Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 398 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Gặp Gỡ - Giao Lưu (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Gặp Gỡ - Giao Lưu
Tựa đề Chủ đề: Ghi nhớ công ơn Thiều Chửu Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 1 of 5: Đă gửi: 11 May 2008 lúc 9:32am | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

Hiện nay chúng ta không ai là không dùng đến quyển Hán Việt Từ điển của Thiều Chửu . Thiều Chữu là ai, xin đọc bài báo trích từ "nld.com.vn số ra ngày 11.5.08", sau đây Thiều Chửu bị bức tử trong cuộc đấu tố đia chủ năm 1954 .
==========

Có một vị Bồ Tát thật trên đời

11-05-2008 01:46:06 GMT +7
Cuốn Tự điển Hán Việt của Thiều Chửu được đánh giá là một công tŕnh chất lượng
Học giả Vũ Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc. Một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn v́ lư tưởng

Triết lư đạo Phật cho rằng bất cứ sinh vật nào biết tu tập th́ cũng có thể thành Phật, tức bậc giác ngộ. Xin mở ngoặc là thiền sư Thích Nhất Hạnh không dùng từ Phật mà dùng “Bụt” – một cái tên rất Việt Nam; và ông dùng từ “đạo Bụt”.

Dân ta quen gọi những người lành như đất mà lại hay giúp kẻ khác là Bụt; và gọi những người có ḷng vị tha trời biển là Bồ Tát”. Bồ Tát là từ Hán Việt gọi tắt của từ gốc chữ Phạn Bodhisattva – ghép bởi bodhi (enlightenment: giác ngộ) và sattva (essence: bản chất; thể tồn tại trừu tượng). Theo nhà Phật học Edward Conze, Bồ Tát là vị Phật (Bụt) có ba đặc điểm: khao khát đạt được sự giác ngộ hoàn toàn; giàu ḷng từ bi và trí tuệ; gần gũi những người thường và có các suy nghĩ, cảm xúc như họ.1

Với cách hiểu như trên, có thể suy ra trên thế gian từng có và sẽ có không ít vị Bụt - Bồ Tát thực, chỉ có điều thiên hạ không nhận ra hoặc biết quá ít về họ – v́ họ là Bồ Tát mà!

“Cây chổi lau” Thiều Chửu

Và nước ta nửa đầu thế kỷ XX từng có một người hội đủ ba đặc điểm nói trên, một vị Đại Bồ Tát bằng xương bằng thịt hiện thực giữa cơi đời, như lời thiền sư Lê Mạnh Thát2. Tuy đă đi xa hơn nửa thế kỷ nhưng di sản văn hóa vô giá ngót trăm tác phẩm ông để lại sẽ làm cho con người ấy sống măi. Ông cũng hăy c̣n một học tṛ là ni sư Thích Đàm Ánh, 85 tuổi, hiện trụ tŕ chùa Phụng Thánh (Khâm Thiên, Hà Nội).

Vị Bụt - Bồ Tát ấy là cư sĩ Nguyễn Hữu Kha (1902-1954), quê xóm Cam Đường, làng Trung Tự, phường Đông Tác (nay là tổ dân phố 81, phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội). Giới phật tử biết ông dưới bút danh Thiều Chửu – “cái chổi lau” ông nguyện dùng để quét sạch bụi bặm trong ḷng ḿnh và mọi thứ rác rưởi trên đời – một cái tên thật giàu ư nghĩa!

Cư sĩ thuộc đời thứ XIV của ḍng họ Nguyễn Đông Tác có mặt tại thành Thăng Long từ cuối thế kỷ XV. Tổ ba đời của ông là tiến sĩ Nguyễn Văn Lư (1795-1868), nhà văn hóa nổi tiếng. Cha ông là cử nhân Nguyễn Hữu Cầu (1879-1946), đồng sáng lập viên phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, từng bị đày ra Côn Đảo nhiều năm v́ tội chống Pháp, một đại sĩ phu, như cách gọi của học giả Nguyễn Văn Tố3. Anh ruột ông là nhà sư phạm mẫu mực Nguyễn Hữu Tảo (1900-1966).

Với truyền thống gia tộc như vậy, tại sao Nguyễn Hữu Kha lại chọn con đường làm một cư sĩ Phật giáo dâng cả đời ḿnh cho lư tưởng phụng sự đồng bào? Ta bỗng nhớ tới một câu các phật tử thường nhắc lại: Có một người sinh ra trên thế gian này là v́ hạnh phúc của muôn người...4

Hữu Kha bẩm sinh đa sầu đa cảm lại lớn lên dưới ảnh hưởng sâu sắc của bà nội giàu ḷng nhân ái và người cha say sưa hoạt động yêu nước chống Pháp. Ông kể về tuổi thơ của ḿnh: Nhà nghèo quá, chị em tôi 7-8 tuổi đă phải chăn ḅ cắt cỏ, gánh nước, thổi cơm nấu cám, 10 tuổi tát nước, 12 tuổi cày bừa. Năm tôi 13 tuổi, bố bị giặc Pháp bắt, được hai tháng th́ mẹ sinh con thứ 8. Đẻ được 3 ngày mẹ đă phải đi làm đồng. Tôi suốt ngày đứng ŕnh ở cổng nhà pha (tức Hỏa Ḷ) Hà Nội, hễ thấy bố bị giải sang ṭa án th́ chạy theo, bị lũ mật thám đánh rất đau. Tôi căm thù tủi nhục nhưng thân hèn biết làm ǵ? Đọc truyện ông Gia Phú Nhĩ (Garibaldi) thấy ông nói với bạn làm mối vợ cho ḿnh rằng “Ư Đại Lợi là vợ, Ư Đại Lợi là con”, từ đó tôi nảy ra ư muốn học ông ở điểm đó... Sau đấy tôi không hề nghĩ tới cái đời riêng của tôi nữa. Người ta cho là tôi tin đạo Phật mà không lập gia đ́nh, họ chưa biết nỗi uẩn khúc của tôi từ thuở c̣n thơ dại.4

Lời thề cứu khổ, cứu người

Năm sau, Hữu Kha tụng kinh siêu độ trong lễ tang bà nội, khi đọc đến câu Phật nói “Nhân dân là cha mẹ bao đời của ta, ta phải hiếu kính cúng dàng; muôn vật đều có tính Phật, cũng b́nh đẳng với ta; ta phải làm cho mọi người đều b́nh đẳng” cậu bé vô cùng xúc động, thề suốt đời theo Phật để cứu khổ cho muôn người. Quyết tâm ấy càng mạnh hơn sau khi Hữu Kha mục kích cảnh nhục nhă mẹ ông v́ cần vay tiền để làm vốn cho ông đi bán hàng rong mà phải lễ lạt cho lư trưởng bảo lănh và chầu chực như kẻ ăn mày: Tôi thề rằng đời tôi hễ ai thiếu thốn muốn nhờ tôi th́ dù họ chưa hé miệng, tôi đă vâng. Tôi c̣n một bát gạo mà ai đói hơn tôi cũng nhường ngay, thà tôi chịu nhịn4. Hữu Kha một ḿnh xuống Đồ Sơn bán thuốc Nam và bánh kẹo kiếm sống. V́ tin người nên mất hết vốn, ông phải làm phu kéo thuyền, đẩy xe, thậm chí đi ăn xin. Trong hai năm cực nhục ấy, ông ngày một thêm tin yêu triết lư cứu khổ, cứu người của đạo Phật.

Cuối năm 1920, cụ Cử Cầu từ Côn Đảo về, Hữu Kha giúp cha mở hiệu thuốc Lợi Nhân Đường ở Ngă Tư Sở. Hiệu đông khách nhưng t́nh thương người bởi thương thân kia đă sâu lắm nên tôi chỉ giấu giếm bố giúp đỡ người nghèo, v́ thế 3 năm trời hai bố con chỉ đủ ăn chẳng thừa đồng nào4. Bù lại, ông học được nghề thuốc Nam và trở thành vị lương y suốt đời chữa bệnh không công. Ông lấy hiệu Tịnh Liễu (tịnh: trong sạch, liễu: hiểu biết), bắt đầu nghiên cứu đạo Phật.

Tịnh Liễu đi nhiều chùa tham thiền vấn đạo, gặp các vị chân tu nổi tiếng như ḥa thượng Thích Thanh Hanh ở Lạng Giang, ḥa thượng Thích Thanh Thuyền ở Nam Định, cư sĩ Lê Đ́nh Thám ở Huế... Qua chuyến đi này, ông nhận ra xu hướng suy tàn của Phật giáo: Khi đi sâu vào nhà chùa, tôi thấy sự tổ chức ở chùa không đúng một chút nào với lời Phật dạy; trái lại hoàn toàn dập theo khuôn khổ phong kiến chia giai cấp rất khắc nghiệt, hưởng thụ xa xỉ, bỏ mất hẳn cái tinh thần trọng lao động, không theo quy chế “Một ngày không làm một ngày nhịn ăn” của Tổ Bách Trượng. Lại c̣n dùng thuật mê tín vẽ ra đàn tràng cúng bái, đục khoét nhân dân để sống một đời nhàn rỗi. V́ thế tôi nhất định không theo chế độ đó; cho tới ngày nay tôi cũng chỉ là một tín đồ tín ngưỡng triết lư mà thôi. Hơn nữa, nếu có dịp, tôi sẽ đánh đổ cái chế độ mục nát ấy. Sau đó tôi theo đuổi việc chấn hưng Phật giáo4. Chắc đây là lư do Nguyễn Hữu Kha không vào chùa làm sư, mà chỉ làm cư sĩ tu tại gia, suốt đời vừa lao động kiếm sống vừa hoằng dương Phật pháp; không vợ con, trường trai mà mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng giờ Ngọ, quanh năm mặc nâu sồng, đi guốc mộc tự đẽo lấy, đêm nằm trên tấm phản kê dưới nền nhà, không màn, mùa rét đắp chiếc chăn sợi mỏng.

Học giả “lạc khổ”

Năm 26 tuổi, Nguyễn Hữu Kha lấy bút danh Lạc Khổ (“Vui trong cảnh khổ”), bắt đầu dịch kinh Phật ra quốc ngữ – v́ ông thấy kinh người ta tụng toàn là kinh chữ Hán nên họ chẳng hiểu ǵ. Dịch kinh thực sự là việc cực kỳ khó nhọc, phải giỏi cả Hán học, Phật học, nhưng ông quyết làm với suy nghĩ: V́ kém tinh thần tự lập cho nên ta cứ vùi đầu với kinh chữ Hán, ít người dám dịch kinh sang tiếng ta. Kinh chữ Phạn dịch ra chữ Hán được, th́ dịch ra chữ ta cũng được chứ sao! Chữ quốc ngữ của ta rất dễ phổ biến, dịch âm lại đúng hơn chữ Hán5. Tuyển tập 16 kinh cơ bản do Thiều Chửu dịch được Nhà Xuất bản Tôn Giáo in lại năm 2002 là một ghi nhận cố gắng ấy.

Nhờ cần cù tự học, lao động chân tay và trí óc, nên việc ǵ ông cũng giỏi, tháo vát, miệng nói tay làm. Năm 1932, ông tự in tác phẩm của ḿnh là bản dịch Kinh Vô Thường; rồi dùng bút danh Thiều Chửu in Khóa Hư Kinh dịch nghĩa – bản dịch ra quốc ngữ tác phẩm Khóa Hư Lục nổi tiếng của Trần Thái Tông. Học giả Nguyễn Lang (tức Thích Nhất Hạnh) nhận xét: Thiều Chửu là một cây bút rất vững chăi và sâu sắc; căn bản Hán văn của ông rất vững; văn Khóa Hư là văn biền ngẫu rất khó dịch nhưng bản dịch của ông rất đặc sắc, đọc êm tai, nghĩa lư khá rơ ràng6.

Thiều Chửu chưa ngày nào được đi học. Bà nội dạy ông chữ Hán và quốc ngữ; sau đó chỉ nhờ dày công tự học mà ông sớm tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh, 30 tuổi đă thạo ngoại ngữ Pháp, Anh, và đặc biệt giỏi Hán học, Phật học. Ông dùng thuốc Nam chữa khỏi bệnh cho nhiều người và viết loạt bài Bà Lang Nhà rất lư thú đăng nhiều kỳ trên báo Đuốc Tuệ. Ni sư Đàm Ánh có câu cửa miệng “Chẳng ai giỏi bằng thầy tôi” và hay kể: ông đỡ đẻ mát tay đến mức nhiều gia đ́nh đến nhờ trước hàng tháng. Việc viết sách báo mang lại thu nhập cao nhưng ông sống rất khổ hạnh, bao nhiêu tiền kiếm được đều đem nuôi trẻ mồ côi, giúp người nghèo khổ. Thời gian tản cư kháng chiến, ông dẫn đầu phá rừng trồng khoai sắn nuôi sống cả trại Tế Sinh của ḿnh. Có thời kỳ 40 người mỗi bữa chỉ có 4 bơ gạo nấu với lá rau khoai lang thế mà ông kiên quyết trả lại mấy lạng vàng (tiền xuất bản tác phẩm của ông) do thượng tọa Tố Liên từ Hà Nội gửi ra4.

Chấn hưng Phật giáo

Thiều Chửu cộng tác với các phật tử chân chính trong việc theo đuổi lư tưởng chấn hưng Phật giáo nước nhà. Năm 1933, sa môn Thích Trí Hải từ Hà Nam lên Hà Nội vận động thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ đă đến ngay hiệu Ḥa Kư bàn việc với Nguyễn Hữu Kha. Hồi kư của ḥa thượng Thích Trí Hải kể: Hai người chúng tôi vừa gặp nhau mà tưởng như đă quen nhau từ bao đời… Cuối năm 1933, hàn thử biểu ở Hà Nội xuống tới 7-8oC mà tôi và ông Kha chỉ đắp chung một cái chăn sợi Nam Định mỏng nằm trên chiếc chiếu trải trên nền nhà phố Sinh Từ. Hai ông góp công lớn trong việc sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934). Nhưng khi được mời vào Ban Trị sự hội th́ Thiều Chửu lại do dự v́ thấy ban có mấy quan lại chính quyền. Sau cùng ông nhận lời với ư nghĩ có thể lợi dụng hội này để thực hành cái chí đánh đổ chế độ thối nát của nhà chùa4. Ông kiến nghị hội lập nhà in; hội đồng ư và giao ông quản lư nhà in Đuốc Tuệ; ông đem máy in của ḿnh vào đây làm việc. Thiều Chửu là một trong hai cây bút viết nhiều nhất trên cơ quan ngôn luận của hội là báo Đuốc Tuệ, nhằm tuyên truyền Phật giáo Nhân gian, phê phán tệ mê tín dị đoan trong hoạt động Phật sự. Biết ông liêm khiết, hội giao ông phụ trách tài chính của Ban Hưng công chùa Quán Sứ (1938-1942); qua đó ông có đóng góp lớn cho công tŕnh này.

Tác phẩm cuối cùng Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX xuất bản năm 1952 – cuốn sách viết bằng máu và nước mắt như lời học giả Vũ Tuấn Sán2, thể hiện quan điểm của một phật tử chân chính, tiên tiến, yêu nước, kiên quyết vạch mặt một số tăng sĩ vùng địch chiếm mưu mô thần bí hóa đạo Phật, qua đó làm nhụt tinh thần kháng chiến của dân tộc.

Từ khi biết thuốc Nam, Thiều Chửu chưa bao giờ từ chối lời mời đi chữa bệnh cho bất kỳ ai nhờ vả. Năm 1936, ông cùng bà Cả Mọc (tức Hoàng Thị Uyển, chị ông Hoàng Đạo Thúy) đồng sáng lập Hội Tế Sinh và làm tổng thư kư của hội. Hoạt động quên ḿnh cứu người của ông khi đi cứu giúp nạn nhân trận lụt năm Đinh Sửu, lập trại nuôi trẻ mồ côi, trại nuôi người già nghèo, nhất là hoạt động phát chẩn trong nạn đói 1945... đă mang lại cho ông uy tín rất cao trong xă hội. Chính v́ chung một chí nguyện chịu khổ sở nhọc nhằn để giúp đỡ đồng bào, cả đời không ăn ngon mặc đẹp, không ai có gia đ́nh riêng, nên chúng tôi được nhiều người tin lắm. Rất nghèo mà tiền bao nhiêu cũng có. Năm 1937, lụt tràn hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang. Ngoài việc góp sức cho cơ quan cứu tế, tôi cùng cụ Cả Mọc c̣n vận động đi lấy tiền lấy áo; rồi tôi cùng ông Hoàng Đạo Thúy, ông Trần Duy Hưng hằng ngày đem thuốc, tiền, quần áo đi tới từng nhà nạn nhân giúp cho đến khi họ sống được. Khắp hai huyện Quế Dương, Lang Tài, không c̣n sót mấy nhà mà chúng tôi không tới hàng bốn năm lượt, ṛng ră ba tháng như thế cho đến lúc lúa chín.4 Phải chăng v́ thế mà Hồ Chủ tịch từng mời ông làm bộ trưởng Bộ Cứu tế Xă hội trong Chính phủ Cách mạng lâm thời 1945? (nhưng ông khước từ với lư do để tiếp tục làm Phật sự)3.

Sau ngót 30 năm cầm bút, Thiều Chửu để lại 96 tác phẩm viết và dịch đă xuất bản2; đầu tiên là Phép nuôi con (1926). Nổi tiếng nhất có Tự điển Hán Việt xuất bản năm 1942, sau đó em gái ông tái bản hai lần ở Sài G̣n năm 1952 và 1954; tới nay đă in hàng chục lần, là một trong vài sách cùng loại được hoan nghênh nhất Những người Việt học Hán văn không thể không cúi đầu tri ân công tŕnh văn hóa bất hủ này (lời thiền sư Lê Mạnh Thát)2. Năm 2003 một nhóm Việt kiều Pháp biên soạn lại thành Tự điển Hán Việt Thiều Chửu điện tử và phổ biến trên www.viethoc.org.

Bi kịch của một trí thức

Học giả Vũ Khiêu đánh giá Thiều Chửu là một con người chân chính, một nhà trí thức lớn của dân tộc và tặng ông câu đối Nửa kiếp trầm luân, bác cổ thông kim, ḷng bốn bể; Trăm năm phù thế, cứu dân báo quốc, phép muôn đời. Học giả Vũ Tuấn Sán nhận định ông là một hiện tượng khá đặc biệt trong giới trí thức ở thế kỷ XX, một người sống cuộc đời thanh cao, hoàn toàn v́ lư tưởng. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Tuấn (Viện Nghiên cứu Tôn giáo Việt Nam) coi Thiều Chửu là nhân vật Phật giáo xuất chúng thế kỷ XX. Đại đức Thích Đồng Bổn ca ngợi ông là bậc Nho sĩ, Đại sĩ, Chí sĩ, rạng danh Tiết sĩ. Sách “Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX” tập I viết: Thiều Chửu là một phật tử xứng đáng tiêu biểu cho hàng cư sĩ trong đạo Phật có công lớn trong lịch sử chấn hưng Phật giáo miền Bắc.2

Tiếc thay, do sai lầm của đội cải cách ruộng đất ấp Đồng Tâm, xă Đồng Liên, huyện Phú B́nh, tỉnh Thái Nguyên (nơi ông và đoàn Tế Sinh tạm trú), vị Bụt - Bồ Tát ấy bị quy là “địa chủ” và bị đội xỉa xói mắng nhiếc luôn ba bốn giờ, vu cho đủ các tội ác, dùng những lời nói rất khinh bỉ hà khắc, chỉ khác với đấu tố là (tôi) chưa phải quỳ thôi.4 Một tháng sau, mờ sáng ngày 15-7-1954 tức 16-6 Giáp Ngọ (một ngày sau giỗ cụ Cử Cầu và 5 ngày trước hôm kư Hiệp định Geneva), Thiều Chửu kín đáo tự giải thoát đời ḿnh trên sông Cầu chỗ đập Thác Huống. Cái chết “Thiên cổ kỳ oan”, v́ nước v́ dân, chỉ có Bồ Tát mới làm được ấy (lời thiền sư Lê Mạnh Thát)2 đă gây ra nỗi chấn động và tiếc thương vô hạn trong dân chúng địa phương và giới phật tử cả nước. Ít lâu sau, đội cải cách hạ thành phần ông xuống “trung nông”; nhưng ở cái thời kỳ ngạt thở “Nhất đội nh́ trời”, vụ tự vẫn kinh hoàng đó đă bị lợi dụng để phủ bóng đen lên quá khứ sáng ngời của ông. Tới đầu thế kỷ XXI vẫn có người tránh nhắc đến cái tên Thiều Chửu!

Ni sư Đàm Ánh kể ông có dặn đừng vớt xác ḿnh, nhưng các hậu duệ và học tṛ không ai nỡ làm thế. Sau ḥa b́nh lập lại, họ rước hài cốt ông về Hà Nội, cuối cùng an táng tại nghĩa trang Thanh Tước (số mộ 170-C3). Tháng 6-2002, các hậu duệ ông cùng Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và tạp chí Tia Sáng đă tổ chức “Sinh hoạt lịch sử tưởng niệm 100 năm sinh nhà văn hóa Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha” tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội.

Trước khi về với tổ tiên, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ tịch, thư dặn ḍ các học tṛ phấn đấu theo kháng chiến chống Pháp đến cùng và viết lời kết bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ tịch) như sau: “Cái án “mạc tu hữu” (tức vu cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến c̣n có lẽ; ai ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị, th́ tôi c̣n biết van vỉ làm sao được nữa”.

Nguyễn Hải Hoành

Ghi chú: Các đoạn in nghiêng đều là trích nguyên văn; tác giả gạch dưới câu cần chú ư.

Tài liệu tham khảo: (1) Edward Conze: Lược sử Phật giáo, NXB Tổng hợp TPHCM; (2) Nguyễn Đại Đồng: Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2008; (3) Chương Thâu và Hồ Anh Hải: Nguyễn Hữu Cầu, chí sĩ yêu nước Đông Kinh Nghĩa Thục, NXB Lư luận Chính trị, Hà Nội 2007; (4) Tự Bạch của Thiều Chửu, xem tài liệu tham khảo 1; (5) Thiều Chửu: Lời tựa bản dịch kinh A Di Đà; (6) Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1994; (7) Thiều Chửu: Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX, NXB Tôn giáo, Hà Nội 2002; (8) Thiều Chửu: Phật học vấn đáp, Nhà in Đuốc Tuệ, Hà Nội 1946; (9) Collected famous quotes from A. Einstein. http://rescomp.stanford.edu. (10) Tṛ chuyện với Trịnh Xuân Thuận, Tạp chí Tia Sáng và NXB Trẻ, 2001.

Sửa lại bởi dinhvantan : 11 May 2008 lúc 9:36am
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
apollo
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 28 March 2006
Nơi cư ngụ: Bermuda
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 980
Msg 2 of 5: Đă gửi: 11 May 2008 lúc 12:14pm | Đă lưu IP Trích dẫn apollo

Cư sĩ Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha

(1902-1954)

Cư sĩ Nguyễn Hữu Kha, pháp danh Thiều Chửu, tên tự là Lạc Khổ, sinh năm Nhâm Dần (1902), tại làng Trung Tự, ngày nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.

Ông sinh ra trong một gia đ́nh có truyền thống Nho học nhiều đời. Thân sinh là cụ Cử Cầu, một nhà hoạt động cách mạng lăo thành trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Ông là người con thứ hai trong bốn anh chị em: ba trai, một gái.

Từ thuở bé, ông đă được sống với bà nội. Cụ Bà vốn là một cô Tú, văn hay chữ giỏi ở đất Hà Nội và lại là một Phật tử mộ đạo thuần thành. Do đó, ông đă có duyên được gần với nếp sống đạo hạnh, tập ăn chay từ năm lên Tám tuổi. Nhờ bà nội chỉ dạy cặn kẽ về Nho học, ông sớm tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh. Được thừa hưởng vốn liếng căn bản ấy, khi vào độ tuổi thiếu niên, ông được học chữ Quốc Ngữ. Đồng thời ông tự nghiên cứu thông thạo các ngoại ngữ: Anh, Pháp, Hoa, Nhật. Nhờ thiên tư sẵn có, ông dễ dàng bước vào lănh vực nghiên cứu giáo lư Phật Đà và nhanh chóng thấm nhuần sâu sắc.

Năm Tân Dậu (1921), vừa 20 tuổi, ông đă bắt đầu dạy Nho học giúp cho Tăng đồ quanh vùng. V́ vậy, có thêm điều kiện trao đổi, t́m hiểu thêm trong việc nghiên cứu giáo lư. Cũng từ đó, nhận thấy ḿnh có túc duyên với Phật Pháp, ông sẵn sàng hộ pháp với khả năng tri thức của ḿnh. Bằng tâm nguyện và tư thế một người cư sĩ, ông đảm nhận phụ giảng cho Tăng Ni và công tác từ thiện xă hội.

Tâm nguyện cao đẹp đó được ông thể hiện qua nếp sống giản dị, đạm bạc, y phục đơn giản như những người chân quê. Ông bắt đầu trường chay và mỗi ngày chỉ ăn một bữa. Ông rất quư th́ giờ. Công việc được phân chia thời khóa rành mạch, phần lớn là dịch kinh, viết sách, tu học. Ông cũng dành nhiều thời giờ để gần gũi và chăm sóc các trẻ em mồ côi.

Để tạo thêm điều kiện thuận lợi trong việc góp phần tuyên dương Phật pháp, ông lập nhà bán sách Ḥa Kư ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Khi phong trào Chấn Hưng Phật Giáo ở Bắc Kỳ được khởi xướng, ông cùng các đạo hữu cư sĩ cùng thời như: Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Trần Văn Giáp, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh, Dương Bá Trạc v.vẨ, là những nhà trí thức tiên tiến, được chư vị Tăng giới như Ngài Trí Hải, Tố Liên mời cùng đứng ra lập hội Bắc Kỳ Phật Giáo vào năm Giáp Tuất (1934). Ḥa thượng Thích Thanh Hanh (Tổ Vĩnh Nghiêm) làm Thiền Gia Pháp Chủ.

Năm Ất Hợi (1935), hoạt động nổi bật nhất của hội Bắc Kỳ Phật Giáo là việc xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ông là cây bút đắc lực và bền bỉ nhất. Vai tṛ của Phật giáo được phát huy trên từng trang báo, góp phần cổ xúy cho phong trào Chấn Hưng Phật Giáo tại Bắc Kỳ. Báo Đuốc Tuệ do ông trực tiếp quản lư, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, cũng là trụ sở trung ương hội Bắc Kỳ Phật Giáo. Đuốc Tuệ là một tạp chí Phật giáo có ảnh hưởng lớn thời bấy giờ nơi đất Bắc. Song song với công việc báo chí, ông soạn bộ Hán Việt Tự Điển rất có giá trị, được sử dụng rộng răi trên toàn quốc từ ngày đó cho đến bây giờ.

Năm 1941, nhằm phát triển công tác giáo dục và từ thiện, Ḥa thượng Trí Hải đă ủy thác cho ông lập trường Phả Quang và nghĩa trang Tế Độ tại ngoại thành Hà Nội. Ông tận t́nh trông nom và ra sức dạy học. Lớp học có các Tăng Ni theo học. Ngoài việc dạy chương tŕnh thế học, Nho học, ông c̣n kiêm giảng dạy Phật học cho Tăng Ni. Từ những lớp Phật học đầu tiên, có những vị sau này đă trở thành danh Tăng như Ḥa thượng Tâm Tịch, Ḥa thượng Thanh KiểmẨ, danh Ni như Ni sư Đàm Tuệ, Ni sư Đàm Ánh...

Năm Ất Dậu (1945), nạn đói sảy ra ở miền Bắc. Thể hiện ḷng từ bi, ông cùng chư Ḥa thượng Tố Liên, Trí Hải đứng ra thành lập Tổng Hội Cứu Tế để giúp những người đói khổ. Đồng thời, tạo lập một cô nhi viện nuôi dạy hơn 200 trẻ mồ côi.

Cuối năm 1946, chiến tranh lại bùng nổ. Các Phật sự phải đ́nh chỉ, số phận các cô nhi bấp bênh. Một nửa số các em được đưa về chùa Mai Xá tự túc sinh sống. Nửa c̣n lại, ông mang theo lên Phúc Yên làm nghề thủ công và trồng khoai sắn vừa sinh sống vừa học tập. Thời gian công tác từ thiện dạy dỗ chăm lo các trẻ cô nhi, cũng là nhân duyên ông dịch kinh và sáng tác nhiều bài hát để dạy các em cô nhi và truyền bá cho dân chúng như: Tấm ḷng vị tha, Người chân tu, Lấp biển trầm luân, Khuyên tu..., cùng một số bài có nội dung giáo dục thiếu nhi như: Đánh đu... Ước tính có đến 15 bài Phật ca do ông sáng tác được lưu truyền lúc bấy giờ.

Năm Mậu Tư (1948), ông c̣n mở thêm lớp học b́nh dân cho người nghèo ở Cao Phong - Phúc Yên. Thường xuyên có trên 100 người theo học. Ông cũng hướng dẫn các em cô nhi lớp trước hướng dẫn, chăm nom cho người lớp sau.

Năm Kỷ Sửu (1949), chiến tranh càng diễn ra khốc liệt. Dân chúng phải tản cư đi khắp nơi. Ông cũng đưa lớp học chuyển qua nhiều vùng khác nhau như: Đan Thầm, Đồng Quan, Sơn Tây, Phúc Yên, Thái NguyênẨ. Thầy tṛ chịu biết bao nhiêu khó khăn vất vả. Có khi suốt tháng chỉ ăn toàn cháo sắn (khoai ḿ). Tuy trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, đến đâu ông cũng vẫn cùng học tṛ dựng trường học, cất nhà cho người nghèo. Ông kiên định giữ đúng thời khóa của bản thân: ngày ăn một bữa, đêm thức dịch kinh, chỉ ngủ 3 giờ đồng hồ. Ông nghiêm khắc với bản thân, nên với đồ chúng cũng tạo được được sự nghiêm minh triệt để, kỷ luật gắt gao khi có sai phạm. Riêng đối với Tăng Ni, tuy là học tṛ, nhưng ông luôn kính lễ, sách tấn họ tu học và tận tâm chỉ dạy sở học của ḿnh cho họ. Do những phong cách chuẩn mực đó, ở đâu ông cũng được người xuất gia, tại gia và dân chúng quư trọng, mến yêu. Mọi người đều xem ông như một bậc Thầy, một cư sĩ có đạo hạnh khả kính.

Năm 1954, Hiệp định Genève được kư kết. Miền Bắc tiến hành phong trào Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Tư Sản. Nhận thấy không ít nông dân bị hàm oan, mắc khổ nạn, ông rất đau buồn. Ông đă viết bốn bức tâm thư. Ba bức gửi cho nhà cầm quyền và đảng Lao Động lúc bấy giờ. Trong thư, ông tŕnh bày nỗi ḷng của ông cùng ư kiến đóng góp những điều nên làm, nên tránh để tạo ích nước lợi dân. Bức thứ tư gửi các học tṛ. Ông dặn ḍ mọi người cố gắng tu hành, học tập để giáo hóa đời, đừng để bị đời hóa.

Để cúng dường Tam Bảo tấm ḷng trong sáng thanh tịnh của ḿnh và để bảo toàn khí tiết một Nhà Nho, một người yêu nước chân chính, một cư sĩ hoàn tất nhiệm vụ giáo hoá cho đạo, cho đời, ngày 15 tháng 7 năm 1954, tức là ngày Mười Sáu tháng Sáu năm Giáp Ngọ, sau khi từ biệt học tṛ, lễ tạ bốn phương, ông đă kết thúc đời ḿnh tại ḍng sông Đuống thuộc Đồng Mỹ - Thái Nguyên. Ông mất năm 52 tuổi với 30 năm công quả, cống hiến cho sự nghiệp hoằng dương đạo pháp.

Cư sĩ Thiều Chửu - Nguyễn Hữu Kha là một Phật tử xứng đáng tiêu biểu cho hàng cư sĩ trong tứ chúng môn đồ của Phật. Ông cũng xứng đáng là gương mẫu tiêu biểu cho sự trọng thị một nhân cách khiêm ái từ ḥa của người con Phật. Ông để lại cho hậu thế một sư nghiệp dịch thuật, trước tác vô cùng phong phú và quư báu c̣n được lưu truyền:

1. Phật học cương yếu.
2. Khóa Hư Kinh diễn giải.
3. Sự Tích Phật Tổ diễn ca
4. Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính.
5. Con đường học Phật thế kỷ XX này.
6. Nḥm qua cửa Phật.
7. Cải tà quy chính.
8. Thế nào là Phật và Phật pháp.
9. Lục Tổ Đàn Kinh.
10. Khóa tụng hằng ngày.
11. Bốn mươi tám phép niệm Phật.
12. V́ sao tôi tin Phật Giáo (dịch của B. Brongthon).
13. Kinh Lễ Sáu Phương (dịch).
14. Kinh Di Giáo (dịch).
15. Kinh Di Đà (dịch).
16. Kinh Tứ Thập Nhị Chương (dịch).

__________________
Dĩ bất biến ứng vạn biến.

Quay trở về đầu Xem apollo's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi apollo lần thăm apollo's Homepage
 
HoaCai01
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 April 2008
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3743
Msg 3 of 5: Đă gửi: 11 May 2008 lúc 12:34pm | Đă lưu IP Trích dẫn HoaCai01

Trước khi về với tổ tiên, Thiều Chửu thức trắng đêm viết thư tuyệt mệnh gửi Hồ Chủ tịch, thư dặn ḍ các học tṛ phấn đấu theo kháng chiến chống Pháp đến cùng và viết lời kết bản Tự Bạch (cũng gửi Hồ Chủ tịch) như sau: “Cái án “mạc tu hữu” (tức vu cáo, ông viết chữ Nho) mà ông Nhạc Phi phải chịu đời phong kiến c̣n có lẽ; ai ngờ đời nay chính bản thân tôi lại bị, th́ tôi c̣n biết van vỉ làm sao được nữa”.

Ông Hồ đâu, sao ông làm ngơ ? (1) Sau này ông có làm phục danh lại cho người có công đức như cụ Thiều Chửu hay không ?

(1) Bản thân ông Hồ dùng bút hiệu Trần Dân Tiên tự ca ngợi ḿnh ! 



Sửa lại bởi HoaCai01 : 11 May 2008 lúc 1:36pm


__________________
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm
Quay trở về đầu Xem HoaCai01's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi HoaCai01
 
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 4 of 5: Đă gửi: 11 May 2008 lúc 4:52pm | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

Trong câu chuyện của Thiều Chửu tôi có nhận xét sau đây.
- Thiều Chửu là một nhân tài lỗi lạc , không đi học trường mới 20 tuổi đă tinh thông Hán học, Phật học , để lại quyển Hán Việt tự điển vô cùng quư giá .
- Một người vô sản mà bị cho là địa chủ .
- Bác Hồ mời Cư-sĩ Thiều Chửu làm Bộ trưởng mà về sau con cháu của Bác lại vu giá oan sai cho nên Ông phải tự tử .
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
aphrodito
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 10 February 2006
Nơi cư ngụ: Japan
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 88
Msg 5 of 5: Đă gửi: 06 March 2010 lúc 8:47am | Đă lưu IP Trích dẫn aphrodito

Tiếc thay một đấng thiên tài
Cứu nhân độ thế khỏi tai kiếp người
Vậy mà thượng đế trêu ngươi
Trầm luân nửa kiếp thác thời c̣n oan...

__________________
Không có ǵ là tuyệt đối !
Quay trở về đầu Xem aphrodito's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi aphrodito
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 4.0391 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO