Tác giả |
|
ngocnguyet Hội viên

Đă tham gia: 11 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:26am | Đă lưu IP
|
|
|
NHÂN-SINH-QUAN PHẬT-GIÁO
A. MỞ ĐỀ:
Đă là người, không ai không băn-khoăn tự hỏi ḿnh do đâu mà có? sự hiện-diện của ḿnh trên cơi đời nầy như thế nào? hoàn-cảnh của ḿnh sống như thế nào? v.v… Thật là bao nhiêu vấn-đề, bao nhiêu câu hỏi làm người ta băn-khoăn, thắc mắc, ăn không yên, ngủ không yên.
Để giải-quyết các vấn-đề trên, các triết-học và tôn-giáo đều có đưa ra những lời giải đáp; những giải đáp hay biện-minh về “vấn-đề sống” ấy, gọi là nhân-sanh-quan.
Là một tôn-giáo, có một triết-học rất cao, đạo Phật tất nhiên cũng có dành một phần lớn để nói về nhân-sinh-quan.
Nhân-sinh-quan ấy như thế nào? Đó là một vấn-đề mà mỗi Phật-tử chúng ta không thể không biết đến được. Sự hiểu biết này có thể giúp chúng ta nhận chân được những ưu-điểm và khuyết-điểm của con người và giúp chúng ta sắp-đặt cuộc đời và sống một cuộc sống có ư-nghĩa và lợi lạc cho ḿnh và cho xă-hội.
B. CHÁNH ĐỀ:
I. NHÂN-SINH-QUAN DO ĐÂU MÀ CÓ ?
Trước tiên, vấn-đề làm chúng ta thắc mắc nhiều nhất là: Con người do đâu mà có?
Để giải đáp vấn-đề này, đạo Phật có thuyết “mười hai nhân duyên”.
Trong mười hai nhân-duyên ấy, vô-minh là căn-bản. Vô-minh là ǵ? Tức là đối với sự lư, không rơ biết được đúng như thật. Do đó mà sanh ra mê lầm, thật cho là giả, giả cho là thật, điên-đảo hư vọng chấp ngă, chấp pháp, phân biệt ḿnh, người; rồi theo cảnh thuận nghịch mà khởi phiền-năo, nên cũng gọi là “hoặc”. Từ mê-hoặc mà tạo tác ra các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy gọi là “Hành”, chi thứ hai trong mười hai nhân-duyên.
Do nghiệp lành dữ huân-tập chứa nhóm thành ra “nghiệp thức”. Nghiệp thức này theo chỗ huân-tập thuần thục rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là món “Thức”, chi thứ ba trong mười hai nhân-duyên.
Trong thai mẹ, gom tinh huyết làm nhục thể, tâm thức cùng nhục-thể ḥa hiệp gọi là “Danh-sắc” đó là chi thứ tư trong mười hai nhân-duyên. (Danh: Tâm-thức; Sắc: Nhục thể).
Từ Danh-sắc lần lần tượng đủ sáu căn, gọi là “Lục-nhập”. Đó là chi thứ năm trong mười hai nhân-duyên.
Sau khi ra khỏi thai, sáu căn xúc đối với sáu trần, biết nóng, lạnh, đau, êm v.v… nên gọi là “Xúc”, chi thứ sáu trong mựi hai nhân-duyên.
Do sự xúc chạm ấy, mà tâm dần dần sanh niệm phân biệt rồi có những sự giác thọ vui, khổ v.v… Đó gọi là “Thọ”, chi thứ bảy trong mười hai nhân-duyên.
Do sự cảm thọ vui, khổ, khởi niệm ưa ghét, chấp đắm ấy mà sanh ra có “Ái”, chi thứ tám trong mười hai nhân-duyên.
V́ tham ái nên t́m cầu nắm lấy cái hay cái tốt, cái ưa thích. Đó gọi là “Thủ”, chi thứ chín trong mười hai nhân-duyên.
Muốn cho thỏa-măn chỗ nhiễm trước, ưa thích của “Ái” và “Thủ”, nên phải tạo nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm quả-báo vị-lai, nên gọi là “Hữu”, chi thứ mười trong mười hai nhân-duyên.
Đă có “Hữu” là cái mầm giống, th́ thế nào cũng có “Sanh” là chi thứ mười một trong mười hai nhân-duyên.
Đă có “Sanh” th́ phải có “Lăo và Tử” là chi thứ mười hai trong mười hai nhân-duyên.
Trong mười hai nhân-duyên “Vô-minh” thuộc về “hoặc” và “Hành” thuộc “nghiệp. Đó là nhơn quá-khứ. Do nhân quá-khứ ấy mà có năm quả “Khổ” hiện-tại là: Thức, Danh-sắc, Lục-nhập, Xúc và Thọ.
Do quả “Khổ” hiện-tại nói trên mà khởi ra “Hoặc” là ái thủ và tạo “Nghiệp” là hữu, để làm nhơn cho quả “Khổ” sau là sanh và lăo-tử ở vị-lai.
Như thế, từ nhơn quá-khứ, sang quả hiện-tại, và quả hiện-tại, lại làm nhơn cho quả tương-lai, ba đời cứ tiếp xoay vần măi măi không dứt, như một bánh xe xoay tṛn, lên xuống, xuống lên không dừng nghỉ.
Cứ đó mà suy ra th́ biết rằng, người chẳng những sống một đời trong hiện-tại này, mà trước kia, về quá-khứ đă trải qua không biết bao nhiêu đời sống rồi. Và sau nầy, trong vị-lai, cũng sẽ c̣n vô lượng đời sống nữa. Người hiện sống đây để rồi chết, mà cái chết lại là cái nhơn làm thành đời sống vị-lai.
Như thế, sống, chết nối tiếp theo nhau không bao giờ dứt, như những là sóng, cái này tan đi để hiệp lại một cái khác, không bao giờ hết nếu c̣n gió. Con người, nếu gió vô-minh c̣n thổi, th́ ḍng sanh mạng c̣n lưu chuyển, lăn trôi, ch́m nổi măi.
II. THÂN NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO ?
Sau khi chúng ta đă biết nguyên-nhân gây tạo ra sự hiện-diện của người trên cơi thế này rồi, một câu hỏi khác hiện đến trong đầu óc chúng ta là: Thân con người như thế nào? Đẹp-đẽ hay xấu xa, có thật hay giả, đáng quí hay đáng khinh?
Để giải đáp vấn-đề này, Đạo Phật có nhiều thuyết, tuy theo Tiểu-thừa hay Đại-thừa, tôn phái này hay tôn phái khác. Những thuyết ấy, mặc dù nhiều, nhưng không trái chống nhau, mà chính là bổ khuyết cho nhau, làm cho vấn-đề được tŕnh bày trong mọi khía cạnh, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ ngoài đến trong, từ tướng đến thể, từ biệt tướng đến tổng tướng…
Dưới đây chúng tôi xin tuần tự tŕnh bày các quan-niệm ấy từ Nhơn-thừa đến Thiên-thừa, qua Nhị-thừa và cuối cùng đến Đại-thừa, để quư đọc-giả có một quan-niệm đầy đủ về vấn-đề này.
1. Quan-niệm Nhơn-thừa.
Thân người ḥa-hợp, do tinh huyết cha mẹ cùng thần-thức, góp bốn chất: Cứng, ướt, nóng, động mà thành. Chủ-động trong ấy là thức (nghiệp thức). Bởi nghiệp-thức người nhóm các duyên hội-hợp làm thân người. Nghiệp-thức ấy có ra do bởi sự gây tạo v́ đời trước huân-tập nơi tự-tâm kết thành công-năng có tánh-cách người, có thể cảm đặng thân người. Như vậy là từ nơi tự-tâm tạo tác hành-nghiệp, các hạnh-nghiệp ấy trở lại huân-tập thành công-năng nghiệp người nơi tự-tâm, cho đến khi công-năng nghiệp-thức ấy thuần-thục, gặp đủ các trợ duyên, chiêu cảm hiện ra có thân người. Vậy thân-thể không phải tự nhiên không nhân mà có, cũng không phải ai khác làm ra, mà chính do tự-tâm tạo, tự-tâm biến hiện, nên có câu: “Tâm tạo nhứt thế” và câu “Tam giới hữu t́nh, giai tùng nghiệp hữu”. Thân thể theo nghiệp nhơn mà có, nghiệp nhơn hữu hạn, nên thân thể có lúc ră rời. Trong khi thân thể c̣n, từ nơi tự-tâm tạo tác các hạnh-nghiệp để gây thành công-năng chiêu cảm thân sau, và thân sau này sẽ thành hiện-tại; khi thân trước đă theo nghiệp báo mà tiêu diệt. Cho nên Phật-giáo đối với sự chết, chỉ là sự xoay biến của nghiệp thức nơi tự-tâm, để thay thân cũ, lấy thân mới.
Trong khi mọi người, v́ sự hiểu biết cạn hẹp, đă lầm tưởng thân thể hoạt-nhiên sanh, và sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt.
Chết để thay đổi thân mới, sanh để thế thân cũ, xoay dần nơi ṿng chết và sanh, sanh và chết, thay thân cũ lấy thân mới, lấy thân mới để thế thân cũ, như người thay y-phục.
Vậy thân thể của người hiện nay, chỉ là một thân trong vô lượng thân. Người đă thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước, và sau này người cũng sẽ phải thay đổi không biết bao nhiêu thân nữa, nếu không một niệm “hồi quang phản chiếu”.
Sự sanh hiện-tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh; và sự chết ngày nay cũng chỉ là một phen chết trong vô lượng lần chết.
Phật-giáo đối với sự sanh, không tham cầu, v́ nó là vô-thường không lâu không bền; đối với sự chết, không sợ hăi, v́ nó không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay cũ đổi mới. Không tham cầu, không hăi-sợ, nên Phật-giáo đối với thân thể khác hẳn với thường t́nh trong đời.
Người ta thấy nơi người đă thật hiểu Phật-giáo, khi chết như khi sống, lúc đau như lúc mạnh vẫn an ḥa b́nh-tĩnh.
Thân hiện có đây, là cái quả của nghiệp-nhân đă tạo ra từ trước, và thân sẽ có sau này là do sự tạo nghiệp bây giờ, nên người trong Phật-giáo đương thọ-lănh báo-thân hiện-tại, dầu khổ hay vui đều nhận chịu một cách vui vẻ và nhẫn-nại, v́ có kêu cầu chán nản thế nào, cũng không thể làm ǵ được một khi đă kết quả, mà nhứt là chỉ lo lắng trau-dồi cái nhân, là đều có thể đổi xấu ra tốt, để hưởng lấy quả báo tốt đẹp ở tương lai, tức là tu tập các pháp lành, cùng dẹp trừ tâm niệm hành-vi bạo ác.
Cơi người thuộc về đường lành, mặc dầu chưa khỏi khổ, nhưng có thể tu tạo nghiệp nhơn để hưởng lấy nhiều hạnh-phúc ở thân người. Người ta sẽ bảo, hoặc sẽ cảm thấy sự vui thú, sự hạnh-phúc ở nơi người xinh đẹp khoẻ mạnh, đầy đủ tất cả nhu dụng, và sự khổ năo sự tai hại ở nơi người xấu-xí, đau yếu, thiếu-thốn các vật dụng.
Trong hội nói pháp ở Ta-Kiệt-La Long-Cung, đức Phật đă chỉ cho đại-chúng biết sự sai khác nơi thân thể của mọi loài, chư Thiên thân thể tốt đẹp uy-nghiêm, hàng Bát-bộ sức hùng mạnh mẽ, loài rồng cá thân h́nh thô bỉ xấu xa, bọn cua trạnh tanh hôi hèn yếu. Đều là thân thể, tại sao có tốt xấu khác nhau; - Đó là lúc b́nh sanh nơi thân, khẩu, ư thi-thố lành hay gây tạo dữ. Nghiệp lành cảm thân tốt đẹp; nhơn dữ chiêu-cảm quả xấu xa, do tự-tâm tạo rồi tự thọ. Muốn chúng-sanh được thân thể tốt đẹp khoẻ mạnh, để hưởng hạnh-phúc trong cơi người, trong kinh Thiện-sanh đức Phật cặn-kẻ chỉ dạy cách ăn ở hợp pháp trong gia-đ́nh về nhơn-đạo, lấy năm giới cấm làm căn-bản. Bất sát sinh để gây tạo thiện nhân, cảm thành quả-thể xinh đẹp khoẻ mạnh sống lâu ở tương-lai. Không trộm-cắp gian tham để làm thành nghiệp lành, hưởng quả ấm-no đầy đủ cho thân thể tốt đẹp. Trừ tà-dâm để chiêu cảm thân h́nh đoan trang, cùng hưởng phúc gia-đ́nh. Tránh vọng-ngữ để được giọng nói điều ḥa, trong trẻo. Và kiên rượu để khỏi phạm mấy điều trên, cùng gây dựng ở hiện-tại và vị-lai, bộ trí-óc sáng suốt.
2. Quan-niệm Thiên-thừa.
Trọn vẹn năm giới cấm, nhân-đạo đă hoàn-thành, đào-tạo chắc chắn nghiệp-chủng người tốt lành nơi tự-tâm, và sau này khi thuần thục sẽ cảm lấy thân-thể loài người tốt đẹp mạnh khỏe, trường thọ, giọng hay, óc sáng, để hưởng hạnh-phúc nơi cơi người. Trên cơi người c̣ng có các cơi Trời, về thân-thể, mọi phương-diện đều hơn ngời, không như thân người phải thai-sanh nhớp nhúa, khổ sở v́ các vị Trời được hóa-sanh. Thân-thể cực kỳ xinh đẹp, cao lớn giống nhau, các căn đầy đủ, thấy suốt, ghe xa, được thần thông tự-tại theo ư muốn, đồ nhu-dụng tự nhiên có, cho đến khỏi tất cả bịnh tật. Thân-thể thường khỏe mạnh luôn, vẫn măi trẻ-trung không già; không như thân người đều không tránh khỏi nổi đau-khổ v́ bịnh hoạn, bức bách v́ già yếu. Thân-thể các loài trong thế-gian, chỉ có thân Trời là hơn hết, từ những điều tốt đẹp của thân, nhẫn đến sự thọ dụng.
Từ đâu chiêu-cảm được sự thù-thắng ấy? - Cũng như đă nói ở trước, tạo nghiệp-nhơn ǵ th́ tự tâm sẽ ǵn giữ nghiệp-nhơn ấy, và sẽ chuyển hiện ra quả đúng như vậy.
Như vật ngay ở dưới ánh-sáng mặt trời, th́ bóng của vật ấy thẳng; trái lại, vật ấy bóng ắt cong, muốn được bóng thắng thỉ phải sữa sang cho vật ấy thật ngay. Cũng như muốn được hưởng thân Trời, phải vun trồng nghiệp-nhơn Trời. Phật dạy 10 điều lành gọi là “Thập-thiện-nghiệp” tức là các đức tánh tốt, phát sanh từ thân, khẩu, ư tưởng, thật hành hoàn toàn 10 nghiệp lành. Tự-tậm trong sạch, th́ nghiệp-chủng có công-năng tốt đẹp, sẽ cảm-thọ thân thù-thắng, không bịnh tật, khỏi già nua, trường thọ ở cơi Trời.
Đức Phật chỉ dạy những nguyên-nhân và quả-báo cùng sự tu-hành, để khỏi bị những thân xấu-xa, khổ sở mà được cảm-hiện những thân cường-tráng, vui vẻ tốt tươi của người và Trời; chính là “Nhơn-thừa Phật-giáo” cùng “Thiên-thừa Phật-giáo” đối với thân thể.
3. Quan-niệm Nhị-thừa.
a) Thân bất-tịnh.
Lấy con mắt của hàng Nhị-thừa, xem nơi thân-thể, chỉ là một giống nhơ nhớp, do nhiều chất nhơ-uế ḥa-hiệp. Các Ngài chỉ cảm thấy nó là hiện-tượng của muôn điều khổ sở, buộc ràng không có mảy may chi đáng gọi là vui thú, nên có câu “thân vi khổ bổn”. Và thân-thể là chỗ nhơ, góp tất cả sự nhơ-nhớp, cùng để rồi ră-rời tan-nát, nên có câu “thị thân bất-tịnh, cách nang xú-uế”, và “thị thân vô-thường, tất qui tán diệt”. Thử nghiệm xem những sự thống-khổ ở trong thế-gian từ đâu mà có? - Phải chăng do nơi thân-thể; các sự thống khổ như: lạnh, nóng, đói, khát, mỏi, đau, nghịch trái v.v… đều thuộc về nơi thọ, mà thọ có ra là bởi lục-căn tiếp-xúc với lục-trần, thân-thể là chỗ nương của lục-căn, nên sự khổ thọ lấy thân làm gốc. Vả lại, người đời không ǵ khổ bằng: lúc sanh đau đớn kêu la, khi già lụm-cụm run-rẩy, lúc ốm đau yếu-đuối bức-rức, khi chết giăy-giụa hăi-hùng, bổn việc đại khổ ấy, lại là cái khổ sanh trụ, dị, diệt, của thân-thể.
Xưa bốn thầy Tỳ-kheo cho ở đời sự sợ-sệt, sự nóng-giận, sự dâm-dục cùng sự đói khát là khổ nhứt. Đă bị Phật quở trách v́ chưa xét đến thân là gốc của muôn điều khổ. Không thân th́ các sự khổ: sợ, giận, dâm, đói từ đâu mà có. Thấu-đáo thay cho câu “thân vi khổ bổn” và câu “thân như oan thù”. Sự nhớp nhơ hôi hám của thân-thể không thể tả xiết. Người ta không nhớ quá-khứ, không nghĩ đến vị-lai, chỉ ḍm nơi hiện-tại và dùng nào là quần áo phủ che, nào là xạ hương xông-ướp để tự làm mê-hồn ḿnh, trước đống hôi tanh bất-tịnh.
Thử nh́n đến các chất từ cửu-khiếu (9 lỗ cống) trong thân chảy ra, tự ḿnh cũng đă quá gớm của ḿnh, chưa nói đến với thân của người khác, nên trong kinh có câu “chư khổ lưu bất-tịnh”.
Làn da mỏng là một cái đăy mà trong đó chứa đầy những: máu, mủ, thịt, xương, đàm dăi và đại tiểu tiện v.v… C̣n ǵ ghê-tởm bằng khi một thân người bị lột cả da và bị banh xẻ. Câu “cách nang xú uế” đă từ miệng Phật thốt ra để cảnh-tỉnh kẻ say đắm. Thân nhơ nhớp hiện tại từ đâu mà có? - Từ ngày trước: Điểm tinh, giọt huyết ḥa lẫn trong khi nghiệp-thức vọng-tưởng mê-cuồng với sự giao-hợp của cha mẹ mà kết thành. Sư nhơ dáy của tinh huyết, sự đáng nhờm của bào thai, thật không bút nào tả hết, cho đến sau này nghiệp-thức đă xa-ĺa, thân thể sẽ sanh cứng, sẽ śnh-chương, sẽ nứt nỡ ra lần để làm ở cho đám giời tửa, làm chỗ cho ruồi kiến bu đậu, và để tiết ra những chất nhơ nhớp nhứt và hôi tanh nhứt. Lúc mới kết hợp: vọng-tưởng tinh huyết bất-tịnh; khi to lớn: đàm đạnh, phân đái máu mủ bất-tịnh. Lúc chết tan ră hôi-tanh bất-tịnh. Như vậy thân người là một vật bất-tịnh nhứt trong các vật bất-tịnh. Từ đầu đến cuối, khi mới tượng sanh đến lúc hư mất, thảy đều toàn là bất-tịnh.
Trong thân nhơ nhớp bất-tịnh, đáng ghê-tởm nhất ấy, c̣n có một sự mà nếu thấy hiểu, người ta sẽ không c̣n ham muốn ǵ về thân thể. Từ lúc nào đến lúc nào, bao giờ cũng ráp-ranh đến chỗ tiêu-diệt. Đang trẻ trung, thắm-thoát đă già nua. Từ cái mạnh-mẽ tươi-tắn, không bao lâu đổi thành yếu-đuối, mệt nhọc, nhăn nheo. Trong khoảng thời-gian ấy, không biết bao nhiêu là sự thay đổi vô-thường. Thân năm trước không phải là thân năm nay, thân tháng trước không phải là thân tháng tới, thân ngày nay không phải là thân ngày hôm qua, cho đến từng giờ từng phút, từng sát-na cũng đă đổi khác. Đă có đổi thay, tất phải có lúc tiêu-diệt, không ai có thể dừng được sự thay đổi nhanh chóng của thân, và không có ǵ bảo-đảm được cái họa-trạng hấp tấp mà mọi người đều sợ: “cái chết”. Mạng sống không khác chỉ mành treo chuông, chỉ chực đứt dây là rớt bể, nên có câu: “nhơn mạng hại hô-hấp gian”. Một hơi thở ra mà không hít vào, tức là đời sống của thân không c̣n, giờ tan-ră sắp đến. Than ôi! Thân là cội khổ, thân là bất-tịnh, thân là vô-thường, có ǵ đáng sợ, có ǵ đáng chán bằng thân. Ở nơi thân không có mảy-mún chi có thể tạm gọi là đáng tŕu-mến, đáng thương tiếc!
Người tu hạnh Nhị-thừa, quán-sát thấy thân như vậy, nên nhàm chán nơi thân, ghê sợ sanh tử vô-thường, gớm nhờm hôi tanh nhớp-nhúa, do đó nên gấp lo tự lợi, vội mong thoát-ly thân, mà tu các pháp-môn tu siêu-diệt thoát-ly tam-giới. Có người thấy rơ thân là khổ sở dơ-dáy vô-thường như trên, quá sợ, quá nhờm, bèn vội vàng t́m cách xa ĺa mau chóng: “tự-tử”. Mấy kẻ ấy lầm to. Họ tự-tử để chóng ra khỏi thân, mà họ không biết rằng chính họ đang bồi đắp cho thân được chắc chắn lâu dài. V́ thân có ra là do nghiệp-nhơn, thân là quả của nghiệp-nhơn, muốn khỏi quả phải trừ nhơn. Nay nhơn cứ tạo, cứ gieo mà muốn đừng có quả, quyết hẳn không thể được. Không khác nào người sợ bóng ḿnh, muốn bóng ḿnh không hiện, mà cứ chạy trong ánh nắng. Khi Phật c̣n tại thế đă có một người có ư-tưởng sai-lầm này, đó là ông Phước-Tăng Tỳ-kheo, ghét thân già yếu đau khổ, toan thoát khỏi thân bằng cách treo cổ trên bờ suối, bèn bị Ngài Mục-Kiền-Lien quở trách là khờ dại, cùng giải-bày chánh-lư cho nghe. Sợ già, đau, sống, chết mà vội quyên-sinh, thật là trở lại gây tạo sự già đau sống chết. Người ta có thể dứt bỏ thân hiện-tại, song không thể rời bỏ muôn ngàn thân sẽ có ở vị-lại, khi nghiệp-hoặc hăy c̣n. Nghiệp-hoặc c̣n th́ khi thân này hư, tất lại tạo thành thân khác, có thân khác tất phải có già, đau, sống, chết, khổ-sở. Như vậy, muốn thoát hẳn khổ-lụy v́ thân thể, phải đoạn trừ cội gốc hiện ra thân, tức là phải dứt hoặc-chướng cùng nghiệp-nhơn.
b) Thân giả-hợp.
Cái gốc “hoặc nghiệp” đă trừ, th́ cái ngọn là “thân” tức nhiên phải khô mục. Nhơn đă không c̣n th́ quả cũng tự mất. Thân sau không c̣n chiêu-cảm th́ các khổ lụy không nương đâu mà có, tức là an vui giải-thoát. Dứt được nghiệp-hoặc th́ vô-lậu huệ sanh, thành bực Nhị-thừa Thánh-nhơn. Đến đây thân thể đối với các bực nầy không c̣n thiệt thân thể, mà chỉ là sự kết cấu của ngũ-ấm, hay thập nhị xứ. Trong khi người thường nhân là thiệt có thân-thể, có đầu mặt tay chân, có h́nh dung động tác, mà với huệ chứng của các Ngài thấy là sắc, là thọ, cho đến là thức; hay thấy là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; là: nhăn, tỹ, thiệt, thân, ư; mỗi món có phần vị riêng, không có cái ǵ có thể gọi là thân-thể? Khác nào như ở xa thấy một cụm rừng liên-lạc um-tùm, mà khi đến gần kề, th́ chỉ thấy cây-cối rời-rạc, thể của rừng không c̣n là thật. Cảnh giới ấy đối với người chưa chứng đến, thật khó nhận hiểu, thân chỉ không thiệt có, nó có chỉ là có với nghiệp thức của chúng ta thôi. Nó đẹp, nói đáng ưa, cũng chỉ là phù hợp với t́nh vọng ô-nhiễm, xinh đẹp đối người người, chưa chắc hẳn xinh đẹp với loài khác. Nàng Tây-Thi người đời ca-tụng là đẹp, là đáng yêu, mà chim gặp chim sợ bay xa, cá thấy cá sợ lẫn trốn. Nếu thân nàng Tây-Thi chắc thiệt đẹp đáng yêu, th́ sao chim cá lại sợ hăi? Phải chăng sự đẹp ấy, chỉ là do đồng nghiệp của loài người. Cho đến thân thể h́nh dáng tác dụng, chỉ có với con mắt thường của người. Một mỹ-nhân cực kỳ lộng lẫy, nếu ta dùng quang-tuyến mà xem, th́ mỹ-nhân không c̣n, mà chỉ hiển-hiện là bộ xương hồng trắng, và nếu ta dùng kính chiếu-đại gấp trên ngàn lần, th́ ta chỉ thấy đó là một đống da thịt rời rạc, cách nhau từng khoảng. Nếu mọi người đều mang con mắt quang-tuyến, cùng kính chiếu-đại gấp trên ngàn lần, th́ thử hỏi giữa đây, c̣n có cái ǵ thiệt là thân như trước.
Huệ-nhăn của các vị Nhị-thừa Thánh-nhơn cũng thế. Đối với người thường là thân thể xinh đẹp, với các Ngài th́ thân-thể c̣n không có, huống nữa là xinh đẹp. Chẳng phải là duyên cảnh khác, mà chỗ thấy biết có sai khác. Cũng đồng một cảnh, song v́ trí-thức khác nhau, nên chỗ nhận thấy thành không đồng. Do không c̣n thấy là thật có thân thể, nên các Ngài không c̣n sanh ḷng luyến ái nơi thân, không c̣n có niệm: thân ḿnh, thân người, v́ tất cả đều đồng là ngũ-ấm, là lục-căn, lục-trần; dưới huệ-nhăn của các Ngài, và hơn nữa đều đồng là tứ đại giả hợp: da, thịt, xương, tóc, móng toàn là địa đại; tinh, huyết, đàm, nhớt, nước mắt, mồ hôi, toàn về thủy đại; nhiệt độ thuộc về hỏa đại; cùng sự chuyển động thuộc về phong đại. Tứ đại nếu trái nhau, th́ thân thể làm sao đặng có. Rơ biết thân thể là hư vọng, th́ cả thảy phiền-năo tự trừ, v́ thân là căn-bản của ái-nhiễm khi bấy giờ vô-ngă-trí phát-sinh, vĩnh-viễn thoát-ly sanh-tử trong ba cơi, tức là rốt ráo được Nhị-thừa Phật-giáo.
4. Quan-niệm Đại-thừa.
a) Thân như huyễn hóa.
Mở rộng tầm quan-niệm, thân thể đối với hàng tu quán Đại-thừa, là một giả pháp do sự kết-cấu của sắc tâm và không rời ngoài thức. Do danh-ngôn, ngă chấp, hữu-chi ba món huân-tập nơi tự-thức tạo thành danh và sắc công-năng, khi đủ duyên bèn chuyển hiện, thành thân thể, rồi bám lấy sắc thân làm tự-thể sanh giác-thọ, cùng với thân đồng an đồng nguy; khi thức không c̣n chấp tŕ, th́ thân hoại diệt. Thân không tự có, do thức chuyển biến mà có, thân không tự-thể, lấy thức làm thể, toàn thân là thức, ngoài thức không thân. Thân có là do thức công năng biến hiện, công năng hiện thành thân, bởi các nghiệp duyên huân tập nơi thức mà thành. Nghiệp-duyên có ra, lại nương nơi thân mà phát khởi, nên thân thể là pháp hư-giả, do thức biến-hiện. Song từ nơi thân thể tạo nghiệp nhiễm hay tịnh, làm duyên huân-tập nơi tự-tâm, khiến tự-tâm chuyển thành công năng nhiễm hay tịnh. Thân thể cùng công năng xoay chuyển làm nhơn duyên cho nhau, có không phải thiệt có, không không phải thiệt không, thật đồng chuyển hóa. V́ đó nên với quán-trí của Đại-thừa th́ thân thể như huyễn hiện. Bởi như huyễn thật có, nên không sa vào lỗi tăng ích của phàm-phu, cùng lỗi vọng chấp thường c̣n của ngoại-đạo. Bởi như huyễn, giả có chẳng phải không hẳn, nên khỏi bị lỗi tổn giảm của Nhị-thừa và chấp đoạn diệt của tà-giáo.
Bồ-Tát nương nơi huyễn thân, , tu như huyễn pháp môn, dứt huyễn ái-kiến, độ huyễn hữu-t́nh, chứng huyễn Thánh-quả. Do thấy thân như huyễn hóa, toàn hư vọng, không c̣n ái trược nơi thân, nên phiền-năo không sanh. Không ái trước nơi thân, th́ khỏi v́ thân mà phải thối thất đạo hạnh. Thọ vô-lượng thân, tu-hành trải qua vô-lượng kiếp, mà với Bồ-Tát, không có một mảy may niệm tưởng là có thọ thân, cùng có xả thân.
Mấy niệm c̣n không, huống ǵ có kiếp số, nên có câu: “Thọ thị khổ… kiếp số phi kiếp số”. V́ thân tùy duyên như huyễn sanh, sanh tức vô sanh; thân tùy duyên như huyễn diệt, diệt tức vô diệt, nên có câu: “Chúng duyên giả hiệp, hư vọng danh sanh, chúng duyên ly tán, hư vọng danh diệt”. Không sanh không diệt tức là “thật tướng”. Cổ đức có câu: “Huyễn thân bổn tự không tịch, sanh du như cảnh h́nh tượng – Giác liễu nhứt thế không, huyễn thân tu du chứng thật tướng”. Đó là từ nơi thân, quán “giả” nhập “không”, chứng “trung-đạo”.
b) Thân ḿnh và vũ-trụ là một.
Thêm lên một từng nữa, Bồ-Tát quán thân ḿnh tức là toàn thể vũ-trụ, là toàn thể chúng-sanh. V́ sao? - Tất cả các pháp đều đắp đổi làm duyên, đối đăi với nhau. Một pháp nầy có ra, là do đối đài với các pháp kia, các pháp kia có ra, là do đối đăi với pháp nầy. Thân thể hiện có, là nhờ vũ-trụ đối đăi làm duyên, vũ-trụ trở lại do sự đối đăi của thân thể mà có. Duyên nơi vũ-trụ mà có thân thể, th́ thân thể là vũ-trụ. Duyên nơi thân-thể mà có vũ-trụ, th́ vũ-trụ là thân-thể. Vũ-trụ và thân-thể không hai không khác. Thân ḿnh là toàn thể vũ-trụ, thân người cũng toàn thể vũ-trụ. Cho đến thân của của tất cả hữu-t́nh, cũng đều là thân-thể vũ-trụ. Toàn thể vũ-trụ là thân ḿnh, mà toàn thể vũ-trụ cũng là thân của tất cả hữu-t́nh, nên thân ḿnh cũng là toàn thể thân của tất cả hữu-t́nh, và thân hữu-t́nh là toàn thể thân ḿnh. Vũ-trụ thể-tánh viên-măn, th́ thân ḿnh, và thân tất cả hữu-t́nh, thể-tánh cũng đều viên-măn.
III. THÂN PHẬN CỦA CON NGƯỜI ĐÁNG CHÁN HAY KHÔNG ĐÁNG CHÁN ?
1. Hoàn-cảnh và địa-vị của con người trong vũ-trụ như thế nào ?
Như trong phần vũ-trụ-quan đă có nói, thế-giới có chia ra ba từng bậc là: Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Sống trong Dục-giới là những sanh vật c̣n bị ḷng dục sai sử, điều khiển, như thực dục, dâm dục. Những loài sống trong Dục-giới là: súc-sinh, ngạ-quỷ, địa-ngục, A-tu-la, người và chư thiên.
Như thế là người cũng sống cùng một cảnh giới với các loài vừa kể trên. Vẫn biết trong sáu loài ấy th́ địa-vị con người được xếp vào hạng nh́, nhưng dù sao th́ cũng là sống trong một hoàn-cảnh không sáng sủa ǵ, v́ hoàn-cảnh mà chủ-tể là ḷng Dục. Cho nên Phật thường dạy: “Nước mắt chúng-sanh nhiều hơn bốn biển”, là thế ! Ḷng dục đ̣i hỏi những sự ham muốn về vật-chất như thèm ăn, thèm ngủ, thèm ái-ân… Nói tóm lại là thèm muốn được thỏa-măn những khoái lạc về ngũ-quan. Nhưng đâu đă hết ! Con người c̣n ham muốn được thỏa-măn những nhu-cầu về tinh-thần: ham muốn chiếm đoạt, ham muốn chế ngự, ham muốn phô-trương… nghĩa là tham danh tham lợi.
Nhưng nếu tham mà được thỏa-măn tất cả, th́ cũng đở khổ. Ở đây, trái lại, ḷng dục không bao giờ được thỏa-măn cả. May ra th́ có thể thỏa-măn tạm thời trong chốc lát. Và như thế lại càng nguy-hiểm, v́ chẳng khác ǵ người khát mà uống nước mặn, càng uống càng khát.
Loài người bị trói buộc vào ḷng dục, như con ngựa bị buộc vào cổ xe, cứ phải kéo chạy măi, không bao giờ được yên nghỉ.
Hơn nữa, ḷng dục ấy cũng chính là cái mầm xung-đột giữa loài này với loài khác: ai cũng mong được thỏa-măn ḷng dục của ḿnh, cho nên sanh ra vị kỷ, làm khổ cho người khác và loài khác để ḿnh được vui. Do đó, mà mỗi chúng-sanh là một kẻ địch-thủ của mọi chúng-sanh khác, và cơi đời này là một băi chiến-trường, mà trong mỗi phút giây, có không biết bao nhiêu là chiến-sĩ bị ngă gục. Do đó cơi chiến-trường ấy cũng là một băi tha-ma rộng lớn vô cùng. Theo Phật dạy th́ đó là một biển khổ mênh-mông !
Biển khổ mênh-mông sóng lụt trời,
Khách-trần chèo một chiếc thuyền trôi,
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió ?
Xét lại, cùng trong biển thảm thôi !
2. Tánh-chất vô-thường và vô-ngă của con người.
Con người khổ v́ ḷng dục, con người c̣n khổ hơn nữa v́ hai tánh-chất căn-bản sau đây:
a) Vô-thường.
Mọi vật ở đời không đứng yên một chỗ, mà biến-chuyển di-động luôn luôn trong từng sát-na, sát-na. Thân phút trước, không phải là thân phút sau. Cứ trong mỗi phút giây, bao nhiêu triệu tế-bào trong người đang chết và bị thay-thế. Con người th́ tham được sống, mà con người cứ bị kéo dần về cơi chết. Càng muốn được sống chừng nào, lại càng sợ chết chừng ấy. Sự biến-chuyển mau lẹ, từ thanh mi đến bạch phát, chẳng khác ǵ một giấc chiêm-bao !
b) Vô-ngă.
Con người cũng như mọi vật, sở-dĩ có là do nhân-duyên ḥa-hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái hội hợp của năm uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi đủ nhân-duyên, chúng nó tập-hợp lại th́ gọi là sống, khi nó tan ra th́ là chết. Trong năm uẩn ấy, có cái ǵ là chủ-tể, thuần nhất đâu? Vả lại, ngay năm uẩn ấy cũng không có cái nào là thuần nhất, mà cũng lại do sự tập hợp của lục-đại.
Không thường mà tưởng là thường, không ngă mà tưởng là có ngă. Đó cũng tức là cái mê-mờ lớn nhất của con người. Và cũng chính do cái mê-mờ ấy mà con người đă đau khổ lại càng đau khổ thêm.
3. Khả-năng của con người.
Xét như trên, th́ thân-phận con người thật là đáng chán. Vậy th́ chúng ta đành thất-vọng, buông xuôi tay mà than khóc để chờ chết hay sao? Ta c̣n niềm tin-tưởng ǵ ở con người nữa chăng?
Tất nhiên là có! Phật dạy: “chúng-sanh đều có khả-năng thành Phật”. Nói một cách khác, con người, mặc dù sống trong đau khổ, nhưng đều có Phật-tánh. Với cái Phật-tánh ấy, con người có thể thoát ra khỏi hoàn-cảnh tối-tăm của ḿnh. Để thoát ra khỏi hoàn-cảnh ấy, con người không cần phải quỳ-lụy, cầu xin ở một đấng nào khác, mà do tự-lực và hành-động của ḿnh. Chỉ có ḿnh mới tự giải-thoát cho chính ḿnh được mà thôi. Con người, chính là vị sáng-tạo của đời ḿnh. Khi mê th́ con người tự làm cho ḿnh đau khổ, nhưng khi biết ḿnh mê mà t́m cách thoát ra khỏi cảnh mê, th́ con người chính là kẻ tự gây dựng hạnh-phúc cho ḿnh.
Đó là ưu điểm của con người, đó cũng là niềm tin-tưởng lớn của con người. Đứng về một phương-diện, th́ thân-thể con người thật đáng chán. Nhưng đứng về một phương-diện khác, th́ con người thật đáng phấn-khởi !
Cho nên bảo rằng nhân-sinh-quan của đạo Phật là bi-quan cũng không đúng hẳn, mà bảo rằng lạc-quan cũng không đúng hẳn. Lạc-quan hay bi-quan c̣n tùy ở phương-diện quan-sát của ḿnh.
C. KẾT LUẬN:
Rút những nhận-xét trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Khi trong mê, th́ thân phận con người thật là bi-đát. Nhưng khi bắt đầu nhận được ḿnh mê, th́ con người có thể hoán-cải được hoàn-cảnh và cuộc sống của ḿnh.
Nhưng làm thế nào để hoán-cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm thế nào để chuyển khổ thành vui? May thay! giáo-lư của đức Phật có đấy, người chỉ dẫn phương-pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành vui c̣n đó.
Chúng ta chỉ c̣n gia-công tu-tập, th́ thế nào cũng chuyển đổi được hoàn-cảnh buồn thảm của chúng ta. Cho nên đức Phật thường dạy: “Cảnh Ta-bà này cũng tức là cảnh Phật. Người cũng là Phật”.
|
Quay trở về đầu |
|
|
ngocnguyet Hội viên

Đă tham gia: 11 December 2004 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 32
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 31 March 2006 lúc 4:29am | Đă lưu IP
|
|
|
VŨ-TRỤ-QUAN PHẬT-GIÁO
A. MỞ ĐỀ:
Một câu nan giải nhất của nhân-loại:
“Vũ-trụ v́ đâu mà có” ?
Từ xưa đến nay, câu hỏi này đă là cho biết bao nhiêu đầu óc phải vô cùng bối-rối, thắc-mắc, và có khi đến cuồng-loạn. Bao nhiêu mực đă chảy, bao nhiêu giấy đă chất-chồng, bao nhiêu bọt mép đă khô cạn để thuyết-minh về vấn-đề trên. Nhưng cuối cùng, nhân-loại vẫn chưa thấy được thỏa-măn.
Về phía các triết-gia, người th́ cho vũ-trụ do nước tạo thành, người th́ cho do không-khí, người cho do hơi nóng, ngường cho do tứ-đại v.v… tạo thành.
Về phía các tôn-giáo, th́ hầu hết đều tin vũ-trụ do một tạo-vật-chủ dựng lên. Tạo-vật-chủ ấy tùy theo các tôn-giáo mà có tên khác nhau: hoặc Brahma, hoặc Ngọc-Hoàng Thượng-đế, hoặc Chúa Trời, hoặc Jéhovah v.v… Vậy vấn-đề này, đạo Phật trả lời như thế nào ?
B. CHÁNH ĐỀ:
I. &nbs p; Đ 862;T VẤN-ĐỀ TIÊN QUYẾT.
Phật-giáo, khác với các tôn-giáo khác, không tin có Tạo-vật-chủ. Đối với Phật-giáo, th́ vũ-trụ vạn hữu sanh ra, không nhờ một đấng nào, hay một phép nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do tự-kỷ nhân-quả tiếp nối mà thành. Cái quả ở bây giờ là do cái nhân ở trước, cái nhân ở trước là do cái quả ở trước nữa, cứ như thế đi ngược trở lên măi, nhân này quả nọ, không bao giờ cùng. Như thế, đối với Phật-giáo, vũ-trụ là vô-thỉ (không có cái ban đầu). Mà đă vô-thỉ th́ làm ǵ có cái nguyên-nhân đầu tiên ?
Sở-dĩ người đời tin phải có một sự bắt đầu, là v́ với sự nhận-xét có giới-hạn của ḿnh, thấy vật ǵ cũng có cái bắt đầu cả. Thí dụ: cái bàn, trước khi chưa có thợ mộc đóng th́ nó không có; hay con gà con, sanh ra là do mẹ nó v.v… Tương-đối mà nói, th́ cái bàn hay con gà có một sự sanh thành; nhưng nếu chúng ta đừng cắt xén thời-gian và không-gian ra từng khoảng một như thế, th́ chúng ta thấy rằng trước cái bàn không phải là không có ǵ hết mà phải có gỗ, trước gỗ là cây, trước cây là hạt v.v… Con gà cũng thế, trước con gà con, có con gà mẹ; trước khi con gà mẹ là mẹ, th́ nó là con, do một con gà mẹ khác sinh ra v.v…
Nguyên-nhân thứ hai làm cho người đời tin có một sự bắt đầu của vũ-trụ vạn-hữu, là ư-niệm sai lầm về quan-niệm “Có và Không”. Với con mắt trần nông-cạn và hẹp ḥi, khi chúng ta thấy một khoảng trống, th́ gọi là không; thấy một vật có màu sắc, h́nh dáng, trọng lượng v.v… th́ gọi là có. Và cũng do sự quan-sát hẹp ḥi, nông-cạn, chúng ta thường có quan-niệm rằng: “cái không” có trước “cái có”. Thí dụ: một khoảng đất kia, thường ngày chúng ta đi ngang qua đó, nhận thấy trên ấy không có nhà cửa ǵ cả, ta gọi là đất trống. Bặt đi một dạo độ sáu tháng, ta thấy một ṭa nhà đồ-sộ cất lên, ta tự bảo khoảng đất ấy hết trống rồi. Trước là không mà bây giờ là có. Ta phóng đại ư nghĩ ấy ra và cho rằng: “cái không” có trước “cái có”, hay “cái có” bao giờ cũng đến sau “cái không”. Và chúng ta dẫn cái suy-luận ấy đi xa hơn để kết-luận rằng: “cái không” mà thành “có” được, tất nhiên phải có một cái ǵ khác tạo ra.
Nhưng chúng ta đă suy-luận sai, và cái sai lầm ấy bắt đầu từ quan-niệm sai lầm ấy về “có” và “không”.
Trước tiên, chúng ta quên rằng: khoảng đất trống kia không phải là trống không, hoàn toàn không có ǵ cả, mà trống ở đây có nghĩa là không có nhà. Và cái “có” sau này là có nhà, chứ cũng không phải là hoàn-toàn có, v́ một ngày kia nó cũng sẽ tan ră, và trở thành không.
Cái “có” và “không” ở đây là “có”, “không” tương đối. “Có” là có một cái ǵ, và “không” cũng là không một cái ǵ. C̣n nói một cách tuyệt-đối, th́ trong vũ-trụ này, chưa bao giờ có một cái không hoàn toàn không cả. Cũng như cái có mà ta thường thấy chung quanh ta cũng không phải hoàn toàn, vĩnh-viễn có. “Có, không” đều tương-đối, nghĩa là dựa vào nhau mà thành. Hoặc trong một chỗ này có th́ chỗ khác không, hoặc đắp đổi nhau trong thời-gian có trước rồi không sau, hay không trước rồi có sau. Khi lấy riêng ra từng pháp mà xét th́, thấy tuần-tự có thành, trụ, hoại, không, nhưng xét toàn thể th́ phút giây nào cũng đồng thời có thành, có trụ, có hoại, có không cả.
Như thế, để kết luận: không phải cái không xuất-hiện trước hiện trước cái có. “Không và có” đều có một lần. Và v́ thế, cho nên không thể có nguyên-nhân đầu tiên của cái có.
Trong hiện-tượng-giới, ta thấy có sanh diệt, có thể có, chúng ta cho là vô-thường. Nhưng nếu xét toàn thể vũ-trụ, đứng về thật-tại-giới, th́ chẳng có sanh diệt, mà vạn hữu là thường-trụ.
Như trên đă nói, không có nguyên-nhân đầu tiên. Và do đó, ta sẽ đặt sai vấn-đề, nếu ta hỏi: “nguyên-nhân đầu tiên là ǵ” ? Và ta càng đi xa hơn nữa trong sự sai-lầm, khi hỏi: “Ai sáng-tạo ra vũ-trụ vạn hữu”.
Phải đặt câu hỏi này mới đúng: “Thật thể của cái có và cái không tương-đối(tức là vũ-trụ vạn-hữu) là như thế nào? Hay “thật tại của vũ-trụ như thế nào?”
Do đó, câu hỏi thứ nhất, nhắm mục-đích t́m hiểu thật-thể, thật-tánh, thật-tướng, hay nói theo danh-từ triết-học, nhắm mục đích t́m hiểu thật tại của vũ-trụ vạn-hữu.
Câu hỏi thứ hai là: “Phát nguyên từ thật tại, vũ-trụ vạn-hữu đă h́nh thành và biến chuyển bởi những nguyên nhân ǵ, và như thế nào?”
Đây là hai câu hỏi chính, sau đó, chúng ta có thể thêm vào những câu hỏi phụ như: “vũ-trụ rộng hay hẹp, có cùng hay không cùng ?”…
Trả lời câu hỏi thứ nhất, đạo Phật có Thật-tướng luận; trả lời câu hỏi thứ hai, đạo Phật có Duyên-khởi luận; trả lời câu hỏi thứ ba, Phật dạy: “vũ-trụ hay thế-giới là vô lượng vô biên vô cùng vô tận”.
Dưới đây, chúng ta hăy lần lượt tŕnh bày những vấn-đề trên.
II. &nb sp; THẬT-TƯỚNG LUẬN.
Thật-tướng luận là lư-thuyết giải bày về thật-thể của vũ-trụ. Thật-thể hay thật-tướng của vũ-trụ, đạo Phật thường gọi là Chơn-như. Chơn nghĩa là chơn-thật, không giả-dối. Như là luôn luôn như thế, không biến đổi, không sanh diệt, không c̣n mất, vô thỉ vô chung, sáng-suốt có đủ tất cả những diệu dụng đức tánh.
Để chỉ chơn-như, nhiều khi Phật-giáo, tùy theo mỗi trường hợp, cũng gọi bằng những danh-từ như: Chơn-tâm, Viên-giác, Thắng-nghĩa, Phật-tánh, Giác-tánh, Pháp-tánh, Như-như, Nhứt-như v.v…
Thật ra th́ khó mà kể cho hết những danh-từ chỉ cho Chơn-như. Nhưng dù có kể hết, th́ cũng chỉ là kể danh-từ, chứ không thể nhận thấy được Chơn-như, chỉ có những vị giác-ngộ mới trực nhận, mới thể nhập, hay thể chứng mà thôi.
Ngôn ngữ, văn tự chỉ có thể diển tả được hiện-tượng giới; c̣n khi muốn tŕnh bày về thực tại, th́ trở thành bất lực. Và càng bám vào, càng y cứ nhất thiết vào văn tự, ngôn ngữ lại càng đi xa thật-thể, chân-như. Một triết-gia Pháp, ông Bergson đă nói rất đúng rằng ngôn-ngữ, danh-tự đă cắt xén Sự Sống (thật tại) ra thành manh mún. Thật thế, mỗi tên gọi, mỗi chữ đều có một phạm-vi, một nội-dung nhất định của nó. Dùng một cái có hạn lượng để đo lường, ḍ xét một cái không hạn lượng, vượt ra ngoài không-gian và thời-gian, th́ chắc chắn là phải sai lầm.
Cho nên thái-độ đúng đắn nhất, để trực nhận thật-thể chân-như là im-lặng, ĺa xa văn-tự, ngôn-ngữ. Đó là thái-độ mà Đức Phật đă áp dụng lần đầu tiên sau khi chứng đạo dưới cây Bồ-đề.
Nhưng nếu không nói ǵ cả th́ làm sao cứu độ được chúng-sinh, làm sao đưa nhân-loại đến bờ giác. Cuối cùng Đức Phật phải nói. Nhưng khi nói đến cái khó nhất là “Thật tại” hay “Chơn như”, th́ Đức Phật không thể dùng một lối như thông thường được. Do đó, mà chúng ta thấy trong kinh điển Phật-giáo, có những cách nói mới nghe th́ rất vô lư, gàn dở như: cũng có, cũng không, không phải không, không phải có, không phải đồng, không phải khác, cũng đồng cũng khác, không phải một, không phải nhiều, không phải nhớp, không phải sạch, vân vân và vân vân…
Nhưng, mặc dù đă nói như thế rồi, Đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu nói ấy mà cho là thật, nên Ngài lại rào đón thêm nữa: “chân-lư như mặt trăng, giáo-lư ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho các ngươi thấy. Đừng nhận lầm ngón tay ta là mặt trăng”. Hay: “Những điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói ra như nắm lá trong tay này”. Hay: “Y theo kinh điển giải nghĩa th́ oan cho tam thế chư Phật, nhưng ĺa kinh ra một chữ th́ lại đồng với ma thuyết.” Hay: “Suốt đời, Như-Lai chưa hề nói một câu nào”.
Tóm lại, mục-đích của Thật-tướng luận là muốn cho chúng ta nhận chân rằng: Thật-tại hay Chân-như không thể dùng ngôn-ngữ văn tự mà thấy được; trái lại, phải rời bỏ tất cả danh tướng mà trực nhận. Nhưng để có một ư-niệm thô thiển về Chân-như, hăy tự bảo rằng: “Chân-như là cái ǵ trái hẳn với hiện-tượng giới”. Hay: “Hiện-tượng giới là mặt trái của Chân-như ”.
Nhưng, khi nói đến hai chữ “mặt trái” đừng liên tưởng rằng có một “bề mặt” như bao nhiêu bề mặt ta thường thấy trong hiện-tượng giới.
III. &n bsp; DUYÊN-KHỞI LUẬN.
Duyên-khởi luận tức là những lư thuyết nói về nguyên-nhân hay lư-do sanh khởi của hiện-tượng giới.
Duyên-khởi luận trong Phật-giáo có nhiều thuyết; những thuyết này không trái ngược nhau, mà chỉ khác nhau về phương diện sâu cạn, rốt ráo hay chưa mà thôi. Vậy chúng ta hăy tuần tự đi từ cạn đến sâu:
1. Nghiệp-cảm duyên-khởi.
Nghiệp-cảm duyên-khởi luận là chủ-trương của Tiểu-thừa nguyên-thỉ Phật-giáo. Lư thuyết này rút ra từ trong “Tứ-diệu-đế” và “Thập-nhị nhân-duyên”. Như chúng ta đă học về “Tứ-diệu-đế”, Phật dạy nguyên-nhân của đau khổ, của sanh tử luân-hồi là do “hoặc nghiệp”. Hoặc tức là mê vọng; Nghiệp tức là hành-động tạo-tác. V́ mê vọng nên có hành-động sai-lầm, v́ hành-động sai-lầm nên chịu quả đau khổ… và cái ṿng nhân quả luân-hồi cứ tiếp tục măi tạo ra có chánh-báo là thân ta và y-báo tức là sơn hà đại địa. Sơn hà đại địa sở-dĩ có là có một cách tương-đối với thân ta mà thôi. Khi nghiệp nhân biến đổi th́ nghiệp quả cùng biến đổi. Và do đó chánh-báo và y-báo cũng biến đổi theo. Người khi tạo những nghiệp nhân làm người th́ đời sau đầu thai lại, chánh-báo vẫn là người và y-báo vẫn là sơn hà, đại địa như người đă nhận thấy. Nhưng nếu tạo những nghiệp nhân dữ, th́ chánh-báo ở đời sau sẽ là loài súc-sinh hay ngạ-quỉ, và y-báo, tức cảnh-giới ở chung quanh cũng không c̣n giống như cảnh-giới của người nữa, nghĩa là vũ-trụ, vạn-hữu sẽ biến đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài ấy. Do đó mà gọi là “nghiệp cảm”, nghĩa là do nghiệp như thế nào, th́ cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân (chánh-báo) và thế-giới (y-báo). Chánh-báo và y-báo có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ c̣n nghiệp là c̣n có hiện tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân-như, là nhập Niết-bàn.
2. A-lại-da duyên-khởi.
Thuyết này thuộc về Đại-thừa Thỉ-giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp-cảm duyên-khởi, chỉ nói có sáu thức là nhăn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ư. Sau khi chết, ngũ-uẩn tan ră, nghiệp-lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái ǵ? Lục thức, hay ư-thức sanh diệt vô-thường, biến chuyển luôn luôn, th́ nghiệp dù c̣n, mà lấy ǵ giữ-ǵn cái nghiệp-quả, khiến cho nó triễn-chuyển không dứt?
Đại-thừa thỉ-giáo, bổ khuyết cho thuyết trên, t́m thấy thêm hai thức nữa là Đệ-thất-thức hay Mạt-na-thức, và Đệ-bát-thức hay A-lại-da thức.
Mạt-na nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngă, và giữ-ǵn cái ngă ấy. Nhưng làm sao giữ được cái ngă ấy, trong lúc ngũ-uẩn, lục thức đều sanh diệt vô-thường hợp ly măi măi? Vậy th́ dưới Mạt-na-thức, tất phải có một thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng-tử của các pháp mới được.
Đó chính là thức thứ Tám, hay A-lại-da thức, hay Tạng-thức (thức trùm chứa). Thức này không phải vô-thường như ngũ-uẩn, mà là hằng khởi, thường tại. Nó có hai công năng: một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là sanh khởi tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, th́ những chủng-tử được dồn chứa vào Tạng-thức, đến khi đủ nhân duyên th́ những chủng-tử ấy phát ra hiện-hành.
Bởi A-lại-da thức bao hàm hết thảy chủng-tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tượng. Khi căn-thân của ta vừa phát sanh là nó bao hàm khách-quan giới (tức là vạn vật). Khách-quan-giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ-quan-giới có ư-thức tác động mà ra.
Tóm lại, A-lại-da thức là cái căn-bản của hiện-tượng giới. Từ vô-thỉ, A-lại-da thức đă bao trùm chủng-tử. Hiện-tượng giới do chủng-tử này mà phát hiện. Hiện-tượng đă phát hiện th́ lại kích thích phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng-tử cùng hiện-tượng, nhân-quả nhau măi, mà làm cho hiển hiện vạn-hữu, và làm nền-móng qua bao kiếp nhân quả luân-hồi.
Nhưng, nếu A-lại-da thức là nền-móng của nhân-quả luân-hồi, th́ A-lại-da thức cũng là căn-nguyên của giải-thoát, v́ trong A-lại-da thức có đủ cả chủng-tử hữu-lậu và chủng-tử vô-lậu. Chủng-tử hữu-lậu là những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện-tượng giới; c̣n chủng-tử vô-lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên không để cho tâm vọng động, do đó có thể đưa đến sự giải-thoát.
3. Chân-như duyên-khởi.
Thuyết này là của Đại-thừa Chung-giáo. Theo Đại-thừa Chung-giáo th́ Chân-như tùy duyên sanh ra muôn pháp; hay nhất thiết duy-tâm tạo. Tâm bao gồm tất cả và có hai phương diện: về phương diện động, th́ tâm là cái cửa của sanh diệt; về phương diện tịnh, th́ tâm là cái cửa của Chân-như.
Nhưng v́ sao, cũng một tâm mà có hai phương diện tương phản như thế? Ấy là bởi vô-minh. Chân-như vốn là thường trụ, bất động, nhưng bởi vô-minh làm duyên, khiến cho nó vọng động, làm ra vạn biệt thiên sai. Vô-minh không phải là vật có thật, nó dựa nơi tâm-thể mà có. Nó là một vọng-niệm, cho nên trong kinh thường nói: “hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô-minh”. Do cái vọng-niệm ấy mà thấy có chủ-quan, có khách-quan, có tự ngă, có phi ngă, có vũ-trụ, vạn-hữu.
Nhưng vạn-hữu không phải ngoài tâm mà tồn tại được. Chân-như tuy bị vô-minh kích thích mà diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong tịnh có động. Cũng như nước và sóng ở trong biển. Đứng về phương-diện nước mà nh́n, th́ tất cả sóng đều là nước; đứng về phương-diện sóng mà nh́n, th́ tất cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân-như dụ cho nước, và vạn-tượng-giới dụ cho sóng. Chúng-sanh, v́ vô-minh che lấp nên chỉ thấy có vạn-tượng-giới; Bồ-tát, Phật v́ đă trừ vô-minh nên thấy vạn-tượng là chân-như. Tâm gồm cả chân-như và vạn-tượng. Tịnh là chân-như, Động là vạn-tượng. Động, Tịnh không rời nhau, không cùng là một, nhưng cũng không phải là khác nhau. Đó là hai phương-diện của Tâm. Để chỉ hai phương-diện này, trong kinh thường có câu: “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Tùy duyên tịnh, sanh ra tứ-thánh, tùy duyên nhiễm sanh ra lục-phàm. Từ tịnh trở thành động là đi vào cửa của sanh diệt, và đó cũng là nguyên nhân phát-triển của vũ-trụ vạn-hữu. Từ động trở về tịnh là đi ra cửa chân-như, và đó cũng là nguyên nhân của giải-thoát.
4. Lục-đạ ;i duyên-khởi.
Lục-đại duyên-khởi là chủ-trương của Mật-tôn hay Chơn-ngôn tôn. Lục-đại là: địa, thủy, hỏa, phong, không (tức là không gian) và thức. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (tức là vật), đại thứ Sáu thuộc về tâm pháp (tức là tâm). Sáu đại này mỗi mỗi đều dung thông không ngăn ngại nhau, và tùy duyên sanh khởi ra vũ-trụ vạn-hữu.
Chia ra vật và tâm là tri-thức của ta phân biệt ra như thế, chứ bản thể của thật tại vẫn là một, vẫn không thể phân chia được. Vật là h́nh tướng, tâm là lực hoạt-động. Lực không ĺa được h́nh. Ĺa h́nh th́ lực chẳng tồn tại được. C̣n h́nh nếu không nhờ lực th́ không phát hiện được. Vật và tâm là hai phương diện của bản thể nhứt như.
Ta có đây là do Lục-đại kết hợp mà ra. Lục-đại ly tán th́ ta không c̣n. C̣n mất chẳng qua là một cuộc đổi thay của Lục-đại mà thôi. Lục-đại kết hợp và ly tán làm thành vũ-trụ hoạt-động. Đứng về phương-diện tổng quát mà nh́n, th́ vũ-trụ là một sự hoạt-động không ngừng của lục-đại.
Chân-như là thực thể của lục-đại, mà lư-tánh của ta trừu tượng được. Ĺa hiện-tượng không có thật thể được; ĺa vật không có lư được.
Thánh, phàm khác nhau, thiện, ác khác nhau ở chỗ biết hay không biết phân biệt chân-như với hiện-tượng.
5. Pháp-giới duyên-khởi.
Pháp-giới duyên-khởi là chủ-trương của Đại-thừa viên-giáo (Hoa-nghiêm tôn). Thuyết này cho rằng pháp giới (tức vũ-trụ vạn-hữu) là một duyên khởi rất lớn nghĩa là các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung-thông nhau mà thành lập.
Cái năng lực chủ động của pháp-giới duyên khởi, không phải thuộc về “nghiệp lực” của chúng-sanh, không phải “tạng thức” sai biệt sanh diệt của A-lại-da, cũng không phải cái “lư tánh b́nh-đẳng” bất sanh bất diệt của chân-như, mà chính là do vạn pháp, pháp này dung thông với pháp kia, pháp kia dung thông với pháp này, cùng nhau làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột, cho nên gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”.
Như thế, vũ-trụ vạn-hữu là một cuộc đại hoạt-động của hiện tượng, từ vô-thỉ đến vô-chung, nối tiếp và tràn lan vô cùng tận, như những đợt sóng. V́ có hoạt-động nên mới có sanh diệt chuyển biến. Nếu không có hoạt-động th́ không chuyển-biến, tức là không có vạn-tượng, không có vũ-trụ.
Sở dĩ các pháp làm nhân, làm duyên ḥa-hợp, dung thông nhau được là do mười đặc tánh kỳ diệu mà Đại-thừa Viên-giáo gọi là “mười món huyền môn”. Lại do mười món “huyền môn” này, mà trong pháp giới, Sự (chỉ cho sự tướng sai-biệt), Lư (chỉ cho lư tánh b́nh-đẳng) Lư-Sự và Sự-Sự được dung thông vô-ngại, (xem lại bốn “pháp-giới” và mười “huyền-môn” trong bài nói về Hoa-nghiêm tôn).
*
Trong Duyên-khởi luận của Phật-giáo, chúng ta thấy có năm thuyết. Đó là: Nghiệp-cảm duyên-khởi, A-lại-da duyên-khởi, Chân-như duyên-khởi, Lục-đại duyên-khởi và Pháp-giới duyên-khởi. Có người ngạc-nhiên tự hỏi tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế? Khi th́ Phật dạy chúng-sanh và thế-giới do nghiệp cảm mà phát sanh, khi th́ dạy do A-lại-da thức, khi th́ do Chơn-như, khi th́ do Lục-đại, khi th́ là Trùng trùng duyên-khởi, vậy th́ biết theo lư-thuyết nào?
Sự sai khác đó là v́ căn-cơ của chúng-sanh không đồng, phải dắt dẫn dần dần từ thấp đến cao, chúng-sanh mới hiểu được.
Đối với hàng Tiểu-thừa th́ Phật nói: “nghiệp”, v́ hàng Tiểu-thừa chưa nhận được tạng-thức, chủng-tử… lần lên đến Đại-thừa Thỉ-giáo, các bậc này v́ mới hướng về Đại-thừa, chưa rơ chơn-như tùy duyên sanh ra các pháp, nên Phật chỉ nói về “A-lại-da thức”. Đến Đại-thừa Đốn-giáo, v́ hạng này chưa nhận được lư “Trùng trùng duyên khởi”, nên Phật nói “Chơn-như tùy duyên sanh ra các pháp”. Đến Đại-thừa Viên-giáo, th́ các bậc Bồ-Tát căn-cơ đă thuần-thục, nên Phật mới nói đến “Lục đại” và “Trùng trùng duyên-khởi”.
Sự sai khác ở đây, chỉ là sai khác về tầng bậc, chứ không phải sai khác về nội-dung; sai khác về khía cạnh đứng nh́n và tầm mắt rộng hẹp, chứ không phải sai khác ở bản-chất.
Nh́n một cách nông-cạn và nhỏ hẹp th́ chỉ thấy có nghiệp lực; nhưng nh́n sâu hơn và rộng hơn tí nữa th́ thấy: dưới cái nghiệp lực, là A-lại-da thức. Nh́n sâu và rộng hơn nữa th́ thấy dưới A-lại-da thức là Chân-như.
V́ Chân-như tùy duyên mà sanh ra hiện-tượng. Trước th́ bảo rằng có A-lại-da thức mới phát-khởi ra hiện-tượng. Đây th́ tự thân Chơn-như tùy duyên mà hiện-tượng phát-khởi.
Khi đă khám-phá ra chân-như rồi, nếu nghiên-cứu kỹ-lưỡng tường tận hơn nữa, th́ nhận thấy chân-như không phải là một cái ǵ xa lạ, mà chính chân-như nằm ngay nơi vạn-tượng. Chân-như là khía cạnh Tịnh, mà vạn-tượng là khía cạnh Động của một cái gọi là “Nhất như” hay “Tâm”. Nhưng nếu đi sâu hơn nữa, th́ Tịnh và Động không phải là hai khía cạnh riêng rẽ, mà chính ngay trong Động có Tịnh, trong Tịnh có Động. Động là “sự” (vạn-tượng), Tịnh là “lư” mà ta trực nhận được qua “sự” qua cái “trùng trùng duyên khởi” của vạn-hữu.
Đến “Chân-như duyên-khởi” luận là ta đă t́m đến cái căn nguyên của vũ-trụ vạn-hữu. Nhưng nếu phải c̣n nói đến “Lục đại duyên khởi” và “Pháp-giới duyên khởi” là muốn t́m hiểu cái hành tướng, cái then máy của vạn-tượng để trực nhận chân-như. “Lục-đại duyên-khởi” luận là dựa trên kinh-nghiệm mà quy nạp Chân-như; c̣n “Pháp-giới duyên-khởi” luận là lấy lư-tánh mà suy diễn chân-như. Hai luận này không khác nhau về nội dung hay về từng bậc, mà chỉ khác nhau về luận pháp mà thôi. Một bên đi từ sự đến lư, một bên đi từ lư đến sự.
Nếu có thể dùng một thí dụ để chứng minh một cách cụ-thể những lư lẽ vừa nói đến trên này, chúng tôi xin mạng phép dùng một thí dụ thô sơ sau đây, nhưng xin thưa trước rằng thí dụ không phải là lư lẽ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh nào của lư lẽ thôi.
Chúng ta sờ soạn đi vào một rạp kỳ lạ, khi đèn đă tắt và không biết trên sân khấu người ta đă bắt đầu tŕnh-diễn từ lúc nào. Rạp hát tối ṃ, trên sân khấu cũng không sáng mấy, mà chúng ta th́ đứng ở đàng sau xa. Trước sân khấu, nhiều lớp màn mỏng buông xuống (dụ cho vô-minh). Khi chúng ta vào th́ một tấm màn từ từ kéo lên. Chúng ta thấy lờ mờ những cánh tay, những cái chân và cái miệng của một con nộm-nhân đang múa máy, ca hát trên sân khấu. Chúng ta đoán chắc ở phía trong, ở đàng sau con nộm-nhân ấy có một động lực (dụ cho nghiệp cảm duyên khởi) làm cho con nộm-nhân kia múa máy, ca hát.
Một cái màn nữa vén lên và ta tiến tới thêm một khoảng nữa để nh́n. Chúng ta thấy bóng dáng một người đang đứng sau con nộm-nhân kia (dụ cho A-lại-da duyên khởi).
Một cái màn nữa vén lên và ta tiến tới gần sân khấu hơn nữa. Ta thấy rơ ràng hơn. Th́ ra con người và nộm-nhân là một: Con người mang lốt nộm-nhân và đă múa máy ca hát (dụ cho Chơn-như duyên khởi).
Một bức màn nữa được kéo lên, và ta đi đến sát sân khấu, ta nh́n thấu suốt đến hậu trường. Ta thấy rơ mỗi vật, mỗi người, từng chi-tiết một trên sân-khấu, sự liên-lạc giữa vật này với vật kia, giữa người làm tṛ, người kéo màn, người đạo-diễn… (dụ cho Lục-đại duyên khởi).
Sau khi đă quan-sát kỹ-lưỡng sân-khấu, ta xây mặt lại nh́n khán-giả, và ta đă khám-phá ra một sự thật vô cùng quan trọng: sự liên-lạc mật-thiết giữa người đóng tṛ và khán-giả. Người đóng tṛ vui th́ khán-giả vui, người đóng tṛ than-thở, th́ khán-giả buồn. Ngược lại, khán-giả cũng ảnh-hưởng rất nhiều đến người đóng tṛ: người đóng tṛ đă tuân theo ư muốn của khán-giả, khi đóng hay th́ khán-giả vỗ tay hoan-hô và bắt buộc diễn-viên đóng lại; khi diễn dở, th́ khán-giả la ó, phản-đối… Diễn-viên và khán-giả, hậu trường và tiền trường, tất cả một rạp hát đều liên-lạc mật-thiết với nhau, làm nhân làm duyên cho nhau, ảnh-hưởng mật-thiết lẫn nhau (dụ cho Pháp-giới duyên khởi).
Để kết-luận về chương Duyên-khởi luận này, chúng ta có thể tóm-tắt như sau:
- Nghiệp-cảm duyên-khởi, muốn nói: nghiệp-lực là nguyên-nhân của hiện-tượng giới. Nghiệp bởi mê-hoặc mà có.
- A-lại-da duyên-khởi, muốn nói: căn nguyên của hiện-tượng giới là A-lại-da thức. A-lại-da bao-trùm tất cả chủng-tử hữu-lậu và vô-lậu. Do chủng-tử hữu-lậu mà phát-sinh vũ-trụ vạn-hữu. Muốn giải-thoát khỏi hiện-tượng giới th́ phải huân-tập và làm phát-hiện chủng-tử vô-lậu.
- Chân-như duyên-khởi là muốn nói: chân-như v́ duyên với vô-minh mà diêu-động và làm phát-sanh ra vũ-trụ vạn-hữu.
- Lục-đại duyên-khởi và pháp-giới duyên-khởi là hai thuyết mường-tượng giống nhau, đều thuyết-minh hai phương-diện hiện-tượng và thật-thể của nhất như. Bất tri bất giác là cái nguyên-nhân của hiện-tượng. Tri giác được th́ giải-thoát được.
Những thuyết trên này đều có những điểm giống nhau: mỗi thuyết đều công-nhận có chân-như là bản-thể của vũ-trụ vạn-hữu. Cái nguyên-nhân làm sanh-khởi vũ-trụ vạn-hữu là mê-vọng hay vô-minh. Muốn giải-thoát th́ phải trừ cho được mê-vọng.
IV. &nb sp; KHÔNG-GIAN VÀ THỜI-GIAN CỦA PHÁP-GIỚI.
Chúng ta đă nói về nguyên-nhân sanh-khởi của vũ-trụ vạn-hữu. Đến đây, chúng ta hăy nghe Phật dạy về sự rộng lớn vô biên và sự tồn-tại vô cùng của vũ-trụ, hay pháp-giới.
1. Không-gian.
Theo lời dạy trong các kinh, th́ vũ-trụ, hay nói theo danh-từ Phật-giáo: pháp-giới rộng vô cùng vô tận. Thế-giới mà chúng ta ở đây không phải chỉ có một, mà nhiều như cát sông Hằng. Cứ một ngàn thế-giới nhỏ hiệp thành một Tiểu-thiên thế-giới; hiệp một ngàn Tiểu-thiên thế-giới thành một Trung-thiên thế-giới; hiệp một ngàn Trung-thiên thế-giới thành một Đại-thiên thế-giới, hay “tam thiên đại thiên thế-giới”. Mỗi tam thiên đại-thiên thế-giới như thế là gồm có một ngàn triệu thế-giới nhỏ như thế-giới của chúng ta. Hơn nữa, vũ-trụ không phải chỉ có một Đại-thiên thế-giới, mà gồm vô số Đại-thiên thế-giới.
2. Thời-gian.
Phật đă dạy: “Các pháp hữu-vi, bất cứ một pháp nào cũng đều bị bốn thời-kỳ chi-phối, tức là thành, trụ, hoại, không”. Thế-giới cũng vậy, không thể thoát ra ngoài cái luật thành, trụ, hoại, không ấy được. Nhưng bởi v́ trong pháp-giới có không biết bao nhiêu thế-giới, nên sự thành, trụ của một thế-giới này là sự hoại, không của một thế-giới khác, và cứ như thế mà xoay vần không dứt.
Nếu lấy riêng ra một thế-giới để đo lường thời-gian, th́ chúng ta sẽ có một con số như sau: Mỗi một thế-giới đều có bốn thời-kỳ hay bốn trung-kiếp; mỗi trung-kiếp có hai mươi tiểu-kiếp, mỗi tiểu-kiếp có mười sáu triệu (16.000.000) năm. Như thế, một thế-giới từ khi thành-lập, đến khi tiêu-diệt phải trải qua: 4x2x16.000.000 – 1.280.000.000 năm (một ngàn hai trăm tám mươi triệu năm). Nhưng, như chúng ta đă biết thế-giới nhiều như cát sông Hằng, th́ sự tồn-tại của Pháp-giới lâu dài không thể suy-tính, nghĩ-bàn được.
Ở đây, chúng ta không có ư nêu lên những con số như trên để đo lường đích-xác sự rộng lớn và sự dài lâu của Pháp-giới là bao nhiêu. Chúng ta chỉ có mục-đích là nêu lên những con số để có một ư-niệm về “sự vô cùng vô tận, vô thỉ, vô chung” của Pháp-giới mà thôi. Ư-niệm ấy, ngày nay cũng đă được khoa-học tán-đồng.
C. KẾT LUẬN:
Pháp-giới tuy rộng lớn vô cùng tận, nhưng, như chúng ta đă thấy trong đoạn nói về “Duyên-khởi luận”, pháp-giới và nhân-sanh ảnh-hưởng trực-tiếp lẫn nhau. Hơn nữa, như trong nghiệp-cảm duyên-khởi đă nói: vũ-trụ do nghiệp-lực của chúng-sanh chiêu-cảm kết thành; nghiệp lành chiêu-cảm th́ thân căn được viên-măn, mà vũ-trụ cũng tốt đẹp; c̣n nghiệp dữ chiêu-cảm th́ thân căn xấu-xa mà vũ-trụ ô-uế, lắm tai-họa.
C̣n theo như A-lại-da duyên khởi đă nói, do chủng-tử trong A-lại-da thức huân-tập và hiện-hành mà chúng ta có căn thân và thế-giới như thế này hay như thế khác. Nếu chúng ta huân-tập chủng-tử hữu-lậu th́ chúng ta quay cuồn măi trong cảnh giới khổ đau, ô trược; nếu chúng ta huân-tập chủng-tử vô-lậu th́ chúng ta sẽ thoát ra khỏi cảnh-giới khổ đau này.
Theo tŕnh-độ, căn-cơ của chúng ta hiện tại th́ hai thuyết trên này thích-hợp với chúng ta hơn; c̣n ba thuyết dưới th́ cao quá, khó mà thực hành cho được.
Vậy chúng ta hăy theo lời Phật dạy trong hai thuyết “Nghiệp-cảm duyên-khởi” và “A-lại-da duyên-khởi” mà cải tạo vũ-trụ và nhân-sinh.
Trong hai pháp này, về nghiệp th́ chúng ta nên dứt trừ “sự hoặc” và “lư hoặc” cải tạo các nghiệp dữ đổi làm các việc lành, tức là ta chiêu-cảm lấy quả-báo đời sau được thân thể và vũ-trụ rất trang-nghiêm tốt đẹp, không c̣n bị đau khổ như hiện nay nữa.
Về chủng-tử, th́ hằng ngày chúng ta nên cẩn thận trong sự huân-tập. Bởi v́ công việc làm của chúng ta hằng ngày đều ghi vào tạng-thức chúng ta, không khi nào mất được. Ta phải huân-tập những điều chân lẽ chính của thánh hiền. C̣n về phần tu tập, chúng ta phải quán tất cả các pháp đều do duy-thức tạo, và phải phá trừ ngă-chấp và pháp-chấp.
Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ cải tạo thân thể và vũ-trụ xấu xa này trở thành trang-nghiêm tốt đẹp.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|