thienkhoitimvui Hội viên


Đă tham gia: 30 November 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 2445
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 08 April 2005 lúc 10:53am | Đă lưu IP
|
|
|
Tác giả tiểu luận là giáo viên triết chuyên dạy Dịch có viết nhiều sách về Dịch mà tôi thích, nên tôi cũng chọn bài này trong Hội thảo quốc tế năm ngoái về Nho giáo ở HN.
Nôi dung cũng có nhiều liên quan đến Lí Số học.
=======================
T̀M HIỂU ĐẠO ĐỨC “TRUNG DUNG” CỦA NHO GIA
GS. TS. Lê Văn Quán
Trung dung vốn là một thiên ở trong sách Lễ kư, sau được tách ra thành một tác phẩm nằm trong Tứ thư. Tương truyền Tử Tư sống ở đầu thời Chiến Quốc, sáng tác thiên Trung dung. Trịnh Huyền và Khổng Dĩnh Đạt đă nói Trung dung ở sách Lễ kư là do Tử Tư viết ra. Các nhà Nho Trung Quốc đều cho rằng: “Thử thiên năi Khổng môn truyền thụ tâm pháp, Tử Tư khủng kỳ cửu nhi sai dă, cố bút chi ư thư, dĩ thụ Mạnh Tử”. (Chu Hi, Trung dung chương cú) – (Thiên này là tâm pháp truyền thụ của Khổng môn, Tử Tư e lâu ngày sai lạc, cho nên chép vào sách, để trao cho Mạnh Tử).
Để thực hiện lư tưởng “nhân”, Khổng Tử đề xuất phương pháp luận lấy “Trung dung” làm hạt nhân. Điều gọi là trung dung, là chỉ phương pháp và nguyên tắc quan sát, xử lư vấn đề, bao gồm hai khâu chấp trung 執 中 (nắm trung) và dụng trung 用 中 (dùng trung). Tư tưởng “quá do bất cập 過 猶 不 及” – (Thái quá cũng như bất cập) của Khổng Tử, có thể là nói rơ quan hệ hai đầu và chính giữa.
Một lần, Tử Cống học tṛ Khổng Tử hỏi ông về đạo, Tử Trương và Tử Hạ ai hiền hơn. Khổng Tử trả lời, Tử Trương thái quá, Tử Hạ c̣n bất cập. Tử Cống lại hỏi, chẳng phải Tử Trương tốt hơn nhiều ư? Khổng Tử liền trả lời ngay: “Quá do bất cập 過 猶 不 及” (Luận ngữ, Tiên Tiến). Hai điều này đều không hợp với đạo trung, do đó, thái quá cũng như bất cập. Ở đây thể hiện ư thức biện chứng của Khổng Tử rất sâu sắc. Thái quá và bất cập là hai đầu tương đối với chính giữa. Nó nói rơ sự vận động của sự vật trong thời gian, không gian nhất định, khi nó phát triển đến trạng thái nhất định, từ trên quan hệ t́m ra lượng và xác định chất nhất định, điều này tức là “trung”. V́ thế, cái điều trung này có thể lư giải là mức độ, tính chân lư của sự vật đă ở trong mức độ, chưa đạt đến hoặc vượt quá mức độ này đều sẽ rơi vào tính phiến diện hoặc sai lầm. Qua Khổng tử xử lư bất cứ sự việc ǵ đều cần phải nắm vững giới hạn mức độ, tức là chấp trung 執 中 (nắm trung) và dụng trung 用 中 (dùng trung), nhưng thái quá và bất cập đều trái với yêu cầu mức độ.
Khổng tử c̣n cho rằng “trung” không phải là thứ cố định không biến đổi, ở trong thời gian khác nhau, sự vật khác nhau quan hệ thích hợp “trung” đều không giống nhau. Do đó, Khổng tử yêu cầu mọi người nhận thức theo điều kiện biến đổi và nắm vững nó, cần mọi người “doăn chấp kỳ trung 允 執 其 中” (Luận ngữ, Nghiêu viết) – nghĩa là thành thật nắm lấy đạo trung, và phải coi trọng sự thay đổi về thời - thời gian, thời cơ, thời thế... Đây là một yếu tố cần mọi người tính linh hoạt, tính cơ động trong việc vận dụng phạm trù đạo đức “Trung dung”.
Nhận thức biện chứng và xử lư của Khổng tử trong cuộc sống xă hội thường là đối lập hai đầu, thể hiện vận dụng phương pháp và nguyên tắc này của Trung dung. Trong lư luận trị quốc, Khổng Tử đề xuất khoan và mănh, huệ và phí, lao và oán, phú quốc và phú dân... Khổng tử khi xử lư mâu thuẫn này, không phải là ức chế hai đầu của mâu thuẫn, mà là t́m kiếm điểm tiết chế, dùng con đường thích hợp làm cho lợi ích của đôi bên liên kết lại và cùng được thỏa măn.
Khổng Tử đề xuất “Trung dung”, biểu thị tiêu chuẩn đạo đức tối cao của ông, nguyên ư của Trung dung là chỉ đức tính, là hành vi của con người, thái quá và bất cập đều có trở ngại với đức tính cao cả.
Thật ra tư tưởng này đă có từ lâu. Chu Công đề xướng thực hành “đức trung 德 中” (Thượng thư, Tửu Cáo) và nhấn mạnh khi xử kiện và dùng h́nh phải “trung chính 中 正” (Thượng thư, Lă h́nh).
Ở Chu Dịch thể hiện điều này khá rơ. Tác giả Dịch truyện lại xuất phát từ tư tưởng trung dung nhiều lần đă nói rơ tính nguy hại của thái quá và bất cập, đặc biệt thể hiện ở trong cách lư giải của các quẻ: TIẾT, TRUNG PHU, TIỂU QUÁ, KƯ TẾ, VỊ TẾ và những chữ thường xuất hiện là: “đắc trung 得 中”, “trung đạo 中 道”, “vị trung 位 中”. Nhất là ở lời Thoán, quẻ Tiết c̣n nói: “Đương vị dĩ tiết, trung chính dĩ thông” – (ở vị trí thỏa đáng (tự giác) tiết chế, ở giữa giữ đạo chính (mà làm việc) sẽ thông suốt). Ngay cả ở các lời hào 2, hào 5 (lời hào ở vị trí giữa) của 64 quẻ cũng mạnh dạn phát huy tư tưởng trung dung, cho nên đều tốt lành. Dịch truyện coi trọng sự chuyển đổi lẫn nhau của mặt đối lập, nhấn mạnh phát triển biến đổi, nhưng không suy diễn kiến giải này đến mực cực tinh vi. Dịch truyện rất chú ư sự ngang hàng và ổn định của mặt đối lập, nó cho rằng sự vật phát triển một khi đột phá đường môi giới th́ phải phát triển sang hướng hai cực, cuối cùng đi đến mặt phản diện với bản thân ḿnh. Để không đi đến mặt phản diện với bản thân ḿnh, chỉ có tiến hành tiết chế và ràng buộc sự phát triển biến đổi đối với sự vật, khiến nó “đắc trung 得 中”. Đó là phép tắc căn bản khiến sự vật ở vào trạng thái ổn định và giữ vững hanh thông”.
V́ thế, ở sách Trung Dung lại dẫn lời nó của Khổng Tử: Quân tử Trung dung, tiểu nhân phản trung dung”. Trung dung không phải là đạo đức giả. Trung dung tuyệt đối không phải là dung tục tầm thường. Trung dung là không thiên không lệch, giữ vững cân bằng, có cân bằng th́ mới có thể phát triển. Khổng tử đă từng nói: “Bất đắc trung hành nhi dữ chi, tất dă cuồng quyến hồ! cuồng giả tiến thủ, quyến giả hữu sở bất vi dă” (Luận ngữ, Tử Lộ) – (Chẳng có được hạng người đạt đến mức trung dung để ta truyền đạo cho, nhưng ắt hẳn có được hạng người “cuồng” và “quyến”. Người cuồng th́ tiến thủ vươn lên, c̣n người quyến th́ không chịu làm điều xấu).
Không có được hạng người đạt đến mức trung dung, hoặc cuồng hoặc quyến cũng không cần đạo đức giả. Điều gọi là “trung hành 中 行” là trung chính kết hợp với cương kiện, trung chính mà phải cương kiện, như lời Thoán, quẻ TIẾT ở sách Chu Dịch nói: “Tiết hanh, cương nhu phân nhi cương đắc trung” (Tiết chế th́ hanh thông, cứng mềm chia đôi mà phần cứng được đạo trung).
Trung Dung là tác phẩm do Tử Tư biên soạn. Chính là ông đă lư giải trước tác của Khổng Tử b́nh giá về “Cương kiện trung chính 剛 健 中 正”. Đạo Trung dung bắt nguồn từ “Chu Dịch 周 易”, cho nên Tử Tư dựa vào “Dịch truyện” mà sáng tác.
Về mặt lịch sử triết học Trung dung đă hoàn thành hệ thống triết học đạo đức cương kiện trung chính của đại Dịch. Triết học đạo đức này là bản thể luận của Nho gia. Bản thể là “hằng lượng 恒 量” (khối lượng không đổi), biểu hiện về mặt tính cách dân tộc Trung Hoa, nó rất cao minh mà lại trung dung. Ở trên bản thân cá nhân, nó cũng là đạo trung dung hoàn chỉnh.
Các nhà Nho sau thời Lưỡng Hán cũng bàn “trung ḥa 中 和” hoặc “trung dung 中 庸”, nhưng đă không phải là cương kiện trung chính của Nho gia Tiên Tần, không tránh khỏi đi chệch hướng với ḥa, như Đổng Trọng Thư, Dương Hùng... Vương Thông, Hàn Dũ... Chỉ riêng có Liễu Tôn Nguyên là bàn đến “đạo đại trung 大 中 之 道”. Đại trung không phải là trung ḥa, nó bắt nguồn từ Chu Dịch, quẻ Đại Hữu nói: “Đại hữu, nguyên hanh” – (Quẻ Đại Hữu tượng trưng giàu có, rất hanh thông). Lời Thoán nói: “Nhu đắc tôn vị “đại trung”, nhi thượng hạ ứng chi viết “đại hữu”. Kỳ đức cương kiện nhi văn minh ứng hồ thiên nhi thời hành thị dĩ nguyên hanh”. (Giàu có, nhu (mềm) nằm ở vị trí tôn quư, lớn lao và giữ đạo trung, trên dưới dương cương đều ứng với nó gọi là giàu có. Phẩm đức cương kiện và văn minh (tượng trưng cho quẻ này) có thể ứng thuận với quy luật tự nhiên, hợp thời làm việc, cho nên rất hanh thông).
Thời Bắc Tống, Tư Mă Quang đă bàn về “trung ḥa” và “trung dung”, coi là đạo đức vô cùng cao minh, ở phương diện này, ông đă phát huy hết mực. Đời Tống, các nhà lư học cải biến mệnh đề đạo đức từ Tiên Tần về sau, họ coi trọng ”trung dung”, khiến nó trở thành một trong TỨ THƯ, và độc lập thoát khỏi LỄ KƯ. Nhưng họ chưa phát huy lư luận trung dung ở mặt triết học đạo đức, mà là nói rơ, coi trọng nó ở mặt nhận thức vũ trụ. Các nhà lư học nhận thức về giới tự nhiên, bổ sung chỗ thiếu ở mặt này của Nho gia Tiên Tần. Đương nhiên, các nhà lư học không phải bỏ sót triết học đạo đức, mà là kết hợp đạo đức và trật tự tự nhiên, trở thành đạo “tân thiên nhân 新 天 人”. Nói về Nho học Tiên Tần, th́ lư học là tân Nho học. Bản thân Nho học không ngừng đổi mới, cho nên ảnh hưởng của nó không suy giảm, và truyền bá rộng răi đến các nước quanh vùng.
Ở Việt Nam, dưới triều đại phong kiến, Nho giáo thịnh hành, Trung Dung trở thành bộ sách giáo khoa dùng trong các trường, các lớp học chữ Hán, phục vụ cho việc thi cử, tuyển chọn hiền tài của đất nước.
Khi xưa các nhà Nho dạy chữ Hán, không chỉ dạy chữ nghĩa, mà cốt yếu là dạy cách làm người, cách đối nhân xử thế, cho nên thường lấy “Trung Dung” làm chuẩn mực đạo đức tối cao. V́ theo Khổng Tử đă nói: “Trung Dung chi vi đức dă, kỳ chí hĩ hồ! Dân tiễn cửu hĩ” (Luận ngữ, Ung dă) – (Trung dung là cái đức tốt cực điểm. Mọi người thiếu cái đức ấy đă lâu rồi). Hơn nữa, nhà nho Việt Nam xưa được đào tạo theo con đường cửa Khổng sân Tŕnh, cho nên khi bàn về kinh điển Nho gia, th́ “Dịch” và Xuân Thu là nguồn gốc lư luận tư tưởng của Nho gia. Đó là “Thiên nhân chi học 天 人 之 學”, Dịch đại biểu trời, Xuân Thu đại biểu người, trời và người ảnh hưởng lẫn nhau. Nho gia, sử học gia thời kỳ trước và lư học gia sau này đối với điều đó đều có chỗ phát huy. “Trung Dung” thực tại là kết hợp Dịch học và Xuân Thu, v́ nó nói rơ quan hệ giữa trời và người. Học giả “Chu Dịch” chú thích nhiều ở Dịch truyện, và Dịch truyện tương thông về mặt tư tưởng với Trung Dung, nhưng Trung Dung độc lập xuất hiện ở đời Tống, trở thành một trong Tứ thư. Thông qua giáo dục kinh điển và theo Nho gia Khổng Tử đă giành được địa vị chính thống trong lịch sử phát triển lâu dài ở Trung Quốc, tư tưởng Trung Dung biến thành tư tưởng chính thống. Điều này là “thể” của Nho gia, th́ dụng là cương kiện trung chính, thể dụng nhất nguyên 體 用 一 元. Triết học đạo đức là triết học thực tiễn, điều Nho gia dùng nó để giáo dục nhân dân, hun đúc rèn luyện tính cách của nhân dân, khiến nhân dân đi theo đạo “Trung Dung”. Đương nhiên về mặt cơ bản là văn minh xă hội phong kiến, so với xă hội tư bản chủ nghĩa nó thiếu khoa học, thiếu triết học hiện đại, v́ nó thiếu nhân sinh quan hiện đại. Nhưng điều này không thể quy tội ở văn minh Nho gia truyền thống, văn minh có tính giai cấp, có tinh thần thời đại. Trong xă hội phong kiến, văn minh lễ nhạc Nho giáo thích ứng với xă hội phong kiến, xă hội phong kiến không ngừng làm phong phú nó, trái lại, nó cũng làm phong phú xă hội phong kiến. Mặc dù trong xă hội phong kiến, văn minh này cũng có khi ch́m nổi, nhưng nó vĩnh viễn không bị tiêu diệt, nguyên nhân giản đơn tính cách của nó và dân tộc hợp thành một thể thống nhất. Tuy nó thiếu nền dân chủ và khoa học, chúng không có đủ hai nội dung này, không có hai nội dung này th́ không có hiện đại hóa. Văn minh và văn hóa xă hội phong kiến đương lỗi thời, nhưng đạo đức Nho gia vẫn có điểm không hoàn toàn lỗi thời, đạo đức quan của chúng, tư tưởng mỹ học của chúng, có những điều có thể măi măi chói sáng. Đạo đức có tính giai cấp, nhưng có những quy phạm hành vi làm người lại có thể vượt ra khỏi giai cấp, vượt qua xă hội mà sống măi. V́ con người vượt qua giai cấp và thời gian, cho nên có giá trị quan và quy phạm đạo đức chung, đó là quy phạm chế ước, ràng buộc đối với bất cứ người nào, nhưng có những điều ở bất cứ xă hội nào, chẳng ai có thể vứt bỏ nó hoàn toàn. Ví dụ: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều ḿnh không muốn, chớ đưa ra thi hành với người). Điều này, ở bất cứ xă hội nào, thời gian nào cũng nên là quy phạm hành vi của mọi người. V́ trong hệ thống tư tưởng Nho giáo có giá trị ở chỗ vượt qua thời gian, không gian, cho nên tư tưởng và nhân cách của họ sống măi ở đời!
Chúng ta không phải cổ xúy văn minh phong kiến, văn minh cách xa đời chúng ta. Nhưng trong văn minh truyền thống chúng ta có tinh hoa của chúng ta, tinh hoa này có thể cách xa đời chúng ta, nhưng có điẻm cần phải phát huy, không nên vứt bỏ nó.
Việt Nam ở vị trí ngă tư đường của nền văn minh, người Việt Nam quan tâm đến việc tiếp nhận những giá trị văn hóa thế giới: tiếp thu văn hóa Trung Hoa, ta có Nho giáo và Đạo giáo. Nho giáo vào Việt Nam bị truyền thống của văn hóa nông nghiệp mang đậm tinh thần dân chủ t́nh làng nghĩa xóm làm cho biến đổi. Đặc trưng của văn hóa nông nghiệp là sống trọng t́nh, trọng đức, cho nên triết học đạo đức “Trung dung” sau khi vào Việt Nam cũng phù hợp với tính cách hiếu ḥa của người Việt Nam. Lấy ḥa làm quư (dĩ ḥa vi quư 以 和 為 貴), trong cuộc sống, người ta cố gắng không mất ḷng ai. Tâm lư con người Việt Nam là trọng sự ḥa thuận, tránh đối đầu, sống nhường nhịn: Một sự nhịn chín sự lành. Ngay cả trong quan hệ gia đ́nh, vợ chồng đều lấy sự ôn ḥa làm trọng: Chồng giận th́ vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa chẳng rơi hột nào.
Tinh thần bao dung của truyền thống dân tộc lại được tiếp sức bởi văn hóa Phật giáo giàu ḷng bác ái, cho nên thời Lư Trần nó đă mở rộng cửa tiếp thu cả Phật giáo và Đạo giáo. Trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lư có t́nh, nhưng vẫn thiên về t́nh hơn. Khi cần cân nhắc giữa t́nh và lư th́ t́nh được đặt cao hơn lư: đưa nhau đến trước cửa quan, bên ngoài là lư, bên trong là t́nh. Việc trọng t́nh người trong Nho giáo Việt Nam được bổ sung bằng truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp Việt Nam, cho nên đă làm mềm đi, không đến mức quá ư hà khắc như Nho giáo Trung Hoa thâm nhập vào Việt Nam. Nhờ truyền thống dân chủ ấy, mà ở Việt Nam, dù Nho giáo sau này có giữ địa vị độc tôn và trở thành công cụ thống trị xă hội, nhưng cũng không dám trừ Phật giáo và hủy bỏ cái gốc của Việt Nam là đạo mẫu (1, tr.321)
Từ trong gia đ́nh cho đến ngoài xă hội, tính hiếu ḥa, ḷng bao dung của con người Việt Nam c̣n ghi lại ở các tên làng, tên đất, các bài ca dao... Chẳng hạn, Việt Nam là một đất nước có truyền thống chống ngoại xâm, nhưng những tên làng, tên đất có chữ Vơ (Vũ) rất ít dùng. Trong khi đó, những tên làng, tên đất có từ An, Yên lại chiếm vị trí hàng đầu trong các tên làng xă. Theo thống kê của Giáo sư Nguyễn Đức Nghịch, trong số các tên làng xă từ Hà Tĩnh trở ra có đến 768 xă thôn tên gọi có từ An hay Yên. Nếu cộng thêm những tên làng xă có các từ với ư nghĩa tương đồng, như Ninh, B́nh, Định th́ con số c̣n lớn hơn nhiều (2, tr.240 – 241).
Qua đó, chúng ta thấy con người Việt Nam luôn muốn sống b́nh yên, chan ḥa với Thiên, địa, nhân (trời, đất, người), không thái quá bất cập, dung ḥa môi trường xă hội – thiên nhiên – con người.
Điều này c̣n phản ánh rơ nét trong những bài ca dao, như bài Thằng Bờm:
Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú ông xin đổi ba ḅ chín trâu.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,
Phú ông xin đổi ao sâu cá mè,
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè.
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim,
Phú ông xin đổi đôi chim đồi mồi.
Bờm rằng; Bờm chẳng lấy mồi.
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Bài ca dao “Thằng Bờm” được phổ biến rộng răi và gây hứng thú cho mọi người từ già đến trẻ, từ trí thức đến tầng lớp b́nh dân. Ca dao thường là nội dung trữ t́nh, khi th́ than thân trách phận, khi th́ phẫn uất đấu tranh. Riêng ở bài “Thằng Bờm” xuất hiện một hoạt cảnh, truyền đạt khát vọng hồn nhiên, mộc mạc, ước mơ được sống trong xă hội hài ḥa.
Bức tranh xă hội sinh động chỉ có hai nhân vật: thằng Bờm và phú ông.
Thằng Bờm đại biểu lớp người nghèo, nhỏ tuổi. Phú ông đại biểu lớp người giàu sang, lớn tuổi. Hai người sinh hoạt với nhau, đối thoại, chứ không đối đầu, không thái quá, bất cập. Đó là dấu ấn của xă hội hài ḥa, thanh b́nh, không có bất ḥa, tranh chấp.
Phú ông không phải là người giàu, cậy thế nhiều tuổi bắt chẹt người nghèo, bắt nạt trẻ con, nhưng v́ thích cái quạt mo, cần có tiện nghi mát mẻ th́ lên tiếng đối thoại, trao đổi thực t́nh. Thằng Bờm không tham lam, không tự ti mặc cảm và rất nghiêm chỉnh trong cuộc đối thoại. Hai nhân vật đối thoại hoàn toàn tự do, b́nh đẳng và thẳng thắn trao đổi với nhau, chân t́nh trong cuộc đối thoại để t́m hiểu nhu cầu và nguyện vọng của nhau, thông cảm nhau. Thằng Bờm ít tuổi, chỉ có cái quạt mo, cho nên làm chủ ngữ câu sáu. Phú ông hơn tuổi lại có đủ thứ: trâu ḅ, ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi, cho nên làm chủ ngữ câu tám. Cảnh hài ḥa thể hiện ngay trong cấu trúc thể thơ lục bát. Mỗi người làm chủ một câu, thay phiên nhau phát biểu ư kiến, không cướp lời nhau, không át giọng nhau.
Xă hội hài ḥa thu hẹp trong sinh hoạt tươi vui giữa hai nhân vật c̣n biểu lộ thái độ và lời nói biết tôn trọng người đối thoại và tự trọng đúng mức.
Bài ca dao bên ngoài có vẻ khờ dại, ngốc nghếch, nhưng bên trong chứa đựng những nguyên tắc chủ yếu cho một xă hội công bằng, đem lại niềm vui hiền ḥa, mộc mạc cho mọi người.
Phú ông thấy thằng Bờm ngây thơ, khờ dại, nhưng không v́ thế mà bắt nạt, hăm dọa, dụ dỗ để cướp lấy quạt mo trên tay thằng bé.
Thằng Bờm cũng thế, Bờm không v́ cung ít cầu nhiều mà tham lam, chớp thời cơ bán ra với bất cứ giá nào. Bờm không v́ nghèo, chỉ có cái quạt mo mà tán tận lương tâm, đổi lấy ao cá, gỗ lim, chim đồi mồi... Bờm biết giá trị thực của cái quạt để đổi lấy đồ vật hay đồng tiền tương xứng. V́ thế, khi nghe phú ông nói “nắm xôi” th́ Bờm cười. Bờm đồng ư. Một người tưởng như khờ dại mà lương tâm trong sáng, biết tôn trọng công bằng xă hội.
Bức tranh xă hội hài ḥa thu hẹp với hai nhân vật đại diện cho hai hạng người, biết đối thoại và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng sự công bằng.
Sinh hoạt giữa người với người, trao đổi với nhau nắm xôi, cái quạt mà cũng thấy hài ḥa lư thú, như trao cho nhau một trái đào tiên trong cơi thiên thai tuyệt diệu (3, tr.129-136).
Thậm chí tính cách ḥa hiếu, bao dung biểu hiện cả ở lĩnh vực quân sự, ngoại giao. Truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm, quân giặc bị bao vây, ta nắm chắc phần thắng, cha ông ta luôn biết dừng lại và chủ động cầu ḥa, mở đường cho quân giặc rút lui về nước trong danh dự. Chẳng hạn, câu chuyện quân Vương Thông bị bao vây ở thành Đông Quan: “Nguyễn Trăi biết quân Minh ở vào một t́nh thế buộc chúng phải cầu ḥa. V́ vậy, ông đă khuyên Lê Lợi nên t́m cách dụ hàng hơn là dùng lực lượng quân đội đánh Vương Thông. Nghe lời Nguyễn Trăi, Lê Lợi một mặt sai nới ṿng vây, một mặt phái sai Nguyễn Trăi viết thư cho Vương Thông khuyên Vương Thông sớm ra hàng. Kết quả Vương Thông không đợi mệnh vua Minh, tự ư giảng ḥa với quân Lam Sơn rồi kéo quân về nước” (Theo tiên sinh tự trạng khảo của Dương Bá Cung) (4, tr.13).
Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, có rất nhiều câu chuyện về ḷng khoan dung của con người Việt Nam mà mọi người trên thế giới đọc đến cũng phải cảm động, ngạc nhiên. Đây chỉ là một trong những câu chuyện: “Anh Lại Như Huyện trung đội trưởng du kích xă Kinh Kệ (huyện Phong Châu, Vĩnh Phú) bắt được phi công Mỹ ngày 6-10-1972, đă mua áo ngoại cỡ và lấy chiếc quần bộ đội mới cho y thay - chiếc quần bộ đội đó là kỷ vật của em trai từ chiến trường gửi về trước lúc hi sinh! Sau này (năm 1995), khi phóng viên Mỹ hỏi: “Chẳng lẽ lúc đó ông không c̣n căm giận kẻ thù của ḿnh nữa hay sao? th́ ông Huyện đă trả lời: “Lúc ấy tôi chỉ nghĩa là phải thay quần áo cho anh ta để trước mặt bà con, anh ta không c̣n là kẻ đi gây tội ác, để mọi người nguôi ngoai cơn giận mà đối xử nhân đạo với tù binh” (báo Quân đội nhân dân, ngày 5-8-1995).
Qua đây, chúng ta thấy, dân tộc Việt Nam tiếp nhận và vận dụng linh hoạt triết học đạo đức “Trung dung” của Nho giáo là như thế đấy. Trung dung không hái quá bất cập. Trung dung không phải là né tránh, cũng không phải là chiết trung, đoàn kết một chiều. Chúng ta không cực đoan tiến bước, thực hiện cân bằng phát triển, trái phải phân minh, nghĩa t́nh trọn vẹn.
Hà Nội, 20 tháng 7 năm 2004
LVQ
Chú thích:
1. Trần Ngọc Thêm, T́m về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Thành phố *** 1997
2. Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn Bàn về khoan dung trong văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1997
3. Đông Phong, Về nguồn văn hóa cổ truyền Việt Nam, NXB Mũi Cà Mau, 1998
4. Nguyễn Trăi toàn tập, NXB Khoa học xă hội, Hà Nội 1969
|