Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 169 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Chọn Đường Tu Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 1 of 2: Đă gửi: 28 March 2006 lúc 8:30am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

CHỌN ĐƯỜNG TU
Ḥa Thượng THÍCH THIỆN HOA

Vào Lời
Từ lâu không biết bao nhiêu người, ở ngoài đời cũng như trong đạo, rất bở ngở về vấn đề tu hành. Như một kẻ bộ hành ngơ ngác, lạc lỏng giữa ngă ba đường, họ băn khoăn tự hỏi :
Tu hành sao đây?
Tu phương pháp ǵ?
Và phải hạ thủ công phu làm sao mới đúng?



Họ có cảm tưởng như đi lạc vào rừng rậm, t́m không được lối ra, mặc dù trong số ấy có nhiều người đă quy y lâu ngày hay đă ở chùa nhiều năm.



Ngược lại có người lại đơn giản hóa sự tu hành qua loa một vài việc cho có lệ, và cho như thế là tu rồi.



Có người chấp chặt ở một phương pháp tu hành này, rồi bài xích tất cả những phương pháp khác mà họ cho là quấy.



Thậm chí có người hiểu nghĩa chữ “Tu” một cách mơ hồ hay sai lạc, rồi dựa vào đó mà thực hành một cách mù quáng, sai đường, và đôi khi c̣n trở lại công kích những kẻ đi đúng đường là khác!



Đứng trước t́nh trạng buồn thảm ấy, ai lại chẳng đau ḷng! V́ thế chúng tôi bạo dạn soạn loạt bài này để cống hiến cho quư vị nào c̣n bở ngở trên bước đường tu hành, một “Bản đồ” chỉ đường tu về cơi Phật.



Trong loạt bài này sẽ tuần tự đề cập đến những điểm quan trọng sau đây:



1.- Thanh toán những điểm chật hẹp sai lầm, những sự bài kích lẫn nhau của các phái về chữ “Tu”.

2.- Giải thích và phân tích rành rẽ về nghĩa chữ “Tu”.

3.- Nhấn mạnh vào sự cần yếu của sự tu hành, đối với hết thảy mọi người, mọi giai tầng trong xă hội và chỉ rơ cách “Tu” của quảng đại quần chúng.

4.- Tŕnh bày vế lối tu thông thường, nhưng cần yếu của giới Phật tử xuất gia và tại gia từ xưa đến nay.

5.- Tŕnh bày về lối tu chuyên môn riêng biệt của các tôn phái Phật giáo (10 tôn). Các lối tu nầy nhắm mục đích đi sâu vào đạo, nên các tu sĩ xuất gia cần biết rơ.

6.- Tŕnh bày cách tu rộng lớn của Đại thừa Bồ tát trong mọi ư nghĩ, lời nói, cử chỉ và hành động.

7.- Cuối cùng, giải rơ về lối tu của Năm thừa, phân biệt so sánh lối tu của Đại thừa và Tiểu thừa để quy về Nhất thừa.



Chúng tôi trông mong, sau khi đọc xong loạt bài nầy, quư vị sẽ có một ư niệm rơ ràng về ư nghĩa của sự tu hành, một quan niệm tổng quát, chính xác về các lối tu và sẽ lựa chọn một đường lối tu hành thích hợp với hoàn cảnh, khả năng, hoài bảo của ḿnh, và sẽ vui vẻ tự bảo: “Từ đây về sau chắc chắc không c̣n sợ lạc đường nữa, v́ ta đă có trong tay một bản đồ chỉ rành rẻ đường tu về cơi Phật”.



*

*   *



Phần Mở Đầu



Thanh Toán Những Quan Điểm Sai Lầm và Chật Hẹp Về Chữ “TU”



           Chữ Tu có lẽ là một chữ đă có từ lâu lắm trong danh từ của người Trung hoa và Việt nam. Thế mà cho đến ngày nay c̣n không biết bao nhiêu người, cả trong giới Phật tử lẫn người ngoài c̣n quan niện chữ “Tu” một cách sai lầm, chật hẹp, mập mờ...



             Ít ai hiểu được một cách đúng đắn, toàn diện chữ “Tu”.   Người đứng khía cạnh nầy của chữ “Tu” công kích người đứng ở khía cạnh kia, người cho ḿnh tu như thế nầy là đúng, kẻ khác bảo như thế là sai. Người nầy chấp chặt quan niệm thế nầy là phải, kẻ nọ chấp chặt quan niệm trái ngược lại, cuối cùng không ai biết đâu là phải, đâu là trái, đâu là chánh, đâu là tà, đâu là hay, đâu là dở.

             

             Những quan niệm sai lầm hay chật hẹp của người đời về chữ “Tu” không thể kể xiết được. Dưới đây chúng tôi xin nêu lên một số quan niệm sai lầm hay chật hẹp nhất, cần đả phá mà thôi. Đại loại chúng ta thường nghe phát biểu những ư kiến sau đây:



             1.- Trong thời khoa học, văn minh và vật chất nầy mà tu cái ǵ?



             Người nói như thề là có ư nghĩ rằng, chỉ trong thời đại dă man, lạc hậu người ta mới tu, chứ không ngờ rằng càng văn minh, người ta càng tu và càng tu người ta càng tiến bộ.



             Cũng có thể những người phát biểu ư kiến như trên, nghĩ lầm rằng thời đại nầy là thời đại chỉ để dành cho vật chất, là thời đại độc quyền của vật chất chứ tinh thần không có chỗ đứng nữa. Nhưng xét cho đúng, th́ không có thời đại nào có thể gọi là văn minh mà không có chú trọng đến tinh thần. Vật chất càng phát triển mạnh, th́ tinh thần càng phải được đề cao, để giữ cán cân thăng bằng cho xă hội nhân loại, nếu không th́ sự sụp đổ không thể tránh khỏi được.



             2.- Già mới tu, chứ c̣n trẻ mà tu cái ǵ?



             Những người thốt ca câu nói nầy đă hiểu lầm chữ “Tu”. Họ xem nhà chùa như một nhà dưỡng lăo, chỉ dành riêng cho ông già, bà cả không c̣n đủ sức để vật lộn với đời, nhựa sống sắp héo khô, hay mùi đời đă nếm trải, chán chường rồi, không c̣n thấy có sinh thú nữa. Họ cho rằng tu hành là một cách an hưởng tuổi già trong khi chờ chết, chứ người trẻ ai lại đi tu. C̣n hạng thanh niên th́ phải tranh đấu với đời, để tận hưởng những lạc thú, chứ sao lại lo chuyện tu hành?



             Họ không ngờ rằng, người già hay trẻ ǵ cũng cần phải tu, và sự trẻ trung hăng hái cũng cần cho sự tu hành như cho bao nhiêu việc khác ở đời. Vă lại, chắc ǵ chúng ta c̣n có một tuổi già để tu hành hay tử thần đă tàn nhẫn đến gơ cửa ngay khi chúng ta c̣n ở tuổi hoa niên?



             3.-Những người tật nguyền, bệnh hoạn, côi cút, chứ c̣n khỏe khoắn lành mạnh, làm ăn được mà tu cái ǵ?



             Nói như thế là quan niệm rằng, nhà chùa cũng giống như một bệnh viện, một dưỡng đường, một nhà thương điên hay một nhà tế bần để cho những kẻ bị đời sa thải, vào chùa để nương nhờ tấm thân. Họ không ngờ rằng tu cũng rất cần cho những người khỏe mạnh, có năng lực, có tài ba lỗi lạc, chứ không riêng cho hạng người tật nguyền, yếu đuối, côi cút...



             4.- Tu là phải xuất gia như chư Tăng, Ni, chứ ở tại gia, vợ c̣n, con đủ mà tu cái ǵ?



             Những người nói như thế là v́ đă có quan niệm một cách sai lầm rằng, tu là nhiệm vụ của những người thoát trần, ĺa tục, dành riêng cho những hạng Tăng, Ni là những người chán đời, yếm thế.



             Họ không hiểu rằng: Tu không phải chỉ có một h́nh thức là bỏ nhà đi ở chùa, mà chính ở đâu cũng tu được, và cũng không phải chỉ dành riêng cho hạng Tăng, Ni mà tất cả mọi người đều cần phải tu.



             5.- Tu phải ở núi, ở am, ở cốc, chứ ở chùa cao, Phật lớn, ngay giữa thành thị, đâu có phải là chơn tu?



             Người nói như thế, v́ tưởng rằng tu là phải xa lánh đời, trốn đời, không c̣n liên lạc ǵ với xă hội nữa. Tu như thế là đứng về phương diện tiêu cực, chỉ lo riêng phần ḿnh. Chứ c̣n tu một cách tích cực, th́ phải nhập thế, độ sanh, hoằng truyền chánh pháp.



             6.- Tu là phải ép xác, ăn chay nằm đất, ăn ngọ, ngủ ngồi, ... mới là chơn tu?



             Nói như thế là hiểu chữ tu một cách phiến diện, h́nh thức, lấy những h́nh tướng không quan trọng hay sai lạc mà cho là chính yếu.



             Đức Phật đâu có dạy tu là phải ép xác? Chính Ngài là người đầu tiên bài xích lối tu nầy nhất.



             Ăn chay như phái Đại thừa là một h́nh thức tu đă đành, nhưng không ăn chay, như phái Tiểu thừa, đâu phải là không tu.



             Ăn ngọ th́ tốt, nhưng không ăn ngọ cũng không phải là không tu được. C̣n ngồi để tham thiền, niệm Phật th́ mới quư, chứ ngồi mà ngủ, thà là nằm ngủ c̣n khỏe hơn. Luật của Phật đâu có cấm nằm và bắt ngủ ngồi? Nếu ngủ ngồi mà thành Phật được, th́ hóa ra những kẻ ngủ gật đều thành Phật cả hay sao?



             7.- Có người nói: “Những người tuyệt cốc, chỉ ăn hoa quả, khoai, chuối mới là chơn tu?”



             Nếu cho người chỉ ăn hoa quả là chơn tu, th́ những người ăn cơm là không chơn tu hay sao? Thế th́ đức Phật khi c̣n tại thế, mỗi ngày đều mang b́nh bát đi khấc thực, làm sao thành Phật được? Và tất cả các đệ tử của Ngài, từ Tổ Ca Diếp trở xuống, có một vị nào cử cơm đâu?



             Vả lại xét cho cùng, ăn cơm hay ăn hoa quả cũng giống nhau cả, v́ lúa cũng là một giống quả, cũng là loài thảo mộc. Cử một thứ quả nầy mà ăn một thứ quả khác, th́ cũng chẳng khác ǵ nhau. Những người làm như h́nh thức trên, chẳng qua v́ thiếu học, không biết nên tu như thế nào, vả lại có tánh lập dị, muốn cho những kẻ hiếu kỳ chú ư, nên mới làm như vậy.



             8.- Có người nói: “Tu như ông đạo ớt, đạo sả, ... mới thật là chơn tu, v́ chỉ độ ớt, ăn muối tiêu, muối sả, ... chứ tu ǵ mà c̣n ăn đồ bổ?”



             Những người nói như thế, cũng như những người tu như thế, rơ ràng là không hiểu ǵ về chữ “Tu” hết. Nếu ăn ớt chẳng hạn là chơn tu, th́ những con chim sáo, chim nhồng chắc đă thành Phật cả rồi.



9.- Có người nói: “Tu sao c̣n đau, c̣n uống thuốc?”



             Nói như thế là hiểu lầm đạo Phật với đạo Tiên. Người tu theo đạo Tiên thường phô trương rằng họ có phép thuật trường sanh, dùng sức nội công, luyện thần khí làm cho thân không già, không bệnh. Những điều ấy chúng ta nghe cho biết vậy, chứ chưa có thể chứng thực, cũng như chúng ta cũng chưa từng trông thấy tận mắt.

             

             Nhưng theo giáo lư Phật th́ thân nầy là giả tạm, vô thường chỉ tạm dùng trong một thời gian để tu hành, cũng như chiếc thuyền tạm dùng để đưa người sang sông, rốt cuộc rồi cũng phải hư hoại. Mọi sinh vật trên đời đều tuân theo luật vô thường : Sanh, già, bệnh, chết. Chính xác thân của đức Phật cũng không vượt ra ngoài bốn trạng thái ấy, huống chi là những người thường như chúng ta ?



             10.- Những người đi khất thực, đầu không đội nón, che dù, chân không đi giày dép, không ngồi ghế, chẳng nằm ván, ... mới thật là chơn tu.



             Về việc tu hành, Phật chế có Tám vạn bốn ngàn (84,000) pháp môn, mà khất thực chỉ là một trong vạn hạnh. Nếu chỉ cho hành khất là chơn tu, th́ c̣n vô số pháp môn khác không phải là chơn tu hay sao ?



             C̣n che dù, đội nón, mang giày, guốc, ngồi ghế nằm ván, Phật đâu có ngăn cấm? Trong Mười (10) giới Sa di Hai trăm năm mươi (250) giới Tỳ kheo, Năm mươi tám (58) giới Bồ tát, không có một giới nào Phật cấm che dù, đội nón, mang guốc, ngồi ghế và nằm ván cả. Chỉ trừ khi vào Phật điện hay nghe pháp.



             11.- Ngoài ra c̣n có một số người hẹp ḥi, chấp chặt pháp của ḿnh tu là đúng, c̣n bao nhiêu pháp môn của người khác là sai.



             Người tu pháp môn tịnh độ, cho chỉ có ḿnh là theo đúng chánh pháp và tu như thế mới thành Phật được, ngoài ra những người tu theo bao nhiêu pháp môn khác hay làm các Phật sự khác đều cho là lạc đường, là không phải tu.



             Người tŕ giới cho rằng tŕ giới mới là tu, c̣n các pháp môn khác đều không có hiệu quả.



             Người tu thiền chỉ cho có tu thiền mới chứng được Phật quả, c̣n bao nhiêu pháp môn khác đều vô bổ, chẳng đưa đến đâu cả.



             Người tu theo hạnh Bồ tát làm việc lợi tha, từ thiện xă hội, v..v... cho như thế mới là tu, và bài xích các lối tu khác.



             Các quan niệm, thái độ trên đều là hiểu phiến diện hẹp ḥi, v́ chưa biết rốt ráo toàn diện chữ “TU”. T́nh trạng nầy, trong Nhiếp Đại Thừa luận có thí dụ, như người mù rờ voi, rờ được phần nào th́ cho phần ấy là con voi. Nếu tu chỉ có một pháp môn như họ chấp, th́ đức Phật nói Tam tạng kinh điển, Ngũ thừa Phật giáo và Tám mươi bốn ngàn (84,000) pháp môn để làm ǵ?



             12.- Cuối cùng, có người cho rằng tu sẽ làm cho con người nhu nhược, dễ bị người lấn áp, bóc lột, nếu tất cả dân chúng trong nước đều tu, th́ nước sẽ mất.



             Nói như thế th́ quan niệm người tu hành chẳng khác ǵ một cục đất, mặc t́nh cho ai muốn lăn đi đâu th́ lăn, bóp méo vo tṛn như thế nào cũng được. Thật ra, tu đâu có phải là khiếp nhược, đầu hàng, yếu đuối, mà trái lại là hùng lực, là dơng mănh, là tinh tấn, không sợ đau, không sợ chết, không sợ hy sinh. Đức Phật Thích Ca đă dám ruồng bỏ tất cả để theo chí nguyện của ḿnh, xuất gia t́m đạo, trải bao gian khổ, vượt bao trở ngại, đâu có nhu nhược, có ai bị lất át được đâu.? Đời Lư, đời Trần, mà toàn dân đều theo Phật giáo, có phải là những thời đại yếu hèn đâu? Nước Nhật bản ngày nay mà phần lớn dân chúng là Phật tử lại là một nước đứng trong hàng ngủ những nước hùng cường nhất thế giới.



             Tóm lại, tất cả các quan niệm sai lầm hay chật hẹp nói trên, đều do ở chỗ chưa rơ biết một cách đầy đủ, chính xác toàn diện chữ “Tu”.



             Để quư độc giả có một ư niệm đúng đắn, toàn diện, rơ ràng về vấn đề nầy, chúng tôi xin lần lượt tŕnh bày ở những phần sau, tất cả những ngành ngọn, từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu, từ thấp đến cao, trong đường lối tu hành mà chúng tôi đặt dưới một đầu đề chung là “Bản Đồ Tu Phật”.



             Với bản đồ nầy, quư vị sẽ nh́n thấy một cách tổng quát, toàn diện những đường lối tu hành đi đến cơi Phật, và nếu muốn, quư vị sẽ lựa chọn một lối đi thích hợp với ḿnh, nên loạt bài nầy c̣n có tên thứ hai là “Chọn Đường Tu”. Hay nếu quư vị đă dấn bước trên một đường lối nào rồi, th́ với bản đồ chỉ dẫn nầy, quy vị cũng có thể định hướng được vị trí ḿnh đang đi, và c̣n bao xa nữa th́ đến đỉnh. Cuối cùng, cũng với bản đồ nầy, quư vị có thể biết rơ ai là kẻ lạc lối, ai là kể đồng hành với ḿnh, và ai là kẻ mặc dù không cùng đi với một đường, nhưng cuối cùng cũng sẽ đến đích như ḿnh, v́ đường lối tu hành đến quả Phật không phải chỉ có một mà rất nhiều, chỉ khác nhau ở chỗ rộng hẹp, gần xa, cao thấp, mau chậm, dễ khó mà thôi.





*

*   *



Phần Chính



Chương I



Giải Thích Nghĩa Chữ “TU”





                          

           “TU” là một tiếng nguồn gốc chữ Hán, dịch nghĩa thông thường là “Sửa”. “Tu” có ba phương diện : tu tâm, tu thân và tu bổ. Nghĩa là sửa tâm cho tốt, sửa thân cho đẹp và sửa nhà cửa ruộng vườn v..v... cho được thạnh lợi.



             Nghĩa chữ “Tu” rất rộng, có thể áp dụng cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần, cá nhân lẫn đoàn thể, thông thường lẫn chuyên môn. Đă nói là “Sửa” th́ bất luận những cái ǵ xấu xa hư dở đều phải sửa. Mà ở đời có cái ǵ là hoàn toàn, không hư không dở? Nhất là đối với bản thân, mỗi chúng ta có biết bao nhiêu điều xấu xa hèn dở, cần phải sử:



             * Sửa cái dở thành hay: Như bỏ cớ bạc, rượu trà, đàng điếm, phóng túng, trở lại lo cho gia đ́nh, xă hội là tu.



             Sửa cái xấu trở lại cái tốt: Như bỏ sát nhơn hại vật, trộm cướp (xéo xác, cân non, cân thiếu, lấy thừa, ...) dâm loạn, nói dối (nói lời hung dữ, hổn ẩu, nói cộc cằn thô tục, nói thêm bớt, nói đâm thọc, thèo lẻo, dua nịnh, ...) trở lại nhơn từ, lễ nghĩa, ngay thẳng, chân thật, bố thí, giúp người, là tu.



             * Sửa tà theo chánh: Như bỏ mê tín, dị đoan, xin xăm, bói quẻ, đốt giấy tiền vàng mả, lên đồng, lên cốt, trở về chánh đạo là tu.



             * Sửa quấy trở lại phải: Như bỏ ngổ nghịch với bề trên, bất hiếu với cha mẹ, dâm nộ, hung ác, v..v... trở lại thuận ḥa, hiếu đạo v..v... là tu.



             * Sửa vọng thành chơn: Như bỏ tánh xảo quyệt, dối gạt, lường gạt trở lại chơn thật, trung chính là tu.



             * Sửa vọng thức thành Bốn trí: Như nhận thấy được v́ Tám món vọng thức mà chúng sanh phải trầm luân mê muội, và chư Phật được tự tại giải thoát là do chuyển Tám thức thành Bốn trí. Nay chúng ta cũng noi theo đức Phật, làm thế nào để chuyển vọng thức thành trí tuệ: sửa thức thứ Tám trở lại Đại viên cảnh trí, sửa thức thứ Bảy trở lại B́nh đẳng tánh trí, sửa thức thứ Sáu thành Diệu quán sát trí và sửa Tiền Ngũ thức (tức Năm thức : Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt và Thân) trở lại Thành sở tác trí, như thế là tu.



             * Sửa phiền năo thành Bồ đề: Như bỏ tham lam, sân hận, si mê, tật đố, thất t́nh, lục dục trở lại thành bồ đề thanh tịnh, là tu.



             * Sửa sanh tử trở lại Niết bàn: Như ngược ḍng sông mê sanh tử luân hồi về nguồn niết bàn tịch tịnh, là tu.



             * Sửa triền phược trở lại thành giải thoát tự tại: Như bỏ thể thắng tử phược, cảnh hồng trần hệ lụy, bước lên đường giải thoát, tự tại như Thái tử Tất Đạt Đa, là tu.



             * Sửa phàm thành Thánh: Như bỏ tư tưởng, hành vi và tánh t́nh ô nhiễm của phàm phu, trở lại trong sạch như thánh hiền, là tu.



             * Sửa chúng sanh thành Phật: Như chuyển cái tánh vô thường, chấp ngă, bất tịnh, phiền năo thành ra bốn đức Niết bàn: Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, là tu.



             Tóm lại, tu là sửa cái hư vọng dối trá trở lại “Chơn”, sửa những cái xấu xa tồi tệ mục nát trở lại “Mỹ”, sửa cái tội ác tàn bạo trở thành “Thiện”. Tu không có cầu kỳ và rất thực tế như vậy, th́ ở thời đại nào, xứ sở nào, hạng người nào lại chẳng nên tu?



*

*   *



Chương II



Con Đường Tu Thông Thường Của Quảng Đại Quần Chúng



          

           Người đời, dù sống trong hoàn cảnh nào, ai cũng ước ao đạt được Chân, Thiện, Mỹ. Do ḷng ước ao đó mà chữ “Tu” đối với mọi người rất cần thiết. Chưa nói đến những hạng người đi theo một tôn giáo nầy hay một tôn giáo khác mới gọi là tu, những người thường không theo tôn giáo nào cũng có cách tu của họ.



             1.- Trong phạm vi các nhơn cá nhân, đối với họ, TU cả ba phương diện: Đức, Trí và Thể.



             Đức: Họ chú trọng sửa chữa những tật xấu của tâm tánh như: tham lam, sân hận, khinh mạn, cống cao, nghi ngờ, dối trá, nịnh bợ, bỏn sẻn, khó khăn, lười biếng, buông lung, nhỏ mọn, tiểu nhơn, v.. v... (Xin đón đọc quyển Tu Tâm, Dưỡng Tánh). Họ cố bài trừ những tánh xấu ấy và thay thế vào những đức tánh cao đẹp như: từ bi, hỷ xả, nhu ḥa, nhẫn nhục, tin tưởng, ngay thật, vị tha, cần mẫn, hăng hái, quảng đại, quân tử, v.. v...



             Họ cố kềm hăm, ngăn chận những hành vi tội lỗi như sát nhân, hại vật, trộm cướp, tà dâm và thay thế vào bằng những hành vi đẹp đẽ như cứu người, độ vật, bố thí, trung trinh v..v... Như thế là tu về Đức.



             Trí: Về phương diện trí dục, họ cố gắng trau giồi trí tuệ, mở mang kiến thức, phá tan thành kiến hẹp ḥi, thêm nhiều sáng kiến để có thể phán đoán các việc hay dở, lợi hại, v..v... vượt qua mọi trở ngại khó khăn, cùng bí, như thế là tu về Trí.



             Thể: Về phương diện thân thể, họ cố gắng luyện tập cho thân thể được khỏe mạnh, nở nang, dẻo dai, để có thể chịu đựng bền bỉ trước những sự tấn công của bệnh tật, lao nhọc, những cuộc vật lộn với đời để mưu sống, như thế là tu về Thể.



             Không những mỗi người chỉ cần lo tu dưỡng thân tâm, mà c̣n tu bổ những vật sở hữu của ḿnh nữa. Họ sửa sang nhà cửa hư dột, may vá lại quần áo rách nát, (tu bổ) vun xới lại ruộng vườn hoang phế (sửa), tu bổ lại đường sá cầu cống hư sập v..v... như thế đều gọi là Tu cả.



             Tóm lại, mỗi cá nhân, bất luận lớn bé, già trẻ, trai gái, giàu nghèo, sang hèn, đều phải lấy việc tu luyện thân tâm (tu tâm, tu thân), sủa sang (tu bổ) những vật sở hữu làm trọng. Nếu xem thường vấn đề nầy, th́ cuộc đời của những kẻ ấy chẳng bao lâu sẽ trở thành mục nát xấu xa và sẽ bị đào thải một cách mau lẹ ra khỏi cuộc sống.



             2.- Trong phạm vi đoàn thể: Nếu muốn tồn tại và tiến triển, vấn đề tu luyện cũng phải được xem là vấn đề chánh yếu.



             Một gia đ́nh có tu th́ được ḥa thuận, yên vui hạnh phúc. Trái lại, một gia đ́nh thiếu tu, th́ cha mẹ thường xung đột, con cái bất ḥa, anh em ly cách, chồng vợ chia ĺa, nghĩa là gia đ́nh sẽ trở thành địa ngục trần gian.



             Một xă hội có tu, th́ dân chúng được an cư lạc nghiệp, nhà không cần đóng cửa, của rớt ngoài đường không mất, phong tục được thuần lương, nước nhà được thạnh trị. Trái lại, một xă hội không tu th́ trộm cướp hoành hành, mạnh hiếp yếu, giàu bóc lột nghèo, nước nhà loạn lạc.



             Một thế giới có tu, th́ ḥa b́nh được thực hiện, thế giới được đại đồng, trần gian sẽ trở thành cực lạc. Trái lại, thế giới không tu th́ giặc giả hoành hành, thế giới bất b́nh đẳng và trần gian sẽ trở thành địa ngục.



             Vấn đề Tu quan trọng như thế, cho nên không thể tu, mặc dầu ḿnh không theo một tôn giáo nào cả. Đă sống là phải tu, hoặc tu cách nầy, hoặc tu cách khác. Không tu th́ không thể sống được, không tu th́ xem cuộc sống như đồ bỏ, và cuộc sống sẽ trở thành đồ bỏ thật sự, v́ có ai săn sóc tới nữa đâu?



             Để tóm tắt đoạn nầy, chúng ta hăy nhớ lại câu nói của Thánh nhơn sau đây :



             “Tâm có tu thân mới tốt, thân có tu th́ gia đ́nh mới được chỉnh đốn, gia đ́nh có tu quốc gia mới thạnh trị, quốc gia có tu th́ thế giới mới ḥa b́nh an lạc”.



             (Tâm chánh nhi hậu thân tu, thân tu nhi hậu gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hậu thiên hạ b́nh).



             Vậy muốn thế giới ḥa b́nh an lạc th́ bắt đầu từ mỗi cá nhơn của chúng ta cần nghĩ và thực hành ngay việc tu dưỡng thân tâm.



             Xem qua đoạn nầy, quư vị hăy nhận xét kỹ về lối tu nầy có thực tế và cần thiết cho chúng ta không?



             



*

*   *



Chương III



Con Đường Tu Thông Thường Của Phật Tử

        (Hay là tu về phước Hữu lậu và Vô lậu)



             Đoạn trước đă nói đến sự cần thiết của sự tu đối với người thế gian. Đến đây xin nói đến sự tu của người Phật tử. Pháp môn của Phật nhiều không thể xiết, th́ sự tu hành của người Phật tử cũng nhiều không kể xiết. Chúng tôi sẽ tuần tự nói đến các lối tu, từ thấp đến cao của người Phật tử. Trong bài nầy xin nói trước đến con đường tu thông thường mà bất luận ở tầng bậc nào, khi đă tự xưng là Phật tử, đều không thể bỏ qua được. Con đường tu nầy là một con đường tu phổ thông cho cả Phật tử tại gia lẫn xuất gia, Tiểu thừa lẫn Đại thừa, sơ cơ lẫn thuần thục.



             Nó gồm các sự tướng chính yếu sau đây:



             Quy y, thọ giới, thờ Phật, lạy Phật, cúng Phật, ăn chay, niệm Phật, tụng kinh, tŕ chú, sám hối, làm chùa, tạo dựng, đúc chuông, bắt cầu, làm đường, bố thí, v..v... làm các việc nầy đều gọi là tu cả.



             Vẫn biết đă là Phật tử th́ phải thực hành các điều nói trên, nhưng không phải người nào cũng thực hành với một tâm lư, một ư nghĩa, hay một mục đích giống nhau, mà trái lại với nhiều tầng bậc, rộng hẹp, cao thấp khác nhau. Dưới đây chúng tôi sẽ tùy theo tŕnh độ hiểu biết và tâm lư của hành giả mà chia ra hai hạng Phật tử khác nhau, trong khi thực hành lối tu thông thường nầy.



1.- Quy Y Là Một Phương Pháp Tu:

(Bỏ Mê theo Ngộ hay bỏ Tà về Chánh)

             

             a.- Có người quy y với tâm lư bán cho thánh thần, để tánh mạng được pḥ hộ, bảo đảm, hay để cầu được mạnh khỏe ăn chơi. Có người quy y v́ sự truyền thống của ông bà đă mấy đời theo đạo Phật, hoặc v́ sự quyến rủ của bạn bè, hay sợ v́ mất cảm t́nh với người thân. Có người quy y v́ tuân theo một phong trào, hoặc một thị hiếu nhất thời, hay v́ thời cuộc hoàn cảnh bắt buộc, thấy chung quanh ḿnh ai cũng quy y th́ ḿnh cũng quy y cho luôn.



             Những người quy y như trên, v́ do một tâm lư tầm thường, nên chỉ được hưởng phước báo ở cơi nhơn thiên, thuộc về phước hữu lậu thế gian, chỉ hưởng có hạn định trong một thời gian mà thôi.



             b.- Hạng ngựi thứ hai nầy, v́ hiểu đạo lư phát tâm mộ đạo cầu giải thoát mà quy y. Họ không cần mạnh giỏi, không v́ tập tục của gia đ́nh, không v́ cảm t́nh, không v́ để làm vui ḷng người thân, không v́ thời thế, hoàn cảnh, không v́ thị hiếu mà quy y. Họ chỉ có một mục đích là trở về với Phật tánh sáng suốt, với Pháp tánh từ bi, b́nh đẳng, với tự tánh Tăng thanh tịnh ḥa hiệp của ḿnh.



             Hạng người quy y nầy, v́ tâm trong sạch với mục đích cao thượng, nên hưởng phước vô lậu xuất thế gian, không có cùng tận.



             2.- Thọ Giới Là Một Phương Pháp Tu:

                (Ngăn ngừa các tội lỗi)...



             a.- Có người thọ giới v́ bắt buộc, không thể tránh được, có người thọ giới v́ tự ái hay kiêu hảnh, tự bảo người kia thọ giới được, th́ ta lại thua họ, không thọ giới được hay sao? Có người thọ giới với tâm lư v́ danh lợi, v́ địa vị v.. v... thọ mà không giữ giới.



             Thọ giới trong những trường hợp, hay với những tâm nhiễm ô như trên, chưa phải là một cách thọ giới đúng đắn. Nếu v́ hoàn cảnh bắt buộc mà thọ giới, th́ sự thọ giới ấy chỉ gây thêm khổ sở cho người thọ giới mà thôi. Nếu v́ tự ái, ngă mạn hay khinh thường mà thọ giới, th́ sự giữ giới khó có thể lâu bền được.



             V́ những lư do đó mà những hạng người thọ giới nói trên chỉ hưởng được phước báu nhỏ nhoi, hạn cuộc phước hữu lậu thế gian mà thôi.



             b.- Hạng người sau nầy v́ mục đích tránh tội lỗi, cầu giải thoát mà thọ giới. Với hạng người nầy sự giữ giới là một bổn phận, là một sự cần thiết. Họ hiểu rằng người có giữ giới th́ mới tránh được tội lỗi, khỏi bị pháp luật trừng phạt trên hiện tại, khỏi bị quả báo xấu xa trong tương lai.



             Giới chẳng qua là những điều răn dạy, ngăn ngừa các tội lỗi, là những kỹ luật, mà một cá nhơn hay một đoàn thể, nếu muốn yên ổn, tiến bộ, đều phải tuân theo, cá nhơn có giữ giới th́ cá nhơn được tự tại giải thoát, gia đ́nh có giữ giới th́ gia đ́nh mới có hạnh phúc, quốc dân có giữ giới th́ quốc dân mới thạnh trị, nhơn loại có giữ giới th́ thế giới mới ḥa b́nh an lạc.



             Người Phật tử thọ giới và giữ giới với tâm niệm trong sạch, chơn chánh và cao thượng như thế, th́ sẽ hưởng được phước vô lậu xuất thế gian, không có cùng tận.



             3.- Thờ Phật Là Một Phương Pháp Tu:

             (Phật giả ngự trị tại nhà để nhớ, Phật thiệt thường ngự trị tại Tâm. Phật tử ra vào trông thấy, để tập theo đức tánh của Phật)



             a.- Có người thờ Phật với tâm lư như thờ một vị thần linh để cầu ban ơn, giáng phước. Thấy nhà kia thờ ông Hộ mạng, nhà nọ thờ bà Mẹ sanh để cầu cho trong gia đ́nh được mạnh giỏi b́nh an, lại thấy nhà khác thờ ông Thổ thần để giữ ǵn đất đai, pḥ hộ cho được mua may bán đắc, th́ ḿnh cũng thờ Phật để được Phật gia hộ cho mua may bán đắc, đất đai được yên ổn, con cái được ăn chơi. Hoặc có người v́ thời cuộc, v́ hoàn cảnh bắt buộc hoặc v́ tự ái, thấy nhà bên cạnh thờ Phật th́ ḿnh lại chịu thua hay sao? Thế là họ thỉnh Phật về thờ, nhưng chỉ được vài tháng đầu, rồi về sau không ngó ngàn ǵ đến nữa.



             Thờ Phật với tâm lư và mục đích tầm thường như thế, th́ hưởng phước báo cũng tầm thường mà thôi, nghĩa là chỉ được hưởng phước báo hữu lậu của cơi người như mạnh giỏi, yên ổn tạm thời chứ không được phước vĩnh viễn.



             b.- Có người thờ Phật v́ cảm phục đức cao dày, quư trọng trí tuệ sáng chói muôn đời của đấng Giác ngộ mà thờ, chứ không phải v́ mục đích danh lợi. Họ hiểu rằng thờ Phật là thờ chân lư cao siêu, thờ cái gương cao quư sáng chói của những đức tính tốt đẹp như từ bi, b́nh đẳng, trí tuệ, thanh tịnh, tinh tấn, để hàng ngày cố gắng tập luyện noi theo cho được như thế.



             Người thờ Phật với quan niệm trong sạch đúng đắn, với mục đích cao thượng như thế, sẽ được phước báo vô lậu, không bao giờ hết.



             4.- Lạy Phật Là Một Phương Pháp Tu:

             (Diệt trừ ngă mạn, cống cao và tỏ ḷng tri ân đức Phật)



             a.- Có người lạy Phật với tâm lư cầu cạnh, ban ơn giáng phước cho gia đ́nh được b́nh an, khỏe mạnh, buôn may, bán đắc, một vốn mười lời. Có người lạy Phật để được Phật kết tóc xe tơ cho ḿnh, có người lạy Phật để cầu mong Phật gia hộ cho mau thăng quan tiến chức, v..v...



             Lạy Phật với những tâm niệm nhiễm ô như thế, nếu có được toại nguyện, th́ sự toại nguyện ấy cũng chỉ là được hưởng nhất thời mà thôi, chứ không thể được hưởng phước lâu dài.



             b.- Người lạy Phật với quan niệm trong sạch chơn chánh, th́ xem như đó là một phương pháp của ḿnh, biết phục thiện, nép ḿnh dưới đức độ cao dày của đấng Giác ngộ, chứ không ngă mạn, cống cao, lạy Phật lại là để tỏ ḷng tri ân sâu xa của ḿnh đối với đấng cha lành đă cứu độ cho không biết bao sinh linh ra khỏi cảnh trầm luân khổ hải. Người đă hiểu biết ư nghĩa lạy Phật, th́ không bao giờ bạ đâu lạy đó, không lạy b́nh vôi, ông táo, không lạy ma quỷ, không lạy những kẻ cường bạo, vô luân.



             Người lạy Phật với tâm niệm thanh tịnh cao cả v́ mục đích sửa ḿnh, chứ không vụ lợi thiển cận, không v́ phiền năo ô nhiễm thúc đẩy như trên, sẽ được hưởng phước báo xuất thế gian vô lậu.



             5.- Cúng Phật Là Một Phương Pháp Tu:

                         (Tu phước )

             

             a.- Có người cúng Phật như đi lễ một ông quan (cầu lợi) với tâm lư lo lót, hối lộ hay mua chuộc tội lỗi và cứ tưởng rằng hễ lễ vật của ḿnh càng to bao nhiêu th́ Phật lại vui ḷng bấy nhiêu.



             Có người cúng Phật với tâm lư khoe khoang (cầu danh) để mọi người chung quanh đều biết ḿnh giàu có, rộng răi, chứ không có một chút thành tâm nào cả. Câu chuyện đứa bé đem đất sét cúng Phật mà được Phật độ, cũng đủ chứng tỏ sự cúng bái chú trọng ở ḷng thành kính, chứ không phải ở vật thực. Người cúng Phật với tâm niệm nhiễm ô như trên, tất nhiên chỉ hưởng được phước báo giàu sang thuộc về hữu lậu ở trần gian mà thôi, chứ không được phước vô lậu thanh tịnh.



             b.- Người cúng Phật với tâm niệm trong sạch chơn chánh, không phải mục đích để lo lót cầu đảo (v́ lợi), cũng không cần ai biết đến lễ vật của ḿnh dâng cúng (v́ danh). Họ cúng Phật cốt ở ḷng thành kính tri ân. Câu chuyện một bà lăo chỉ cúng Phật một dĩa dầu mọn, mà thắp suốt đêm không hết, hay người ăn xin cúng gói muối, bà Hoàng hậu cúng ba xe vàng, v..v... cũng đủ chứng tỏ rằng, với ḷng thành kính th́ dù là vật hèn hạ nào cũng trở thành quư báu cả.



             Người cúng Phật với một tấm ḷng trong sạch thành kính như thế, sẽ được phước báo xuất thế gian vô lậu thanh tịnh.



             6.- Ăn Chay Là Một Phương Pháp Tu:

             (Trừ tâm sát hại, nuôi lớn ḷng từ bi)



             a.- Có người ăn chay để đổi bữa cho ngon miệng, có người ăn chay để cho được mạnh khỏe hay v́ bệnh hoạn, thầy thuốc cấm ăn mặn, có người ăn chay để cầu tài, cầu lộc, cầu danh vọng, địa vị hoặc trả lời nguyện, v..v... có người ăn chay v́ tự ái, không muốn thua sút người khác đang ăn chay v..v...



             Sự ăn chay v́ những lư do trên, tuy vẫn có lợi ích, nhưng chưa phải là ăn chay theo quan niệm chính đáng, cao thượng, nên chỉ được phước báo hữu lậu ở cơi trần gian nầy mà thôi.



             b.- Có người ăn chay v́ ḷng từ bi, không muốn sát hại sinh vật, không muốn sinh vật đau khổ v́ sự sát hại của ḿnh. Sự ăn chay v́ lư do nầy, rất lợi ích cho sự tu hành, v́ nó làm tăng trưởng ḷng nhân từ, làm hiện rơ đức tánh b́nh đẳng giữa muôn loài, và phù hợp với bản tâm thanh tịnh. Chỉ có lối ăn chay nầy mới có ư nghĩa và bền lâu. Chứ nếu v́ sức khỏe, v́ trả lời ước nguyện hay v́ khoe khoang, tự ái mà ăn chay, th́ khó có thể giữ được lâu bền, một khi sức khỏe đă b́nh phục, lời nguyện đă xong, hay tánh khoe khoang, tự ái được thỏa măn.



             Người ăn chay với quan niệm cao cả trong sạch v́ ḷng từ bi b́nh đẳng, sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, không bao giờ hết



             7.- Niệm Phật Là Một Phương Pháp Tu:

             (Trừ tâm tán loạn, trở lại được thanh tịnh)



             a.- Có người niệm Phật với tâm lư ích kỷ tiêu cực, hẹp ḥi, chỉ cầu cho được lợi ích riêng ḿnh, v́ thế phước báo cũng ít ỏi, nhỏ nhoi, hữu hạn thuộc về hữu lậu.



             b.- Người niệm Phật đúng cách, bao giờ cũng hiểu rằng niệm Phật như thế là để ghi nhớ những đức tướng của Phật, chư Bồ tát, là để xóa lấp dần những ư nghĩ nhớ tưởng thấp thỏi, xấu xa của chúng sanh và thay thế vào đó những tư tưởng, đức tánh cao đẹp của chư Phật.



             Người hiểu cao hơn một bậc nữa, th́ niệm Phật là để nhắc nhở cho ḿnh nhớ lại tánh Phật (khả năng thành Phật) sáng suốt ngự trị sẵn trong mỗi chúng ta, như một viên ngọc quư, và cần phải trau chuốt, mài giũa hằng ngày cho nó sáng chói ra.



             Người niệm Phật với quan niệm cao thượng tốt đẹp như thế là hợp với bản tâm thanh tịnh của ḿnh nên được phước vô lậu thanh tịnh, không bao giờ dứt tuyệt.





             8.- Tụng Kinh Là Một Phương Pháp Tu:

             (Tụng kinh là để cho ba nghiệm được thanh tịnh)



             a.- Có người tụng kinh để cầu phước, cầu an, cầu tài, cầu lộc, cầu danh. Có người tụng kinh mà không để ư ḿnh đang tụng ǵ, cứ nghêu ngao cho hết giờ, hết buổi, miệng đọc, tay quạt, mắt láo liêng hết chỗ nầy đến chỗ nọ, thiếu hẳn ḷng thành kính. Tụng kinh theo lối như thế chỉ hưởng được phước hữu lậu thế gian ở cơi trần nầy mà thôi, nhưng cũng không được lâu dài.



             b.- Người tụng kinh đúng đắn, trước tiên phải có ḷng thành kính, chú tâm vào những câu kinh mà ḿnh đang tụng. Họ tụng để nhớ những lời Phật dạy và để cho những người chung quanh cùng nghe lời Phật dạy, cho nên họ cố gắng tụng một cách rơ ràng, nghiêm chỉnh, đúng đắn, không lầm lẫn. Họ tụng để cầu thanh tịnh ba nghiệp (thân, khẩu, ư) để thâu nhiếp vọng tâm, sanh định và phát huệ.



             Người tụng kinh với tâm thanh tịnh như thế, sẽ được phước vô lậu xuất thế gian, hưởng hoài không hết.



             9.- Tŕ Chú Là Một Phương Pháp Tu:

             (Để tiêu nghiệp chướng và làm cho thân tâm đưọc thanh tịnh)



             a.- Có người xem tŕ chú như là một phép thuật thần bí, chỉ cốt để trừ tà, trị bệnh, cầu tiêu tai giải ách. Với những quan niệm tŕ chú như thế, người tu hành sẽ được lợi lạc ở trần gian trong phước báo hữu lậu.



             b.- Người tŕ chú đứng đắn, nhận thức rằng đây là một phương tiện tu để đoạn hoặc chứng chơn. Nhờ tŕ chú mà tâm được định, nhơn định mà phát huệ, nhờ huệ mà phá trừ hết vô minh, phiền năo.



             Người tŕ chú với quan niệm trong trắng như thế, xứng với bản thân thanh tịnh của ḿnh, không xen lộn vào một chút ǵ phiền năo ô nhiễm, nên được phước báo vô lậu thanh tịnh, hưởng măi không cùng.



             10.- Sám Hối Là Một Phương Pháp Tu:

             (Ăn năn các lỗi lầm đă qua và ngăn ngùa tội lỗi sắp đến)



             a.- Có người sám hối với tâm niệm cầu xin tha thứ tội lỗi của ḿnh với Phật như với một quan ṭa. Và khi sám hối xong, họ có cảm tưởng được tha tội, vui vẻ trở về với nếp sống cũ, và rồi lại tiếp tục gây tạo ra tội lội như trước!



             Có người sám hối để trả lễ. Có người sám hối v́ thói quen, theo lệ, chứ chẳng có thành tâm thiện chí hối cải ǵ hết.



             Sám hối như thế được phước báo hữu lậu, lợi ích rất ít cho việc tu hành của chính ḿnh.



             b.- Người sám hối đúng ư nghĩa, trước tiên phải rất thành thật với chính ḿnh. Họ trịnh trọng đến trước Phật để xin Phật chứng minh cho sự ăn năn, hối cải của ḿnh, cho lời thệ nguyện quyết tâm bỏ lỗi trước và không tái phạm về sau, chứ họ không đến trước Phật v́ ḷng mong ước được Phật ân xá hay giảm tội, v́ đức Phật không phải là một vị thần linh có nhiệm vụ cầm cân nẩy mực cho những tội phước ở đời. Theo thuyết nhơn quả th́ không có người thưởng phạt, mà trong mỗi nguyên nhơn đă ngầm chứa một mầm thưởng phạt, nguyên nhơn lành th́ kết quả lành, nguyên nhơn dữ th́ kết quả xấu. Sám hối là cốt để đừng quá thắc mắc, quá ưu tư với lỗi trước, làm loạn động sự yên tỉnh của ḷng ḿnh và nhất là để đừng phạm lại lỗi ấy về sau nữa.



             Nói một cách giản dị, th́ sám hối cốt để diệt trừ tội lỗi và làm cho ba nghiệp được thanh tịnh.



             Sám hối với tâm niệm chơn chánh như trên th́ được phước vô lậu, hưởng măi đến vô tận.



             Các lối tu thông thường trên đây, như đoạn đầu đă nói, không phải chỉ để dành riêng cho những người Phật tử sơ co, mà cho tất cả mọi Phật tử. Chỉ khác là đối với hàng sơ cơ th́ thời gian thực hành ít hơn người đă ở lâu năm trong đạo.



             Sự thực hành nhiều hay ít c̣n tùy theo hoàn cảnh, sức lực và ḷng phát nguyện. Nhưng điều quan trọng là cần phải hiểu rơ ư nghĩa của lối tu đó, rồi phát tâm Bồ đề rộng lớn mà tu hành, th́ kết quả mới rộng lớn và tốt đẹp. Muốn hiều rơ ư nghĩa và phương pháp tu thông thường nầy, quư vị nên học Phật học Phổ thông Khóa thứ nhất. Mỗi khi thực hành các lối tu đó, nếu chúng ta nhằm mục đích cao thượng, tâm niệm trong sạch, có những ư nghĩa rộng răi, vị tha, từ bi, b́nh đẳng, v.v... th́ mặc dù chúng ta thực hành ít mà phước báo vẫn nhiều và lâu dài (phước vô lậu). Trái lại, nếu chúng ta không hiểu rơ ư nghĩa đúng đắn của các lối tu đó hay nếu chúng ta đem một tâm lượng nhiễm ô, hẹp ḥi, vị kỷ, nhắm một mục đích thiển cận mà tu hành, th́ lẽ dĩ nhiên, chúng ta vẫn hưởng được phước báo, nhưng phước này không được lớn lao và lâu bền (phước hữu lậu).



             Chúng tôi xin tóm tắt ở đoạn này. Nếu chúng ta đem tâm niệm phiền năo nhiễm ô (tham, sân, si...) mà tu hay làm các việc phước thiện, th́ sẽ được phước báo hữu lậu, chỉ giàu sang phú quí ở trần gian. Trái lại, nếu chúng ta đem tâm niệm trong trắng, tốt đẹp, thanh tịnh, cao thượng (từ bi, trí huệ v.v...) mà tu, hoặc làm các điều phước thiện, th́ sẽ được phước báo vô lậu thanh tịnh, hưởng hoài không hết.



             Vậy, nếu quí vị là một độc giả đang đi t́m hiểu đạo Phật và muốn trở thành một Phật tử, th́ chúng tôi mong quí vị hăy đọc lại kỹ ư nghĩa của các lối tu thông thường này, rồi phát tâm rộng lớn, cao thượng mà tu hành. Chúng tôi tin chắc rằng nếu quí vị làm theo lời khuyên của chúng tôi, th́ mặc dù quí vị là người mới bước chân lên đường đạo, nhưng quí vị sẽ tiến rất nhanh và gặt được quả tốt đẹp rất sớm.



             Nếu quí vị là một Phật tử đă thực hành, lâu năm các lối tu hành đó, th́ quí vị hăy đối chiếu xem xét lại trong các lối tu hành nói trên, quí vị thuộc vào hạng người thứ nhất hay thứ hai (nghĩa là hạng người nói ở mục a hay mục b) th́ quí vị sẽ thấy ḿnh được phước hữu lậu, giàu có sang trọng v.v... ở trần gian hay phước vô lậu thanh tịnh thuộc về xuất thế gian.



             Nếu trong cả các lối tu đó, quí vị thuộc vào hạng người thứ hai (mục b), th́ chúng tôi xin bái phục quí vị, quí vị sẽ được giải thoát trong nay mai, nếu không th́ cũng chắc chắn văng sanh Tịnh độ.



             Nếu trong các lối tu đó, phân nửa quí vị thuộc về hạng người dưới (mục b), th́ quí vị là một Phật tử trung b́nh.



             Nếu quí vị là một Phật tử nằm dưới mức trung b́nh quá (chỉ có một vài điểm giống hạng b thôi) th́ quí vị hăy mau mau cải đổi lại tâm niệm tu hành của ḿnh.



             Nhưng xin đừng hoảng hốt. Quí vị c̣n đủ thời giờ để cải đổi. Đức Phật có dạy: “Biển khổ mênh mông, nhưng nếu chúng ta quay đầu lại, th́ bờ giác ngộ ở đấy rồi”.



             Quí vị c̣n đủ th́ giờ làm cái cử chỉ quay đầu đó.



             Trước khi ngừng bút, tôi xin quí vị hăy suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi trả lời câu hỏi sau đây: Con đường tu hành thứ hai trong BẢN ĐỒ TU PHẬT này có xa thực tế không? và đối với chúng ta có cần thiết không
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
QuangQuy
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 May 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 410
Msg 2 of 2: Đă gửi: 29 March 2006 lúc 2:11am | Đă lưu IP Trích dẫn QuangQuy

Cám ơn anh PhoQuang, bài này rất thiết thực cho tất cả mọi người.
Quay trở về đầu Xem QuangQuy's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi QuangQuy
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 2.9888 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO