Tác giả |
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 1 of 7: Đă gửi: 10 February 2005 lúc 9:01am | Đă lưu IP
|
|
|
Kính thưa quí vị quan tâm về cội nguồn văn hiến Lạc Việt.
Nhân dịp đầu Xuân mới! Thiên Sứ tôi xin được giới thiệu bài viết sau đây của ông Hà Văn Thuỳ về cội nguồn văn hoá dân tộc. Có thể nói rằng bài viêt này có nhiều tư liệu rất đáng chú ư và những luận điểm cần quan tâm. Hy vọng bài viết sẽ là một tài liệuvham khảo có giá trị về cội nguồn lịch sử văn hiến gần 5000 của người Lạc Việt.
T́m lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá
Trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày nay, trước nguy cơ bị xâm lăng văn hóa, thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng và cả những chỉ thị nghị quyết nói nhiều đến cụm từ bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Nhưng không hiểu sao có cảm tưởng là, người ta càng nói nhiều th́ sự việc càng rối tung rối mù lên, đến nỗi chẳng ai hiểu văn hóa dân tộc là ǵ! Từ đó mà biết bao việc làm tùy tiện lộn xộn, cái đáng bỏ th́ giữ, cái đáng giữ lại bỏ... ruột bỏ ra da ôm lấy... cười ra nước mắt!
Thiết tưởng sở dĩ có chuyện trống đánh xuôi kèn thổi ngược như vậy chính bởi v́ chưa có được sự thống nhất trong hai nhận thức cơ bản: 1/Dân tộc Việt Nam là ai? 2/ Văn hóa Việt Nam là ǵ?
Không phải là nhà nghiên cứu lịch sử nhưng là người có trách nhiệm với văn hóa dân tộc, tôi xin thử bàn về hai vấn đề trọng đại này. Rất mong quư vị cao minh chỉ giáo.
Cội nguồn tổ tiên
Xin không nói tới cái thời bọn học tṛ tḥ ḷ mũi tụi tôi học trong sách sử kư: Tổ tiên ta là người Gô-loa v́ nó quá khôi hài. Chỉ xin nhắc lại quan điểm của Trường Viễn Đông bác cổ (E.F.E.O) phổ biến vào những năm 20 thế kỷ trước được công bố trong Tập san của trường (B.E.F.E.O) mà tiêu biểu là của học giả Pháp, ông H. Mansuy: “Người Ḥa B́nh có mặt trên đất nước Việt Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 năm TCN... coi như chưa biết ǵ về nông nghiệp và chăn nuôi, không biết ǵ về gốm...” “Đá mài đă có vào thời Bắc Sơn, nhưng ít được sử dụng.” Và: “Nghệ thuật đá mài có vai tṛ rất tiêu biểu cho văn hóa Austro Asiatique, được dùng nhiều ở miền Trung Đông Dương. Người ta đă cho là những ŕu mài này được nhập cảng từ Tây Tạng, Giang Nam bên Tàu, v́ chúng cũng có ở Hoa Nam, Ấn Độ, Nhật Bản, Đại Hàn...” Những dụng cụ đá mài h́nh dĩa là của văn hóa Úc từ Tàu truyền xuống...” Cách nh́n ấy của những bậc thầy khai hóa đă dẫn tới nhận định sau: “Văn minh Việt Nam hoàn toàn từ lưu vực sông Dương Tử di chuyển xuống vào thế kỷ thứ IV TCN. Dân mới đến định cư tại Bắc Việt hiện thời đă mang theo một thứ văn hóa lai Tàu để rồi dần dần trở nên mô thức bản xứ.(!)” [1]
Ư tưởng trên lại được củng cố bằng giả thuyết khoa học từng thống trị cho đến tận hôm nay:
“Khoảng 500.000 năm trước, loài người từ châu Phi thiên di tới vùng Trung Đông. Từ đây một nhánh rẽ hướng Tây thành người da trắng châu Âu. Nhánh tới vùng cao nguyên Thiên Sơn thành người da vàng châu Á. Nhánh này chia làm hai: một bộ phận vượt lên phía Bắc sông Hoàng Hà thành tộc người Mông Cổ. Một bộ phận rẽ sang Đông chiếm lĩnh phần đất từ sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử thành người Việt. Người Mông Cổ du mục vượt sông Hoàng chiếm đất và xua đuổi người Việt nông nghiệp chạy xuống phía Nam. Trong quá tŕnh hàng vạn năm như thế, người Việt lai với người Hán và tới thế kỷ thứ IV TCN th́ bộ phận này tràn vào vùng đất ngày nay có tên là Việt Nam!”(2)
Những điều giáo huấn như vậy của “người thầy khai hóa” đă dần dần ăn sâu vào tiềm thức của lớp trí thức khoa bảng Việt và rồi đến lượt ḿnh, họ truyền giảng cho người dân những tín điều như thế! Kim Định là một thí dụ. Ông là người có kiến thức uyên bác cùng những suy nghĩ táo bạo mới mẻ, từng là thần tượng của học sinh sinh viên miền Nam những năm 70 thế kỷ trước. Nhưng trong cuốn Việt lư tố nguyên ông viết:
“Văn minh cổ thạch ở Ḥa B́nh: gồm những đồ đá có đục lỗ (một điểm chưa hề thấy nơi khác) thuộc giống người Mêlanê cùng giống người Mă Lai sống vào lối 12.000-10.000 Tr.dl. Đây là thời đang chuyển ḿnh từ cựu thạch (đồ đá rất thô) sang tân thạch...” [3]
“Cách đây lối dăm mười ngàn năm có một nhóm dân từ Tây Bắc tiến dần xuống phía Đông Nam và lan tỏa khắp nước Tàu. Trong đoàn người mênh mông đó có từng người chỗ này, từng gia tộc chỗ kia ở những thời khác nhau, v́ những lư do rất phức tạp (loạn lạc đói kém) tiến măi xuống miền Cổ Việt và trải qua thời gian dài từng nhiều ngàn năm đă lập ra một nước mà ngày nay ta gọi là Việt Nam.” [4]
Quan niệm sai lầm đó đă bao trùm khoa học lịch sử nước ta suốt thế kỷ XX. Nguyên nhân của sai lầm này chủ yếu do người trí thức Việt quá tin “sách dạy” của người thầy đầu tiên nên không chịu cập nhật những kiến thức mới.
Năm 1932, tức là 40 năm trước khi học giả Kim Định viết những ḍng trên th́ khảo cổ học thế giới đă đánh giá lại về Văn hóa Ḥa B́nh: tuổi của Ḥa B́nh không phải 10-12.000 năm mà lên đến 16.000 năm TCN và là trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá sớm nhất thế giới!
Phát hiện khảo cổ này có ư nghĩa rất lớn về lư luận và thực tiễn. Nó đặt ra hai câu hỏi:
Con người tiền sử đă đến Việt Nam (Sơn Vi 30.000 năm TCN và Ḥa B́nh 16.000 năm TCN) bằng con đường nào?
Con người hiện đại đang sống trên đất nước Việt Nam có quan hệ ǵ với chủ nhân Văn hóa Sơn Vi, Ḥa B́nh?
Theo Gs Nguyễn Đ́nh Khoa:
“Thời đại Đá mới, cư dân trên lănh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng với các loại h́nh hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang thời đại Đồng- Sắt, người Mongoloid đă là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do đồng hóa.” [5]
Nhận định này có hàm ư cho rằng: vào thời đại Đồng-Sắt, một bộ phận lớn người Mongoloid từ phía Bắc tràn xuống khiến cho yếu tố Mongoloid chiếm ưu thế trong cộng đồng dân cư Việt Nam. Và v́ thế quan hệ giữa người Việt hiện đại với chủ nhân Văn hóa Ḥa B́nh chưa được xác quyết!
Như vậy là cho đến tận hôm nay chúng ta vẫn chưa trả lời được hai câu hỏi cơ bản NGƯỜI VIỆT NAM LÀ AI? TỪ ĐÂU ĐẾN?(!) Không biết cội nguồn xuất xứ làm sao biết gốc gác tổ tiên, làm sao biết bản sắc văn hóa? Dường như ngh́n năm qua cả dân tộc ṃ mẫm trong đêm tối của nghi ngờ mặc cảm về cội nguồn?!
Những năm gần đây, nhờ phát triển của công nghệ gene nên bài toán t́m về cội nguồn của một số tộc người được giải theo phương pháp di truyền học. Có lẽ hăng hái hơn cả trong việc này là người Hán. Nhiều trường đại học lớn ở Bắc Kinh, Thượng Hải kết hợp với đồng nghiệp người Hán của họ tại những đại học danh tiếng ở Mỹ làm việc trong chương tŕnh nghiên cứu lớn “Chinese Human Genetic Diversity Project” (Dự án tính đa dạng di truyền của người Hán). Dự án này đưa lại những kết quả khả quan.
1. Năm 1998, Gs Chu và đồng nghiệp thuộc Đại học Texas phân tích từ 15-30 mẫu micriosatellites (mtDNA) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm người Hán, 4 nhóm Đông Nam Á, 2 nhóm thổ dân Mỹ, 1 nhóm thổ dân Úc, 1 nhóm thuộc New Guinea và 4 nhóm da trắng Caucase.
Kết quả phân tích cho thấy:
o Các sắc dân Đông Nam Á tập hợp thành một nhóm di truyền.
o Nhóm dân có đặc tính di truyền gần gũi với dân Đông Nam Á là thổ dân Mỹ sau đó là người Úc và New Guinea.
o Đặc điểm di truyền của người Hán miền Bắc không giống người Hán phương Nam.
Từ đó Gs Chu và đồng nghiệp đưa ra mô h́nh: Các dân tộc Bắc Á được tiến hóa từ Đông Nam Á và kết luận: Tổ tiên các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Kết luận này cũng cho rằng, tổ tiên của những người nói tiếng Altaic ở phía Bắc Trung Quốc cũng từ Đông Nam Á lên chứ không phải từ ngả Trung Á sang. [6]
Tuy nhiên, nghiên cứu của Gs Chu có điểm yếu là chỉ dựa vào mtDNA, một nhân tố di truyền rất mẫn cảm nên không bền vững, dễ bị đột biến có thể dẫn đến kết quả sai lạc.
2. Khắc phục nhược điểm trên, một nhóm nghiên cứu khác dựa trên nhiễm sắc thể Y (Y- chromosome) để khảo sát nhóm người Hán ở 22 tỉnh Trung Quốc, 3 nhóm dân Đông Bắc Á, 5 nhóm Đông Nam Á (Campuchia, Thái Lan, Mă Lai, Batak, Java) và một số nhóm ngoài châu Á.
Kết quả nghiên cứu ghi nhận: mức độ biến thiên đa h́nh thái (polymorphic variation) trong nhóm Đông Nam Á cao hơn Đông Bắc Á.
Phân tích di truyền quần thể (population genetics) đă đưa đến kết luận: Con người di cư từ châu Phi sang Đông Nam Á khoảng 60.000 năm trước và sau đó di chuyển lên Bắc Á, Siberia. Các nhóm dân Polynesian (Đa đảo) cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á. [7]
3. Một nghiên cứu khác dùng 5 gene trong nhiễm sắc thể Y để khảo sát 2 nhóm dân Bắc Á (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Mông Cổ) và Nam Á (Indonesia, Philippine, Thái Lan, Việt Nam) cho thấy người Việt gần với nhóm dân Bắc Á (nhất là Hàn quốc) hơn là các nhóm Nam Á. [8]
4. Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger cho thấy chỉ số đa dạng sinh học (F-value) ở người Việt cao nhất trong các sắc dân Đông Nam Á. Từ đây ông đưa ra kết luận: Người châu Á có nguồn gốc từ dân Mông Cổ phương Nam. [9]
5. Nhà khoa học người Mỹ gốc Hán Lư Huỳnh (Li Jin) của Trường Đại học Tổng hợp Texas tại thành phố Houston qua công tŕnh khảo sát nhân tố microsatellites lặp lại liên tục trong chuỗi xoắn DNA của 43 nhóm người Hán phân bố khắp châu Á đă đưa ra kết luận:
o Khoảng 100.000 năm trước, Homo Sapiens (con người khôn ngoan) từ châu Phi thiên di tới Trung Đông. Từ Trung Đông một nhóm rẽ sang phía Đông đi qua Pakistan, Ấn Độ rồi men theo bờ biển Nam Á. Nhóm người này đến Đông Nam Á vào khoảng 60 đến 70.000 năm trước. Họ nghỉ ngơi ở đây khoảng 10.000 năm rồi một bộ phận đi tiếp lên phía Bắc tới Trung Hoa. Từ đây một bộ phận lên cao hơn nữa tới Siberia, băng qua eo biển Bering tới Alasca vào châu Mỹ, thành người thổ dân châu Mỹ. [10]
6. Hai công tŕnh của Peter Savolainen và Jenifer A. Leonard cùng đồng nghiệp phân tích xương chó cổ t́m được ở Mexico, Perou, Bolivia... cho thấy rằng các loài chó được đưa vào châu Mỹ trước thời Columbus đều bắt đầu từ giống chó Âu-Á. Tổ tiên chó nhà là chó sói Đông Nam Á bởi v́ phân tích DNA cho thấy chỉ số đa dạng di truyền trong các loài chó Đông Nam Á cao hơn nhiều so với loài chó ở châu Âu. Đó có thể là từ con chó rừng duy nhất được thuần hóa cách nay 15.000 năm. [11]
Kết luận này càng khẳng định ư kiến từ lâu của C. Darwin trong cuốn Nguồn gốc các loài (Origin of species): Tất cả các giống gà nuôi trên thế giới đều có nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á.
6. Trong cuốn sách “Địa đàng ở phương Đông” (Eden in the East) bác sĩ Stephen Oppenheimer từ những bằng chứng thuyết phục, cho rằng 8000 năm trước, do hồng thủy, cư dân sống ở Đông Nam Á di cư lên phía trên tạo nên đồ đá mới ở Trung Quốc. [12]
Tổng hợp những công tŕnh nghiên cứu trên, đưa ta đến nhận định sau:
1. Khoảng 100.000 trước, con người khôn ngoan Homo Sapiens từ châu Phi thiên di tới Trung Đông. Từ đây một nhánh rẽ về hướng Đông qua Pakistan, Ấn Độ rồi men theo bờ biển Nam Á đến lục địa Đông Nam Á vào khoảng 70-60.000 năm. Nghỉ lại ở đây khoảng 10.000 năm sau đó hậu duệ của họ đi lên phía Bắc, tới Trung Quốc, đến Siberia rồi vượt eo Bering đặt chân sang châu Mỹ khoảng 30.000 năm trước. Cũng từ Đông Nam Á, một nhánh đến Úc 50.000 năm trước và đến New Guinea 40.000 năm trước.
2. Hiện tượng người Việt gần với dân Bắc Á, nhất là Hàn Quốc (nghiên cứu 3) là lẽ tự nhiên v́ rằng cộng đồng Bách Việt sau khi khai phá lục địa Trung Hoa đă tràn ra biển đến Nhật, Hàn Quốc. Người Nhật người Hàn hiện đại là hậu duệ của người U Việt trong ḍng Bách Việt. Với người Hàn c̣n có yếu tố lịch sử nữa: vào cuối thời Lư (thế kỷ XIII) Lư Long Tường dẫn một đoàn di dân hoàng tộc khoảng 500 người sang tỵ nạn ở Hàn Quốc. Đoàn di dân này bổ sung nguồn gene Việt vào ḍng máu Hàn.
3. Kết luận Người Châu Á có nguồn gốc người Mông Cổ phía Nam của Ballinger là có cơ sở: Người tiền sử đến Đông Nam Á gồm hai đại chủng: Monggoloid và Austroloid. Có thể một nhóm người Mongoloid đi lên phía Bắc theo con đường Ba Thục rồi định cư ở Tây Bắc Trung Quốc thành chủng Mongoloid phương Bắc. Người Hán là một nhánh của chủng tộc Mông Cổ này. Có thể muộn hơn ít nhiều, người Việt thuộc chủng Indonesien – sản phẩm của ḥa huyết giữa hai đại chủng Mongoloid và Australoid và là chủ nhân của Văn hóa Sơn Vi, Ḥa B́nh đi lên khai phá lục địa Trung Hoa. Khoảng 2500 năm TCN người Hán tràn xuống xâm lấn, dồn người Bách Việt trở về Nam. Trong khoảng thời gian nhiều ngh́n năm này có sự ḥa huyết của người Hán ḍng Mông Cổ phía Bắc với người Việt và các sắc dân Đông Nam Á khác nên yếu tố Mongoloid trong dân cư phía Nam tăng lên. Khi người Việt trở lại Việt Nam, yếu tố Mongoloid trở nên ưu thế, yếu tố Australoid bị thu hẹp. C̣n ở mạn nam sông Trường Giang do người Bách Việt đông mà người Hán Mông phía Bắc ít nên trong cuộc ḥa huyết giữa hai tộc người, người Hán phía Bắc bị người Indonesien đồng hóa trở thành sắc dân Mông Cổ phương Nam, trong máu có ít nhiều yếu tố Australoid. Đó là lư do làm cho gene của người Hán phương Bắc không giống với người Hán phương Nam.
4. kết luận của nghiên cứu số 2: biến thiên đa h́nh thái (polymorphic variation) của người Nam Á cao hơn Bắc Á và nghiên cứu số 4: Chỉ số đa dạng sinh học (F-value) của người Việt cao nhất trong nhóm dân Đông Nam Á . Hai kết luận này cho thấy người Việt là cư dân lâu đời nhất ở Đông Nam Á cũng có nghĩa là lâu đời nhất ở Đông Á.
5. Nghiên cứu số 6 nói về chó cũng là nói về người bởi những vật nuôi đó không thể tự ḿnh làm những hành tŕnh vạn dặm như vậy. Chúng nằm trong tài sản của con người trong bước thiên di. Điều này cũng thêm bằng chứng cho thấy người Đông Nam Á đă tới châu Mỹ ít nhất là15.000 năm trước.
(C̣n tiếp)
Hà Văn Thuỳ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 2 of 7: Đă gửi: 10 February 2005 lúc 9:11am | Đă lưu IP
|
|
|
T́m lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá
Hà Văn Thuỳ
(Tiếp theo)
Bằng chứng Di truyền học là đáng tin cậy, giúp cho chúng ta soi sáng những thành quả đă có về tiền sử Đông Nam Á. Nhưng để có bức tranh toàn cảnh của thời kỳ này cũng cần sự tưởng tượng thông qua những giả thuyết.
S. Oppenheimer trong cuốn "Địa đàng ở phương Đông" cho rằng, 60-70.000 năm trước, khi người tiền sử đặt chân tới Đông Nam Á th́ lúc này đang trong thời kỳ biển thoái. Mực nước biển thấp hơn hiện nay đến 130 m. Người ta có thể đi bộ tới châu Úc và những ḥn đảo ngoài khơi. Đất liền Việt Nam kéo tới tận đảo Hải Nam. Ông gọi vùng đất ven biển Bắc Bộ cùng đồng bằng sông Hồng là Lục địa Nanhailand. Người tiền sử đă quần tụ ở lục địa này để đánh cá, hái lượm, săn bắt, chế tác gốm. Do khí hậu nhiệt đới nóng và ẩm, cây cối cũng như động vật sinh sản nhanh nên nguồn thức ăn dồi dào. Con người dễ dàng thuần hóa thực, động vật và rất sớm sáng tạo nền văn minh nông nghiệp.
Khoảng 30.000 năm trước, từ đây có một bộ phận tiến vào vùng trung du phía Tây trở thành chủ nhân Văn hóa Sơn Vi ở Sơ kỳ đồ đá mới.
Từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng, mỗi năm 1 cm. Dân cư Nanhailand buộc phải di chuyển lên vùng đất cao phía Tây, làm nên Văn hóa Ḥa B́nh ở thời kỳ Đồ đá giữa có tuổi từ 18000 đến 7000 năm.
Khoảng 8000 năm TCN, do Đại hồng thủy, nước dâng tới tận Việt Tŕ, Lục địa Nanhailand bị nhấn ch́m, tạo nên đợt di cư lớn của người Việt cổ lên vùng phía Tây và vùng Nam sông Dương Tử.
Nanhailand có thể là trung tâm phát triển nông nghiệp và đồ gốm sớm nhất thế giới. Nhưng tiếc rằng khi bị nhấn ch́m, lục địa này không để lại dấu tích ǵ mà chỉ c̣n Sơn Vi, Ḥa B́nh vừa muộn hơn vừa không phải là điển h́nh trung tâm. Chính v́ vậy tại Ḥa B́nh thiếu những bằng chứng khảo cổ cho thấy nền nông nghiệp phát triển sớm như nó phải có là gốm cổ và hạt thóc.
Một giả thuyết khác có thể dọi chút ít ánh sáng vào tiền sử Đông Nam Á là nghiên cứu của Buckminster Fuller, một nhà địa lư kiêm toán học. Ông cho rằng, có thể t́m ra nguồn gốc các nền văn minh căn cứ vào tỷ lệ thuận giữa tŕnh độ văn hóa, di dân và mật độ nhân số. Từ lư thuyết đó, ông lập bản đồ Dynaxion world Maps ( bản đồ động thái thế giới). Từ bản đồ của ḿnh, B. Fuller kết luận: duyên hải Đông và Đông Nam Á chỉ chiếm 5% diện tích thế giới nhưng có tới 54% nhân loại đang sống. Từ tính toán của ông, người ta suy ra, vào thiên niên kỷ IV-III TCN, người Việt có thể chiếm 15-20% dân số thế giới. [13]
Cố nhiên những tŕnh bày trên chỉ là giả thuyết. Nhưng ít nhiều nó cũng cho ta cái nh́n bao quát hơn về tiền sử vùng đất này.
Sau khi ngắm bức tranh toàn cảnh mang tính mơ mộng, ta trở lại với thực tại khoa học.
Trong những nền văn hóa từng có mặt trên đất Việt Nam, Văn hóa Ḥa B́nh có vị trí đặc biệt, được khoa học khảo cổ thế giới xác nhận là trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá cổ nhất thế giới. Trước đây thế giới cho rằng trung tâm nông nghiệp cổ nhất là ở Lưỡng Hà có tuổi C14 là 7000 năm. Nhưng khi phát hiện ra 10.000 năm tuổi của động thực vật được thuần dưỡng tại Ḥa B́nh th́ thế giới chấn động và tâm phục khẩu phục thừa nhận vai tṛ mở đầu của Văn hóa Ḥa B́nh. Năm 1932, Hội nghị Khảo cổ học quốc tế về tiền sử Viễn Đông xác nhận:
“Văn hóa Ḥa B́nh là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới. Trung tâm nông nghiệp Ḥa B́nh có trước vùng Lưỡng Hà 3000 năm.” [14]
Một phẩm chất nổi trội của Văn hóa Ḥa B́nh là kỹ thuật chế tác đá cuội. Đá cuội là loại đá cực rắn, nên việc ghè mài chúng rất khó khăn nhưng lại cần thiết cho việc chế tạo những dụng cụ khác như cầy, cuốc, thuổng... bằng đá, một thứ “máy cái” như thường nói sau này. Người Ḥa B́nh là cư dân dẫn đầu thế giới phát minh ra kỹ thuật này và sản phẩm của Ḥa B́nh được xuất khẩu đi nhiều nơi. Ḥa B́nh c̣n là nơi sớm nhất trên thế giới biết thuần dưỡng cây trồng và vật nuôi. Từ đây, lần đầu tiên trên thế giới cây lúa nước và khoai sọ ra đời.
Học giả Hoa Kỳ W.G. Solheim II, Jorhman, Trương Quang Trực (Trung Quốc) và học giả Nga N. Vavilow thừa nhận:
“Đông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam đă có một nền văn hóa tiền sử phát triển rất sớm, tiên tiến và nhanh chóng, sáng tạo và sống động chưa từng thấy ở nơi nào trên thế giới.” [15]
Học giả Hoa Kỳ C. Sawer viết trong cuốn Đồng quê: “Đúng là nông nghiệp đă tiến triển qua hai giai đoạn mà giai đoạn đầu là Văn hóa Ḥa B́nh. Lúa nước đă được trồng cùng lúc với khoai sọ.” [16]
Dường như thấy chưa đủ, ông viết tiếp trong cuốn "Cội nguồn nông nghiệp và sự phát tán":
"Tôi đă chứng minh Đông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp cổ nhất. Và tôi cũng chứng minh rằng văn hóa nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này. Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Đông Nam Á, và đây là trung tâm quan trọng của thế giới về kỹ thuật trồng trọt và thuần dưỡng cây trồng bằng cách tái sinh sản thực vật.” [17]
Và đây là ư kiến của ông W. G. Solheim II viết từ năm 1967:
“Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Đông Nam Á, chúng ta hoàn toàn có thể phát hiện ra rằng việc thuần dưỡng cây trồng đầu tiên trên thế giới đă được dân cư Ḥa B́nh (Việt Nam) thực hiện trong khoảng 10.000 năm TCN...”
“Rằng Văn hóa Ḥa B́nh là văn hóa bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài, đưa tới Văn hóa Bắc Sơn.”
"Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Đông Nam Á có những nền văn hóa tịến bộ mà trong đó đă có sự phát triển của dụng cụ đá mài nhẵn đầu tiên của châu Á, nếu không nói là đầu tiên của thế giới và gốm đă được phát minh...”
“Rằng không chỉ là sự thuần hóa thực vật đầu tiên như ông Sawer đă gợi ư và chứng minh mà thôi, mà c̣n đi xa hơn, nơi đây đă cung cấp tư tưởng về nông nghiệp cho phương Tây. Và sau này một số cây đă được truyền đến Ấn Độ và châu Phi. Và Đông Nam Á c̣n tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Đông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN.” [18]
Bốn năm sau, tháng 3/1971 nhà khoa học này từ những khảo sát ở Thái Lan lại viết trong tạp chí National Geographic dưới nhan đề "Ánh sáng mới dọi vào quá khứ bị lăng quên":
“Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh có sớm nhất t́m thấy ở miền Bắc châu Úc 20.000 năm TCN có nguồn gốc thuộc Ḥa B́nh.”
“Thuyết cho rằng tiền sử Đông Nam Á đă di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy rằng văn hóa Sơ kỳ đá mới (Proto-Neolithic) phía Bắc Trung Hoa gọi là Văn minh Yangshao (Ngưỡng Thiều) đă do tŕnh độ thấp Văn hóa Ḥa B́nh phát triển lên từ miền Bắc Nam Á vào khoảng kỷ nguyên thứ VI hay V TCN.”
“Tôi cho rằng, văn hóa sau này được gọi là Lungshan (Long Sơn) mà người ta xưa nay vẫn cho là nó xuất phát ở Yangshao phía Bắc Trung Hoa rồi mới bành trướng sang phía Đông và Đông Nam, th́ thực ra cả hai nền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản Ḥa B́nh.”
“Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đă được sử dụng trên các ḍng sông nhỏ ở Đông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V TCN. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài biển bắt đầu khoảng 4000 năm TCN, t́nh cờ đă đi đến Đài Loan và Nhật Bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa màu khác.”
“Dân tộc Đông Nam Á cũng đă di chuyển sang phía tây, đạt tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2000 năm TCN. Có lẽ họ đă cống hiến một số cây thuần dưỡng cho nền kinh tế miền Đông châu Phi.”
“Vào khoảng thời gian ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt Nam và Địa Trung Hải có lẽ qua đường biển. Một số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc Địa Trung Hải cũng đă t́m thấy ở địa điểm Đông Sơn.” [19]
Những nghiên cứu trên của các nhà khoa học trung thực mở cho thế giới và chúng ta cách nh́n hoàn toàn mới về tiền sử của dân tộc Việt.
Những địa tầng văn hóa trên đất Việt Nam là liên tục. Chủ nhân của Văn hóa Ḥa B́nh là hai chủng Australoid và Melanesoid. Tiếp theo Văn hóa Ḥa B́nh là văn hóa Bắc Sơn mà chủ nhân thuộc về nhóm Indonesien và Melanesoid có tuổi từ 8000 đến 6000 năm TCN. Sau cùng là văn hóa Đông Sơn kéo dài từ khoảng năm 800 đến 111 TCN. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của đồ đồng mà tiêu biểu là linh khí của người Việt: trống đồng. Trống đồng t́m thấy trên địa bàn rộng lớn gồm lục địa Đông Nam Á, từ Tứ Xuyên cho đến MaLacca. Theo giáo sư Trung Quốc Lân Thuần Thanh th́ “Bắt đầu khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt mà Hoa Trung là địa khu từ xa xưa của dân Bách Việt. Trống đồng nhiều nhất ở huyện Hưng Văn tỉnh Tứ Xuyên, c̣n ở bán đảo Đông Dương th́ trống đồng Lạc Việt ở miền Bắc và miền Trung là có tiếng hơn cả. F. Heger gọi trống đồng Lạc Việt thuộc hạng thứ nhất.” [20] Theo học giả Trung Quốc này th́ khởi đúc trống đồng là ở Trung Quốc Bách Việt. Điều đó chỉ đúng một nửa: Trống đồng ở Trung Nguyên do người Việt đúc. Nhưng khởi đúc th́ phải từ Đông Sơn. Trống Đông Sơn có trước trống Hưng Văn mà phẩm chất vượt trội.
Theo hành tŕnh gene và Khảo cổ học, chúng ta đă t́m ra con đường thiên di của tổ tiên:
Khoảng 40.000 năm TCN, tổ tiên người Việt từ Bắc Việt Nam cùng một số sắc dân Đông Nam Á khác đă lên sống trên lục địa Trung Hoa và tạo thành cư dân Trung Quốc cho đến hôm nay. Đấy là phát hiện mang tính cách mạng thay đổi hẳn quan niệm cũ: người Việt phát nguyên từ Tây Bắc Trung Quốc thiên di về phía Đông Nam.
Đến đây lại nảy sinh vấn đề mới: giải thích ra sao cuộc tranh chấp giữa người Hán và người Việt diễn ra hàng ngh́n năm?
Giả định t́nh huống sau:
1. Khoảng 40.000 năm TCN, sau thời kỳ băng hà, khí hậu phía Bắc ấm dần lên, một nhóm người Mongoloid sống bằng săn bắt hái lượm từ Đông Nam Á di cư lên phía Bắc. Theo dấu con mồi, họ đi vào vùng Ba Thục rồi tiến lên phía Tây Bắc Trung Quốc tạo thành tộc người Mông Cổ phương Bắc. Việc t́m thấy xương người hiện đại tại Hoa lục 40.000 năm trước đă minh chứng điều này.
2. Cùng thời gian trên, nhiều nhóm người từ Đông Nam Á mà số đông là người Việt sinh ra do ḥa huyết giữa người Mongoloid và Australoid thành chủng Indonesien đi lên phía Bắc theo đường ven biển. Phương thức sống của những nhóm người này lúc đầu là săn bắt hái lượm sau đó chuyển dần sang nông nghiệp. Việc thiên di diễn ra chậm chạp nhưng liên tục thành nhiều đợt. Khoảng 30.000 năm trước, người Việt tới Siberia, vượt eo biển Bering và chinh phục châu Mỹ. Bằng chứng là ngoài nguồn gene, họ đă mang theo những con chó con gà được thuần dưỡng từ Ḥa B́nh. Những quan sát xă hội học ở sắc dân Caduveo sống tại Tây Bắc Canada cho thấy ở họ có nhiều yếu tố giống người Trung Hoa cổ đại như vai tṛ quan trọng của phụ nữ, hay là việc chú ư đến sự quân b́nh giữa các nguyên lư khác nhau (Levi-Strauss –Tristes tropicques tr 196. Dẫn theo Kim Định - Cơ cấu Việt Nho SG 1972 tr. 22), cũng như dân mạn Nam Trung Quốc lại có những nét giống kỳ lạ với một vài sắc dân bên Mỹ (Tristes tropicques tr. 267). Người Trung Hoa cổ đại, dân mạn Nam Trung Quốc là ai nếu không phải người Việt cổ đă mang theo văn minh Việt đến vùng đất mới?
3. Khoảng 8.000 năm TCN, do Đại hồng thủy, biển dâng tới tận Việt Tŕ, có một đợt di cư ồ ạt từ ven biển lên phương Bắc và vùng đất cao phía Tây. Nhiều lớp người đến Trung Hoa tập trung quanh vùng Thái Sơn rồi mở rộng ra tới lưu vực sông Hoàng Hà. Người Việt khai thác vùng đất này theo hướng nông nghiệp tạo nên nền văn minh nông nghiệp phát triển. Do sống trên địa bàn rộng và thời gian dài, nhóm người Việt này đă phân hóa thành nhiều tộc Việt khác nhau, được sử sách gọi là Bách Việt. Khoảng 6000 năm TCN người Bách Việt làm nên văn minh Ngưỡng Thiều và sau đó Long Sơn (Việc t́m thấy xương của người Mongoloid phương Nam tại các di chỉ trên chứng minh điều này.)
4. Khoảng 2500 năm TCN nhóm người Hán từ Tây Bắc tràn qua sông Hoàng Hà xâm lấn đất của người Việt. Do ưu thế về sức mạnh vơ trang của người du mục, người Hán chiến thắng người Việt nông nghiệp và mở rộng vùng phân bố của ḿnh. Thời kỳ này được sử Trung Hoa gọi là Hoàng đế chiến Si Vưu. Trong khoảng 2000 năm trở lại đây, sự bành trướng của người Hán trở nên mănh liệt nhất, xảy ra ba đợt sóng tràn xuống phía Nam, biến người Hán thành nhóm sắc tộc đông nhất thế giới [21] . Vốn người Mông Cổ phương Bắc khả năng sinh sản thấp (như hiện nay c̣n thấy). Do ḥa huyết với người Việt đă tạo ra người Hán Mongoloid phương Nam có khả năng sinh sản cao, hơn hẳn người Hán phương Bắc. Chính yếu tố này làm tăng nhanh dân số Trung Quốc.
Kết quả của tranh chấp Hán-Việt là phần lớn dân Bách Việt sống ở Trung Quốc bị Hán hóa, duy nhất dân Lạc Việt trở về lại Việt Nam bảo tồn được bản sắc Việt. Tuy nhiên trong quá tŕnh này xảy ra sự ḥa huyết với người Hán nên yếu tố Mongoloid vốn có trong máu tăng lên.
Một câu hỏi khác được đặt ra: tổ tiên ta sống trên miền đất ấy như thế nào? Để giải câu hỏi này, chúng ta dựa vào nguồn tư liệu khác: thư tịch cổ Trung Hoa.
© 2005 talawas
(C̣n tiếp)
-------------------------
Chú thích của tác giả Hà Văn Thuỳ:
[1]Ts Nguyễn Thị Thanh: Việt Nam trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới . ViêtCatholic 30.9. 2001.
[2]Vương Đồng Linh: Trung quốc dân tộc học và Chu Cốc Thành: Trung Quốc thông sử. Dẫn theo Kim Định: Cơ cấu Việt Nho. Sài G̣n, 1973, tr.244-245.
[3] Kim Định: Việt lư tố nguyên. An Tiêm. Sài G̣n, 1970. tr. 16.
[4]Sđd, tr. 24.
[5][1] Nguyễn Đ́nh Khoa: Nhân chủng học Đông Nam Á . ĐH &THCN. Hà Nội, 1983, tr. 106.
[6]J. Y. Chu và đồng nghiệp: Genetic Relationship of Population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95, tr. 11763-11768.
[7]Bing Su & đồng nghiệp: Y-chromosome Evidence For a Northward Migration of Modern Human into Eastern Asia During the Last Ice Age. American Jurnal of Human Genetics 1999; 65; 1718-1724. Nhiễm sắc thể Y chỉ có ở con đực, bền vững và chứa nhiều thông tin di truyền hơn mtDNA. Qua Y-chromosome có thể truy t́m “dấu vết di cư” của nhóm dân, từ đó ước đoán được tuổi của tổ tiên. Mức độ biến thiên đa h́nh thái (polymorphic variation) là chỉ tiêu di truyền quan trọng đánh giá độ đa dạng sinh học của nhóm dân: tổ tiên có mức đa dạng sinh học lớn hơn con cháu.( theo Gs Nguyễn Văn Tuấn T́m về nguồn gốc dân tộc Việt Nam qua di truyền học. Giaodiem.com)
[8]W. Kim & đồng nghiệp: Y-chromosomal DNA Variation in East Asia Populations and its Potential for Inferring the Peopling of Korea. Journal of Human Genetic. 2000. số 45, tr. 76-83.
[9]S.W. Ballinger và đồng nghiệp: Southeast Asian Mitochondrial DNA Analysis Reveals Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migration. Genetic 1992 số 130, tr. 139-45.
[10]Jin Li: Ngày 29.9.1998 Li Jin thông báo một tin chấn động giới khoa học tại Washinton: “Công tŕnh của chúng tôi cho thấy con người hiện đại trước hết đă đến Đông Nam Á sau đó đi lên Bắc Trung Hoa.” “Từ Trung Đông men theo bờ Ấn Độ Dương, ngang qua Ấn Độ đến Đông Nam Á. Sau đó họ đi lên Bắc Trung Hoa, Siberia và cuối cùng là châu Mỹ.” (“Our work shows that modern humans first came to Southeast Asia and then move late to Northern China.” “...from Middle East, following the Indian Ocean coatline across India to Southeast Asia. Later, they moved northern China, Siberia and eventually the Americas”) Los Angeles Times, 29.9.1998.
[11]Peter Savolainen, Ya ping Zhang... Genetic Evidence for an East Asia Origin of Dometic Dogs. Science Nov 22 2002; Jenifer A. Leonard, Robert K. Wayne ... Ancient DNA Eviden for Old World Origin of New World Dogs. Science Nov 22 2002. (Dẫn theo Nguyễn Văn Tuấn: Năm Mùi nói chuyện dê. Giao Điểm Xuân 2003)
[12]Stephen Oppenheimer: Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia- Nxb Phoenix London 1998. Là bác sĩ nhi khoa sống 20 năm trên các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, ông rất yêu vùng này, để công nghiên cứu và có những phát hiện quan trọng về lịch sử, văn hóa, dân tộc học... Công tŕnh của ông được đánh giá cao.
[13]Vũ Hữu San: Vịnh Bắc Việt , tái bản 2004. Tripod.com
[14]Encyclope’dia d’Archeologie.
[15]Nguyễn Thị Thanh bđd.
[16]Nguyễn Thị Thanh bđd.
[17]C. Sawer: Agricultural Origins and Dispersals. New York 1952
[18]W.G Solheim II: Southeast Asia and the West –Đông Nam Á và phương Tây- Science 157
[19]Wilheim G. Solheim H. Ph. D: New Light on Forgotten Past. National Geographic Vol 1339 n 3 tháng 3 năm 1971.
[20]Nguyễn Đăng Thục: 4000 năm văn hiến. Hoadam.net
[21]Bowen, Hui Li, Daru Lu và đồng nghiệp: Genetic Evidence Supports Demic Diffusion of Han Culture. Nature /vol 431/ 16 September 2004
Sửa lại bởi ThienSu : 10 February 2005 lúc 9:17am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 3 of 7: Đă gửi: 10 February 2005 lúc 9:38am | Đă lưu IP
|
|
|
T́m lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá
Hà Văn Thuỳ
(Tiếp theo)
Từ thư tịch Trung Hoa, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tiền sử người Việt chia làm 3 thời kỳ sau:
1. Thời kỳ Thái Sơn:
C̣n gọi thời kỳ Tam hoàng gồm: Toại Nhân là vị vua phát minh ra lửa, gọi là Thiên hoàng; Phục Hy là Nhân hoàng dậy cách chăn nuôi và làm ra bát quái cùng vợ là Nữ Oa coi về thời tiết. Vua cuối cùng là Thần Nông dạy dân trồng lúa nên gọi Địa hoàng. Sử Tàu ghi Thần nông truyền được 8 đời, kéo dài 530 năm. Thời kỳ này luôn xảy ra chiến tranh với Hán tộc của Hoàng đế. Trong quyển Kỳ môn độn giáp đại toàn thư có câu hát:Tích nhật Hoàng đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu. (Ngày xưa Hoàng đế đánh Si Vưu, cuộc chiến ở Trác Lộc đến nay c̣n chưa dứt – dẫn theo Kim Định). Sử Tàu ghi trận Trác Lộc nổ ra vào năm 2500 TCN, Si Vưu là tên xấu mà người Hán đặt cho Đế Lai. Trong trận này Đế Lai bị giết, Hiên Viên thắng, được tôn làm Hoàng đế. Như vậy, ḍng họ Thần Nông bắt đầu vào khoảng 3000 năm TCN.
2. Thời kỳ Ngũ Lĩnh
Cháu nội của Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Nghi làm vua miền lưu vực sông Hoàng Hà c̣n Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ phía nam sông Dương Tử, xưng là Kinh Dương vương. Đế Nghi sinh Đế Lai thay cha làm vua phương Bắc. Lộc Tục sinh Sùng Lăm làm vua phương Nam, xưng là Lạc Long quân. Đế Lai liên minh với nước Xích Quỷ để chống Hán tộc, gả con gái là Âu Cơ cho Lạc Long quân. Trong trận Trác Lộc, Đế Lai tử trận. Bề tôi của ông theo Âu Cơ chạy xuống nước Xích Quỷ. Lạc Long quân đem quân chạy ra biển. Thời kỳ này người Việt tập trung quanh vùng Ngũ Lĩnh.
3. Thời kỳ Phong Châu:
Lạc Long quân chạy ra biển, đi xuống phía Nam lập nước Văn Lang tại vùng Phú Thọ ngày nay. [1]
Cho đến nay, toàn bộ hiểu biết về cội nguồn dân tộc Việt mới dừng lại ở đó.
Phải thừa nhận, việc chia tiền sử người Việt thành ba thời kỳ như trên là xác đáng. Đó là công lao của nhiều thế hệ sử gia Việt Nam đă chắt lọc ra từ huyền sử và thư tịch Trung Hoa. Điều này giúp cho người Việt phần nào biết được nguồn cội tương đối gần của ḿnh.
Tuy nhiên quan niệm trên cũng là hệ quả của cách nh́n nhận sai lầm truyền thống là tổ tiên người Việt từ cao nguyên Thiên Sơn di chuyển về phía Đông Nam v́ vậy không chỉ thiếu sót mà c̣n sai lạc. Sai lạc ở chỗ:
Đất phát tích của người Việt vốn từ miền Bắc Việt Nam, bị đẩy lên tận lưu vực Hoàng Hà.
Thời gian lịch sử của người Việt từ 60-70.000 năm rút lại c̣n 5-6000 năm.
Quan niệm lịch sử như thế cắt đứt quan hệ huyết thống của người Việt hiện đại với tổ tiên hàng vạn năm trước và đương nhiên truất quyền thừa kế về mặt huyết thống của chúng ta với văn hóa tiền sử: Sơn Vi, Ḥa B́nh, Bắc Sơn... V́ vậy trong tâm lư chung, chúng ta chỉ dám nhận là người thừa kế về mặt lănh thổ của những văn hóa tiền sử!
Trong khi đó, theo phát hiện mới th́:
Tổ tiên người Việt phát tích từ miền Trung và miền Bắc Việt Nam, là cháu con những người tiền sử từ Trung Đông thiên cư theo bờ biển Nam Á đến Đông Nam Á.
Thời gian lịch sử của người Việt đứng chân trên đất Việt từ 60-70.000 năm trước.
Con đường thiên di lên phía Bắc ban đầu rồi sau đó trở về nguồn cho phép ta giải thích v́ sao trong máu người Việt yếu tố Mongoloid đậm lên: do hỗn huyết với tộc người Hán trong thời gian ở lưu vực sông Hoàng Hà và Dương Tử.
Phát hiện mới cho phép chúng ta khẳng định:
Khoảng 40.000 năm trước, người Việt từ Việt Nam đi lên phía Bắc, tràn qua lục địa Trung Hoa. Thời gian này không được nhắc tới trong huyền sử. Chỉ khoảng 5000 năm TCN tổ tiên người Việt mới xuất hiện trong huyền sử với Toại Nhân, Phục Hy... cùng địa danh Thái Sơn. Thái Sơn là trung tâm quần tụ của người Việt thời kỳ Bắc tiến, trước đây vẫn được coi là đất phát tích của người Việt. Từ 2500 năm TCN, do cuộc đụng độ với Hán tộc, tiền sử của người Việt lần đầu tiên được ghi lại bằng văn tự. Đây cũng là thời kỳ người Việt bỏ chạy khỏi Thái Sơn để lui xuống tụ cư tại vùng Ngũ Lĩnh. Tiếp đó do Hán tộc săn đuổi rốt ráo hơn, người Việt từ Ngũ Lĩnh trở về Phong Châu. Khi Lạc Long quân đem quân dân Việt đổ bộ vào Nghệ Tĩnh xây dựng thời đại Châu Phong là tổ tiên ta trở lại nơi phát tích của ḿnh, nhận vai tṛ người thừa kế hợp pháp cả về huyết thống cả về lănh thổ của tổ tiên người Việt. Một ḍng lịch sử truyền nối liên tục không đứt quăng. Phát hiện này làm thay đổi hoàn toàn quan niệm của chúng ta về cội nguồn và lịch sử dân tộc.
Trên đây là những nét lớn, có tính khái quát. Đi vào cụ thể, ta điểm qua vài chứng cứ bằng văn tự như sau:
Theo cuốn sử sớm nhất của Trung Quốc là Sử kư th́ chủng tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhà Hạ (2205-1770 TCN). Câu Tiễn (505- 465 TCN) vua nước Việt là hậu duệ của vua Hạ Vũ. Nước Sở của Khuất Nguyên cũng là ḍng Việt bởi vậy Khuất Nguyên mới ai oán tiếc thương ḍng giống Việt trong Sở Từ:
"Răng đen ḿnh trổ dọc ngang"
Xăm ḿnh, cắt tóc ngắn, nhuộm răng đen là đặc điểm của người Việt thời đó.
Trước đây, chúng ta mang mặc cảm là đám Tàu lai bị xua đuổi, liều chết chạy về Nam theo bản năng sinh tồn nên vẫn cho ḿnh là kẻ nhập cư trên đất đai người khác, nhất là khi phát hiện ra trong huyết quản đậm phần máu Mongoloid. Trước những nền văn hóa rực rỡ Ḥa B́nh, Bắc Sơn của người tiền sử, chúng ta cũng tự hào nhưng là niềm tự hào vay mượn bởi mặc cảm của kẻ khác chủng tộc, không liên hệ ǵ đến chủ nhân của những nền văn hóa đó!
Rồi chúng ta phát hiện ra rằng: tổ tiên ta từ đất nước Việt Nam đă mang gươm (ŕu đá) đi mở cơi khai thác mở mang đất nước Trung Hoa, tại đây xuất hiện vị tổ gần hơn là Thần Nông vùng Thái Sơn từng giáo dân nghệ ngũ cốc. Tổ tiên đă mở đất, đă chiến đấu kiên cường với kẻ xâm lấn rồi khi không thể ở lại được đă trở về mái nhà xưa. Chính những hậu duệ đi xa trở về này do phải tiếp xúc, đối đầu với nền văn minh du mục, với kẻ địch mạnh đă trở nên mạnh mẽ và khôn ngoan hơn. Điều khôn ngoan nhất mà các vua Hùng đem đến cho người Việt phương Nam là tổ chức nhà nước. Chính nhà nước dù c̣n lỏng lẻo này đă làm thay đổi về chất trong quan hệ của cộng đồng Việt: từ quan hệ bộ tộc chuyển sang quan hệ quốc gia. Quan hệ này giúp các vua Hùng sáng tạo nên văn minh Đông Sơn rực rỡ và có được sức mạnh trong đấu tranh với kẻ thù.
Tới đây, tự nhiên nảy sinh câu hỏi: V́ sao cũng thời gian đó, số dân Bách Việt tăng nhanh, phạm vi phân bố mở rộng ra mênh mông, trong khi người Mông Cổ số dân tăng không đáng kể và chỉ loanh quanh mạn Bắc sông Hoàng Hà? (Bằng chứng xă hội học cũng như di truyền không cho thấy người Mongoloid phương Bắc có mặt ở châu Mỹ).
Có thể lư giải điều này bằng 3 nguyên nhân: khí hậu, thổ nhưỡng, phương thức sống và di truyền:
1.Khí hậu lạnh không tạo thuận lợi cho sinh sản. Dân số tăng chậm không đ̣i hỏi mở rộng vùng phân bố.
2.Phương thức sống du mục nên người Mông sống bám vào đồng cỏ cao nguyên, không có khả năng chinh phục miền đất ẩm thấp mạn Nam sông Hoàng.
3.Người Mông phương Bắc mang gen từ tổ tiên Mongoloid thiên di lên rất sớm nên không kịp ḥa huyết với chủng người khác, trong bộ gene tương đối thuần của họ mang khả năng sinh sản thấp?
Từ đó có thể rút ra kết luận: việc xuống phía Nam ḥa huyết với người Bách Việt mang ḍng máu Indonesien và trồng lúa nước mở ra vận hội lớn đối với người Hán, chẳng những đă cứu họ thoát khỏi t́nh trạng sinh sản thấp như người Mông Cổ đồng chủng mà c̣n cho họ hưởng nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ. Chính hai nhân tố này tạo nên dân số đông đúc cùng văn hóa ưu tú của dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Như vậy là một cách ngắn gọn, tôi đă tŕnh bày một phần về CỘI NGUỒN TỔ TIÊN. Sở dĩ chỉ dám nói một phần v́ c̣n một câu hỏi vô cùng bức xúc chưa được trả lời:
NHÀ TRIỆU CÓ VAI TR̉ G̀ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC VIỆT?
Từ khi giành lại quyền tự chủ, các triều đại Việt đều đề cao vai tṛ lịch sử của Triệu Đà. Nhà Trần phong ông là Khai thiên thế đạo thánh vũ thần triết hoàng đế. [2] Đại Việt sử kư toàn thư ghi:
“Họ Triệu nhân lúc nhà Tần suy loạn, giết trưởng lại nhà Tần, chiếm giữ đất Lĩnh Nam xưng đế, đ̣i ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng.”
Sử gia Lê Văn Hưu nói:
“Thế mới biết, người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là “lăo phu”, mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy.”
Trong An Nam chí lược, Lê Tắc viết:
“Triệu Đà làm vua Nam Việt, mới lấy thi lễ giáo hóa nhân dân một ít.”
Điều này chứng tỏ Triệu Đà là người mang sự học đến nước ta từ trước chứ không phải Sĩ Nhiếp. Đến nhà Lê, trong B́nh Ngô đại cáo, Nguyễn Trăi viết:
"Trải Triệu, Đinh, Lư, Trần nối đời dựng nước".
Như vậy, Nguyễn Trăi thừa nhận Triệu Đà là ông vua đầu tiên của nước ta từ thời có sử.
Hàng ngàn năm, chính sử Việt Nam ghi nhận vai tṛ lịch sử lớn lao của nhà Triệu. Đến thế kỷ XVIII, Ngô Th́ Sĩ (1726-1780) trong "Việt sử tiêu án" viết:
“Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ họa chả Triệu Đà th́ c̣n ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp ḥi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng ngh́n năm mà không ai cải chính lại v́ thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.” [3]
Cho đến nay, trong giới sử học, việc đánh giá Triệu Đà vẫn có hai luồng ư kiến ngược nhau. Là kẻ ngoại đạo không dám lạm bàn, tôi chỉ xin lục ra một số tư liệu lịch sử hầu bạn đọc tham khảo.
Trong Sử kư, Tư Mă Thiên viết:
“Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà, người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đă chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đă mười ba năm. Khi nhà Tần bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ vương. Đà bèn tự tôn làm “ Nam Việt Vũ đế”, đem quân đánh các ấp ở biên giới quận Trường Sa. Đà nhân đó dùng uy lực uy hiếp biên giới, đem của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc ḿnh. Đất đai của Đà chiều ngang có hơn vạn đặm, Đà bèn đi xe mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là chế”, chẳng kém ǵ Trung Quốc.” “Đến thời Hiếu Cảnh, Đà vẫn xưng thần, sai người vào chầu. Nhưng trong nước Nam Việt th́ vẫn trộm xưng danh hiệu “đế” như cũ; c̣n khi sai sứ sang thiên tử th́ xưng “vương”, triều kiến thỉnh mệnh như các chư hầu.” [4]
Triệu Đà làm vua 70 năm (từ 207 đến 137 TCN), tiếp đó cháu chắt ông truyền 4 đời trị v́ 27 năm nữa, đến năm 111 TCN nước Nam Việt vào tay nhà Hán. Nhà Triệu kéo dài được 97 năm.
Phủ Biên tạp lục của Lê Quư Đôn ghi:
“Đem số hộ khẩu chép ở sách Hán chí mà so th́ nước ta được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, hơn 20 huyện, đời Hán số hộ cộng là 143.743 nhà, số khẩu cộng là 981.827 người. Thông tính cả hai tỉnh ấy (Quảng Đông, Quảng Tây) ở đời Hán số hộ chỉ là 71.805 nhà, khẩu chỉ là 389.672 người. Như thế nước ta ở đời Hán th́ số hộ gấp đôi mà số khẩu gần gấp ba.” [5]
Như vậy, vào năm 220 TCN, nhà Tần chiếm đất của người Việt ở phía Nam sông Dương Tử, và đưa những tội nhân người Hán đến ở chung với người Việt để thực hiện ư đồ lấn đất. Do nhà Tần sụp đổ, thiên hạ đại loạn tạo cơ hội cho Triệu Đà cát cứ. Tuy xưng vương ở Phiên Ngung nhưng số dân của Triệu ít. Trong khi đó ở phía Nam, nước Âu Lạc của An Dương vương khá mạnh, số dân gần gấp 3 số dân của Triệu. Bên cạnh Âu Lạc c̣n có các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc luôn tranh chấp. Nước Âu Lạc tuy lớn nhất trong khu vực nhưng cũng quá nhỏ so với nhà nước phương Bắc. Nếu nhà Tần không sụp đổ đúng thời điểm đó, có nhiều khả năng tằm ăn dâu, nhà Tần sẽ thôn tính đất Nam Việt. Một khả năng khác: trong cuộc chinh phạt Nam Việt trị tội Triệu Đà xưng đế, nếu tướng Lâm Lư hầu thắng, nhà Hán chiếm Nam Việt ngay lúc đó, có phần chắc Nam Việt cũng bị đồng hóa như các ḍng Bách Việt khác. Khả năng thứ ba: nếu Triệu Đà theo nhà Hán, sau khi thôn tính Âu Lạc, sáp nhập Nam Việt vào Hán th́ có phần chắc là Nam Việt bị xóa sổ trên bản đồ!
Nh́n vào thực tế nước Âu Lạc của Thục Phán, ta thấy, Tục Pắn (tên Việt của Thục Phán) là người Ba Thục thuộc nhóm Âu Việt trốn chạy nhà Tần đến nương nhờ Lạc Việt, đă chiếm ngôi của vua Hùng, lập nên Âu Lạc. Ban đầu Thục Phán bị xem là kẻ thoán đoạt cướp ngôi nên bị người Lạc Việt chống lại (sự tích xây Loa Thành bị đổ). Nhưng rồi sau do chính sách cai trị khôn ngoan, nhất là sau hai lần đánh thắng quân Tần, đă được nhân dân tín nhiệm. Về cuối đời do mất cảnh giác nên bị Triệu Đà dùng mưu thôn tính. Đúng là Triệu Đà dùng thủ đoạn chiếm nước Âu Lạc nhưng ư nghĩa của sự kiện lịch sử này cần phải bàn. Thời đó, sự liên kết trong mỗi quốc gia c̣n lỏng lẻo và biên giới từng quốc gia chưa ổn định, đang trong xu hướng sáp nhập tập trung thành những quốc gia đủ mạnh để tồn tại. Việc thôn tính các nước Sở, Ngô, Việt... để thành nước Tần không phải hành động xâm lược mà là công lớn thống nhất đất nước. Tương tự vậy, việc Triệu Đà chiếm Âu Lạc cũng không thể coi là cuộc xâm lược mà là hành động thống nhất những nhóm, những tiểu quốc người Việt lại thành một nước Việt lớn hơn, ngăn chặn hành động thôn tính của kẻ mạnh ở phương Bắc. Điều quan trọng là họ Triệu đă duy tŕ được nước Nam Việt thống nhất trong gần một thế kỷ, vừa xây dựng trong ḥa b́nh vừa kiên cường chống ngoại xâm. Chính điều này đă tạo nên và củng cố tinh thần quốc gia của người Việt. Đây là di sản quư báu nhất họ Triệu để lại cho người Việt. Chính gần một thế kỷ tồn tại của quốc gia Nam Việt giúp cho người Lạc Việt không bị người Hán đồng hóa và sau này có dịp lại vùng lên trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Nếu không có may mắn một trăm năm Nam Việt ấy, dám chắc người Hán sẽ diệt tiểu quốc của Triệu Đà sau đó thôn tính Âu Lạc, tộc Lạc Việt đă bị mất hút trong lịch sử như những ḍng Việt anh em khác!
Các sử gia như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên... đă nh́n nhận công bằng và Nguyễn Trăi đánh giá họ Triệu một cách chuẩn mực. Sử gia Ngô Th́ Sĩ khi viết:
“Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục Giả” đă tỏ ra bất cập. So với một quốc gia c̣n trong t́nh trạng nguyên thủy với những lạc hầu lạc tướng cai quản từng bộ lạc th́ một quốc gia có quận huyện, biên số thổ địa là bước nhảy vọt về tổ chức hành chính, về khoa học quản lư xă hội. C̣n nói “thu thuế má cung cấp ngọc bích cho nhà Hán” cũng không đúng. Suốt 70 năm Triệu Đà làm vua, quan hệ Việt Hán khá lỏng lẻo. Biết Triệu xưng đế mà nhà Hán đành chịu, không những thế c̣n phải lấy ḷng bằng cách giữ ǵn mồ mả tổ tiên của Triệu, cho thân nhân Triệu làm quan (Sử kư). Trong mối quan hệ như vậy, cống phẩm của Triệu Đà chỉ có nghĩa tượng trưng để xác nhận sự thần phục trên danh nghĩa nên không thể làm đầy túi tham của Lục Giả, không thể so sánh với việc cống người vàng thời Trần-Lê sau này. Rơ ràng, chứng lư đưa ra để kết tội Triệu Đà là không thuyết phục. Nhưng v́ sao Ngô Th́ Sĩ lại có cái nh́n việc thiếu chuẩn mực như vậy? Chỉ có thể là, với tinh thần dân tộc hẹp ḥi, ông không chịu một ông vua người Hán tộc! Trong lịch sử thế giới, một người nước này làm vua nước khác không hiếm. Ngay bên chúng ta, tới cuối thế kỷ XVIII, vua nước Xiêm là một người Trung Quốc tên là Trịnh Quốc Anh từng kéo quân sang đánh Hà Tiên. C̣n với chúng ta th́ đúng Triệu Đà là người Hán nhưng dân Nam Việt lúc đó hầu hết là người Việt, v́ vậy không thể phủ nhận việc ông là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt, ông vua khai sáng của Việt Nam chúng ta. Mặt khác, vợ ông là Tŕnh thị người Đường Thâm Giao Chỉ nên con ông, Trọng Thủy ít nhất có nửa phần máu Việt, c̣n cháu ông là Triệu Hồ có một phần máu Việt, đến Anh Tề, phần máu Việt cao hơn. Họ Triệu chẳng những có công khai sáng Nam Việt mà ngày càng gắn bó bằng tâm hồn bằng máu huyết với Tổ quốc mới của ḿnh!
Trong khi viết những ḍng này, rất may mắn tôi t́m trên mạng một thông tin bổ ích:
Năm 1983, trong khi đào móng dựng nhà, người ta phát hiện được tại đồi Ngung thành Quảng Châu, kinh đô cũ Phiên Ngung thời Triệu lăng mộ của Nam Việt Triệu Văn vương Triệu Hồ. Năm 1988 Bảo tàng Nam Việt vương được xây dựng trên địa điểm đó, gồm có lăng mộ c̣n giữ một phần xương hàm nhà vua cùng khoảng 1000 hiện vật khác, trong đó có quả ấn Nam đế hành tỷ bằng vàng. Như vậy ở thời làm chủ Nam Việt, Triệu Văn vương vẫn xưng đế! Hiện vật này phủ nhận Sử Kư:
"Khi lên thay Đà, Hồ dấu ấn đế đi".
Cũng phải nói rằng, dù có là nhà sử học vĩ đại th́ Tư Mă Thiên vẫn là người kỳ thị chủng tộc. Không chỉ ở chi tiết trên mà c̣n ở cách gọi: dù viết thành liệt truyện th́ ông vẫn gọi Triệu Đà là Nam Việt úy Đà. Một danh xưng không thỏa đáng: chức úy chỉ do Nhâm Ngao làm chiếu giả phong cho, c̣n chức huyện lệnh mới là danh chính ngôn thuận. Vậy tại sao lại dùng cái danh không chính này để gọi nhân vật lịch sử mà không dùng danh khác, nhất là danh vương, đế của một triều đại lừng lững kéo dài một trăm năm? Cũng một điều vô lư nữa: tên bảo tàng được gọi là "Tây Hán Nam Việt vương mộ bác vật quán "(!)Tại sao lại gán ghép vô lối vậy? Hai nhà nước hai cương thổ khác nhau sao lại gộp làm một? Một sự xuyên tạc trắng trợn lịch sử! [6]
Một câu hỏi cần phải trả lời gấp: Triệu Đà ông là ai? Người Tàu không nhận ông là Tàu v́ ông là Nam Việt hiệu úy. C̣n với người Việt ông bị coi là giặc Tầu xâm lược! Vậy ông là ai?!
Ruột bỏ ra da ôm lấy từng là nỗi đau của bao người. Mồ cha không khóc lại khóc đống mối từng là bi kịch của không ít gia đ́nh, ḍng họ... Nhưng v́ những lầm lẫn mà chối bỏ người sáng lập ra quốc gia, chối bỏ cả thời đại quan trọng trong lịch sử lại là nỗi đau nỗi nhục của cả một dân tộc! Đă đến lúc vụ án Triệu Đà -Trọng Thuỷ phải được tính lại.
Cội nguồn văn hoá
Trong khi tŕnh bày vấn đề cội nguồn tổ tiên, tôi đă phần nào nói tới cội nguồn văn hóa. Đấy là những nền văn hóa Sơn Vi, Ḥa B́nh, Bắc Sơn, Đông Sơn... tổ tiên ta đă làm ra trên đất Việt Nam. Một vấn đề cần làm rơ: trong khoảng thời gian hàng vạn năm sống ở Trung Nguyên, người Việt đă sáng tạo ra những ǵ? Không làm ra những kỳ tích như Ḥa B́nh, Bắc Sơn nhưng những người Việt xa quê này không ngừng sáng tạo: thuần hóa gia súc, trồng lúa nước, làm ra đồ gốm, trong đó có cái chơ Tam biên (để đồ xôi) rất đặc trưng rồi đúc trống đồng, đúc Cửu đỉnh. Người Việt ở đây cũng kết thằng tức bện dây làm lưới đánh cá... Cùng với những văn hóa vật thể ấy, trong hàng vạn năm duy tŕ một xă hội nông nghiệp ổn định, người Việt phương Bắc cũng sáng tạo nên nền văn hóa phi vật thể phong phú. Đó là những kinh nghiệm về thời tiết về cây trồng mà bà Nữ Oa là bậc thầy có tài đội đá vá trời (cách nói h́nh tượng của việc quan sát nắm vững thời tiết), những kinh nghiệm về đối xử với thiên nhiên, với hàng xóm láng giềng. Từ những vết chân chim in trên phù sa, cha ông ta làm ra chữ viết: chữ kết nút, chữ h́nh con ṇng nọc (chữ Khoa đẩu), chữ h́nh ngọn lửa (Hỏa tự), dùng mu rùa bói toán... Hoài niệm về thời Nghiêu Thuấn mà có lúc chúng ta cười giễu các cụ say giấc mơ Tàu th́ thực ra lại chính là hồi quang của lối sống Việt tận nguồn: thế giới đại đồng, con người ḥa thuận với thiên nhiên, sống với nhau nhân ái, dân chủ.
Khi tràn xuống Trung Nguyên, người Hán du mục bắt gặp một cuộc sống mới cùng nền văn hóa mới. Khi kẻ xâm lấn tràn tới, thành phần quư tộc tinh hoa của các bộ tộc Việt bỏ chạy về Nam, một bộ phận bất hợp tác th́ vào rừng lẩn trốn thành người thiểu số c̣n đại đa số dân Việt thích ứng với cuộc sống mới. Cuộc săn đuổi và trốn chạy diễn ra dài dài trong lịch sử, kể đến nhiều ngh́n năm. Trong thời gian dằng dặc ấy, chữ Việt ban đầu được viết với bộ Mễ (lúa gạo – chỉ dân trồng lúa nước) bị kẻ chiến thắng đổi thành chữ Việt với bộ Tẩu (vượt – chỉ người Việt chạy vượt qua sông Dương Tử). Trong khi đó người Việt ở lại sống chung với quân xâm lược được gọi là Miêu. Do số dân quá ít, khi đối mặt với kẻ chiến bại đông đảo, kẻ chiến thắng Hán tộc đă áp dụng thái độ ứng xử khôn ngoan với tộc người Miêu này. Khác với người Aryen du mục khi chinh phục Ấn Độ đă áp chế người bản địa Dravidiens bằng chế độ nô lệ hà khắc để lại những di họa đến bây giờ, người du mục Hán tộc giữ vai tṛ lănh đạo và chuyển sang làm thương nghiệp, công nghiệp c̣n để cho người Miêu Việt làm công việc nặng nhọc là trồng trọt, chăn nuôi và đi lính. Lúc đầu choáng ngợp trước cuộc sống sung túc và văn hóa khác lạ của dân nông nghiệp, người du mục không chú ư lắm đến các vị thần, đến tín ngưỡng bản địa. Nhưng rất nhanh chóng, cộng đồng dân cư bản địa quá đông đúc đă đồng hóa kẻ xâm lăng, cả về huyết thống cả về văn hóa. Giai cấp lănh đạo Hán tộc từ bỏ vật tổ truyền thống là con cọp trắng để nhận vật tổ của người Miêu Việt là con rồng làm vật tổ của ḿnh, nhận những ông vua thời Tam hoàng, không chỉ nhân vật chính thống Hoàng đế mà cả Phục Hy, Thần Nông làm tổ. Tiến một bước nữa, những trí thức Hán tộc kết hợp cùng trí thức Miêu Việt tiến hành ghi chép những điều hay lẽ phải trong cộng đồng nông nghiệp Việt tộc để chế tác kinh điển. Những kinh, thư đă ra đời như vậy. Trong Luận ngữ, Khổng tử nói: “Ngô thuật nhi bất trước" (Ta chỉ ghi lại mà không sáng tác). Đó là lời trung thực, nói lên đúng thực chất những ǵ ngài đă làm. Kinh Thi bắt đầu từ sự sưu tầm ghi chép những câu ca tồn tại từ lâu trong dân gian. Về nguồn gốc Kinh Dịch, người ta thường nói truyền thuyết con long mă sông Hà dâng đồ, con rùa sông Lạc dâng thư nhưng thực ra đó là những kinh nghiệm bói toán đă có từ lâu trong cộng đồng Việt miền lúa nước sông Hà sông Lạc mà trí thức Hán tộc thâu lượm, nhuận sắc nâng cao lên... Rồi Kinh Lễ cũng là sưu tầm chọn lọc những điều lễ nghĩa trong thiên hạ người Việt... Việc này làm nên nền văn minh cổ Trung Hoa. Như vậy, trong văn hóa Trung Hoa, sự đóng góp của Việt tộc nông nghiệp là phần chủ đạo, phần hồn phần cốt. Nh́n về thực chất, bên trong nền văn minh được đóng gói dán nhăn Trung Quốc chế tạo ấy lại là sản phẩm của Việt tộc.
Ư tưởng về nhân tố Việt là chủ đạo trong văn hóa Trung Hoa hơn 30 năm trước đă được học giả Kim Định nhiệt tâm tŕnh bày trong loạt sách Triết lư An Vi như Việt lư tố nguyên, Dịch kinh linh thể, Cơ cấu Việt Nho... của ông. Do lúc đó chưa biết con đường Bắc tiến của người Ḥa B́nh nên ông phải chứng minh khá vất vả về sự tồn tại của văn hóa Việt trên địa bàn Trung Nguyên. Khi bổ sung vào ư tưởng của ông phát kiến di truyền học hiện đại là con đường thiên di lên phía Bắc của người Việt cổ th́ mọi chuyện trở nên hiển nhiên: người Việt phương Nam từng thiên cư lên, sống hàng vạn năm trên lưu vực Hoàng Hà th́ cố nhiên họ là chủ nhân của những địa tầng văn hóa như Ngưỡng Thiều, Long Sơn hiện hữu nơi đó!
Những người Việt sống ở Trung Quốc làm nên phần cốt lơi của văn hóa Trung Hoa. Vậy c̣n người Việt tại miền Ngũ Lĩnh, Giao Chỉ để lại thành tựu riêng ǵ? Các sách cổ Trung Quốc như Giao Châu kư, Ngô lục địa lư chí, Nam phương thảo mộc trạng... đều ghi chép:
“Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn, dùng lá trà làm thức uống.” “Họ biết uống nước bằng lỗ mũi” “Nuôi tằm mà dệt vải” “Dùng đất sét đào sâu trong đất, thái mỏng, phơi khô làm thức ăn quư để đi hỏi vợ” “Dùng đá màu làm men gốm” “Dùng mu rùa mà bói việc tương lai” “Họ dùng một khúc tre dài chừng hơn một thước, một đầu có trụ cao làm tay cầm, có dây buộc vào trụ nối lại đàng kia làm đàn gọi là độc huyền cầm” “Họ đem tính t́nh các con vật mà so sánh với người, rồi họ truyền tụng rằng, ngày thứ nhất trời sinh con chuột, ngày thứ hai sinh con trâu, ngày thứ ba sinh con cọp (truyện thần thoại của người Dao, gốc tích của 12 con giáp). Họ biết t́m hiểu các thức ăn nóng mát (thuyết âm dương) để trị bệnh, dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh, lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh.”
Khi một môn đệ đi đến đất Việt, xin Đức Khổng tử chỉ dạy, Ngài nói:
“Người Bách Việt miền Nam có lối sống, tiếng nói, phong tục, tập quán, thức ăn uống riêng”; “dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn, không như chúng ta trồng kê và lúa ḿ. Họ uống nước bằng thứ lá cây hái trong rừng gọi là trà.”
Sách Hậu Hán thư quyển 14 viết:
“Dân Giao Chỉ biết nhiều nghề thủ công, luyện đúc đồng và sắt...”
Sách Cổ kim đồ thư chép:
“Mă Viện tâu vua, Giao Chỉ ép mía làm đường phèn: Giao Chỉ có cây mía ngọt. Đem ép lấy nước rồi làm đường phèn.”(*) “Giao chỉ làm giấy mật hương: bằng lá và vỏ cây mật hương (cây dó) trồng ở Giao Chỉ, giấy mềm, dai, thơm, ngâm nước không bở không nát.” [7]
Chúng ta biết, người Hán có gốc từ Mông Cổ du mục nên nhà làm theo h́nh tṛn gọi là lều. Trong khi đó người Việt làm nhà sàn h́nh chữ nhật bằng tranh tre, có mái cong mà mô h́nh c̣n thấy trong mộ táng thuộc Văn hóa Đông Sơn 2000 năm TCN. Khi định cư ở Trung Nguyên, dân Hán đă theo mô thức nhà của người Việt.
Khi t́m thấy một số gạch có hoa văn, nhiều học giả Pháp cho đó là hàng nhập về để lát bàn thờ nhưng thực ra đó là gạch lát nền nhà của người Việt thời Lư Trần t́m thấy tại nhà của Hưng Đạo vương ở Vạn Kiếp và nay càng thấy nhiều trong khi khai quật Hoàng thành Thăng Long. Một thí dụ khá khôi hài là hơn 50 năm trước, khi Bảo tàng Istambul Thổ Nhĩ Kỳ trưng bày chiếc b́nh gốm Hoa Lam cổ( được bảo hiểm 1.000.000 USD) người Tàu và người Nhật đến xem có phải của họ không. Nhưng khi thấy ghi trên b́nh Thái Ḥa bát niên... Bùi Thị Hi bút ( niên hiệu Lê Thánh tông) người Tàu bèn nói:
“Của một ông thầy Tàu qua rồi làm chơi”(!)
Đến khi phát hiện ra ḷ gốm men lam Chu Đậu (Hải Dương) thế kỷ XV với rất nhiều hiện vật th́ các “thầy” đành chào... thua một người đàn bà Việt Nam!
(C̣n tiếp)
----------------
* Chú thích của Thiên Sứ:
Như vậy bài viết về Táo Quân cho rằng: Người Tàu có tục cúng Táo Quân bằng mía cho ông Táo ngọt giọng hoàn toàn có cơ sở tục thờ Táo Quân từ văn minh Lạc Việt(Xem bài viết trong topic:"Ông Táo không mặc quần"). Bởi v́: Đến thời Mă Viện; người Hán mới biết đến cây mía từ văn minh Lạc Việt.
Sửa lại bởi ThienSu : 10 February 2005 lúc 10:00am
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 4 of 7: Đă gửi: 10 February 2005 lúc 10:09am | Đă lưu IP
|
|
|
T́m lại cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hoá
Hà Văn Thuỳ
(Tiếp theo)
Từ nhận thức trên, có thể rút ra hai kết luận:
1.Ít nhất từ 30.000 năm TCN, sau thời kỳ băng hà, người Bách Việt là chủ nhân miền đất ngày nay có tên là Trung Quốc. Cùng với việc biến cải nơi đây thành vùng nông nghiệp lúa nước, người Bách Việt đă xây dựng nền văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo.
2.Nếu văn hóa Việt ở Trung Nguyên đạt được những thành tựu như vậy th́ điều chắc chắn là văn hóa Việt tộc ở đất tổ, ở nơi gốc phát tích sẽ rực rỡ hơn. Cho dù bị hủy hoại không ít trong thời kỳ Bắc thuộc, nhất là ảnh hưởng suy đồi của Hán Nho, Tống Nho nhưng do sức sống nội tại, văn hóa tận nguồn đó vẫn được người dân Việt lưu giữ bảo tồn. Vấn đề của chúng ta là chọn lọc giữa những yếu tố lai tạp để t́m ra tinh hoa văn hóa cội nguồn của dân tộc. Trong việc này, tinh thần Việt nho giúp chúng ta như một định hướng.
Tới đây, một vấn đề cần làm rơ là đánh giá vai tṛ người Hán đối với sự phát triển của khu vực.
Vượt sông Hoàng Hà xuống phía Nam, tiếp thu mảnh đất rộng mênh mông, ph́ nhiêu với cư dân đông đúc và nông nghiệp, đồ đá đồ đồng phát triển, Hán tộc trong vai tṛ lănh đạo đă thực thi một chính sách khôn ngoan là nương theo nền nếp của người Việt, tổ chức xă hội cộng đồng dân chủ mà sau này lịch sử gọi là thời hoàng kim. Đặc điểm cơ bản của thời kỳ này là con người sống thân ái với nhau và hài ḥa với thiên nhiên. Do nghề nông phát triển, lương thực dồi dào, xă hội có sự phân công ra nhiều ngành nghề khác nhau: nông, công, thương. Sau đó tầng lớp sĩ ra đời và ngày càng có vai tṛ lớn hơn trong xă hội. Chữ viết Hỏa tự, chữ Khoa đẩu của người Việt dần được thay thế và chữ vuông tượng h́nh ra đời. Từ đây, những kinh nghiệm trong dân gian được tổng kết thành kinh điển, trước hết là Kinh Thi rồi Kinh Dịch... Sự việc như vậy diễn ra trong ṿng 1500 năm TCN. Trên cở văn hóa Việt bản địa, người Hán đă bổ sung vào đó tinh túy của Hán tộc để đưa văn minh Trung Quốc lên thời kỳ phát triển rực rỡ. Văn hóa Trung Hoa là đứa con lai tốt đẹp giữa văn hóa Việt nông nghiệp và Hán du mục. Học giả W. G. Solheim II đă nhận xét:
“Đông Nam Á c̣n tiếp tục là một khu vực tiên tiến ở Viễn Đông cho đến khi Trung Quốc thay thế xung lực này vào nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 TCN, tức khoảng 1500 năm TCN.” (bđd).
Theo tôi, đấy là nhận xét thỏa đáng.
Chúng ta, người Lạc Việt, chủng người Bách Việt duy nhất do sự may mắn của số phận thoát khỏi qúa tŕnh Hán hóa, có được cương thổ riêng, giữ được tiếng nói và huyết thống riêng. Trong khi tự hào về những thành tựu vĩ đại của tổ tiên trong quá khứ th́ chúng ta cũng cảm ơn người Hán biết tôn trọng văn hóa của Bách Việt bản địa đồng thờ phát triển lên tầm cao mới. Nhờ đó nhiều yếu tố Việt của văn hóa tiền sử được bảo tồn, nâng cao, là thành quả văn hóa mà hai dân tộc chung hưởng hôm nay.
Biết được cội nguồn tổ tiên và cội nguồn văn hóa, chúng ta nắm được chiếc ch́a khóa thần giải đáp rất nhiều vấn đề văn hóa nhân sinh từng làm đau đầu nhiều thế hệ Việt. Do thời gian quá lâu, người Việt không thể nhớ tổ gốc cũng như đất gốc phát tích của ḿnh là Bắc Bộ Việt Nam mà chỉ có thể nhớ trong hoài niệm vị tổ xa là Toại Nhân làm ra lửa, sau đó là Phục Hy, Thần Nông và núi Thái sông Nguồn trở thành hoài niệm ám ảnh trong tâm linh những thế hệ Việt chạy về Nam... Cũng vậy, ta cắt nghĩa v́ sao trên đất nước ta lại có nhiều địa danh “Tàu”? Chính bởi v́ khi khai phá lưu vực Hoàng Hà, cha ông chúng ta đă đặt cho đất ấy những tên như Hà Đông, Hà Tây, Hà Nam, Hà Nội... Khi trở về Nam, các vị nhớ tới đất cũ mà đặt tên cho những nơi vừa khai phá. Không phải vay mượn mà cha ông ta lấy lại bản quyền của ḿnh. Không chỉ thế, đó c̣n là t́nh cảm là tâm linh tưởng nhớ cội nguồn! Cũng từ cái ch́a khóa thần ấy, ta dễ dàng giải thích v́ sao người Việt luôn chống Tàu nhưng lại học hỏi và tôn trọng văn hóa Trung Hoa? Bởi lẽ cha ông ta minh triết: biết phân biệt giặc Tàu xâm lược với “văn hóa Tàu” vốn là văn hóa gốc của ḿnh!
Một cách ứng xử văn hoá
Sau hàng ngàn năm lội ngược thời gian t́m cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hóa dân tộc, có lẽ hôm nay nhờ thành tựu mới của khoa học nhân loại, chúng ta đă có lời đáp rơ ràng, thuyết phục. Với nhận thức mới về nguồn cội thiết tưởng chúng ta cần có lối ứng xử văn hóa mới:
1. Chúng ta có quyền tự hào chính đáng về tổ tiên đă làm nên những nền văn hóa rực rỡ trên đất Việt. Tổ tiên ta cũng là chủ nhân ông thứ nhất khai phá đất nước Trung Hoa và sáng tạo nên văn minh Việt tộc trên vùng đất mênh mông này. Người Việt có chủ quyền chính đáng với nền văn minh gốc Việt ấy.
2. Về mặt huyết thống, từ bản đồ gene con người, chúng ta thấy ḿnh càng gần gũi với các tộc người anh em sống trên đất nước. Không chỉ cùng tổ tiên với người Kinh mà các tộc người anh em lại là hậu duệ của tổ tiên bám trụ lâu dài trên đất nước và sáng tạo những nền văn hóa mà hôm nay chúng ta tự hào. Đối với các tộc người anh em chúng ta cần một thái độ biết ơn và trân trọng. Đối với người Hán trên lục địa Trung Hoa, ta thấy họ cũng là bà con của ta v́ trong mỗi người ít nhiều đều có một phần ḍng máu của tổ tiên ta từ thuở xa xưa.
3.Hàng ngàn năm bên cạnh một cường quốc khổng lồ với nền văn hóa vĩ đại, cha ông ta luôn mang mặc cảm một quốc gia nhược tiểu, một dân tộc không có văn hóa gốc. Với nhận thức mới về nguồn cội, chúng ta tự giải phóng khỏi sự cầm tù của mặc cảm truyền kiếp đó, lấy lại niềm tự hào chính đáng: Dân tộc Lạc Việt là người duy nhất trong hệ Bách Việt c̣n tồn tại và kế tục sự nghiệp của một tổ tiên vĩ đại. Chính tổ tiên ta là người chủ đạo sáng tạo nên nền văn hóa rực rỡ mang tên văn minh Trung Hoa. Với nhận thức mới về cội nguồn, chúng ta mạnh dạn nhận lại văn minh Trung Hoa là của ḿnh. Đấy là của chung mà ông bà ít nhất có phần hùn 51%. Việc sử dụng văn minh Trung Hoa trước đây vẫn bị coi là vọng ngoại là vay mượn th́ từ nay ta sử dụng với tư cách chủ nhân có tác quyền hợp pháp.
4. Từ nhận thức về cội nguồn tổ tiên, cội nguồn văn hóa, chúng ta xác định bản sắc văn hóa Việt nam: là truyền thống sống ḥa đồng với thiên nhiên, tương thân tương ái với đồng loại, là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... Có nghĩa là những yếu tố tốt đẹp nhất của Nho giáo- phần tinh hoa của văn hóa Việt tộc được tổng kết trong những kinh điển Nho giáo thời kỳ đầu. Học giả Kim Định gọi phần văn hóa Việt tộc này là Việt nho. Tôi cho rằng đó là tên gọi xác đáng cần được tiếp thu. Việt nho là văn hóa Việt khi chưa bị tầng lớp thống trị Hán tộc làm cho tha hóa trở thành Hán nho và Tống nho – công cụ đàn áp nhân dân, thủ tiêu dân chủ. Trong khi Nho giáo Trung Hoa bị suy đồi th́ những yếu tố Việt nho vẫn tồn tại trong cộng đồng người Việt Nam như một truyền thống văn hóa tốt đẹp. Đáng tiếc là do nhận thức chưa đúng về nguồn cội nên chúng ta ngộ nhận cho tất cả đều là của Tàu nên chối bỏ. Cần khẳng định đó là văn hóa đặc hữu của người Việt và lấy làm tiêu chí để gạn bỏ yếu tố Hán và Tống nho bị xảm vào văn hóa Việt do chủ trương đồng hóa của kẻ xâm lược phương Bắc.
5. Cho dù hôm nay đang đối mặt với những khó khăn chồng chất nhưng từ cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa chúng ta có lư do để tin tưởng rằng dân tộc ta sẽ có một tương lai xán lạn. Việc của chúng ta là mỗi người trong khả năng của ḿnh ngay từ bây giờ ra sức xây dựng tương lai đó!
Tôi h́nh dung ra, có thể cái tương lai phía trước chúng ta chính là thời Nghiêu Thuấn: con người thân thiện với thiên nhiên, sống với nhau ḥa đồng thân ái, dân chủ, trên cơ sở nhân, nghĩa, lễ, trí, tín... Phải chăng chính đó là lư tưởng phương Đông mà phương Tây đương t́m đến?
Lời cảm ơn:
Người viết chân thành cảm ơn các tác giả có sách tham khảo trong bài viết này. Đặc biệt cảm ơn những tác giả người Việt ở nước ngoài: Ts Nguyễn Thị Thanh, GsTs. Nguyễn Văn Tuấn, các ông Cung Đ́nh Thanh, Nguyễn Đức Hiệp, Nguyễn Quang Trọng. Ông Hoài Thanh báo Đại chúng đă cung cấp những tài liệu quư. Cảm ơn bạn tôi, Đỗ Thái Nguyên và Gs Ranjan Deka gửi cho tư liệu mới nhất. Chính trí tuệ và thịnh t́nh của các vị đă soi sáng và động viên tôi hoàn thành bài viết. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn.
Cuối năm Giáp Thân
-------------------------
Thiên Sứ giới thiệu
-------------------------
Ta về giữa cơi vô thường
Đào trong kỷ niệm để t́m hương xưa
|
Quay trở về đầu |
|
|
VoHuu Hội viên
Đă tham gia: 02 January 2005 Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 9
|
Msg 5 of 7: Đă gửi: 23 February 2005 lúc 3:37pm | Đă lưu IP
|
|
|
Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến Việt
* - Chữ Trung ḿnh để phần Cha
* - Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ T́nh
(Ca Dao)
1) .Từ Nhân Đến Quả
Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến tŕnh: Sống, C̣n, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứa đầy những trợ duyên Thuận-Nghịch trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái h́nh thành được tạo dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). V́ vậy chẳng bao giờ một vật ǵ bỗng không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa th́ được ăn dưa, trồng cà th́ được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Không có tổ tiên, ông bà tất không có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện trên cơi đời này ! Tổ Tiên, Gịng Giống, Cha Mẹ là điều mà đă là người th́ chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào, đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để được làm người ở ngay cả trong một xă hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó được gọi là Duy Nhân Cương Thường trong tương quan nhân tính. V́ vậy mà người xưa có câu:
* - Đọc tám vạn ngh́n từ mặc kệ
* - Không quân thần phụ tử chẳng ra người
(Nguyễn Công Trứ)
Nh́n ngược lại gịng lịch sử, suốt từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không thể tẩy xóa về gia thế, gịng dơi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria gịng dơi vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 gịng Việt khác đă cùng có chung một mẹ một cha “cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và gịng máu luân lưu dào dạt ư chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả c̣n biết nhớ kẻ trồng cây, uống nước c̣n nhớ đến nguồn th́ sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp với một chân lư phổ quát: Đạo Hiếu. Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng tŕnh bày về Việt Nam như một quê hương của ṇi t́nh, mà ở đó người đàn bà v́ thấm nhuần đạo hiếu đă giữ một vai tṛ quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên ḿnh v́ con mà tận tụy một đời với những lo nghĩ yêu thương.
2). T́nh: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đă là người, tất khi sinh ra đă có đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến tŕnh biểu lộ t́nh cảm qua những phát huy nhân tính:
2a). T́nh cảm
T́nh có bảy thứ gọi chung là “thất t́nh” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. T́nh nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của t́nh th́ động. V́ vậy, chữ t́nh ( ) được viết bằng bộ Tâm ( ) là trái tim và chữ Thanh ( ) mầu xanh lá cây. Về ư nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh xuân, nhưng theo ư nghĩa của y lư Đông Phương qua triết lư ngũ hành th́ xanh thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật th́ liên quan tối gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là to gan lớn mật. T́nh tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh t́nh, nên v́ tương quan nhân quả, t́nh thường được ghép chung với cảm. Cảm ( ) gồm chữ Tâm ( ) ở dưới và chữ Hàm ( ) ở trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi t́nh cảm ở tâm bị kích động th́ sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b). T́nh Nghĩa
T́nh tuy có tới thất t́nh, nhưng khi nói đến t́nh th́ con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó là yêu thương, t́nh ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ, bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ t́nh ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là điều thông thường, v́ đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xă hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn loạn th́ phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, v́ vậy mà có vua tôi, quan dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi phối toàn diện sinh hoạt con người trong xă hội.
Đa cảm tất đa t́nh ! cổ nhân đă có câu: “T́nh như t́nh để”. Nghĩa là t́nh cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng với những vơi đầy bất tận. T́nh là thứ nhu nhuyễn không có h́nh thức nhất định, ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn th́ phải tưới bằng cách dẫn thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt th́ phải khơi bằng cách đào ng̣i tháo nước, th́ đối với người việc dạy dỗ uốn nắn t́nh cảm cũng có ư nghĩa như công tác trị thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. T́nh được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những h́nh thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy cảnh. V́ vậy, T́nh thường được Nghĩa đi theo để điều ḥa ở mức vừa phải, không thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa ( ) có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương ( ) là con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngă ( ) là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều ḿnh không muốn th́ cũng đừng làm cho người.
2c). Tâm Lư
T́nh cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lư và tốt đẹp. Người không thể sống như tĩnh vật vô t́nh, như gỗ đá vô tri. Cho nên t́nh không thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. T́nh phải nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc th́ không ǵ bằng đọc lịch sử, văn chương, thi phú. V́ vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ văn. Nhưng phát triển th́ phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo lễ nghĩa. V́ vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi t́nh đă nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc t́nh có thể đem ra ứng dụng một cách hợp lư và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, v́ đă đạt được tới mức độ thuần thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự ḥa tấu. V́ vậy mới nói “ḥa ư nhạc” và bản chất của nhạc là “ḥa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà ḥa hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
Nói th́ giản dị nhưng chuyện không phải dễ làm. V́ đó là một tiến tŕnh Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ ḿnh, làm chủ xă hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ là một lư tưởng cao đẹp, làm chủ ḿnh mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xă hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Ḥa được với mọi người với vũ trụ mà không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định không chỉ một xă hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong t́nh trạng Duy Nhiên Thái Ḥa. Lư Tưởng Nhân Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên Rồng, mà tổ tiên ta đă để lại như một bí quyết để giữ nước ṇi cho con cháu trong nhiệm vụ Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân Cương Thường
3a). Đạo Là Ǵ ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao gồm nhiều ư niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với những tiêu chuẩn lư tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo ( ) gồm bộ Xước ( ) là chân bước đi thong thả và chữ Thủ ( ) là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ư niệm trừu tượng, phân biệt phải trái, đúng sai. Nhưng ư thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi hành, th́ đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết th́ phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều là những hành động có ư thức đ̣i hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một niềm tin mănh liệt. Đạo không sống th́ đạo không thành, đường đi không tới. Do đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản
Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất tử, v́ thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một gịng sống miên man và bất tuyệt. Ư niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đă có những câu phương ngôn như:
* - Cốt nhục thâm t́nh.
* - Anh em như thể tay chân.
* - Một giọt máu đào hơn ao nước lă.
* - Máu chảy ruột mềm.
* - Môi hở răng lạnh.
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu h́nh cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đă có những câu như:
* - Phúc đức ông bà để lại.
* - Phúc đức tại mẫu.
* - Sống gởi thác về.
* - Tu nhân tích đức để phúc cho con.
* - Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
* - Sống v́ mồ v́ mả, không ai sống v́ cả bát cơm.
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp. Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe vơng lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về thành quả đă đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhờ v́ được tiếng thơm lây cho cả gịng họ .
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân với cả gịng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của gịng họ, chẳng hạn như Lăo Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên gịng họ, hay di xú, để tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách cá nhân. Ca dao có câu:
* - Yêu người yêu cả đường đi
* - Ghét người ghét cả tông chi họ hàng
3c). Những Ư Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( ) là con đường thờ cha mẹ hết ḷng. Thờ là đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ c̣n trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi. Phân tích theo chiết tự th́ Hiếu ( ) là đất ở trên và chữ Tử ( ) là con ở dưới. Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( ) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng. V́ vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng, tại địa thành h́nh”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là h́nh thể, đó là ư nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ư niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ư nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”, mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”, và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa, tương ứng với quẻ Khôn ( ) Khôn chỉ yếu tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, ḷng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền) Càn ( ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm ḷng bao dung nhu thuận, v́ đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong ṿng chín tháng mười ngày thai nhi với mẹ chỉ là Một. Đến kỳ măn nguyệt khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé ruột của người mẹ, th́ Một đă trở thành Hai. Mẹ và Con với sự chia cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan nhân tính bền vững của t́nh mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui định.
Theo triết lư ngũ hành, Thổ có vị trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa v́ thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng ḷng phải rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, v́ vậy mà Thổ tượng trưng cho Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lư do người chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là nhập thổ về với tổ tiên. Ư niệm ngũ hành c̣n là đầu mối của nhiều nghi thức. chẳng hạn chữ Tỉnh ( ) là đào giếng để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời b́nh sản kinh tế qua các h́nh thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy cấy, c̣n thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho vua. Do đó đại gia đ́nh chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy ḿnh làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới ḿnh bốn (4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của gịng họ ngành trưởng th́ thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nh́, th́ có lệ chôn thần chủ khi vượt quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay th́ người cha sẽ được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát tự đáy ḷng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực t́nh yêu qua những biểu lộ h́nh thức gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực ḷng được thể hiện qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật th́ Lễ chỉ là hư văn, h́nh thức giả dối. Chữ Thành ( ) ngoài ư là chân thành không giả dối, đổi thay c̣n có nghĩa là làm nên công, xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành được ghép bởi chữ lực ( ) là sức mạnh và bộ Qua ( ) là một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức mạnh của ư chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng nhân, bắt ḿnh vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người c̣n dễ nhưng chiến thắng chính bản thân ḿnh là một điều thật khó. Đó cũng là lư do nói. Đạo Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến tŕnh đi đến Nhân Chủ qua những cấp bậc liên tiếp là: thương gia đ́nh, lo cho tổ quốc, trăm họ b́nh yên và hài ḥa cùng vũ trụ. Đó cũng là lư do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền Đạo Hiếu của 99 gịng Việt với những giai đoạn: “Thành ư, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa là ư muốn phải mănh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, ḷng dạ phải ngay lành không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rơ ràng đến nơi đến chốn, hiểu biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm th́ mới hy vọng có thành công được vậy ! và Tu để làm ǵ nếu không là để thành người tốt, đó là ư nghĩa của câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đă lấy năm (5) ư trên mà sửa lại để b́nh trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ư, Chính kỳ tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc B́nh Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm Người và để Thành Người trong xă hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( ) khi được ứng dụng vào tầm vóc quốc gia th́ chữ Tử ( ) ngoài ư nghĩa là con thông thường c̣n để chỉ những người tôn quư, có đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua (thiên tử) và chữ Thổ ( ) chỉ công tŕnh kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành Người đạt tới lư tưởng Nhân Chủ th́ trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ quá ngắn ! Thích Ca đă phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiên-Phật với chúng ta là: Họ đă có một quá khứ, c̣n chúng ta có một tương lai. Tương lai th́ có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong công, xong việc đă bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( ) chữ Nhất. Ư nhắc nhở là ở vị trí người con ( ) ta c̣n biết bao viếc phải hoàn tất. Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ ḿnh phải thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn phận với gia đ́nh thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc thân thương yêu quư.
3d). Đạo Hiếu
Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến việc ư thức toàn thể gịng họ như một sinh mệnh không thể chia ĺa, đă đặt các phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó được Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu, mạnh khỏe, b́nh an. Nhưng làm sao để sống, để c̣n là điều quan trọng hàng đầu, Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của các bậc tôn trưởng khi thấy ḿnh tuổi đă cao, cái chết đă cận kề mà chưa thấy có kẻ nối dơi, v́ e sợ gịng họ do sự thua kém của ḿnh và tuyệt tự. Việc bái lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với gịng họ “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho gịng dơi bị tuyệt diệt là một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho gịng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu. Những phần tử có trách nhiệm c̣n phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh gịng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, th́ đó mới thật sự là nhà có phúc. V́ đó là sự tiến lên của một gia đ́nh, gịng họ và đất nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người v́ (và) truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường, địa ngục, với cơi niết bàn, với ngục thất a t́, nhưng tổ tiên đă để lại gương tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả, đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm ḷng thành kính, tất sẽ thấy được h́nh bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế nào là vinh quang và tủi nhục của một gịng họ, của một nước ṇi đă trải qua trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa. Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xă hội. Có yêu nhà th́ mới yêu nước. Có giữ được nước th́ mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đă từng đưa ra để giáo dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ ǵn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ th́ mới có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những một ḿnh ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, ngh́n đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế, gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đă có biết bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi gịng giống. Theo họ, đạo xưa là hẹp ḥi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ... v.v... Nhưng họ có hiểu rơ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ư của người xưa chăng ? Một ngàn năm (1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc t́nh, vong ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường ṇi giống. Cuối cùng rồi cũng đi làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. V́ họ đều có chung một bản chất ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết th́ cũng thối tha, vô tích sự cho xă hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ Việt Cho Nước-Nhà
Nguyện vọng sâu xa nhất của loài người là sống c̣n măi măi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta c̣n được nghe tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa t́m được phép Trường Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua sự thuận t́nh hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên căn bản b́nh đẳng. V́ con cái phải là kết quả của t́nh nghĩa, của ḷng yêu thương và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật t́nh và một sự chờ đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đă cho rằng phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách v́ họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do đó, họ đă hô hào giải phóng phụ nữ và đ̣i nam nữ b́nh quyền, rập theo khuôn mẫu của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nh́n nhận là thiện chí của họ rất tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong trào giải phóng phụ nữ và đ̣i nam nữ b́nh quyền bắt nguồn sâu xa từ một ư niệm triết lư căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đă tạo nên Eva trong mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm nên đă bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đă quyến rũ Adam phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ư niệm tự do Tây phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ư niệm tự do Đông phương xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy sinh quên ḿnh mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải phóng phụ nữ” đă không đặt đúng chỗ, v́ trên cả hai phương diện lư thuyết và thực tế người đàn bà Việt Nam đă, đang và măi măi được quư trọng không những bởi con cái, bởi chồng mà c̣n bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ một địa vị không thể thay thế được trong triết lư Âm Dương, trong nguồn gốc dân tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn gịng sinh mệnh lịch sử của nước ṇi được Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
4a). Vị Trí Người Phụ Nữ Trên Căn Bản Triết Lư Dịch
Dịch là những ư niệm triết lư lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ư niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lư căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một ḿnh yếu tố dương th́ không thể sinh trưởng được, riêng một ḿnh yết tố âm th́ cũng không thể nào lớn lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.
Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một ṿng tṛn tượng trưng cho sự viên măn tṛn đầy của lư tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lư mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời. Bên trong ṿng tṛn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa ṿng tṛn nối tiếp nhau, diễn tả ư “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự B́nh Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau v́ hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lư trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm th́ với sự phối trí của biểu tượng dịch lư, yếu tố âm và yếu tố dương đă hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lư, cân xứng, hài ḥa. C̣n hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lư tương đối trong môi trường động.
Đặt nền trên những căn bản triết lư trên, người phụ nữ đă có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xă hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dơi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rơ rệt. Tuổi vị thành niên th́ lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành th́ lo lập gia đ́nh “Định T́nh”. Sau khi đă yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ c̣n quan trọng hơn việc thi đỗ. V́ vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, c̣n lấy vợ là đại đăng khoa.
Khi vợ chồng ăn ở với nhau đă có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nh́n qua lễ nghi, tang ma th́ đủ rơ mục đích biểu lộ ḷng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc c̣n nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ...
Kể ra khi nh́n vào thực tế xă hội tất cũng nh́n thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lư thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xă hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê b́nh “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một tŕnh độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê b́nh, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức t́nh trạng trí thức Hoa Kỳ !
Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, th́ chỉ ư niệm Âm Dương trong ṿng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “B́nh Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xă hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.
4b). Vị Trí Người Phụ Nữ Trong Gịng Sinh Mệnh Dân Tộc
Lịch sử Việt là cuốn gia phả của dân tộc Việt cũng đă truy nhận nguồn gốc của ṇi giống và xưng tôn mẹ Âu Cơ như Tổ Mẫu. Mở đầu cuốn gia phả là một truyện tích chép rằng: “...Kinh Dương Vương làm vua nước Xích quỷ vào năm 2879 trước Tây Lịch , lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lăm. Sùng Lăm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra trăm người con, gốc của trăm gịng Việt. Sau Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Long Quân mang năm mươi con xuống bể ...” Núi và Biển là những vùng đất và vùng biển được Âu Cơ và Long Quân chiếm lĩnh trong việc mở mang bờ cơi coi như không gian sinh tồn của một dân tộc, được gói gọn ư nghĩa trong chữ kép: Giang Sơn, Non Sông, Đất Nước. Âu Cơ cũng đă hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp so với chồng trong việc mang năm mươi con đi mở mang bờ cơi, dựng nước, giữ ṇi. Đó không phải là một sự b́nh đẳng trước nghĩa vụ hay sao ?!
Gia phả lại chép “... Năm Giáp Ngọ (34 tây lịch), tức năm Kiến Vơ thứ mười, vua Quang Vơ nhà Hán sai Tô Định làm Thái Thú Quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược làm lắm điều tàn ác, khiến ḷng dân oán giận. Năm Canh Tí (40 tây lịch), Tô Định giết Thi Sách. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định. Tô Định phải trốn về Nam Hải. Hai Bà hạ được 65 thành tŕ, giành lại độc lập rồi tự xưng là vua, đóng đô ở Mê Linh”.
Đọc sử tất phải xét sử để phân định đúng sai, biện biệt lẽ nên, không. V́ chồng mà trả thù không phải là t́nh hay sao ? V́ muôn dân mà diệt bạo không phải là đại nghĩa hay sao ? Nhưng t́nh nghĩa đều là những điều căn bản của bổn phận làm người được quy định bởi Duy Nhân Cương Thường, mà không hoàn tất , tất không thể thành người. Đó cũng không phải là sự b́nh đẳng không phân biệt trai gái trước nghĩa vụ hay sao ?!
Sử gia Lê Văn Hưu đời nhà Trần khi viết về sự nghiệp của hai Bà có b́nh luận như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh đuổi Tô Định lấy lại được 65 thành tŕ, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một ngh́n năm, người ḿnh cứ cuối đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng?” câu văn kể trên không hề mang ư nghĩa kỳ thị coi rẽ, coi khinh đàn bà như nhiều người ngộ nhận, mà ngược lại là một câu văn khích động, mang tính chất “văn dĩ tải đạo”, văn chương được dùng để truyền bá đạo lư. Do đó, xấu hổ không v́ “người ḿnh” gồm toàn đàn ông sức dài vai rộng, mà v́, “người ḿnh” đă không hoàn tất bổn phận làm con dân đúng nghĩa đối với nước nhà khi bị ngoại bang đô hộ, v́ “kiến nghĩa bất vi vô dơng giă”, nghĩa là thấy việc đại nghĩa mà không dám làm là bọn hèn mọn vậy! Phương ngôn ta có câu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để minh chứng quan niệm b́nh đẳng trong nghĩa vụ sống làm người để thành người trong cương vị làm con, làm dân đối với nước, với nhà. Ơn tổ quốc, ơn cha mẹ là những nghĩa vụ mà đă sống làm người, không phân biệt trai gái, già trẻ không ai mà không phải hoàn tất một cách thành tâm kính cẩn.
Gia phả lại chép: “…Năm Mậu Th́n (248 tây lịch) năm Xích Ô thứ 11 của nhà Đông Ngô, Ngô Chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên Triệu Thị Trinh khởi binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt đánh nhà Ngô. Quân lính của người anh thấy Bà làm tướng có đủ mọi điều kiện hơn người như: chí khí, sức mạnh và mưu lược bèn tôn bà lên làm minh chủ. Khi Bà ra trận thường cỡi voi mặc áo giáp vàng xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân. Lục Dận đem quân đánh dẹp, Bà chống cự được năm sáu tháng. Sau v́ quân ít thế cô nên bị thua, Bà chạy đến xă Bồ Điền th́ tự tử. Bấy giờ Bà mới có 23 tuổi”.
Vua Lư Nam Đế (nhà tiền Lư) khen là người trung dũng cho lập miếu thờ, phong Bà là “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”. Hậu thế khi đọc lại tiểu sử của Bà không khỏi thầm cảm phục chí khí cang cường của một người quyết tâm chọn con đường cách mạng giải phóng đất nước. Câu nói bất hủ của Bà :“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh giải đạp đầu sóng dữ, chém cá Tràng Ḱnh ở bể Đông, quét sạch quân Ngô ra khỏi bờ cơi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, lầm than, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm t́ thiếp người ta”.
Nhân tính vẫn thường yêu sống ghét chết, thích an ổn nhàn rỗi, sợ khó khăn gian khổ, chỉ nh́n thấy cái lợi nhỏ trước mắt mà không thấy cái hại lớn sau lưng. V́ vậy, mà trong nội tâm con người luôn luôn có một sự dằn co giữa t́nh và nghĩa, giữa nước và nhà, giữa cái riêng và cái chung. Vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng dễ ǵ ai dám bỏ !
* - Chàng từ biệt vợ con thơ dại
* - Lên đường ra quan ải xa xăm
* - Bước đi quay ngắm lại nhà
* - Bên t́nh bên nghĩa đâu là nặng hơn ?!
Do đó, sống làm người để thành người là chuyện khó. trốn tránh nghĩa vụ là điều thường thấy trong xă hội. Có vậy mới càng khâm phục chí lớn gan liền của Nhụy Kiều Tướng Quân trong sự lựa chọn lấy nước làm nhà, trong thái độ quyết tâm và dám chết v́ đại nghĩa. Chết không phải là hết! Voi chết để Ngà, Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Sát thân thành nhân, c̣n Bà chết th́ thành Thần được tổ quốc ghi công, dân tộc muôn đời chiêm ngưỡng và hậu thế muôn đời tưởng nhớ với khói hương thành kính. Mười chữ vua Lư Nam Đế sắc phong cho Bà: “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” đă biểu lộ sự kính phục vô cùng của một tâm hồn đồng điệu, cùng chung chí hướng. Tất cả có thể tóm lược lại là: “Phu nhân là người quyết tâm nêu cao chính nghĩa, dám làm hơn người và dám chết hơn người”, khen một người sống cho sự trường tồn của Dân Tộc và chết cho sự vinh quang của tổ quốc đến thế là hết chữ. Người đời theo lẽ nhi nữ th́ chỉ cần theo chồng cũng đủ khen là tiết liệt, c̣n Bà theo nước, yêu nước như yêu chồng. Hai chữ Trinh Nhất đó dành cho Bà thật xứng đáng lắm thay.
Yêu nước là một tiến tŕnh từ tiềm thức lên ư thức, từ trừu tượng sang cụ thể, từ tư tưởng bước sang hành động. Do đó, yêu nước không thể chỉ để ngấm ngầm trong ḷng, cũng không chỉ phô bày bằng miệng lưỡi. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động cụ thể bởi v́, chỉ có lửa mới thử được vàng, lấy gian nan mới thử được sức người và hành động mới tỏ lộ được mức độ tinh thần. Bản chất của t́nh yêu là quên ḿnh và tận hiến, là phục vụ và hy sinh. Do đó, là phải dám hy sinh cho nước. Hy sinh không phải v́ xung động nhất thời như lửa với rơm bung lên rồi tắt ngúm, trái lại phải hy sinh với một ư thức cao độ của một kẻ tu đạo tận hiến cuộc đời cho lư tưởng, để nghĩa vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Nói đến kẻ thù, th́ có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn chính cái Ta. Cái Ta của sự ươn hèn, ỷ lại, của sự cầu an hưởng thụ, của sự phản bội ích kỷ. Từ xưa đến nay tự thắng ḿnh không phải là chuyện dễ làm và mới thấy cái khó khăn của sự tự thắng, khi phải cắn chặc răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người mới thấy được cái giá trị của sự hy sinh: hy sinh hạnh phúc của đời ḿnh, Nhưng phải chết đi để không ngừng sống lại với sự vinh quang của tổ quốc.
Gia phả của dân tộc chép: “Vua Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông c̣n ḿnh lên làm Thái Thượng Hoàng, sau lại bỏ đi tu. Năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng hai châu Ô và châu Rí để làm sính lễ, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) vua cho công chúa về Chiêm Thành. Năm sau (1307), vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lư và đặt quan giám sát”.
Người đời chỉ xét trên khía cạnh cá nhân để oán hận triều đ́nh và cảm thương cho công chúa Huyền Trân, nên cao dao đă có câu:
* - Tiếc thay thân quế giữa rừng
* - Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
mà lại không thấy đó là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, tạo thế ỷ dốc, lập một liên minh quân sự để giữ an bờ cơi bằng liên hệ t́nh cảm giữa hai họ xui gia. Nếu người đời nghĩ rằng trong chiến công vĩ đại hiển hách của dân binh nhà Trần đă đánh thắng quân Nguyên và sự chiến thắng của toàn dân ta có sự đóng góp của dân tộc Chiêm Thành (Chiêm Thành không cho quân Nguyên mượn đất, mượn đường để đánh tập hậu vào sau lưng ta), th́ tất cả đă không trách cứ với câu ca dao trên. Vua Trần Nhân Tông đă quyết định đúng, phù hợp với t́nh nghĩa đồng minh. Gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân không chỉ là hành động đăi ngộ đề bù mà c̣n là thái độ ngoại giao khôn khéo, tạo thêm t́nh thắt chặt giữa hai dân tộc Việt-Chiêm.
Riêng với Huyền Trân Công Chúa, chỉ kể về giá trị của đồ sính lễ gồm hai châu Ô và châu Rí cũng đủ nói lên công lao đóng góp, mở nước, xây dựng tổ quốc của bà, Huyền Trân không đóng góp bằng xương máu chiến sĩ, nhưng Bà đă cống hiến đời ḿnh bằng những giọt nước mắt tài hoa của một vị công chúa, Bà đă hiến dâng đời ḿnh cho tổ quốc. Trên cương vị lănh đạo, Nhân Tông đă v́ nước mà hy sinh con ḿnh. Trên cương vị là con dân Việt, Huyền Trân đă v́ nước quên ḿnh.
Vâng ! Đó là những mệnh lệnh của trách nhiệm và bổn phận, đă là trách nhiệm và bổn phận th́ không một ai được chối từ.
Ngoài những đóng góp vĩ đại cho tổ quốc như Tổ Mẫu Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa ... lịch sử c̣n biết bao gương hy sinh cho tổ quốc cần phải nói đến, hay đúng ra là hiện tại trong chúng ta những kẻ hậu sinh, phải nhớ đến những công lao khó nhọc của tiền nhân và đă có biết bao sự hy sinh đóng góp một cách tân tụy và âm thầm của biết bao thế hệ phụ nữ Việt cho nhà, cho nước. Không ai có thể phủ nhận công ơn của người phụ nữ Việt trong lănh vực gia đ́nh cũng như ngoài xă hội. Gia đ́nh là nền tảng của xă hội, là thành phần làm nên đoàn thể. Nếu gia đ́nh êm ấm th́ xă hội sẽ an định, nếu gia đ́nh tan nát th́ xă hội sẽ biến loạn. Sự liên hệ song phương có tính quy luật đó đă được bao hàm trong hai chữ: Quốc Gia hay Nước Nhà.
Trong gia đ́nh, với cương vị làm con, con gái cũng đă làm tṛn bổn phận hiếu thảo như con trai và c̣n hơn con trai nửa ! Có nhiều người đă dựa vào câu Hán Nho: “Nhất Nam viết hữu, thập nữ viết vô” để đă phá nền mống gia đ́nh Việt Nam là kỳ thị phụ nữ. Đó là sự phê phán vội vàng đáng trách, v́ trong ngôn ngữ của Việt Nam ta không thiếu ǵ những câu đề cao vai tṛ người phụ nữ. Chẳng hạn: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu ḷng” để tỏ hiệu năng giúp đỡ cha mẹ của người con gái. Tuy nhiên, đối với kinh nghiệm của các bậc mẹ cha th́ con nào cũng là con, không phân biệt trai gái mà chỉ phân biệt ngoan, hư, như trong một câu ca dao:
* - Trai mà chi, gái mà chi
* - Con nào có hiếu có ngh́ th́ hơn.
Có hiếu, có nghĩa bao gồm cả những việc làm cho cha mẹ vui ḷng. Ở địa vị cha mẹ, chúng ta sẽ nghĩ sao khi đang nóng giận với con gái mà được nghe lời khôn ngoan dịu dàng này:
* - ... Má ơi đừng đánh con đau
* - Để con đi chợ mua cau ăn trầu ...
* - ... Má ơi đừng mắng con hoài
* - Để con đi chợ mua xoài má ăn ...
Ngay từ những ngày c̣n lên chín lên mười, người con gái đă lớn không hơn con trai và biết giúp đỡ mẹ cha với những công việc trong nhà, kể cả việc săn sóc các em như một người mẹ nhỏ. Cảnh tượng “Con chị bồng con em” ru cho em ngủ trong một buổi sáng muộn của một ngày mùa, là một cảnh điển h́nh của làng quê Việt Nam vào những ngày đất nước thanh b́nh. Trong những gia đ́nh chẳng may người mẹ đau ốm hay chết sớm th́ trăm sự chỉ trông vào người con gái để “tay ḥm tay khóa” quán xuyến gia đ́nh ... Có biết bao nhiêu người con gái đă quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ già, em thơ dại cho tṛn đạo hiếu. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là một thực tế xă hội không thể chối bỏ trên cả hai phương diện t́nh cảm và vật chất. Với quan niệm khoa học hiện nay coi sinh lư như một nhu cầu căn bản của một cơ thể ở mức độ trưởng thành cần phải thỏa măn, th́ sự quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ và các em là một sự hy sinh tuyệt vời. Sức mạnh nào đă giúp họ chiến thắng những đ̣i hỏi ghê gớm của một cơ thể mạnh khỏe, nếu không là t́nh yêu cha mẹ, anh em, gịng tộc ... trong ư nghĩa yêu là hy sinh, quên ḿnh, sống cho, sống v́ kẻ khác !
* - Chắp tay van vái Phật trời
* - Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Trong xă hội Việt Nam cổ truyền, ư niệm người t́nh gắn liền với ư niệm người vợ. T́nh yêu phải tiến tới hôn nhân và yêu nhau với ước mơ được sống trọn kiếp bên nhau trong t́nh nghĩa vợ chồng. Và v́ chuyện vợ chồng là chuyện quan trọng trong đời người, không thể nay lấy mai bỏ như thay một chiếc áo, nên việc kén chọn tất phải cẩn thận qua nhiều mai mối lễ nghi, như ca dao có câu:
* - Chim khôn đậu nóc nhà quan
* - Trai khôn t́m vợ, gái ngoan chọn chồng.
Chuyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh là một điển h́nh của việc chọn dâu kén rể. Một phong tục tốt đẹp của Việt Nam có từ thời Hùng Vương thứ 18. Đă nói đến kén chọn tất là phải dựa vào một tiêu chuẩn để luận xét, cân nhắc nặng nhẹ, tốt xấu. Trong chuyện tích, Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương v́ đếm sớm đúng hẹn, c̣n Thủy Tinh đến chậm, lỡ hẹn nên mất vợ. Xét cho kỹ, câu chuyện có bao hàm một triết lư sâu xa: Thứ nhất, việc đúng hẹn là giữ tṛn chữ Tín với một tấm ḷng thành. Sơn Tinh đă coi việc lấy vợ là quan trọng nên chuẩn bị chu đáo và quyết tâm làm đúng. Với tấc ḷng thành tất cảm được người, với đức Tín tất được người Tin. Tương quan vợ chồng là một tương quan b́nh đẳng, đặt nền trên sự thành tín, nghĩa là thành thật với nhau và tin nhau. Thứ hai, Sơn Tinh là thần núi non, núi tượng trưng cho đức Nhân. Thủy Tinh là thần sông biển, tượng trưng cho đức Trí. Chữ có câu: “Trí giả nhạo thủy, Nhân giả nhạo sơn, Trí giả động, Nhân giả tĩnh”, nghĩa là người Trí thích nước, người Nhân thích núi, người Trí thích tính hiếu động, người Nhân th́ ưa tĩnh. So nặng nhẹ th́ Nhân là đầu mối sinh ra các đức tính khác, có nhân mới có ái, có ḷng đôn hậu bao dung được người. C̣n Trí th́ dũng lược có thừa, nhưng hiếu động ưa ganh đua, tất phải có điều tàn nhẫn với người. Vua Hùng Vương gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, người có đức Nhân mà không gả cho Thủy Tinh là người có đức Trí là lư do trên vậy.
Nếu trong thời gian dạm hỏi, xêu tết trước khi cưới xin, được coi như giai đoạn làm người t́nh (ư trung nhân) th́ người con gái cũng đă tỏ ra xứng đáng, trong việc khuyến khích hôn phu tu tỉnh học tập để lo danh phận và tương lai đôi lứa:
* - Anh về học lấy chữ nhu
* - Ba năm em đợi, chín thu em chờ.
Huống hồ trong cương vị một người vợ đưa lưng gánh vác giang sơn nhà chồng th́ việc an ủi chồng, khuyến khích chồng và giúp đỡ chồng, chỉ là một sự đương nhiên như một bổn phận không thể thoái thác. Đă có biết bao nhiêu thế hệ, người vợ tảo tần khuya sớm nuôi chồng ăn học để thành danh phận, làm rạng rỡ tông môn và góp công xây dựng tổ quốc ?
* - Canh một dọn cửa dọn nhà
* - Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
* - Canh tư bước sang canh năm
* - Tŕnh anh dậy học chớ nằm làm chi
* - Một mai Chúa mở khoa thi
* - Bảng vàng chói lọi, kia đề tên anh
* - Bỏ công cha mẹ sinh thành
* - Công em tần tảo nuôi anh học hành.
Nh́n những hàng bia đá ghi danh các vị đại khoa tiến sĩ, tất không thể vô ơn làm lăng quên được những người vợ đáng kính đă tận tụy hy sinh, góp bao công sức để chồng thành công, thành danh và thành người.
Ước mơ “như chim liền cánh, như cây liền cành” là ước mơ chung của tất cả những cặp vợ chồng. Chia ly là một sự đau khổ vô cùng mà Chinh Phụ Ngâm đă phản ảnh trọn vẹn ư t́nh của người vợ trẻ gánh vác việc nhà khi chồng đi làm nghĩa vụ chinh nhân như:
* - Anh đi em ở lại nhà
* - Chăn tằm dệt lụa, mẹ già em lo.
Nếu hiểu rằng đàn bà là cái “thiên cổ chi mê”, tức nỗi say mê truyền kiếp của đàn ông, và anh hùng dù là mặt sắt cũng ngay v́ t́nh, th́ tất hiểu lư do của sự suy sụp của bao triều đại, lư do thân bại danh liệt của những kẻ làm lớn, cũng như làm láo, trốn tránh nhiệm vụ làm người và để từ đó, càng cảm phục thêm tấm ḷng cao đẹp của những người chinh phụ đóng của pḥng khuê, chờ chồng đi làm nghĩa vụ với non sông, c̣n ḿnh ở nhà thay chồng làm bổn phận với cha mẹ và con cái. Họ đă ư thức được tương quan nhân quả qua câu quốc phá gia vong, để chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tập thể nước ṇi (phép công là trọng, niềm tây xá nào) và âm thầm sống làm tṛn nhiệm vụ:
* - Ngọt bùi thiếp đă hiếu nam
* - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
* - Nay một thân nuôi già dạy trẻ
* - Mối quan hoài mang mể biết bao
Có một điều h́nh như đă thành quy luật là: “Chồng có chung th́ vợ mới trinh” t́nh yêu bao giờ cũng đi đôi với sự kính trọng đặt nền trên tương quan b́nh đẳng. Chẳng trách nào người xưa thường nói “yêu nhau v́ nết, trọng nhau v́ tài”. Nết là cái nhân cách, mà nhân cách được thể hiện trong việc chu toàn bổn phận làm người. Trốn tránh trách nhiệm là hèn nhát, mà đă hèn nhát th́ không c̣n ǵ để nói nửa ! Đó cũng là lư do để giải thích thái độ quyết liệt của những tiết phụ, liệt nữ, quyết sống xứng đáng với chồng “chàng đi theo nước, thiếp theo chàng” mà lịch sử cận đại có thể nêu danh như cụ bà Phan Bội Châu, nhũ danh Thái Huyên. Khi cụ Phan bị Pháp bắt giải về Việt Nam do sự chỉ điểm của Nguyễn Ái Quốc tức *** sau này. Khi đến thăm cụ Phan, Bà cụ chỉ vắn tắt vài lời: “vợ chồng ly biệt hơn hai mươi năm nay được một lần giáp mặt thầy, trong ḷng tôi đă măn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong cho thầy giữ được ḷng xưa. Thầy làm những việc ǵ mặc thầy, thầy chớ nghĩ đến vợ con”.
Như Cô Giang, người t́nh và là đồng chí của Nguyễn Thái Học, lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng khi tổ chức vỡ, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp xử chém, cô Giang đă trở về làng của Nguyễn Thái Học và tự sát bằng súng lục trong ư muốn được nh́n nhận và được chôn cất như con dâu họ Nguyễn.
Và c̣n biết bao nhiêu tiết phụ, liệt nữ khác đă sống và đang sống ở khắp nơi trên quê hương Việt Nam yêu dấu. Mẹ, vợ, người t́nh của những chiến sĩ cách mạng đang chiến đấu trên khắp nẽo đường đất nước để tiêu diệt chế độ Công sản tàn bạo. Họ là những vọng phu với niềm tin vô biên vào sức sống của chính ḿnh những ngày tháng trầm luân trong cuộc đời trôi nổi theo vận nước, cả trái tim và tấm ḷng, tâm trí ḥa vào hồn nước đi theo cùng chồng, những người mẹ, người vợ họ chấp nhận những thua thiệt để chỉ lo cho chồng, cho con và cho gia đ́nh, để mong được chia xẻ ngọt bùi chứa chan t́nh nghĩa.
Họ là những vọng phụ của thời đại, những người mẹ hiền đáng kính, những người vợ đáng thương, những người t́nh đáng yêu, họ không quên lời thề hứa, gian khổ cùng chịu, hạnh phúc cùng chia, để cùng nhau sánh bước đi xa hơn cả cuộc đời.
Làm mẹ, làm con, làm vợ, làm người t́nh, những giai đoạn được khoa học phân ra theo diễn biến tâm lư cơ thể học, th́ lại được người Việt Nam nh́n như những bổn phận phải chu toàn trong tiến tŕnh sống Làm Người để Thành Người. V́ được coi là một tiến tŕnh nên bổn phận đă không xung đột nhau mà là kế tiếp, bổ túc cho nhau nối kết thành một xâu chuỗi, một toàn thể. Sự xung đột quyền lợi giữa cá nhân và gia đ́nh, giữa nhà và nước như nhiều người đă cố chứng minh từ lâu nay, chỉ là biểu lộ một nhân cách không toàn vẹn, một lập trường chao đảo v́ thiếu căn bản, thiếu nền móng. Trái lại với cái nh́n của Đạo Hiếu Duy Nhân Cương Thường th́ đó chỉ là những nhiệm vụ xếp theo cấp bậc có tính biện chứng, đi từ thấp lên cao trong một tến tŕnh hướng thượng, trong cái tinh thần ở địa vị nào phải hoàn tất nhiệm vụ đó như “quân quân, thần thần, tử tử” vậy !
Thấm nhuần truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đă làm tṛn mọi nghĩa vụ đối với đất nước, đối với nhà một cách trọn vẹn và tuyệt đẹp, cuộc sống đối với người phụ nữ Việt ngoài những trách nhiệm nêu trên c̣n là cuộc hành tŕnh hoàn măn của sự chết, chết trong yêu thương, chết nhưng để lại danh thơm cho đời sau. Họ đă đứng thật thẳng, sống khiêm tốn trong sự giản dị đến khó nghèo, làm biểu tượng cho sự hy sinh cao đẹp của muôn đời, sự hy sinh cao đẹp của một ṇi t́nh đặt lư tưởng Tổ Quốc lên trên hết .
Như đă tŕnh bày ở trên, dân tộc Việt Nam là một ṇi t́nh, quê hương Việt Nam là một quê hương ân sâu nghĩa nặng, đúng hơn là một dân tộc biết yêu, biết ghét. Ư thức được sự yêu, sự ghét với những đối tượng rơ rệt, có lư do biện chứng rơ ràng. Yêu cái nên yêu và ghét cái đáng ghét làm hai nhân tính, một dân tộc biểu lộ t́nh cảm của ḿnh qua những khuôn phép của lễ nghĩa được kết tinh trong Đạo Hiếu.
Và cũng như đă tŕnh bày ở trên, Đạo Hiếu là một triết lư sống, một phương cách tu thân xử thế, sống Làm Người để Thành Người mà Nhân Chủ là lư tưởng phải đạt tới, như di huấn của tiền nhân đă để lại, truyền đời là bí quyết để giữ nước ṇi qua biểu tượng Tiên Rồng.
Định đề căn bản của Đạo Hiếu là Nhân Bản Hồ Tổ, người gốc từ tổ tiên, tức là truy nhận nguồn gốc Người của ḿnh (khác với Bọn người cho rằng người từ khỉ). Từ định đề căn bản này với việc truy nhận tổ tiên từ xa xưa đă đưa đến hệ luận: Gịng tộc, nước ṇi là một thực thể, sống động bất khả phân ly, ở đó quá khứ với những thế hệ đă qua, hiện tại với những thế hệ đang sống c̣n và tương lai với những thế hệ sẽ nối tiếp để Tiến-Hóa chỉ là Một, một gịng sinh mệnh như ngàn vạn con suối nhỏ đi ra sông và từ ngàn vạn con sông kia lại cuồn cuộn cuốn trôi về biển Đông
Trong gịng sinh mệnh dân tộc ấy người phụ nữ Việt Nam, như những thành phần làm nên toàn thể, trong cương vị làm con, làm người t́nh, làm vợ, làm mẹ trong gia đ́nh và cương vị làm dân trong phạm vi đất nước, cũng đă hoàn tất những bổn phận được giao phó một cách thập phần hoàn hảo, để làm cho dân tộc được trường tồn và tổ quốc thêm vinh quang
Trần Chính Trung
Sửa lại bởi VoHuu : 23 February 2005 lúc 3:43pm
__________________ vohuunhan
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
ThienCo Hội viên
Đă tham gia: 05 September 2002 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 190
|
Msg 6 of 7: Đă gửi: 23 February 2005 lúc 6:25pm | Đă lưu IP
|
|
|
VoHuu đă viết:
Sinh Mệnh Việt Qua Văn Hiến Việt
* - Chữ Trung ḿnh để phần Cha
* - Chữ Hiếu cho Mẹ, đôi ta chữ T́nh
(Ca Dao)
1) .Từ Nhân Đến Quả
Nhân-Quả là một chu kỳ nằm trong tiến tŕnh: Sống, C̣n, Nối, Tiếp, Tiến, Hóa đến vô cùng của muôn vật muôn loài. Nhân-Quả cũng là tóm lược của chu kỳ nhiều phức tạp chứa đầy những trợ duyên Thuận-Nghịch trong một sự tổng hợp gồm đủ cả không gian lẫn thời gian. Nhân là cái mầm mống phát sinh ra sự kiện, đó cũng là khởi điểm. Quả là cái h́nh thành được tạo dựng, đó cũng là đích điểm. Ở loài thảo mộc, nhân là hạt giống được gieo trồng trên đất để theo ngày tháng nẩy mộng đâm mầm, thành cây xanh lá rậm, rồi đâm cành trổ bông, để đến sinh trái, kết quả. Ở loài người, nhân là tinh cha huyết mẹ và quả là kết con sinh cái (con cái). V́ vậy chẳng bao giờ một vật ǵ bỗng không lại có. Tất cả được tạo nên bởi một nguồn gốc một nguyên nhân. Trồng dưa th́ được ăn dưa, trồng cà th́ được ăn cà và con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Không có tổ tiên, ông bà tất không có cha mẹ. Không có cha mẹ tất cũng không có con cái và không có Ta hiện diện trên cơi đời này ! Tổ Tiên, Gịng Giống, Cha Mẹ là điều mà đă là người th́ chẳng ai dám dứt bỏ hay từ chối. Đó là những mối giây lớn kết nối ta với đồng bào, đồng loại, giằng kéo bắt Ta cắn chặt răng để chịu thua thiệt, đứng vững gót để được làm người ở ngay cả trong một xă hội hư hèn, biến loạn. Mối giây lớn đó được gọi là Duy Nhân Cương Thường trong tương quan nhân tính. V́ vậy mà người xưa có câu:
* - Đọc tám vạn ngh́n từ mặc kệ
* - Không quân thần phụ tử chẳng ra người
(Nguyễn Công Trứ)
Nh́n ngược lại gịng lịch sử, suốt từ Đông sang Tây, không ai là không do cha mẹ sinh ra với những ẩn tích không thể tẩy xóa về gia thế, gịng dơi và chủng tộc. Thích Ca là con vua Sudhodana Gautama thuộc bộ tộc Sakyas bên Ấn Độ. Jésus Christ là con bà Maria gịng dơi vua David xứ Do Thái bên Trung Đông. Và dân tộc Việt Nam chúng ta, cùng với 99 gịng Việt khác đă cùng có chung một mẹ một cha “cha là Lạc Long Quân, mẹ là Âu Cơ” mang một thân xác da vàng và gịng máu luân lưu dào dạt ư chí quật cường, bất khuất ...
Nếu người ăn quả c̣n biết nhớ kẻ trồng cây, uống nước c̣n nhớ đến nguồn th́ sự yêu cha mẹ, kính ông bà, tôn sùng tổ tiên và anh hùng liệt nữ chỉ là làm một điều thuận với lẽ thường hằng, hợp với một chân lư phổ quát: Đạo Hiếu. Bài viết này không bàn sâu về Đạo Hiếu, nhưng tŕnh bày về Việt Nam như một quê hương của ṇi t́nh, mà ở đó người đàn bà v́ thấm nhuần đạo hiếu đă giữ một vai tṛ quan trọng trong việc đóng góp công sức, hy sinh một cách thản nhiên và lặng lẽ để làm cho tổ quốc vinh quang, dân tộc được trường tồn qua sự hoàn tất những nhiệm vụ liên tiếp của một chu kỳ sống “một đời người”, như làm theo trách nhiệm của một đứa con hiếu thuận, làm một người vợ đảm ngoan chung sức cùng chồng tát cạn biển đông, làm bổn phận người mẹ quên ḿnh v́ con mà tận tụy một đời với những lo nghĩ yêu thương.
2). T́nh: Những Sắc Thái Của Nhân Tính
Đă là người, tất khi sinh ra đă có đủ những nhân tính căn bản. Sống là một tiến tŕnh biểu lộ t́nh cảm qua những phát huy nhân tính:
2a). T́nh cảm
T́nh có bảy thứ gọi chung là “thất t́nh” gồm những biến thái như: Thương, ghét, vui, buồn, sợ, muốn, giận. T́nh nằm sâu trong tâm hồn con người, nhưng bản chất của t́nh th́ động. V́ vậy, chữ t́nh ( 情 ) được viết bằng bộ Tâm ( 忄) là trái tim và chữ Thanh ( 青 ) mầu xanh lá cây. Về ư nghĩa mầu sắc, xanh lá cây tượng trưng cho sự tươi trẻ, thanh xuân, nhưng theo ư nghĩa của y lư Đông Phương qua triết lư ngũ hành th́ xanh thuộc Mộc (cây). Ở con người, Mộc chủ về gan mật mà gan mật th́ liên quan tối gân cốt để hành động. Do đó, người xưa thường khen kẻ dám làm là can đảm hay là to gan lớn mật. T́nh tuy bản chất động nhưng chỉ phát lộ ra ngoài khi bị cảm kích bằng ngoại cảnh. Cảnh sinh t́nh, nên v́ tương quan nhân quả, t́nh thường được ghép chung với cảm. Cảm ( 感 ) gồm chữ Tâm ( 心 ) ở dưới và chữ Hàm ( 咸 ) ở trên. Hàm có nghĩa là khắp cả, đều hết. Nghĩa là khi t́nh cảm ở tâm bị kích động th́ sẽ lan truyền ra khắp hết thân thể để biểu lộ bằng hành động.
2b). T́nh Nghĩa
T́nh tuy có tới thất t́nh, nhưng khi nói đến t́nh th́ con người đều thường chỉ nghĩ đến cái khía cạnh tốt đẹp của nó là yêu thương, t́nh ái. Ngay cả đến yêu thương cũng có những khung bậc (bệ, bậc) khác nhau tùy đối tượng như yêu cha mẹ, anh em ... nhưng đa số cũng chỉ nghĩ đến sự yêu thương giữa trai và gái qua chữ t́nh ái. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là điều thông thường, v́ đó là đầu dây mối nhợ căn bản để nẩy sinh những mối tương quan nhân tính khác theo luật nhân quả. Có tương quan vợ chồng rồi mới có tương quan cha mẹ, con cái. Khi sống thành xă hội phồn tạp mà muốn tránh hỗn loạn th́ phải có trật tự, có ngôi thứ trên dưới, v́ vậy mà có vua tôi, quan dân. Những mối quan hệ này người xưa gọi là Tam Cương, ba giềng mối lớn chi phối toàn diện sinh hoạt con người trong xă hội.
Đa cảm tất đa t́nh ! cổ nhân đă có câu: “T́nh như t́nh để”. Nghĩa là t́nh cảm như mạch nước ngầm, nơi đáy giếng với những vơi đầy bất tận. T́nh là thứ nhu nhuyễn không có h́nh thức nhất định, ví như nước mà đặc tính của nước là thẩm thấu, ngấm ngầm để mang sự sống cho muôn loài . Không có nước tất đất sẽ khô cằn không thể trồng trọt, không có nước tất không có sự sống, nhưng nước quá nhiều cũng gây thành úng lụt tàn hại mùa màng hủy diệt sinh mạng. Đối với đất khô hạn th́ phải tưới bằng cách dẫn thủy, tát nước. Đối với đất úng lụt th́ phải khơi bằng cách đào ng̣i tháo nước, th́ đối với người việc dạy dỗ uốn nắn t́nh cảm cũng có ư nghĩa như công tác trị thủy, tưới bón hay tiêu tháo kể trên. T́nh được uốn nắn bằng lễ nghĩa là những h́nh thức được coi là tiêu chuẩn áp dụng cho từng trường hợp, tùy người, tùy cảnh. V́ vậy, T́nh thường được Nghĩa đi theo để điều ḥa ở mức vừa phải, không thái quá mà cũng không bất cập. Chữ Nghĩa ( 義 ) có nghĩa là điều phải, việc đúng nên làm. Chữ Nghĩa gồm chữ Dương ( 羊 ) là con dê, tượng trưng cho quyền lợi vật chất và chữ Ngă ( 我 ) là cái Ta chung của mọi người, tức là quyền lợi chung phù hợp cho mọi người theo đúng tinh thần đại đồng “kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân”. Điều ḿnh không muốn th́ cũng đừng làm cho người.
2c). Tâm Lư
T́nh cảm được coi như một nguồn năng lực chủ yếu của con người, nhưng vấn đề là xử dụng nguồn năng lực đó làm sao cho hợp lư và tốt đẹp. Người không thể sống như tĩnh vật vô t́nh, như gỗ đá vô tri. Cho nên t́nh không thể diệt mà phải chính, không thể lạnh lùng nhổ bỏ như loài cỏ dại mà phải xuất lực ra tưới bón như lúa, như ngô, kiên tâm uốn nắn như cây kiểng. T́nh phải nuôi mới lớn, nuôi bằng những cảm xúc cao đẹp, mà gây cảm xúc th́ không ǵ bằng đọc lịch sử, văn chương, thi phú. V́ vậy mới nói “khởi ư thi” bắt đầu bằng thơ văn. Nhưng phát triển th́ phải định hướng quy về một chủ đích, không thể để tự do buông thả như ngựa không cương, như thuyền không lái mà phải khuôn phép theo lễ nghĩa. V́ vậy mới nói “chế ư lễ”, dùng lễ nghĩa để uốn nắn. Một khi t́nh đă nuôi cho mạnh, uốn cho ngay chính đó là lúc t́nh có thể đem ra ứng dụng một cách hợp lư và tốt đẹp trong mọi hoàn cảnh, v́ đă đạt được tới mức độ thuần thục “phát nhi trúng tiết” như một nốt nhạc góp phần làm nên một hợp âm, như một khí cụ trong tay người nghệ sĩ tài ba tham dự ḥa tấu. V́ vậy mới nói “ḥa ư nhạc” và bản chất của nhạc là “ḥa nhi bất đồng”, âm thanh chỉ tương ứng mà ḥa hợp với nhau, chứ không tan lẫn vào nhau như màu sắc.
Nói th́ giản dị nhưng chuyện không phải dễ làm. V́ đó là một tiến tŕnh Tự Thắng để làm người, phát huy trọn vẹn Nhân Tính, “tận kỳ tính”, để đạt tới mức Nhân Chủ, làm chủ ḿnh, làm chủ xă hội, làm chủ thiên nhiên. Nhân Chủ là một lư tưởng cao đẹp, làm chủ ḿnh mà thảnh thơi như Tiên, Phật, làm chủ xă hội mà không áp chế bóc lột đồng loại, làm chủ thiên nhiên mà biết lấy chổ dư bù chổ thiếu để của kho thành vô tận. Ḥa được với mọi người với vũ trụ mà không mất bản sắc, kết hợp được cả hai yếu tố mâu thuẫn nhau là Sống và Chết bằng Thủ Đoạn Nhân Ái, qua phong cách sống nội Thánh ngoại Vương để an định không chỉ một xă hội một quốc gia, một thế giới mà là cả vũ trụ trong t́nh trạng Duy Nhiên Thái Ḥa. Lư Tưởng Nhân Chủ này được gói ghém trong biểu tượng Tiên Rồng, mà tổ tiên ta đă để lại như một bí quyết để giữ nước ṇi cho con cháu trong nhiệm vụ Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
3). Đạo Hiếu: Nền Tảng Sâu Xa Của Duy Nhân Cương Thường
3a). Đạo Là Ǵ ?
Đạo là một thứ hệ thống tư tưởng bao gồm nhiều ư niệm, dùng để hướng dẫn con người sống một cách tốt đẹp phù hợp với những tiêu chuẩn lư tưởng. Nhưng Đạo cũng có nghĩa là con đường phải theo để đạt đến một đích điểm nào đó. Theo chiết tự, Đạo ( 道 ) gồm bộ Xước ( 辶 ) là chân bước đi thong thả và chữ Thủ ( 首 ) là cái đầu. Đầu để trầm tư suy nghĩ những ư niệm trừu tượng, phân biệt phải trái, đúng sai. Nhưng ư thức được trọn vẹn sự việc, mà không quyết tâm thi hành, th́ đó chỉ là hạng thanh đàm bạc nhược. Người xưa có câu “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả” nghĩa là thấy việc đúng phải, nên làm, mà không làm là kẻ hèn mọn. Nhưng tri hành phải hợp nhất, biết th́ phải đi đôi với làm. Kẻ cầu đạo khi được học đạo tất phải hành đạo để đắc đạo. Học đạo, sống đạo, thực hành đạo đều là những hành động có ư thức đ̣i hỏi sự kiên tâm quyết chí, thúc đẩy bằng một niềm tin mănh liệt. Đạo không sống th́ đạo không thành, đường đi không tới. Do đó chữ Đạo bao gồm chữ Thủ chỉ sự biết và bộ Xước chỉ sự làm trong một toàn thể gọi là Đạo.
3b). Nhận Định Căn Bản
Đạo Hiếu bắt đầu bằng một nhận định căn bản “Nhân bản hồ tổ”, người gốc ở tổ tiên. Sự liên hệ nguồn gốc này mang đủ hai đặc tính huyết thống và tinh thần, được di truyền từ đời tổ tiên xuống đến con cháu, nối những thế hệ thành một xâu chuỗi, thành một sinh mệnh có tính bất tử, v́ thống nhất được cả quá khứ, hiện tại và tương lai vào một gịng sống miên man và bất tuyệt. Ư niệm sinh mệnh nói trên được chứng thực qua cách nói ví với những bộ phận bất khả phân ly của một con người đang sống. chẳng hạn đă có những câu phương ngôn như:
* - Cốt nhục thâm t́nh.
* - Anh em như thể tay chân.
* - Một giọt máu đào hơn ao nước lă.
* - Máu chảy ruột mềm.
* - Môi hở răng lạnh.
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă trở thành một niềm tin làm cơ sở siêu h́nh cho Đạo Hiếu. Trong ngôn ngữ Việt đă có những câu như:
* - Phúc đức ông bà để lại.
* - Phúc đức tại mẫu.
* - Sống gởi thác về.
* - Tu nhân tích đức để phúc cho con.
* - Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
* - Sống v́ mồ v́ mả, không ai sống v́ cả bát cơm.
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă được chấp nhận trong đời sống quốc gia, được thể hiện qua định chế lập pháp. Tội tru di tam tộc (giết ba họ), hay khi thi đỗ đại khoa được cấp ngựa xe vơng lọng để vinh quy bái tổ, trở về quê quán để làm lễ tuyên cáo với tổ tiên về thành quả đă đạt được trong việc học hành. Cha mẹ, vợ con của những người đỗ đạt làm quan tước đều được phong hàm. Do đó mà có câu “một người làm quan cả họ được nhờ”, nhờ v́ được tiếng thơm lây cho cả gịng họ .
Ư niệm sinh mệnh nói trên cũng đă đưa đến một thói quen được thấy trong đời sống hàng ngày và đồng hóa cá nhân với cả gịng họ, coi người được tiếp xúc như là đại diện chính thức của gịng họ, chẳng hạn như Lăo Trần, Chu Tiên Sinh, Trần Thi, Nhan Thị, v.v... Do đó, một người có thể lưu danh thơm thiên cổ làm rạng rỡ tổ tiên gịng họ, hay di xú, để tiếng xấu đến muôn đời làm điếm nhục tông môn bằng những hành động có tính cách cá nhân. Ca dao có câu:
* - Yêu người yêu cả đường đi
* - Ghét người ghét cả tông chi họ hàng
3c). Những Ư Niệm Tạo Dựng Nên Chữ Hiếu.
Hiếu ( 孝 ) là con đường thờ cha mẹ hết ḷng. Thờ là đối xử một cách cung kính lúc cha mẹ c̣n trên đời cũng như lúc cha mẹ khuất núi. Phân tích theo chiết tự th́ Hiếu ( 孝 ) là đất ở trên và chữ Tử ( 子 ) là con ở dưới. Chữ Thổ và chữ Tử được phân biệt tách bạch bằng nét phẩy ( 丿) thuộc bộ Phiệt. Dấu phẩy này tượng trưng cho cương giới, phân định vị trí người con đối với cha mẹ và các bậc tôn trưởng. V́ vậy mà chữ Tử đứng ở dưới chữ Thổ chỉ phận ở dưới.
Sách có câu “Tại thiên thành tượng, tại địa thành h́nh”, ở trên trời là biểu tượng, ở dưới đất là h́nh thể, đó là ư nhờ mẹ nên mới có con. Thổ, tức là địa phối hợp với thiên để tượng trưng cho ư niệm Âm Dương đầu mối của muôn vật với ư nghĩa “Nhất âm, nhất dương chi đạo”, mà cái đức lớn nhất của trời đất là sinh hóa “Thiên địa chi đại đức viết sinh”, và cái công lao cha mẹ cũng nằm trong việc sinh đẻ con cái, nuôi dưỡng chúng nên người.
Theo kinh Dịch, Thổ là đất địa, tương ứng với quẻ Khôn ( 坤 ) Khôn chỉ yếu tố Âm, người mẹ, sự chứa đựng bao dung, ḷng nhân ái … đối lập với quẻ (Kiền) Càn ( 乾 ) chỉ yếu tố Dương, người cha, sự cứng rắn … Con là kết quả của tinh cha huyết mẹ. Sự thụ nhân và cưu mang mầm sống, là khả năng thuộc bản chất người nữ với tấm ḷng bao dung nhu thuận, v́ đó mà quẻ Khôn được tượng trưng bằng một khoảng trống vắng ở giữa, hai hàng vạch nằm chồng liên tiếp lên nhau. Trong ṿng chín tháng mười ngày thai nhi với mẹ chỉ là Một. Đến kỳ măn nguyệt khai hoa, khi thai nhi cất tiếng khóc chào đời và được cắt rốn giữa cơn đau xé ruột của người mẹ, th́ Một đă trở thành Hai. Mẹ và Con với sự chia cách của hai thân xác, nhưng lại được ràng buộc chặt chẽ bằng mối tương quan nhân tính bền vững của t́nh mẫu tử và những nghi thức, bổn phận do chữ Hiếu qui định.
Theo triết lư ngũ hành, Thổ có vị trí đứng giữa thuộc Trung cung, mang số năm (5), mầu vàng. Thổ đứng ở giữa v́ thổ có đức bao dung chứa đựng. Tục ngữ có câu: “Bậc trưởng thượng ḷng phải rộng, tính phải thẳng-quân tử tiết trực tâm hư”, v́ vậy mà Thổ tượng trưng cho Mẹ mà cũng tượng trưng cho Vua mặc hoàng bào, ở trung ương. Đó là lư do người chết thường chôn theo địa táng chứ không thả trôi sông, trôi biển theo thủy táng hay treo cao bỏ mặc kiểu thiên táng. Câu “sống gởi thác về” được hiểu là nhập thổ về với tổ tiên. Ư niệm ngũ hành c̣n là đầu mối của nhiều nghi thức. chẳng hạn chữ Tỉnh ( 井 ) là đào giếng để lấy nước ăn, uống, là dấu vết để lại của thời b́nh sản kinh tế qua các h́nh thức phân quân điền địa. Đất phân làm chín (9) khu, chia cho tám (8) nhà cầy cấy, c̣n thửa ruộng ở giữa có giếng để dùng chung. Lúa thu hoạch được ở ruộng giữa này do sức đóng góp của tám nhà chung quanh sẽ thay cho thuế nộp vào kho vua. Do đó đại gia đ́nh chỉ giới hạn trong chín đời, gọi là cửu tộc, lấy ḿnh làm gốc ở giữa kể lên bốn (4) đời gồm cha mẹ, ông bà, cụ, kị, và dưới ḿnh bốn (4) đời gồm con, cháu, chắt, chút. Trong từ đường của gịng họ ngành trưởng th́ thần chủ thờ vị thủy tổ không bao giờ thay đổi gọi là “Bách thế bất điêu chi chủ”, nhưng trong những nhà thờ ngành thứ nh́, th́ có lệ chôn thần chủ khi vượt quá năm (5) đời. Ví dụ nếu người cha chết, người con lên thay th́ người cha sẽ được thờ, thần chủ của kị người cha sẽ được đem chôn và thay vào đó là thần chủ của cụ người cha nay là kị của người con.
Việc thờ cha kính mẹ phải xuất phát tự đáy ḷng, đột khởi tự con tim và được hướng dẫn bởi trí óc. Nghĩa là việc hiếu thảo phải được thúc đẩy bởi năng lực t́nh yêu qua những biểu lộ h́nh thức gọi là Lễ. Cốt tủy của Lễ là ở chỗ thành tâm, tức là sự thực ḷng được thể hiện qua thái độ cung kính bên ngoài. Không có sự chân thật th́ Lễ chỉ là hư văn, h́nh thức giả dối. Chữ Thành ( 成 ) ngoài ư là chân thành không giả dối, đổi thay c̣n có nghĩa là làm nên công, xong việc, hoàn tất một cách tốt đẹp như chữ Thành Công, Thành Nhân. Chữ Thành được ghép bởi chữ lực ( 力 ) là sức mạnh và bộ Qua ( 戈 ) là một thứ binh khí thời cổ để diễn tả sự muốn thành công hay thành nhân không phải là chuyện dễ làm. Để Thành Công hay Thành Nhân tất phải dùng tới cả sức mạnh của ư chí tinh thần lẫn thể xác và vũ khí vật chất để thắng kỷ và thắng nhân, bắt ḿnh vào khuôn phép hay khuất phục người. Thắng người c̣n dễ nhưng chiến thắng chính bản thân ḿnh là một điều thật khó. Đó cũng là lư do nói. Đạo Hiếu là đạo để tu thân, khởi điểm của tiến tŕnh đi đến Nhân Chủ qua những cấp bậc liên tiếp là: thương gia đ́nh, lo cho tổ quốc, trăm họ b́nh yên và hài ḥa cùng vũ trụ. Đó cũng là lư do nói Thành là khởi điểm tu thân cầu học trong nền Đạo Hiếu của 99 gịng Việt với những giai đoạn: “Thành ư, Chính tâm, cách vật, chí tri, thành nhân chi mỹ”. Nghĩa là ư muốn phải mănh liệt và chuyên nhất, không thay đổi, ḷng dạ phải ngay lành không khuất tất gian tà, làm việc phải phân minh rơ ràng đến nơi đến chốn, hiểu biết phải sâu xa đến ngành đến ngọn. Có thành tâm th́ mới hy vọng có thành công được vậy ! và Tu để làm ǵ nếu không là để thành người tốt, đó là ư nghĩa của câu “thành nhân chi mỹ”. (Sau này Khổng Khâu tức Khổng Tử đă lấy năm (5) ư trên mà sửa lại để b́nh trị (làm vua) thiên hạ là: “Thành kỳ ư, Chính kỳ tâm, Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc B́nh Thiên Hạ”)
Đạo Hiếu là đạo tu thân, sống Làm Người và để Thành Người trong xă hội, nên trên từ vua, quan đến thứ dân đều theo đạo Hiếu. Chữ Hiếu ( 孝 ) khi được ứng dụng vào tầm vóc quốc gia th́ chữ Tử ( 子 ) ngoài ư nghĩa là con thông thường c̣n để chỉ những người tôn quư, có đức hạnh, có học vấn, có chức vụ cao, chẳng hạn như đại thần Chu Văn An hay vua (thiên tử) và chữ Thổ ( 土 ) chỉ công tŕnh kiến trúc được đắp bằng đất cao và vuông vắn để làm nơi tế lễ. Vua, trong cương vị là thiên tử đứng dưới để làm lễ tế trời đất.
Nếu hiểu sống Làm Người để Thành Người đạt tới lư tưởng Nhân Chủ th́ trăm năm của kiếp nhân sinh phù du có lẽ quá ngắn ! Thích Ca đă phải luân hồi bao nhiêu kiếp để thành chính quả ? Nhưng bổn phận là điều mà không ai có thể chối từ. Sự khác biệt của các vị Tiên-Phật với chúng ta là: Họ đă có một quá khứ, c̣n chúng ta có một tương lai. Tương lai th́ có biết bao điều hứa hẹn, cho nên chữ Liễu ( 了 ) là sự hiểu biết, sự hoàn tất, làm xong công, xong việc đă bị làm cho dở dang, ngăn cách bởi một vạch ngang ( 一 ) chữ Nhất. Ư nhắc nhở là ở vị trí người con ( 子 ) ta c̣n biết bao viếc phải hoàn tất. Thật vậy sống làm người đến khi nhắm mắt xuôi tay có mấy ai dám nghĩ ḿnh phải thảnh thơi trả xong ơn nghĩa, ơn tổ tiên, ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, làm xong bổn phận với gia đ́nh thân thích, đối với đồng bào ruột thịt và đối với tổ quốc thân thương yêu quư.
3d). Đạo Hiếu
Từ sự nhận định “Nhân Bản Hồ Tổ”, đến việc ư thức toàn thể gịng họ như một sinh mệnh không thể chia ĺa, đă đặt các phần tử trong một gia tộc trước những bổn phận phải hoàn tất để thực thể đó được Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng. Sống làm người không ai không mong được đủ năm điều: Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh, nghĩa là sang, giàu, sống lâu, mạnh khỏe, b́nh an. Nhưng làm sao để sống, để c̣n là điều quan trọng hàng đầu, Chết, mất vẫn là điều tệ hại nhất. Hiểu được vậy tất thông cảm nổi lo âu của các bậc tôn trưởng khi thấy ḿnh tuổi đă cao, cái chết đă cận kề mà chưa thấy có kẻ nối dơi, v́ e sợ gịng họ do sự thua kém của ḿnh và tuyệt tự. Việc bái lễ cầu con, lấy vợ lẽ cho chồng, nuôi nghĩa tử ... chỉ là những cố gắng đớn đau tuyệt vọng của những người mang mặc cảm chưa làm xong trách nhiệm với gịng họ “bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại” không con để cho gịng dơi bị tuyệt diệt là một tội nặng. Tuy nhiên, việc làm cho gịng họ được trường tồn, chỉ là bước đầu. Những phần tử có trách nhiệm c̣n phải cố gắng làm sao để làm cho rạng danh gịng họ. Con phải hơn cha, cháu phải hơn ông, con cháu hưng vượng, th́ đó mới thật sự là nhà có phúc. V́ đó là sự tiến lên của một gia đ́nh, gịng họ và đất nước.
Đạo Hiếu là đạo thờ người v́ (và) truy nhận nguồn gốc tổ tiên. Tổ tiên tuy không là đấng toàn năng tạo ra muôn loài, muôn vật, có toàn quyền ban phát phúc họa với sự thưởng phạt thiên đường, địa ngục, với cơi niết bàn, với ngục thất a t́, nhưng tổ tiên đă để lại gương tốt oai linh làm anh thư liệt nữ, hào kiệt anh hùng, với những công trạng hiển hách muôn đời ghi lại trong gia phả, trong sử sách để con cháu đời sau học theo, làm theo. Những lúc hành lễ cúng thờ tổ tiên, những lúc xem lại gia phả, đọc lại sử nước nhà, trong cái tịch mịch của sự suy tưởng bằng một tấm ḷng thành kính, tất sẽ thấy được h́nh bóng phảng phất của hồn thiêng tổ phụ qua hương bay khói tỏa trở về chứng giám, sẽ cảm được từ đáy sâu của tiềm thức thế nào là vinh quang và tủi nhục của một gịng họ, của một nước ṇi đă trải qua trong cuộc đấu tranh gay gắt để: Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa. Do đó, Đạo Hiếu là đạo tu thân để làm người con xứng đáng, nhưng cũng là đạo tu thân để làm người công dân tốt trong một đất nước trong một xă hội. Có yêu nhà th́ mới yêu nước. Có giữ được nước th́ mới giữ được nhà. Câu “quốc phá gia vong” là một quy luật biện chứng lịch sử mà tổ tiên ta đă từng đưa ra để giáo dục con dân:
“Nay ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ ǵn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Mông, Hậu Nghệ th́ mới có thể dẹp tan được giặc mà lập nên được công danh. Chẳng những là thái ấp của ta được bền vững, mà các ngươi cũng đều được hưởng bổng lộc. Chẳng những gia quyến của ta được yên ổn, mà các người cũng được vui với vợ con, chẳng những tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được thờ phụng tổ phụ trăm năm vinh hiển, chẳng những một ḿnh ta được sung sướng mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, ngh́n đời thơm tho. Đến bấy giờ các ngươi dầu không vui vẻ, cũng tự khắc được vui vẻ ...” (Hịch Tướng Sĩ Hưng Đạo Vương).
Đạo Hiếu thâm trầm giản dị là thế, gần gủi và thiết thực đối với chúng ta trong tư cách con dân là thế, có thể coi là trong gang tấc mà sao vẫn bị ngộ nhận như một kẻ xa lạ vô cùng ! Đă có biết bao người khi mở miệng, hễ đặt bút là chê tổ tiên, khinh khi gịng giống. Theo họ, đạo xưa là hẹp ḥi, hủ lậu, là bất công, áp chế con người ... v.v... Nhưng họ có hiểu rơ bản chất của Đạo Hiếu và dụng ư của người xưa chăng ? Một ngàn năm (1000) bị giặc phương Bắc đô hộ mà không bị đồng hóa. Tám mươi năm (80) giặc Pháp xâm thực, mà không bao giờ ngớt đổ máu xương tranh giành độc lập. Những kết quả đó tất phải tạo được bởi một Nhân. Và nhân nào nếu không là những người con hiếu thảo, những người vợ đảm ngoan, những người mẹ hiền thục ? Hiếu tử luôn luôn sẽ trở thành trung thần, nghĩa sĩ, bạn hiền. Những phường bạc t́nh, vong ân, bội nghĩa, khinh khi cha mẹ, coi thường ṇi giống. Cuối cùng rồi cũng đi làm tay sai cho người, bán nước cho ngoại bang. V́ họ đều có chung một bản chất ích kỷ, tham lam, ti tiện, những loại người này họ sống hay chết th́ cũng thối tha, vô tích sự cho xă hội và cho đất nước.
4). Những Cống Hiến Vĩ Đại Của Người Phụ Nữ Việt Cho Nước-Nhà
Nguyện vọng sâu xa nhất của loài người là sống c̣n măi măi. Những phương pháp tu luyện, những linh đơn, tiên dược có khả năng trường sinh hoặc kéo dài tuổi thọ mà ngày nay ta c̣n được nghe tới, chỉ là những dấu tích của một ước mơ chưa trọn vẹn. Dù chưa t́m được phép Trường Sinh, nhưng loài người lại có khả năng Truyền Sinh để tiếp nối sự sống đến vô cùng. Tuy nhiên, khả năng truyền sinh lại có thể hoàn tất một cách tốt đẹp qua sự thuận t́nh hợp tác của hai yếu tố nam và nữ, qua tương quan vợ chồng, trên căn bản b́nh đẳng. V́ con cái phải là kết quả của t́nh nghĩa, của ḷng yêu thương và tinh thần trách nhiệm được biểu lộ bằng một mong ước thật t́nh và một sự chờ đợi nôn nóng ...
Nhiều người theo tây học đă cho rằng phụ nữ Việt Nam bị kỳ thị coi rẽ, coi khinh và mất nhân cách v́ họ bị lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ ở nhà, vào chồng khi xuất giá vào con khi chồng chết … Do đó, họ đă hô hào giải phóng phụ nữ và đ̣i nam nữ b́nh quyền, rập theo khuôn mẫu của những phong trào tương tự ở Âu Mỹ. Phải nh́n nhận là thiện chí của họ rất tốt, thái độ của họ rất đúng, nhưng đối tượng của họ sai. Bên Âu Châu, phong trào giải phóng phụ nữ và đ̣i nam nữ b́nh quyền bắt nguồn sâu xa từ một ư niệm triết lư căn bản: “…đàn bà là vật phụ thuộc của đàn ông”, qua chuyện tích bà Eva được làm nên bởi cái xương sườn của Adam. Thượng đế đă tạo nên Eva trong mục đích làm cho Adam vui sống. Eva với bản tính nhẹ dạ cả tin và ưa phù phiếm nên đă bị rắn Satan cám dỗ ăn trái cấm. Sau khi phạm tội, Eva đă quyến rũ Adam phạm tội theo và cả hai bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Vả lại, ư niệm tự do Tây phương đặt trên quyền lợi cá nhân. Quyền lợi đưa tới tư hữu. Tư hữu đưa tới chiếm đoạt mà chính sách đế quốc thực dân là một hậu quả tất nhiên. Ngược lại, ư niệm tự do Đông phương xây dựng trên bổn phận. Bổn phận đưa đến trách nhiệm. Trách nhiệm đưa đến hy sinh quên ḿnh mà sự tu thân tự tỉnh là đều kiện chủ yếu. Do đó, thiện chí “giải phóng phụ nữ” đă không đặt đúng chỗ, v́ trên cả hai phương diện lư thuyết và thực tế người đàn bà Việt Nam đă, đang và măi măi được quư trọng không những bởi con cái, bởi chồng mà c̣n bởi cả toàn thể dân tộc. Họ được tôn xưng và giữ một địa vị không thể thay thế được trong triết lư Âm Dương, trong nguồn gốc dân tộc, trong việc trồng người gồm cả hai mặt sinh dưỡng và giáo hóa, để bảo tồn gịng sinh mệnh lịch sử của nước ṇi được Sống-C̣n-Nối-Tiếp-Tiến-Hóa đến vô cùng.
4a). Vị Trí Người Phụ Nữ Trên Căn Bản Triết Lư Dịch
Dịch là những ư niệm triết lư lâu đời nhất của nhân loại, được hệ thống lại từ khi nhân loại chưa có chữ viết. Dịch xây dựng trên ư niệm Âm-Dương. Âm biểu tượng bằng một vạch đứt đoạn (--), và Dương biểu tượng bằng một vạch liên tục (-). Định lư căn bản của dịch là: “nhất âm nhất dương chi vị đạo”, một âm phối hợp với một dương đó là đạo lớn. Hệ luận của “độc dương bất sinh, cô âm bất trưởng”, riêng một ḿnh yếu tố dương th́ không thể sinh trưởng được, riêng một ḿnh yết tố âm th́ cũng không thể nào lớn lên được. Và “âm trung chi dương, dương trung cho âm”, trong âm có dương, trong dương có âm.
Biểu tượng của dịch được vẽ bằng một ṿng tṛn tượng trưng cho sự viên măn tṛn đầy của lư tưởng, sự duy nhất chỉ có một chân lư mang tính phổ quát bao trùm cả mọi nơi chốn, ảnh hưởng suốt khắp mọi thời. Bên trong ṿng tṛn là hai yếu tố Âm Dương được phân biệt bằng một mầu trắng âm và mầu đen dương, với một chữ S cân xứng làm bằng hai nửa ṿng tṛn nối tiếp nhau, diễn tả ư “âm dương tương thôi” yếu tố âm và yếu tố dương đun đẩy và bù đắp lẫn cho nhau, tạo nên một thế Thăng Bằng Động của một sự B́nh Đẳng Tuyệt Đối trên giá trị bản chất, nhưng khác biệt nhau v́ hoàn cảnh: Vị trí và nhiệm vụ. Sự khác biệt vị trí và nhiệm vụ nói lên tính hợp lư trong việc phân công. Yếu tố dương có một đầu to và một đầu nhỏ, yếu tố âm cũng có một đầu nhỏ và một đầu to. Nếu đầu to tượng trưng cho ưu điểm và đầu nhỏ tượng trưng cho nhược điểm th́ với sự phối trí của biểu tượng dịch lư, yếu tố âm và yếu tố dương đă hoàn toàn bổ túc, bù đắp cho nhau để tạo thành một toàn thể có đủ những tính chất: hợp lư, cân xứng, hài ḥa. C̣n hai điểm nhỏ, điểm đen nằm ở đầu to yếu tố âm trắng và điểm trắng nằm ở yếu tố dương đen, tượng trưng cho mầm nhân của khả năng biến đổi tiến hóa để thích nghi với hoàn cảnh, phù hợp với nhiệm vụ mới, diễn tả hệ luận biến dịch “Âm trung tri Dương, Dương trung tri Âm”, căn bản của quy luật chân lư tương đối trong môi trường động.
Đặt nền trên những căn bản triết lư trên, người phụ nữ đă có một địa vị xứng đáng và cao trọng trong xă hội Việt Nam đặc biệt là trên tương quan vợ chồng. Vợ chồng là đạo lớn “phu thê chi đại đạo” hay của người quân tử bắt đầu từ mối liên hệ vợ chồng “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”, chỉ là những diễn dịch từ định đề căn bản của dịch “nhất âm nhất dương chi vị đạo” là mối cương thường đứng hàng đầu trước mối liên hệ cha mẹ-con cái và vua tôi, tạo nên ba giềng mối lớn gọi là Tam Cương. Lấy vợ, sinh con nối dơi vừa là một nhu cầu thuộc bản năng, vừa là một nhiệm vụ trong việc làm người để thành người. Do đó, đời một người được chia làm ba thời kỳ với ba mục tiêu rơ rệt. Tuổi vị thành niên th́ lo học hành “Định Học”. Tuổi trưởng thành th́ lo lập gia đ́nh “Định T́nh”. Sau khi đă yên bề gia thất, vợ con mới lo công danh sự nghiệp “Định Nghiệp”. Việc lấy vợ c̣n quan trọng hơn việc thi đỗ. V́ vậy, thi đỗ được coi là tiểu đăng khoa, c̣n lấy vợ là đại đăng khoa.
Khi vợ chồng ăn ở với nhau đă có con cái, người vợ nay thêm bổn phận làm mẹ lại càng được tôn kính nhiều hơn. Chỉ nh́n qua lễ nghi, tang ma th́ đủ rơ mục đích biểu lộ ḷng nhớ ơn sâu xa của người con đối với công lao sinh dưỡng của người mẹ. Nào mũ mấn đội đầu tượng trưng cho cái “nhau” lúc ra đời, nào áo sô trắng tượng trưng cho lúc c̣n nằm trong bụng mẹ. Nào để tang ba năm, khoảng thời gian tối thiểu để đứa bé có thể sống xa mẹ ...
Kể ra khi nh́n vào thực tế xă hội tất cũng nh́n thấy nhiều sự sai lạc và biến đổi không thập phần hoàn hảo như những ước tính hoạch định trên lư thuyết. Tuy nhiên, đó chỉ là những khuyết điểm về phần nhân sự thực hành mà những người có trách nhiệm cải tạo xă hội phải sửa sai. giáo dục chứ không đập bỏ, phá vỡ một cách vô trách nhiệm. Thái độ phê b́nh “vơ đũa cả nắm” chỉ chứng tỏ một tŕnh độ hiểu biết nông cạn và phiến diện về đối tượng được phê b́nh, nếu không muốn nói đó là thái độ thù nghịch. Không thể lấy con đường 14th ở Washington D.C. để đại diện cho cả thủ đô Hoa Kỳ hay nguy hại hơn nửa cho cả nước Hoa Kỳ rộng lớn. Cũng không thể đọc vài tờ báo như: Penthouse, Playboy, Sirs ... để định mức t́nh trạng trí thức Hoa Kỳ !
Nếu tin vào sự chính xác của quy luật “tư tưởng hướng dẫn hành động”, th́ chỉ ư niệm Âm Dương trong ṿng Thái Dịch cũng đủ minh chứng sự “B́nh Đẳng Tuyệt Đối” của vợ với chồng trên giá trị bản chất người, Nhân Bản. Và để kết luận, người phụ nữ có một địa vị cao trọng được tôn kính đúng mức ở xă hội Việt Nam, với những chứng tích không thể chối bỏ được trong lịch sử dân tộc.
4b). Vị Trí Người Phụ Nữ Trong Gịng Sinh Mệnh Dân Tộc
Lịch sử Việt là cuốn gia phả của dân tộc Việt cũng đă truy nhận nguồn gốc của ṇi giống và xưng tôn mẹ Âu Cơ như Tổ Mẫu. Mở đầu cuốn gia phả là một truyện tích chép rằng: “...Kinh Dương Vương làm vua nước Xích quỷ vào năm 2879 trước Tây Lịch , lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ ra Sùng Lăm. Sùng Lăm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ đẻ ra trăm người con, gốc của trăm gịng Việt. Sau Âu Cơ mang năm mươi con lên núi, Long Quân mang năm mươi con xuống bể ...” Núi và Biển là những vùng đất và vùng biển được Âu Cơ và Long Quân chiếm lĩnh trong việc mở mang bờ cơi coi như không gian sinh tồn của một dân tộc, được gói gọn ư nghĩa trong chữ kép: Giang Sơn, Non Sông, Đất Nước. Âu Cơ cũng đă hoàn tất nhiệm vụ một cách tốt đẹp so với chồng trong việc mang năm mươi con đi mở mang bờ cơi, dựng nước, giữ ṇi. Đó không phải là một sự b́nh đẳng trước nghĩa vụ hay sao ?!
Gia phả lại chép “... Năm Giáp Ngọ (34 tây lịch), tức năm Kiến Vơ thứ mười, vua Quang Vơ nhà Hán sai Tô Định làm Thái Thú Quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược làm lắm điều tàn ác, khiến ḷng dân oán giận. Năm Canh Tí (40 tây lịch), Tô Định giết Thi Sách. Vợ Thi Sách là Trưng Trắc cùng với em là Trưng Nhị nổi lên đánh đuổi Tô Định. Tô Định phải trốn về Nam Hải. Hai Bà hạ được 65 thành tŕ, giành lại độc lập rồi tự xưng là vua, đóng đô ở Mê Linh”.
Đọc sử tất phải xét sử để phân định đúng sai, biện biệt lẽ nên, không. V́ chồng mà trả thù không phải là t́nh hay sao ? V́ muôn dân mà diệt bạo không phải là đại nghĩa hay sao ? Nhưng t́nh nghĩa đều là những điều căn bản của bổn phận làm người được quy định bởi Duy Nhân Cương Thường, mà không hoàn tất , tất không thể thành người. Đó cũng không phải là sự b́nh đẳng không phân biệt trai gái trước nghĩa vụ hay sao ?!
Sử gia Lê Văn Hưu đời nhà Trần khi viết về sự nghiệp của hai Bà có b́nh luận như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà nổi lên đánh đuổi Tô Định lấy lại được 65 thành tŕ, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay. Thế mà từ cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một ngh́n năm, người ḿnh cứ cuối đầu bó tay làm tôi tớ cho người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng?” câu văn kể trên không hề mang ư nghĩa kỳ thị coi rẽ, coi khinh đàn bà như nhiều người ngộ nhận, mà ngược lại là một câu văn khích động, mang tính chất “văn dĩ tải đạo”, văn chương được dùng để truyền bá đạo lư. Do đó, xấu hổ không v́ “người ḿnh” gồm toàn đàn ông sức dài vai rộng, mà v́, “người ḿnh” đă không hoàn tất bổn phận làm con dân đúng nghĩa đối với nước nhà khi bị ngoại bang đô hộ, v́ “kiến nghĩa bất vi vô dơng giă”, nghĩa là thấy việc đại nghĩa mà không dám làm là bọn hèn mọn vậy! Phương ngôn ta có câu: “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” để minh chứng quan niệm b́nh đẳng trong nghĩa vụ sống làm người để thành người trong cương vị làm con, làm dân đối với nước, với nhà. Ơn tổ quốc, ơn cha mẹ là những nghĩa vụ mà đă sống làm người, không phân biệt trai gái, già trẻ không ai mà không phải hoàn tất một cách thành tâm kính cẩn.
Gia phả lại chép: “…Năm Mậu Th́n (248 tây lịch) năm Xích Ô thứ 11 của nhà Đông Ngô, Ngô Chủ sai Lục Dận sang làm thứ sử Giao Châu. Năm ấy ở quận Cửu Chân có người đàn bà tên Triệu Thị Trinh khởi binh giúp anh là Triệu Quốc Đạt đánh nhà Ngô. Quân lính của người anh thấy Bà làm tướng có đủ mọi điều kiện hơn người như: chí khí, sức mạnh và mưu lược bèn tôn bà lên làm minh chủ. Khi Bà ra trận thường cỡi voi mặc áo giáp vàng xưng là Nhụy Kiều Tướng Quân. Lục Dận đem quân đánh dẹp, Bà chống cự được năm sáu tháng. Sau v́ quân ít thế cô nên bị thua, Bà chạy đến xă Bồ Điền th́ tự tử. Bấy giờ Bà mới có 23 tuổi”.
Vua Lư Nam Đế (nhà tiền Lư) khen là người trung dũng cho lập miếu thờ, phong Bà là “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân”. Hậu thế khi đọc lại tiểu sử của Bà không khỏi thầm cảm phục chí khí cang cường của một người quyết tâm chọn con đường cách mạng giải phóng đất nước. Câu nói bất hủ của Bà :“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh giải đạp đầu sóng dữ, chém cá Tràng Ḱnh ở bể Đông, quét sạch quân Ngô ra khỏi bờ cơi, để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, lầm than, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng làm t́ thiếp người ta”.
Nhân tính vẫn thường yêu sống ghét chết, thích an ổn nhàn rỗi, sợ khó khăn gian khổ, chỉ nh́n thấy cái lợi nhỏ trước mắt mà không thấy cái hại lớn sau lưng. V́ vậy, mà trong nội tâm con người luôn luôn có một sự dằn co giữa t́nh và nghĩa, giữa nước và nhà, giữa cái riêng và cái chung. Vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng dễ ǵ ai dám bỏ !
* - Chàng từ biệt vợ con thơ dại
* - Lên đường ra quan ải xa xăm
* - Bước đi quay ngắm lại nhà
* - Bên t́nh bên nghĩa đâu là nặng hơn ?!
Do đó, sống làm người để thành người là chuyện khó. trốn tránh nghĩa vụ là điều thường thấy trong xă hội. Có vậy mới càng khâm phục chí lớn gan liền của Nhụy Kiều Tướng Quân trong sự lựa chọn lấy nước làm nhà, trong thái độ quyết tâm và dám chết v́ đại nghĩa. Chết không phải là hết! Voi chết để Ngà, Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. Sát thân thành nhân, c̣n Bà chết th́ thành Thần được tổ quốc ghi công, dân tộc muôn đời chiêm ngưỡng và hậu thế muôn đời tưởng nhớ với khói hương thành kính. Mười chữ vua Lư Nam Đế sắc phong cho Bà: “Bật Chính Anh Liệt Hùng Tài Trinh Nhất Phu Nhân” đă biểu lộ sự kính phục vô cùng của một tâm hồn đồng điệu, cùng chung chí hướng. Tất cả có thể tóm lược lại là: “Phu nhân là người quyết tâm nêu cao chính nghĩa, dám làm hơn người và dám chết hơn người”, khen một người sống cho sự trường tồn của Dân Tộc và chết cho sự vinh quang của tổ quốc đến thế là hết chữ. Người đời theo lẽ nhi nữ th́ chỉ cần theo chồng cũng đủ khen là tiết liệt, c̣n Bà theo nước, yêu nước như yêu chồng. Hai chữ Trinh Nhất đó dành cho Bà thật xứng đáng lắm thay.
Yêu nước là một tiến tŕnh từ tiềm thức lên ư thức, từ trừu tượng sang cụ thể, từ tư tưởng bước sang hành động. Do đó, yêu nước không thể chỉ để ngấm ngầm trong ḷng, cũng không chỉ phô bày bằng miệng lưỡi. Yêu nước phải được thể hiện bằng hành động cụ thể bởi v́, chỉ có lửa mới thử được vàng, lấy gian nan mới thử được sức người và hành động mới tỏ lộ được mức độ tinh thần. Bản chất của t́nh yêu là quên ḿnh và tận hiến, là phục vụ và hy sinh. Do đó, là phải dám hy sinh cho nước. Hy sinh không phải v́ xung động nhất thời như lửa với rơm bung lên rồi tắt ngúm, trái lại phải hy sinh với một ư thức cao độ của một kẻ tu đạo tận hiến cuộc đời cho lư tưởng, để nghĩa vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Nói đến kẻ thù, th́ có kẻ thù nào đáng sợ và nguy hiểm hơn chính cái Ta. Cái Ta của sự ươn hèn, ỷ lại, của sự cầu an hưởng thụ, của sự phản bội ích kỷ. Từ xưa đến nay tự thắng ḿnh không phải là chuyện dễ làm và mới thấy cái khó khăn của sự tự thắng, khi phải cắn chặc răng để chịu thiệt, đứng vững gót để làm người mới thấy được cái giá trị của sự hy sinh: hy sinh hạnh phúc của đời ḿnh, Nhưng phải chết đi để không ngừng sống lại với sự vinh quang của tổ quốc.
Gia phả của dân tộc chép: “Vua Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông c̣n ḿnh lên làm Thái Thượng Hoàng, sau lại bỏ đi tu. Năm Tân Sửu (1301) Thượng Hoàng sang Chiêm Thành xem phong cảnh, có ước gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm là Chế Mân. Được ít lâu, Chế Mân cho người đưa vàng bạc và các sản vật sang cống và xin cưới. Triều thần có nhiều người không thuận. Chế Mân lại xin dâng hai châu Ô và châu Rí để làm sính lễ, bấy giờ Anh Tông mới quyết định thuận gả. Đến tháng sáu năm Bính Ngọ (1306) vua cho công chúa về Chiêm Thành. Năm sau (1307), vua Anh Tông thu nhận hai châu Ô và châu Rí, đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu, rồi sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lư và đặt quan giám sát”.
Người đời chỉ xét trên khía cạnh cá nhân để oán hận triều đ́nh và cảm thương cho công chúa Huyền Trân, nên cao dao đă có câu:
* - Tiếc thay thân quế giữa rừng
* - Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
mà lại không thấy đó là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, tạo thế ỷ dốc, lập một liên minh quân sự để giữ an bờ cơi bằng liên hệ t́nh cảm giữa hai họ xui gia. Nếu người đời nghĩ rằng trong chiến công vĩ đại hiển hách của dân binh nhà Trần đă đánh thắng quân Nguyên và sự chiến thắng của toàn dân ta có sự đóng góp của dân tộc Chiêm Thành (Chiêm Thành không cho quân Nguyên mượn đất, mượn đường để đánh tập hậu vào sau lưng ta), th́ tất cả đă không trách cứ với câu ca dao trên. Vua Trần Nhân Tông đă quyết định đúng, phù hợp với t́nh nghĩa đồng minh. Gả Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân không chỉ là hành động đăi ngộ đề bù mà c̣n là thái độ ngoại giao khôn khéo, tạo thêm t́nh thắt chặt giữa hai dân tộc Việt-Chiêm.
Riêng với Huyền Trân Công Chúa, chỉ kể về giá trị của đồ sính lễ gồm hai châu Ô và châu Rí cũng đủ nói lên công lao đóng góp, mở nước, xây dựng tổ quốc của bà, Huyền Trân không đóng góp bằng xương máu chiến sĩ, nhưng Bà đă cống hiến đời ḿnh bằng những giọt nước mắt tài hoa của một vị công chúa, Bà đă hiến dâng đời ḿnh cho tổ quốc. Trên cương vị lănh đạo, Nhân Tông đă v́ nước mà hy sinh con ḿnh. Trên cương vị là con dân Việt, Huyền Trân đă v́ nước quên ḿnh.
Vâng ! Đó là những mệnh lệnh của trách nhiệm và bổn phận, đă là trách nhiệm và bổn phận th́ không một ai được chối từ.
Ngoài những đóng góp vĩ đại cho tổ quốc như Tổ Mẫu Âu Cơ, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Huyền Trân Công Chúa ... lịch sử c̣n biết bao gương hy sinh cho tổ quốc cần phải nói đến, hay đúng ra là hiện tại trong chúng ta những kẻ hậu sinh, phải nhớ đến những công lao khó nhọc của tiền nhân và đă có biết bao sự hy sinh đóng góp một cách tân tụy và âm thầm của biết bao thế hệ phụ nữ Việt cho nhà, cho nước. Không ai có thể phủ nhận công ơn của người phụ nữ Việt trong lănh vực gia đ́nh cũng như ngoài xă hội. Gia đ́nh là nền tảng của xă hội, là thành phần làm nên đoàn thể. Nếu gia đ́nh êm ấm th́ xă hội sẽ an định, nếu gia đ́nh tan nát th́ xă hội sẽ biến loạn. Sự liên hệ song phương có tính quy luật đó đă được bao hàm trong hai chữ: Quốc Gia hay Nước Nhà.
Trong gia đ́nh, với cương vị làm con, con gái cũng đă làm tṛn bổn phận hiếu thảo như con trai và c̣n hơn con trai nửa ! Có nhiều người đă dựa vào câu Hán Nho: “Nhất Nam viết hữu, thập nữ viết vô” để đă phá nền mống gia đ́nh Việt Nam là kỳ thị phụ nữ. Đó là sự phê phán vội vàng đáng trách, v́ trong ngôn ngữ của Việt Nam ta không thiếu ǵ những câu đề cao vai tṛ người phụ nữ. Chẳng hạn: “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu ḷng” để tỏ hiệu năng giúp đỡ cha mẹ của người con gái. Tuy nhiên, đối với kinh nghiệm của các bậc mẹ cha th́ con nào cũng là con, không phân biệt trai gái mà chỉ phân biệt ngoan, hư, như trong một câu ca dao:
* - Trai mà chi, gái mà chi
* - Con nào có hiếu có ngh́ th́ hơn.
Có hiếu, có nghĩa bao gồm cả những việc làm cho cha mẹ vui ḷng. Ở địa vị cha mẹ, chúng ta sẽ nghĩ sao khi đang nóng giận với con gái mà được nghe lời khôn ngoan dịu dàng này:
* - ... Má ơi đừng đánh con đau
* - Để con đi chợ mua cau ăn trầu ...
* - ... Má ơi đừng mắng con hoài
* - Để con đi chợ mua xoài má ăn ...
Ngay từ những ngày c̣n lên chín lên mười, người con gái đă lớn không hơn con trai và biết giúp đỡ mẹ cha với những công việc trong nhà, kể cả việc săn sóc các em như một người mẹ nhỏ. Cảnh tượng “Con chị bồng con em” ru cho em ngủ trong một buổi sáng muộn của một ngày mùa, là một cảnh điển h́nh của làng quê Việt Nam vào những ngày đất nước thanh b́nh. Trong những gia đ́nh chẳng may người mẹ đau ốm hay chết sớm th́ trăm sự chỉ trông vào người con gái để “tay ḥm tay khóa” quán xuyến gia đ́nh ... Có biết bao nhiêu người con gái đă quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ già, em thơ dại cho tṛn đạo hiếu. “Trẻ nhờ cha, già cậy con” là một thực tế xă hội không thể chối bỏ trên cả hai phương diện t́nh cảm và vật chất. Với quan niệm khoa học hiện nay coi sinh lư như một nhu cầu căn bản của một cơ thể ở mức độ trưởng thành cần phải thỏa măn, th́ sự quyết định không đi lấy chồng để ở nhà nuôi cha mẹ và các em là một sự hy sinh tuyệt vời. Sức mạnh nào đă giúp họ chiến thắng những đ̣i hỏi ghê gớm của một cơ thể mạnh khỏe, nếu không là t́nh yêu cha mẹ, anh em, gịng tộc ... trong ư nghĩa yêu là hy sinh, quên ḿnh, sống cho, sống v́ kẻ khác !
* - Chắp tay van vái Phật trời
* - Cầu cho cha mẹ sống đời với con.
Trong xă hội Việt Nam cổ truyền, ư niệm người t́nh gắn liền với ư niệm người vợ. T́nh yêu phải tiến tới hôn nhân và yêu nhau với ước mơ được sống trọn kiếp bên nhau trong t́nh nghĩa vợ chồng. Và v́ chuyện vợ chồng là chuyện quan trọng trong đời người, không thể nay lấy mai bỏ như thay một chiếc áo, nên việc kén chọn tất phải cẩn thận qua nhiều mai mối lễ nghi, như ca dao có câu:
* - Chim khôn đậu nóc nhà quan
* - Trai khôn t́m vợ, gái ngoan chọn chồng.
Chuyện tích Sơn Tinh, Thủy Tinh là một điển h́nh của việc chọn dâu kén rể. Một phong tục tốt đẹp của Việt Nam có từ thời Hùng Vương thứ 18. Đă nói đến kén chọn tất là phải dựa vào một tiêu chuẩn để luận xét, cân nhắc nặng nhẹ, tốt xấu. Trong chuyện tích, Sơn Tinh cưới được Mỵ Nương v́ đếm sớm đúng hẹn, c̣n Thủy Tinh đến chậm, lỡ hẹn nên mất vợ. Xét cho kỹ, câu chuyện có bao hàm một triết lư sâu xa: Thứ nhất, việc đúng hẹn là giữ tṛn chữ Tín với một tấm ḷng thành. Sơn Tinh đă coi việc lấy vợ là quan trọng nên chuẩn bị chu đáo và quyết tâm làm đúng. Với tấc ḷng thành tất cảm được người, với đức Tín tất được người Tin. Tương quan vợ chồng là một tương quan b́nh đẳng, đặt nền trên sự thành tín, nghĩa là thành thật với nhau và tin nhau. Thứ hai, Sơn Tinh là thần núi non, núi tượng trưng cho đức Nhân. Thủy Tinh là thần sông biển, tượng trưng cho đức Trí. Chữ có câu: “Trí giả nhạo thủy, Nhân giả nhạo sơn, Trí giả động, Nhân giả tĩnh”, nghĩa là người Trí thích nước, người Nhân thích núi, người Trí thích tính hiếu động, người Nhân th́ ưa tĩnh. So nặng nhẹ th́ Nhân là đầu mối sinh ra các đức tính khác, có nhân mới có ái, có ḷng đôn hậu bao dung được người. C̣n Trí th́ dũng lược có thừa, nhưng hiếu động ưa ganh đua, tất phải có điều tàn nhẫn với người. Vua Hùng Vương gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, người có đức Nhân mà không gả cho Thủy Tinh là người có đức Trí là lư do trên vậy.
Nếu trong thời gian dạm hỏi, xêu tết trước khi cưới xin, được coi như giai đoạn làm người t́nh (ư trung nhân) th́ người con gái cũng đă tỏ ra xứng đáng, trong việc khuyến khích hôn phu tu tỉnh học tập để lo danh phận và tương lai đôi lứa:
* - Anh về học lấy chữ nhu
* - Ba năm em đợi, chín thu em chờ.
Huống hồ trong cương vị một người vợ đưa lưng gánh vác giang sơn nhà chồng th́ việc an ủi chồng, khuyến khích chồng và giúp đỡ chồng, chỉ là một sự đương nhiên như một bổn phận không thể thoái thác. Đă có biết bao nhiêu thế hệ, người vợ tảo tần khuya sớm nuôi chồng ăn học để thành danh phận, làm rạng rỡ tông môn và góp công xây dựng tổ quốc ?
* - Canh một dọn cửa dọn nhà
* - Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm
* - Canh tư bước sang canh năm
* - Tŕnh anh dậy học chớ nằm làm chi
* - Một mai Chúa mở khoa thi
* - Bảng vàng chói lọi, kia đề tên anh
* - Bỏ công cha mẹ sinh thành
* - Công em tần tảo nuôi anh học hành.
Nh́n những hàng bia đá ghi danh các vị đại khoa tiến sĩ, tất không thể vô ơn làm lăng quên được những người vợ đáng kính đă tận tụy hy sinh, góp bao công sức để chồng thành công, thành danh và thành người.
Ước mơ “như chim liền cánh, như cây liền cành” là ước mơ chung của tất cả những cặp vợ chồng. Chia ly là một sự đau khổ vô cùng mà Chinh Phụ Ngâm đă phản ảnh trọn vẹn ư t́nh của người vợ trẻ gánh vác việc nhà khi chồng đi làm nghĩa vụ chinh nhân như:
* - Anh đi em ở lại nhà
* - Chăn tằm dệt lụa, mẹ già em lo.
Nếu hiểu rằng đàn bà là cái “thiên cổ chi mê”, tức nỗi say mê truyền kiếp của đàn ông, và anh hùng dù là mặt sắt cũng ngay v́ t́nh, th́ tất hiểu lư do của sự suy sụp của bao triều đại, lư do thân bại danh liệt của những kẻ làm lớn, cũng như làm láo, trốn tránh nhiệm vụ làm người và để từ đó, càng cảm phục thêm tấm ḷng cao đẹp của những người chinh phụ đóng của pḥng khuê, chờ chồng đi làm nghĩa vụ với non sông, c̣n ḿnh ở nhà thay chồng làm bổn phận với cha mẹ và con cái. Họ đă ư thức được tương quan nhân quả qua câu quốc phá gia vong, để chấp nhận hy sinh hạnh phúc cá nhân cho tập thể nước ṇi (phép công là trọng, niềm tây xá nào) và âm thầm sống làm tṛn nhiệm vụ:
* - Ngọt bùi thiếp đă hiếu nam
* - Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
* - Nay một thân nuôi già dạy trẻ
* - Mối quan hoài mang mể biết bao
Có một điều h́nh như đă thành quy luật là: “Chồng có chung th́ vợ mới trinh” t́nh yêu bao giờ cũng đi đôi với sự kính trọng đặt nền trên tương quan b́nh đẳng. Chẳng trách nào người xưa thường nói “yêu nhau v́ nết, trọng nhau v́ tài”. Nết là cái nhân cách, mà nhân cách được thể hiện trong việc chu toàn bổn phận làm người. Trốn tránh trách nhiệm là hèn nhát, mà đă hèn nhát th́ không c̣n ǵ để nói nửa ! Đó cũng là lư do để giải thích thái độ quyết liệt của những tiết phụ, liệt nữ, quyết sống xứng đáng với chồng “chàng đi theo nước, thiếp theo chàng” mà lịch sử cận đại có thể nêu danh như cụ bà Phan Bội Châu, nhũ danh Thái Huyên. Khi cụ Phan bị Pháp bắt giải về Việt Nam do sự chỉ điểm của Nguyễn Ái Quốc tức *** sau này. Khi đến thăm cụ Phan, Bà cụ chỉ vắn tắt vài lời: “vợ chồng ly biệt hơn hai mươi năm nay được một lần giáp mặt thầy, trong ḷng tôi đă măn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ mong cho thầy giữ được ḷng xưa. Thầy làm những việc ǵ mặc thầy, thầy chớ nghĩ đến vợ con”.
Như Cô Giang, người t́nh và là đồng chí của Nguyễn Thái Học, lănh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng khi tổ chức vỡ, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí bị Pháp xử chém, cô Giang đă trở về làng của Nguyễn Thái Học và tự sát bằng súng lục trong ư muốn được nh́n nhận và được chôn cất như con dâu họ Nguyễn.
Và c̣n biết bao nhiêu tiết phụ, liệt nữ khác đă sống và đang sống ở khắp nơi trên quê hương Việt Nam yêu dấu. Mẹ, vợ, người t́nh của những chiến sĩ cách mạng đang chiến đấu trên khắp nẽo đường đất nước để tiêu diệt chế độ Công sản tàn bạo. Họ là những vọng phu với niềm tin vô biên vào sức sống của chính ḿnh những ngày tháng trầm luân trong cuộc đời trôi nổi theo vận nước, cả trái tim và tấm ḷng, tâm trí ḥa vào hồn nước đi theo cùng chồng, những người mẹ, người vợ họ chấp nhận những thua thiệt để chỉ lo cho chồng, cho con và cho gia đ́nh, để mong được chia xẻ ngọt bùi chứa chan t́nh nghĩa.
Họ là những vọng phụ của thời đại, những người mẹ hiền đáng kính, những người vợ đáng thương, những người t́nh đáng yêu, họ không quên lời thề hứa, gian khổ cùng chịu, hạnh phúc cùng chia, để cùng nhau sánh bước đi xa hơn cả cuộc đời.
Làm mẹ, làm con, làm vợ, làm người t́nh, những giai đoạn được khoa học phân ra theo diễn biến tâm lư cơ thể học, th́ lại được người Việt Nam nh́n như những bổn phận phải chu toàn trong tiến tŕnh sống Làm Người để Thành Người. V́ được coi là một tiến tŕnh nên bổn phận đă không xung đột nhau mà là kế tiếp, bổ túc cho nhau nối kết thành một xâu chuỗi, một toàn thể. Sự xung đột quyền lợi giữa cá nhân và gia đ́nh, giữa nhà và nước như nhiều người đă cố chứng minh từ lâu nay, chỉ là biểu lộ một nhân cách không toàn vẹn, một lập trường chao đảo v́ thiếu căn bản, thiếu nền móng. Trái lại với cái nh́n của Đạo Hiếu Duy Nhân Cương Thường th́ đó chỉ là những nhiệm vụ xếp theo cấp bậc có tính biện chứng, đi từ thấp lên cao trong một tến tŕnh hướng thượng, trong cái tinh thần ở địa vị nào phải hoàn tất nhiệm vụ đó như “quân quân, thần thần, tử tử” vậy !
Thấm nhuần truyền thống Đạo Hiếu của dân tộc, người phụ nữ Việt Nam đă làm tṛn mọi nghĩa vụ đối với đất nước, đối với nhà một cách trọn vẹn và tuyệt đẹp, cuộc sống đối với người phụ nữ Việt ngoài những trách nhiệm nêu trên c̣n là cuộc hành tŕnh hoàn măn của sự chết, chết trong yêu thương, chết nhưng để lại danh thơm cho đời sau. Họ đă đứng thật thẳng, sống khiêm tốn trong sự giản dị đến khó nghèo, làm biểu tượng cho sự hy sinh cao đẹp của muôn đời, sự hy sinh cao đẹp của một ṇi t́nh đặt lư tưởng Tổ Quốc lên trên hết .
Như đă tŕnh bày ở trên, dân tộc Việt Nam là một ṇi t́nh, quê hương Việt Nam là một quê hương ân sâu nghĩa nặng, đúng hơn là một dân tộc biết yêu, biết ghét. Ư thức được sự yêu, sự ghét với những đối tượng rơ rệt, có lư do biện chứng rơ ràng. Yêu cái nên yêu và ghét cái đáng ghét làm hai nhân tính, một dân tộc biểu lộ t́nh cảm của ḿnh qua những khuôn phép của lễ nghĩa được kết tinh trong Đạo Hiếu.
Và cũng như đă tŕnh bày ở trên, Đạo Hiếu là một triết lư sống, một phương cách tu thân xử thế, sống Làm Người để Thành Người mà Nhân Chủ là lư tưởng phải đạt tới, như di huấn của tiền nhân đă để lại, truyền đời là bí quyết để giữ nước ṇi qua biểu tượng Tiên Rồng.
Định đề căn bản của Đạo Hiếu là Nhân Bản Hồ Tổ, người gốc từ tổ tiên, tức là truy nhận nguồn gốc Người của ḿnh (khác với Bọn người cho rằng người từ khỉ). Từ định đề căn bản này với việc truy nhận tổ tiên từ xa xưa đă đưa đến hệ luận: Gịng tộc, nước ṇi là một thực thể, sống động bất khả phân ly, ở đó quá khứ với những thế hệ đă qua, hiện tại với những thế hệ đang sống c̣n và tương lai với những thế hệ sẽ nối tiếp để Tiến-Hóa chỉ là Một, một gịng sinh mệnh như ngàn vạn con suối nhỏ đi ra sông và từ ngàn vạn con sông kia lại cuồn cuộn cuốn trôi về biển Đông
Trong gịng sinh mệnh dân tộc ấy người phụ nữ Việt Nam, như những thành phần làm nên toàn thể, trong cương vị làm con, làm người t́nh, làm vợ, làm mẹ trong gia đ́nh và cương vị làm dân trong phạm vi đất nước, cũng đă hoàn tất những bổn phận được giao phó một cách thập phần hoàn hảo, để làm cho dân tộc được trường tồn và tổ quốc thêm vinh quang
Trần Chính Trung
|
|
|
Bài viết rất hay! Tuy vậy các chữ Hán không hiện ra được. Nay tôi xin mạn phép ông (Vô Hữu / Trần Chính Trung) mà điền một số chữ Hán vào trong ngoặc đơn c̣n trống để các đọc giả tiện dụng lúc cần tra cứu.
Thiên Cơ
|
Quay trở về đầu |
|
|
ThienSu Hội Viên Đặc Biệt
Đă tham gia: 03 December 2002 Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 3762
|
Msg 7 of 7: Đă gửi: 23 February 2005 lúc 8:30pm | Đă lưu IP
|
|
|
Cảm ơn anh VoHuu và Thiên Cơ.
Bài viết thể hiện một giá trị tâm linh tha thiết về cội nguồn. Rất hy vọng tiếp tục được xem các bài viết của anh em.
Thân
Thiên Sứ
-----------------------
Tám nẻo sông Ngân sao lấp lánh
Một vùng trăng nước sóng chơi vơi
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|