Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 352 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Văn Hiến Lạc Việt (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Văn Hiến Lạc Việt
Tựa đề Chủ đề: Tín nguỡng thờ Thần Hoàng , Thành Hoàng Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 1 of 13: Đă gửi: 11 March 2005 lúc 12:28am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Thành hoàng là một trong những vị thần làng được vua phong tước vương, đại diện cho vua đứng đầu chư thần trong làng. Mỗi làng có nhiều thần làng, nhưng mỗi thời điểm mỗi làng vốn chỉ có 1 vị thành hoàng. Nhưng do nhiều làng, thôn hợp lại thành xă, nên trong các bản khai năm 1938, (các sưu tập Q40 18 và AE) (2) lư dịch các xă khai một xă có nhiều thành hoàng, có khi 4 thành hoàng, như trường hợp làng Đang Triều, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/II, 33), có xă c̣n nhiều thành hoàng hơn nữa...



V́ sao dân làng lại phải thờ thần làng? Thần làng là nhân vật nào?



“Đất có thổ công, sông có hà bá”.



Đó là tư duy người Việt, thể hiện bằng ngôn ngữ dân gian với thuật ngữ Hán Việt.



Đất, Nước là hai nguồn sống của người Việt. Ngày nay “Đất Nước” vẫn chỉ quốc gia, tổ quốc. Quốc gia, Tổ quốc là hai khái niệm vay mượn của văn hoá Hán. Hai khái niệm này chỉ “nước và nhà”, “nước của tổ tiên”, từ “Quốc” dịch ra tiếng Việt là “Nước” nhưng không phải là “nước sông”, trong chữ Hán “Thuỷ” là “nước”, “Quốc” chỉ lănh thổ của nhà vua theo tinh thần “Phổ thiên hạ mạc phi vương thổ” của người Trung Hoa cổ đại. Nội hàm của “Quốc gia” và “Tổ quốc” của người Hán vốn khác với “Đất Nước” của người Việt, nhưng nay đă trở thành những khái niệm đồng đẳng, đồng nghĩa.



Đất là cơ sở để trồng trọt sản xuất, nguồn sống và là nơi cư trú bao che con người khi sống và khi chết. Nước là nguồn nguyên liệu thiên nhiên không thể thiếu của cây lúa nước và là nguồn sống của con người.



“Lạy trời mưa xuống,

Lấy nước con uống,

Lấy ruộng con cày,

Lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đun bếp”.



Đất cùng Nước nuôi sống người Việt. Từ khi trồng lúa nước, người Việt đă nhận thức được tầm quan trọng sống c̣n của Đất, Nước cho nên đă thiêng hoá và nhân cách hoá thành Thần, mà ngày nay diễn đạt bằng chữ Hán là Thổ công (Thần Đất được phong tước Công) và Hà bá (Thần Sông được phong tước Bá). Đất Nước là Tổ quốc, đây là một tư tưởng nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là tâm linh tôn giáo của người Việt.



Đất là núi rừng và ruộng đồng. Núi rừng th́ có thần Núi, thần Đá, thần Cây. Ruộng đồng th́ có thần là người khai phá và bảo vệ làng. Nước th́ có sông và biển, nhưng người Việt trồng lúa là chính, chỉ đánh bắt cá nước ngọt trên sông, hoạt động trên biển không đáng kể, nên chủ yếu thờ thần Sông như các thủy thần, mà rắn là một. Long vương - thần Biển chủ yếu du nhập từ văn hoá Hán.



Dần dần phát triển thành thờ tất cả những thế lực thiêng nào ảnh hưởng đến cuộc sống b́nh an của họ. Phổ thần làng bao gồm: Thần Tự nhiên (nhiên thần), thần Người (nhân thần) và thần linh Tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo). Nhưng không phải làng nào cũng có đủ 3 hệ thần linh đó.



Nhà nước “phong kiến” nhận thấy vai tṛ thần làng trong đời sống tâm linh dân làng, bèn tổ chức kê khai, phong thần và phong thành hoàng.



Thành hoàng là một khái niệm Hán, các triều đại phong kiến nước ta đă tiếp thu khái niệm đó. Nhưng thành hoàng Việt Nam khác thành hoàng Hán. Thành hoàng Hán là vị thần bảo hộ một ngôi thành giúp cho quan binh đồn trú chống kẻ địch tấn công chiếm thành. Kẻ địch thường là nông dân khởi nghĩa, như vậy thành hoàng bảo vệ vua chống nhân dân. C̣n thành hoàng Việt Nam là vị thần làng vốn do dân làng suy tôn, v́ có công với làng, về sau triều đ́nh phong kiến lợi dụng uy tín của thần làng mà phong một vị làm thành hoàng đại diện cho vua cai quản các thần và dân chúng trong làng. Đó là chính sách hợp nhất thần quyền với vương quyền rất thông minh và được ḷng dân.



Thành hoàng nước ta có hai chức năng: Hộ Quốc, Tí Dân. Chức năng Tí Dân là chức năng cơ bản v́ đó mà dân làng thờ. Thần làng pḥ hộ nhân dân, đem lại mưa thuận gió hoà, xă hội an ninh, không bị tai ương thiên tai địch hoạ. Chức năng Hộ Quốc là đại diện cho vua cai trị các thần làng và nhân dân, tham gia chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Tiêu chuẩn phong thành hoàng trước tiên là “Hộ Quốc” tức bảo vệ quốc gia, là chống xâm lăng và bảo vệ ngôi vua. Các vị hàn lâm đại học sĩ xem xét thành tích của các vị thần và bổ sung lư lịch sao cho thể hiện được chức năng Hộ Quốc để vua phong cấp. Các thần tích do Nguyễn Bính soạn năm 1572 thể hiện rất rơ tinh thần này. Thành hoàng đại diện cho vua thường được phong tước vương, quản lư phần Hồn; lư trưởng đại diện cho vua quản lư phần Xác của dân làng.



Tư liệu về thần làng và thành hoàng khá phong phú. Ngoài tư liệu rải rác trong các sách cũ th́ có các sưu tập lớn như sưu tập mang kư hiệu Q40 18 hiện lưu trữ tại Thư viện Khoa học xă hội ở Hà Nội đă được biên tập thành Thư mục thần tích thần sắc (TMTTTS); sưu tập AE hiện lưu trữ tại Thư viện Viện Hán Nôm ở Hà Nội đă biên soạn thành Bảng tra thần tích theo địa danh làng xă (BTTT). Hai thư mục này rất có ích cho người nghiên cứu thần làng và thành hoàng.



Trong tập tư liệu điều tra dân tộc tiến hành năm 1938 mang kư hiệu Q4018 được Thư viện Viện Khoa học xă hội biên soạn Thư mục thần tích thần sắc th́ thần làng được phân loại thành Nhân thần, Thiên thần, Thủy thần, Sơn thần, Thành hoàng. Do tŕnh độ nhận thức hạn chế của các ông lư trưởng (lập bản khai) nên có sự nhầm lẫn trong phân loại như thiên thần thành nhân thần, ví dụ thần núi Cao Sơn, có làng liệt vào nhân thần, có làng liệt vào thiên thần...



Không có điều kiện thống kê toàn bộ số thần trong TMTTTS mà chỉ thống kê 3 tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Thanh Hoá làm ví dụ. Tôi chia Nhân thần thành hai loại: Nhân thần vô danh và nhân thần hữu danh. Số lượng nhân thần vô danh (NTVD), nhân thần hữu danh (NTHD), thiên thần (TT), Thuỷ thần (ThT), Thành hoàng (TH), thần Phật giáo (PG), thần Đạo giáo (ĐG) như sau:



Tỉnh        NTVD    NTHD    TT&n bsp;       ThT       TH  & nbsp;    PG      ; ĐG   Tổng số

Bắc Ninh   614       ; 160       252  ;      47   &nb sp;    36        04      26   &n bsp;1139       

Hà Đông    921        92      &nbs p; 358       116        58    &nbs p;   24      51   &n bsp;1620

Thanh Hoá 61        09        15        02        02        03      01   &n bsp; 93





Bảng thống kê này dựa trên giả định mỗi tổng là một làng cổ, nên lấy tổng làm đơn vị thống kê. Một vị thần được thờ nhiều thôn xă trong một tổng như Cao Sơn chỉ được tính là 1 vị. Nhưng khi cũng là Cao Sơn được thờ trong một tổng khác th́ lại được tính 1 vị nữa... Như vậy, số thần được thờ tương đối phổ biến như Cao Sơn, Quư Minh, Tản Viên, Liễu Hạnh, Đông Hải hay Trần Hưng Đạo... Số liệu tổng kết toàn tỉnh chỉ là số lần các vị thần đó được thờ chứ không phải số lượng thần được thờ. Nói chung số liệu tuyệt đối thiên thần, thủy thần và nhân thần hữu danh không chính xác, số liệu thống kê nhiều hơn số thần đó.



Thống kê cho thấy một điều: Số lượng thần làng là nhân vật vô danh, người có công với làng là số lượng áp đảo trong thần làng Việt Nam, đông gấp 5, gấp 10 lần số nhân thần hữu danh (nhân vật lịch sử). Có họ mới có làng, có làng mới có nước. Và người dân mỗi làng đều đời đời nhớ ơn họ dù năm tháng trôi qua, họ tên và lư lịch công tích của họ đă phai mờ.

Nhân thần hữu danh kể từ thời Hùng Vương đến thời Nguyễn th́ chỉ có các nhân vật lịch sử chủ yếu, như: Lạc Long Quân, Âu Cơ, Hùng Vương, An Dương Vương, Trưng Trắc, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Quyền, các sứ quân, các vua quan thời Lư, Trần, Lê... Tất cả chỉ khoảng 100 nhân vật. Cộng thêm một số nhân vật không phải Việt như Lă Gia, Triệu Đà, Trọng Thuỷ, Cao Biền, Sĩ Nhiếp, Thạch Sùng, Đào Hoàng... Họ thường được thờ ở nhiều làng, nhiều tỉnh trong cả nước.



Nhân thần vô danh th́ chủ yếu gắn bó với địa bàn gốc nhỏ bé, phần lớn chỉ là một đơn vị hành chính cơ sở (mà tôi) gọi là làng. Làng phát triển thành tổng. Cho nên, nói chung có thể coi một tổng trong bảng điều tra 1938 tương đương một làng. Nhân thần vô danh này lại chia thành 2 nhóm. Một nhóm có đủ tên họ h́nh dung được là một con người bằng xương bằng thịt. Nhóm này vẫn c̣n gặp khá nhiều trong TMTTTS, nhiều khi là một, hai người cùng một họ, nhiều khi c̣n thần tích sắc phong. Nhóm thứ hai chỉ c̣n tên không có họ hay một danh hiệu nào đó không định h́nh được nhân vật. Nhóm thứ hai lại đông nhất. Nhóm này có thể quá cổ cho nên những người làm bản khai năm 1938 không c̣n nhớ được tên họ, đôi khi là một cái tên người, đôi khi một mỹ tự nào đó như công chúa, tướng công, dực thánh, uy dũng...



Nhóm thứ nhất có lẽ gần đây hơn, nên trong tâm trí người năm 1938 c̣n rơ nét. Một số c̣n thần tích như Đặng Oánh thờ ở làng Tháp Dương, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 76). Một số có cả thần tích lẫn sắc phong như Lưu Quư Công thờ ở làng Đạo Sử, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh (Q4018/IV, 45). Theo chế độ phong thần th́ các thần đều được bao phong và chia thành ba cấp thượng, trung, hạ đẳng thần, ban sắc phong cho phép dân làng thờ. Trong số các thần một làng th́ chọn một vị làm thành hoàng, thường là thượng đẳng thần được phong tước vương và được ghi danh hiệu cùng mỹ tự trong sắc phong. Nhân thần vô danh được phong thành hoàng không ít, đặc biệt có trường hợp nữ cũng được phong thành hoàng như Ngô Thị Nữ Trung có thần tích và 5 sắc phong là thành hoàng làng Hoàng Kênh, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV.72). Có những nhân thần được phong thành hoàng ở một thời điểm nào đó, nhưng không được tái phong trong “khoá” sau. Hoặc giả cùng một vị thần mà ở xă này được phong thành, ở xă khác lại không được phong. Một số sắc phong Cao Sơn đă biết cho thấy t́nh h́nh đó. Thành hoàng không phải quan tước vĩnh hằng mà có thời gian và không gian.



Dưới đây thống kê so sánh thành hoàng 3 tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Thanh Hoá trong 2 bộ sưu tập Q4018 và AE.



I- Trong sưu tập Q4018 biên soạn thành TMTTTS:



1- Tỉnh Hà Đông có 59 vị thành hoàng chia thành 2 loại. Loại không rơ tên chỉ ghi Thành Hoàng, Bản Cảnh Thành Hoàng v.v... gồm 25 trường hợp; loại rơ tên: 34 trường hợp.

Số thành hoàng rơ tên này có một số là nhân vật có tên hiểu được, chấp nhận được là người thật. Nhóm này gồm có Nguyễn Nến, La Sơn, An Lô, Trần Tuệ, Trần Minh, Nguyễn Hựu. (Theo tôi) đó là những người có công với làng mà không phải là nhân vật lịch sử, thuộc phạm trù nhân thần vô danh. Trong TMTTTS tỉnh Hà Đông không có thành hoàng là nhân thần hữu danh tức nhân vật lịch sử.



2- Tỉnh Bắc Ninh có 36 thành hoàng chia thành 2 loại. Loại không rơ tên: 7 trường hợp; loại rơ tên: 29 trường hợp.



Trong số thành hoàng rơ tên th́ có 2 trường hợp là nhân thần hữu danh như Lă Gia, Linh Lang. Có nhiều nhân thần vô danh trong đó có Minh Lang, Ngô Thị Nữ Trung, Đồ Chiết, Chư Thành...



3- Tỉnh Thanh Hoá có 2 thành hoàng th́ có 1 vị là thiên thần, 1 vị là nhân vật lịch sử Trung Quốc.



II- Trong sưu tập AE đă được biên soạn Bảng tra thần tích theo địa danh làng xă (BTTT) có 2821 mục từ cho 22 tỉnh từ Nghệ An ra Bắc. Khi (tôi) lập bảng thống kê thành hoàng trong sưu tập AE th́ BTTT chưa xuất bản. Thử lấy 3 tỉnh trên làm ví dụ, từ trong bảng thống kê 382 thành hoàng (mà tôi) đă nhặt ra từ sưu tập AE th́:



1- Tỉnh Hà Đông có 98 thành hoàng, nhiều hơn danh sách trong TMTTTS 39 vị - 98 vị đó chia thành 2 loại. Loại không rơ tên có 22 trường hợp; loại rơ tên có 76 trường hợp.



Trong 76 trường hợp loại rơ tên đó, có 3 nhân thần hữu danh tức nhân vật lịch sử như Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp), Linh Lang, Đằng Châu sứ quán (Phạm Pḥng Át). C̣n lại là những nhân thần vô danh, trong đó có 14 vị: Đỗ Lang, Đỗ Minh, Vũ Văn An, Đỗ Tam Lang, An Duy, Đặng Xuân, Bùi Sĩ Lượng, Nguyễn B́nh Công, Nguyễn Uy, Nguyễn Hồng, Trịnh Thắng Lực, Lê Hoàng, Lê Vơ, Lê Uy...



2- Tỉnh Bắc Ninh có 47 thành hoàng, nhiều hơn sưu tập TMTTTS 11 vị. 47 vị này chia thành 2 loại th́ loại không rơ tên có 20 trường hợp; loại rơ tên có 27 trường hợp.



Trong số 27 vị rơ tên đó có 1 nhân thần hữu danh là nhân vật lịch sử Nguyễn Linh Công (1 trong 12 sứ quân); c̣n lại là nhân thần vô danh trong đó có Bá Minh, Trọng Minh, Quư Minh, Lân Nhĩ, Lữ Hựu.



3- Tỉnh Thanh Hoá có 60 thành hoàng, nhiều hơn số thành hoàng trong TMTTTS những 58 vị. Trong số 60 vị đó có 26 trường hợp không rơ tên và 34 trường hợp rơ tên.



Trong số 36 thành hoàng rơ tên có 1 nhân thần hữu danh là nhân vật lịch sử Đinh Tiên Hoàng, c̣n lại là nhân thần vô danh trong đó có Nguyễn Quư, Cao Minh...



Tuy nhiên, tất cả đều là số liệu thống kê không đầy đủ, không chính xác, có một số lầm lẫn kể cả về chính tả lẫn danh từ. Lấy một ví dụ về Bắc Ninh. Nay theo BTTT thử thống kê tại tỉnh Bắc Ninh th́ thấy:



Tỉnh Bắc Ninh có 171 mục từ, thống kê được 313 thần làng, trong đó có 248 vị không được phong thành hoàng và 65 vị được phong thành hoàng. Như vậy số thành hoàng thống kê lần này nhiều hơn số thống kê theo AE trong danh sách 382 thành hoàng là 18 vị. Có thêm một vị thành hoàng nhân vật lịch sử là Tô Hiến Thành (AEa7: 18), số 17 vị c̣n lại không có thêm tư liệu ǵ mới. Số nhân thần hữu danh không được phong thành hoàng trong lần thống kê này có Lă Gia, Triệu Đà, Phụng Hiểu, Đoàn Thượng, Trần Quang Khải, Phùng Hưng Lă Gia được thờ ở một làng huyện Gia B́nh (AEa7: 10) nhưng không được phong thành hoàng, c̣n trong sưu tập Q4018 th́ Lă Gia được phong thành hoàng ở một làng huyện Gia Lâm (Q4018/IV,45).

Dẫn một trường hợp so sánh để thấy tư liệu các sưu tập không hoàn toàn khớp nhau, nhưng tinh thần cơ bản về phân loại thần làng và thành hoàng không thay đổi, dù rằng TMTTTS ghi chép của Bắc Ninh có 1139 vị thần c̣n BTTT lại chỉ có 313 vị. Cho nên tư liệu của 2 sưu tập lớn này chưa phải toàn bộ tư liệu, càng không phải hoàn toàn nhất trí cho mọi trường hợp.

Bất chấp tất cả các sai biệt, khiếm khuyết tư liệu th́ tín ngưỡng thần làng vẫn không thay đổi.



“Lệnh làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”.



Và Đất th́ có Núi Rừng cùng Ruộng Đất. Núi rừng có thần Núi, thần Đá, thần Cây. Ruộng đất th́ có thần Người. Nước th́ có Sông và Biển. Sông có Thuỷ thần, thần Rắn, Biển có Long Vương.



Thần Núi nổi tiếng nhất và được thờ hầu như khắp nước là thần Tản Việt thuộc núi Ba V́, tỉnh Hà Tây ngày nay. Bộ ba Cao Sơn-Tản Viên-Quư Minh với nhiều dị bản khác nhau và là huyền thoại Sơn Tinh-Thuỷ Tinh với nhiều cách lư giải về t́nh yêu, về chống lũ... hấp dẫn ḷng người.



Thần Cây thường được biết trong dân gian nhiều nhất là thần cây đa, thần cây gạo, nhưng được phong thành hoàng th́ có Linh Mộc (cây Thiêng) ở xă La Chàng, tỉnh Hưng Yên. Đó là mô h́nh thần điện Cây Thiêng - Ḥn Đá (hay ông B́nh Vôi). Linh Mộc được phủ lên một số dấu chân thiêng tiêu biểu cho Đế Thích (AEa3:4). Trong TMTTTS ghi thờ Mộc Thần ở làng Bối Khê, phủ Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (Q40 18/II, 76); thờ Mộc Thần ở làng Đào Xá, phủ Ứng Hoà, tỉnh Hà Đông (Q4018/II,87), thờ Đô Thiên Cây Gạo ở làng Bà Khê, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh (Q4018/II, 25), thờ Cây Gạo ở làng Công Đ́nh, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh (Q4018/II,24); thờ Đại Mộc Linh Thần ở làng Nguyệt Viên, phủ Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá (Q4018/XXIII,16)... nhưng không ghi là thành hoàng.



Thần Đá th́ nổi tiếng nhất là thần đá được nhân cách hoá thành Thạch Khanh trong Việt Điện U Linh và Lĩnh Nam Chích Quái. Chuyện kể về việc Lư Thường Minh dựng Tam Thanh Quán tổ chức thi tài giữa Thạch Khanh và Thổ Lệnh để chọn một vị đưa vào đạo quán. Hiện c̣n khá nhiều tư liệu về thờ Đá. Tượng Mỵ Nương cụt đầu ở Cổ Loa (ngoại thành Hà Nội) chính là thần điện Cây thiêng Ḥn Đá được nhân dạng hoá thành Mỵ Nương. Trong TMTTTS có ghi thờ Thạch Thần ở làng Phi Liệt, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV,5); thờ Thạch Hoàng ở làng Xuân Ái, huyện Vơ Giàng, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV,57)...



Thần Rắn nổi tiếng nhất là Linh Lang thờ ở đền Voi Phục, thành phố Hà Nội. Chuyện kể rằng, Linh Lang là con vua nhà Lư có công dẹp ngoại xâm rồi biến thành con thuồng luồng dài trăm trượng ḅ xuống Hồ Tây. Thần Rắn khá phổ biến ở vùng đồng trũng với mô típ trứng rắn nở ra người hùng làng, rồi trở lại thành rắn. Trong TMTTTS có ghi thờ thần Hổ Mang ở làng Thượng Tŕ, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (Q40 18/II,68)... Thần Xà tức Bạch Xà thờ trong đ́nh Vĩnh Ninh, huyện Thanh Tŕ, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) (Q40 18/II,64) là người học tṛ của Chu Văn An, vốn là thái tử Long Vương nể lời thầy phun mực lên trời hoá mưa cứu hạn dân xung quanh đầm Mực, ngày nay vẫn c̣n. Một cặp Rắn Tổ là Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng theo đúng mô típ Rắn phủ người trinh nữ sinh ra trứng, nở ra Rắn Thần trở thành Vật Tổ của người Việt.



Thuỷ thần khá nhiều, nhưng nổi tiếng nhất là Trương Hống, Trương Hát tức hai con Rắn thần gọi là Ông Dài, Ông Cụt mà huyền thoại gán cho là vị thần đă ngâm thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...” giúp Lư Thường Kiệt đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt. Thần được thờ phổ biến ở khu vực sông Cầu, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Thần Câu Mang là con rắn hay con cua biển pḥ hộ dân chài được thờ làm thành hoàng làng An Kiện, tỉnh Hà Đông (AEa2:77) và các làng thuộc tỉnh Ninh B́nh tại cửa biển Thần Phù (AEa15: 11, 13, 17, 29, 33).



Long Vương là thần Biển th́ không nhiều lắm, có lẽ chủ yếu chịu ảnh hưởng văn hoá Hán hơn là sản phẩm của người Việt trồng lúa nước, bắt thuỷ sản nước ngọt.



Nhân thần là nhóm thần làng đông đảo nhất. Tỉnh Bắc Ninh có 774 nhân thần trong số 1139 thần làng chiếm hơn 68% tổng số; Hà Đông có 1013 nhân thần trong số 1620 thần làng chiếm 62% tổng số; Thanh Hoá có 70 nhân thần trong số 93 thần làng chiếm hơn 75% tổng số. Tất nhiên đó chỉ là những con số tương đối. Nhưng nhân thần chiếm hơn 50% thần làng là điều hiện thực. Bởi v́ chính con người tạo lập nên làng, cho nên họ là chủ thể của thần làng. Không có con người th́ không có làng, không có làng th́ không có Nước. Tính nhân bản của tín ngưỡng thần làng Việt Nam ở đó. Qua một số trường hợp có thể nghiên cứu được th́ trong số những nhân thần vô danh đó có không ít người khai hoang lập ấp thuộc một cá nhân, một ḍng họ hay nhiều ḍng họ khai hoang lập ấp sáng lập Làng.



Lấy vài ví dụ, theo TMTTTS th́ tỉnh Bắc Ninh có 614 vị nhân thần vô danh trên tổng số 774 nhân thần, tỉnh Hà Đông có 921 vị trên tổng số 1013 nhân thần, tỉnh Thanh Hoá có 61 vị trên tổng số 70 nhân thần. Trong loại nhân thần vô danh này có nhiều người khai hoang lập ấp, gồm có hai nhóm. Một nhóm do các quan lại tổ chức khai hoang theo chính sách doanh điền của triều đ́nh như Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Hữu Cảnh, Bùi Tá Hán... Nhóm thứ hai mới là nhóm chính gồm những cá nhân, ḍng họ b́nh dân khai hoang lập ấp, hoặc c̣n tên họ đầy đủ, hoặc chỉ c̣n tên, hoặc chỉ c̣n một mỹ tự nào đó. Khó xác định những nhân thần vô danh nào đă thấy trong sưu tập Q4018 là người khai hoang lập ấp. Các nhân thần vô danh như Phạm Tuấn, Phạm Hùng ở thôn Bến làng Liễu Khê, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 53); Nguyễn Gia Đa, Nguyễn Thị Mễ, Nguyễn Gia Châu ở Khe Chợ làng Liễu Ngạn, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 53), Vũ Hiền, Vũ Hán, Vũ Tố, Lê Phả, Lê Bảo, Trương Dực, Trương Nha, Đặng Hoàng, Đặng Tạo ở làng Phù Ninh, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 5) là ví dụ về nhân thần vô danh c̣n đủ danh tính. Các nhân thần vô danh như Dũng Công, Hùng Công, Lục Công ở làng Lăng Ngâm, huyện Gia B́nh, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 4). Như Phương, Tuấn, Nghiêm, Phúc, Hồng ở làng Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh (Q40 18/IV, 21) là những nhân thần vô danh, chỉ c̣n tên không có họ. Những ví dụ như vậy nhan nhản trong TMTTTS. Tuy lư lịch không c̣n, nhưng khẳng định chắc chắn chính họ là những người có công với làng, mà chủ yếu là công “lập ấp” tức lập làng. Có làng mới có nước: Làng Nước. Phải chăng những vị nhân thần vô danh có đủ họ tên và hai ba người của một hay hai ba họ như trường hợp ở Khe Chợ, thôn Bến, Phù Ninh dẫn trên là những người khai hoang lập ấp?



Những thần làng có công khai hoang lập ấp đă biết chắc chắn th́ có Hoàng Lệ Mật, Trần Lựu, Trịnh Kim Tiền.



Hoàng Lệ Mật (C̣n gọi Hoàng Thái Tể) là người làng Lệ Mật có công cứu công chúa nhà Lư được vua cho phép vào thành khai hoang lập ấp thành khu Thập Tam Trại nay c̣n mộ và được thờ ở các làng Vĩnh Phúc, Liễu Giai, Kim Mă, Ngọc Khánh thuộc quận Ba Đ́nh, thủ đô Hà Nội.



Trần Lựu là một tướng nhà Trần về khai hoang lập làng Thanh Hà nay vẫn c̣n được thờ ở đ́nh Thanh Hoà, quận Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội. Trong đ́nh có tấm bia (niên đại 1430) kể công tích của ông.



Cả hai ông đều chưa phát hiện sắc phong thành hoàng.



Có sắc phong thành hoàng là Trịnh Kim Tiền. Ông giữ một chức quan nhỏ, khai hoang lập ấp rồi ở lại đó, được phong thành hoàng ấp Quyết B́nh tỉnh Ninh B́nh (AEa4:17).



Trong số 382 thành hoàng (mà tôi) đă thống kê được, có lẽ Đỗ Lang, Đỗ Minh, Vũ Văn An, Đặng Xuân, Nguyễn Uy, Nguyễn Hồng, Trịnh Thắng Lực, Lê Hoàng, Lê Vơ, Lê Uy... là những ông có công lập ấp được phong thành hoàng.



Cũng thuộc hệ nhân thần c̣n thờ những thế lực nào uy hiếp cuộc sống b́nh yên của làng như thờ ông ăn mày, người chết đuối, người chết bất đắc kỳ tử, tên ăn trộm chính bị dân đánh chết... V́ sau khi xảy ra những sự kiện đó th́ ngẫu nhiên làng “động”, cho nên phải thờ để “cầu an”.



Ngoài ra c̣n thờ cả những quan lại Hán cai trị áp bức như Cao Biền, Sĩ Nhiếp... là v́ chịu ảnh hưởng tư tưởng văn hoá Hán và v́ những nhân vật ngoại bang đó hoặc đă làm việc ǵ có ích cho dân Việt như Sĩ Nhiếp dạy học, Cao Biền đánh quân Nam Chiếu... hay v́ đặc điểm nào đó như Thạch Sùng giàu nứt đố đổ vách bị phá sản, Triệu Đà, Lă Gia chống Hán... Những nhân vật Hán đó được thờ do sự có mặt của các ông thầy đồ “tú mền, tú kép” từng học Bắc sử nay không được làm quan về làng “gơ đầu trẻ”. Văn hoá dân gian nước ta “nhiễm” nhiều yếu tố văn hoá Hán cũng v́ các ông đồ này.



Trong cuốn Thành hoàng làng Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh dẫn 2 tư liệu về thành hoàng sống. Một, theo Nếp cũ - tín ngưỡng Việt Nam của Toan Ánh th́ vào khoảng năm 1938-1940 ở xóm Dinh, thị xă Vĩnh Yên có một người chăn dê lấy sữa tên là Nguyễn Đ́nh Cận. Mỗi khi ông Cận đi ngang đ́nh làng Khai Quang, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Yên th́ ngai thần đổ. Chức dịch cầu mộng và xem bói th́ thành hoàng cũ báo cho biết đă về thiên đ́nh giữ chức vụ khác, nay ông Nguyễn Đ́nh Cận làm thành hoàng làng này. Dân làng bèn tôn ông Cận làm thành hoàng, nhưng ông Cận vẫn ở nhà chăn dê. Hai, theo Quỳnh Đôi hương biên th́ vào khoảng năm 1894 - 1895 ông Hoàng Mậu thi đỗ phó bảng làm quan. Khi về hưu th́ làng Yên Lai, huyện Nông Cống “động”. Dân làng đi bói, thầy bói nói thành hoàng đă xuất ngoại phải mời ông Hoàng Mậu làm thành hoàng. Do đó, ông được dân làng này tôn vinh. Nhưng ít lâu sau, ông về quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu sống như mọi người b́nh thường cho đến chết. Đây là một hiện tượng xưng tôn của dân làng, là “thành hoàng dân gian”, cũng như không biết bao nhiêu “vua”, “hoàng hậu”, “công chúa” cũng dân gian hoá như thế, trong các bản khai thần làng. Không phải là thành hoàng được nhà nước phong kiến sắc phong (kể cả “thành hoàng mua” như trong cuốn Văn hoá dân gian cổ truyền: Đ́nh Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Hồ Tường đă phát hiện ở Nam Bộ có trường hợp chỉ cần gửi ra triều đ́nh Huế đơn xin phong thành hoàng kèm theo một mandat 2 đồng bạc th́ được cấp sắc phong). Rơ ràng đến thời cận đại, hiện tượng thần làng hay thành hoàng đă suy tàn. Như có “Nàng Tây Trắng, ông Tây Trắng” được thờ ở thôn Băng, làng Ba La, tổng Thanh Mai, Châu Mai, tỉnh Hoà B́nh (Q40 18/XVII, 41-43). Và (tôi nhớ đă đọc được) trong tư liệu về một làng nọ ở tỉnh Thái B́nh đă mời ông công sứ người Pháp làm thành hoàng làng nhưng viên công sứ không nhận lời.



Nhân thần, nhân vật lịch sử có tên trong sử sách là các tướng lĩnh, hoàng đế, hoàng hậu, vương tử, công chúa các triều Lư, Trần, Lê... Tôi chỉ mới phát hiện một ḿnh vua Đinh Tiên Hoàng được phong thành hoàng ở Thanh Hoá (AE b2:14). C̣n các vua khác đều không phát hiện được sắc phong thành hoàng. Phải chăng v́ vua là người phong thành hoàng, cao hơn thành hoàng nên không phong thành hoàng cho vua?



Một loại thần làng đặc biệt là Thần Nơ Nường, thờ sinh thực khí nam nữ (Nơ Nường), thuộc hệ tư tưởng Phồn thực vốn h́nh thành từ thời đại kim khí Việt Nam. Tín ngưỡng phồn thực được biểu hiện bằng h́nh hươu đực hươu cái, ḅ đực ḅ cái trên một số trống đồng và đặc biệt cụ thể là 4 cặp nam nữ đang giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh. Trong thần làng c̣n thấy các trường hợp sau đây:



Một, thần linh thờ ở xă Tức Mặc, tỉnh Nam Định gồm có 14 vị vua Trần và 3 thành hoàng. Vị thành hoàng thứ nhất, Uy Linh Chấn Quốc đại vương là một bộ tướng nhà Trần. Vị thứ hai, Cao Mang đại vương tức thần Rắn. Vị thứ ba, “Thực Côn công chúa tên là Con Nường” (TMTTTS ghi là Côn Mường) là một cô gái bị Tô Định ép duyên, bèn theo Bà Trưng. Bà được thờ ở thôn Tráng Kiện, xă Tức Mặc, c̣n sắc phong vào năm Thành Thái nguyên niên (1889) và năm Duy Tân thứ 3 (1909). Chữ “Thực” có nghĩa “đưa vào”, “Côn” có nghĩa “cây gậy ngắn”, bản khai ghi rơ tên Nôm là Con Nường. Như vậy là Nơ Nường. (Q40 18/VII, 43).



Hai, làng Nối, xă Văn Phú, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, thờ Phạm Thị Lương, người làng Ủng đánh giặc hy sinh được phong Lương Lang công chúa. Trong nội cung thờ một bộ cối chày bằng đá. Khi tế thần, ông tiên chỉ đeo cối trước ngực, tay cầm chày đá. Khi người đông xướng tây xướng xướng:



“Cái này là cái ǵ

Làm thế nào làm thế này”



th́ ông tiên chỉ cầm chày đâm vào cối và toàn bộ đèn trong đêm lễ đều bị tắt, mọi người “tự do thoải mái”. Sau này, các cụ bị làng khác chế diễu là thờ “Con Đĩ”, gái làng hay chửa hoang nên mời thầy phù thuỷ về làm phép trục thần này, rước Đoàn Thượng về thờ (đó là tư liệu điền dă của tôi). C̣n trong TMTTTS th́ ghi làng Nối (Văn Nhuế), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, thờ 1 nhân thần là Bà Nối (Lương Lang) (Q418/XII,3). Lương Lang công chúa đánh giặc hy sinh, có lẽ là phần “bổ sung” thành tích hộ quốc, của các ông hàn lâm đại học sĩ.



Tín ngưỡng Phồn thực này c̣n thấy trong nhiều lễ hội các làng như Gia Thanh (Vĩnh Phú), Dị Nậu (Vĩnh Phú), hội Chen (Bắc Ninh), hội Sơn Đồng (Hà Tây), hội Lim (Bắc Ninh)... đều thể hiện Nơ Nường dưới những dạng khác nhau. Đặc biệt hội Lim có việc rước 36 Nơ Nường và cướp Nơ Nường, ai cướp được Nơ th́ sẽ sinh con trai, ai cướp được Nường th́ sẽ sinh con gái, gái làng có chửa trong hội này không bị làng phạt vạ.



Nghiên cứu thần làng có ư nghĩa to lớn cho nên không nên chỉ dừng ở nghiên cứu thành hoàng. Nhưng hiện nay thành hoàng c̣n nhiều tư liệu chữ viết cũng như hoạt động tế tự nhất, nên nghiên cứu là đúng. C̣n thần làng, ngay năm 1938, tức cách ngày nay hơn 60 năm, lư dịch các làng đă không c̣n nhớ nữa, tuy đa số họ c̣n biết chữ Hán, song cũng có một số lư dịch đă viết bản khai bằng chữ Pháp như bản khai ở một số tổng các huyện Nga Sơn của tỉnh Thanh Hoá!



Càng ngày tư liệu thần làng sẽ càng nhanh chóng mai một. Hy vọng có nhà nghiên cứu để tâm nghiên cứu.



Đó là di sản văn hóa phi vật thể lớn của dân tộc, đáng được tiếp tục nghiên cứu. Chủ đề thần làng vẫn c̣n rộng mở.



Nguyễn Duy Hinh


Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 2 of 13: Đă gửi: 11 March 2005 lúc 12:29am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

1) Q4018/IV, 44-45: Là kư hiệu thư viện của Trường Viễn Đông Bác Cổ - Pháp. Q4018 là tên hồ sơ (bộ thứ nhất, bao gồm thần tích, thần sắc của 2029 xă, thôn trong 26 tỉnh thành, từ Miền Trung trở ra Bắc); IV là tập IV (mỗi tập thường gắn với một tỉnh); 44-45 là số thứ tự của các xă thôn trong tỉnh đó. Xin tham khảo cuốn: “Thư mục thần tích, thần sắc” Trung tâm Khoa học xă hội và nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin KHXH, HN, 1996.

2) AE a2:77: cũng là kư hiệu của Trường Viễn Đông Bác Cổ. AE là tên hồ sơ (bộ thứ hai, bao gồm những bản sao thần tích của 2026 xă, thôn trong 22 tỉnh Bắc + Bắc Trung bộ); a là kư hiệu các tỉnh thuộc Bắc bộ, VD: a2 = Hà Đông; a3 = Hưng Yên; a4 = Ninh B́nh...); b là kư hiệu của các tỉnh Nghệ An (b1), Thanh Hoá (b2)... 77 là số thứ tự các xă-thôn trong tỉnh đó.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 3 of 13: Đă gửi: 11 March 2005 lúc 10:21pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Chào Ông Thiên Khôi
Tôi thắc mắc nhiều về từ "dân gian", nhiều người hỏi tôi mà tôi không biết cách giải thích, v́ sao không thường gọi là "dân chúng" mà lại thường gọi là dân "gian", có nghĩa là ǵ? nếu ông biết xin vui ḷng chỉ giáo.
Thành thật cảm ơn
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 4 of 13: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 7:02am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Ông Thienkhoitimvui trích bài của ông Nguyễn Duy Hinh viết:

@Thành hoàng là một trong những vị thần làng được vua phong tước vương, đại diện cho vua đứng đầu chư thần trong làng.
Sai! Không phải thành hoàng nào cũng được phong tước và ko phải thành hoàng nào cũng được phong tước Vương. Chính đoạn tư liệu sau của bài viết của ông Nguyễn Duy Hinh tự phản bác đoạn này.

@ Tiếp:
V́ sao dân làng lại phải thờ thần làng? Thần làng là nhân vật nào?

Đây là một vấn đề được đặt ra. Chúng ta xem ông Nguyễn Duy Hinh lư giải thế nào với sự giới thiệu của ông Thienkhoitimvui?

* “Đất có thổ công, sông có hà bá”.
Đó là tư duy người Việt, thể hiện bằng ngôn ngữ dân gian với thuật ngữ Hán Việt.

Lạ nhỉ? Tư duy của người Việt mà phải đợi có âm Hán Việt mới thể hiện được tư duy sao?

* Đất, Nước là hai nguồn sống của người Việt.

Ơ! Vậy người Tây nguồn sống là khoai tây chăng? Một lối tư duy “phi sứ”!

*Ngày nay “Đất Nước” vẫn chỉ quốc gia, tổ quốc. Quốc gia, Tổ quốc là hai khái niệm vay mượn của văn hoá Hán. Hai khái niệm này chỉ “nước và nhà”, “nước của tổ tiên”, từ “Quốc” dịch ra tiếng Việt là “Nước” nhưng không phải là “nước sông”, trong chữ Hán “Thuỷ” là “nước”, “Quốc” chỉ lănh thổ của nhà vua theo tinh thần “Phổ thiên hạ mạc phi vương thổ” của người Trung Hoa cổ đại. Nội hàm của “Quốc gia” và “Tổ quốc” của người Hán vốn khác với “Đất Nước” của người Việt, nhưng nay đă trở thành những khái niệm đồng đẳng, đồng nghĩa.

Vậy trước khi có người Hán; người Việt gọi vùng lănh thổ của ḿnh là Đất Nước. Nếu quả là bị Hán hoá th́ nó phải là Thuỷ Thổ chứ nhỉ? Híc!

* Đất là cơ sở để trồng trọt sản xuất, nguồn sống và là nơi cư trú bao che con người khi sống và khi chết. Nước là nguồn nguyên liệu thiên nhiên không thể thiếu của cây lúa nước và là nguồn sống của con người.
“Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước con uống,
Lấy ruộng con cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp”.
Đất cùng Nước nuôi sống người Việt.

Ơ! Thế người Tây trồng khoai tây và lúa ḿ ko cần đất nước chăng?

*Từ khi trồng lúa nước, người Việt đă nhận thức được tầm quan trọng sống c̣n của Đất, Nước cho nên đă thiêng hoá và nhân cách hoá thành Thần, mà ngày nay diễn đạt bằng chữ Hán là Thổ công (Thần Đất được phong tước Công) và Hà bá (Thần Sông được phong tước Bá). Đất Nước là Tổ quốc, đây là một tư tưởng nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là tâm linh tôn giáo của người Việt.

Lạ thật! Vậy người nước khác không nhận thức được tầm quan trọng sống c̣n của Đất, Nước hay sao? Ăn khoai tây và lúa ḿ nên bị lú sao?

* Đất là núi rừng và ruộng đồng. Núi rừng th́ có thần Núi, thần Đá, thần Cây. Ruộng đồng th́ có thần là người khai phá và bảo vệ làng. Nước th́ có sông và biển, nhưng người Việt trồng lúa là chính, chỉ đánh bắt cá nước ngọt trên sông, hoạt động trên biển không đáng kể, nên chủ yếu thờ thần Sông như các thủy thần, mà rắn là một. Long vương - thần Biển chủ yếu du nhập từ văn hoá Hán.

Lạ nhỉ! Người Việt hoạt động trên biển ko đáng kể? Nên Long Vương phải nhập khẩu? Trong khi đó tất cả các công tŕnh nghiên cứu đều thống nhất là chính nguồn gốc người Hán chủ về săn bắn; chăn nuối du mục mới ít hoạt động trên biển chứ nhỉ? Lại một tư duy mới nữa đây!

Quái nhỉ? Xem đến đây th́ chẳng thấy một sự lư giải hợp lư nào cho việc xuất hiện tục thờ thành hoàng cả. Vậy mà tác giả đă đột nhiên kết luận:

* Dần dần phát triển thành thờ tất cả những thế lực thiêng nào ảnh hưởng đến cuộc sống b́nh an của họ. Phổ thần làng bao gồm: Thần Tự nhiên (nhiên thần), thần Người (nhân thần) và thần linh Tôn giáo (Phật giáo, Đạo giáo). Nhưng không phải làng nào cũng có đủ 3 hệ thần linh đó.


@Tiếp:
Thành hoàng là một khái niệm Hán, các triều đại phong kiến nước ta đă tiếp thu khái niệm đó. Nhưng thành hoàng Việt Nam khác thành hoàng Hán. Thành hoàng Hán là vị thần bảo hộ một ngôi thành giúp cho quan binh đồn trú chống kẻ địch tấn công chiếm thành. Kẻ địch thường là nông dân khởi nghĩa, như vậy thành hoàng bảo vệ vua chống nhân dân. C̣n thành hoàng Việt Nam là vị thần làng vốn do dân làng suy tôn, v́ có công với làng, về sau triều đ́nh phong kiến lợi dụng uy tín của thần làng mà phong một vị làm thành hoàng đại diện cho vua cai quản các thần và dân chúng trong làng. Đó là chính sách hợp nhất thần quyền với vương quyền rất thông minh và được ḷng dân.

Lại Hán! Như vậy; cứ theo cách lập luận của ông Nguyễn Duy Hinh th́ trước Hán hoá người Việt gọi thành Hoàng của họ bằng ǵ? Vậy tục thờ thành Hoàng của người Việt có trước khi bị Hán hoá hay sau? Nếu có trước Hán hoá th́ phải gọi là cái ǵ chứ nhỉ? Nếu sau Hán hoá th́ sao người Hán lại ko có tục này?
Chán nhỉ?
Thiên Sứ

-------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dai.
Để áng phù vân đọng nét buồn.



Sửa lại bởi ThienSu : 12 March 2005 lúc 7:07am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
dinhvantan
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 20 September 2003
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 6262
Msg 5 of 13: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 8:52am | Đă lưu IP Trích dẫn dinhvantan

ThienSu đă viết:

@Thành hoàng là một trong những vị thần làng được vua phong tước vương, đại diện cho vua đứng đầu chư thần trong làng.
Sai! Không phải thành hoàng nào cũng được phong tước và ko phải thành hoàng nào cũng được phong tước Vương.

Theo tôi biết th́ tất cả thành ḥang đều có sắc phong của Vua. Chức tước th́ không nhứt thiết là Vương nhưng đều có chức tước . Dân làng tôn thờ thành ḥang cũng nhờ có săc phong nầy.
Thành ḥang có thể là Ông khai canh của làng đó .
Quay trở về đầu Xem dinhvantan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi dinhvantan
 
nkd833
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 04 December 2004
Nơi cư ngụ: Angola
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 1303
Msg 6 of 13: Đă gửi: 12 March 2005 lúc 9:30am | Đă lưu IP Trích dẫn nkd833

Cháu cũng từng đọc một bài về tục thờ Thành hoàng, quả thật là Thành hoàng hầu hết được sắc phong của vua. Có một số vị cá biệt (cháu không nhớ chính xác nên không lấy dẫn chứng cụ thể ở đây - t́m lại tư liệu đă, hihihi) th́ được dân làng tự thờ tụng xưng là Thành hoàng do có công ǵ đấy với dân làng (không phải quan tướng triều đ́nh) nhưng sau vẫn được vua sắc phong. Có thể là đến đời vua sau hoặc sau nữa chứ không chắc chắn nhất thiết phải là đời vua cùng thời. Nhưng sắc phong th́ chính xác hơn, c̣n phong tước vương th́ chỉ được gọi là hầu hết (almost) thôi chứ không thể gọi là tất cả (all). Có lẽ sai sót trong công tác biên dịch hoặc in ấn chăng?

Note: Đây là bài bác TK trích đăng của tác giả Nguyễn Duy Hinh mừ, đâu phải bác ấy tự viết đâu! Tội ǵ các pác phải mệt người bởi cái ông ở tận chỗ nảo chỗ nào, địa chỉ, số điện thoại... hổng pít! hihihi, đọc để tham khảo thêm cho biết vậy thôi! Lỗi do nhà xuất bản mừ!
Quay trở về đầu Xem nkd833's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi nkd833
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 7 of 13: Đă gửi: 13 March 2005 lúc 7:39am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Trong bài viết của ông Nguyễn Duy Hinh do ông Thienkhoitimvui giới thiệu đă viết:

@Thành hoàng là một trong những vị thần làng được vua phong tước vương, đại diện cho vua đứng đầu chư thần trong làng.
Thiên Sứ đă viết:
Sai! Không phải thành hoàng nào cũng được phong tước và ko phải thành hoàng nào cũng được phong tước Vương.Chính đoạn tư liệu sau của bài viết của ông Nguyễn Duy Hinh tự phản bác đoạn này.


Đinh Văn Tân viết:

Theo tôi biết th́ tất cả thành ḥang đều có sắc phong của Vua. Chức tước th́ không nhứt thiết là Vương nhưng đều có chức tước . Dân làng tôn thờ thành ḥang cũng nhờ có săc phong nầy.
Thành ḥang có thể là Ông khai canh của làng đó .


Nhưng chính bài viết của ông Nguyễn Duy Hinh do Ông Thiênkhoitimvui giới thiệu lại viết:

@Tỉnh Bắc Ninh có 171 mục từ, thống kê được 313 thần làng, trong đó có 248 vị không được phong thành hoàng và 65 vị được phong thành hoàng. Như vậy số thành hoàng thống kê lần này nhiều hơn số thống kê theo AE trong danh sách 382 thành hoàng là 18 vị. Có thêm một vị thành hoàng nhân vật lịch sử là Tô Hiến Thành (AEa7: 18), số 17 vị c̣n lại không có thêm tư liệu ǵ mới. Số nhân thần hữu danh không được phong thành hoàng trong lần thống kê này có Lă Gia, Triệu Đà, Phụng Hiểu, Đoàn Thượng, Trần Quang Khải, Phùng Hưng Lă Gia được thờ ở một làng huyện Gia B́nh (AEa7: 10) nhưng không được phong thành hoàng, c̣n trong sưu tập Q4018 th́ Lă Gia được phong thành hoàng ở một làng huyện Gia Lâm (Q4018/IV,45).

@ Cả hai ông đều chưa phát hiện sắc phong thành hoàng.


@ Không phải là thành hoàng được nhà nước phong kiến sắc phong (kể cả “thành hoàng mua” như trong cuốn Văn hoá dân gian cổ truyền: Đ́nh Nam Bộ, tín ngưỡng và nghi lễ Huỳnh Ngọc Trảng


Thiên Sứ
-------------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại.
Để áng phù vân đọng nét buồn



Sửa lại bởi ThienSu : 13 March 2005 lúc 7:48am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
Nha_Quynh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 82
Msg 8 of 13: Đă gửi: 13 March 2005 lúc 8:29am | Đă lưu IP Trích dẫn Nha_Quynh

Dù sao đi nữa tôi nghĩ Nguyễn Duy Hinh là một học giả đáng kính. Tư liệu của ông ta rất phong phú, Hán học của ông rất căn bản (ông tốt nghiệp khoa sử ĐH Bắc Kinh năm 1962).

Ông đă giúp chúng ta đến gần hơn nhiều tài liệu, tuy rằng sự sáng tạo và suy luận của chính ông trên những tài liệu đó quá mờ nhạt nhưng ông là viên gạch không thể thiếu cho những công tŕnh nghiên cứu tiếp theo ông.

Nếu ông Thiensu có ǵ phản bác th́ xin ông hăy viết những bài viết hoàn chỉnh và cho công bố rộng răi, tôi tin khi đó ông sẽ thấy đóng góp của Nguyễn Duy Hinh trong chính tác phẩm của Thiensu, đó là sự phong phú của tư liệu.

Chúc ông Thiensu vui vẻ.
Quay trở về đầu Xem Nha_Quynh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Nha_Quynh
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 9 of 13: Đă gửi: 13 March 2005 lúc 11:34am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Bạn Nha Quỳnh thân mến!
Tôi đă thấy chính ông Thienkhoitimvui cho Thiên Việt có t́nh cảm với tôi nên ủng hộ luận điểm của tôi. Nhưng Thiên Việt và tôi đă thống nhất: T́nh cảm và chân lư phải có phân biệt. Thiên Việt cũng nói thẳng điều này. Bây giờ v́ t́nh cảm và sự tôn trọng với ông Nguyễn Duy Hinh nên bạn ủng hộ ông ta chăng?
Tôi rất ḱnh trọng Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương và Giáo sư Bùi Văn Nguyên. Nhưng ông ta sai tôi vẫn phản bác.
Chân lư và t́nh cảm là hai vấn đề khác nhau. Tôi ko học tập được ǵ ở ông Nguyễn Duy H́nh trong bài viết mà ông Thienkhoitimvui đưa lên. C̣n ai thấy đúng với khả năng hiểu biết của ḿnh; cứ việc ca ngơi. Đây là học thuật cầu t́m chân lư; chứ ko phải chỗ để vỗ tay khen ngợi nhau phong long.
Chúc bạn vui vẻ và sáng suốt trên con đường cầu t́m chân lư.
Thiên Sứ
----------------
Trăng xưa đă vỡ màu hoang dại
Để áng phù vân đọng nét buồn.



Sửa lại bởi ThienSu : 13 March 2005 lúc 11:39am
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
Nha_Quynh
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 23 October 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 82
Msg 10 of 13: Đă gửi: 13 March 2005 lúc 6:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn Nha_Quynh

Tôi chẳng thấy t́nh cảm ǵ ở đây cả. Tôi đă nói rồi, ông Nguyễn Duy Hinh rất tuyệt vời ở sự phong phú về tư liệu. Tư liệu là t́nh cảm ư?
Quay trở về đầu Xem Nha_Quynh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Nha_Quynh
 
ThienSu
Hội Viên Đặc Biệt
Hội Viên Đặc Biệt
Biểu tượng

Đă tham gia: 03 December 2002
Nơi cư ngụ: France
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 3762
Msg 11 of 13: Đă gửi: 14 March 2005 lúc 4:48am | Đă lưu IP Trích dẫn ThienSu

Nha Quỳnh viết:
Tôi chẳng thấy t́nh cảm ǵ ở đây cả. Tôi đă nói rồi, ông Nguyễn Duy Hinh rất tuyệt vời ở sự phong phú về tư liệu. Tư liệu là t́nh cảm ư?
Cũng có thể như vậy. Nhưng ở đây là bài viết về tục thờ Thành Hoàng. Chúng ta đang bàn về những luận điểm của người viết.
Thiên Sứ
Quay trở về đầu Xem ThienSu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi ThienSu
 
thienkhoitimvui
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 30 November 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 2445
Msg 12 of 13: Đă gửi: 16 March 2005 lúc 3:10am | Đă lưu IP Trích dẫn thienkhoitimvui

Gửi thienNhan

thuật ngữ có tính qui ước nhất định. về nghĩa đen, "dân gian" = "trong dân chúng", ta có thể hiểu là "truyền trong dân chúng", "bảo lưu trong dân chúng". Khi nói "văn học dân gian" "văn hóa dân gian" là với nghĩa ấy.

thuật ngữ "dân gian" tương ứng với thuật ngữ "folklore".

Khi dùng chữ "dân chúng" như "văn hóa đại chúng" th́ nó có nghĩa tương tự như chữ Popular.

Nghĩa của Folklore và Popular khác nhau.
Quay trở về đầu Xem thienkhoitimvui's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thienkhoitimvui
 
thiennhan
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 09 November 2004
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 634
Msg 13 of 13: Đă gửi: 17 March 2005 lúc 10:15pm | Đă lưu IP Trích dẫn thiennhan

Rất cảm ơn ông đă giải thích rơ ràng, v́ trước đây các con tôi có hỏi mà tôi chưa hiểu được rơ, nên giải thích cho các cháu 1 cách chưa thỏa đáng.Cảm ơn ông
chúc Ông vui khỏe
thiện nhân
Quay trở về đầu Xem thiennhan's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi thiennhan
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 5.8164 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO