thangcutang Hội viên
Đă tham gia: 03 February 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 169
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 09 February 2006 lúc 10:47pm | Đă lưu IP
|
|
|
VĂN HÓA CỔ VIỆT (TT)
(Mến tặng qúy ông Địa Kỳ Tài, Thiên Khôi T́m Vui, Thiên Sứ, Nắng Hoa... và và những người học Dịch. thangcutang)
Bài V: VĂN HÓA CHI BANG
(Duy ngă Đại Việt Quốc thực vi văn hóa chi bang _ B́nh Ngô Đại Cáo Nguyễn Trăi)
Phải chăng v́ tự ái
Giống Rồng Tiên nhắc măi bốn ngà năm
“Văn Hóa Chi Bang” thuộc mấy chữ nằm ḷng
Chờ có dịp đem khoe cùng thiên hạ
Nhưng đâu là đỉnh cao, đâu là văn hóa,
Tính đăc thù khác lạ của ta đâu ?
Chữ hữu, vô cóp nhặt chú Ba Tàu
Đường tâm đạo thuộc mấy câu anh Bảy!
Tính khôn vặt xem ra chừng bén nhạy
Đón gió trào lưu Duy Vật kém chi ai
Tài bẩm sinh ép cơm hẩm cơng khoai
Tính thủ lợi miệt mài đường mău sắt
Lịch sử sang trang, trao lưu chuyển ngoặc
Xếp hạng đàng sau xa lắc vẫn mơ hồ
C̣n nủa kia vượt biển cả mưu đồ
Hay là cũng chạy theo đô của Mỹ?
Cấu cắn nhau dung toàn chiêu hiểm bí
Chuyện đồng bào, đồng bọc, chuyện vu vơ
Cha Mẹ Rồng Tiên hư thực biết đâu giờ ?
Lối dĩ văng mập mờ trăng đáy nước!
“Lời không lời” (1) làm sao ai hiểu được
Huyền thoại “tam sao thất bổn” ích ơn ǵ ?
Hệ số Âm Dương thứ đó để làm chi ?
Đạo Thường Đạo (2) khác ǵ bao Đạo khác ?
Khoa học dang lên, tôn giáo đang cùn mạc
Câu “trí giả bất ngôn” (3) chừng bác đă quên rồi ?
Bẻ cây ḥng trời cao chống được đâu (4)
Mà đem sách Ước (5) mưu cầu chấn hưng
Quen nhau khuyên bác thôi đừng!
_______
(1): Ngôn bất ngôn: Lăo Tử (2): Đạo Thường Hằng cũng là Đạo của người Việt Thường, Cổ Việt không sử dụng ngôn ngữ qui ước mà được diễn đạt bằng hai chữ toán lư số tương đối là Càn (___) và Khôn (_ _) để h́nh thành các con Bát Quái và 64 Quái Dịch nhằm chỉ ra các qui luật thiên nhiên thựng hằng gọi là Thiên Đạo và những qui luật tốt nhất về nhân văn mà con người nên theo gọi là Nhân Đạo; và bởi không thể diễn đạt bằng danh hay bằng chữ qui ước nên Lăo Tử bảo rằng Thường Đạo Vô Ngôn và không thể dung danh để nói về nó: “Danh khả danh phi Thường danh” (3) “Trí giả bất ngôn, ngôn giả bất trí”: Lăo tử, có nghĩa là người biết th́ không nói và người nói th́ không biết. (4) Chân ngôn Việt: “Bẻ nạn chống trời”, mang nghĩa là đơn thương độc mă làm chuyện không thể làm được (5) Được xem như là Kinh Vô Tự của ḍng tộc được h́nh thành không bằng chữ viết mà bằng các nét rời đứt là chữ Càn (___) Khôn như những dấu trên đốt tre, trúc.
Bài VI: LỐI VÀO THƯỜNG ĐẠO
Bao lần cũng muỗn THÔI ĐỪNG
Nhưng sao thấy khó dửng dưng với đời
Xưa Nữ Oa đội đá vá trời
Thôi th́ thôi, cứ thử chơi một lần
Nói không được? _ Đâu cần phải nói!
Đạo Thường xưa thuộc loại vô ngôn
V́ vô nên mới trường tồn
Hũu ngôn đâu gói Càn Khôn được nào
Vô gói cả trời cao đất thấp
Vô qua bao vùi dập không tan
V́ vô nên vượt thời gian
Nhờ vô nuôi được cả đàng trăm con:
“Vuông th́ theo Mẹ lên non
Đường tâm giữ lấy, trí tṛn theo Cha “(1)…
Trời đất không lập ra văn tự
Đạo Thường Hằng một chữ cũng không
Mà ṿng Xuân, Hạ, Thu, Đông
Dẫu trăm năm vẫn một ḷng thủy chung
Cho hay vô thật vô cùng
Hiểu vô mới thấy lạ lùng của vô
Lời đóng cột là đồ vứt bỏ
Hữu xưa nay đâu có trường tồn
Vạn kinh điển sách hữu ngôn
Ích ǵ lời thế mà tôn mà thờ
Hôm qua đúng bây giờ lại trật
Thế mới hay những bậc thượng thừa
Nói rồi lại nói rằng chưa
Phải điều mạc khải mới vừa ḷng ta (2)
Đám học gỉa chưa là học thiệt
Thế cho nên càng viết càng sai
Thời gian rồi cứ qua hoài
Bây giờ mới thấy rơ tài ông cha
Không them một chữ viết ra
Chỉ dung h́nh số Ông Bà, Âm Dương
Nói lên tất cả Luật Thường (3)
Để cho mọi thứ làm gương soi vào
Mấy vần thơ muốn cao rao
Mong cho con cháu tự hào ḍng ta
Và mong lập lại an ḥa
Dẫu người “núi”, “biển” vẫn là anh em
Trở về văn hóa Đồng nguyên
Đưa con người lại một miền trờ xưa
Vô ngôn viết mấy cho vừa
Viết nhiều càng thấy như chưa viết ǵ
Lối Thường mời bác thử đi!
_____
(1) Nằm trong ư câu “Nhân giả nhạo sơn, trí giả nhạo thủy”, rút ra từ ư nghĩa của qủe Cấn (Đất mẹ cũng là con đường tu tâm đức); và con Khảm (Thuần Khảm) có nghĩa khó khăn, nguy hiểm và để đối đầu với cái nguy khó nầy phải dùng đến trí tuệ mà vượt qua như Thoán từ của Khảm viết: “Tậm Khảm hữu phụ, duy tâm thanh hành hữu thượng”. Đạo vuông tṛn là Đạo của Cha Rồng Mẹ Tiên , của Âm Dương Hà Lạc (Hà đồ tṛn, Lạc Thư vuông)
(2) “Ta nói nước thiên đàng cho các tong đồ bằng mạc khải và người ngoại đạo bằng dụ ngôn _ Đấng Christ
(3) Luật Thường Hằng , không thể diễn đạt bằng lời mà chỉ hiểu được nó qua Đạo Dịch, thể hiện qua Kinh Dịch tức qua hệ thống Lư Số được gọi là Dịch Lư
Bài VII: CHÚC THƯ D̉NG TỘC
(Tâm thức Việt đang đơm bong kết trái _ Đem Rồng Tiên để viết lại sách kinh)
Có một điều rất lạ
Nghe hoang đường hơn cả chuyện hoang đường
Vào thời trước cả các Hùng Vương
Có hai vị “quán” (1) thông ḍng lịch sử
Hai ngài viết di chúc không một chữ
Đặt tên là Sách Ước với Gậy Thần
Rồi truyền ḍng lưu giữ nó trong dân
Bởi sẽ có lúc phải cần đến nó…
Sách gói cả trăm ḍng trong bọc nọ
Mà dân gian gọi bọc đó “Đồng bào” (2)
Sách không lời nhưng ư nghĩa gồm bao
Được dấu kín trong tượng h́nh Hà Lạc
Một trăm trứng nở trăm con tản mát
Nửa theo cha: 55 trứng vuông tṛn (3)
Mẹ ở nhà nhận lănh nửa đám con
Cả trai gái gồm 45 cô cậu (4)
Hoàng tử Liêu Lang (5) xem kỳ thư hiểu thấu
Nên đă dùng hai tượng bánh chưng, dầy
Trong cuộc thi Hùng Vương 6 trước đây
Ông đă được chọn truyền ngôi cửu ngũ (6)
Qua h́nh tượng hai h́nh nói lên đủ
Tài của Ông và đức độ của Ông
Tài bởi v́ ông chứng tỏ làu thông
Cái di chúc ẩn tàng trong Hà Lạc
Hiểu sách không lời qủa ông uyên bác
Thử nhẩm coi trong thiên hạ mấy ai ???
H́nh cửu cung (7) di chức được an bài
Ở phương Bắc 9 dương cương trấn giữ (8)
Bởi phương nầy muôn đời mang lấy chữ
Khảm (hiểm nguy) trong Bát Quái hậu thiên
Đây là phương phải đối diện triền miên
Suốt ḍng sử là phương Thiên Thủy Tụng (9)
C̣n phương Đông 7 tượng dương (10) rơ đúng
Để đối đầu thường trực đám Tinh Ngư (11)
Từ Kinh Dương Vương, Sùng Lăm đến chừ
Biển vẫn động do ḱnh ngư vẫy sóng!
Suốt ḍng sủ biển Đông là điểm nóng
Phân bố dương như thế qủa không sai
7 dương Càn theo hệ số các Ngài
Với 6 nét viết ra là qủe Bỉ ( )
Đất phương Nam dương tận cùng dương chí
Một dương Nam ám chỉ đất đắp bồi (12)
Do phù sa tô điểm mũi Cà Mâu
H́nh tượng Bát ( ) của 1 dương dịch số (13)
Nam tận cùng Tây Nam là sinh lộ
Mà Tây Nam là số 8 Lạc Thư
Học 8 Khiêm giữ lấy Đạo của Người (14)
Sách Cha viết rơ đúng mười như chục !
Lời của Cha là những lời di chúc
Nhằm định phương và định vị nước nhà
C̣n Hà Đồ là do Mẹ viết ra
Viết để tặng đám “theo Cha ra biển”
Lịch sử nh́n xa là chu kỳ miên viễn
Của thịnh, suy như Xuân, Hạ, Thu, Đông
Trên đường đời đầy rẫy những gai chông
“Thư” của vợ nhằm nhắc chồng định tính
Dương cương cường, dương nhận mang mạnh lịnh
Chấp nhận thương đau cho nước mở mang ra (15)
Trên Hà đồ là con số 13
Là số Lữ nhằm nói ra tính ấy (16)
Măi chuyện nhỏ, quên chuyện to là bậy
T́nh quê hương, nghĩa đồng bào c̣n đấy
Số 12: Tiểu qúa nhớ chăng (17) ?
Xa cách mặt khó khăn ai vẫn đợi
Con 11 Dịch viết là tiến tới
Tiến từ từ, ngày một tiến dần dần
Gió trên đồi nhè nhẹ thổi lân lân
Như khích lệ bước chân người tiệm tiến (18)
T́nh núi sông, nghĩa đồng bào trời biển
Trạch Sơn Hàm số 14: cảm nhau (19)…
Gẫm mà coi tự trước đến ngàn sau
Số Hà Lạc vẫn luôn luôn nghiệm ứng
Dẫu thăng trầm đất nhà Nam vẫn vững
Chân ra đi mà ḷng muốn quay về
H́nh mẹ già đứng ngóng đợi trời quê
Bóng vợ trẻ bồng con nơi núi Vọng…
Số Hà Lạc, số thay lời cô đọng
Lạc định h́nh, Hà định tính nói trên
Và hai h́nh nếu đem chúng chồng lên
Ta có toán rút ra từ 100 trứng (20):
_ Hệ bách phân mở đầu như ngữ vựng
Muốn tiến xa ta phải vững hệ nầy
Rằng cân, đo, đong, đếm được từ đây
Đó là hệ cả Đông Tây xài nó
Sau hệ nầy ngày nay ta them có
_ Hệ nhị phân c̣n gọi “đ i-gi-tồ” (digital)
Thay v́ dùng mười con số viết vô
Nó sử dụng con 0 và con 1
Ông Leinitz (21) lấy Dịch làm mối chốt
Từ Âm Dương ông phát kiến chuyển sang
Bởi chỉ có âm Khôn (_ _) và chỉ có Dương Càn (___)
Mà Dịch viết với vô vàn con số
Ông ngạc nhiên, rồi bỗng ông tỉnh ngộ
Dùng 1, 0 để lập hệ nhị phân
Nhân loại ngày nay được ơn ích vô ngần
Ngành tin học bây giờ dung hệ đó
_ Hệ thứ ba: có từ thời Dịch có
Có từ thời vừa mới có “Tiên”, “Rồng “
(Nói khác đi là huyền tự “Bà, Ông”
Đó là hệ của Âm Dương Tương Đối
Hệ số nầy qủa ít người lĩnh hội
Nên xưa nay ít có kẻ biết dùng
Hay biết là cũng chỉ biết chung chung
Biết rằng Dịch và Dịch là tương đối
Giờ muốn rơ chúng ta làm phép đổi
Lấy Thập phân chuyển sang hệ nhị phân
Từ hệ nầy lại chuyển đổi sang dần
Bằng những nét Âm (_ _) Dương (___) hệ Dịch
Trong thơ ngơ về sau sẽ giải thích
(Muốn am tường xin xin đọc đến phần bên) (22)
100 con viết ra Dịch nói lên
Được tất cả Đạo Thường trong vũ trụ:
Chỉ tám số, chỉ tám con cũng đủ
Vạch nên h́nh Bát Quái kỳ thư
Từ khai thiên lập địa đến bây chừ
Luật Trời Đất vẫn y như Bát Quái!
Để rơ them phần nầy xin xem lại
Bài thơ về Đạo lư Việt cổ xưa (23)
Nhân tiện đây người viết cũng xin thưa
Rằng Kinh Dịch cũng từ 100 trứng nọ…
Việc chồng h́nh tạo ra h́nh “Rùa” đó
Rùa thần là Rùa di chúc Ông Cha
Nếu rút từ các số của “Rùa” ra
Ta sẽ có được con đường cứu nước:
Phương Bắc ta từ nhiều ngàn năm trước
Kể từ khi lập quốc đến bây giờ
Vẫn là phương nguy hiểm của kỳ thơ
Bởi mang số 23 Thiên Thủy Tụng ( ) (24)
Nên xuôi Nam là con đường măi đúng
Khi quê nhà c̣n đang độ giá đông
Số 8 Khiêm ( ) vẫn là hướng chim Hồng (25)
Hướng phát triển, hướng hanh thông Nam tộc
Nay đang độ cơn giá đông tàn khốc
Năm 75 nửa đám phải “theo Cha” (26)
Trên đồ h́nh là con số 13
Là số Lữ ( ) mà chúng ta đă biết
Nửa c̣n lại chịu vô vàn cay nghiệt
Việc chồng h́nh chỉ rơ phải làm sao
Dựa vào đâu, lối giải ở phương nào?
Làm sao để khỏi rơi vào tử lộ?
Trên lưng “Rùa” sẵn giải bày chữ số:
6 Đông Nam Trạch Địa Tụy ( ): Hợp quân (27)
Số Rùa khuyên liên kết với đông lân
Tạo thêm lực, mở thêm dần vây cánh…
Con 20 nằm phương Đông sát cạnh
Là tượng h́nh Lôi Thủy Giải ( ) (28) giúp ta
Giữ Đạo Khiêm ( ) là mối chốt giải ḥa
Là đường lối của quốc gia đại sự
Li ( ) là sáng nơi con 5 giữa trử
Trong Hà Đồ và trong cả Lạc Thư
Nếu chống lên chúng tạo được con 10
Là con Kiển ( ) chỉ phận người dân Việt
Con số 5, hệ 6 hào,ta viết
Nó thành ra Hỏa Địa tấn ( ): Tiến lên
Muốn thành công BI TRÍ DŨNG chớ quên
Phải sáng suốt mới làm nên đại sự…
Rồi ḍng Việt sẽ viết trang kỳ sử
Đưa Đông Tây về chung mối hiệp ḥa
Cả loài người cùng chung khúc hoan ca
Mừng huyền thoại thăng hoa thành hiện thực
_______
(1): Phong Đ5a Quán: từ Dịch lư, có nghĩa là quan sát chính những ǵ sự vật tự nó thể hiện ra (2): Đồng bào có nghĩa là cùng một bọc, nhắc về Huyền Thoại chia con với hai h́nh đồ Hà Lạc được chồng lên nhau tạo thành trăm trứng của bọc Mẹ Âu Cơ. (3): 55 chấm tṛn đen trắng trên h́nh Hà Đồ (gồm 25 chất trắng và 30 chấm đen), được xem như là h́nh của Mẹ (55 có số tổng là 5+5=10, là số của Mẹ) gởi cho cha để chỉ ra định tính và định luật, trong lần chia tay và chia con. (4): 45 là số của Lạc thư, được xem đây là đồ h́nh của cha (45 có số tổng 4+5 = 9, là số của Cha được thiết trí trên h́nh vuông mang tính âm để chỉ ra định h́nh và định vị) gởi cho Mẹ và đám con theo Mẹ ở lại trị nước, nên ngôi trị nước (vua) là ngôi cửu (9) ngũ (5) (9x5=45). (5) : Liêu Lang tức Tiết Liêu có sách viết là tiết Liệu là người con thứ 18 của Hùng Vương 6, chính ông nầy đă thắng trong cuộc thi tuyển chọn vua qua việc làm hai bánh chưng, dầy mang tượng h́nh Hà Đồ (tṛn) và Lạc Thư (vuông) (6): Ngôi cửu ngũ: Ngôi vua (7): Cửu Cung: tên gọi khác của Lạc Thư (8): Trên Lạc Thu ở phía Bắc của h́nh được thiết trí 9 chấm tṛn trắng mang tượng ư như là rải binh đội nhiều nhất để đối đầu với phương nầy. (9): Khi hai h́nh Hà Lạc một vuông, một tṛn chồng lên nhau, các chấm trên hai h́nh nầy sẽ tạo ra h́nh Ruà Thần mà ở phương Bắc là 23 chấm và con 23 viết ra hệ lư số là con Thiên Thủy tụng chỉ ra nghĩa có sự tranh tụng thường xuyên ở phương nầy (xem h́nh) (10): Phương Đông của Lạc Thư là con 7 (11): Nhắc chuyện Kinh Dương Vương và Sùng Lăm (về sau lên ngôi lấy hiệu là Lạc Long Quân) đă tiểu trừ loài tinh nầy (có lẽ là các tộc dân nằm ngoài biển Nam Hải (Biển của người Nam) (12), (13): Con 1 (1 chấm trắng) nằm phía Nam h́nh Lạc Thư và khi viết con 1 nầy ra Dịch số sẽ là con Sơn Địa Bát, có h́nh tượng một nét dương Càn (___) vừa tồn đọng trên 5 con âm Khôn (_ _) (14): Địa Thiên Khiêm là cái Đức khiêm nhường mà Hán nho chữ nghĩa hóa nó ra là: “Dĩ đức động thiên, vô viễn phất giới, măn chiêu tổn, khiếm thụ đắt, thời năi thiên Đạo” (15): Tính của dương là li tâm, hướng ngoại, bung ra …, Hán nho chữ nghĩa hóa là “Nam chủ ngoại, nữ chủ nội” (16): Số 13 nằm trên Hà Đồ khi chuyển sang lư số là con Hỏa Sơn Lữ, mang tượng ư là lửa cháy (chiến tranh) trên quê hương đất mẹ khiến con dân phải bỏ xứ ra đi thành người lữ thứ. Điều này nghiệm ứng với việc chia con trong huyền thoại, với thời Lư Long Tường trốn nhà Trần và với sự ra đi của hàng triệu con dân Việt trong sự kiện sau 30 tháng 4 năm 1975. (17): Con 12 là tổng số các chấm nằm trên Hà Đồ về hướng Nam, viết ra lư số là con Lôi Sơn Tiểu Qúa, mang nghĩa là nhỏ qúa, v́ trong đó ngôi Nhân Hoàng (Ngôi hai, cả nội quái cũng như ngoại quái, là âm vị lại được thiết trí bằng hào âm nên nhân hoàn bị xem nhẹ, nhỏ qúa, không tốt! Đám theo Cha bung ra ngoài mà quên mất mẹ già và vợ trẻ bồng con chờ đợi ở nhà… (18): Con 11 nằm chính Tây của Hà Đồ, viết ra lư số là con Phong Sơn Tiệm, mang nghĩa tiến tới từ từ (19): con 14 chính Bắc Hà Đồ viết ra lư số là con Trạch Sơn Hàm, có nghĩa là yêu nhau, cảm nhau, tuy xa cách ngàn trùng nửa theo Cha và Mẹ vẫn không quên nhau mà luôn luôn mong ngày đoàn tụ như lời dạy của Cha Rồng Mẹ Tiên là t́m hợp nhau ở “Cánh Đồng Tương” (20): Trăm trứng nầy là trăm trứng 50 trắng + 50 đen, tượng trưng cho Rồng Tiên hay âm dương nên khi viết 100 nầy sẽ cho ra ba dạng tóan số là Bách phân (hay thập phân), hệ nhị phân nếu dung 0 là đen và 1 và trắng và hệ Dịch số nếu viết với nét Khôn (_ _) là đen và Càn (___) là trắng. (21): Leibnitz, nhà toán học kiêm triết học người Đức đă sang chế ra hệ nhị phân bằng cách dùng con 0 thay cho con Khôn (_ _) và con 1 thay cho con Càn (___) của Dịch số (22): sẽ post lên trong những kỳ tới (23): sẽ được đưa lên trong bài “Bát Quái và Đạo Lư Cổ Việt” (24): 23 nằm chính Bắc của Rùa Thần, viết ra lư số là Thiên thủy Tụng, là tranh tụng, tranh chấp (25): con 8 nằm hướng Tây Nam Rùa thần viết ra lư số là con Địa Sơn Khiêm, nghĩa của nó đă được đề cập ở trên. Và để truyền ḍng, ḍng Việt tự nhận ḿnh là giống thiên di Hồng Lạc xuôi Nam t́m nắng ấm, như bài thơ của Ngu Ư Nguyễn Hữu Ngư, bên dưới:
“Mặt đất Bắc nặng dày băng tuyết
Sự sống c̣n le lói tợ ma trơi
Giống chim Hồng, chim lạc khắp nơi nơi
Vội vỗ cánh xuôi Nam t́m nắng ấm
Và tự hẹn đến mùa xuân khoe thắm
Người tung tăng và chim véo von ca
Sẽ cùng nhau ngược ḍng Nam tiến
Trở về thăm quê cũ đợi ai mà”
(26): “Theo Cha ra biển”: lời truyền ḍng được tải chuyển qua huyền thoại chia con của Cha Rồng Mẹ Tiên (27): 6 viết ra Dịch số là Trạch Địa Tụy, nghĩa của nó là nhóm hợp, xin xem h́nh (28): Giải là giải tỏa, giải quyết; ở đây giải quyết vấn đề truân chuyên Thủy Lôi truant được chỉ ra bởi h́nh Tiên Thiên chồng trên Hậu Thiên bát Quái, ở hướng Đông nầy của đám con theo Cha.
Bánh Chưng &n bsp; Bánh Dầy
Lạc thư &nbs p; Hà Đồ
Rùa Thần
Xin có lời cáo lỗi là tôi đă không post lên được các con dịch số và các đồ h́nh minh họa. thangcutang
|