bạn dễ bị phân tâm. Nếu muốn, bạn có thể đặt một tượng Phật hay ảnh Phật với bông hoa để tạo ra không khí riêng cho góc pḥng đó. Cũng giống như trong pḥng ăn th́ phải có bàn ăn, ghế ngồi, nhà bếp có ḷ nấu, th́ góc tọa Thiền của bạn cũng cần có tọa cụ, chiếu Thiền, có thể một bàn thờ nhỏ với hoa hay một ngọn nến.

Mỗi ngày bạn đều đến ngồi vào chỗ đó ở một thời điểm nhất định, mang theo một đồng hồ báo giờ. Để đồng hồ báo giờ một tiếng sau đó, nếu không, lúc đang tham Thiền, bạn sẽ nghĩ "Có lẽ đă hơn một tiếng rồi". Nhưng khi bạn đứng lên, xem giờ, th́ chỉ mới được mười phút, rồi một khi đă đứng lên đi ra chỗ khác, bạn khó ḷng quay trở lại với việc tọa Thiền. Ít ai làm được điều đó. V́ thế tốt hơn hết là mang theo đồng hồ, và ngay khi bạn nghĩ: "Chắc được một tiếng rồi", bạn cũng biết không thể nào như thế, v́ đồng hồ chưa reo báo giờ. Khi bạn biết đồng hồ chưa reo, th́ chưa tới giờ, nghĩa là bạn chưa thể đứng lên. Dần dần việc tọa Thiền sẽ trở nên dễ dàng hơn.

Ta cần sự hỗ trợ càng nhiều càng tốt. V́ ta luôn t́m cách để tránh né việc khó. Ai cũng thế. Hăy cảnh giác về những lư do để tránh né. Khó có ai tọa Thiền thường xuyên như thế này, lâu như thế này, nếu không có người khác cùng ngồi với nhau. V́ thế nếu có được một nhóm hay ít nhất là hai người ngồi với nhau càng tốt. Nếu họ không biết tọa Thiền, dạy họ quán về từ bi, theo dơi hơi thở, và cùng ngồi im lặng với nhau.

Tuy nhiên, cũng đừng v́ thế mà thuyết phục mọi người trong gia đ́nh phải ngồi Thiền với bạn. Cách đó chỉ làm họ càng tránh né. Chỉ cần nói: "Tôi thích ngồi Thiền. Tôi sẽ làm như thế". Vậy là đủ. Ai có thể căi với chúng ta điều ǵ ? Hay "Tôi sẽ dậy sớm hơn một tiếng". Tốt. Thức dậy nhẹ nhàng, êm ái, tránh làm người khác thức giấc theo, v́ bạn đâu có muốn cả nhà cùng dậy ồn ào, trong khi bạn ngồi trong góc pḥng, cố gắng Thiền định. Buổi chiều, lúc nào thuận tiện, hăy vào ngồi ở góc Thiền của bạn. Nhưng phải đợi lúc TV đă được vặn tắt.

Con người dễ tập thói quen. Khi chúng ta c̣n nhỏ, mẹ chúng ta thường bảo: "Đi đánh răng". Và chúng ta thường nói "Con không muốn", hay "Tại sao phải đánh răng", "Con đă làm rồi" hay "Lát nữa con sẽ đánh". Nhưng các bà mẹ vẫn kiên tŕ: "Đi đáng răng". Dần dần ta cũng làm theo, và theo thời gian, ta đă có thói quen đánh răng. Ở đây bạn phải đảm luôn trách nhiệm của người mẹ. Khi tâm ta nói: ‘Tôi không muốn ngồi’, hay ‘Lát nữa tôi sẽ ngồi’, hay ‘Bỏ một ngày có hề ǵ’, ‘Căng quá. Chân tôi đau. Ngày mai tôi sẽ ngồi’; bạn đừng nghe theo nó, mà phải nói: "Đi ngồi đi. Nhanh lên. Không có ǵ đáng làm hơn chuyện đó".

Khi c̣n nhỏ, ta không hiểu tại sao phải đánh răng, giữ răng cho sạch. Mẹ ta luôn nhắc rằng nếu không chúng sẽ rụng hết, ta cũng chưa chắc hiểu rụng là thế nào. Làm sao mà răng có thể rụng được, ta thầm nghĩ. C̣n bây giờ bạn nghe nói: "Nếu bạn không tham Thiền, tâm bạn sẽ thiếu minh mẫn". Có thể ta cũng không hoàn toàn hiểu tâm minh mẫn là như thế nào. Nhưng ta cần phải tự nhủ với ḿnh như một người mẹ nói với con: "Điều đó tốt cho con. Hăy làm đi". Bạn phải lo chăm sóc cho tâm ḿnh, nếu không tâm sẽ không lo cho bạn đâu.

Đó là một thói quen tốt, trong sạch, nó dẫn ta đến co đường thanh tịnh hóa. Những thói quen của tư tưởng sẽ tạo h́nh cho cá tính của ta và dẫn dắt ta đi vào những nẻo đường tâm linh, đường đến với Đạo.

Nếu ta không sử dụng tâm cho một mục đích nào khác hơn là chỉ để sống và hưởng thụ, th́ đó là một sự lăng phí thời gian. Dĩ nhiên là ta phải sống, mới có thể hành Thiền, nhưng không phải v́ thế mà để cho nó chiếm hết tâm tư của ta. Ta phải thêm vào yếu tố chánh niệm và thực tập nó suốt tất cả thời gian tĩnh thức của ta. Bất kỳ ta làm ǵ – nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chợ búa hay đi đứng – đều có thể là một bài học về chánh niệm. Khi đang rửa chén, đừng nghĩ đến việc bạn sẽ làm sau khi làm xong công việc nhàm chán đó, nhưng phải hoàn toàn để tâm vào từng thao tác trong việc rửa chén. Khi đang lau nhà, đừng nghĩ đến làm sao cho rồi việc, nhưng chú tâm vào từng chuyển động ; đó chính là chánh niệm.

Tất cả những tư tưởng tiêu cực đều khiến tâm thoái hóa. Tâm giống như thân, cũng sẽ bị hoại diệt, hư hao qua thời gian sử dụng. Nó sẽ trở nên bớt trong sạch với những ư nghĩ vụng về. Khi nào có những –"Tôi không thích điều đó. Tôi không muốn làm điều đó. Tôi muốn thoát ra khỏi đây. Tôi căm thù việc này. Tôi ganh ghét. Tôi hănh diện v́ nó"- trong tâm, ta trở nên yếu đuối hơn, đánh mất chánh niệm, sáng suốt một lần nữa.

Chánh niệm có thể đem áp dụng vào hành, vào cảm thọ, vào tư duy, hay vào các trần, tùy hoàn cảnh. Thí dụ khi đang có cảm giác buồn, sự chú tâm được đặt vào cảm giác ấy với cái biết rằng nó sẽ không mang lại lợi ích ǵ cho ai. Chúng ta biết là cần phải thay thế nó bằng những t́nh cảm khác, hay buông bỏ nó. Khi đang suy tư, phải hoàn toàn biết quá tŕnh tư duy, và biết đối tượng tư duy. Có nghĩa là biết điều ḿnh suy nghĩ là tốt hay xấu.

Việc này cũng sẽ trở thành thói quen, để chúng ta tránh khỏi việc trách móc người khác. Nó phủi sạch tấm màn nhện của quá tŕnh tư duy, làm chúng trở nên rơ ràng, dễ hiểu. Chúng ta biết rơ ràng những ǵ xảy ra bên trong nội tâm ḿnh, và chung quanh ta. Đó là công việc của mười-lăm-tiếng mỗi ngày, tùy thuộc vào th́ giờ ngủ nghỉ của ta. Trừ khi công việc này được thực hiện trong suốt thời gian hay phần lớn thời gian tĩnh thức của ta, nếu không ta khó có hy vọng tọa Thiền thành công. Ngược lại, ta khó có được chánh niệm nếu không thực tập Thiền. Hai việc này hỗ trợ nhau. Ta phải thực hành Thiền, dầu ta có nghĩ rằng sự tu tập của ta là thành công hay thất bại. Đó là vấn đề của ḷng kiên nhẫn, chịu đựng, kiên quyết và tinh tấn. Ta chỉ có việc phải ngồi và thực hành.

Trong suốt mười ngày ở Thiền viện đây, bạn đă có được cơ hội quư báu để ngồi và thực hành, và đă có được chút ít kết quả. Khi trở về nhà, sẽ có ít thời gian để thực tập hơn, kết quả sẽ không giống như thế này, hay tiến bộ hơn. Thiền định là một thành quả mong manh. Nó cần được nuôi dưỡng, chăm sóc cho xứng đáng. Định vô lượng là hạt kim cương ít người trên cơi đời này với tới được. Họ có thể được đọc về nó, nghe về nó, nhưng như thế th́ ích lợi ǵ cho họ. Nó sẽ không có ư nghĩa ǵ, trừ khi ta kinh nghiệm được nó, và sự thành tựu ít có được này đáng được trân trọng cho xứng đáng với giá trị của nó; nghĩa là phải luôn trau chuốt nó để nó măi sáng chói.

Ngoài ra Thiền định cũng giúp cho sự chánh niệm của ta trong đời sống hằng ngày. Đối với những ai chưa đạt được tŕnh độ sơ Thiền (stream-entry), gần phân nửa những ǵ dấy lên trong tâm họ đều là ô uế. Khi ta biết cảnh giác như thế, ta sẽ dễ dàng buông bỏ các vọng tưởng v́ ta đă học làm thế trong Thiền định.

Ta cần phải tránh một cuộc sống lờ mờ, không chủ định. Sự huyền diệu của trạng thái tỉnh thức không phải là đối ngược với giấc ngủ. Mà là đối ngược với trạng thái không chủ định. Phần lớn chúng ta không biết ḿnh làm ǵ, nghĩ ǵ, cảm giác ra sao. Nên chúng ta chọn một giải pháp dễ dàng là nửa tỉnh nửa mê. Đó là trốn tránh khổ đau. Nhưng biết khổ cũng là biết sự thật, là khổ đế trong tứ diệu đế của Đức Phật. Bất cứ ai trước khi muốn thoát khổ, cũng cần phải biết rơ về cái khổ. Khi đă biết về cái khổ mà không t́m cách giải thoát th́ thật điên rồ. Không có lối thoát nào ở ngoài ta, hay có thể thoát ra bằng sự ơ thờ, ngơ ngác. Con đường giải thoát duy nhất là quay trở vào bên trong, để nh́n thấy mọi sự rơ ràng. Mọi ngơ thoát khác đều là ngơ cụt.

Mỗi tuần nên Thiền chung với bạn bè, để tạo sự phấn khởi trong ta. Năng lực của đám đông có giá trị riêng của nó. Năm uẩn là rào cản, làm cho cuộc sống của ta thêm khó khăn. Và liều thuốc đối trị hiệu nghiệm nhất cho chúng là thiện tri thức, là những cuộc trao đổi về Phật Pháp cao siêu. Đừng tham gia vào bất cứ những cuộc đối thoại nào. Bạn đâu có ăn những thức ăn có thể độc hại cho cơ thể, th́ cũng đừng tiếp thụ vào tâm những thứ độc hại như tán gẫu, nói chuyện người, nói thị phi, bàn chuyện thời sự, bàn về sách tiểu thuyết rẻ tiền hay chỉ nói để mà nói. Những thứ đó sẽ đầu độc tâm ta và dẫn ta đi vào con đường tà.

Một phương thức khác để thấm nhuần Phật Pháp là nh́n mọi hoàn cảnh, mọi kinh nghiệm – dù lớn hay nhỏ – theo cái nh́n của Pháp. Khi bạn nh́n thấy một bụi cây ới những bông hoa tươi đẹp cùng những bông hoa khô héo trên cành, tâm bạn nên nghĩ đến sự sinh tử, hoại diệt. Hay khi bạn nh́n thấy chú chim nhỏ đang chăm chút xây tổ, kiên tŕ tha từng cọng rơm để làm cho chiếc tổ được chắc chắn, ấm êm. Bạn cũng nh́n thấy ở cạnh cây bên cạnh một cái tổ hoang. Luôn có sự thay đổi. Không có ǵ thường c̣n. Đây là nhà của tôi, tổ của tôi. Bao nhiêu tiền bạc, công sức, thời gian đă bỏ ra để xây cái tổ đó. Rồi một ngày kia tôi cũng phải bỏ nó mà đi.

Tất cả mọi vật ở chung quanh ta đều có thể được nh́n dưới con mắt Pháp để nhận ra rằng không có sự bền vững tuyệt đối, do đó luôn mang đến phiền năo, thất vọng. Điều đó không tạo ra cho ta sự chán nản, phiền muộn. Trái lại, chúng giúp ta thoát ra khỏi đau khổ, phiền muộn, v́ chúng giúp ta coi thường mọi việc xảy ra. Làm giảm bớt ḷng ham muốn trong ta, v́ ta biết rằng mọi ham muốn đều không thể được hoàn toàn thỏa măn, v́ mọi thứ đều vô thường.

Chánh Pháp ở trong tim ta. Chứ không ở trong các chùa chiền, y áo, hay các gốc cây bồ đề. Pháp chỉ có thể trụ ở một nơi. Những ai biết đem nhập Pháp vào tâm và hành Pháp, họ chính là đền đài chứa đựng Phật Pháp. Gạch ngói làm nên chùa chiền. Cũng như cây Bồ đề, các h́nh tượng đều chỉ là biểu tượng. Chúng ta cần các biểu tượng để nhắc nhở v́ ta rất dễ quên. Nhưng chánh Pháp trụ ở những trái tim biết sống theo chánh Pháp.

Đức Phật đă nói: "Ai nh́n thấy ta, là thấy Pháp. Ai thấy Pháp, là thấy Ta". Sống ở thời đại này, ta không hy vọng thấy được Phật sống, nhưng điều đó không cần thiết v́ "Ai thấy Pháp, thấy Ta". Nếu bạn có thể tự thấy Pháp trong tim ḿnh, th́ bạn có thể thấy Phật. Phật chỉ là tánh giác của ta. V́ thế nếu ta có Pháp trong ḷng, th́ ta cũng có Phật ở gần bên ta. Ta không cần phải đi tới đâu đâu để t́m Ngài. Ta không cần phải làm ǵ đặc biệt để được gặp Ngài. Bạn chỉ cần có chánh niệm và chuyển đổi cái xấu thành cái tốt. Có đơn giản không? Nhưng đơn giản, không có nghĩa là dễ dàng. Đó là những việc khó làm, nhưng chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta. Những lợi ích không có ǵ có thể so sánh được. Giờ bạn đă được trang bị đầy đủ. Tất cả là của các bạn. Hăy sử dụng chúng thật tốt.

- HẾT -



__________________
không c̣n yêu ai nũa !
Quay trở về đầu Xem bachngoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi bachngoc
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 17 of 23: Đă gửi: 09 March 2006 lúc 10:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Trong thiền tâm pháp có thể chia ra làm 5 loại:

1. Thiền phàm phu

2. Thiền tôn giáo

3. Thiền tiểu thừa

4. Thiền đại thưà

5. Thiền tối thượng thưà

1. Thiền phàm phu: đây là một lối thiền dưỡng sinh. Nó giúp cải thiện sức khoẻ, loại trừ các trục trặc tâm sinh lư bằng cách tập trung tư tưởng và kiểm soát tâm

2. Thiền tôn giáo: đây là một lối thiền thần thông. Bằng cách phát triển định lực mạnh mẻ và chú tâm kịch liệt phương pháp này sẻ đưa đến những sức năng siêu nhiên khác thường. Và mục tiêu của loại thiền này nhằm tái sinh vào một tầng tṛi thiêng liêng nào đó.

3. Thiền tiểu thừa: đây là một lối thiền độc thiện kỳ thân. Mục đích chỉ mong không tái sinh (luân hồi). phát triển trạng thái vô tâm, xuất thần có hạn định hay vô hạn định, từ đó đưa đến cái viên tịch (chết) không đau đớn.

4. Thiền đại thừa: đây là lối thiền kiến tánh ngộ đạo. Đạo nằm trong cuộc sống hằng ngày. Đối tượng của loại thiền này là giác ngộ. Tuy nhiên nên nhớ phương tiện thiền này và đối tượng giác ngộ là một. Nó không thể tách rời, giữ cái này và bỏ cái kia,

5. Thiền tối thượng thừa: đây là lối thiền mà phương tiện và cứu cánh là một. Ngoài việc kiến tánh ngộ đạo c̣n thể hiện đạo vô thượng trong toàn thể con người và trong những sinh hoạt hàng ngày. Và từ đó diù dẫn tha nhân vào con đường giác ngộ.

LỜI BÀN THÊM:

Đă nói chúng sanh căn tri vô lượng, do đó pháp môn vô lượng, v́ sao chỉ đưa ra có 5 loại. Mấy vạn pháp môn từ ngàn năm xưa đến nay thực sự không ít th́ nhiều cũng rơi vào 1 trong 5 loại đă kê ra. Có thể có pháp môn lẩn lộn một phần loại này, một phần loại khác.

Nêu ra 5 loại thiền pháp không có ư cho pháp môn này cao, pháp môn kia thấp, hay pháp môn này tà hay pháp môn kia chánh. Bất cứ pháp môn nào đáp ứng căn cơ, căn trí và mục đích của hành giả đều có giá trị cao nhứt đối với hành giả.

Thử t́m hiểu ít nhiều về phương tiện và mục đích của từng loại thiền môn, để thử xem kẻ hành thiền đang đi hay sắp chọn cho ḿnh một loại nào thích ứng nhứt.

1. Thiền giả chỉ thực hành thiền định theo một chương tŕnh nhất định hằng ngày, sau đó đặt ḿnh trong đời sống xuôi ngược b́nh thường. Nếu như vậy chắc chắn không thể là loại thiền đại thừa hay tối thượng thưà. V́ hai loại thiền sau này buộc phải thể hiện thiền định trong moị sinh hoạt hàng ngày

2. Thiền giả không đặt vào một niềm tin tín ngưởng nào, chỉ thực hiện trong nhu cầu dưỡng sinh không hơn không kém. Và từ đó t́m đến ích lợi tâm sinh lư bản thân, và đóng góp hửu hiệu cho liên hệ nghề nghiệp hay giao tiếp xả hội. Chắc chắn pháp môn thiền phàm phu là thích hợp nhất.

3. Trong một niềm tin nào đó thiền giả có thể dùng thiền pháp để t́m thấy ấn chứng, phép lạ, sự mầu nhiệm, hay đạt đến những sức năng siêu nhiên. Hoặc có thể qua sự chú nguyện, hay tu luyện thiền giả sẽ mong được thác sanh vào từng trời thiêng liêng nào đó. Những môn phái thần quyền, các pháp sư yoga, tạo những năng lực siêu nhiên như thần giao cách cảm, thôi miên, tỉnh toạ ngoài nuí tuyết, tiếp tục sống trong t́nh trạng khắc nghiệt không ăn, thiếu thở v.v...Tất cả có thể rơi vào loại thiền tôn giáo hay thiền thần thông. Điều lưu ư, thiền giả khi hết công đức do sự tu luyện hay do nhiều tiền kiếp, sự tái sinh có thể rơi trở laị tầng trời thế gian tục lụy hay thấp hơn nữa.

4. Trong ba loại thiền tiểu thưà, đại thừa, hay tối thượng thưà cũng chỉ mang mặc tính cách danh từ mà thôi. Điều quan trọng mục đích đi đến là giác ngộ, giải thoát, không cầu mong thành đạt hay tái sanh vào bất cứ thế giới thiêng liêng nào.

Nói tóm lại, phân tách các loại thiền pháp cũng chỉ gượng để phân biệt mà thôi. Mục đích chỉ cố giúp hành giả, phần nào, nhận định con đường ḿnh đang đi hay sắp đi. Nhờ đó hành giả khỏi phải phí công, phí thời giờ nếu thực sự pháp môn đó không đáp ứng ư nguyện của chính ḿnh. Hơn nưả hầu hết các loại thiền đều chứa đựng những yếu tố căn bản giống nhau. Chẳng hạn lên đại học, dĩ nhiên người sinh viên đă trải qua và thu lượm những kết quả của tiểu học, trung học v.v....Yếu tố phát triển định lực, kềm thúc tâm ư bằng cách áp dụng kỹ luật bản thân, phát huy hạnh đức, loại trừ tham, sợ, sân, si là những yếu tố chung.



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 18 of 23: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 9:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Thiền Của Phật


Đức Phật dạy: "Ta xem ngôi vị của vua chúa hay các nhà cai trị chỉ như hạt bụi. Ta thấy kho tàng vàng ngọc châu báu như gạch đá. Ta coi xiêm y lụa là như giẽ rách. Ta nh́n ra vô số thế giới của vũ trụ như cái hạt nhỏ trong trái cây, và chiếc hồ lớn nhất của Ấn độ như giọt dầu trên bàn chân ta. Ta nhận thấy mọi pháp trong đời đều là hư huyển tựa như ảo thuật của phù thủy. Ta suy nghiệm ra niệm tối thượng giải thoát như một sợi chỉ đan bằng vàng trong giấc mộng, và xem thánh đạo của các đấng giác ngộ như những đóa hoa trong mắt. Ta thấy thiền định như trụ chống của một quả núi, cơi Niết bàn như là ác mộng giữa ban ngày. Ta xem sự phán đoán về thiện và ác như vũ khúc uốn luợn của con rồng, và sự tăng và giảm của đức tin như vết tích sót lại của bốn mùa."


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 19 of 23: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 9:18pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

SỰ THAM THIỀN => CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC
(phần một)

₪₪₪₪₪₪₪₪S 62;

Chỉ dẫn thực hành trong những điều kiện chánh yếu.

Những phương pháp đưa đến trực giác.

₪₪₪₪₪₪

Diễn giả : Đại Đức Geoffrey HODSON
Thông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt

₪₪₪₪

Thưa Bà Chánh Hội Trưởng Xứ bộ Thông Thiên Học Việt Nam.

Thưa chư quí thính giả.

Trong những cuộc hội họp dành riêng cho hội viên Thông Thiên Học, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi về giáo lư Thông Thiên Học.

Nay trong buổi họp đầu tiên này chúng ta sẽ học về sự Tham thiền.

Trải qua các thời đại từ xưa đến nay, tất cả những người học Đạo đều t́m cách để đạt được sự giác ngộ. Từ ngh́n xưa ấy có người đă được thành công rồi. Nếu ta đi ngược ḍng lịch sử, trở về nước cổ Hi lạp hồi đời xưa, th́ ta t́m thấy có những nhà đạo sĩ nước Hi lạp cũng đă trải qua con đường Tham thiền để đi đến sự giác ngộ đó rồi.

Đây là một câu chuyện nói về nước Hi lạp thời cổ : hồi đời ấy, Hi lạp có một nhà triết học tên là THALÈS. Ông ấy sống một nơi trong thành phố Hi lạp cách đây vào khoảng 6oo năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Một ngày nọ có người hỏi ông 9 câu hỏi, ông đă trả lời tất cả. Những câu hỏi đó cùng với những câu trả lời của ông đều được giữ ǵn cho đến ngày nay. Đó thật là một diễm phúc cho chúng ta.

Câu thứ nhất mà người ta hỏi nhà triết học Thalès đó như vầy :

Hỏi : Cái ǵ cũ nhất trên đời ?

Nhà triết học trả lời : Thượng Đế là cũ nhất trên đời : v́ Ngài đă có tự bao giờ.

Hỏi : Cái ǵ đẹp nhất trên đời ?

Đáp : Vũ trụ th́ đẹp nhất trên đời, bởi v́ đó là công tŕnh của Thượng Đế.

Hỏi : Cái ǵ lớn nhất trên đời ?

Đáp : Không gian là lớn nhất trên đời, bởi v́ không gian chứa đựng tất cả mọi vật.

Hỏi : Cái ǵ là vững chắc nhất của hết thảy mọi vật ?

Đáp : Cái vững chắc nhất và vẫn tồn tại nhất là Hi vọng : bởi v́ hi vọng vẫn tồn tại măi măi dầu cho đến sau khi người ta chết.

Hỏi : Cái ǵ tốt hơn hết tất cả mọi vật ?

Đáp : Sự Tự do là tốt hơn hết tất cả mọi vật, v́ nếu không có nó th́ không có ǵ tốt đẹp hơn.

Hỏi : Cái ǵ mau nhất hơn tất cả mọi vật ?

Đáp : Đó là tư tưởng : v́ trong một khoảnh khắc đồng hồ, tư tưởng có thể vượt không gian để đi đến tận cùng trong vũ trụ.

Hỏi : Cái ǵ mạnh nhất hơn tất cả mọi vật ?

Đáp : Sự cần dùng : bởi v́ sự cần dùng làm cho người ta có đủ can đảm để đối phó với tất cả sự khó khăn ở đời.

Hỏi : Cái ǵ dễ nhất trên đời ?

(Tôi muốn biết trong chư huynh đệ có ai trả lời dùm cho tôi câu hỏi đó ?)

Đây là câu trả lời của nhà triết học Thalès khi người ta ḥi ông cái ǵ dễ nhất trên đời :

Ông trả lời như thế này : Cái dễ nhất trên đời là đem cho người khác những lời khuyên bảo.

Hỏi : Cái ǵ là khó nhất trên đời ?

Đáp : Tự biết ḿnh là cái khó nhất trên đời.



Biết cái Bản ngă của ḿnh, biết cái Chơn ngă trường tồn, vĩnh viễn của ḿnh và sự hợp nhất cái bản ngă của ḿnh với tất cả mọi loài, mọi vật, là mục đích của sự Tham thiền vậy.

Vấn đề quan trọng nhất trong đời của mỗi người là làm sao đạt được cái quyền năng, cái hạnh phúc, sự an tĩnh trong tâm hồn. Làm sao để nhận thức được cái bản chất thiêng liêng của ḿnh. Làm sao để t́m thấy được Thượng Đế ngự trong tâm ḿnh và luôn luôn sống với nhận thức đó. Làm sao để phụng sự Thượng Đế trong đức tánh thiêng liêng của Ngài.

Vậy Thông Thiên Học có thể dạy ta những ǵ để giúp ta t́m được Chơn ngă trường tồn vĩnh viễn trong người của ta.

Người ta có thể t́m thấy hạnh phúc, an tĩnh trong tâm hồn bằng cách Thiền định. Có thể có nhiều phương pháp khác nữa; nhưng phương pháp chắc chắn nhất là : t́m thấy Thượng Đế ngự trong ḷng ta bằng cách tham thiền mà thôi. Ta tham thiền để t́m thấy sự hiện diện của Thượng đế ngự trong ḷng ta, và để t́m thấy sự hạnh phúc và an tĩnh trong tâm hồn, vậy ta phải làm thế nào để bắt đầu một cuộc tham thiền đó ?

Trước hết có ba điều mà ta cần phải thay đổi trong đời ta (nếu cần).

Trước tiên, điều cần phải thay đổi là làm sao thay đổi cái động lực cốt yếu của đời ta : ta đổi sự ích kỷ tham lam ra sự vô kỷ, vô ngă.

Phương pháp thứ nh́ là làm thế nào thay đổi cuộc đời ta; từ sự tham lam, vô độ để đổi thành sự vô tư và tiết độ.

Phương pháp thứ ba là mỗi ngày phải tập tham thiền cho đúng giờ, đúng khắc và mọi ngày đều đều như vậy.

Có lẽ trong hàng chư quí vị cũng có người đă thực hành cái phương pháp đó rồi; nhưng phần đông chúng ta mỗi người đều làm theo cách riêng của ḿnh. Bây giờ tôi xin tŕnh bày cùng quí vị một phương pháp chắc chắn nhất để đạt tới mục đích của cuộc tham thiền được kết quả. Trước tiên ta cần phải tham thiền đều đều mỗi ngày không bỏ qua ngày nào hết. Nếu ta chỉ cố gắng vài ngày trong một tuần, th́ đó cũng là một điều tốt; nhưng nó không đưa tới kết quả được. Ta cần phải tiếp tục tham thiền mỗi ngày th́ luôn luôn có kết quả, dù ta thấy cùng không. Thí dụ như : nhờ sự tham thiền mà ta sẽ thấy tư tưởng của ta càng ngày càng thêm rơ ràng hơn, càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn; và sự tập trung tư tưởng của ta càng ngày càng có hiệu quả hơn. Lại nữa, sự hiểu biết của ta về người và vật xung quanh ta đều được rơ ràng hơn và xác thực hơn. Nhờ tham thiền đều đều hằng ngày mà ta có thể hiểu Đạo một cách dễ dàng hơn, và khi nghe diễn giảng về đạo lư, trí ta được sáng suốt hơn. Ta có thể nhận thấy những hiện tượng diễn ra trước mắt ta, dầu khi đó ta đang thức, giữa ban ngày. Lại nữa sức khỏe, nguồn sinh lực của ta cũng có thể tăng hơn bội phần. Lần lần ta nhận thức được những quyền năng vô biên của Thượng đế ở trong ḷng ta càng ngày càng rơ rệt hơn. Đó tức là vài kết quả tốt của sự tham thiền có thể đem đến cho ta.

Nên khi ta đă bắt đầu, th́ hăy kiên nhẫn để tiếp tục luôn luôn măi măi dẫu rằng : đôi khi ta chỉ có tập được 10 phút hay 5 phút mà thôi. Mỗi ngày ta cần phải để một thời gian lối 15 phút dành riêng cho sự tham thiền mỗi buổi sáng. Buổi sớm mai là giờ rất tốt cho sự tham thiền, bởi v́ ban mai sau khi thức dậy, tâm trí ta c̣n b́nh tĩnh vững vàng; thần trí ta được yên ổn, rất có lợi cho sự tham thiền. Hơn nữa lúc đó những điều kiện về không gian xung quanh ta cũng có một ảnh hưởng rất tốt.

Sự cần thiết khác nữa là ta phải ở trong một căn pḥng riêng biệt đừng ai quấy rầy. Điều này rất quan trọng bởi v́ ta cần phải được yên tĩnh và thanh tịnh. Lúc ta đang tham thiền mà có những người xung quanh ta quấy rầy th́ là một sự rất nguy hiểm cho ta. Khi ta tham thiền về một đầu đề ǵ cao siêu th́ tư tưởng của ta trở nên hoàn toàn trừu tượng đối với thể xác của ta. Nếu trong khi đó có một người nào bên ngoài chạy vào quấy rầy th́ ta có thể bị một cơn khủng hoảng về thần kinh có thể rất hại cho sức khỏe.

Để tham thiền cho có kết quả, th́ chúng ta cần phải lựa một giờ yên tịnh nào đó trong ngày mà nó cho ta được yên ổn. Không vậy th́ ít nhất ta cũng phải làm thế nào cho những người sống chung quanh ta biết, để cho ta yên ổn. Tóm lại có ba điều cần thiết là :

1) Sự tham thiền mỗi buổi sáng.

2) Sự riêng biệt đừng bị khuấy phá.

3) Cách ngồi cho đúng phép.

Có nhiều sách dạy về đạo đă diễn giảng những phép tĩnh tọa thế nào cho đúng để tham thiền. Nhưng nếu nói vắn tắt, th́ rốt cuộc chỉ có hai hoặc ba cách ngồi đúng phép để tham thiền mà thôi.

Nguyên tắc thứ nhất là ngồi thế nào cho thân thể được nghỉ ngơi hoàn toàn, nghĩa là không bị tŕ kéo hay đau đớn chỗ nào cả. Những bắp thịt của ta cũng phải được thong thả không bị bó buộc. Cặp chơn mày của ta cũng phải được nghỉ ngơi, không nên nhăn nhíu lại. Sự thong thả nghỉ ngơi bắp thịt là điều kiện cần thiết của sự tham thiền.

Nguyên tắc kế đó là xương sống của ta phải được ngay thẳng. Nếu nó ngay chừng nào càng tốt chừng nấy. Có nhiều người nằm ngửa xuống để tham thiền. Đó cũng là điều tốt bởi v́ khi người ta nằm th́ có thể nghỉ ngơi để cho các bắp thịt được thong thả, nhưng có một điều bất tiện là nếu nằm xuống để tham thiền th́ người ta cũng có thể ngủ quên đi. Nguyên tắc cốt yếu trong sự tham thiền là làm sao cho bộ óc của ta hoàn toàn thức tỉnh để cho nó có thể tiếp được những kết quả tốt đẹp của tham thiền. Như thế th́ phương pháp hay nhất là ngồi cho ngay thẳng. Ở phương Đông mà phương pháp thông thường nhất là ngồi xếp bằng ở dưới đất. Cách đó người ta gọi là ngồi theo cách bông sen hay là “ liên hoa tọa bộ” (tức là ngồi kiết dà). Có nhiều bức tượng Đức Phật Thích ca được người ta tạc trong khi Ngài ngồi theo phép đó. Nếu ta nhận thấy rằng ngồi xếp bằng như thế thật khó khăn vô cùng, nhất là những người phương Tây như chúng tôi, th́ ta có thể ngồi một cách khác là ngồi trên một cái ghế bành (fauteuil), hay ghế dựa. Khi ngồi trên ghế đó, th́ hai chân không được tréo lại, hai bàn tay cũng vậy, không được đụng nhau và không được tréo nhau. Hai bàn tay phải để cho ngay ngắn trên hai đầu gối. Đó là những điều ta cần phải làm cho đúng trong khi ta bắt đầu tập tham thiền.

Kế đó th́ đến vấn đề thở. Trong những sách dạy về Yoga có nhiều phương pháp luyện hơi thở để đạt tới sự giác ngộ. Phương pháp Yoga luyện hơi thở đó người Ấn độ gọi là Prânayama, có nghĩa là kiểm soát cái “Prâna” tức là cái sinh lực của vũ trụ. Những sự luyện tập này có nhiều nguy hiểm, bởi thế cho nên ta tránh không nên tập luyện hơi thở trong khi ta c̣n trẻ. Lúc lớn lên, ta bắt đầu luyện cũng không muộn ǵ, nhất là khi ta luyện tập thở dưới sự chỉ đạo của một vị Chơn sư. Nếu trong khi ta chưa gặp được Thầy dạy về phương pháp luyện hơi thở đó, th́ điều cần thiết là ta chỉ nên thở chậm răi và thong thả. Tôi có bổn phận phải nhắc nhở chư quí vị chớ nên tập luyện hơi thở bao giờ, nhất là luyện tập hơi thở với sự tập trung tư tưởng vào bất cứ nơi nào trong cơ thể. Nhất là tập trung tư tưởng ở tại đơn điền (plexus solaire), nơi tim và nơi bộ phận khác dưới xương mông. Có những cái trung tâm cốt yếu của bộ thần kinh ngự tại hai nơi đó. Nhiều người dạy học tṛ luyện hơi thở và tập trung tư tưởng nơi hai chỗ đó; nhưng tôi đặc biệt ngăn ngừa quí bạn chớ nên tập luyện hơi thở và chú ư đến hai chỗ ấy. Tập trung tư tưởng tại plexus solaire và tại xương mông có thể làm cho ta bị loạn óc, bị những cơn khủng hoảng về tinh thần, về đủ cả mọi phương diện. Mặc dầu ta không nhận thức được những sức mạnh huyền bí đang ngự tại hai trung tâm đó. Nhưng sự thật là chúng nó có những sức mạnh vô cùng nguy hiểm. Nếu ta cứ để y nguyên như thế, một cách tự nhiên, không đá động đến chúng nó, th́ không có sự ǵ xảy đến cả. Nhưng nếu ta tập trung tư tưởng vào hai nơi đó và nhất là kèm theo hơi thở nữa, th́ chắc chắn có điều nguy hiểm xảy ra. Vậy tôi xin nhắc lại là : tôi cẩn thận khuyên lơn chư quí vị là đừng nên bao giờ tập luyện hơi thở và tập trung tư tưởng vào hai trung tâm đó. Với những điều khuyên lơn thường thức đầu tiên của tôi vừa đưa ra xong, th́ bây giờ tôi xin bắt đầu vào đề cuộc tham thiền.

Điều cần thiết là chúng ta phải làm sao có thể tập trung vào bất cứ đầu đề cao thượng nào. Chúng ta có thể tập trung tư tưởng vào một trong những chơn lư căn bản. Đại khái như là sự hiện diện của Thượng đế ở khắp nơi. Sự có mặt của Thượng đế tiềm tàng khắp vũ trụ dẫu trong không gian hay ngoài thời gian, hay ở xung quanh chúng ta, hay ngự trong cả vạn vật. Nhưng quí vị có thể đặt câu hỏi rằng : Làm sao tôi biết được có Thượng đế ở khắp nơi như thế ? Đó là lư do v́ sao ta phải tham thiền để nhận thức được sự hiện diện của Thượng đế ở khắp nơi trong vũ trụ.

Có một câu chuyện người ta nói về một đứa bé ở bên nước Anh là nơi mà tôi sinh trưởng. Đứa trẻ đó trong lúc nó đang thả diều một cách say mê; và nó vẫn tiếp tục chơi nữa, mặc dầu khi con diều đă hạ xuống đất. Trong lúc nó thả diều ở trên không, th́ có một đám mây hạ xuống rất thấp đến đỗi con diều của nó bị khuất dạng trong đám mây đó. Bởi đứa trẻ chơi một cách say mê, nên vẫn tiếp tục nắm dây con diều của nó. Trong khi ấy, có một người lạ mặt đến hỏi nó rằng : Em chơi cái ǵ lạ vậy ? Đứa bé trả lời : Tôi đang thả con diều của tôi. Nhưng người kia lại nói : Nhưng mà em không thấy được con diều của em. Đứa bé trả lời rằng : Mặc dầu tôi không thấy con diều của tôi nhưng bàn tay của tôi có thể cảm thấy nó đang bay.

Vậy ta đây cũng thế, mặc dầu ta không thấy được con diều của ta, nhưng ta có thể cảm giác được một cái sức mạnh huyền bí đang chuyển động trong không gian. Chính cái Động lực đó dắt ta vào Hội Thông Thiên Học để đi đến những chơn trời mới hầu nhận thấy được cái sức mạnh thiêng liêng trong người của ta. Nếu ta nhận thấy rằng : đầu đề tham thiền đó là khó khăn và quá trừu tượng cho ta, th́ ta có thể đổi đầu đề khác. Thí dụ như chúng ta hăy tham thiền về bất cứ điều ǵ xảy ra trong đời Đức Phật; ta hăy chọn sự tích nào của Phật tổ có tánh cách tốt đẹp. Tỷ như ngày sanh Đức Phật. Trước mặt vua cha và hoàng hậu, mẹ của Đức Phật, th́ các nhà tiên tri đoán rằng : đứa trẻ này về sau sẽ trở nên nhà thông thái, một bực đạo đức cao thâm. Ta có thể tưởng tượng một bức họa như thế đó, lần lần ta sẽ thấy tất cả nhân vật trong bức họa rơ ràng nơi tâm trí của ta. Khi đó ta tỏ ḷng biết ơn của ta đối với Ngài là bực cứu thế. Rồi ta quả quyết làm đúng theo lời răn dạy của Ngài, tức là lời răn dạy của bực giáo chủ đă xuống trần, để dạy nhân loại biết con đường đi đến Niết Bàn. Như thế, ta có thể tạm thời thoát ly ra khỏi đời sống của xác thể tầm thường vật chất này, mà để tư tưởng thanh thoát lên cơi cao thượng, lên cơi giới của Đức Phật. Hoặc giả ta có thể tưởng tượng đến lúc Đức Phật tầm đạo dưới gốc cây Bồ Đề. Ta h́nh dung Ngài đang ngồi tĩnh tọa dưới gốc Bồ Đề, và tâm trí của Ngài đang tiêu diêu nơi cơi huyền không để t́m thấy Chơn lư vô cùng, Tâm địa của Ngài kiên cố và bất rung chuyển trước sự cám dỗ của Ma vương. Chúng ta hăy h́nh dung tâm trí của Ngài lúc đó hợp nhất với bản thể nguyên chất duy nhất của vũ trụ. Ngài hợp nhất với tất cả mọi loài, mọi vật ở trong trời đất. Trong khi ấy, ta h́nh dung Ngài đă đạt được sự giác ngộ siêu đẳng, siêu phàm và lần lần ta có thể chia sớt được những cảm giác, những ảnh hưởng tốt đẹp của Ngài lúc bấy giờ. Chúng ta có thể tưởng tượng đến những việc đă xảy ra trong đời của Đức Phật hoặc những vị giáo chủ khác đă từng xuống trần dạy dỗ chúng sanh. Nếu ta không thể tập trung tư tưởng đến một vấn đề quá trừu tượng như sự hiện diện của Thượng Đế ở khắp nơi trong vũ trụ, th́ ta hăy tập trung tư tưởng đến vấn đề cụ thể, có h́nh thể, có sắc tướng.

Nhiều người rất lấy làm thích thú về những cái mỹ lệ của trời đất. Họ ngồi ngoài sân, ngoài vườn để nh́n phong cảnh đẹp lúc tham thiền. Điều đó rất tốt, nhất là khi ta có thể được yên tĩnh một ḿnh không bị ai quấy rầy. Cái đó có thể khó khăn với ta là những người sống nơi thành thị đông đúc, nhưng ta cũng cố gắng t́m những nơi vắng vẻ như ở vườn hoa công cộng hay là dưới gốc cây. Lần lần ta có thể cảm thông được những sự cảm giác của cái cây và thấy được sự rung cảm của nó như thế nào. Tinh thần của Thượng Đế cũng tiềm tàng trong mọi gốc cây, và nếu ta t́m ṭi th́ ta có thể cảm thông được cái sức phát triển quyền năng của Ngài xuyên qua cây đó. Và nếu ta thành công trong sự t́m ṭi th́ ta có thể ḥa hợp được với tâm thức của cái cây đó và ta sẽ hiểu biết một cách rơ ràng : thế nào là một cái cây. Lẽ dĩ nhiên là đời sống trong cái cây c̣n rất thô sơ lắm, nhưng nó đang t́m cách vượt bực để phát triển cho đến đỗi ta cảm thấy cái sức sống ấy vượt đến tận nhánh chồi của nó. Rồi lần lần, ta sẽ ngồi nơi những gốc cây khác và ta sẽ tập làm thế nào để cho tâm thức của ta ḥa hợp với tâm thức của cái cây, để hiểu nó. Nếu ta lần lần thực hành được tất cả mọi phương pháp ấy th́ chúng ta cũng sẽ ḥa hợp được với tâm thức của vũ trụ. Tâm thức vũ trụ là một tâm thức duy nhất; nó ngự trong tất cả muôn loài vạn vật. Và bấy giờ chúng ta sẽ nhận thấy có một quyền năng vô biên, có một ánh sáng vô cùng, có một sức sinh hoạt thiêng liêng ngự khắp chốn khắp nơi. Người ta sẽ thấy có một sự yên tĩnh vô biên, có một sự hạnh phúc an nhàn vui vẻ tràn ngập tâm hồn, nếu thành công được. Bấy giờ tâm thức về xác thân vật chất của ta càng ngày càng yếu dần, c̣n tâm thức vũ trụ tràn ngập trong tâm hồn ta và xâm chiếm hết tất cả mọi sự chú ư của ta. Rồi th́ ta có thể sẽ như Đức Phật là ḥa hợp tâm thức của ta với tâm thức của vũ trụ. Lúc đó, quả là ta đă nhập cảnh Niết Bàn rồi vậy. Dẫu sự này chưa xảy đến cho ngay bây giờ, dẫu rằng : nó xa xôi đến bực nào nhưng chung qui chắc chắn là một trong những kiếp tương lai của ta, ta sẽ đạt được. Nhưng hiện thời trong lúc này, ta cũng có thể có được cái cảm giác ấy, ta có thể có được cái hương vị của cảnh Niết Bàn, nếu ta biết cố gắng tập luyện hằng ngày. Và khi ta đă đạt được rồi, ta hăy chia sớt cho tất cả mọi người xung quanh.

Đó là một vài phương pháp tham thiền.

Bây giờ tôi xin tŕnh bày cho quí vị một phương pháp khác trước khi tôi chấm dứt đầu đề hôm nay. Đây tức là một đầu đề rất khoa học, là cái tinh hoa của tất cả mọi phương pháp của Pháp môn Yoga. Trước hết tôi xin tóm tắt lại những nguyên tắc cần yếu này là :

1/ Phải tham thiền đều đều hằng ngày.

2/ Hăy t́m một chỗ riêng biệt không bị ai khuấy phá.

3/ Hăy ngồi cho đúng phép.

4/ Kế đó, hăy tự nhắc nhở lấy ḿnh rằng : tôi không phải là xác thân vật chất này. Tôi là Chơn Ngă.

Sau một thời gian ngắn ta tập trung về những điều nhắc nhở đó, đoạn ta lại nhắc ḿnh câu này là : Tôi không phải là T́nh cảm, Tôi chính là cái Chơn Ngă vậy. Kế đó ta cũng tự nhắc nhở rằng : Tôi cũng không phải là Cái Trí, Tôi là Chơn Ngă bất diệt.

Đoạn ta sẽ tập trung tư tưởng đến một cái chơn lư vô cùng tuyệt đối đó : tức Ta không phải là cái xác thân hữu h́nh này mà ta chính là Chơn Ngă thiêng liêng, bất diệt. Ta sẽ tự nhắc nhở lấy ḿnh như thế đó măi, nghĩa là quên ḿnh, thoát ly ra khỏi xác thân vật chất này, để tự biết ḿnh là Một Chơn Ngă thiêng liêng vô cùng và bất diệt.

Để một vài phút suy gẫm và tập trung tư tưởng đến cái chơn lư này là : Chơn Ngă của anh, của bạn cũng như là Chơn Ngă của tôi đều là một, đều là vô cùng tuyệt đối và bất diệt. Rồi ta sẽ tự nhắc nhở rằng : cái Chơn Ngă của ta đó quả là sáng rỡ vô cùng; nó sáng rỡ với một ánh sáng thiêng liêng tuyệt đối. Ánh sáng đó là Chơn Ngă, tức là Ta vậy.

Mỗi ngày ta nên để 10 phút hay 15 phút yên lặng hầu tập trung tư tưởng và nhắc nhở lấy ḿnh rằng ḿnh vốn là Chơn Ngă chói sáng rực rỡ vô cùng. Sau một thời gian tham thiền độ chừng 10 phút hay 15 phút, th́ chúng ta sẽ trở lại với cái tâm thức của xác thân rồi sẽ bắt đầu làm việc trở lại như thường. Trước hết ta đem tất cả mọi sự chú ư của ḿnh vào cái trí rồi đến t́nh cảm. Kế đem tâm thức trở về với xác thân một lần nữa. Lúc đó th́ tưởng tượng cũng như xác thân của ḿnh hoàn toàn được một sức mạnh vô biên, tràn ngập khắp cả. Mặc dầu trong khi đó cái xác thân của ta không ngủ, nhưng ta không để ư đến nó nhiều cho lắm. Bây giờ ta trở lại với đời sống hằng ngày với tất cả tâm thức, với tất cả mọi sự chú ư của ta. Hăy để một vài phút nghỉ ngơi yên tịnh cho xác thân quen trở lại với tâm thức của nó, trước khi ta bắt đầu với công việc hằng ngày. Nếu ta có thể ngồi yên được một phút vào lúc giữa trưa 12 giờ, th́ ta hăy im lặng và hăy nghĩ tới cái chơn lư vô cùng là : Tôi là Chơn Ngă thiêng liêng bất diệt.

Trước khi đi ngủ, mỗi bữa chiều, ta cũng nên ngồi im lặng như vậy trong một lúc để mà suy tưởng và t́m lấy cái Chơn Ngă của ḿnh, mặc dầu trong khi xác thịt ngủ, cái trí của ta vẫn linh động và vẫn giúp ta tiếp tục khám phá cái Chơn Ngă của ta để t́m lấy sự giác ngộ. Ta hăy tự nhắc nhở lấy ḿnh rằng : đến sáng mai khi ta tỉnh dậy, th́ việc đầu tiên của ta là hăy ngồi im lặng vài phút để tham thiền. Đó là một phương pháp để cho ta có thể bắt đầu ngay bây giờ cái đời sống tinh thần của ta, dầu ta hăy c̣n bận rộn những công việc lo lắng ngoài đời. Ta hăy nhớ rằng : dầu ta bắt đầu tham thiền ta cũng cần phải làm cho tṛn bổn phận hằng ngày của ta, làm tṛn những bổn phận của ta đối với xă hội, đối với người đời. Công việc tham thiền đó ta hăy làm trong ṿng hợp lư với một sự nghĩ ngợi, tính toán đúng đắn. Ta cần phải làm việc cho đúng cách thông minh cũng như ta làm một việc ǵ khác trong đời để được thành công vậy. Và cuối cùng ta có thể tiếp tục công việc t́m ṭi chơn lư mặc dầu trong khi xác thân ta ngủ. Ta có thể làm việc đó hay không ? Chúng ta có thể lắm bởi v́ Thông Thiên Học dạy rằng : chỉ có xác thân vật chất của ta ngủ mà thôi.

Cái Chơn ngă của mỗi người, tức là phần thiêng liêng tinh hoa của mọi người không bao giờ ngủ. Tâm thức bên trong của ta không cần đến sự nghỉ ngơi, tất nhiên nó không ngủ bao giờ. Trong khi xác thân ta ngủ, th́ phần tinh hoa, phần thiêng liêng đó vẫn thức luôn luôn. Nếu ta là người siêng năng, chăm học, th́ trong khi ngủ cái trí của ta vẫn tiếp tục học măi. C̣n nếu ta là những người phụng sự giúp đời th́ trong khi ta ngủ, linh hồn ta đi cơi khác để t́m phương tiện giúp đỡ người một cách vô h́nh. Và phương pháp hay nhất để trở nên một đấng giúp đỡ vô h́nh (aide invisible) là hăy bắt đầu giúp đỡ nhơn loại trong khi ta vẫn c̣n là kẻ hữu h́nh, tức là làm công việc này bây giờ và trong lúc này, khi ta thức.

Những người Thông Thiên Học biết rơ cái điều đó, cho nên mặc dầu sau khi họ chết, họ vẫn tiếp tục học hỏi kinh nghiệm và tiếp tục phụng sự ở cơi giới bên kia cửa tử.

Thưa quí vị đây là một bài học đầu tiên của chúng ta về sự tham thiền, tức là phương pháp để đạt được cái tâm thức tinh hoa của vũ trụ.

Soạn giả

Nguyễn thị Hai

(Trích trong T́m hiểu Thông Thiên Học số 63 và 64 tháng 6 và 7 năm 1959)
    

SỰ THAM THIỀN CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN TRỰC GIÁC
(phần hai)

TÂM THỨC – KHOA PHÁP MÔN YOGA.

Diễn giả : Đại Đức Geoffrey HODSON

Thông dịch : Nguyễn Hữu Kiệt

Kính thưa Bà Hội Trưởng,

Kính thưa chư quí vị thính giả,

Bây giờ tôi xin tiếp tục nói về vấn đề tham thiền nối theo đầu đề ngày hôm qua và tôi xin tŕnh bày cho chư huynh đệ một đầu đề về Tâm thức mà bên Ấn Độ giáo người ta đă nói rơ trong khoa pháp môn Yoga. Nếu thời gian cho phép th́ tôi xin lần lượt giải bày về bảy phái triết học ở bên Ấn Độ.

Các nhà triết học Ấn Độ nói rằng : “Sự hiểu biết của loài người đều căn cứ trên sự kinh nghiệm; nếu ta chỉ nhận thức được sự vật bên ngoài toàn bằng giác quan mà thôi, th́ sự đó không đem đến cho ta sự hiểu biết chắc chắn nào”. Họ chủ trương rằng : phương pháp duy nhất để đạt được sự hiểu biết hoàn toàn là trừ ra khi nào ḿnh hợp nhất được với điều ǵ ḿnh muốn biết. Ta cũng có thể biết rơ một sự ǵ là khi nào ta có thể hợp nhất được với sự đó, bấy giờ th́ ta mới có thể biết chắc chắn vật đó ra sao, chớ không phải là chúng ta chỉ biết được cái vỏ bên ngoài của nó mà thôi.

Khoa pháp môn Yoga là khoa dạy cho ta làm cách nào để hợp nhất được con người của ta với sự sống thiêng liêng duy nhất của vũ trụ. Chính khoa pháp môn giúp ta hỗn hợp được với đời sống thiêng liêng của Thượng Đế. Khi nào ta c̣n cách biệt với một sự vật mà ta muốn biết th́ khi đó ta vẫn chưa có thể biết được vật đó. Và khoa pháp môn Yoga đó lấy sự lư luận ấy làm phương pháp tu học. Người ta gọi nó là Yoga, và những tu sĩ tu theo pháp môn đó có tên là Yogi. Khoa pháp môn Yoga chẳng khác nào cái khoa thể thao cho cái trí của ḿnh.

Chiều hôm nay tôi xin cố gắng tŕnh bày cái phương pháp làm thế nào để lần lần luyện cái trí. Trong khoa học đó, th́ cái Chơn ngă của ta hoàn toàn tách ra khỏi tâm thức của xác thể để hợp nhất với chơn lư đại đồng. Nếu ta có thể tách ra khỏi xác thân của ta để hỗn hợp với tâm thức đại đồng thiêng liêng duy nhất trong vũ trụ (và khi ta trở về th́ tâm thức của ta trở về với xác thân ta), th́ ta đem theo một kho tàng rất là quí báu, một kho hiểu biết vô song do sự kinh nghiệm của ta. Và những nhà đạo sĩ bên Ấn Độ chủ trương rằng : khoa pháp môn Yoga tức là cái ch́a khóa giúp ta mở được cửa huyền bí đó và họ nói rằng khoa pháp môn Yoga tức là một người giữ cửa để mở cửa cho ta vào kho tàng quí báu đó. Thế th́ khoa pháp môn Yoga là người giữ cửa khoa hiểu biết. Như ta đă nghe tối hôm qua, th́ khoa pháp môn Yoga là một khoa huyền bí để t́m thấy cái Chơn ngă của ḿnh. Nó bao trùm tất cả mọi sự kinh nghiệm về đời sống tinh thần, dẫu ta có biết hay không có biết. Chữ Yoga đó do nơi chữ Phạn “Yuj” mà ra, nó có nghĩa là sự hợp nhất tinh thần trong thân của mỗi người với tinh thần chung của vũ trụ, tức là nó dạy ta phương pháp làm thế nào cho Chơn ngă của mỗi người hợp nhất với bản ngă của vũ trụ.

Có tất cả bảy môn phái triết học ở trong khoa triết học Ấn Độ. Chúng nó không thật khác nhau hết. Nhưng v́ sự tŕnh bày, sự hiểu biết chơn lư của chúng nó khác nhau tùy theo mỗi môn phái. Bây giờ tôi xin nói bảy môn phái triết học đó :

Phái thứ nhất là HATHA YOGA. Môn phái đó dạy ta hợp nhất với Thượng Đế bằng sự kiểm soát hơi thở, kiểm soát xác thân và kiểm soát sinh lực. Cái bộ óc vật chất của ta có thể phát triển được năng lực của nó là nhờ pháp môn Hatha Yoga.

Pháp môn thứ hai là MANTRA YOGA. Theo khoa pháp môn đó th́ âm thanh và tiếng động được dùng một cách chặt chẽ để đạt được mọi quyền năng. Những tiếng ca hát, hoặc ngôn ngữ, phát ra những rung động âm thanh, đều là những phương pháp dùng để thực hành khoa pháp môn đó. Mantra là một âm thanh, một tiếng động mà khi người ta đọc lên một cách đúng phép, th́ nó có thể phát lên một động lực huyền bí vô cùng. Theo sự hiểu biết của tôi th́ pháp môn Mantra Yoga là một cái ǵ liên quan tới Manas tức là thuộc về cái trí.

Pháp môn thứ ba là LAYA YOGA. Chữ Laya có nghĩa là tan ra hay là ch́m đắm vào một cái ǵ đó. Theo pháp môn Laya Yoga th́ sự chủ trị ư chí là mục đích duy nhất. Thi hành theo pháp môn đó th́ nhà đạo sĩ t́m cách để mà hợp ḿnh với tâm thức chung của Thượng Đế. Khoa pháp môn đó theo ư tôi th́ nó liên hệ tới Atma.

Khoa pháp môn kế đó là khoa KARMA YOGA. Theo khoa pháp môn ấy th́ người đạo sĩ rán sức để hành động, rán sức để cải thiện mọi hành động của ḿnh và để phụng sự đời. Khoa Karma Yoga đó liên quan tới cái thể trực giác Bồ Đề.

Khoa pháp môn thứ năm là BHAKTI YOGA. Bhakti có nghĩa là sự sùng kính. Khoa pháp môn Yoga đó giúp cho nhà đạo sĩ mở được đức tánh sùng đạo, sùng kính, sùng bái Thượng Đế. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn Yoga đó dùng sự sùng kính như là như là cái phương tiện để đạt được sự ḥa hợp với Thượng Đế. Mọi t́nh cảm tốt đẹp thiêng liêng của người đạo sĩ đều được phát huy ra một cách mạnh mẽ để có thể giúp y đạt được mục đích. Theo ư tôi, th́ khoa pháp môn Bhakti Yoga giúp cho nhà đạo sĩ mở được mọi t́nh cảm thiêng liêng tốt đẹp. Nó liên hệ đến cái vía của con người.

Pháp môn kế đó gọi là JNÂNA YOGA, tức là khoa Pháp môn mở trí hiểu biết. Theo khoa pháp môn môn đó th́ nhà đạo sĩ t́m cách mở trí hiểu biết một cách sâu xa để nhờ đó mới có thể đạt đến Thượng đế. Theo tôi hiểu th́ khoa Jnâna Yoga đó liên quan tới hạ trí và nó giúp cho con người mở trí sâu rộng.

Khoa pháp môn thức bảy gọi là RÂJA YOGA. Chữ Râja theo tiếng Phạn có nghĩa là ông vua th́ Râja Yoga đó có nghĩa là khoa pháp môn chúa, cao cả hơn mọi Yoga. Khoa pháp môn Yoga đó là sự tổng kết, là sự kết hợp tất cả mọi khoa pháp môn khác. Phương pháp mà tôi tŕnh bày cho chư huynh đệ hồi tối hôm qua thuộc về khoa pháp môn Râja Yoga. Khoa pháp môn đó dạy ta con đường hợp nhất một cách trực tiếp với sự sống đại đồng duy nhất trong vũ trụ và có thể giúp cho ta đạt được quyền năng thiêng liêng của Thượng Đế. Nhưng ta hăy nhớ rằng : tất cả mọi phương pháp, mọi pháp môn đều có một mục đích duy nhất mà thôi. Đó tức là sự hợp nhất với Thượng Đế và với tất cả muôn loài. Thay v́ người ta đem tâm thức chú ư đến ngoại cảnh, ngoại vật, th́ theo phương pháp môn đó, người ta tập trung ư chí, tập trung tư tưởng vào đời sống bên trong để có thể đạt được cái mục đích tối cao. Như thế th́ chữ Yoga có nghĩa là hiệp nhất. Yoga chẳng khác nào như một cái cầu nối liền con người với Thượng Đế. Nó là cái cầu nối liền mọi vật tương quan lẫn với nhau.

Có tám giai đoạn ở trong sự thực hành Yoga mà ta cần phải thực hành trước hết, trước khi ta muốn thành công trên đường đạo lư. Nên nhớ rằng, tất cả mọi triết học, mọi pháp môn đều do các bậc Chơn sư, các bậc Đại Thánh từ ngh́n xưa đă phát minh và truyền lại cho đời. Tám giai đoạn mà ta cần phải thực hành trong khoa Pháp môn Yoga là :

1) Thứ nhất là “Yama” có nghĩa là bất bạo hành và tinh luyện đời sống bên trong để có thể giúp cho ta tập luyện tinh thần. Bất bạo hành đối với mọi sinh vật, nghĩa là không làm đau khổ, không giết chóc bất cứ một sinh vật nào. Đó là điều kiện cốt yếu cho người học đạo. Bất bạo hành đó chữ Phạn gọi là “Ahimsa”, tức là không có gây sự đau khổ.

2) Giai đoạn thứ hai gọi là “Niyama”, có nghĩa là trong sạch, tự bằng ḷng với số phận của ḿnh. Tŕ giới, khổ hạnh, kiểm soát đời sống vật chất của ḿnh. Kế đó là sự học vấn và sùng bái Thần thánh.

3) Giai đoạn thứ ba là “Asana”, tức là tập luyện phương pháp tĩnh tọa, nghĩa là ngồi thế nào cho nó đúng phép.

4) Giai đoạn thứ tư là “Prânâyâma”, tức là phương pháp tập kiểm soát hơi thở và do đó kiểm soát sinh lực.

5) Giai đoạn thứ năm là “Pratyâhâra”, tức là phản chiếu tư tưởng vào nội tâm.

6) Giai đoạn thứ sáu là “Dhârana”, tức là tập trung tư tưởng.

7) Giai đoạn thứ bảy là “Dhyâna”, tức là Tham thiền.

8) Giai đoạn thứ tám là giai đoạn cuối cùng và khó khăn nhất, tiếng Phạn gọi là “Samâdhi”. Có nghĩa là tâm thức siêu đẳng.

Bây giớ chúng ta hăy xét qua mỗi môn phái Triết học đó. Bắt đầu là phương pháp Hatha. Pháp môn Hatha Yoga đó thường bị người ta lợi dụng, lạm dụng rất nhiều. Khoa thực hành đầu tiên của Pháp môn Hatha Yoga đó là kiểm soát hơi thở và kiểm soát sinh lực trong cơ thể con người. Xác thân là một khí cụ do đó người ta có thể dùng hoặc để thỏa măn sự khoái lạc vật chất của ḿnh, hoặc dùng nó làm phương tiện để đạt lấy mọi quyền năng của Thượng Đế. Khoa Hatha Yoga dạy rằng : sự cải thiện hoàn toàn xác thân của ḿnh là làm sao cho nó được mỹ lệ được sự uyển chuyển, được sức mạnh và làm cho nó cứng rắn. Mọi quyền năng trong cơ thể đều được khích động lên cho đến khi xác thân của ta được trở nên hoàn toàn. Họ nói rằng : theo khoa pháp môn đó người ta có thể làm chủ được sự chết và nhờ xác thân tráng kiện đó, tư tưởng có thể hoạt động một cách mạnh mẽ phi thường, và sau cùng th́ cái Trí của con người có thể hoàn toàn hợp nhất được với Thượng Đế. Người ta thường hay lợi dụng cái phương pháp Hatha Yoga như là khoa thể thao vậy. Điều đó đôi khi cũng có ích, nhưng ta không nên quên rằng : cái mục đích duy nhất, cuối cùng của khoa Pháp môn là hợp nhất với Thượng Đế. Hatha Yoga là phương pháp để kiểm soát, để làm cho hơi thở của ta được điều ḥa. Nhà đạo sĩ thực hành khoa pháp môn đó luyện hơi thở bằng cách hít ra hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt và lỗ mũi bên trái. Phương pháp đó gọi là thở theo Thái dương hay Thái âm, nghĩa là hít vào do nơi lỗ mũi bên mặt tức là hô hấp theo Thái dương hoặc thở ra do nơi lỗ mũi bên trái, tức là hô hấp theo Thái âm. Một bên lỗ mũi thuộc dương, một bên thuộc âm. Phương pháp đó làm cho nhà đạo sĩ luyện được xác thân trở nên hoàn toàn để mà sẵn sàng bắt đầu những giai đoạn cao hơn. Pháp môn Hatha Yoga giúp người ta được thăng bằng về xác thể và có được sự kiểm soát xác thân để chuẩn bị nhà đạo sĩ bước qua pháp môn Raja Yoga. Đó là một vấn đề rất sâu rộng nhưng bây giờ tôi xin nói phớt qua để mà bắt qua Mantra Yoga.

Mantra tức là một thần chú, để làm kích động những năng lực huyền bí. Một thần chú mantra có thể là một tiếng nói hay là một câu có nhiều tiếng. Khi người ta đọc nó một cách đúng phép, th́ nó có thể kích động được những sức mạnh rất phi thường. Một câu thần chú Mantra khi người ta đọc lên, nó uyển chuyển để đem tới những sự rung động thần bí và nó có thể giúp ta đạt được ư muốn. Trong Bà la môn giáo th́ những câu thần chú Mantra đó đều rút trong kinh Véda.

Người ta thường gọi một trong những câu thần chú đó là tiếng nói rung động, hay tiếng nói có phần linh động thần bí. Đó tức là tiếng thần bí AUM. Người ta đọc nó là OM nhưng mà người ta viết nó ba chữ A U M. Tiếng thần bí đó tượng trưng ba ngôi của Thượng Đế; tuy ba nhưng mà là một. Khi người ta đọc lên danh từ Aum đó, th́ chữ M đằng sau chót phải dài ra. Khi đọc nó, th́ người ta phải tập trung tư tưởng vào sự sống thiêng liêng của vũ trụ, và người ta t́m cách hợp nhất chơn ngă của ḿnh với chơn ngă của vũ trụ. Khi đọc tiếng AUM bảy lần, mà mỗi lần như vậy, th́ nó có thể kích động được mỗi cảnh giới trong vũ trụ. Và khi đọc nó, th́ trí của ta cũng tập trung vào một trong bảy cảnh giới của vũ trụ. Và tôi chắc rằng : trong chư huynh đệ cũng biết, bên Phật giáo đôi khi người ta cũng có đọc câu thần chú : OM MANI PADME HUM . . .( Án ma ni bát rị hồng). Những câu thần chú đó có cái sức rung động rất phi thường, vậy khi người ta đọc nó lên th́ người ta phải làm cho cái tâm chứa đầy bác ái mà thôi. Khi người ta đọc những câu thần chú đó th́ nó làm kích động những huyệt bí hiểm ở trong thân người. Và người ta sẽ nhận thức rằng sự nhịp nhàng uyển chuyển của linh hồn người cũng nhịp nhàng đúng điệu với sự rung chuyển của tâm thức vũ trụ. Pháp môn Mantra Yoga giúp cho người ta có thể điều khiển được mọi âm thanh, mọi tiếng động và do đó có thể đạt được mọi quyền năng.

Bây giờ tôi xin nói pháp môn kế là Laya Yoga. Pháp môn đó có khi người ta cũng gọi nó là Kundalini Yoga, bởi v́ khoa pháp môn này dạy người ta tập làm kích động được một sức mạnh huyền bí gọi là Hỏa hậu nó ngự trong thân thể của mỗi người. Tôi sẽ có dịp nói đến cái Kundalini ấy trong những bài thuyết pháp tới đây và bây giờ tôi xin miễn nói tới vấn đề đó. Nhưng theo pháp môn Laya Yoga hay là Kundalini Yoga, th́ nhà đạo sĩ h́nh dung ḿnh ở giữa một ngọn lửa thiêng, ngọn lửa bất diệt trong vũ trụ. Và biết rằng : ngọn lửa đó vẫn luôn luôn bừng cháy, và linh động nhất trong mỗi người. Với phương pháp đó người ta có thể hợp nhất ngọn lửa thiêng trong ḿnh với ngọn lửa thiêng của vũ trụ; người ta có thể đạt được quyền năng sáng tạo của Thượng Đế và người ta có thể kích động cái quyền năng sáng tạo của Thượng Đế đó ngự trong thân thể của mỗi người. Bởi thế cho nên nó là một khoa pháp môn rất nguy hiểm và người ta chỉ nên thực hành khoa đó dưới sự chỉ dạy của một Chơn Sư mà thôi. Laya Yoga giúp cho người ta thống trị được những quyền năng sáng tạo, những quyền năng vô vi của ngọn lửa thiêng.

Bây giờ tôi xin nói đến Karma Yoga. Trong Thánh kinh Bhagavad Gita th́ Đức giáo chủ Krishna có nói như thế này : “Karma Yoga là một hành động đúng phép. Và mục đích duy nhất tối cao của pháp môn đó là làm sao đạt được sự toàn thiện trong những hành động, mỗi việc làm. Và việc làm thiêng liêng đó phát hiện ra bằng những việc làm trong đời sống hằng ngày”. Những lư tưởng của khoa pháp môn Karma Yoga là làm sao để thực hiện được sự mỹ lệ ở dưới trần gian này. Do đó mà thiên chức của con người mới có thể làm tṛn được. Khi tư tưởng của con người được sáng suốt, vị tha và minh triết th́ nó hoàn toàn tách ra khỏi những ǵ xấu xa ở đời mà được nhắm vào cái mục đích cao cả và tốt đẹp. Cái trí của người ta do đó sẽ được luyện tập luôn luôn cho đến khi trở thành một khí cụ hoàn toàn có hiệu quả. Chừng ấy cái trí không c̣n là một cái ǵ nhảy nhót lung tung nữa, và trực giác con người lần lần nẩy nở có thể giúp con người đạt được mọi sự. Và khi đó thiên nhăn sẽ mở để giúp con người hiểu được cái Chơn ngă của ḿnh. Karma Yoga là pháp môn giúp cho con người thấu triệt được mọi bí quyết của hành động. Đó là khoa pháp môn dạy người ta làm việc, hành động và phụng sự nhân loại. Người ta phụng sự bằng những hành động, làm việc khéo léo.

Bây giờ th́ chúng ta xét đến pháp môn Bhakti Yoga, nghĩa là sùng tín, sùng bái. Pháp môn đó có nhiều Ḍng bên Thiên Chúa Giáo vẫn áp dụng và thực hành. Tất cả những đạo sĩ ẩn dật đều thực hành khoa khoa pháp môn Bhakti Yoga để đạt đến Thượng Đế. Đối với một vài hạng người th́ khoa pháp môn đó có thể giúp họ đạt được ư muốn. Trong một cơn thiền định mà họ tập trung ḷng bác ái của họ vào ḷng Bác Ái của Thượng Đế th́ nhà đạo sĩ Bhakti Yoga nhận thấy, cảm thông được sự hiện diện của Thượng Đế trong ḷng của họ. Khoa Bhakti Yoga đó dạy người ta thế này : Hăy làm tṛn bổn phận ḿnh đối với người. Làm việc cho Thượng Đế chớ không phải làm việc riêng cho ḿnh. Hăy hiến dâng mọi sự thông minh, trí tuệ của ḿnh cho Thượng Đế. Hăy học bằng cách kính mến và hăy tập nh́n thấy mọi vật đều ở trong Thượng Đế. Hăy hiến thân ḿnh trọn vẹn cho Đức Thượng Đế cao cả. Ngài ngự trong tâm của mọi vật. Như thế th́ nhà đạo sĩ của khoa pháp môn Bhakti Yoga hiến trọn vẹn thân ḿnh cho lư tưởng cao cả. Người ấy hiến dâng tất cả mọi tinh lực của y thuộc về xác thể, thuộc về t́nh cảm, thuộc về lư trí và tất cả mọi phương diện. Y hiến dâng trọn thân ḿnh của y dưới bàn thờ bác ái và sùng kính. Bhakti Yoga giúp người ta chủ trị được những t́nh cảm thiêng liêng quí báu, t́nh bác ái, t́nh đồng loại, và giúp cho người ta có thể hợp nhất với Thượng Đế bằng sự bác ái và sự sùng đạo.

Bây giờ th́ tôi xin nói đến khoa pháp môn Jnâna Yoga. Jnâna có nghĩa là hiểu biết. Pháp môn đó giúp người ta phát triển và bành trướng cái trí cho đến mức cùng tột. Và sau chót người ta có thể dùng trí để hợp nhất ḿnh với tất cả mọi loài, mọi vật. Và người đạo sĩ về phái Jnâna Yoga tập luyện cái trí ḿnh như thế nào để cho cái trí trở nên mạnh mẽ và có thể dùng làm lợi khí để hợp nhất. V́ đó mà người ta nói rằng cái trí là phần linh thiêng, phần chủ động mọi việc làm của con người. Và sau cùng th́ sự hiểu biết về vũ trụ, về Thượng Đế là cứu cánh của nhà đạo sĩ đó; y có thể đạt đến tâm thức thiêng liêng của vũ trụ, của Thượng Đế. Jnâna Yoga có thể giúp người ta chủ trị được cái trí và đem đến mọi sự hiểu biết.

Bây giờ th́ chúng ta hăy xét đến pháp môn cuối cùng, nó tổng kết, hợp nhất mọi pháp môn, đó là Raja Yoga. Khoa Raja Yoga giúp người ta chủ trị được tất cả mọi pháp môn Yoga khác và giúp cho người ta có được những quyền năng sáng suốt, những quyền năng phân tách, những quyền năng trí tuệ để đạt được Chơn ngă của ḿnh. Như tôi đă nói tối hôm qua th́ pháp môn đó là tinh hoa của mọi pháp môn. Nhờ nó mà Đức Thượng Đế ẩn hiện trong ḿnh chúng ta được hoàn toàn bộc lộ ra ngoài và người ta do đó có thể đạt được cái mà người ta gọi là Chơn ngă. Người ta sẽ nhận thức được rằng cái Chơn ngă hay linh hồn của ḿnh vốn là Một với Đại Ngă của vũ trụ. Do khoa pháp môn đó người ta có thể trở thành vị đệ tử của một Chơn Sư. Theo giáo lư Thông Thiên Học th́ vị Chơn Sư đó không phải là một người thầy bằng xương bằng thịt mà người ta có thể t́m thấy được ở ngoài đời. Mặc dầu ông thầy đó đôi khi có thể giúp ích cho ta. Riêng phần tôi, tôi cũng đă từng gặp gỡ những nhà đạo sĩ chơn tu ẩn ḿnh trong những chốn rừng sâu, hẻo lánh bên Ấn độ, hay là những nhà đạo sĩ điều khiển dưới tay những môn phái, những trường dạy đạo, những đạo viện hoặc là những đền đài bên Ấn Độ. Sự thật những nhà đó chính là những nhà chơn tu, họ có thể đạt đến Samadhi tức là Đại định một cách dể dàng. Samadhi tức là làm cho xác thân ḿnh hoàn toàn không hay biết ǵ cả trong khi linh hồn của họ xuất ra, nhưng theo giáo lư Thông Thiên Học th́ khi mà chúng ta nói Chơn sư tức là chúng ta nói đến những bực Chơn Tiên hoàn toàn giải thoát. Bởi v́ trong hàng các vị Chơn sư đó có những vị thâu nhận đệ tử. Người ta có thể gặp các Ngài trong giấc ngủ hay là trong khi người ta hoàn toàn xuất ra ngoài xác thân của ḿnh. Chính những sự gặp gỡ đó mới là chân thật rơ ràng với người học đạo. Nếu khi nào người ta được hân hạnh gặp vị Chơn Sư đó, th́ Ngài sẽ giúp ta cảm hứng dồi dào để giúp ta đạt được những quyền năng của khoa Yoga. Vị Chơn Sư đó sẽ che chở đệ tử của ḿnh dầu người này là đàn ông hay đàn bà trong những giai đoạn đầu tiên và nguy hiểm của người học Đạo. Cũng như bà Chase đă nói hôm chúa nhật vừa rồi th́ những vị Chơn Sư đó đối với chúng ta quả là những người có thật bằng xương, bằng thịt. Và những vị Chơn Sư đó ta có thể gặp được.

Một phương pháp giúp ta gặp được những vị Chơn Sư đó là con đường phụng sự, nhất là phụng sự những mục đích Thông Thiên Học của chúng ta. Chính Hội này là phong trào của các Ngài thành lập ra. Phụng sự phong trào Thông Thiên Học tức là con đường đưa chúng ta đến chơn các Đức Thầy và đưa chúng ta đến sự Minh triết thiêng liêng. Nhưng phụng sự không phải là nói một cách suông, nhưng là phụng sự một cách cụ thể. Trong Thiên Chúa giáo th́ có câu dạy như thế này : Kẻ nào làm việc tức là kẻ đó cầu nguyện vậy. Đó chính là h́nh thức của Karma Yoga. Bởi v́ tại cơi trần đây là nơi chúng ta phụng sự, nơi chúng ta hoạt động. Nó là con đường đưa đến Chơn sư. Chúng ta là những người Thông Thiên Học chúng ta cần phải học hỏi giáo lư Thông Thiên Học một cách cẩn thận. Chúng ta hăy cố gắng sửa đổi tâm tánh của chúng ta. Chúng ta hăy làm bất cứ việc ǵ mà chúng ta có thể làm một cách sốt sắng, một cách tận tụy để giúp đỡ công việc Hội của chúng ta. Chúng ta hăy làm tất cả những công việc đó nhơn danh của những vị Chơn Sư. Chừng đó th́ cửa Đạo sẽ mở rộng cho chúng ta hiệp nhất được với Thượng Đế. Và đó, tôi xin nhắc lại, chính là mục đích của tất cả mọi pháp môn Yoga vậy.

Soạn giả

Nguyễn thị Hai

(Trích trong T́m hiểu Thông Thiên Học số 65 và 66 tháng 11 và 12 năm 1959)
    

THAM THIỀN

( Tóm tắt bài Tham thiền của Ông Subramaniam )

Trước khi Tham thiền phải tập trung tư tưởng.

Tập trung tư tưởng nghĩa là gom tư tưởng vào một đồ vật nào hay một ư niệm nào đó. Tỷ như khi ta cầm cái hộp quẹt, ta tập trung vào đó. Nếu trong đời sống hằng ngày, mỗi chuyện ta làm, ta đểu tập trung tư tưởng vào, th́ cái quan năng của ta sẽ mở. Ta có thể tập trung tư tưởng trong khi ta làm bất cứ việc ǵ. Có nhiều cách tập trung tư tưởng; nhưng có một phương pháp tập trung tư tưởng mầu nhiệm hơn. Lấy một vài cổ thi hay một h́nh ảnh tốt đẹp nào, rồi tập trung vào đó. Tỷ như ta lấy một bài cổ thi. Ta đọc đi đọc lại; ta chú trọn tư tưởng vào đó. Ta cố gắng đi sâu vào ư nghĩa. Ta t́m hiểu ư tưởng và quan niệm của tác giả ẩn dưới văn từ; v́ văn từ có khôn khéo thế mấy đi nữa cũng không diễn đạt đặng tư tưởng một cách hoàn toàn. Nếu ta tập trung tư tưởng vào bài thơ đó, ta sẽ đạt được ư nghĩa thâm trầm của nó. Mà rồi chẳng những ta hiểu đặng chỗ uyên cạn của nó, mà ta có thể thăng lên đến Thượng trí. Chừng đó Thượng trí ta hoạt động, và ta có thể ḥa hợp với tinh thần của bài cổ thi ấy đặng. Như vậy ta có thể nói ta đang bước vào một thế giới khác hẳn với thế giới hồng trần mà ta sống đây. Ở vài t́nh trạng ấy, ta đồng hóa với câu thơ. Ta có thể nói đặng rằng : ta hiểu nó hoàn toàn. Khi ta bước vào thế giới Thượng trí rồi, th́ ta hành động một cách khác. Vậy phương pháp tập trung tư tưởng là gom tư tưởng vào cái ư niệm duy nhất. Và nhờ tập trung tư tưởng mà ta có thể bước vào Thượng trí, và có thể thu thập đặng những t́nh cảm, những tư tưởng và sự tốt đẹp của cơi Thượng giới. Người thường nhơn chỉ sống với những t́nh cảm, và những tư tưởng của cơi thấp, họ chỉ để hạ trí của họ hoạt động mà thôi, nhơn đó mà bao nhiêu dục t́nh, bao nhiêu tư tưởng xấu xa biểu lộ không ngừng. C̣n người sống trong cơi Thượng giới [1] th́ có những tư tưởng tốt đẹp, thanh cao.

Chính trong buổi Tham thiền là trong buổi ta đang sống với Thượng trí, ta có tư cách hành động khác với người đời, ta có tư tưởng cao thượng và thiêng liêng.

Có người hỏi tôi rằng : “ Làm thế nào cho tư tưởng đừng vẩn vơ, nghĩ nhớ đến chuyện khác ?

Bản tánh của cái trí là bất ổn định. Nó như con khỉ không bao giờ đứng yên. Nó cũng như gió hay xao xuyến. Nó chỉ sợ ư chí của ta mà thôi. Vậy ta nên lấy ư chí ta làm một cái niền cột nó lại. Ngoài ư chí ra, th́ ta không thế nào tập trung đặng. Mà nếu không tập trung tư tưởng được th́ làm sao Tham thiền ?

Vậy Tham thiền là ǵ ?

Tham thiền là làm thế nào cho tư tưởng hoạt động trong cơi Thượng Thiên, tức là chỉ để cho Thượng trí làm việc mà thôi. Trong buổi Tham thiền, ta làm thế nào đánh thức Chơn Ngă của ta. Muốn vậy ta rán tưởng đến Chơn Sư ( hay Đấng Cứu Thế nào ) và rán hợp nhất với Ngài, ta tưởng tượng những đức tánh tốt của Chơn Sư hiện rơ trong ḷng ta. Ta rán giữ cái trạng thái tâm thức ấy được vài phút. Làm như thế, ta tinh luyện cái vía và cái trí của ta. Khi cái vía và cái trí của ta được tinh luyện rồi th́ nó phản ảnh phương diện Minh Triết và Bồ Đề xuống phàm nhơn ta một cách dễ dàng. Chừng đó ta ḥa nhịp với tất cả vạn vật. Ta đồng hóa đặng với người lành cũng như với người dữ. Buổi Tham thiền như thế đem lại một cái kết quả trọng đại trong đời sống ta, nó có thể kéo dài suốt ngày ấy. Đó là phần cốt yếu của sự Tham thiền.

Tóm lại, mỗi người chúng ta phải có phương pháp thích hợp với tâm tánh ḿnh để tinh luyện hạ thể, kiểm soát đặng cái trí, cái vía và cái xác cho Chơn Nhơn biểu hiện.

Nếu sự Tham thiền không ảnh hưởng đặng đời sống của ta, th́ nó sẽ hóa ra vô ích.

Soạn giả : NGUYỄN THỊ HAI

( Trích Tạp chí T́m hiểu Thông Thiên Học quyển 49 và 50 )

[1] Thượng giới chia làm hai cơi :
1/ Thượng Thiên thuộc về Thượng trí và
2/ Hạ Thiên thuộc về Hạ trí. Người đời thường sống với Hạ trí nên có những tư tưởng xấu xa. Nhưng nếu ai ở cơi Hồng trần mà có những tư tưởng tốt đẹp th́ cũng gọi là sống với Thượng trí nơi cơi Thượng Thiên. (Lời soạn giả)
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 20 of 23: Đă gửi: 12 March 2006 lúc 9:39pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

T̀M CHƠN NGĂ

Tác giả: BẠCH LIÊN



Nơi đây tôi chép lại cho quí bạn xem bài của tôi viết và nói vắn tắt về việc t́m Chơn Ngă, rồi thực hiện Chơn Ngă, bởi v́ trong nhiều quyển kinh sách đạo đức có nói về việc T́m Bản Ngă, chẳng hạn như trong kinh Phật Mahavagga 1 – 14 (Tàu dịch là Phạm Vơng Kinh 1 – 14) có thuật lời của Đức Phật hỏi các Nhạc sư như sau đây:

“ Hỡi các bạn thanh niên: Hăy nói cho Ta biết t́m một người đàn bà bỏ đi mất hay t́m Bản Ngă của các bạn điều nào quan trọng hơn? ”

Tuy nhiên không quyển nào chỉ phương pháp t́m Bản Ngă, bởi v́ điều này thuộc về khoa bí truyền, thuở xưa chưa được phép tiết lộ.

Trong quyển “Phật độ các Nhạc sư hay là Ta phải tự kiếm Ta” tôi có đề cập đến phương pháp này do Thông Thiên Học chỉ dạy. Quí bạn muốn hiểu nhiều xin đọc quyển đó, c̣n trong bài này tôi chỉ giải sơ lược để quí bạn có một quan niệm đúng đắn về việc “tại sao phải t́m Chơn Ngă” mà thôi.

T̀M CHƠN NGĂ.

Người học đạo là người đi t́m Chơn Ngă. Muốn t́m Chơn Ngă, trước nhất phải biết Chơn Ngă là ǵ ? Chơn Ngă ở đâu ? Nhiên hậu mới t́m phương pháp thực hiện việc đó.

CHƠN NGĂ LÀ G̀ ?

Con người có ba Ngôi như cha ḿnh là Đức Thượng Đế.

Ngôi thứ Nhất là Chơn Thần (Monade)

Ngôi thứ Nh́ là Chơn Nhơn (Égo – Soi Supérieur)

Ngôi thứ Ba là Phàm Nhơn (Personnalité)

Chính là Chơn Thần sanh ra Chơn Nhơn, cũng gọi là Chơn Ngă hay Bản Ngă cao siêu.

Chơn Nhơn sanh ra Phàm Nhơn.

Thường thường Phàm Nhơn ở tại trái tim của xác thân và giống h́nh ngôi sao chiếu sáng rỡ.

Chơn Ngă hay là Chơn Nhơn ở tại cơi Thượng Thiên, c̣n Chơn Thần ở tại cơi Niết Bàn.

TẠI SAO PHẢI T̀M CHƠN NGĂ ?

Con người ta là Phàm Nhơn có bốn thể thường dùng là:

1. Xác thân để hoạt động.

2. Cái Phách để thu hút sanh lực Prana vô ḿnh đặng nuôi các tế bào.

3. Cái Vía để biểu hiện t́nh cảm và ư muốn.

4. Cái Trí (Hạ Trí) để sanh ra những tư tưởng hữu h́nh, học hỏi, phân biện, xét đoán, tưởng tượng, ghi nhớ.

Ba thể Thân – Vía – Trí có những tánh nết riêng biệt, hầu hết đều xấu xa.

Cái Vía thường cấu kết với cái Trí xúi giục con người làm những điều chúng nó muốn. Con người ngỡ là ḿnh muốn nên đem ra thực hành. Con người thường làm trái với Luật Trời, gây ra muôn vàn tội lỗi, cho nên phải đầu thai đi đầu thai lại muôn kiếp đặng thanh toán những mối nợ nần. Tuy nhiên, mỗi lầm lạc là một bài học để dạy con người trở nên khôn ngoan. Nhưng mà phải học cho thiệt thuộc, sau khỏi học lại, không th́ con người cứ phạm vào một lỗi lầm cũ cả trăm cả ngàn lần.

Thế nên con người phải t́m Chơn Ngă hay là Chơn Nhơn, bởi Chơn Nhơn không lầm lạc. Một khi Chơn Nhơn có kinh nghiệm th́ Ngài sẽ d́u dắt Phàm Nhơn. Phàm Nhơn biết vâng lời Chơn Nhơn và sẽ tiến mau lắm.

V́ mấy lẽ trên đây mà chúng ta phải luyện tập đặng t́m Chơn Ngă. Gặp Chơn Ngă rồi mới lo đến việc thực hiện Chơn Ngă. Bắt đầu học Đạo mà nói: “Đương thực hiện Chơn Ngă” th́ e c̣n sớm lắm. Họa may là 25 – 30 kiếp nữa mới có thể thốt ra lời này được.
THỰC HIỆN CHƠN NGĂ

Có ba giai đoạn:

1: Giai đoạn thứ nhất: T́m Chơn Ngă.

2. Giai đoạn thứ nh́: Gặp Chơn Ngă.

3. Giai đoạn thứ ba: Thực hiện Chơn Ngă.



1. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: T̀M CHƠN NGĂ.

Muốn t́m Chơn Ngă th́ phải giữ ǵn kỷ luật Bản Thân cho đúng phép.

Kỷ luật này gồm việc điều khiển tư tưởng, ư muốn, t́nh cảm, lời nói và việc làm đúng với Thiên Ư, nói theo Huyền bí học là:

- Làm chủ Xác thân.

- Làm chủ cái Vía.

- Làm chủ cái Trí.

Giáo lư của chư Phật tóm tắt trong ba câu:

1/ Lánh dữ.

2/ Làm lành.

3/ Rửa ḷng trong sạch.

Lánh dữ và rửa ḷng trong sạch là trau dồi hạnh kiểm, c̣n làm lành là phụng sự vô tư lợi.

Quí bạn nên đọc những quyển sách sau đây:

1/ Trước thềm Thánh Điện.

2/ Con đường của người Đệ Tử.

3/ Dưới Chơn Thầy và Giảng lư.

4/ Tiếng Nói Vô Thinh và Giảng lư.

5/ Ánh Sáng Trên Đường Đạo và Giảng lư.

6/ Người Phụng Sự.

Chúng sẽ giúp quí bạn t́m dễ dàng Chơn Ngă, nếu quí bạn cố gắng đem những lời dạy trong đó ra thực hành, không phải vài ba năm mà trọn cả kiếp này và nhiều kiếp sau. Đây không phải là chuyện dễ dàng v́ ba thể: Thân – Vía – Trí rất ương ngạnh. Cả ngàn kiếp rồi, chúng sai khiến con người, bây giờ bắt buộc chúng vâng lời th́ sẽ gặp không biết bao nhiêu chướng ngại. Nếu không bền chí, không cương quyết th́ khó vượt qua bức rào của chúng dựng lên. V́ vậy tôi mới nói : Phải nhiều kiếp. Nếu kiếp này thành công là nhờ mấy chục kiếp trước đă luyện tập rồi.



2. GIAI ĐOẠN THỨ NH̀: GẶP CHƠN NGĂ

Khi sanh viên sống đúng như lời dạy trong quyển Dưới Chơn Thầy tới một mức độ do Luật Trời qui định sẵn th́ anh được Điểm Đạo lần thứ Nhất.

Phàm Nhơn của anh nhập một với Chơn Nhơn, sanh viên đă gặp Chơn Ngă. Nhưng trước giai đoạn đó, anh phải được một vị Chơn Sư thâu nhận anh làm Đệ Tử và dạy dỗ phương pháp khai mở Tâm Thức. Khi Ngài thấy anh được xứng đáng Nhập Lưu tức là vào ḍng tiến hóa của các vị Siêu Phàm th́ Ngài dẫn anh đến tŕnh diện với Quần Tiên Hội xin Điểm Đạo lần thứ Nhất cho anh.

Từ đó về sau, anh có thể tiến hóa chậm, anh vẫn c̣n lầm lạc, song anh đă ra khỏi ṿng trần tục, anh không c̣n là một người phàm phu nữa. Phật giáo gọi anh là Srotapanna. Tàu dịch là Tu Đà Huờn. Ấn giáo gọi là Parivrajaka có nghĩa là Vô Trú.



3. GIAI ĐOẠN THỨ BA: THỰC HIỆN CHƠN NGĂ

Vị Tu Đà Huờn bắt đầu thực hiện Chơn Ngă là lo luyện tập đặng chặt đứt mười chướng ngại gọi là Samyojana buộc trói con người vào Bánh Xe Luân Hồi.

Anh c̣n phải trải qua bốn thời kỳ Điểm Đạo nữa.

1) Được Điểm Đạo lần thứ Nh́, anh làm một vị Tư Đà Hàm (Sakridagamin hay là Sakadagamin).

Ấn giáo gọi anh là Koutichaka, người đă dựng được một túp lều.

2) Được Điểm Đạo lần thứ Ba, anh là một vị A Na Hàm (Anagamin). Ấn giáo gọi anh là Hamsa nghĩa là con hạc. Tục truyền rằng: Đứng trước một cái chậu sữa có pha nước, nó biết cái nào là sữa, cái nào là nước.

3) Được Điểm Đạo lần thứ Tư, anh thành một vị La Hán, Arhat, có nghĩa là Tôn Giả, Đại Đức.

Ấn giáo gọi anh là Đại Thiên Hạc Parahamsa.

Phật giáo gọi bốn bực Đệ Tử này: Tu Đà Huờn – Tư Đà Hàm – A Na Hàm và La Hán là Tứ Thánh. Lời này rất đúng bởi v́ dầu mới được Điểm Đạo lần thứ Nhất đi nữa, vị Tu Đà Huờn cũng được vào Quần Tiên Hội. Anh đă bước vào đường tiến hóa của các hạng Siêu Phàm, rồi từ đó anh lần lần lên những cấp bậc cao hơn.

Vị La Hán được năm lần Điểm Đạo th́ thành một vị Siêu Phàm, một vị Chơn Tiên, hoàn toàn sáng suốt, không c̣n cái chi để học hỏi trên quả địa cầu này nữa. Chơn Nhơn nhập một với Chơn Thần.

Phật giáo gọi Ngài là Aseka, nghĩa là không c̣n làm Đệ Tử nữa, Tàu dịch là Vô Học.

Ấn giáo gọi Ngài là Atita hay là Jivanmoukta, nghĩa là đă được hoàn toàn giải thoát, khỏi đọa Luân Hồi dưới trần thế.

Vị Chơn Tiên đă thực hiện hoàn toàn Chơn Ngă. Tới bực Ngài mới thấy Chơn Thần và có quyền thâu nhận Đệ Tử đặng giáo dục.

Vị La Hán hay A Na Hàm chỉ thấy được Chơn Nhơn mà thôi. Vị La Hán cũng chưa được phép làm Sư Phụ.

Các hàng Phật Tử đều biết câu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nghĩa là chỉ có Phật mới được phép làm thầy mà thôi, bởi v́ Ngài là giáo chủ các vị Tiên Thánh, các vị Thiên Thần. C̣n các vị Đệ Tử đều tới bực La Hán như Ma Ha Ca Diếp – A Nan Đa cũng vẫn là Sư Huynh của các tín đồ Phật giáo, bởi lẽ các Ngài chưa được hoàn toàn giải thoát, chưa phá tan được bức màn Vô Minh che lấp Chơn Như bổn tánh.



PHẢI TU MẤY KIẾP VỊ TU ĐÀ HUỜN

MỚI LÊN TỚI BỰC CHƠN TIÊN ?

Lấy bực trung mà nói, vị Tu Đà Huờn phải tu hành trong bảy kiếp mới lên tới bực La Hán, c̣n vị La Hán phải luyện tập bảy kiếp mới thành một vị Siêu Phàm, tất cả là 14 kiếp. Nhưng đây là nói bực trung. Thời gian này có thể thu ngắn lại tùy theo công phu của hành giả.

C̣n khi mới bắt đầu học Đạo cho đến ngày được Chơn Sư thâu nhận làm Đệ Tử và được Điểm Đạo lần thứ Nhất th́ phải trải qua một thời gian khá lâu. Từ 25 đến 30 kiếp là nếu một vị Cư sĩ, kiếp nào cũng lập gia đ́nh; c̣n kiếp nào cũng độc thân làm một vị Tu Tŕ, có lẽ trong 6 -7 kiếp tu hành sẽ được toại nguyện.

Xin nhớ rằng mục đích đă định sẵn cho con người trong Thái Dương Hệ này là làm một vị Siêu Phàm. Ai đi mau tới trước, ai đi chậm tới sau. Luật Tiến Hóa cứ thúc đẩy con người đi tới măi, song một cách chậm chạp và điều ḥa.

Tuy nhiên nên đi mau tới nơi tới chốn, đặng thoát đọa Luân Hồi, khỏi mắc vào ṿng tứ khổ : Sanh – Lăo – Bệnh - Tử.

Trước mắt Chơn Tiên c̣n bảy đường tiến hóa khác nhau. Ngài có quyền chọn lựa con đường nào cũng được.

Nói tóm lại, từ xưa đến nay và cho đến mai sau nữa, muốn t́m Chơn Ngă th́ phải bắt đầu Tự chủ, là chế phục ba Thể : Thân – Vía – Trí, biến chúng thành những tôi tớ dễ dạy, biết vâng lời ḿnh. Từ đó mới hành đạo được. Không Hành Đạo, không bao giờ Đắc Đạo.

Muốn mở mang Tâm Thức mau lẹ th́ phải học phương pháp với một vị Chơn Sư mới khỏi bị tai hại, đừng coi theo sách, hay nghe lời một người Thầy Phàm mà có ngày phải bỏ mạng. Trước khi chấm dứt, tôi xin nhấn mạnh một lần nữa : bảy điểm sau đây quí bạn nhớ.

- Một là: Thật chúng ta là Chơn Thần, một Điểm Linh Quang của Đức Thượng Đế, chúng ta trường sinh bất tử chứ không phải xác thân hữu h́nh, hữu hoại này đâu.

- Hai là: Chúng ta sinh ra cơi Trần đặng học hỏi Cơ Trời. Tới một ngày kia, mỗi người đều thành một vị Siêu Phàm gọi là Chơn Tiên. Vị Chơn Tiên phải tiến hóa nhiều cấp bực cao hơn nữa.

Thành một vị Siêu Phàm là mục đích đă định sẵn cho nhơn loại trong Thái Dương Hệ này.

- Ba là: Dầu muốn dầu không, con người và vạn vật đều bị Luật Tiến Hóa thúc đẩy đi tới măi chớ không hề thụt lùi lại được. Luật Tiến Hóa rất chậm chạp song điều ḥa.

- Bốn là: Chung cuộc ai cũng tới mục đích song chỉ có khác một điều là: Kẻ đi mau, tới trước, người đi chậm đến sau.

- Năm là: Chúng ta nên đi mau, chúng ta có quyền đó. Chúng ta phải học hỏi cho rộng sâu những Luật Trời đang hành động chung quanh chúng ta rồi đem áp dụng vào đời sống hằng ngày đặng tiến mau. Nếu chúng ta tham luyến Hồng Trần, cứ đi chậm răi th́ phải trải qua muôn kiếp Luân Hồi, mỗi kiếp đều phải chịu qua bốn cái khổ : Sanh – Lăo – Bệnh – Tử và phải chịu áp lực của hai Luật : NHÂN QUẢ, LUÂN HỒI, chạy trốn đường nào cũng không khỏi v́ những điều quấy quá của chúng ta đă làm.

Điều hay hơn hết là bước cho lẹ, nhưng bước nào phải chắc bước nấy.

- Sáu là: Chúng ta cầm số mạng ḿnh trong tay. Chúng ta tự ban thưởng ḿnh hay là tự hành phạt lấy ḿnh tùy theo những sự hành động của chúng ta thuận hay nghịch với Thiên Ư.

Đó là tuân theo Luật NHÂN QUẢ. Nhân nào Quả nấy, chớ không có chi lạ.

- Bảy là: Ṿng hoa chiến thắng sẽ ban thưởng cho ai đă tự chiến thắng lấy ḿnh và đă qua tới Bờ Giác.

Cầu xin những đoạn tôi viết ra đây giúp ích được quí bạn phần nào trên con đường t́m Chơn Lư và cầu xin Ân Lành của các Đấng Cao Cả ban xuống cho quí bạn./.

Lành thay ! Lành thay !

BẠCH LIÊN

Tháng 10 - 1974
    
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 5.6602 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO