Tác giả |
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 1 of 5: Đă gửi: 06 October 2006 lúc 8:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Trước hết cho tôi bày tỏ sự cảm ơn đối với ban quản trị diễn đàn đă mở lại mục VĂN HIẾN LẠC VIỆT , tạo một điều kiện cho việc xiển dương văn hóa Việt nếu không phải trên quốc tế th́ cũng là trong cộng đồng người Việt của chúng ta . Văn hoá trong lịch sử nhân loại vốn phi thới gian và là một thực tại khách quan so với tư tưởng chính thống qua mọi thời đại.
Tôi hy vọng rằng tôi sẽ đóng góp những phần nhỏ của ḿnh vào việc t́m về cội nguồn văn hoá Việt cùng anh chị em hội viên trên diễn đàn .
Chân thành cảm ơn sự quan tâm của quí vị và anh em .
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 2 of 5: Đă gửi: 06 October 2006 lúc 8:54pm | Đă lưu IP
|
|
|
KÍNH THƯA QUÍ VỊ QUAN TÂM.
Bài viết "Bí ẩn 60 hoa giáp" là một phần trong bài viết: "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt". Nhưng v́ người viết nhận thấy rằng: bài viết "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt" liên quan đến nhiều vấn đề trong nhiều lĩnh vực thuộc lư học Đông phương. Bởi vậy, người viết sợ ư tưởng miên man, không tập trung. Nên người viết tách riêng bài này làm một chủ đề riêng cho tiện theo dơi. Bài viết này là sự bổ sung nhưng luận điểm đă tŕnh bày trong cuốn sách "Thời Hùng Vương và bí ẩn lục thập hoa giáp". Nhưng v́ với điều kiện của thực tế người viết vào lần viết thứ nhất 1999 và tái bản lần hai vào 2002, hoàn toàn thiếu thốn tư liệu, nên những luận cứ c̣n thiếu những tư liệu dẫn chứng. Từ cuối năm 2003, do sinh hoạt trên tuvilyso.com và sau này là vietlyso.com, người viết có điều kiện thu thập được nhiều tư liệu để bổ sung dẫn chứng cho những luận điểm của ḿnh. Những tài liệu của các học giả Trung Hoa cổ mà nội dung của nó chỉ làm rơ hơn tính chân lư của việcc đổi chỗ Thuỷ Hoả, đă chửng tỏ rơ hơn tính chân lư của nó.
Để tiện việc theo dơi, bài viết này chia làm 4 phần chính:
# Phần I:
Lập luận của các học giả Trung Hoa cổ kim, nhằm giải thích về bảng nạp âm 60 hoa giáp.
# Phần II:
Chứng minh nguyên tắc lập thành của bảng 60 hoa giáp theo cổ thư chữ Hán.
# Phần III
Chứng minh nguyên lư của bảng Lạc thư hoa giáp (Đổi chỗ Thuỷ Hoả trong bảng 60 hoa giáp từ sách cổ viết bằng chữ Hán).
# Phần IV
Tính hợp lư trong việc giải thích các vấn đề liên quan của Lạc thư hoa giáp. Đây là một trong những tiêu chí khoa học để thẩm định giá trị của một lư thuyết khoa học.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Để bài viết được liền mạch, người viết hy vọng quí vị quan tâm sẽ không viết bài xen ngang khi chủ đề chưa kết thúc. Người viết hy vọng mọi thắc mắc và những ư kiến phản bác cũng như ủng hộ được thể hiện ở một topic khác.
Xin được sự lưu ư của quí vị: Chữ phần trích dẫn được hiển thị màu xanh bleu.
Trân trọng cảm ơn quí vị.
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 3 of 5: Đă gửi: 07 October 2006 lúc 6:44am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NẠP ÂM 60 HOA GIÁP
PHẦN I
Một hệ quả ứng dụng quan trọng của học thuyết vũ trụ quan Âm Dương ngũ hành chính là lịch pháp và nạp âm trong bảng Hoa giáp với chu kỳ bội số chung nhỏ nhất – một tiền đề cho mọi phương pháp ứng dụng của nó – là 60 năm.
Nhưng bảng nạp âm hoa giáp 60 năm tồn tại trong cổ thư chữ Hán cũng không tránh khỏi một hiện tượng chung cho tất cả các phương pháp ứng dụng khác của thuyết Âm Dương Ngũ hành là không có một nguyên lư lư thuyết là tiền đề cho sự tồn tại của nó. và là một đều bí ẩn trải hàng ngàn năm - Kể từ khi nền văn hiến vĩ đại của người Lạc Việt sụp đổ ở miền nam sông Dương Tử.
Chính ông Thiệu Vĩ Hoa - một nhà nghiên cứu nổi tiếng Trung Hoa hiện đại; đă phải thừa nhận rằng:
Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tư căn cứ theo nguyên tắc ǵ để xác định; người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rơ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch. Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 Giáp tư biến hoá vô cùng; đối với giới học thuật của Trung Quốc cho đến nay vẫn là huyền bí khó hiểu”
(Trích trong sách:Chu Dịch và dự đoán học. Trang 68. Thiệu Vĩ Hoa. Nxb Văn Hoá Thông Tin 1996.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Hàng ngàn năm đă trôi qua với sự hiện diện của bảng 60 Hoa giáp. Cũng đă có nhiều học giả Trung Hoa t́m cách lư giải nguyên lư nạp âm Ngũ hành trong 60 hoa giáp. Bây giờ chúng ta thử t́m hiểu xem họ đă lư giải như thế nào; mà cho đến nay hậu thế vẫn cho là chưa rơ ràng và các nhà nghiên cứu hiện đại vẫn cho rằng huyền bí.
Đoạn trích dẫn dưới đây trong bài Luận Ngũ Hành nạp âm; mục Lư số Dịch bốc;Tuvilyso.com. T/g Không Kiếp Minh Tâm; sẽ cho chúng ta một ư niệm về cách luận giải của người xưa về nguyên lư nạp âm của ngũ hành trong bảng lục thập hoa giáp.
LUẬN CAN CHI NGŨ HÀNH NAP ÂM
Sách Chu Lễnói về:
“Danh hiệu của 10 Nhật, danh hiệu của 12 Thời, danh hiệu của 12 Nguyệt, danh hiệu của 12 Tuế, danh hiệu của 28 Tinh Tú” mà về sau Trịnh Huyền giải thích rằng: “Nhật bảo rằng từ Giáp đến Quư; Thời bảo rằng từ Tí đến Hợi; tháng bảo rằng từ Châu đến Đồ; Tuế bảo rằng từ Nhiếp Đề Cách đến Xích Phấn Nhược; Tinh Tú bảo rằng từ Giác đến Chẩn”. Thời xưa người ta dùng đó để mà ghi chép năm tháng ngày giờ thành lịch.
Sách Nhĩ Nhăgiải thích rộng thêm rằng:
“Nguyệt Dương (biệt danh của lịch xưa dùng 10 Can để ghi chép tháng), nguyệt tại Giáp gọi là Tất, tại Ất gọi là Quất, tại Bính gọi là Tu, tại Đinh gọi là Ngữ, tại Mậu gọi là Lệ, tại Kỷ gọi là Tắc (quy tắc), tại Canh gọi Trất, tại Tân gọi là Tắc (bít, lấp), tại Nhâm gọi là Chung, tại Quư gọi là Cực. Nguyệt Danh (biệt danh để ghi chép tháng trong nông lịch—vụ mùa) tháng Giêng là Châu, tháng Hai là Như, tháng Ba là Mị, tháng Tư là Trừ, tháng năm là Niết, tháng Sáu là Thả, tháng Bảy là Tương, tháng Tám là Tráng, tháng Chín là Nguyên tháng Mười là Dương, tháng Mười Một là Cô, tháng Chạp là Đồ. Tuế Dương (biệt danh của lịch xưa lấy 10 Can để ghi chép năm) Thái Tuế tại Giáp gọi là Phùng Át, tại Ất gọi là Chiêu Mông, tại Bính gọi là Nhu Triệu, tại Đinh gọi là Cường Ngữ, tại Mậu gọi là Trước Ung, tại Kỷ gọi là Đồ Duy, tại Canh gọi là Thương Chương, tại Tân gọi là Trùng Quang, tại Nhâm gọi là Huyền, tại Quư gọi là Chiêu Dương. Tuế Danh (biệt danh của lịch xưa lấy 12 Địa Chi phối với Thái Tuế để ghi năm) Thái Tuế tại Dần gọi là Nhiếp Đề Cách, tại Măo gọi là Đơn Át, tại Th́n gọi là Chấp Từ, tại Tỵ gọi là Đại Hoang Lạc, tại Ngọ gọi là Đơn Ưu Tường, tại Mùi gọi là Hiệp Hiệp, tại Thân gọi là Quân Than, tại Dậu gọi là Tác Ngạc, tại Tuất gọi là Yên Mậu, tại Hợi gọi là Đại Uyên Hiến, tại Tí gọi là Khốn Đôn, tại Sửu gọi là Xích Phấn Nhược”.
Sách Thái Ung “Độc Đoán”nói rằng:
“Can là cán (thân) vậy, tên nó có mười ấy là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỹ Canh Tân Nhâm Quư. Chi là cành nhánh vậy, tên nó có mười hai ấy là Tí Sửu Dần Măo Th́n Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi”.
Sách Lễ Kư “Nguyệt Lệnh”nói rằng:
“Tháng Xuân lấy Giáp Ất làm đại biểu; tháng Hạ lấy Bính Đinh; tháng Tứ Quư (3,6,9,12) lấy Mậu Kỷ làm đại biểu; c̣n tháng Thu lấy Canh Tân; tháng Đông th́ lấy Nhâm Quư”.
Sách Sử Kư “Luật Thư”nói rằng:
“Thất chính 28 xá luật lịch trời v́ thế thông khí của ngũ hành bát chính, trời v́ thế thành thục vạn vật. Xá nầy chỗ của nhật nguyệt trú. Xá nầy là khí thư dăn ra”.
Chỗ mà sách Sử Kư gọi Bát Chính là khí của tám Tiết đem ứng với gió của tám phương. Gió của tám phương là: Bất Chu Phong, Quảng Mạc Phong, Điều Phong, Minh Thứ Phong, Thanh Minh Phong, Cảnh Phong, Lương Phong, và Xương Hạp Phong.
- Điều Phong đóng ở Đông Bắc, chủ xuất ra vạn vật, hướng về Nam đến ở Tú Cơ. Ở mười hai luật là Thái Thốc, ở thời lệnh là tháng Giêng, ở mười hai chi là Dần. Vạn vật tranh nhau nẫy mầm. Lại hướng Nam đến ở Vĩ, ở Pḥng. Vạn vật sinh sớm nay đă đến kỳ có hoa như vậy có thể xem thấy được.
- Minh Thứ Phong đóng ở phương Đông. Ở mười hai luật là Giáp Chung, ở thời lệnh là tháng Hai, ở mười Can là Giáp Ất, ở mười hai chi là Măo. Thời đó vạn vật xuất ra hết tận, mười phần sum sê tươi tốt. Minh Thứ Phong hướng Nam đến ở Tú Đê, lại đến ở Tú Cang, Tú Giác. Ở mười hai luật là Cô Tẩy, ở thời lệnh là tháng Ba, ở mười hai Chi là Th́n. Thời đó vạn vật bỏ cũ, theo mới, tươi sáng, cao vút, rắn rỏi.
- Thanh Minh Phong đóng ở góc Đông Nam, thúc đẩy vạn vật hướng Tây phát triển. Đầu tiên đến ở Chẩn của phương Tây, lại đến ở Dực. Ở mười hai luật là Trọng Lữ, mười hai Chi là Tỵ. Thời đó vạn vật vượng thịnh, lớn mạnh, Dương khí phát triển đạt đến cực điểm. Thanh Minh Phong lại hướng Tây đến ở bảy sao của tú Tinh, Liễu. Ở mười hai luật là Nhuy Tân, ở thời lệnh là tháng Năm. Thời đó vạn vật từ thịnh chuyển thành suy, Dương khí trú xuống bên dưới.
- Cảnh Phong đóng ở Phương Nam. Ở mười hai Chi là Ngọ, Mười Can là Bính Đinh. Âm Dương giao nhau, Dương khí giáng xuống, Âm khí thăng lên, vạn vật sắp thành thục.
- Lương Phong đóng ở góc Tây Nam, chủ về đất. Ở mười hai luật là Lâm Chung, ở mười hai Chi là Mùi. Thời đó vạn vật thành thục, giàu có, vị ngon. Hướng Bắc tiến đến Phạt, lại đến ở Sâm. Ở mười hai luật là Di Tắc, ở thời lệnh là tháng Bảy, ở mười hai Chi là Thân. Thời đó, Âm khí dần dần thịnh, mở đầu. Thân là giặc của vạn vật, lại lớn mạnh đến Trọc, kế đến ở Lưu. Ở thời lệnh là tháng Tám, mười hai luật là Nam Lữ, mười hai Chi là Dậu. Thời đó vạn vật đều tiếp xúc với đất chết, Dương khí càng suy, mở đầu phục tàng.
- Xương Hạp Phong đóng ở phương Tây. Ở mười Can là Canh Tân. Hướng Bắc đến ở Vị, lại đến ở Lâu, đạt tới Khuê. Ở mười hai luật là Vô Sạ, ở thời lệnh là tháng Chín, ở mười hai Chi là Tuất. Thời đó vạn vật tận diệt, thu tàng nhập vào khố, Âm khí vượng thịnh, Dương khí không dư. Nhưng vạn vật theo Dương đến hết, lại thuận theo âm mà khởi, không hết hẳn, không dừng hẳn, không đứng lại.
- Bất Chu Phong đóng ở Tây Bắc chủ sát sinh, nhưng hướng về phương Đông hành tiến th́ chủ mở đầu sinh khí. Nó hướng Đông đến ở Tú Thất lại đến ở Tú Nguy (chủ đổ nát). Ở mười hai luật là Ứng Chung. Ở thời lệnh là tháng Mười. Ở mười hai con là Hợi. Thời đó Dương khí đă bắt đầu sinh nhưng lại là mười phần c̣n nhỏ yếu, không kham nổi dùng vào việc, v́ vậy nên vẫn c̣n phục tàng ở dưới.
- Quảng Mạc Phong đóng ở phương Bắc, hướng Đông đến ở Hư, lại đến ở sao Vụ Nữ. Ở mười hai luật là Hoàng Chung, ở thời lệnh là tháng Mười Một, ở mười hai Chi là Tí, ở mười Can là Nhâm Quư. Thời đó Dương khí lớn lên, vạn vật nhận sự nuôi dưỡng ở dưới giống như tháng Mười hoài thai, giáng sinh cũng có thể phán đoán được. Quảng Mạc Phong lại hướng Đông đến ở Khiên Ngưu lại đến ở Kiến. Ở thời lệnh là tháng Chạp, ở mười hai luật là Đại Lữ, ở mười hai Chi là Sửu. Thời đó vạn vật đă tự dưỡng thành h́nh, nhưng vẫn c̣n chưa phá đất mà xuất ra.
Trên đây là nghĩa lư và nguyên lư mà người ta cho rằng mười Thiên Can và mười hai Địa Chi từ đó lưu hành. C̣n mười hai con vật tượng của Tí là chuột, Sửu là trâu, Dần là cọp, Măo là mèo, Th́n là rồng, Tỵ là rắn, Ngọ là Ngựa, Mùi là Dê, Thân là khỉ, Dậu là gà, Tuất là chó, Hợi là heo, th́ được giải thích như sau.
“Tinh Lịch Khảo Nguyên”nói rằng:
- Thuyết nói về 12 con vật Cầm Tinh đă có từ rất lâu rồi, không rơ từ đâu lại (sự thật đến từ Tây Vực). Theo từ sự lưu truyền chép lại ở Tí sử khảo xét vễ văn hiến, th́ từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đă có thuyết nầy. Cho đến 28 tú phối với cầm tượng th́ là từ Nguyên Minh về sau mới có việc đó. Quan sát về việc chọn “tượng” đó, chẳng qua là nhân 12 con vật cầm tinh mà khuếch rộng ra thôi. Tại sao mà biết được? Phép nầy lấy Tí Ngọ Măo Dậu làm bốn trọng cung, mỗi cung quản ba tú, được 12 tú.
Như cung Tí là 3 tú Nữ Hư Nguy, tú Hư đóng ở giữa v́ vậy lấy chuột làm tượng của ḿnh. Nữ là bức (con dơi), Nguy là yến th́ chọn nó tựa giống chuột đem phối vào.
Cung Măo là Đê Pḥng Tâm, Đê là lạc (con chồn), Tâm là hồ (cáo), Phong ở giữa là thỏ nên lấy thỏ làm tượng của ḿnh (nhưng Việt Nam để mèo v́ gần cọp vậy).
Cung Ngọ là Liễu Trinh Trương. Liễu là chương (con hoẵng), Trương là lộc (hươu), Trinh ở giữa là ngựa nên lấy ngựa làm tượng của ḿnh.
Cung Dậu là Vị Măo Tất. Vị là con trĩ, Tất là con quạ, Măo ở giữa là con gà nên lấy gà làm tượng của ḿnh.
Qua đến 8 cung Dần Thân Tỵ Hợi, Th́n Tuất Sửu Mùi th́ mỗi cung quản 2 tú, mà lấy tú ở gần cung giữa làm chủ, đóng ở bên th́ chọn loài nào tương tự phối vào.
Như cung Th́n, Cang gần giữa cung v́ vậy lấy rồng làm tượng của ḿnh. Giác đóng ở bên nó th́ chọn Giao (thuồng luồng) là loại rồng đem phối vào.
Cung Dần, vĩ ở gần giữa cung v́ vậy lấy hổ làm tượng của ḿnh. Cơ đóng ở bên nó th́ chọn con báo là loài của hổ đem phối vào.
Cung Sửu, Ngưu ở gần giữa cung v́ vậy lấy trâu làm tượng của ḿnh. Đẩu ở bên nó th́ chọn Hải là loại của trâu đem phối vào.
Cung Hợi, Thất ở gần giữa cung v́ vậy lấy lợn làm tượng của ḿnh, Bích đóng ở bên nó th́ chọn Dữ là loài của lợn đem phối vào.
Cung Tuất, Lâu ở gần giữa cung v́ vậy lấy cẩu làm tượng của ḿnh, Khuê ở bên nó th́ chọn lang (chó sói) là loài của chó đem phối vào.
Cung Thân, Chủy ở gần giữa cung v́ vậy lấy hầu (con khỉ) làm tượng của ḿnh, Sâm đóng ở bên nó th́ chọn viên (con vượng) là loài của khỉ đem phối vào.
Cung Mùi, Quỷ ở gần giữa cung v́ vậy lấy dê làm tượng của ḿnh, Tỉnh đóng ở gần bên nó th́ chọn ngạn là loại của dê đem phối vào.
Cung Tị, Dực ở gần giữa cung v́ vậy lấy xà (rắn) làm tượng của ḿnh, Chẩn đóng ở bên nó th́ chọn dẫn (con giun đất) là loài của rắn đem phối vào vậy”.
Theo “Tinh Lịch Khảo Nguyên” th́ thuyết 12 con vật tượng trưng cho 12 Địa Chi (tuổi) thật là hết sức sáng tỏ vậy! Tuy nhiên, đây chỉ là bước thứ hai, v́ vẫn chưa giải quyết được Nạp Âm của tuổi, tức là Ngũ Hành của 60 hoa Giáp. Tỷ như Giáp Tí là Hải Trung Kim, v́ sao Giáp là Mộc mà hợp với Tí là Thủy lại trở thành Hải Trung Kim?!
Kính thưa quí vị quan tâm.
Như vậy; qua sự trích dẫn trên th́ chúng ta mới chỉ t́m thấy những tư liệu tham khảo có giá trị về nguyên nhân của việc lấy tên 12 con vật để đặt cho 12 Địa chi. Việc t́m nguyên lư cho việc nạp âm vẫn chưa sáng tỏ. Bây giờ chúng ta tiếp tục t́m hiểu trong cổ thư cũng qua bài viết đă dẫn ở trên:
(C̣n tiếp)
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 4 of 5: Đă gửi: 09 October 2006 lúc 11:55pm | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NẠP ÂM 60 HOA GIÁP
PHẦN I
(Tiếp theo)
LUẬN CAN CHI NGŨ HÀNH NAP ÂM
Chúng ta tiếp tục t́m hiểu trong cổ thư được sưu tầm qua bài viết đă dẫn ở trên (Không Kiếp Minh Tâm.tuvilyso.com) để tiếp tục tham khảo xem tại sao mà ông Thiệu Vĩ Hoa phải thừa nhận:
Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tư căn cứ theo nguyên tắc ǵ để xác định; người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rơ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch. Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 Giáp tư biến hoá vô cùng; đối với giới học thuật của Trung Quốc cho đến nay vẫn là huyền bí khó hiểu”
Thẩm Quát nói:
“Nạp Âm lục thập Giáp Tí, rất ít người biết nguyên lư của nó. Sự thực là phép của 60 luật lữ cung nhằm làm cung pháp. Một luật hàm 5 âm, 12 luật tức nạp 60 âm. Phàm Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở Mộc, đi về bên phải chuyển tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Thổ, Thổ chuyển tới ở Kim, Kim chuyển tới ở Thủy. Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu ở phương Tây nầy là Ngũ Âm bắt đầu ở Kim, chuyển xoay về bên trái tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Mộc, Mộc chuyển tới Thủy, Thủy chuyển tới Thổ (Nạp Âm với Nạp Giáp của Dịch cùng một phương pháp, Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quư, bắt đầu ở Càn mà chung hết ở Khôn. Nạp Âm bắt đầu ở Kim – Kim là Càn vậy, chung ở Thổ – Thổ là Khôn vậy). Phương pháp cơ bản của Nạp Âm là cùng loại với ‘thú thê’ (lấy vợ) cách tám sinh con. Thứ tự của Ngũ Hành Nạp Âm là trước trọng sau mạnh, mạnh rồi mới đến quư. Tam nguyên của Độn Giáp đă ghi chép như thế vậy. Giáp Tí là trọng của Kim (Thương của Hoàng Chung), lấy vợ cùng vị tức là Ất Sửu (Thương của Đại Lữ cùng ngôi vị). Bảo rằng là loại của Giáp với Ất, Bính với Đinh. Ở dưới đều phỏng theo thế. Cách tám sinh ra Nhâm Thân ở dưới là mạnh của Kim (Thương của Di Tắc), cách tám đó là Đại Lữ sinh ra Di Tắc vậy. Ở dưới đều phỏng theo thế. Nhâm Thân lấy vợ cùng một ngôi vị là Quư Dậu (Thương của Nam Lữ). Cách tám, Canh Th́n sinh ra ở trên quư của Kim (Thương của Cô Tẩy), như thế tam nguyên của Kim hết.
Nếu chỉ lấy thời Dương mà nói th́ dựa vào Độn Giáp chuyển thuận: trọng-mạnh-quư. Nếu kiêm nói về vợ th́ nghịch chuyển : mạnh-trọng-quư. Canh Th́n lấy vợ Tân Tỵ cùng ngôi vị (Thương của trọng lữ), cách tám ở dưới sinh Mậu Tí, trọng của Hỏa (Chủy Kim của Hoàng Trung). Tam nguyên hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Nam, Hỏa Mậu Tí - Kỷ Sửu (Chủy của Đại Lữ) sinh ra Bính Thân, mạnh của Hỏa (Chủy của Di Tắc) Bính Thân lấy vợ Đinh Dậu (Chủy của Nam Lữ) sinh Giáp Th́n, quư của Hỏa (Chủy của Cô Tẩy), Giáp Th́n lấy vợ Ất Tỵ (Chủy của Trọng Lữ) sinh Nhâm Tí, trọng của Mộc (Giác của Hoàng Chung). Tam nguyên Hỏa hết th́ đi về bên trái chuyển tới phương Đông Nam – Mộc. Như đi về bên trái đến Đinh Tỵ là Cung của Trọng Lữ ngũ âm hết lần một. Quay lại từ Giáp Ngọ, trọng của Kim, lấy vợ Ất Mùi, cách tám sinh Nhâm Dần. Giống như phép của Giáp Tí th́ hết ở Quư Hợi (gọi là Nhuy Tân lấy vợ Lâm Chung, trên sinh ra loại của Thái Thốc). Tí đến Tỵ là Dương, v́ vậy từ Hoàng Chung đến Trọng Lữ, đều là hạ sinh. Từ Ngọ đến Hợi là Âm, v́ vậy từ Lâm Chung đến Ứng Chung đều thượng sinh”.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Qua đoạn trích dẫn những lư giải của Thẩm Quát th́ phần lư giải nguyên lư nạp âm của ông chỉ ở phần trên; c̣n đoạn dưới th́ chỉ là sự nói về những nguyên tắc có sẵn như “Cách bát sinh tử” và nguyên lư “Sinh Vượng Mộ” (Mạnh; Trọng; Quư) và những nguyên lư này vẫn được ứng dụng trong Lạc thư hoa giáp(Xin được chứng minh ở phần sau). Bây giờ chúng ta xem lại phần đầu đă dẫn của Thẩm Quát:
“Nạp Âm lục thập Giáp Tí, rất ít người biết nguyên lư của nó. Sự thực là phép của 60 luật lữ cung nhằm làm cung pháp.Một luật hàm 5 âm, 12 luật tức nạp 60 âm.Phàm Dương ‘Khí’ bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, Âm ‘Khí’ khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở Mộc, đi về bên phải chuyển tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Thổ, Thổ chuyển tới ở Kim, Kim chuyển tới ở Thủy. Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu ở phương Tây nầy là Ngũ Âm bắt đầu ở Kim, chuyển xoay về bên trái tới Hỏa, Hỏa chuyển tới Mộc, Mộc chuyển tới Thủy, Thủy chuyển tới Thổ .
Kính thưa quí vị quan tâm!
Qua đoạn trích dẫn ở trên th́ chúng ta nhận thấy rằng:
Cho dù bạn xoay chuyển thế nào th́ Thẩm Quát vẫn sai.
Điều này được chứng minh như sau:
Chúng ta so sánh chu kỳ đă dẫn (Phần in đậm) của Thẩm Quát với chu kỳ nạp âm Ngũ hành ngay trong cổ thư chữ Hán như sau:
1) Ngũ Âm bắt đầu ở Kim => Giáp Tư/Ất Sửu = Hải trung Kim.
2) Chuyển xoay về bên trái tới Hỏa => Bính Dần/ Đinh Măo = Lư Trung Hoả.
3) Hỏa chuyển tới Mộc => Mậu Th́n/Kỷ Tỵ = Đại lâm Mộc.
4) Mộc chuyển tới Thủy
# Nhưng tiếp theo Mậu Th́n/ Kỷ Tỵ trong Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán lại là hai năm: Canh Ngọ/Tân Mùi thuộc Lộ Bàng Thổ?
5) Thủy chuyển tới Thổ
# Nhưng trong Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán lại là hai năm: Nhâm Thân/Quí Dậu thuộc Kiếm Phong Kim?
Như vậy; quí vị cũng thấy rằng: Thực tế của chính bảng lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán đă phủ nhận cách giải thích của Thẩm Quát. Bản thân ông Thẩm Quát cũng chỉ giải thích; chứ chưa chứng minh được nguyên lư của nó.
Bây giờ chúng ta lại xem xét tiếp những sự lư giải sau trong Lă Hải Tập; cũng trong bài viết đă dẫn trên:
“Lă Hải Tập” nói:
“Cho nên vạn vật mới sinh nở tất nguồn gốc ở “Khí”, khí tức Kim. Kim thụ khí, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nghịch hành th́ là Dụng của Ngũ Hành. Thuận hành là Thể của Ngũ Hành, lấy tương sinh làm thứ tự v́ vậy dựa theo thứ tự làm Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ. Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành, đem phù trợ làm gốc. Như Kim nhân Hỏa bắt đầu mà có thể thành hữu dụng, Hỏa tất bắt đầu từ Mộc mới có thể phát sinh, Mộc không có Thủy tức không đước phong phú tốt tươi, Thủy hẳn thác gửi vào Thổ mới có thể dừng mà tích giữ được thành sông nước, v́ vậy thứ tự đó là Kim Hỏa Mộc, Thủy Thổ. Cho nên Đại Náo (sau cuộc đại tạo) tạo ra Giáp Tí, tức lấy như thế làm thứ tự của Nạp Âm Ngũ Hành. Đại để như vậy v́ Kim có thể thu nhận tiếng mà truyền bá khí ra. Phép nầy là: Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh con, con sinh cháu mà đi tiếp về sau, kế tục ngôi vị của nó ở đời tiếp. Như Giáp Tí là Kim, Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám sinh Nhâm Thân là con. Nhâm lấy Quư làm vợ, cách tám là Canh Th́n tức là cháu. Canh lấy Tân làm vợ, cách tám là Mậu Tí đời Hỏa ngôi vị Kim. Thứ hai nói về Hỏa, Mậu kế tục nó về sau. Mậu lấy Kỷ làm vợ, cách tám là Bính Thân, ấy là con vậy; Bính lấy Đinh làm vợ, cách tám là Giáp Th́n, tức là cháu. Giáp lấy Ất làm vợ, cách tám là Nhâm Tí, đó là ngôi vị đời Mộc. Thứ ba gọi là Mộc, Nhâm kế tục đời nó. Nhâm lấy Quư làm vợ, cách tám làm Canh Thân, ấy là con vậy. Canh lấy lấy vợ Tân, cách tám là Mậu Th́n, ấy là cháu vậy. Mậu lấy vợ Kỷ cách tám là Bính Tí, đó là ngôi vị đời Thủy. Thứ tư gọi là Thủy, Bính kế tục sau nó, Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Thân, ấy là con vậy. Giáp lấy vợ Ất, cách tám là Nhâm Th́n, ấy là cháu vậy. Nhâm lấy vợ Quư, cách tám là Canh Tí, đó là ngôi vị đời Thổ. Thứ năm gọi là Thổ. Canh lấy vợ Tân, cách tám là Mậu Thân, ấy là con vậy. Mậu lấy vợ Kỷ, cách tám là Bính Th́n, ấy là cháu vậy. Bính lấy vợ Đinh, cách tám là Giáp Tí, đó là ngôi vị đời Kim quay trở về. Giáp Ngọ, Ất Mùi khởi như phép trước. Đúng là v́ vậy mới có thuyết ngũ Tí quy Canh, Đạo gia lưu truyền chọn nghĩa nầy dùng để phối ngôi vị của ngũ phương, tự số đầu Can Tí đến chữ Canh th́ là số đó. Giáp Tí Kim, từ số Giáp đến bảy th́ gặp Canh, nên phương Tây Kim được thất (7) khí. Mậu Tí là Hỏa, từ Mậu Tí đến ba số th́ gặp Canh, nên phương Nam Hỏa được tam (3) khí. Nhâm Tí là Mộc, từ Nhâm đến chín số th́ gặp Canh, nên phương Đông Mộc được cửu khí. Bính tí là Thủy, từ Bính đến năm số th́ gặp Canh, nên phương Bắc Thủy được ngũ khí. Canh Tí là Thổ, th́ tự được một là nhất khí ở phương giữa. Ấy là ngũ Tí quy Canh. Chính là biết Kim nầy thụ khí trước tiên, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nếu nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành. V́ vậy 60 Giáp Tí Nạp Âm nầy, lấy làm Dụng của vạn vật”.
Qua đoạn trích dẫn ở trên th́ quí vị quan tâm cũng nhận thấy rằng: Theo Lă Hải Tập th́ nguyên lư của nạp âm Ngũ hành chỉ ở đoạn trên. Đoạn dưới cũng chỉ diễn tả cụ thể hơn về nguyên tắc “Cách bát sinh tử” (Nguyên lư này vẫn ứng dụng trong Lạc thư hoa giáp. Xin chứng minh ở phần sau). Nhưng chính nguyên lư này lại bị phủ nhận ngay trong bàng lục thập hoa giáp trong cổ thư chữ Hán. Bởi v́ khi kết thúc hành Kim – Chu kỳ 24 năm – theo nguyên lư “Cách bát sinh tử” th́ con của Kim phải là Thuỷ ; nhưng trong nạp âm Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán lại là Hoả).
Bây giờ chúng ta xem lại đoạn trên trong phần trích dẫn từ Lă Hải Tập:
“Cho nên vạn vật mới sinh nở tất nguồn gốc ở “Khí”, khí tức Kim. Kim thụ khí, thuận hành th́ là Thể của Ngũ Hành, nghịch hành th́ là Dụng của Ngũ Hành. Thuận hành là Thể của Ngũ Hành, lấy tương sinh làm thứ tự v́ vậy dựa theo thứ tự làm Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ.Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành, đem phù trợ làm gốc. Như Kim nhân Hỏa bắt đầu mà có thể thành hữu dụng, Hỏa tất bắt đầu từ Mộc mới có thể phát sinh, Mộc không có Thủy tức không được phong phú tốt tươi, Thủy hẳn thác gửi vào Thổ mới có thể dừng mà tích giữ được thành sông nước, v́ vậy thứ tự đó là Kim Hỏa Mộc, Thủy Thổ. Cho nên Đại Náo (sau cuộc đại tạo) tạo ra Giáp Tí, tức lấy như thế làm thứ tự của Nạp Âm Ngũ Hành. Đại để như vậy v́ Kim có thể thu nhận tiếng mà truyền bá khí ra.
Như vậy; qua đoạn trích dẫn trên; quí vị cũng nhận thấy rằng:
Với phương pháp so sánh và chứng minh tương tự với Thẩm Quát ở trên; chúng ta cũng không thấy tính qui luật nào trong chính cách nạp âm Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán phù hợp với lập luận (Phần in đậm) của Lă Hải Tập. Xin quí vị quan tâm xem phần so ánh minh hoạ dưới đây:
1) Kim nhân Hoả mà bắt đầu => Giáp Tư/ Ất Sửu.
Với hiện tượng này th́ hợp lư với luận đề giải thích của Lă Hải Tập qua câu “Nghịch hành là Dụng của Ngũ Hành”. Trong trường hợp này; là sự tương tác trực tiếp giữa hai hành nghịch hành là Hoả & Kim.
2)Nhưng đến trường hợp tiếp theo của nạp âm trong lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán là Bính Dần; Đinh Măo thuộc Lư Trung Hoả th́ lại không thể giải thích được bằng luận đề trên:
Hỏa tất bắt đầu từ Mộc mới có thể phát sinh,
Như vậy; trong trường hợp này; th́ nguyên nhân của Hoả lại là lư tương sinh: Mộc sinh Hoả và nó lại tự phản bác với luận đề Nghịch hành ở trên?
3) Trường hợp nạp âm tiếp theo Bính Dần/ Đinh Măo trong bảng lục thập hoa giáp theo cổ thư chữ Hán là: Mậu Th́n/ Kỷ Tỵ thuộc Đại Lâm Mộc cũng không thể giải thích bằng cả lư thuân lẫn nghịch theo Lă Hải tập:
“Mộc không có Thủy tức không được phong phú tốt tươi, Thủy hẳn thác gửi vào Thổ mới có thể dừng mà tích giữ được thành sông nước”.
Như vậy; đến lần này th́ có đến ba hành liên hệ sinh khắc mới giải thích được và phủ nhận luôn chính luận đề của tác giả Lă Hải Tập:
Mộc (của hai năm Mậu Th́n/ Kỷ Tỵ: Đại lâm Mộc) do Thuỷ sinh. Thuỷ lại phải nương vào Thổ để tồn tại?
Bây giờ chúng ta lại tiếp tục xem phần trích dẫn sau trong Khảo Nguyên cũng trong bài viết đă dẫn ở trên.
"Khảo Nguyên"nói rằng:
"Ngũ Hành thứ tự lấy bắt đầu là khí, cuối cùng là h́nh th́ "Hồng Phạm" là Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ quả là vậy. Lấy làm thứ tự đem trải ra ở bốn mùa tương sinh, th́ “Nguyệt hội” ở Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy quả là vậy. Đem chỉnh đốn trị lư Ngũ Tài (giống như Ngũ Hành) tương khắc làm thứ tự th́ "Ngũ Mộ" là Thủy, Hỏa, Kim, Mộc, Thổ quả là vậy. Nạp Âm Ngũ Hành bắt đầu Kim, thứ đến Hỏa, thứ đến Mộc, thứ đến Thủy, thứ đến Thổ, đă không có gốc đầu - cuối của nó, lại không dùng sinh khắc, v́ vậy thuyết nầy chẳng biết nó ở đâu đến. Khảo sát rơ nghĩa của nó, đại để là theo lời dạy của tổ tiên lấy ư của Dịch tượng, tức là lư của Tiên Thiên – Hậu Thiên Bát Quái vậy.
Giáp Tí, Ất Sửu là Kim thượng nguyên; Nhâm Thân, Quư Dậu là Kim trung nguyên; Canh Th́n, Tân Tỵ là Kim hạ nguyên, tức Tam Nguyên th́ đủ một ṿng. Sau đó chuyển tới ở Mậu Tí, Kỷ Sửu là Hỏa thượng nguyên; Bính Thân Đinh Dậu là Hỏa trung nguyên, Giáp Th́n Ất Tỵ là Hỏa hạ nguyên. Từ đó về sau đều dựa vào thứ tự Kim, Hỏa, Mộc, Thủy, Thổ mà dùng nhạc luật cùng ngôi vị với thú thê (lấy vợ), phép cách bát sinh con, cuối cùng đến Đinh Tỵ mà nạp Âm tiểu thành vậy. Lại từ Giáp Ngọ, Ất Mùi là Kim thượng nguyên khởi như phép trước, đến cuối cùng ở Đinh Hợi, mà nạp Âm đại thành vậy.
Theo 10 Can, 12 Chi đan xen nhau là 60, năm âm (âm thanh), 12 luật nhân với nhau cũng là 60. Giáp Tí Kim, Ất Sửu cũng là Kim, lấy vợ cùng ngôi vị vậy. Ất Sửu Kim mà Nhâm Thân lại là Kim, cách bát sinh con vậy. Một lần đi tất cả Tam Nguyên mà sau chuyển sang đi tiếp, giống như Xuân có ba tháng mạnh-trọng-quư mà sau chuyển sang Hạ vậy. Từ Giáp Tí đến Đinh Tỵ mà Tam Nguyên Ngũ Hành được một ṿng. Giống như Dịch đi ba vạch là tiểu thành vậy. Từ Giáp Ngọ đến Đinh Hợi mà Tam Nguyên Ngũ Hành lại được một ṿng nữa, giống như Dịch đi sáu vạch là đại thành vậy. Cách lập phép đó đều ứng với luật lữ”.
Qua phần trích dẫn trên th́ người viết không cần phải chứng minh. V́ chính sách Khảo nguyên đă viết:
V́ vậy thuyết nầy chẳng biết nó ở đâu đến. Khảo sát rơ nghĩa của nó, đại để là theo lời dạy của tổ tiên lấy ư của Dịch tượng, tức là lư của Tiên Thiên – Hậu Thiên Bát Quái vây.
C̣n tiếp
Thiên Sứ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 5 of 5: Đă gửi: 17 October 2006 lúc 8:46am | Đă lưu IP
|
|
|
BÍ ẨN NẠP ÂM 60 HOA GIÁP
PHẦN I
(Tiếp theo)
Chúng ta lại tiếp tục khảo sát sự lư giải trong cổ thư chữ Hán sau đây
KHỞI SỐ NẠP ÂM
CAN CHI HỢP NGŨ HÀNH
Số của Nạp Âm: Giáp Kỷ, Tí Ngọ trị số là 9; Ất Canh, Sửu Mùi trị số là 8; Bính Tân, Dần Thân trị số là 7; Đinh nhâm, Măo Dậu trị số là 6; Mậu Quư, Th́n Tuất trị số là 5; Tỵ Hợi trị số là 4. Điều nầy trong “Vân Đài Loại Ngữ” thấy cụ Lê Quư Đôn có nhắc đến, nhưng không hề cho biết trị số của nó do đâu mà có. Nay lại thấy“Hiệp Kỷ Biện Phương Thư”giải thích hết sức rơ ràng nên xin chép lại nguyên văn để độc giả tham khảo.
“Lă Hải Tập” nói:
“Hoặc hỏi: Số của Tiên Thiên duyên theo đâu mà khởi? Tạ đáp rằng: Số cực ở 9, từ 9 lui ngược lại dùng, v́ vậy Giáp Kỷ, Tí Ngọ 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Măo Dậu 6; Mậu Quư, Th́n Tuất 5; Thiên Can đă hết mà Địa Chi một ḿnh c̣n thừa ra Tỵ Hợi, lấy Tỵ Hợi được 4 là hết ở đó. Hơn nữa, Hợi là thiên môn, Tỵ là địa hộ, ngôi vị của thuần Dương, là then chốt của việc đóng mở cho nên là mấu chốt của Ngũ Hành”.
"Thụy Quế Đường Hạ Lục" nói rằng:
"Nạp Âm của 60 Giáp Tí lấy âm (thanh) của Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ mà sáng tỏ vậy. 1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ.(*) Như vậy trong Ngũ Hành, duy Kim Mộc có Âm của tự nhiên, Thủy Hỏa, Thổ hẳn là mượn nhau mà sau thành âm. Đại thể Thủy mượn Thổ, Hỏa mượn Thủy, Thổ mượn Hỏa, v́ vậy âm Kim 4-9, âm Mộc 3-8, âm Thủy 5-10, âm Hỏa 1-6, âm Thổ 2-7. (Như thế càng khó luận bàn và xác định nên Mai Cốc Thành chê). Giáp Kỷ, Tí Sửu 9; Ất Canh, Sửu Mùi 8; Bính Tân, Dần Thân 7; Đinh Nhâm, Măo Dậu 6; Mậu Quư, Th́n Tuất 5; Tỵ Hợi 4. Căn cứ như thế th́ Giáp Tí Ất Sửu hợp lại thành 34 số, 4 là số của Kim v́ vậy Giáp Tí Ất sửu Nạp Âm là Kim. Mậu Th́n Kỷ Tỵ hợp số là 23, 3 là số của Mộc. Canh Ngọ Tân Mùi hợp số là 32, 2 là số của Hỏa, Thổ mượn âm của Hỏa, v́ vậy Canh Ngọ, Tân Mùi Nạp Âm là Thổ. Giáp Thân Ất Dậu hợp số 30, 10 là Thổ, Thủy mượn âm của Thổ, v́ vậy là Thủy. Mậu Tí Kỷ Sửu hợp số 31, 1 là Thủy, Hỏa mượn âm của Thủy, v́ vậy là Hỏa. Phàm 60 Giáp Tí chẳng cái nào không như thế. Dó chính là Nạp Âm 60 Giáp Tí từ đó lại”.[/FONT]
Qua đoạn trích dẫn trên th́ quí vị quan tâm cũng nhận thấy rằng cách giải thích quy vào những con số và để có thể có sự trùng khớp những hệ số này th́ lập luân lại khiên cưỡng. Xin quí vị quan tâm xem lại đoạn trích dẫn sau đây:
Duy Kim Mộc có Âm của tự nhiên, Thủy Hỏa, Thổ hẳn là mượn nhau mà sau thành âm.
Bởi thế cho nên:
(Như thế càng khó luận bàn và xác định nên Mai Cốc Thành chê).
Chúng ta lại tiếp tục xét một cách giải thích khác trong cổ thư; qua đoạn trích dẫn sau:
“Tinh Lịch Khảo Nguyên” nói:
“Chỗ nói ở trên là Dương Hùng luận “Thái Huyền” thanh luật chỗ chép về số. Phàm hai Can, hai chi hợp nhau, ngoài ra số được 49 là Kim được 16 là Hỏa, được 38 là Mộc, được 50 là Thủy, được 27 là Thổ. Như Giáp Tí đều 9, được số 18; Ất Sửu đều được số 16; hợp lại là 34, v́ vậy là Kim. Nhâm 6 – Thân 7, được số 13; Quư 5 – Dậu 6 , được số 11; hợp lại được 24, v́ vậy cũng là Kim. Ngoài ra theo số mà suy ra, không trường hợp nào mà không như vậy. Nhưng chỗ phối 1 với 6, 2 với 7, các hạng số với số của Hà Đồ không giống nhau. Nay theo số Đại Diễn là 50 chỉ dùng 49 lấy hợp số của hai Can, hai chi lại. Trong 49 giảm bớt đi, số thừa đủ 10 trở đi dư 1, 6 là Thủy; dư 2, 7 là Hỏa; dư 3, 8 là Mộc; dư 4, 9 là Kim; dư 5,10 là Thổ, đều dùng chỗ Ngũ Hành sinh làm Nạp Âm, như thế th́ giống với Hà Đồ. Lại như phép đếm cỏ thi dùng sách thừa để định cơ (lẻ) ngẫu (chẵn), như thế dùng số thừa để định Ngũ Hành, lư đó đúng và hợp nhau vậy. Như Giáp là 9, Tí là 9; Ất là 8, Sửu là 8, tổng cộng là 34, lấy 49 trừ cho 34 dư ra 15, bỏ 10 không dùng, lấy 5 là Thổ mà Thổ sinh Kim, v́ vậy đặt là Kim. Bính Dần, Đinh Măo hợp số là 26, lấy 49 trừ cho 26 dư ra 23, bỏ 20 không dùng, lấy 3 là Mộc mà Mộc sinh Hỏa, v́ vậy đặt là Hỏa. Mậu Th́n, Kỷ Tỵ hợp số là 23, lấy 49 trừ cho 23 dư ra 26, bỏ 20 không dùng, lấy 6 là Thủy mà Thủy sinh Mộc, v́ vậy đặt là Mộc. Canh Ngọ, Tân Mùi hợp số là 32, lấy 49 trừ đi cho 32 dư ra 17, bỏ 10 không dùng, lấy 7 là Hỏa mà Hỏa sinh Thổ, v́ vậy đặt là Thổ. Ngoài ra phỏng theo như thế”.
Kính thưa quí vị quan tâm.
Người viết bài này đă chịu khó tính đủ 60 hoa giáp và cho thấy phương pháp tính và dùng lư tương sinh của Ngũ hành qua số tính được như trên th́ hoàn toàn trùng khớp. Nhưng sự trùng khớp đó lại chưa thể nói lên được nguyên lư và phương pháp nạp Âm của Ngũ hành. Điều này mới chỉ thể hiện sự t́m ra một qui tắc trùng khớp trong cách nạp âm theo cổ thư chữ Hán mà thôi. Nhưng qui tắc qua sự tính toán đó có phải đúng là nguyên lư nạp âm hay không th́ lại là một vấn đề khác. Qui tắc này sẽ được chứng tỏ nguyên lư của chính nó và lại không phải nguyên lư nạp âm của Ngũ hành trong bảng 60 hoa giáp trong cổ thư chữ Hán. Điều này; xin được chứng minh ở phần sau.
Theo Dương Hùng “Thái Huyền Kinh” nói rằng:
“Số 9 của Tí Ngọ, Sửu Mùi 8, Dần Thân 7, Măo Dậu 6, Th́n Tuất 5, Tỵ Hợi 4, v́ vậy Luật 42, Lữ 36, gộp số của Luật Lữ hoặc Hoàn, hoặc Phủ, hễ là số của 78 là số của Hoàng Chung lập ở đó. Lấy nó làm độ, đều sinh Hoàng Chung”.
Lại nói rằng:
“Số 9 của Giáp Kỷ, Ất Canh 8, Bính Tân 7, Đinh Nhâm 6, Mậu Quư 5. Thanh sinh ở nhật, luật sinh ở thời. Thanh lấy tính chất, luật lấy ḥa thanh, thanh luật hợp với nhau mà bát âm sinh”.
Tông phái trải qua nhiều đời đến nay, đến đó là số của thiên nhiên. Nh́n lại chỗ Giáp Kỷ, Tí Ngọ tại sao lại lấy là 9; Ất Canh, Sửu Mùi tại sao lại lấy là 8, th́ hiếm có việc luận b́nh chính xác ở đó. Nay xét Tí Ngọ này là chỗ Càn Chấn nạp vào; Sửu Mùi này là chỗ nạp vào của Khôn Tốn; Dần Thân nầy là chỗ Khảm nạp vào; Măo Dậu nầy là chỗ Ly nạp vào; Th́n Tuất nầy là chỗ Cấn nạp vào; Tỵ Hợi nầy là chỗ Đoài nạp vào. Số Dương cực ở 9, số Âm cực ở 8, v́ vậy Càn Khôn được vậy. Chấn Tốn trưởng mà thống quản ở phụ mẫu, ngoài ra theo thứ tự trở xuống. Nhị Đại (cha mẹ), lục tử (6 con), thứ tự của nam nữ trưởng thiếu (lớn, nhỏ). Trật tự như vậy không rối loạn thật không ai có thể cưởng ép làm được. Nếu lấy thứ tự 10 ngày, th́ lại tùy theo hóa khí thọ yểu của số mà cũng không tạo tác một chút nào ở trong đó. Giáp Kỷ là Thổ, Thổ hết, từ cổ xưa không bị hủy, tự tách rời ra là vi trần, rong chơi trống trải láng giềng mà chất của nó vốn tại ở đó là rất thọ, v́ vậy số là 9. Chỗ tiếp theo th́ là Kim, tuy hỏa rèn nung cũng có thời là khí tán ra của chất tro mà kiên cố là vạn vật vương vậy. Ất Canh là Kim vậy, v́ vậy tiếp theo Giáp Kỷ. Lại tiếp nữa là Thủy. Gió nóng ban ngày mà Hỏa nung nấu cũng có thời khô cạn hết mà chẳng bằng Kim, nó nhu nhược chuyển vận mới có thể thọ lâu dài mà chẳng bằng vật vậy. Bính Tân Thủy vậy, v́ vậy tiếp theo Ất Canh, lại tiếp theo nữa là Mộc. Trong một năm tươi tốt hay héo rụng có trong định kỳ. Đinh Nhâm là Mộc vậy, v́ vậy tiếp theo Bính Tân, lại theo nữa th́ là Hỏa. Khoảng một ngày một đêm hiển lộ ra hay u ám cũng có định kỳ, Mậu Quư là Hỏa vậy, v́ vậy tiếp theo là Đinh Nhâm. C̣n Giáp Kỷ Thổ sinh Ất Canh Kim, Kim sinh Bính Tân Thủy, Thủy sinh Đinh Nhâm Mộc, Mộc sinh Mậu Quư Hỏa. Chồng chất mà xuống dưới. Lại là số tự nhiên như vậy. Nhưng tại sao không có 10 và 1, 2, 3? Nói rằng số hết ở 9, 10 tức là 1 vậy. Ví bằng 1, 2, 3 chính là đại số của Thiên-Địa-Nhân, không được cố ư kư gửi ở khoảng của một ngày, một thời. C̣n nói 9-8-7-6-5-4, th́ 1-2-3 ở tại gốc của chúng. V́ vậy Hoàng Chung là 81, 12 thời chỉ được 78, mà Dương Tử nói rằng số của Hoàng Chung lập ở đó. Đại để đă hư hàm ba số mà thành 81 vây.
Lời lư giải trong Thái huyền kinh ở trên quanh co khiên cưỡng và tạp loạn. Quí vị quan tâm chắc cũng nhận thấy; nên xin được miễn bàn.
Thiên Sứ
C̣n tiếp
-------------------
*Chú thích:
Đoạn trích dẫn của "Thuỵ Quế Đường Hạ lục" viết:
1-6 là Thủy, 2-7 là Hỏa, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ.(*).
Xin quí vị lưu ư:
Đây chính là độ số và phương vị của Hà Đồ. Sẽ được chứng minh ở phần sau.
Sửa lại bởi ThienSu : 17 October 2006 lúc 8:50am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|
|