Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 218 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 Tử Vi Lư Số : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Pháp Tu Quán Âm Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 3: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 9:12pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Pháp Tu Quán Âm
Phương Pháp Bí Truyền Của Mật Tông Tây Tạng
Tác Giả: Tangtong Gyalbo
Dịch Giả: Thích Viên Lư

CHƯƠNG I
NHỮNG CHỈ DẪN TỔNG QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP THIỀN ĐỊNH

Trước khi tŕnh bày phương pháp tu hành thực dụng: “Quán Tưởng Thiền Định cho tất cả chúng sinh suốt cơi không gian”, điều cần yếu là giải thích một số tâm thuật căn bản để thực hành lối Quán Tưởng này. Bối cảnh tâm thuật này rất quan yếu để tu hành hầu thực chứng phép thiền quán này một cách thích đáng, hữu hiệu. Những ai tu học mà không được sự hướng dẫn riêng biệt của bậc Đạo Sư kinh lịch trong truyền thống Mật Tông và những người nào chưa có kinh nghiệm về thiền định Phật Giáo, đều cần phải nghiên cứu thật cẩn thận những kỹ xảo tâm thuật căn bản này.

Điều cần chú ư ở đây là: Những người có ư tuân phụng Phật đạo, tốt nhất cần phải có một vị Thượng Sư. Vị Thượng Sư hợp cách là người có rất nhiều kinh nghiệm phong phú đối với pháp tu của Phật Giáo. Vị ấy được truyền thừa một cách không gián đoạn (vĩnh truyền) từ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, và đươc̣ công nhận trong Tăng già là những bậc đă đạt đến tŕnh độ chứng ngộ rất cao mà trí huệ và ḷng từ bi đều viên dung vô ngại. Chỉ có bậc thượng sư như thế mới có thể sách tấn, sữa chữa và là động cơ thúc đẩy cho sự nổ lực tu học của đàn hậu tấn. Chỉ có những bậc đại sư như thế mới chỉ bày cho chúng ta những cảnh giới chứng ngộ chân chánh, mục đích đích thực cho tất cả mọi nỗ lực của chúng ta. Chỉ có những bậc đại sư như thế mới có thể bảo hộ chúng ta không phạm vào những sai lầm tội lỗi mà chúng ta có thể phạm, đồng thời lănh đạo, chỉ dẫn chúng ta một cách đích thực và thích thời nhằm đạt đến cảnh giới cao hơn. Đối với những người học về Kim Cang Thừa, vị Thượng Sư rất là trọng yếu. Chính sự quan hệ chặt chẽ giữa thầy và tṛ đă là chất liệu ràng buộc, thúc đẩy ta quyết tâm thực hiện và đạt đến Phật đạo hoàn mỹ nhất. V́ pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này trực thuộc vào Kim Cang Thừa, cho nên, hành giả cần phải đem hết khả năng để t́m cầu một vị Thượng Sư chân chính hầu chỉ dẫn cho sự tu học và xem tập sách nhỏ này như là một hỗ trợ cho sự huấn thị cao quư của bậc Thượng Sư. Dù vậy, những ai hiện đang trong t́nh trạng không có sự liên hệ với một bậc Thượng Sư hợp cách th́ vẫn có thể tận dụng toàn bộ khả năng và nỗ lực của chính ḿnh để tu tập Quán Âm Quán Tưởng và như thế cũng chẳng có ǵ nguy hiểm cả. Thực sự th́, pháp tu đặc biệt này cũng đă được lập ra để có tính cách thích ứng và hữu dụng cho chính kẻ sơ tâm mới bắt đầu tu học. Phương pháp này tuy bao gồm những giáo lư tu chứng ở mức độ tối cao nhất, nhưng cách tŕnh bày ở đây có tính cách dung hóa khả dĩ giúp đỡ được cho người sơ học và cho tất cả những bậc có kinh nghiệm cao, cả hai đều có thể đạt được lợi ích. Pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này, dù là pháp tu của Mật Tông Phật Giáo, thế nhưng vẫn không mang tính cách phức tạp nguy hiểm của pháp tu mật giáo, đồng thời, vẫn bao gồm đủ những nguyên lư tối thượng đưa đến Giác Ngộ viên măn.

Giống như tất cả phép tu Quán Tưởng khác trong Phật Giáo, phép tu Quán Âm Quán Tưởng này đ̣i hỏi hành giả cần tu học những tâm thuật kỹ xảo căn bản về Chỉ và Quán. Những kỹ xảo này đă được tŕnh bày một cách đầy đủ, chi tiết trong rất nhiều kinh sách của Phật Giáo. Những ǵ được tŕnh bày sau đây chỉ là những yếu điểm có tính cách cương lănh mà thôi.

1 – ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN

Mặc dù có thể thực hiện sự tu Quán trong tất cả mọi cảnh huống (hoàn cảnh); nhưng, lư tưởng tuyệt vời nhất vẫn là một đạo tràng thanh tịnh có khả năng giảm thiểu tối đa sự quấy nhiễu chung quanh. Nếu được như thế th́ đó là điều kiện tốt nhất cho những người mới bắt đầu tu học. Nếu có thể, nên thiết lập một căn pḥng đặc biệt hay sử dụng một góc nhở để có thể bảo đảm sự thanh tịnh cho công việc tu Quán hằng ngày. Trong pḥng hay trong một góc pḥng (khu vực tu tập) cần nhất là nên tránh xa sự hoạt động của thế tục. Phải bảo tŕ trọn vẹn sự thanh khiết. Không nên trần thiết (trưng bày) những phẩm vật thế tục hoặc những vật dụng không liên quan đến sự tu quán. Trong khu vực này, ḿnh có thể kê một chiếc bục hoặc bàn thờ để thờ phụng cúng tượng Phật hoặc những vật tượng trưng cho giáo lư Đức Phật. Theo đó, bên cạnh có thể trần thiết, trưng bày một vài loại như: hoa, hương, nước, đèn cầy, v.v..., trên một bục thấp hơn. Trong trường hợp này, nếu có thể có được một tôn tượng Quán Thế Âm hay một bức ảnh của Ngài th́ không ǵ tốt bằng. Đặc biệt, nếu thờ một tượng Quán Âm như đă tŕnh bày trong pháp tu Quán Âm Quán Tưởng th́ rất quư.

Điều kiện tốt nhất cho sự tu quán là sắp xếp một thời giờ đặc biệt và nhất định cho từng ngày. Rất có nhiều người thích tu luyện vào mỗi sáng sớm thanh tịnh trước khi khởi đầu cho những sinh hoạt trong ngày, v́ giờ giấc này là khoảng thời gian mà tâm và cảnh thanh tịnh nhất. Giờ mặt trời lặn (hoàng hôn) cũng là một trong những giờ giấc rất tốt. Thời gian có thể tùy nghi chọn lựa, miễn sao thích hợp với chương tŕnh sinh hoạt hằng ngày của mỗi một cá thể. Nhưng, nhất định phải có một sự chọn lựa khôn khéo để bắt buộc chính ḿnh phải tuân theo mỗi ngày nhằm nuôi dưỡng và tạo thành một thói quen cố định.

   Tính cách quyết định về thời gian tu tập dài hay ngắn c̣n tùy thuộc vào năng lực và chương tŕnh bận rộn hay thư thả của mỗi người. Tuy nhiên, tốt nhất là nên giữ đúng giờ giấc đă quy định cho sự tu tập hằng ngày. Để tránh sự thất bại trong việc tu hành, lúc mới bắt đầu tu tập, không nên có tham vọng quyết định tu thập trong thời gian quá lâu. Nếu có thể, nên tu tập 15 phút mỗi ngày, như thế sẽ đạt được lợi ích lớn. Thời gian tu tập có thể kéo dài tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, sau đó tùy hoàn cảnh thuận tiện có thể tăng dần th́ giờ lên.

2 – NHỮNG MỤC TU TẬP KHÁC

Pháp tu Quán Âm Quán Tưởng này vốn là một pháp tu hết sức hoàn hảo và cụ túc; nhưng, trong thời gian quán tưởng, thiền định, hành giả cũng có thể tu tập thêm những pháp môn khác mà ḿnhh đă thọ tŕ. Chẳng hạn hành giả đang hành tŕ pháp môn Lễ Phật, th́ cứ thực hành pháp môn Lễ Phật trước khi ngồi xuống để tu Quán. Cũng có thể trước khi tu Quán Âm pháp hành giả cũng có thể thực hành phép quán tưởng thanh tịnh của Kim Cang Tát Đỏa cùng lúc mới việc tŕ tụng Bách Tự Minh Chú. Việc sắp xếp và thu dụng thêm những pháp môn khác c̣n tùy theo căn cơ và mục đích của hành giả; trong trường hợp này, hành giả cần nên tham khảo ư kiến của bậc bản sư ḿnh.

3 – THẾ NGỒI TRONG LÚC TU QUÁN

Thế ngồi lư tưởng nhất trong lúc tu quán là ngồi trên sàn nhà hoặc ngồi trên tọa cụ, Kim Cang Tọa (gọi là thế ngồi kim cương, “vajra” cũng gọi là Liên Hoa Tọa). Bắp đùi trái ở trong bắp đùi phải ở ngoài, cả hai bàn chân đều nằm ngược nhau trên đùi, nhưng cũng có thể ngồi theo tư thế bán già (bán Liên Hoa Tọa; thế ngồi như nửa hoa sen): Bàn chân trái để lên đùi chân phải hay ngược lại; hoặc đơn giản hơn là: ngồi theo thế hai chân đâu ngược vào nhau, lưng thật thẳng nhưng không quá cứng ngắc. Hai tay có thể xếp một cách đơn giản tùy tiện trên ḷng bàn chân hay theo h́nh thức tham thiền thông lệ, bàn tay phải đặt lên ḷng bàn tay trái, hai đầu ngón tay cái cụng nhẹ vào nhau. Đầu phải giữ cho thật ngay thẳng, và, hai mắt khép nhẹ (nửa mở nửa nhắm). Không nên nh́n chú mục vào bất cứ vật ǵ hay điểm nào (dĩ nhiên là ngoại trừ vật đang quán tưởng). Miệng ngậm nhẹ nhưng thanh thản thoải mái, không căng thẳng, đầu lưỡi cong lên và chạm nhẹ nướu hàm trên.


4 – TU CHỈ PHÁP

Trong lúc tu tập quán tưởng, CHỈ là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nói một cách đơn giản th́: CHỈ (cũng tức là ĐỊNH) chính là sự giảm thiểu những tư tưởng vọng niệm, phù động vẩn vơ, buộc tâm ư ngưng tụ, lắng đọng để tập trung nhất tâm vào đối tượng quán chiếu. Kỹ xảo về sự tu CHỈ đă được tŕnh bày một cách sâu sắc trong kinh sách Phật giáo. Những kinh nghiệm về sự tu Chỉ sẽ giúp rất nhiều cho pháp tu Quán Tưởng. V́ thế, những ai tu học mà chưa thể phát triển công phu Chỉ Định một cách đầy đủ, điều kiện tiên quyết và tốt nhất là cần nên luyện tập Chỉ Định trong một vài tuần trước khi bắt đầu tu tập về pháp tu Quán Âm Tưởng này. Việc học về Chỉ Định rất tốt, nó có khả năng dẫn đến một điều kiện sức khoẻ khương tiện. Trên phương diện tâm lư, nó cũng có khả năng đưa đến một lợi ích đáng kể có thể nhận thấy được.

Một trong những phương pháp tu CHỈ đơn giản là: tập trung sự chú ư vào hơi thở của chính ḿnh. Sau khi ngồi thiền trong một tư thế tốt, chỉ thở ra hít vào trong một nhịp điệu b́nh thường, thoải mái, thư thả, nhịp nhàng. Không nên cố sức cưỡng chế làm cho căng thẳng dù chỉ là mảy may. Tâm không nghĩ đến bất cứ việc ǵ khác, chỉ tiếp tục chú ư theo dơi hơi thở. Có thể áp dụng phương pháp Sổ Tức (đếm hơi thở). Bắt đầu đếm từ một đến mười, sau đó bắt đầu đếm lạ̣i. Th́ rất có lợi ích.

Một phương pháp tu CHỈ (năng lực tập trung tư tưởng) đơn giản khác là dùng một phẩm vật đơn giản làm đối tượng. Ví dụ: lấy một mảnh vải nhỏ h́nh vuông, một đóa hoa giản dị, v.v... chẳng hạn. Hăy đặt vật ấy trước mặt khoảng chừng năm feet và ngồi trong một tư thế thiền tọa, tập trung toàn bộ nhăn lực, chăm chú nh́n vào vật đó; Đừng để tâm suy nghĩ đến bất cứ vật nào khác. Cũng có thể gom hết tâm lực tập trung tư tưởng vào một ảnh tượng đang ở trong tâm như một điểm nhỏ có màu sắc hoặc tập trung tư tưởng vào ngay chính trực thức, giác tánh rỗng lặng.

Những Pháp tu đơn giản này chỉ cốt làm cho tâm của hành giả đạt được sự tu tập trong anh định, đồng thời giúp hành giả tăng tiến phương diện trực giác. Nếu trong thời gian tu tập những phương pháp Chỉ (tập trung tư tưởng) này, lúc đầu tâm tư bị tán loạn và phát sanh những ưu phiền của thế tục, vọng tưởng, ảo giác, v.v... th́ hành giả chỉ cần tri nhận rằng: Những thứ tạp niệm này đều là những thứ hư ảo do tâm tạo nên. Sau khi tri nhận rằng tất cả vọng niệm đều do chính tâm ḿnh tạo ra, th́ điều ấy lập tức đưa tâm trở về sự quán tưởng.

Có một việc tối cực trọng yếu mà hành giả cần phải tuyệt đối chú ư là: trong lúc tu Chỉ Quán (thiền định), không nên chấm dứt một cách bất ngờ đột ngột. Trong quá tŕnh từ cảnh giới của định lực thanh tịnh, nên trở lại, cảnh giới của thế tục một cách êm dịu, từ từ, thoải mái.

Kỹ xảo của sự tu Chỉ (được gọi là shamatha hay dhyana hay thiền) đă được ghi lại một cách thâm sâu với một số lượng không thể kể xiết trong các kinh sách Phật Giáo. Hành giả có thể tham khảo để học hỏi thêm những chi tiết rơ ràng. Hơn nữa, việc tu hành thực dụng pháp môn Quán Tưởng Quán Âm này, lúc được lặp đi lặp lại nhiều lần, tự nhiên sự tập trung tư tưởng của ḿnh (Định Lực) sẽ khai triển trong bất cứ trường hợp.

5 – QUÁN TƯỞNG PHÁP

Điểm căn bản của phép tu Quán Tưởng là chuyển hóa cái thực tại được thể nghiệm về chính bản thân, ít nhất là trong thời gian thiền định. Dụng ư chính là hành giả càng tốn nhiều th́ gian tâm thức để dụng công quán tưởng đến Phật, Bồ Tát, v.v... bao nhiêu th́ bản chất của toàn diện tâm cảnh quan kiến của ḿnh được hanh thông lợi lạc bấy nhiêu. Ngoài ra nếu có người nào có đầy đủ năng lực để có thể quán tưởng toàn thể vũ trụ như là đang trở thành cảnh giới giác ngộ th́ nhất định người đó sẽ được tăng trưởng năng lực vĩ đại, đủ sức chế ngự và làm chủ được những t́nh cảm, những tri nhận và những kinh nghiệm trong đời sống. Tâm thức ḿnh phải có sẵn tín niệm cơ bản rằng: Tự thân của mỗi một chúng ta có sẵn đầy đủ một năng lực phi thường có khả năng đặt đến sự giác ngộ, và do đó có khả năng sống trong một thế giới giác ngộ.

Một cách tổng quát th́: phát triển năng lực của sự quán tưởng là một việc tương đối khó khăn, và điều này c̣n tùy vào căn khí và tập khí của mỗi người mà có sự sai khác. Có một ít người đă gặp phải một số vấn đề nhưng một số khác th́ sự khó khăn đă không phải là không ít. Điểm tối trọng yếu là hành giả không nên kỳ vọng quá cao trong thời gian đầu.

Phương pháp quán tưởng là tiến tŕnh dụng tâm để làm cho những h́nh tượng của sự tưởng tượng biến thành cụ thể chân thật. Hay nói một cách khác: Sự Quán Tưởng là tiến tŕnh cố ư nh́n thấy một h́nh ảnh mà ḿnh đang tưởng tượng bằng cách sử dụng một số tác dụng tinh thần như trí nhớ, sự tưởng tưởng và sự tập trung tư tưởng, ḿnh có thể vận dụng tâm thức để tạo tác ra h́nh ảnh (hay gợi cho hiện ra h́nh tượng) trong một cứ điểm nhất định trong không gian. Ban đầu những h́nh tượng này rất mơ hồ, hư ảo, nhưng sau khi đă luyện tập phương pháp một cách thuần thục th́ hành giả sẽ “thấy” những h́nh tượng này một cách rơ ràng như bất cứ ngoại vật nào dưới nhăn quang của ḿnh.

Có rất nhiều phương pháp khác nhau để đạt đến sự tựu thành sự Quán Tưởng này. Vài bậc Thượng Sư khuyên là nên bắt đầu thử quán tưởng một h́nh ảnh mơ hồ của toàn thể cảnh tượng rồi từ từ làm cho nó sáng tỏ khi ḿnh trở nên quen thuộc hơn với h́nh ảnh và tiến tŕnh quán tưởng. Cũng có những bậc Thượng Sư khác dạy là nên bắt đầu bằng những phần nhỏ của h́nh tượng, mỗi một bộ phận đều quán tưởng một cách minh bạch và từ từ đem chúng ghép lại thành một h́nh tượng trọn vẹn (phương pháp này rất là ích lợi và tiện dụng cho việc quán tưởng phức tạp hơn về chư Bồ Tát và chư Thiên). Phương pháp thứ ba là bắt đầu ngó nh́n thật lâu vào một h́nh tượng cho đến khi việc quán tưởng h́nh ảnh này trở nên dễ dàng thực hiện.

Không luận là sử dụng phương pháp ǵ, trong thời kỳ đầu của sự tu Quán, nếu sự quán tưởng không được ổn định th́ đừng bao giờ nản chí. Những hành giả sơ cơ thường hay kể lại những vấn đề vấp phải trong việc quán tưởng, và những vấn đề thường gặp là: Không có khả năng để quán tưởng ǵ cả; h́nh tượng lúc tỏ lúc mờ, và mỗi lần như thế chỉ có thể thấy h́nh tượng một cách phiến diện, cục bộ; lúng túng không biết phải từ góc cạnh nào để nh́n h́nh tượng; h́nh tượng cứ vẫn lướt trượt khỏi đầu ḿnh (giống như lúc luyện pháp Quán Âm Quán Tưởng, tức quán tưởng Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đỉnh đầu của hành giả); h́nh tượng dường như tự phát ư riêng và bắt đầu nói cười, giỡn cợt và chơi nghịch những tṛ đùa khác. Ngoài ra, c̣n có những vấn đề thường gặp trong mọi lối tu thiền như đau nhức cơ thể, tâm thần lơ đễnh, hôn trầm, trạo cử (ư tưởng lăng xăng) khát khao, thèm muốn, những t́nh cảm xung động phát dậy mănh liệt mà không thích ứng dung hợp.

Để giải quyết hàng bao nhiêu vấn đề trên, chỉ có cách trả lời duy nhất là: Không cần để ư biết tới, bận tâm đến những vấn đề đó nữa. Cứ tiếp tục giữ sự quán tưởng. Tất cả những nỗi khó khăn trên phải được coi như là những tṛ bịp bợm của cái bản ngă, cái bản ngă muốn chạy trốn, tránh né sự quan sát thâm cận, chạy trốn, tránh né sự hủy diệt của chính bản ngă, được thành tựu từ sự thiền định quán tưởng Phật Giáo. Cái làm cho vấn đề trở nên quan trọng chỉ là cách làm cho vấn đề trở nên thực hơn mà thôi. Hay nói một cách khác: cái việc quan-trọng-hóa bất cứ một vấn đề nào cũng đều làm cho vấn đề ấy trở nên có thực hơn bao giờ cả, nghĩa là vấn đề càng trở nên rắc rối hơn nữa

Do đó, ḿnh không nên để ư nhiều đến những vấn đề hay những khó khăn. Hăy cứ tiếp tục dồn hết nỗ lực của ḿnh vào trong việc quán tưởng, thiền định như thường lệ.

Nguyên tắc này cũng áp dụng cho bất cứ kinh nghiệm đặc biệt nào khác mà ḿnh trải qua lúc quán tưởng tham thiền, và, cũng áp dụng cho cả việc không có kinh nghiệm đặc biệt nào như vậy.

Xin cảnh cáo hành giả là: Trong lúc thiền định, đừng bao giờ để bị kích động bởi những ǵ mà hành giả có cảm giác như là một dấu hiệu của sự thành công như: cảm giác thú vị khinh an (nhẹ nhàng) có cảm xúc ấm áp, thấy ánh sáng, v.v... Khi Định mỗi lúc một sâu dần, những t́nh huống này có thể sẽ xuất hiện, nhưng, chúng không có ǵ vĩ đại quan trọng cả, v́ thế, không cần suy cầu và cũng không cần chạy trốn chúng. Khi thấy những huyễn cảnh ảo tượng khác, cũng cần có thái độ trên. Đôi khi có thể thấy những cảnh tượng khủng bố kỳ dị khác thường, cần phải nh́n rơ bản chất không thật hư huyễn của chúng. Hăy để chúng tự biến đi, c̣n nếu không có những cảnh giới ấy hiện ra, th́ không nên có cảm giác thất vọng hoặc nản chí mà phải luôn luôn tâm niệm rằng: Mục đích duy nhất của sự Quán Tưởng là để phát triển Trí Huệ và Tâm Từ Bi của chúng ta. Nếu đúng như pháp mà tu tập có thể thấy được rơ ràng những h́nh tượng, hoặc tự ḿnh có thể ghi nhận một cách rơ ràng rằng: Tâm Từ Bi của chúng ḿnh đang được phát triển hơn thêm đôi chút trong mọi sinh hoạt thường nhật của đời sống th́ đó cũng đủ để biết rằng những điều này chính là thành quả thực thụ của phương pháp tu hành này.

Sau cùng, cũng nên ghi nhận thêm rằng, quán tưởng và thấy được những h́nh tượng được mô tả như h́nh tượng Quán Âm có thể là một cái ǵ xa lạ và khó khăn đối với những ai đă không từng quen thuộc với những h́nh tượng thông thường của Phật Giáo. V́ thế, lúc đầu có thể xem sự quán tưởng như là một loại luyện tập có thể giúp ích cho tâm lực trở thành khoáng đại và làm tăng trưởng sức chú ư, gia tăng sự tập trung tư tưởng. Nhưng, điều quan trọng hơn nữa: h́nh thể và những thuộc tính sắc tướng của Quán Thế Âm phải được hiểu như là đă được cố ư thiết lập ra hầu sử dụng những biểu tượng hữu hiệu và truyền cảm nhất, khả dĩ trao truyền, ban phát sự thể hiện ḷng Từ Bi và Trí Huệ. Những biểu tượng này đă được giải thích rơ ràng hơn nơi chương ba. Khi mà sự quen thuộc thiết thân hơn với h́nh tượng và văn mạch sắc tướng của Quán Thế Âm được tăng trưởng phát huy sâu rộng hơn th́ những thành viên của phần lớn những nền văn hóa nhân loại có thể có khả năng thuận dụng để liên hệ gia hưởng thỏa đáng hơn với những biểu tượng cổ kính mănh liệt này.

6 – LÀM THẾ NÀO TR̀ CHÚ LÚC

SỬ DỤNG TRÀNG HẠT

Chú là sự biểu hiện bằng âm thanh về tâm cảnh Giác Ngộ của ư thức. Phần lớn Chú ngữ là Phạn văn, ngắn gọn, đơn giản nhưng giàu năng lực tượng trưng. Tuy nhiên, Chú cũng có một ư nghĩa trên phương diện văn tự và cũng có thể dịch ra chữ Việt. Nhưng, công dụng cơ bản của Chú la ̀do xuyên qua âm thanh của văn tự mà hướng hành giả biểu đạt bao nhiêu thứ tâm cảnh đặc thù của chính ư thức. V́ thế, Chú ngữ cần phải được tụng niệm một cách thường xuyên liên tục, càng nhiều càng tốt. Đặc biệt là phải đem hết tâm lực chuyên chú vào âm thanh của Chú và chuyên chú vào trí huệ tương ứng được tượng trưng ở đó. Lúc tŕ Chú, theo truyền thống, rất có nhiều người sử dụng cách lần chuỗi để ghi nhớ (tính đếm) nhưng điều này không tuyệt đối cần thiết.
Phật Giáo thường dùng chuỗi có 108 hạt, cộng thêm đầu mỗi chuỗi hạt (hạt lớn giống như bầu hồ lô). Mục đích lần chuỗi 108 hạt này chỉ là để ghi nhớ, đặc biệt nó rất hữu dụng khi có người muốn hoàn tất số lượng tŕ Chú trong một thời gian nhất định. Khi lần xong trọn vẹn một tràng chuỗi hạt th́ chỉ tính có 100 lần Chú thôi (cộng thêm 8 đều chuỗi để pḥng hờ trong trường hợp có một vài Chú khi tụng niệm không được chân thành, tha thiết hoặc không tập trung đầy đủ sức chú ư). Đồng thời 108 hạt cũng c̣n được ghi nhận như là một con số (số mục) có được sự kiết lợi (tốt đẹp và lợi lạc).

Trong lúc tŕ Chú, tràng hạt được lần bởi ngón tay cái và trỏ; một đôi khi trong những phương pháp tu tập cao cấp hơn, những ngón tay khác cũng đă được sử dụng. Có thể sử dụng tay phải hoặc tay trái nếu cảm thấy tay nào thuận tiện nhất với ḿnh. Mỗi lần tŕ xong một Chú, lần một hạt chuỗi. Để bắt đầu cho tiến tŕnh lần chuỗi, trước tiên, nên bắt đầu bằng hạt chuỗi kế cạnh hạt Đầu hạt của tràng chuỗi. Khi lầng xong hăy dừng lại. Đừng tính tiếp đầu chuỗi mà phải lần ngược lại và cứ thế tiếp tục đă được chỉ dẫn.

Có thể sử dụng bất cứ tràng hạt được chế tạo bằng bất cứ vật liệu nào. Tràng hạt làm bằng hạt bồ đề được chế tạo tại Ấn Độ đă đặt biệt được mọi người ưa thích. Tràng hạt bằng gỗ đàn hương cũng là loại tràng hạt mà hầu hết Phật tử ưa thích. Trong những pháp tu đặc biệt, có người đă sử dụng những tràng hạt được đặc biệt chế bằng những chất liệu như ngà voi, san hô, pha lê, thạch anh, hoặc xương, v.v...

Sử dụng tràng hạt (phương pháp lần chuỗi) cũng có thể trợ giúp hành giả tập trung được tâm lực nơi Chú ngữ và quán tưởng. V́ vậy, cần phải tôn trọng và giữ ǵn tràng hạt cẩn thận. Mỗi hạt chuỗi có thể được xem như là vật tượng trưng cho một vị Bồ Tát mà hành giả đang quán tưởng đến. Đồng thời, xem sợi dây dùng để xâu chuỗi là tượng trưng cho ư thức của Bậc Bồ Tát, tức Bồ Đề Tâm.

7 – CÁCH SỬ DỤNG CHÍNH VĂN CỦA BẢN TU PHÁP

Những ǵ được thấy trong Chương Hai vốn đă được phiên dịch từ bản gốc (chính) bằng tiếng Tây Tạng được soạn ra bởi Ngài Tangtong Gyalbo: “Quán Tưởng Thiền Định cho tất cả chúng sanh ở khắp cơi không gian” [những chữ hoặc những đoạn trong ngoặc là do dịch giả thêm vào để ư nghĩa của câu văn được sáng sủa thêm dễ hiểu hơn].

Nguyên văn trong chính bản tŕnh bày rơ ràng chính xác về những ǵ cần phải quán tưởng và phải được thể nghiệm trong lúc ḿnh quán tưởng. Phải tụng một cách hết sức chậm răi qua từng đoạn [ngoại trừ những đoạn chú giải được đóng ngoặc]. Lúc đọc, có thể đọc lớn tiếng hoặc đọc thầm thầm cho chính ḿnh, đồng lúc, từng bước một, phải tác quán tưởng theo mỗi lần đọc. Khi mỗi đoạn đươc̣ hoàn tất có thể tạm nghỉ trong chốc lát rồi tiếp tục ôn lại trong tâm thức những ǵ ḿnh đă quán tưởng từ đầu cho đến đó. Trong một đoạn như thế, thời gian bỏ ra (sử dụng) nhiều hay ít (dài hay ngắn) là hoàn toàn tùy thuộc vào nhu yếu và sở vọng của mỗi người.

Trong khi tŕ Chú, phải dốc hết toàn bộ quá tŕnh quán tưởng mà ḿnh có thể có, vào trong tâm thức ḿnh. Hành giả cũng phải đem hết sức chú ư tập trung vào âm thanh của Chú ngữ và cố gắng nỗ lực thể hội thần thông lực của Chú (oai lực của Chú). Đại Bộ phận của thời gian tu Quán Tưởng (toàn thể thời gian tu Quán) sẽ được dùng vào việc tŕ Chú và cùng với sự Quán Tưởng Vô Tướng.

Sau khi tŕ Chú nên hoàn thành sự tŕ tụng và tu pháp thiền định theo chính văn ở đây.

Xin chú ư: Số chữ trong những dấu ngoặc là do sự thêm vào của dịch giả để thuận tiện cho việc phân thành chương tiết của pháp tu. Số chữ mà các đoạn đă nêu lên những số tương ứng được dùng để giải thích chi tiết cho mỗi đoạn trong chương ba.



Sửa lại bởi phoquang : 20 March 2006 lúc 9:21pm
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 2 of 3: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 9:29pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

CHƯƠNG II

CHÍNH VĂN:
Pháp tu “Quán Tưởng Thiền Định
Cho Tất Cả Chúng Sinh
Trong Suốt Cơi Không Gian”
Quán Âm Quán Tưởng này được
Truyền thừa trực tiếp bởi
Đạo Sư Thánh Tăng Tangtong Gyalbo.

(1) – QUY Y

(Quy y Phật, Pháp và Thánh Tăng

Cho đến khi con thành chánh giác.
Nguyện các công đức con tạo được
Như Bố thí, Tŕ giới vân vân...
Khiến con thành Phật để độ sinh).

(2) – Chúng con, chúng sanh...đầy hư khôngg

Đảnh đầu đều có hoa sen trắng
Và vầng trăng, hiện mật từ HR̀H (đọc là PHI)
Đấng Chí Tôn Thánh Giả Quán Thế Âm
Khiết bạch quang minh rực năm màu
Mỉm cười bi mẫn nh́n sanh chúng

(Ngài có bốn tay thật nhiệm mầu)
Hai tay trong bốn, trên chắp lại
Hai tay phía dưới của Ngài cầm
Đóa hoa sen trắng, chuỗi pha lê
Lụa, châu trang sức nghiêm Thánh thể
Choàng ngực da nai, đội bảo quan
Trên măo có Phật A Di Đà
Đang ngồi trong thế già phu tọa (Kim Cang)
Vầng nguyệt sau lưng thanh tịnh soi
Ngài là Chơn tánh, là Diệu thể
Tất cả nương về để quy y.

(3) – Hăy quán tưởng, tưởng tượng rằng ḿnh và tất cả chúng sinh đều cùng nhau khẩn nguyện tụng kinh:

Nay con đảnh lễ Quán Thế Âm
Bậc thánh hoàn toàn không khuyết vọng
Thân báu thanh tịnh suốt một màu
Đỉnh đầu nghiêm sức Viên Măn Phật
Bi mẫn từ tâm nh́n chúng sanh
(Tụng 3 hoặc 7 lần, tụng càng nhiều càng tốt)



(4) – Rốt ráo như thế nhất tâm cầuu

Bậc thánh thân báu chiếu quang huy
Tận trừ vọng tưởng và nghiệp chướng
Ngoại cảnh biến thành Cực Lạc Ban
Chúng sanh thân khẩu ư ba nghiệp
Đều thành Thân Khẩu Ư Quán Âm
Thinh, sắc, pháp, trần, thảy thành không
Tất cả chỉ là vô phân biệt.
[Đang khi quán tưởng như thế nên tụng lục Tự Chơn Ngôn: Án Ma Ni Bát Di Hồng (Om Mani Padme Hùm)]

(5) – Xong, hành giả hăy nhập vào Phản Quang Tự Tánh vô niệm tức là không có ư niệm ǵ cả trong bất cứ ba ṿng luân khởi nào (Tam Luân) (không có tác giả, thọ giả và sở tác nghiệp)

(6) – Đứng Dậy:

Sắc tướng của con và mọi người
Hiện là thánh thể của Quán Âm
Tất cả âm thanh đều biến thành
Âm điệu của Chú Lục Tự Minh
Tư tưởng của con và mọi người
Hiện là trung tâm của Đại Trí
Xin nguyện từ nơi công đức này
Con được chóng thành Quán Thế Âm
Độ khắp chúng sanh không phân biệt
Thẳng vào cảnh giới của Chân Như

(Nguyện đem công đức này,
hướng về khắp tất cả,
đệ tử và chúng sanh
đều trọn thành giác đạo)


PHỤ LỤC
(Bài dịch để tụng, có thể thay thế cho phần chính văn của Chương Hai)
CHƯƠNG II
CHÁNH VĂN:
PHÁP TU “QUÁN TƯỞNG THIỀN ĐỊNH CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH TRONG SUỐT CƠI KHÔNG GIAN
Pháp Quán Âm Tưởng này được truyền thừa trực tiếp bởi Đạo Sư Thánh Tăng Tangtong Gyalbo.

(1) - Quy Y
Quy y Phật, Pháp, Tăng
Đến khi con chứng thành
Quả vị vô thượng giác
Nguyện cho các công đức
Do con tạo tác nên
Như bố thí tŕ giới
Khiến con được thành Phật
Để cứu độ chúng sanh

(2) – Chúng con và chúng sanh

Cả hư không đầy khắp
Trên đảnh đầu chúng con
Thảy đều có sen trắng
Lại có cả vầng trăng
Mật tự HR̀H hiển lộ
Từ đó xuất hiện ra
Đấng Quán Âm Thánh Giả
Vô Thượng bậc chí tôn
Khiết bạch chẳng thể lường
Năm màu rực rỡ tỏa
Mỉm cười Ngài bi mẫn
Thương xót nh́n chúng sanh
Hai tay trên chắp lại
Hai tay dưới Ngài cầm
Một tay đóa sen trắng
Tay nọ chuỗi pha lê
Thánh thân Ngài Nghiêm sức
Bằng tơ lụa, bảo châu
Ngực choàng da nai quư
Đầu đội măo bảo trân
Trên măo có đức Phật
Danh hiệu A Di Đà
Ngồi trong thế kiết già
Hay gọi: Kim Cang tọa
Sau lưng Ngài vầng nguyệt
Đang thanh tịnh chiếu soi
Ngài chính là Diệu thể
Để tất cả quay về
Quy y và nương tựa.

(3) – Hăy quán tưởng, tưởng tượng rằng ḿnh và tất cả chúng sanh đều đang cùng nhau tụng kinh khẩn nguyện:

Con chí thành đảnh lễ
Đức Bồ Tát Quán Âm
Bậc Thánh thật hoàn toàn
Không mảy may khuyết vọng
Thân thanh tịnh trắng trong
Bằng đức Viên Măn Phật
Đôi mắt đầy từ mẫn
Thương xót nh́n chúng sanh.
(Tụng 3 hoặc 7 lần, tụng càng nhiều càng tốt)

(4) – Rốt ráo như thế đó

Thành khẩn nhất tâm cầu
Bậc Thánh, thân trân quư
Mầu nhiệm chiếu quang huy
Tận trừ chư vọng tưởng
Các nghiệp tướng xấu xa
Ngoại cảnh thảy biến thành
Cơi Trang Nghiêm Cực Lạc
Chúng sanh thân, khẩu, ư
Ba nghiệp hoán chuyển thành
Thân, khẩu, ư Quán Âm
Thanh, sắc, pháp trần bổng
Tất cả thảy đều không
Trở thành vô phân biệt
Sắc tướng của con trùng
Sắc tướng của mọi người
Hiển hiện thành diệu tướng
Của Bồ Tát Quán Âm
Tất cả những âm thanh
Đều chuyển thành âm điệu
Của Chú “Lục Tự Minh”
Và Tư Tưởng của con
Cùng của cả mọi người
Hiện là trung tâm của
Đại Trí Tuệ thẳm sâu
Nguyện nhờ công đức này
Được chóng thành như đấng
Bồ Tát Quán Thế Âm
Để độ khắp muôn loài
Chúng sanh không phân biệt
Đồng nhập vào cảnh giới
Giác ngộ của Quán Âm.

(Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo)



Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 3 of 3: Đă gửi: 20 March 2006 lúc 9:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

CHƯƠNG III
GIẢI THÍCH

Những tư liệu hàm chứa trong chương này đều đă được căn cứ vào truyền thống Tây Tạng chú sớ về Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp và đă được một số các bậc Thượng Sư hướng dẫn trực tiếp bằng khẩu truyền cho dịch giả.

1 – QUY Y (Trở về nương tựa)

Trong chương đầu tiên này, Pháp tu đă được diễn đạt về hai động cơ thiết cốt có tính cách sống c̣n chủ yếu nhất để tu học Phật Pháp là Thọ Quy Y và Phát Bồ Đề Tâm.

Hai linh niệm này luôn luôn nhất định phải được thể hiện trước bất cứ sự hành tŕ nào trong Phật giáo và thực sự đó là điều bắt buộc không thể thiếu được trên tiến tŕnh tu học Phật Pháp của họ.

THỌ QUY Y(Ba hàng văn đầu của chính văn tu Pháp) đă chính thức đưa ra như là một tiền đề xác định nơi quy y (trở về nương tựa) tối hậu và đồng thời cũng là lư tưởng tối cao của hành giả. Đó là PHẬT, PHÁP và TĂNG. Nói khác hơn, hành giả quyết định lấy Phật, Pháp. Tăng như là điểm quy hướng cơ bản tối hậu của sự xác chứng cho đến khi chính ḿnh chứng thành Phật quả. Lúc thọ Quy Y, hành giả cần ghi nhớ rằng: Đức Phật là một bậc đă thật sự chứng được quả vị Chánh Giác một cách hoàn toàn viên măn và Ngài đích thực là một khải thị tối cao là linh cảm, là nguồn cảm hứng vô tận đối với toàn thể Phật Giáo đồ. Pháp là những áo nghĩa, triết lư và phương tiện tối cao, tối hảo mà đại biểu là Kinh Tạng do Đức Phật giảng dạy, và Tăng là những đoàn thể thánh chúng, nói cách khác, Tăng là danh xưng chung để chỉ cho tất cả những thánh nhân quí phái cao thượng, có một đời sống thanh khiết, thánh thiện đă và đang nỗ lự́c tinh tấn phát triển trí huệ hầu thành tựu Phật Tánh. Như thế, Phật, Pháp, Tăng là ngôi tối tôn kính đối với toàn thể Phật tử.

Trong lúc tŕ tụng Kệ Tam Quy Y, hành giả cần phải quán tưởng rằng: bao quanh ḿnh gồm có cha mẹ, bạn bè, oán cừu cho đến tất cả chúng sanh, và tất cả đều ngồi chung môt chỗ và đồng thọ Quy Y. Trong khoảng không trung ở trước tất cả chúng sanh là Phật, là chư vị Bồ Tát, những quyển Kinh tượng trưng cho Pháp, và đoàn thể Tăng già. Quán tưởng sự có mặt của Chư Phật và Thánh chúng sẽ làm tăng sức mạnh cho thệ nguyện lực quy y của hành giả.

Thông thường, khi thọ Pháp Quy Y lần đầu, tất cả đều hiện diện (thực hiện) trước mặt vị Thượng Sư và lễ thọ Quy Y này là mốc đánh dấu cho sự chánh thức tiến vào Phật đạo. Sau đó, việc lặp lại nghi thức đọc tụng Tam Quy Y Văn, nhất là trước khi quán tưởng thiền định là cốt giúp cho hành giả ghi nhớ măi chủ hướng tối thượng và lư tưởng tối cao của ḿnh.

PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

(tức ba hàng chữ thứ hai của đoạn thứ nhất) là kết quả tất nhiên của sự thọ Tam Quy Y và đồng thời c̣n là cái chủ trương tối trọng yếu trong Phật pháp. Đoạn văn này nhấn mạnh: Cái mà hành giả đem hết nổ lực để mong cầu giác ngộ chính là cái nhu yếu muốn lợi ích tất cả chúng sanh (hay: Tất cả sự nỗ lực của hành giả để đạt đến sự giác ngộ là v́ sự lợi ích của tất cả chúng sanh). Nỗ lực này bao gồm tất cả phương tiện tu học của Phật giáo như: Bố thí, cứu giúp người (độ sanh), tụng kinh, tu tập thiền định, v.v... Hành giả nên thực hành những phương tiện này với một nhận thức minh mẫn rằng: Tất cả mọi nỗ lực đều nhắm vào mục tiêu tối hậu là chứng thành Phật quả để độ thoát chúng sanh, như thế (tức) có thể cấu thành một nguyện lực cường đại có đủ năng lực thẩm thậu khả dĩ biến đổi, chuyển hóa tất cả mọi sự kế tiếp. Mục đích của sự phát Bồ Đề Tâm này là nhằm tránh những sai lầm to lớn mà hành giả có thể vấp phải, đó là: Nỗ lực tu tập chỉ v́ mục đích tư lợi.

V́ thế, trước khi mở đầu pháp tu thật tế này, hành giả cần để ra một vài phút quán tưởng để nh́n thấy mọi sự thống khổ mà vô lượng chúng sanh đang thọ nhận trong lúc luân hồi sanh tử trong thế gian. Trong Phật giáo, chúng sanh được phân làm sáu loại: Thiên, A Tu La, Nhân, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Địa Ngục Chúng Sanh (chúng sanh trong địa ngục). Phải thừa nhận rằng mỗi một loại chúng sanh đều tự có một lănh vực sinh tồn của chính chúng, nhưng, nh́n từ một quan điểm khác th́, tất cả sáu loại h́nh thái sinh tồn đó đều có thể tồn tại ngay trong nhân loại (kinh gọi là Nhân thú hay Nhân đạo).

Trời (Thiên):

Là một loại ở trong thiên đường vật chất, nhưng sinh hoạt tâm linh của họ phát triển rất ít. Sinh mạng của họ sẽ chấm dứt, và lúc mà họ phát hiện cái nhược điểm đó của chính ḿnh th́ họ sẽ bị khủng hoảng đến sửng sờ và đau khổ đến cùng tột.

A Tu La:

Là một loại chúng sanh thuộc cảnh giới mà tánh khí nóng nảy, tật đố, ưa tranh chấp, có thể tranh đấu liên lỉ suốt đời và lại thiếu hẳn cơ hội để suy gẫm về những vấn đề (phương diện) tâm linh.

Loài Súc Sanh:

Là loài tánh t́nh ngu độn, đau đớn, và thiếu hẳn trí năng sáng suốt. Đời sống của chúng là một chuỗi cắn xé, giành giật để sinh tồn. Chúng cũng thường bị bắt buộc làm nô lệ cho những chúng sanh khác

Ngạ Quỷ:

Là một cảnh giới (loài) luôn bị đau khổ bởi sự khát khao thèm muốn dục vọng cực độ mà họ không bao giờ có thể thỏa măn. V́ ḷng keo kiệt, bủn xỉn của chính họ mà không lúc nào họ không suy t́m thức ăn, áo mặc và vật dụng; dẫu thế, họ chỉ có thể t́m được một mẩu vụng nhỏ bé hoặc một mảnh giẻ rách mà thôi.

Chúng sanh trong Địa Ngục:

Th́ hoàn toàn bị sự nô dịch hóa bởi ḷng căm thù, oán hận của chính họ, v́ thế mà họ phải nhận không biết là bao nhiêu sự cực h́nh tra tấn và đau khổ một cách vô hạn.

Loài Người:

Tuy họ cũng có thể có đầy đủ một số mức độ của tất cả những vấn đề đó, nhưng, họ dường như có vừa đủ mức độ trộn lẫn cả khổ đau và thông minh để có khả năng vượt qua sự giao tranh sinh tử và phát triển đôi chút khôn ngoan. V́ thế, loài người là một loại chúng sanh duy nhất khả dĩ có thể tu tập và phát triển Phật đạo. Suy xét thật kỹ th́, số sinh vật được làm người th́ không đươc̣ nhiều như những loại sinh vật khác, do đó, phải biết rằng được làm thân người là cả một điều may mắn, hy hữu. Nhưng, dù đă được làm thân người (nhân thú) cũng không sao tránh khỏi những vấn đề chủ yếu như: Bệnh tật, vô minh, cầu bất đắc khổ (mong muốn cầu xin mà không được thỏa măn là một thứ KHỔ) và sự chết, v.v...

Mặc dù chúng ta có thể nhận thấy được sự đau khổ ở mặt phiến diện nhưng, không phải bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể thể nghiệm được mức độ xung kích cực độ của khổ đau nơi chính bản thân ḿnh. Dù vậy, nếu suy nghĩ (thật cẩn trọng) về tính cách bao quát lan tràn của sự khổ đau đang tồn tại, nó sẽ kích phát được tâm từ bi của con người và đồng thời có thể khiến họ hưng khởi thệ nguyện vĩ đại để cứu độ tất cả sự đau khổ của chúng sanh. Chúng ta cần thể hội một cách toàn triệt trọng yếu tánh về sự phát triển cần thiết của trí tuệ để ra tay cứu độ một cách hữu hiệu tất cả chúng sanh, để tạo thành một thay đổi thật sự và toàn diện cho cả TÂM lẫn CẢNH của tất cả chúng sanh. Sự tri nhận một cách đầy đủ về nhu cầu khẩn yếu của việc đạt tới trí tuệ và từ bi có thể làm tăng cường sự mong muốn và quyết tâm của hành giả trong việc tu tập (pháp môn này), đồng lúc, sử dụng một cơ hội quư giá để thực hành Phật Pháp như là một nhân thể thông minh lành mạnh, khang kiện.

2 – HIỆN TÁC GIAI ĐOẠN

(hay GIAI ĐOẠN HIỆN TƯỚNG)

Hiện tại, hành già đă được chính thức bắt đầu tiến vào phương pháp tu tập, giai đoạn này gọi là giai đoạn hiện tướng bởi v́ nó tŕnh bày từng bước một cái quá tŕnh xuất hiện của h́nh ảnh mà ḿnh quán tưởng về Quán Thế Âm Bồ Tát.

Lúc bắt đầu, trước hết, một lần nữa hành giả phải quán tưởng trong hư không đầy dẫy vô lượng chúng sanh. Vô lượng chúng sanh này ngập tràn toàn thể vũ trụ. Hành giả tưởng tượng chúng đang ngồi trong một diện tích rộng lớn và tự khởi lên tịnh tọa và tu tập thiền định cùng lúc với hành giả.

Hành giả quán thấy trên đảnh đầu của ḿnh và của cả chúng sanh đều hiện lên một đóa sen trắng tám cánh. Rễ của hoa sen này sanh trong đầu của những chúng sanh và mọc nhú lên từ nơi thiên đảnh huyệt (gọi là đầu đảnh môn xứ Bà La Môn) của đầu nổi lên (mọc nhú lên). Lủng lẳng b́nh hành trên đầu cánh hoa là một Nguyệt Luân (vầng trăng) màu trắng tương tự như một tọa cụ dùng để ngồi thiền nhưng rấ bằng phẳng.

Trên những nguyệt luân (vầng trăng) này đột nhiên xuất hiện chủng tử HR̀H (đọc âm đồng vận như chữ free trong anh ngữ. Âm H đại biểu cho lúc âm tiết đă chấm dứt có một khí âm đoản xúc). Âm tiết của chữ này là sở tại tinh túy của Từ Bi và Trí Tuệ của chư Phật. Lúc quán tưởng chữ này, có thể sử dụng bất cứ loại văn tự nào cũng được, ví dụ: chữ Phạn th́: ; Tây Tạng th́: ; hoặc phiên âm theo Anh ngữ th́ là HR̀H. Có thể quán tưởng chữ này trong một chiều cao một vài inches (phân Anh), đứng ở trên nguyệt luân, mặt hướng về phía trước, màu nó thật khiết bạch và rất quang minh rực rỡ ba động với ánh sáng, tiếp nhận tinh lực linh hoạt nhở bởi tinh chất Đại Bi mănh liệt. Ánh sáng đó rung động miên viễ́n và chiếu soi toàn thể vũ trụ.

Sau đó chữ HR̀H này lại tự động chuyển biến thành H́nh Tượng hay Pháp Tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm

Đức Quán Thế Âm có một màu da quang minh rực rỡ và khiết bạch giống như màu sắc của một vầng thu nguyệt. Thánh thể của Ngài phóng chiếu rực rỡ và trải ra năm màu quang huy chói lọi của móng cầu ṿng như trắng, xanh da trời, vàng, đỏ và xanh diệp (năm màu này là năm màu đại biểu để cấu thành năm thứ nguyên tố của thế giới). Ánh sáng đó chiếu rọi toàn thể vũ trụ. Gương mặt đức Bồ Tát đang cười hàm tiếu (vi tiếu) và hai mắt đều hiển lộ chan chứa từ bi, đang xót thương xem xét tất cả chúng sanh trong thế gian. Ngài có bốn cánh tay – Hai cánh tay chấp trước ngực trong vị thế kỳ đảo, cầu kinh, khấn nguyện (namaskara). Trạng thái này thể hiện cho ḷng chí kính đối với vô lượng chư Phật. Tay phải ṿng ngoài, cầm một hoa sen tuyệt mỹ (tượng trưng của Bồ Tát), và tay trái ṿng ngoài th́ cầm một chuỗi hạt pha lê (mala) tượng trưng cho ḷng Đại Bi không ngừng nghỉ.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ăn mặc theo truyền thống thêu dệt bằng oanh lạc, tơ lụa và chân báu. Những thứ này bao gồm cả khăn choàng, xiêm y, áo choàng, v.v... Tất cả đều được chế tạo bởi nhữngloại tơ lụa và châu báu hảo hạng tối thượng; ngoài ra, Ngài c̣n trang sức thêm những loại nữ trang như: Xoan ṿng, bông tai, kiềng đeo cổ, nhẫn, đai, xuyến. Ngài c̣n vận một tấm da nai bên vai trái để tượng trưng cho ḷng từ bi của Ngài đối với tất cả chúng sinh. Tóc của Ngài được bệnh thành những nhánh búi tóc nhỏ quấn ṿng quanh đầu và tạo thành một cái đỉnh, phần tóc c̣n lại th́ được xỏa xuống tự nhiên. Ngài đội một bảo quan (chiếc măo làm bằng châu báu), phía trước măo, ở trên có gắn một tượng nhỏ mày đỏ của đức Phật A Di Đà. Phật A Di Đà là bậc thượng sư của Quán Thế Âm Bồ Tát và là bậc chí tôn trong chư Phật từ liên hoa phóng sanh mà Quán Âm Bồ Tát thuộc một trong phổ hệ này. Hầu hết trên bảo quang của những tôn tượng Quán Âm, đều có một tượng nhỏ Phật A Di Đà để biểu thị ḷng tôn sùng chí kính đối với Phật A Di Đà, một vị Phật vô cùng trọng yếu.

Quán Âm Bồ Tát ngồi trong tư thế Kim Cang tọa (Vajrasana), hai chân giao xếp vào nhau, bàn chân hữu gác trên đùi chân trái và ngược lại bàn chân trái gác trên đùi chân hữu. Ngài ngồi đâu lưng với vầng nguyệt luân màu trắng. Vầng trăng đang ở đằng sau Ngài, sự thanh lương, quang huy, rực rỡ của vầng trăng này tượng trưng cho tâm từ bi dùng để khắc phục sự thống khổ, nhiệt năo (nóng bức) của tham ái.

Những lời tối hậu của tiết này là hướng dẫn, chỉ dạy cho hành giả phải nhận định một cách minh bạch rằng đức Quán Âm Bồ Tát đang ở trên đầu của hành giả không chỉ là một huyễn tượng được sanh ra từ sự quán tưởng mà chính là đức Quán Âm đích thật. Hành giả cần phải quán tưởng rằng: Bồ Tát này là tất cả sự tinh anh của trí tuệ của chư Phật (tức đối tượng quy đích thực của hành giả). H́nh tượng được quán tưởng như thế th́, tức khắc trở thành Phật Tánh tối cao, đầy đủ những oai lực không ǵ so sánh nổi và có thể thị hiện sự cảm ứng linh hiện trực tiếp với hành giả.

3 – CẦU NGUYỆN ĐỨC QUÁN ÂM

Những hàng văn kế tiếp sau đây là loại văn cầu đảo có tính truyền thống để xưng tụng đức Quán Âm mà trong đó tổng kết lại tính cách đại phẩm đức trọng yếu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Viên Măn Phật tức chỉ đức Phật A D Đà.

Một mặt, hành giả phải khắc nhớ trong tâm tất cả những quán tưởng đă thực hiện từ trước, mặt khác, phải đọc trong nhiều lần (biến) lời Kệ kỳ đảo (cầu nguyện) này. Kệ văn tụng này biểu đạt cách căn bản ḷng tôn kính và sự sùng ngưỡng của một tâm cảnh hết sức cao xa sâu thẳm đối với bậc Bồ Tát; loại tâm cảnh này khác hẳn và nghịch phản với cái tâm hồ̃n loạn dẫy đầy tham dục của tất cả chúng sanh đang trôi lăn trong luân hồi trong sanh tử. V́ thế, hành giả nên khẩn thiết thỉnh cầu Bồ Tát ban cho sự che chở và gia bị.

4 – BIẾN HÓA VÀ TR̀ CHÚ

Đoạn văn ở trước đă tường thuật sự khẩn cầu và nguyện thiết, cả hai đều biểu thị: Hành giả đă chuẩn bị thành thục và đă đạt đến giai đoạn sẵn sàng ban phát, thi thiết, thực hiện tâm Từ Bi. V́ thế, trong tâm Bồ Tát tự nhiên sanh khởi niệm đầu cứu khổ tất cả chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ sanh tử. Ánh sáng bắt đầu được phóng ra từ thân thể thế giới. Ánh sáng này có thể quét sạch tất cả những trạng huống (t́nh trạng, vấn đề) hỗn loạn, sự thống khổ hư huyễn của thế gian được tạo thành bởi vô minh lầm lỗi nơi chúng ta. Hành giả tưởng tượng toàn thể ngoại cảnh (thế giới vật lư) đều được ánh sáng quang minh chiếu soi. Ngay lúc đó tất cả những việc chung quanh hành giả biến thành những phẩm vật vô cùng mỹ lệ và hết sức ư nghĩa. Nói cách khác, tất cả đều trở thành những trang sức phẩm trang nghiêm của cơi Tịnh Độ Cực Lạc (là chỗ ở của Phật A Di Đà và Quán Âm, và những bậc Bồ Tát thiện tri thức) thí như căn pḥng mà hành giả đang ngồi đang biến thành cung điện thủy tinh, một cảnh giới thích ứng cho bậc giác giả. Đồng thời, tất cả chúng sanh ở thế gian được chuyển hóa bởi luồng quang minh. Và dạng thức giác ngộ nhất của họ được trở thành một thành tựu viên măn, cứu cánh.

Thân họ biến thành giống như thân của Quán Âm. Bất cứ những ǵ họ nói đều biến thành Lục Tự Chơn Ngôn của Quán Âm. Và bất cứ những ǵ họ đang suy nghĩ cũng đều là sự hoạt dụng tự phát của Bồ Đề Tâm. Hiển nhiên, bản thân của hành giả cũng được chuyển hóa y hệt như vậy.

Một cách dễ hiểu hơn, tất cả những hiện tượng trong vũ trụ đều chuyển biến thành những h́nh thái mà lẽ ra chỉ có thể có được nơi cảnh giới của một bậc thánh giả. Ánh sáng (hào quang) của Bồ Tát đă tẩy sạch tận gốc vọng tâm của chúng ta và làm cho tất cả những đối lập tánh nhị nguyên của thế gian bị tiêu hủy một cách toàn diện. Tất cả những âm thinh, sắc tướng và tư tưởng đều biến thành vô phân biệt để cùng trở thành bất khả phân với Không Tánh.

Lúc tâm cảnh đă đạt đến một cảnh khiết tịnh như thế, hành giả liền đă có thể bắt đầu tuyên hô Thần Chú. Số biến của Chú tŕ tụng càng nhiều càng tốt, nhưng tối thiểu cũng cần phải có 100 biến. Trong khi tuyên hô tŕ tụng Thần Chú, đặc biệt hành giả cần phải giữ ǵn toàn thể sự quán tưởng như vừa diễn tả.

Lục Tự Chơn Ngôn Án Ma Ni Bát Di Hồng (OM MANI PADME HÙM) này được coi là chứa đựng sự tập trung của tất cả năng lực thiêng liêng phát từ ḷng Đại Bi và sự Đại Diệu Dụng của Quán Âm Bồ Tát. Nói theo nghĩa đen th́ chữ ÁN bao gồm 5 loại h́nh tượng và trí tuệ của Phật; MA NI có nghĩa là Bảo Châu; BÁT DI có nghĩa là Liên Hoa; hợp hai ư nghĩa này với nhau có nghĩa là Ngài là bậc Thủ Tŕ Liên Hoa và Bảo Châu, và đây cũng đích thị là biệt hiệu khác của Quán Âm. HỒNG: có công năng bảo hộ lục đạo chúng sanh. Như vậy, theo truyền thống, ư nghĩa của Luc̣ Tự Chơn Ngôn này là: “Hỡi bậc Đạo Sư của Ngũ Phật Thân và Ngũ Trí Như Lai, bậc Thủ Tŕ Liên Hoa và Bảo Châu, xin Ngài hoan hỷ gia hộ cho lục đạo chúng sanh vượt qua các thống khổ.”

(Xin chú ư, thường th́ chơn ngôn này được dịch là: vạn tuế Bảo Châu trong Liên Hoa: đây là một chuyển dịch sai lầm)

Cũng có người cho rằng Lục Tự Chân Ngôn tương đương với lục thú và tương ứng với lục sắc, lục dục, lục trí, lục Phật. Có nhiều sự giải thích khác nhau về Chú này nhưng không cần thiết để phải nghĩ đến tất cả ư nghĩa ấy trong lúc tŕ tụng. Sức mạnh đơn thuần cố hữu của chỉ nội âm thanh của Lục Tự này sẽ tự nhiên truyền đạt Trí Huệ và Từ Bi của Quán Thế Âm Bồ Tát cho hành giả, và từ đó, qua hành giả, nó truyền đạt đến tất cả chúng sanh.

(Chú thích: OM đọc giống như chữ OM trong chữ Việt, MANI đọc như MANI; c̣n chữ PADME có thể đọc là PADME hay đọc theo Tây Tạng là PÊ MÊ, c̣n chữ HUM th́ đọc lơ lớ giữa HUM và HUNG trong chữ Việt)

5 – GIAI ĐOẠN HOÀN THÀNH

Sau khi đă hoàn tất giai đoạn tuyên tŕ thần Chú, th́ toàn bộ quán tưởng đều đă tan biến để ḥa nhập vào Không Tánh. Như thế, hành giả đă được chỉ dạy cách thể hiện Chân Tánh khế hợp theo nguyên lư cao lớn nhất của Phật Đạo. Chính phần Thiền Quán này, kết quả của việc quán tưởng từ đầu đến đây, thực ra đă không khác ǵ với những sự tham thiền khác như sự tham thiền trong Thiền Tông hoặc Minh Kiến (Vipashyana).

Có thể giải thích rằng: V́ ḿnh hiện đang có được Trí Huệ Giác Ngộ của Quán Thế Âm Bồ Tát, nên ḿnh tế nhận được Không Tính của tất cả mọi sự trong vũ trụ, kể cả Không Tính của việc quán tưởng. Tâm thức, do đó, trở thành hoạt dụng tự nhiên trở lại với tự tính, tức linh túy của chính sự Giác Ngộ. Tất cả mọi kiến trúc nhị nguyên của Tâm Thức đă được siêu vượt qua hẳn. Bất kỳ là thọ giả, tác giả hay sở tác nghiệp sẽ đều bị đánh mất ư nghĩa. Không có một sự vật ǵ để nắm bắt đeo níu (chấp thủ), và ngay cả cảnh địa của sự khoái lạc cũng chẳng có ǵ để có thể tham trước đeo níu. Ngược lại, hành giả thoát giải buông bỏ theo tự tánh, và tự tánh đây là chân tánh nguyên uyên. Hành giả nên trụ lại trong cảnh giới tự giải thoát này càng lâu càng tốt bởi, nó vốn là phần tối trọng yếu trong pháp tu.

6 – TU XONG ĐỨNG DẬY (XUẤT ĐỊNH)

Lúc xuất định (ra khỏi cảnh Định) th́ ḿnh trực nhận rằng tất cả mọi sự đều thuộc về đạo trường mạn đà la của Quán Thế Âm Bồ Tát. Ḿnh nhận thấy rằng tất cả chúng sanh và tất cả h́nh tướng đều là tự thân của chính Quán Âm. Tất cả âm thanh đều được lănh hội như là Lục Tự Chơn Ngôn. Tất cả tư tưởng đều được tri nhận như là thành phần thuộc về Từ Bi và Trí Huệ của Quán Thế Âm. Xuất phát từ sự cảm ứng được sanh ra bởi kết quả tu chứng của sự quán tưởng, hành giả nh́n thấy thực tế một cách cao quư sâu thẳm và mới lạ. Ông ta nh́n tất cả sự vật bằng một cái nh́n thuần tịnh, sáng suốt và như thật.

Như thế, bằng mọi cách có thể, càng nhiều càng tốt, hành giả nên đem cảnh giới giác ngộ đă đạt được trong lúc quán tưởng ḥa nhập vào sự sinh hoạt hằng ngày. Điều này có nghĩa là hành giả cần phải tránh xa (phủ nhận) tư tưởng nhị nguyên và ḷng tham trước níu những đối tượng vật chất. Ngược lại, hành giả cần bồi dưỡng tâm Từ Bi đối với tất cả chúng sanh. Phải xem họ như bạn lành để ra tay giúp đỡ, tế độ. Đồng lúc, luôn luôn ghi nhớ rằng: tất cả mọi hiện tượng đều chỉ là hư huyễn.

7 – HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Bất cứ pháp môn nào trong Phật giáo, theo truyền thống, khi hoàn tất việc tu tập, nhất định phải bày tỏ lời hồi hướng này để biểu thị một điều rằntg: tất cả những côngt đức nào ḿnh gặt hái được trong lúc tu tập đều cần được mang ra cống hiến, chia xẻ cho tất cả chúng sanh. Hệt như khi bắt đầu tu tập, hành giả đă phải xác định một cách khẳng quyết rằng: hành giả tu tập Phật pháp không phải v́ mục địch nhằm tư lợi bản thân mà chính là v́ sự lợi lạc của tất cả chúng sanh. Hành giả thệ quyết sẽ nhất định thành Bồ Tát như Bồ Tát Quán Âm để cứu độ tất cả chúng sanh và làm cho mỗi một chúng sanh đều đạt được tâm thức giác ngộ.

Sau hết, cũng nên có những lời thích đáng về sự tu tập ḷng Từ Bi trong đời sống hằng ngày: Phần đông, những hành nhơn sớm muộn ǵ cũng phát giác và liễu ngộ được rằng: những phương pháp tối ư thông minh và vô cùng hữu hiệu để độ người đă không phải là những phương pháp dễ dàng. Mục đích của Bồ Tát Hạnh là vĩnh viễn giúp đỡ tất cả chúng sanh đều chứng thành chánh giác. Nhưng nếu có thể tri nhận phương pháp tốt nhất để đạt đến mục đích tối cao th́ nó đ̣i hỏi rất nhiều trí tuệ và phương tiện, và rất có nhiều lỗi lầm có thể dễ dàng vấp phải đối với những kẻ sơ học. Ví dụ: Đương nhiên, tuyệt đối không ai trong chúng ta lại muốn hợp lực với kẻ cướp để phạm tội. Một cách tổng quát: Tuyệt đối không thể v́ Từ Bi mà cổ súy, khích lệ người khác nỗ lực làm cái công việc lợi kỷ (lợi ḿnh) hoặc giúp đỡ họ tăng trưởng bản ngă và khiến họ kẹt vướng hơn nữa vào những sự biến động xung đột của t́nh cảm rối rắm.

V́ thế, người sơ học nên đặc biệt chú trọng đến thái độ nội tâm mà định thời tu tập. Và, đây là một điều hết sức trọng yếu: Hành giả không nên có quá nhiều tham vọng, hoài bảo lớn và cũng không thể lăng mạn tự cho ḿnh là một Cứu Thế Đại Giáo Chủ, làm Vô Thượng Sư cho tất cả mọi người. Dù ư nguyện trong nội tâm của hành giả thực ra là phát triển tự thân để thành đạt lư tưởng sâu thẳm cao cả này, nhưng trong thời gian đầu, thượng sách là chỉ nên thay đổi chút đỉnh cung cách lề lối xử sự bên ngoài. Một cách đơn giản, hành giả chỉ cần trở thành một người có ḷng ưu ái thân thiết hơn, thông thường hơn và đừng quên ḷng nhân từ của ḿnh đối với cả loài thú vật. Nên tránh hẳn sự giết hại (sát sinh) dù đó là một côn trùng nhỏ, hay một con gián. Như thế, dần dần hành giả có thể trở thành một người có thể làm chủ và chế ngự được những cảm xúc t́nh tự và những vấn đề (phức tạp khó khăn) của chính ḿnh. Ngă chấp dần dần sẽ giảm khinh và, đối với những nhu yếu, t́nh huống của người khác cũng sẽ được ḿnh tri nhận, thông cảm cách rơ ràng sáng suốt hơn.

***
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ

Powered by Web Wiz Forums version 7.7a
Copyright ©2001-2003 Web Wiz Guide

Trang này đă được tạo ra trong 3.3945 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO