Tác giả |
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 1 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:12am | Đă lưu IP
|
|
|
ĐỨC ĐẠT-LAI-LẠT-MA
NÓI CHUYỆN VỀ CHÚA GIÊSU
Hương Vĩnh lược dịch
LỜI DỊCH GIẢ
Từ đầu thu 1994 - tính đến nay hơn một thập niên - Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă được Cộng Đồng Chiêm Niệm Kitô Giáo Thế Giới mời chủ tọa cuộc hội thảo hằng năm được tổ chức ở Luân Đôn với đề tài “ĐỨC TỪ TÂM” (The Good Heart), xoay chung quanh những tiết mục được trích dẫn từ tám đoạn Phúc Âm.
Những lời b́nh giải của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma cũng như những điều trao đổi giữa ngài với các tham dự viên đă trở nên mẫu mực cho những cuộc đối thoại liên tôn - đặc biệt giữa hai tôn giáo lớn là Kitô giáo và Phật giáo.
Trong những năm gần đây, có những cuộc trao đổi trực tiếp hay gián tiếp giữa những cá nhân hoặc tập thể của những tín đồ thuộc hai tôn giáo đó, nhưng thường khi trở nên gay gắt và c̣n mang tính cách miệt thị nhau nữa. Điều đó hoàn toàn đi ra ngoài cương lĩnh đạo giáo.
Ước mong những tâm tư phát biểu đầy khoan dung và tương kính của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma – một vị cao tăng được các Phật tử xung tụng là “Thánh Tăng” và được thế giới kính trọng – sẽ có một âm hưởng lớn lao trong tâm thức tín đồ của hai tôn giáo lớn đó, mỗi khi họ muốn dấn thân trên hành tŕnh đối thoại.
Chúng tôi dựa theo bản tiếng Pháp “Le Dalai-Lama parle de Jésus” dịch từ bản tiếng Anh “The Good Heart” của “Cộng Đồng Chiêm niệm Kitô Giáo Thế Giới” (The World Community of Christian Meditation) để lược dịch ra tiếng Việt dưới nhan đề “ĐỨC ĐẠT-LAI-LẠT-MA NÓI CHUYỆN VỀ CHÚA GIÊSU”.
Một tiếng nói được cất lên. Lời nói của ngài thuộc một truyền thống tâm linh - đó là “Phật Pháp” (Dharma) - do Đức Phật truyền dạy trên hơn hai thiên niên kỷ.
Những tín hữu của Đức Kitô quây quần xung quanh ngài. Họ đă mời ngài đọc và dẫn giải “Tin Mừng”, tức “Phúc Âm của Chúa Giêsu”.
Ở giữa họ đă nảy sinh một cuộc đối thoại và c̣n hơn thế nữa: đó là một thời điểm ân ban mà sự hợp nhất có tính cách cơ bản của nhân loại được củng cố và gắn chặt, bằng ngôn từ cũng như bằng thinh lặng.
Không có vấn đề tẩy xóa hay che lấp những dị biệt, trái lại được làm sáng tỏ, v́ họ biết rằng, qua những dị biệt đó, những điểm hội tụ mới, tức những điểm bổ sung bắt đầu ló rạng.
“Con ḅ vẫn là con ḅ và con cừu phải giữ cái đầu cừu”, như một câu châm ngôn của Tây Tạng mà Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă nhắc nhở. Nhưng muốn phong phú hóa sự khác biệt, truy tầm sự nhất tính ở giữa cái đa dạng, phác họa một “kỷ nguyên Tinh Thần” xa hẳn những nơi công cộng, óc bè phái hay sự kiểu cách, cùng chung vạch ra những lối ṃn xa xưa trên hành tŕnh truy nội, đồng thời không khước từ thế giới tân kỳ, thế giới hiện thực, phải chăng đó chỉ là sự điên rồ? Có thể như thế.
Nhưng phép lạ đă bắt đầu h́nh thành, phép lạ của sự giản dị và tính trung thực lướt thắng mọi trở ngại, dù có người quan tâm hay có người do dự. Sản phẩm của phép lạ đó chứng tỏ cho chúng ta thấy sự hiện hữu của tính cách tương phản tuyệt đối giữa những người bảo thủ nguyên vẹn và những người mới cải đạo; một xứ sở mà sự tổng quát hóa không muốn biến thành đồng nhất và những căn tính cho dù bị đe dọa trầm trọng đến đâu vẫn không chấp nhận việc dùng bạo lực như là một phương cách để được sinh tồn.
Đề tài nầy nhắm trước tiên vào những Kitô hữu và những Phật tử. Tinh thần cuộc gặp gỡ ở Assissi kể từ năm 1986 đă đưa ra một mẫu mực và đây là phương thức áp dụng.
Nói rơ ràng hơn: sau hai mươi thế kỷ giao hảo tồi tệ khiến chúng ta nhớ lại những điều sai trái và hiểu lầm đối với Phật giáo đă thắng thế từ Rubrouck cho đến thời gian rất gần đây thôi. Người ta sẽ đ́nh chỉ mọi phán đoán tiên thiên, mọi định kiến sẵn có để đọc chung một văn bản ṇng cốt là “Phúc Âm”.
Người ta không để ư mấy đến sử tính của các sứ giả cho bằng hoàn toàn chú tâm đến sứ điệp. Không phải không lợi ích để truy tầm trong lịch sử những tàn tích và dư âm mà những ngôn từ của “Như Lai” (Tathagata) đă khơi dậy trên miền đất Palestine nơi Chúa Giêsu sinh ra sau nầy và nói một cách tổng quát hơn ở vùng Địa-Trung-Hải thuộc Hy-Lạp và La-Mă.
Những người trẻ tuổi chuyên nghiên cứu lịch sử hay triết học đang bắt tay vào việc. Đó cũng là một việc làm cấp bách khác. Cũng hơi giống dụ ngôn Đức Phật đă dùng, khi đề cập đến một người bị trúng mũi tên ngả lăn ra. Chúng ta sẽ truy tầm danh tánh người xạ thủ? Danh tánh người sản xuất cung tên? Phẩm chất gỗ làm thành mũi tên? Không phải đâu. Chúng ta phải tức tốc kiếm t́m môn thuốc chữa trị vết thương người bị trúng tên.
Chính đó là điều mà chúng ta có thể nói rằng Kitô hữu và Phật tử gặp gỡ nhau.
Ở giữa Đấng Cứu Thế đă đến làm vơi đi gánh nặng của nhân loại bằng cách tha thứ mọi tội lỗi của kiếp nhân sinh và Đấng Đại Giác huấn dụ “Tứ Diệu Đế” và “Bát Chánh Đạo” để giúp thoát khỏi ṿng khổ đau, ít nhất người ta đă nhận ra một cộng đồng hảo ư nào đó.
Rơ ràng hơn khi Chúa Giêsu – một người có năng lực phi thường – làm cho kẻ tê liệt chổi dậy hay chữa lành người phong hủi, Ngài chẳng nói với họ “hăy về đi, mọi tội lỗi của bạn đă được tha thứ” sao?
Nói cách khác: Nầy đây bạn được tái trang bị thần trí tuyệt đối thuần khiết từ khởi thủy, xác thân bạn làm chứng điều đó. Niềm tin ở sự thuần khiết và tự do khởi thủy đó của thần trí là nền tảng của mọi thiền quán Phật giáo. Nhiều Kitô hữu chia sẻ điều đó.
Cha Thomas Merton - một ẩn sĩ - đă quả quyết: “Ở trong nội tâm con người chúng ta có một nơi chỉ toàn ánh sáng thuần khiết, một nơi mà tội lỗi hay sự hư ảo không thể lui tới được.”
Độc giả chắc chắn sẽ nhận thấy một cách khẩn khoản rằng Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma và các người đối thoại đă chú tâm so sánh một lần nữa nhưng không lẫn lộn, “tia sáng thần linh” đó đang ngự trị trong mỗi sinh vật, ít nhất là đối với những ai quả quyết ḿnh là con cái của một Thượng Đế Sáng Tạo; và “tia sáng tỉnh thức” đó – tức“giác tánh” (bodhi) đối với các Phật tử - đều hiện diện nơi mọi sinh vật.
Bởi đó, nếu chúng ta phải đồng hành trong việc truy tầm Thần Linh, như chúng ta đă biết, việc đọc các văn bản cũng như các chú giải không mang lại một giải đáp trọn vẹn.
Ấn tín của thần linh ở trong nội tâm thầm kín và sâu thẳm của mỗi cá nhân. Chỉ có thể đạt tới đó bằng “chiêm niệm” mà thôi.
Rơ ràng Đức Phật Thích Ca cũng như Chúa Kitô, không ai viết lách ǵ hết; các Ngài trao lại cho các đệ tử trọng trách truyền đạt cho hậu thế sứ điệp như họ đă nhận lănh. Do đó đến lượt chúng ta, chúng ta phải truy tầm sứ điệp ở nơi chúng ta: ở bên trong lẫn bên ngoài văn bản.
Giới hạn đối với “Thần Ngôn” (Logos), cho dù có tính cách thần học, mà Kitô hữu chấp nhận sự hiện hữu - bởi v́ “Ngôi Lời” đă mặc lấy xác thịt - điều mà người ta gọi là huyền bí, xem ra là một trong những bài học trọng đại của cuộc hội ngộ nầy. Khả năng đánh thức “cái ǵ đó bên kia ngôn từ” hiển nhiên là một thành phần trong toàn bộ rạng rỡ linh thiêng mà các minh sư đă đạt thành.
Với rất nhiều khiêm tốn, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma quả quyết ngài học hỏi rất ít nên không thông hiểu Kitô giáo bao nhiêu, cho dù ngài đă gặp gỡ các Kitô hữu nhiều lần trong thập niên trở lại đây. Tuy nhiên người ta thấy ngài đi thẳng vào luận lư của Phúc Âm mà không chút ngại ngùng giả tạo, như thể ngài rất thân quen với những lời nói của Chúa Giêsu và ngôn ngữ của những dụ ngôn đối với ngài không có ǵ bí hiểm cả.
Sự dễ dàng đó đánh động thính giả hiện diện một cách mănh liệt và thật ra đă báo trước rơ rệt ư hướng chung nhằm thúc đẩy những người muốn thực hành một linh đạo chân chính đích thực. Sự tha giác rơ ràng mang lại ở đây điều mà thần ngôn gợi lại trên kia đôi khi có thể bị quên lăng trong bóng tối.
Đối với tôi là người không tham gia cuộc hội thảo nhưng khi nhớ lại đă trải qua nhiều giờ để nghe vị minh sư Tây-Tạng đó th́ tài liệu nầy là một sự hứng khởi thích thú trong sinh hoạt tâm linh. Chiêm niệm là hành động và hành động đôi khi chính là chiêm niệm. Chưa bao giờ điều đó xem ra minh bạch hơn như ở đây. Cũng như xuất thế đôi khi là con đường nhanh nhất và cần thiết nhất để nhập thế, với đầy đủ ư nghĩa, quân b́nh và thú vị.
Ư kiến đi hành hương chung ở những nơi nổi tiếng, cũng là một ư kiến hoàn toàn hứng khởi, chỉ có thể đến từ một người con của xứ du mục là Tây-Tạng mà những người đi hành hương đôi khi gập trán xuống đất sau mỗi bước đi.
Vùng đất của Thần Linh tự do đó ngày nay đă bị héo úa, chiếm đoạt và bị ngột ngạt bởi những “chiến dịch cải tạo” điều khiển bởi những ủy viên Trung Cộng không dung tha sự tự do lương tâm cũng như niềm xác tín vào căn tính Tây-Tạng.
Nước Tây-Tạng đó với dân cư Tây-Tạng cần sự ủng hộ của chúng ta, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă nhắc nhỡ một cách kín đáo. Ngài c̣n nói thêm, giá trị tinh thần của ngài nếu tồn tại qua bao hăm dọa thử thách th́ sẽ hữu ích không những cho người Tây-Tạng mà thôi “mà c̣n đóng góp lớn lao cho sự an sinh của dân tộc Trung-Hoa nữa”. “Hăy yêu kẻ thù anh em, hăy cầu nguyện cho những ai bạc đăi và bắt bớ anh em”, Chúa Kitô đă nói như thế (Mat-Thêu 5, 43-48).
Bên kia sự thực tập đượm tính cách ngoạn mục và thời trang mà ngài cống hiến, chính chúng ta phải đóng góp một cách vui say và yêu đời vào việc thực hành trong cuộc sống chúng ta những điều mà tài liệu nầy sẽ cống hiến.
Phỏng theo Jean-Paul RIBES
Chủ tịch Ủy-Ban hỗ trợ nhân dân Tây-Tạng tại Pháp
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 2 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:21am | Đă lưu IP
|
|
|
YÊU THƯƠNG KẺ THÙ
Phúc Âm Thánh Matthêu
(5, 38-48)
“Anh em đă nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. C̣n Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, th́ hăy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo lót của anh, th́ hăy để cho nó lấy cả áo choàng. Nếu có người bắt anh em đi một dặm, th́ hăy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, th́ hăy cho; ai muốn vay mượn, th́ đừng ngoảnh mặt đi.
Anh em đă nghe Luật dạy rằng: 'Hăy yêu đồng loại và hăy ghét kẻ thù'. C̣n Thầy, Thầy bảo anh em: hăy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đăi anh em. Như vậy, anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, v́ Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. V́ nếu anh em thương kẻ yêu thương ḿnh, th́ anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em ḿnh thôi, th́ anh em có làm ǵ lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hăy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
Ư nghĩa đoạn Phúc Âm theo Kitô giáo
“Bài Giảng Trên Núi” được tŕnh bày trong những trang đầu của Phúc Âm Thánh Matthêu là Phúc Âm thứ nhất trong bốn Phúc Âm. Cũng như những Phúc Âm khác, Phúc Âm Thánh Matthêu được viết ra và phải được đọc không phải như một bản văn tường thuật có tính cách lịch sử mà như chứng nghiệm của sự Phục Sinh đă xảy đến trong lịch sử. Do đó, những Phúc Âm được hiểu qua ánh sáng Phục Sinh. Chữ Phúc Âm theo tiếng Hy-Lạp là “evangelon” có nghĩa là “Tin Mừng”.
Tác giả mỗi Phúc Âm - tức Thánh Sử - dự kiến cuộc đời và sự giảng dạy của Chúa Giêsu dưới một góc cạnh đặc thù đối với riêng họ, bởi v́ họ nhắm tới một quần chúng khác nhau. Từ đó phát sinh tính cách đa dạng của các Phúc Âm mà trước khi được ghi lại bằng chữ Hy-Lạp th́ trước đó là những lời truyền khẩu bằng tiếng Aramean. Như vậy, Phúc Âm Thánh Matthêu có thể đă được viết bởi một nhóm Kitô hữu gốc Do-Thái khoảng độ năm chục năm sau khi Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh.
Đoan Phúc Âm nầy trích ra từ Bài Giảng Trên Núi, một bài huấn giáo của Chúa Giêsu được tŕnh bày trong hai Phúc Âm của Thánh Matthêu và Thánh Luca. Các Phật tử sẽ nghĩ tới “Bài Thuyết Pháp của Đức Phật ở Vườn Lộc Uyển”. Bài Giảng Trên Núi đă được Chúa Giêsu giảng dạy ở giữa trời, trước một đám đông. Bài giảng nầy chứa đựng tinh hoa của sự giáo huấn của Ngài có tính cách tôn giáo và đạo đức học. Chẳng hạn Ngài nhấn mạnh sự quan trọng phải vượt lên trên việc tuân giữ một cách máy móc những nghi thức bên ngoài để đạt tới đạo tâm.
Trong phần đầu đoạn nầy, Chúa Giêsu đ̣i hỏi những người theo Ngài đừng t́m cách báo thù những ai làm hại ḿnh. Ư tưởng nầy vượt ra ngoài lề luật cũ về sự báo thù thịnh hành trong suốt miền Cận Đông. Chúa Giêsu c̣n đi đến chỗ tuyên bố rằng chúng ta không nên chống lại những ai làm hại chúng ta. Theo cung cách tiêu biểu của người Do-Thái, một cách hơi quá đáng, Ngài đă nhấn mạnh đến giáo huấn của ḿnh bằng cách tuyên bố là chúng ta nên đưa má kia và luôn luôn cho điều mà người ta đ̣i hỏi. Đồ đệ của Ngài được khuyến khích không những phải nhượng bộ mà phải cho nhiều hơn điều người ta yêu cầu.
Sự ám chỉ áo lót và áo choàng sẽ được lĩnh hội rơ ràng hơn khi người ta biết rằng người nông dân vùng Palestine thời bấy giờ chỉ mặc một chiếc áo mà thôi.
Nguyên tắc bất đối kháng và phó thác không thể được quả quyết một cách minh bạch hơn nữa. Tuy nhiên, những giáo huấn đó về sau đă được hợp lư hóa rất nhiều.
Phần thứ hai của đoạn Phúc Âm nầy đề cập tới t́nh thương yêu đối với kẻ thù. “Người lân cận” chỉ hết mọi người trong làng hay thuộc một nhóm. “Kẻ thù” ám chỉ một người làm hại ḿnh hay chỉ một kẻ xa lạ. Như vậy, thương yêu người lân cận thân thiết với ḿnh th́ không đủ. Làm như thế người ta không thể thực hiện một cách trọn vẹn ơn gọi làm người hầu được trở nên “giống như Thiên Chúa”.
Những tư tưởng gia Kitô giáo đầu tiên đă quả quyết là Thiên Chúa nhập thể làm người để con người có thể trở nên giống Thiên Chúa. Điều giáo huấn của Chúa Giêsu ở đây chứng tỏ chúng ta trở nên “con Thiên Chúa” bằng cách thương yêu mọi người một cách vô vị lợi cũng như Thiên Chúa thương yêu họ. Sự hoàn thiện của Thiên Chúa th́ không biên giới và sự hoàn thiện của con người cũng phải trở nên như vậy. Tiếng Do-Thái tương đương với “hoàn thiện” là “toàn bộ” hay “nguyên vẹn”. Chính sự yêu thương kẻ thù đảm bảo cho sự nguyên vẹn của cuộc sống nhân sinh.
Những “người thu thuế”, cộng tác viên với những lực lượng La-Mă đă chiếm đóng Palestine, cũng hoàn toàn giống như Tây-Tạng bị chiếm đóng ngày nay vậy.
Trời bắt đầu sáng, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă đến không chậm trễ. Trước khi dẫn giải đoạn Phúc Âm Thánh Matthêu, ngài đưa ra vài nhận xét sơ đẳng về kỹ thuật hành thiền. Suốt những ngày hội thảo, nhiều lần ngài đă nhấn mạnh đến mục tiêu của ngài không nhằm cải giáo những Kitô hữu trong hội trường thành những Phật tử mà là để tŕnh bày cái nh́n của một tu sĩ Phật giáo đối với những đoạn Thánh Kinh chọn lọc.
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 3 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:26am | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma
(giải thích về thiền quán và thiền định)
“V́ buổi hội thảo nầy được tổ chức bởi Cộng Đồng Chiêm Niệm Kitô Giáo Thế Giới và v́ phần đông những tham dự viên gồm những Kitô hữu sống đạo thực sự, dấn thân một cách nghiêm túc trên tiến tŕnh đức tin, nên sự tŕnh bày của tôi đặc biệt hướng về họ. Tôi cố gắng giải thích những kỹ thuật hay những phương pháp Phật học mà một Kitô hữu sống đạo có thể sử dụng, nhưng không v́ thế mà phải gắn bó với một nền triết học sâu sắc về Phật giáo. Những điều khác biệt sâu xa có tính cách siêu h́nh ở giữa hai truyền thống đạo giáo đó chắc chắn sẽ xuất hiện trong những buổi hội thảo nhóm.
Điều ưu tư chính yếu của tôi là làm thế nào để có thể giúp đỡ hay phục vụ Kitô hữu sống đạo được? Điều mà tôi không chút mong muốn là gieo rắc sự ngờ vực trong tâm thức họ. Như tôi đă nói trước đây, tôi tuyệt đối tin tưởng sự đa dạng của các tôn giáo hiện nay là điều cao quí và thích hợp. Theo kinh nghiệm riêng tôi, mọi truyền thống tôn giáo lớn trên thế giới đều nói một thứ tiếng và truyền đạt một sứ điệp chung mà trên đó chúng ta có thể đích thực xây đắp một sự thỏa thuận hỗ tương.
Một cách đại cương, tôi mong muốn người ta đừng xa rời tôn giáo làm thành nền tảng văn hóa và gia sản của họ. Dĩ nhiên, cá nhân hoàn toàn có quyền thay đổi tôn giáo nếu một tôn giáo khác đối với họ xem ra hữu hiệu hơn và thích ứng hơn cho những nhu cầu tâm linh của chính họ. Nhưng, một cách tổng quát, điều tốt hơn hết là nên có chứng nghiệm về giá trị truyền thống tôn giáo của riêng ḿnh.
Đây là một thí dụ thuộc loại khó khăn có thể gây ra bởi việc thay đổi tôn giáo: vào thập niên sáu mươi, trong một gia đ́nh Tây Tạng, người cha gia đ́nh qua đời và người mẹ đến gặp tôi ít lâu sau đó. Bà tỏ bày với tôi rằng trong kiếp nầy bà là Kitô hữu, nhưng trong kiếp sau không có cách nào khác hơn đối với bà là trở thành Phật tử. Thật là rắc rối! Nếu bạn là Kitô hữu th́ tốt hơn hết bạn hăy phát triển tâm linh bạn trong bối cảnh tôn giáo của bạn và trở thành một Kitô hữu lương hảo đích thực. Nếu bạn là Phật tử, bạn hăy trở nên một Phật tử chân chính. Nếu không, điều đó chỉ tạo nên sự hỗn độn trong trí óc bạn mà thôi.
Trước khi diễn giải văn bản, tôi xin có đôi lời về vấn đề “chiêm niệm” hay “thiền định”. Chữ Tây-Tạng dùng để chỉ “thiền định” là “gom”, gợi lên sự khai triển có tính cách mật thiết thường xuyên với một cách thực hành hay một đối vật riêng biệt. Quá tŕnh “thân quen” là trọng tâm, bởi v́ sự tinh luyện hay khai triển trí óc th́ tương quan đến sự phát triển có tính cách quen thuộc với đối vật được chọn lựa. Do đó, duy chỉ việc áp dụng thường xuyên những kỹ thuật chiêm niệm hay thiền định và một sự tập luyện thường xuyên của trí óc mà người ta có thể dự trù trước sẽ đạt tới một sự biến đổi nội tâm, điều đó tạo thành kỷ luật cho trí óc.
Trong truyền thống Tây-Tạng, đại cương có hai loại thiền định. Một loại cần tới một dung lượng nào đó về phân tích và lư luận; người ta gọi là “thiền quán” hay thiền phân tích. Loại kia có tích cách thu nhập và tập trung hơn; người ta gọi là “thiền chỉ” hay hành động định vị trí óc.
Lấy thí dụ quán chiếu về t́nh yêu và ḷng trắc ẩn (bi) trong ngữ cảnh Kitô giáo. Trong việc thiền quán, chúng ta sẽ đi theo những gịng tư tưởng riêng biệt, chẳng hạn: để yêu mến Thiên Chúa một cách đích thực, tôi phải tỏ lộ t́nh yêu đó bằng hành động yêu mến những người anh em tôi một cách nghiêm túc, tức yêu mến người lân cận của tôi.
Người ta cũng có thể suy tư về đời sống và gương mẫu của chính bản thân Chúa Giêsu Kitô: Ngài đă sống như thế nào, Ngài đă hoạt động cho lợi ích của những con người khả giác như thế nào và những hành động của Ngài đă chiếu tỏa một lối sống được gợi hứng bởi ḷng trắc ẩn như thế nào.
Loại diễn tiến suy tư đó cho thấy khía cạnh phân tích của loại thiền quán trên ḷng trắc ẩn (bi). Người ta cũng có thể quán chiếu một cách tương tự về ḷng nhẫn nhục và khoan dung (nhẫn và ḥa).
Nhờ những suy tư đó người ta sẽ dần dần nhận chân tầm mức quan trọng và giá trị của ḷng trắc ẩn và khoan dung (bi và ḥa). Một khi đạt tới một đích điểm nào đó mà người ta có thể chắc chắn một cách tuyệt đối về giá trị và sự cần thiết cửa ḷng trắc ẩn và khoan dung (bi và ḥa), người ta sẽ cảm thấy bị đánh động và được biến đổi trong nội tâm.
Tới giai đoạn đó, phải tập trung trí óc trên niềm tin độc nhất đó, không cần phải theo đuổi một tiến tŕnh phân tích nào khác nữa. Một cách chính xác hơn, trí óc phải ở trong trạng thái quân b́nh tuyệt đối, tập trung trên một tiêu điểm - đó là khía cạnh thẩm thấu hay duy tŕ sự quán chiếu trên ḷng trắc ẩn (bi).
Như vậy hai loại “thiền quán” và “thiền chỉ” đều được áp dụng trong chính một buổi “thiền định”.
Tại sao chúng ta có thể, bằng cách áp dụng những kỹ thuật thiền định như thế, không những để khai triển mà c̣n để làm cho ḷng trắc ẩn (bi) được tinh luyện hơn. Bởi v́ ḷng trắc ẩn (bi) là một loại cảm xúc có năng lực khai triển.
Đại cương có hai loại cảm xúc. Một loại thuộc bản năng hơn và không có nền tảng trên lư trí. Loại khác, như ḷng trắc ẩn và khoan dung (bi và ḥa), ít có tính cách bản năng hơn và căn cứ vững chắc trên lư trí và kinh nghiệm.
Khi người ta thấy một cách rơ ràng những lư do hợp lư khác nhau để khai triển chúng và khi người ta xác tín một cách chắc chắn những lợi ích mà chúng mang lại, lúc bấy giờ những cảm xúc đó được tinh luyện. Điều xảy ra lúc đó là sự “giao thoa giữa khối óc và con tim”. Ḷng trắc ẩn (bi) tượng trưng cho cảm xúc, hay con tim; và sự ứng dụng việc “thiền quán” thuộc về trí óc. Khi người ta đạt tới giai đoạn thuộc trạng thái “thiền chỉ” mà ḷng trắc ẩn được tinh luyện, người ta tham dự vào sự ḥa hợp đặc biệt của trí óc và con tim.
Nếu giờ đây người ta xem xét bản chất những trạng thái thiền định đó, người ta nhận thấy chúng được làm thành bởi những thành phần khác nhau.
Chẳng hạn, lấy thí dụ tiến tŕnh lư giải bao gồm việc suy tư chúng ta đều là những con người, những tạo vật của một Đấng Tạo Hóa và do đó thật là những anh em chị em với nhau. Trong trường hợp đó, quí bạn tụ tiêu trí óc vào một đối vật riêng biệt. Nói cách khác, tính chủ quan lư giải của bạn tập trung vào ư tưởng hay khái niệm mà quí bạn phân tích.
Tuy nhiên, một khi đạt tới một trạng thái tập trung trên một điểm duy nhất - khi bạn cảm thấy sự biến đổi nội tâm đó, ḷng trắc ẩn (bi) ở trong nội tâm của bạn đó - th́ không c̣n một trí óc chiêm niệm và đối vật được chiêm niệm. Thay vào đó, trí óc chiêm niệm hay thiền định của bạn mở rộng ra dưới h́nh thức ḷng trắc ẩn (bi).
Tôi chấm dứt những nhận xét sơ đẳng về vấn đề chiêm niệm hay hành thiền. Giờ đây tôi sẽ đọc đoạn Phúc Âm:
“Các ngươi đă nghe bảo rằng: 'Mắt thế mắt, răng đền răng'. C̣n Thầy, Thầy bảo các ngươi: đừng cự lại người ác. Nếu ai vả má phải ngươi th́ hăy giơ má kia nữa. Nếu ai muốn kiện ngươi để đoạt áo lót, th́ hăy bỏ cả áo choàng cho nó. Nếu ai bắt ngươi đi một dặm th́ hăy đi với nó hai dặm. Ai xin, ngươi hăy cho, và người muốn vay mượn, ngươi chớ khước từ.”
(Matthêu 5, 38-42)
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 4 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:29am | Đă lưu IP
|
|
|
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma
(đề cập đến hỷ xả và nhẫn ḥa)
“Thực hành đức hỷ xả và nhẫn ḥa như được khuyến khích trong đoạn nầy giống y hệt việc thực hành đức hỷ xả và nhẫn ḥa thường được khuyến khích trong Phật giáo nói chung. Đặc biệt hoàn toàn đúng với Phật giáo Đại-Thừa trong bối cảnh “Bồ-Tát hạnh” (bodhisattva) thường khuyến khích, khi người ta làm điều ác cho ḿnh, th́ đáp trả lại bằng bất bạo động và từ bi. Trong một giới hạn nào đó, nếu đặt đoạn Phúc Âm nầy vào một chuyên luận Phật giáo, người ta có thể không nhận ra nguồn gốc Kitô giáo.”
“Các ngươi đă nghe nói: 'Hăy yêu mến thân nhân và hăy ghét kẻ địch thù'. C̣n Thầy, Thầy bảo các ngươi: Hăy yêu mến kẻ thù địch và khẩn cầu cho kẻ bắt bớ các ngươi. Như vậy các ngươi trở nên con cái của Cha các ngươi ở trên trời v́ Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ cũng như người lành và làm mưa xuống trên người công chính cũng như bất công. V́ nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các ngươi th́ các ngươi có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu các ngươi chỉ chào hỏi anh em ḿnh thôi, th́ các ngươi có làm ǵ lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy các ngươi hăy nên hoàn thiện như Cha các ngươi ở trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Matthêu 5, 43-48)
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma
(bàn luận về từ bi với kẻ thù - sự sáng tạo - ba loại hy xả và nhẫn nhục)
“Đoạn nầy làm tôi nhớ lại một đoạn trong sách Phật giáo Đại Thừa gọi là “Bản tóm tắt những điều thực hành” trong đó ngài Shantidéva hỏi: “Nếu các ngươi không thực hành đức từ bi đối với kẻ địch thù th́ các ngươi sẽ thực hành đức từ bi đối với ai?” Người ta hiểu ngầm rằng cho dẫu súc vật cũng biểu lộ đức ái, đức từ bi và một t́nh cảm tha giác đối với những người mà chúng cảm mến. Nếu chúng ta tự nhận ḿnh là những người thực hành một linh đạo, cam kết theo đuổi một con đường tu đức, chúng ta phải tỏ ra ḿnh có thể làm tốt hơn loài súc vật.
Đoạn Phúc Âm trích dẫn nầy cũng nhắc nhở tôi những suy tư của một quyển sách khác thuộc Phật giáo Đại Thừa goi là “Bồ Tát Hạnh” (người Tây phương dịch là “Tiến Tới Sự Giác Ngộ”) trong đó ngài Shantidéva xác quyết tầm mức quan trọng về thái độ đứng đắn phải có đối với kẻ thù. Nếu quí bạn biết vun trồng một thái độ chân chính, kẻ thù các bạn trở nên những bậc thầy tâm linh tuyệt hảo, bởi v́ sự hiện diện của họ cho quí bạn cơ hội tấn tới trong sự hỷ xả, nhẫn nhục và cảm thông. Khi thâu thập được nhiều hỹ xả và nhẫn nhục, sẽ dễ dàng hơn trong việc phát huy thái độ của quí bạn đối với ḷng từ bi và nhờ đó, ḷng vị tha. Như vậy, cho dẫu đối với việc thực hành linh đạo riêng của quí bạn, sự hiện diện của một kẻ thù là yếu tố quyết định.
Sự loại suy mà Phúc Âm đưa ra với h́nh ảnh “mặt trời chiếu sáng mà không phân biệt” là điều rất quan trọng. Đó là một ẩn dụ tuyệt vời về ḷng từ bi. Điều đó cho thấy đức từ bi th́ không thiên vị và không loại trừ.
Khi đọc những đoạn nầy, tôi thấy Phúc Âm nhấn mạnh đến việc thực thi tâm hỷ xả và làm tăng giá trị những t́nh cảm không thiên vị đối với mọi tạo vật. Theo tôi, để triển khai năng khiếu mỗi cá nhân về tâm hỷ xả đối với mọi sinh vật và nhất là đối với kẻ thù, có một điều kiện tiên quyết quan trọng là chấp nhận mọi sinh vật một cách b́nh đẳng.
Nếu người ta nói với quí bạn là không được thù nghịch đối với kẻ thù của ḿnh, phải thương yêu kẻ thù của ḿnh; chỉ quyết đoán như vậy mà thôi th́ sẽ không thúc đẩy quí bạn thay đổi được. Theo bản tính tự nhiên, ai trong chúng ta cũng cảm thấy thù nghịch đối với những ai làm hại ḿnh và thương mến đối với những ai thương yêu ḿnh. Đó là một t́nh cảm tự nhiên của con người. V́ vậy chúng ta phải có những kỹ thuật hữu hiệu để giúp đỡ chúng ta đi từ giai đoạn thiên vị gắn liền với bản tính chúng ta để sang một t́nh trạng hoàn toàn b́nh đẳng hơn.
Nhiều kỹ thuật chuyên biệt cho phép khai triễn sự b́nh đẳng đối với mọi sinh vật. Trong ngữ cảnh Phật giáo, người ta có thể nhắc tới ư niệm “tái sinh” để giúp chúng ta thực hành sự b́nh đẳng. Tuy nhiên, v́ chúng ta thảo luận trong bối cảnh Kitô giáo, chắc chắn có thể gợi lên ư niệm “Sự Sáng Tạo” theo đó mọi tạo vật đều b́nh đẳng về phương diện hết thảy chúng sinh đều là tạo vật của một Thượng Đế. Từ niềm tin đó, người ta có thể tiến tới trong việc b́nh đẳng.
Ngay trước cuộc hội thảo nầy, tôi đă có dịp trao đổi vắn tắt với cha Laurence và ngài đă cắt nghĩa cho tôi là, trong nền thần học Kitô giáo, người ta cho rằng mọi người đều được tạo dựng theo “h́nh ảnh Thiên Chúa” - tất cả chúng ta đều chia sẻ cũng chính một bản tính thần linh. Điều nầy đối với tôi xem ra tương tự với ư niệm về “phật tính” trong Phật giáo. Niềm tin nầy cho rằng mọi người tham gia vào cũng chính một bản tính thần linh đă cung ứng cho chúng ta một nền tảng chắc chắn, một lư do rất vững mạnh để tin tưởng rằng mỗi người trong chúng ta có thể có được một tinh thần b́nh đẳng chân chính đối với mọi sinh vật.
Tuy nhiên, chúng ta không nên xem sự b́nh đẳng về linh hồn đó như là một cứu cánh nội tại. Chúng ta cũng không nên có cảm tưởng theo đuổi một trạng thái vô cảm tính hoàn toàn theo đó chúng ta không có một chút t́nh cảm nào cũng như không có một chút xúc động nào đối với bạn hay thù. Đó không phải là mục tiêu mà chúng ta nhắm tới.
Điều mà chúng ta ao ước trước tiên đó là đặt để những nền móng, bố trí một loại đất trống mà ở đó chúng ta sẽ có thể ươm trồng những tư tưởng khác. B́nh đẳng là thửa đất đồng đều đó mà chúng ta sửa soạn trước tiên. Trên căn bản đó, chúng ta sẽ suy tư những giá trị của nhẫn nhục, nhân ái và từ bi đối với mọi người.
Chúng ta cũng phải xét xem những trở ngại và những phủ định tính phát xuất từ sự thiên vị đối với những người khác. Điểm mấu chốt nằm ở cách thức sử dụng sự b́nh đẳng căn bản đó. Quan trọng là tập trung vào những phủ định tính của sân hận và oán thù đă tạo nên những trở ngại chính cho việc triển nở năng khiếu của chúng ta về tâm từ bi hỷ xả.
Điều đó có thể thực hiện được trong bối cảnh Kitô giáo mà không phải nhờ đến một niềm tin nào đó về sự tái sinh: Thượng Đế đă tạo dựng bạn thành một cá nhân và cho bạn tự do để hành động một cách tương hợp và ăn khớp với những ước muốn của bạn - hành động một cách đạo đức, một cách hợp luân lư và sống một cuộc sống xứng đáng với một cá nhân có tinh thần kỷ luật đạo đức và trách nhiệm. Nhờ thử thách và thực tập tâm hỷ xả và nhẫn nhục đối với đồng loại, quí bạn làm tṛn lời khấn hứa nầy: quí bạn làm hài ḷng “Đấng Tạo Hóa” của quí bạn. Theo một nghĩa nào đó, đây chính là tặng phẩm tốt đẹp nhất mà quí bạn có thể dâng lên Đấng Tạo Hóa linh thiêng.
Trong Phật giáo, người ta t́m thấy ư niệm gọi là “cúng dường bằng cách thực hành” (drupai chopa) theo đó, trong mọi vật cúng dường mà người ta có thể dâng lên cho Đấng mà chúng ta tôn kính - cúng dường vật chất, những bài hát ca tụng và những tặng vật khác - vật cúng dường tốt đẹp nhất là việc sống một cuộc đời thích ứng với những phương châm do Đấng đó đề ra.
Trong ngữ cảnh Kitô giáo, sống một cuộc đời có kỷ luật đạo đức, căn cứ trên tâm hỷ xả và nhẫn nhục, theo một nghĩa nào đó, quí bạn đă dâng hiến một tặng phẩm tuyệt vời lên Đấng Tạo Hóa của quí bạn. Theo một cách nào đó, điều nầy hữu ích nhiều hơn là giới hạn vào việc thực hành bằng lời cầu nguyện. Nếu quí bạn cầu nguyện mà không sống thích hợp với lời cầu nguyện ấy, điều đó chả có ích lợi lớn đâu.
Một trong những thiền sư nổi tiếng của Phật giáo Tây Tạng là ngài Milarepa, quả quyết trong một bài kệ về chứng nghiệm tâm linh như sau: “Đối với những vật cúng dường vật chất th́ tôi không có; tôi không có ǵ để dâng cúng. Điều mà tôi có thể dâng cúng không hết, đó là tặng vật của sự đạt ngộ tâm linh của tôi.”
Chúng ta thấy rơ, một cách đại cương, một người tràn đầy tâm từ bi nhẫn nhục sẽ hưởng thụ sự an lạc. Một người như thế chẳng những hạnh phúc và không bị xúc động dễ dàng, mà c̣n được khỏe mạnh về thể xác và ít bị đau yếu. Người đó có một ư chí mạnh, ăn ngon và ngủ ngon. Đó là những lợi ích của tâm hỷ xả nhẫn nhục mà chúng ta có thể nhận thấy trong cuộc sống hằng ngày.
Một trong những điều xác tín nền tảng của tôi là bản tính con người theo bản chất th́ có xu hướng về từ bi và nhân ái hơn. Bản tính con người theo bản chất th́ hiền từ và không hung hăn bạo động. Điều nầy hoàn toàn phù hợp với điều mà cha Laurence đă nói về sự kiện mọi người chia sẻ cùng một bản tính thần linh.
Tôi muốn nói thêm là khi xem xét sự tương quan giữa tâm thần hay lương tâm và thể xác, người ta nhận thấy rằng những cử chỉ, xúc động và những trạng thái tâm thần lành mạnh như tâm từ bi hỷ xả th́ liên hệ một cách chặt chẽ với sức khỏe thể xác và sự an sinh. Chúng làm tăng sự “an sinh thể lư”, trong khi những cử chỉ và những xúc động tiêu cực hay không lành mạnh như giận hờn, ghen ghét, những trạng thái tâm linh bị xáo trộn…làm hao ṃn sức khỏe thể xác. Sự liên hệ đó chứng tỏ rằng bản chất con người vốn gần gũi hơn với những cử chỉ và những xúc động lành mạnh.
Sau khi đă suy tư về những đức tính của tâm hỷ xả nhẫn nhục và xác tín sự cần thiết phải phát huy nơi chính ḿnh, kế đó phải xét xem những loại và những tŕnh độ khác nhau về tâm hỷ xả nhẫn nhục. Về điểm nầy, kinh sách Phật giáo tŕnh bày “ba loại hỷ xả nhẫn nhục”.
Loại thứ nhất là trạng thái dửng dưng không lay chuyển - người ta có thể chịu đựng đau đớn hay đau khổ mà không để chúng nhận ch́m. Trong trạng thái thứ hai, hành giả không những có thể chịu đựng những đau khổ như thế, nhưng nếu cần, c̣n sẵn sàng và mong muốn chấp nhận vào ḿnh những thử thách, những cực nhọc và đau khổ trên con đường tu đức. Điều nầy bao hàm việc tự ư chấp nhận những thử thách để đạt tới một mục tiêu cao hơn. Loại thứ ba là tâm hỷ xả nhẫn nhục nảy sinh do niềm xác tín chắc chắn đối với bản chất thực tế.
Trong việc thực hành của Kitô hữu, loại nhẫn nhục đó đặt căn bản trên những huyền nhiệm của việc Sáng Tạo. Cho dù sự phân biệt về ba tŕnh độ hỷ xả đó là công việc của các tác giả Phật giáo, cũng có thể đưa vào trong ngữ cảnh Kitô giáo được. Điều đó đặc biệt chính xác đối với loại thứ hai về tâm hỷ xả nhẫn nhục - nghĩa là cương quyết chấp nhận những thử thách trên hành tŕnh tâm linh - xem ra đó là vấn đề được đề cập đến trong đoạn sau: “Những Mối Phúc Thật” trong Phúc Âm Thánh Matthêu.”
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 5 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:37am | Đă lưu IP
|
|
|
Điểm nổi bật nơi Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thứ mười bốn - ngài Tenzin Gyatso - đó là ngoài những giờ thiền định, h́nh như ngài không thể nào ngồi yên, lúc nào cũng động đậy. Phát biểu ở trong giảng đường Đại Học Middlesex ở Luân Đôn vào tháng chín năm 1994, trước một cử tọa khoảng ba trăm năm mươi Kitô hữu với một nhóm nhỏ Phật tử, thân ḿnh và diện mạo ngài chính là biểu tượng cho học thuyết nhà Phật về sự sinh động trường tồn.
Không những ngài bày tỏ sự chú ư bằng những cử chỉ chống tay, những nụ cười hàm tiếu, những cử động chân mày và những trận cười ṛn ră, nhưng thường xuyên ngài hay gập lại hay giũ những đầu tay áo màu hạt dẻ, cầm tay những khách khứa ngồi trên bục cạnh ngài, ra hiệu cho bạn bè ngồi trong pḥng hội hay lần giở những tờ chương tŕnh trong khi người thông dịch của ngài tóm lượt một đề tài khá dài.
Lư do buổi hội ngộ có tính cách lịch sử - nếu người ta không muốn nói quá đáng – đó là “Cuộc Hội Thảo của John Main”, một cuộc hội thảo thường niên do “Cộng Đồng Chiêm Niệm Kitô Giáo Thế Giới” tổ chức. Cha John Main là tu sĩ Biển Đức người Ái-Nhĩ-Lan, quảng bá đường lối chiêm niệm theo truyền thống John Cassian và các Cha tu rừng và ngài đă sáng lập những trung tâm chiêm niệm Kitô giáo trên toàn thế giới.
Mỗi năm từng trăm người thực hành đường lối chiêm niệm đó, xuất phát gần như hầu hết các lục địa - phần lớn gồm tín hữu Công giáo và Anh giáo, nhưng không loại trừ tín đồ các tôn giáo khác - cùng nhau hội họp và tham dự những cuộc thuyết tŕnh về một số vấn đề như đạo đức học, đời sống tâm linh, Thánh Kinh, đối thoại giữa các tôn giáo và cầu nguyện.
Nhiều nhân vật tên tuổi điều khiển các buổi gặp gỡ đó mà trong những năm vừa qua gồm có: Charles Taylor, một triết gia người Gia-Nă-Đại; Bede Griffiths, tu sĩ Biển Đức người Anh và sáng lập viên một thiền viện ở Ấn-Độ; và John Vanier, sáng lập viên cơ sở “Arch”, một tập hợp những cộng đồng Kitô hữu chia sẻ đời sống những người khuyết tật.
Lần đầu tiên Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma được mời tới dẫn giải Phúc Âm ở giữa đại chúng, do sáng kiến của Dom Laurence Freeman – tu sĩ Biển Đức – tốt nghiệp đại học Oxfort về văn chương và là tu sĩ tu viện Biển Đức Olive ở Cockfosters Luân Đôn. Cha Laurence Freeman là thuyết tŕnh viên sống động và nổi bật nhất của Cộng Đồng kể từ khi cha John Main qua đời năm 1983.
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă tiếp nhận trước tám đoạn Thánh kinh Kitô giáo trong đó có “Bài Giảng Trên Núi” (Mat-Thêu đoạn 5), “Dụ Ngôn Hạt Cải về Nước Trời” (Mác-Cô đoạn 4), “Sự Hiển Dung hay Biến H́nh” (Lu-Ca đoạn 9) và “Sự Phục Sinh” (Gioan đoạn 20). Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma được hoàn toàn tự do dẫn giải.
Người ta chỉ lưu ư ngài là cử tọa gồm những Kitô hữu (Công giáo, Anh giáo và Tin Lành), phần đông thuộc cộng đồng nói tiếng Anh, xuất phát từ mọi lục địa và hầu hết - chỉ trừ vài ngoại lệ - hằng ngày thực hành đường lối chiêm niệm trong thinh lặng.
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma không những là một giáo chủ mà c̣n là một quốc trường. Nhiều người khát khao được nghe ngài giảng, đă lo ngại Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma sẽ bị báo giới và các cộng sự viên vây quanh và ngài không thể trao đổi một cách hoàn toàn tự nhiên bằng trí óc cũng như con tim. Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă nhanh chóng đánh tan nỗi lo ngại đó và hơn thế nữa, với một sự thoải mái rất đáng kinh ngạc.
Mỗi buổi mai từ sáng sớm, trước khi dùng điểm tâm và tra tay vào chương tŕnh trĩu nặng trong ngày, ngài đă cùng với chư tăng tiến vào pḥng hội mờ ảo và, cùng với các Kitô hữu hiện diện, ngài đă ngồi xuống trong một trạng thái bất động tuyệt vời và thiền định trong ṿng nửa tiếng. Trong thinh lặng, chỉ thỉnh thoảng bị ngắt quăng bởi một tiếng sột soạt hay một cơn ho, nỗi ưu tư đă nhường chỗ cho một mối liên hệ tín nhiệm lẫn nhau và tiếp nhận những ǵ sẽ được chia sẻ.
Sau cùng, ngài cúi đầu nhẵn bóng trên bản văn, theo dơi từng chữ bằng ngón tay và theo cung cách các giáo sĩ Do-Thái giáo, ngài đọc lớn tiếng: “Phúc cho ai hiền lành…Phúc cho những tâm hồn trong sạch…Phúc cho những người bị bách hại v́ sự công chính…” Cử tọa rất đỗi cảm xúc, hầu như bị giao động bởi uy dũng của những gịng chữ tuy quen thuộc nhưng được nắn nót và ḥa điệu theo cung giọng người Tây Tạng cùng với niềm xúc cảm của một Phật tử.
Ư thức về những sự tàn phá ghê gớm được điều hợp bởi phía Trung Cộng trên nền văn hóa và dân tộc Tây Tạng cùng những nỗi tân khổ của chính bản thân Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma vừa tị nạn vừa bị lưu đày biệt xứ, người ta không thể không nhận ra những âm ba xé ḷng của bài đọc đó.
Cho dẫu t́nh trạng chính trị trầm trọng đến đâu, ba ngày gặp gỡ đó đă trổi vượt xét trên b́nh diện lịch sử. Tất cả chúng tôi đă đến để nghe một bậc thầy tu đức và chúng tôi đă được sống một biến cố tâm linh sâu sắc, dĩ nhiên đi vào sử sách, nhưng với một tầm mức rộng lớn hơn. Khung cảnh bao trùm buổi gặp gỡ của cuộc hội thảo cũng khá uyển chuyển để có được một bầu khí đơn giản và thoải mái.
Những buổi hội thảo bắt đầu bằng thời gian chiêm niệm, kế đó Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đọc một đoạn Thánh kinh bằng tiếng Anh và dẫn giải. Tiếp theo là cuộc thảo luận với các tham dự viên và buổi hội thảo chấm dứt bằng những bài tụng niệm. Sau bữa ăn trưa, một buổi hội thảo khác lại tiếp diễn cũng theo một lịch tŕnh tương tự.
Sự mô tả đó không chú tâm đến trạng thái tinh thần và không khí thực sự của những cuộc thảo luận. Giữa những bài đọc và phần dẫn giải, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma đă điềm tọa trước một bàn dài thấp thấp, ở giữa hai nhân vật khác.
Ở bên tả ngài, trong chiếc áo màu trắng ḍng Biển Đức, cha Laurence Freeman khi th́ ghi chép, khi th́ gật đầu, mỉm cười hay liếc mắt thăm ḍ - bày tỏ một cách không ư thức những phản ứng của những người ngồi trong pḥng hội.
Ở bên phải ngài là thầy Geshe Thupten Jinpa, một vị tăng trẻ mảnh khảnh người Tây Tạng, trong bộ áo nâu sồng, lo phần chuyển dịch. Trầm tĩnh, tập trung tinh thần, chăm chú và hoàn toàn thư thái, thầy dịch tiếng Tây Tạng ra tiếng Anh gần như cùng một lúc một cách lưu loát. Sự khéo xử và khiêm nhu của vị tăng trẻ nhằm phục vụ thầy ḿnh mà không chút ǵ có tích cách nô bộc, đă trở nên cho mọi người mẫu mực bất biến về sự chú tâm gần như tuyệt hảo và một phẩm cách chỉ muốn lu mờ.
Do cách tổ chức đó và cũng có thể v́ tư cách và đường lối diễn đạt của Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, cuộc độc thoại trong thực tế đă biến thành đối thoại và thường khi đă trở thành một cuộc đàm thoại tay ba.
Cả Dom Laurence lẫn Jinpa không cắt đứt lời nói của ngài, nhưng họ đă được Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma xen vào một cách tự nhiên khi ngài cảm thấy hứng thú: ngài đưa mắt qua lại từ người nầy đến người kia, thăm ḍ một phản ứng, sửa chữa một câu nói, nhướng mắt lên ḍ xét hay làm thư giản không khí pḥng hội bằng một nụ cười.
Giữa những cuộc hội thảo, hai tham dự viên được mời lên trên bục gỗ để đặt câu hỏi, cuộc nói chuyện với bố cục rất chặt chẽ đă bung ra thành những mảnh vụn, rời rạc nhưng liên đới, về tư tưởng, ngôn ngữ, giọng nói, tuổi tác, phái tính, tánh t́nh và tín ngưỡng tôn giáo; tuy nhiên cuộc trao đổi không bao giờ hỗn độn.
Với tư cách là một người biệt xứ và một bậc thầy Phật học, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma không ưu tư đến những thay đổi thất thường; ngài có thể làm dịu t́nh trạng bị kích động khi lạt mất trong những luồng tư tưởng rời rạc và xa lạ của người Tây phương. Cũng như tất cả những bậc đại minh sư khác, ngài cũng có biệt tài rút tỉa từ cuộc trao đổi một ư tưởng hay đẹp phảng phất bên trong mà không ai nhận ra.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 6 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:39am | Đă lưu IP
|
|
|
Người ta bảo Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma là một con người đơn giản. Cho dù lời nói đó chỉ là một lời khen tặng, thật khó mà không thể phán đoán thái độ có tính cách hơi hạ ḿnh của người Tây phương đối với những tôn giáo và nền văn hóa Đông phương, chỉ xem đó là những truyền thống ngoại lai và sơ đẳng đứng trên b́nh diện triết học.
Chỉ khi nào Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma tỏ ra bộc trực, nồng nhiệt và thân t́nh, người ta mới có thể nói ngài là một con người “đơn giản”. Nhưng đối với những điều ǵ c̣n lại, đó là một con người tế nhị, sâu sắc, đa diện, có trí thông minh tuyệt vời và một sự hiểu biết ít người sánh kịp.
Nhờ ngài, ba đặc tính đă làm nổi bật một bài thuyết giảng có tính cách đạo giáo. Những đặc tính đó ngày nay rất hiếm hoi trong những buổi họp mặt các Kitô hữu cho đến đỗi cử tọa đă đón nhận với sự thỏa thích và tri ân: đó là sự dịu dàng, trong sáng và cười tươi. Nếu có một chút ǵ đặc tính “ḍng Biển Đức” nơi ngài, người ta cũng nhận ra đặc tính “ḍng Phan-xi-cô” và một chút “ḍng Tên” nữa.
Ngay từ đầu, ngài đă làm cho cử tọa cảm thấy thoải mái khi tuyên bố một cách trầm tĩnh và dịu dàng rằng ngài không có mảy may dụng ư nhằm “gieo rắc sự ngờ vực” trong tâm thức các Kitô hữu về đức tin của họ. Luôn luôn ngài khuyên bảo họ hăy đào sâu kiến thức và thấu triệt giá trị những truyền thống riêng tư, bằng cách nhấn mạnh rằng những cảm quan nhân sinh và những nền văn hóa quá khác biệt nhau đến đỗi khó có thể biện minh cho một “con đường duy nhất” đưa đến Chân Lư.
Một cách dịu dàng nhưng cũng kiên tŕ và cương quyết, ngài đă bác khước những gợi ư theo đó Phật giáo và Kitô giáo là những ngôn ngữ khác nhau đề cập đến những niềm tin chủ yếu giống nhau. Về nền đạo đức học và tầm quan trọng liên quan đến ḷng mẫn cảm, t́nh huynh đệ và sự tha thứ, ngài công nhận có những điểm tương đồng.
Nhưng trong tầm mức mà theo đó Phật giáo không công nhận một Thượng Đế Sáng Tạo cũng như một Đấng Cứu Thế có Bản Vị th́ tham vọng nối kết “Phật giáo và Kitô giáo” lại với nhau chỉ là việc muốn “ghép đầu ḅ trên thân con cừu”.
Trong những buổi hội thảo lâu dài mà ngài đă dùng nhiều giờ để đọc và dẫn giải những văn bản có tính cách khúc chiết về thần học cùng trả lời những câu hỏi tế nhị, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma luôn giữ sự trong sáng của trí tuệ một cách đáng ngạc nhiên.
Có một lúc, ngài tŕnh bày những thực hành chiêm niệm về Phật giáo Đại Thừa như là những kỹ luật nhằm duy tŕ sự tập trung giác thức, chứ không phải một ư thức bị “phân tán” hay “suy sụp” trong đờ đẫn.
Một trong những h́nh thức tỏ ḷng kính trọng đối với cử tọa là ngài chú ư đến họ. Hiếm khi một nhân vật, cho dù thuộc về tôn giáo, khi nầy hay khi khác, không dùng tới những câu trả lời “có sẵn”. Chắc chắc Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma cũng không ra ngoài thông lệ đó, nhưng rơ ràng sự hiện diện của ngài trong mỗi khoảnh khắc đối với Phúc âm cũng như hội chúng, vừa bằng con tim và lư trí, là một sự chuyên cần về cường độ mà ít người có thể có được.
Về câu hỏi có những sự thực hành tương đồng nào để có thể nối kết những tín hữu tuyên xưng những niềm tin khác nhau nhưng không pha lẫn những con ḅ và con cừu, ngài đă khuyên bảo họ nên “học hỏi, chiêm niệm và đi hành hương”. Ngài cho biết đă đi tới Lộ Đức và t́m thấy ở đó một sự chiếu tỏa linh thánh cho đến đỗi ngài đă sụp xuống cầu nguyện “hết mọi thánh nhân” để các Ngài có thể duy tŕ quyền năng chữa bệnh ở nơi đó.
Khi ngài nói những lời nầy, hội trường đă nín thở v́ kinh ngạc thích thú trước cử chỉ tôn kính vừa có tính cách đơn thuần vừa tuyệt đối trung thành theo truyền thống Phật giáo mà từ đó ngài đă xuất phát.
Khi suy tư về sự “Hiển Dung” hay “Biến H́nh”, ngài đă tŕnh bày một cách khoa học quan niệm Phật giáo về những phép lạ và những biểu lộ linh thiêng. Không một chút giáo điều hoặc với ḷng mộ đạo thuộc loại t́nh cảm, ngài đề cao một truyền thống xa xưa đă từ lâu biết thích ứng những chứng nghiệm vượt quá giới hạn thông thường cửa lư trí và luật tự nhiên theo một phương thức tâm lư và kỷ luật tự giác thuần lư cao độ.
Ngài đă khiêm tốn phủ nhận là ngài có những chứng nghiệm đó, nhưng ngài không thấy có lư do ǵ để bác khước tính cách xác thực của chúng. Với những lời nầy, nhiều thế kỷ tranh cải giữa Kitô hữu về các phép lạ cũng như những giải thích khác nhau xem ra hoàn toàn điên rồ.
Khi ngài dẫn giải cuộc gặp gỡ giữa chị Maria Ma-Đa-Lê-Na và Chúa Giêsu trong câu chuyện Phục Sinh do Thánh Gioan kể lại đă khiến nhiều người ứa lệ. Khó mà nói chính xác tại sao.
Một số người có cảm tưởng như nghe những lời đó lần đầu tiên, dường như sự dịu dàng, sự huyền bí và vẻ đẹp của những chữ đó đă bị lăng quên v́ quá quen thuộc, nay được phục hồi sức sống, chẳng khác nào một tặng phẩm được mang đến từ một sứ giả mà người ta không bao giờ trông đợi.
Khi phải đương đầu với sự nghịch lư có tính cách triết học hay tôn giáo hoặc điều ǵ khó diễn tả, người Tây phương trở nên nghiêm nghị. Các Phật tử hiển nhiên có nhiều cách phản ứng khác nhau và cách gây hào hứng cho buổi hội thảo đó là tiếng cười.
Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thích trào lộng về các tăng sĩ, những con ḅ, về sự luân hồi và thị kiến, nhưng thường khi một cử chỉ, một sự phát biểu hay một sự ngừng nghỉ trong tiến tŕnh thảo luận - b́nh thường không thoát khỏi sự g̣ bó - đă phát xuất nơi ngài những tràng cười dễ lây.
Vào cuối ngày hội thảo, khi mọi người bắt đầu cảm thấy thấm mệt v́ biết bao xúc động cô đọng lại, vị thông ngôn tuyệt vời của ngài là Jinpa, một tăng sĩ trẻ tuổi đă giữ một vẻ trầm tĩnh xuất chúng suốt những ngày đó đă phá lên cười không thể kềm chế được khiến rung động từ đầu đến chân, khi thầy ra sức dịch một giai thoại mà Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma kể lại.
Để trả lời cho một tham dự viên nhận xét rằng nhiều người không thể chiêm niệm được v́ không có thời giờ, Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma kể câu chuyện một tăng sĩ hứa hẹn với đệ tử là sẽ đem cậu đi “picnic” (tức đi du ngoạn), nhưng thầy không bao giờ có thời giờ rảnh rỗi để giữ trọn lời hứa.
Ngày kia, hai thầy tṛ thấy một đoàn người đi theo sau cỗ quan tài, vị tăng sĩ hỏi đệ tử: ‘Người đó đi đâu vậy?” Thông dịch viên và cử tọa phải chờ đợi những năm phút, sau đó Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma thứ mười bốn mới nói tiếp câu trả lời: đó là “đi picnic” (đi du ngoạn).
Đối với nhiều Kitô hữu, một buổi hội thảo đại kết hay một Thánh Lễ không phải là một buổi “picnic” (du ngoạn). Nhưng dĩ nhiên ngày lễ hội cũng thuộc về thực tế và những đặc trưng Kitô giáo cũng như những tôn giáo khác. Về phương diện đó, nghe Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma diễn giải Phúc Âm là một ngày lễ hội thật sự.
Mỗi người cảm thấy bị đánh động và ngạc nhiên thấy “người khách lạ” đă cảm động ḿnh đến mức độ nào. Một kẻ bị lưu đày và không có chút quyền uy nào trên Kitô hữu ngoại trừ quyền uy được lănh nhận từ Đức Thánh Linh, đă có thể bày tỏ cho mọi người thuộc mọi đạo giáo những sự phong phú của chính bàn tiệc của họ.
Phỏng theo Robert KIELY
thành viên ḍng ba Biển Đức
và chủ tịch Ban Giám Đốc
World Community for Christian Meditation
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên
Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 7 of 7: Đă gửi: 09 April 2006 lúc 7:55am | Đă lưu IP
|
|
|
Nước Ấn-Độ quen với lối “thiền định” (samadhi), chung cho mọi tôn giáo ở Ấn-Độ như Ấn-Độ giáo, Phật giáo và Giai-Na giáo. Có vài loại “thiền quán” (vipasyana) cũng chung cho nhiều truyền thống tôn giáo đó. Người ta tự hỏi tại sao “thiền định” (samadhi) lại quan trọng đến thế. Bởi v́ “thiền định” (samadhi) hay lối thiền tụ tiêu là một phương cách huy động tinh thần, huy động nghị lực tâm thần.
“Thiền định” (Samadhi) được xem như một yếu tố thiết yếu cho việc rèn luyện tâm linh của mọi truyền thống tôn giáo lớn ở Ấn-Độ bởi v́ điều đó mang lại khả năng tập trung mọi năng lực tinh thần của hành giả và hướng dẫn tinh thần đến một đối tượng riêng biệt, giúp tập trung tinh thần vào một điểm duy nhất.
Tôi tin chắc rằng lời “cầu nguyện, thiền định và chiêm niệm” - càng suy lư và phân tích - nếu được liên kết với nhau hằng ngày th́ hiệu quả trên tinh thần và con tim hành giả càng tăng trưởng hơn. Việc thực hành tôn giáo trước tiên nhắm đến sự biến đổi nội tâm hành giả, khiến hành giả đi từ một trạng thái tâm linh vô kỷ cương, bất trị, phân tâm đến một trạng thái có kỷ luật, thuần hóa và quân b́nh.
Một người khai triển được khả năng tập trung tinh thần một cách hoàn hảo trên một tiêu điểm đương nhiên sẽ đạt tới đích điểm đó một cách dễ dàng hơn. Khi sự chiêm niệm làm thành một phần bất khả phân ly trong đời sống tâm linh, quí bạn có thể thực hiện sự biến đổi nội tâm một cách có hiệu quả hơn.
Khi đạt đến trạng thái mới đó, các bạn sẽ khám phá ra rằng, bằng cách nương theo truyền thống tâm linh riêng của chính bạn, một thứ khiêm tốn tự nhiên triển nở ở nơi bạn cho phép bạn giao tiếp tốt đẹp hơn với những đồ đệ thuộc những lănh vực văn hóa và những truyền thống tôn giáo khác nhau. Quí bạn sẽ ở vào tư thế tốt nhất để thẩm định giá trị và sự phong phú của những truyền thống khác nhau bởi v́ các bạn đă nhận chân giá trị đó bằng cách tự đặt ḿnh ngay chính bên trong truyền thống quí bạn.
Người ta thường cảm nhận những “tư tưởng cố chấp” đối với tín ngưỡng tôn giáo của ḿnh - linh đạo của tôi là duy nhất và chân chính - mà từ đó phát sinh những mối bất liên kết đối với những người thuộc các tôn giáo khác. Tôi nghĩ rằng phương thế hay nhất để chiến thắng lực vô h́nh đó là h́nh thành một thứ kinh nghiệm về chân giá trị của chính linh đạo ḿnh bằng một đời sống chiêm niệm, để rồi sau đó nhận chân giá trị và tính chất cao quí của những truyền thống khác.
Để có một tinh thần ḥa điệu chân chính căn cứ trên những kiến thức vững chắc, tôi thiết tưởng rất quan trọng phải “nhận ra những dị biệt căn bản” giữa những truyền thống đạo giáo. Dĩ nhiên có thể t́m hiểu xem các tôn giáo đă chia cách nhau ở điểm nào, đồng thời cũng một trật nhận chân giá trị và những khả năng của mỗi truyền thống. Nhờ vậy, hành giả sẽ phát huy một nhận thức quân b́nh và ḥa điệu.
Có người quan niệm rằng phương cách hữu lư nhất để đạt tới sự ḥa điệu và hóa giải những vấn nạn do sự bất khoan nhượng tôn giáo gây ra là thành lập một “tôn giáo hoàn cầu” có giá trị cho toàn thể nhân loại. Tuy nhiên, tôi luôn quan niệm rằng chúng ta phải có những truyền thống tôn giáo khác nhau bởi v́ nhân loại có biết bao khuynh hướng tâm linh khác nhau: một tôn giáo không thể thỏa măn hết mọi nhu cầu tâm linh của tất cả mọi người. Nếu chúng ta cố gắng thống nhất các tôn giáo trên thế giới thành một tôn giáo duy nhất, chúng ta sẽ đánh mất biết bao đặc tính và sự phong phú của mỗi một truyền thống tôn giáo đó.
V́ vậy, tôi thiết tưởng tốt hơn hết, cho dù có nhiều xung đột phát sinh nhân danh tôn giáo, nên “duy tŕ tính cách đa dạng” của các truyền thống tôn giáo. Tiếc thay, nếu sự đa hóa do bản chất có thể thỏa măn một cách tối đa những nhu cầu tâm linh nhân loại, sự đa hóa đó cũng tự bản chất là một nguồn tiềm lực phát sinh ra những xô xát và bất ḥa. V́ vậy, môn đệ của mọi truyền thống tôn giáo phải gia tăng nỗ lực gấp bội để “vượt thắng sự bất khoan nhượng và thiếu hiểu biết” ngơ hầu truy tầm sự ḥa điệu.
Đó là mấy điểm tôi xét thấy hữu ích cần được xác định trước khi bắt đầu cuộc hội thảo. Giờ đây tôi rất nóng ḷng muốn thăm ḍ những văn bản và những tư tưởng mà tôi không quen thuộc.
Quí bạn đă trao phó cho tôi một trọng trách nặng nề và tôi sẽ cố gắng hết sức để đáp lại sự chờ mong của quí bạn. Tôi nhận thấy đó thật là một vinh dự và đặc ân lớn lao mà quí bạn đă để dành cho tôi bằng cách yêu cầu tôi dẫn giải những đoạn chọn lọc về Thánh Kinh, một loại kinh điển mà tôi phải thành thật thú nhận là chưa biết đến. Tôi cũng xác nhận đây là lần đầu tiên tôi phải lăn xả vào một cuộc thực tập như vậy. Rồi kết quả sẽ thành công hay thất bại, tôi hoàn toàn không biết!
Dù sao đi nữa, tôi sẽ cố gắng hết sức ḿnh. Giờ đây, tôi xin tụng niệm vài câu kệ để cầu mong điềm lành rồi chúng ta sẽ chiêm niệm.”
Những ngọn đèn điện đă được tắt đi và, trong ánh sáng mờ ảo của ban ngày len qua các khe cửa sổ, cử tọa bắt đầu trầm tĩnh, trong khi Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma nhắm mắt và tụng niệm bài kệ Tây-Tạng cổ xưa như sau:
“Tràn đầy ân đức như một đỉnh núi vàng,
những vị cứu tinh trong tam giới, được tẩy trừ tam độc,
là những vị Phật, đôi mắt tựa hồ những đoá sen nở;
các Ngài là ân phúc thứ nhất thuộc điềm lành cho thế giới.
Những Giáo Pháp các ngài ban bố th́ siêu diệu thậm thâm,
vang rền trong tam giới, được tôn vinh bởi chư thần và nhân loại.
Giáo Pháp thánh thiện đó mang lại sự an b́nh cho toàn thể chúng sinh;
đó là ân phúc thứ hai thuộc điềm lành cho thế giới.
Cộng đồng linh thánh được phong phú hóa nhờ sự tu học,
được tôn vinh bởi loài người, chư thần và bán thần.
Cộng đồng tối thượng đó rất khiêm hạ, cho dù chỗ họ ở tràn ngập ánh vinh quang;
đó là ân phúc thứ ba thuộc điềm lành cho thế giới.
Đấng Đại Giác đă đến trong thế giới nầy;
Giáo Pháp chói lọi như tia sáng mặt trời;
Các minh sư huấn dụ như anh em một nhà, rất mực ḥa đồng;
Cầu mong được những ân phúc thuộc điềm lành để những Giáo Pháp trường tồn miên viễn.”
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|