Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 256 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: ĐƯỜNG ĐẾN HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
tieudongtu
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 April 2006
Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 25
Msg 1 of 3: Đă gửi: 12 April 2006 lúc 4:45am | Đă lưu IP Trích dẫn tieudongtu

ĐƯỜNG ĐẾN HẠNH PHÚC TỐI THƯỢNG

 

Tất cả mọi người đều muốn được sung sướng. Tất cả mọi người đi t́m hạnh phúc. Con người t́m hạnh phúc hết thời đại này đến thời đại khác nhưng chẳng bao giờ t́m thấy trong đường lối đă được t́m kiếm bằng cách thích nghi những điều kiện của thế giới bên ngoài và không lưu ư ǵ đến thế giới bên trong của tâm. Lịch sử thế giới chứng minh điều đó. Cải cách xă hội, cải tổ kinh tế, sửa đổi luật pháp, canh tân chính trị, tuy có ư tốtá và tính toán kỹ nhưng chưa bao giờ mang được hạnh phúc hoàn toàn và thực sự cho con người. Tại sao?

Khi một mớ hoàn cảnh bất toại nguyện này được loại bỏ, một bất toại nguyện khác lại xuất hiện, và khi bất toại nguyện này được loại bỏ th́ một bất toại nguyện khác lại hiện ra. Cái xuất hiện và tái xuất hiện, cái phát sanh rồi lại tàn đi là cốt lơi của tất cả sự vật và hoàn cảnh thế gian. Không bao giờ có thể có được việc sản xuất hàng loạt hạnh phúc thực sự. Đó là một điều ǵ riêng tư và cá nhân. Điều đó đến từ bên trong chứ không phải bên ngoài. Điều đó cũng không phải là v́ thế giới bên ngoài mà ta đi t́m kiếm hạnh phúc mà là thế giới bên trong của tâm.

Khoa học hiện đại tuyên bố không có ǵ trong vũ trụ này tĩnh lặng. Mọi thứ đều năng động, mọi thứ đều chuyển động. Không có ǵ đứng nguyên một chỗ. Chúng ta hoặc tiến lên hoặc lùi xuống. Chúng ta hoặc trở nên tốt hơn, hạnh phúc hơn hoặc tiến về hướng tội lỗi và tích lũy phiền năo. Muốn được hạnh phúc th́ phải vượt qua phiền năo. Muốn thắng lướt phiền năo, Đức Phật chỉ cho nhân loại con đường dẫn đến loại bỏ phiền năo.

Con đường tới hạnh phúc là Đường Bát Chánh Đạo cao quư. Con đường này dược ai đó đặt chân vào trước khi ta có thể gọi là Con Đường Bát Chánh Đạo. Trong từ "Đạo" (Đường) vốn được nghĩ người nào đó đă giẫm bước vào trước đây.

Con Đường không thể đột nhiên hiện hữu. Người nào đó phải trước tiên cắt rừng, làm cho quang đăng rồi mới bước đi được. Tương tự như vậy, Bát Chánh Đạo cao quư đă được đặt bước trước đó bởi nhiều Đức Phật và các bậc A La Hán. Đức Phật đă khám phá ra con đường này nhưng không tạo ra nó, v́ nó đă hiện hữu từ quá khứ xa xăm. Đương nhiên đó là một con đường cổ (Parana Magga).

Bát Chánh Đạo cao quư là Con Đường phải bước vào. Đường này là một điều thực tiễn thiết yếu. Muốn biết và chứng nghiệm chân lư này, ta phải giẫm bước vào con đường đó. Con đường này chứa đựng một sự tập hợp thận trọng và khôn ngoan tất cả những điều kiện quan trọng tất yếu cho việc phát triển tinh thần của con người. Bát Chánh Đạo được phân chia thành ba nhóm: Giới (Sila: hạnh kiểm, đạo đức), Định (Samadhi: kỷ luật tinh thần), và Huệ (Panna: trí tuệ). Con đường này duy nhất với Phật Giáo, và khác biệt hẳn với tất cả tôn giáo và triết lư khác. Đó là tiêu chuẩn về tinh thần và hạnh kiểm dẫn đến chấm dứt khổ đau, phiền năo, và thất vọng để kiện toàn ḥa b́nh, Niết Bàn.

Tám yếu tố của Bát Chánh Đạo là:

HUỆ:

1. Chánh Kiến
2. Chánh Tư Duy

GIỚI:

3. Chánh Ngữ
4. Chánh Nghiệp
5. Chánh Mạng

ĐỊNH:

6. Chánh Tinh Tấn
7. Chánh Niệm
8. Chánh Định

Nhắc đến con Đường này, trong bài thuyết giảng đầu tiên, Đức Phật gọi con đường này là Trung Đạo (Majjihima patipada), v́ nó tránh hai cực đoan. Quá say mê lạc thú nhục dục trần tục thấp hèn dẫn đến tai hại là một cực đoan, tự hành xác dưới h́nh thức tu khổ hạnh làm cho đau đớn, thấp hèn dẫn đến tai hại là một cực đoan.

Ta phải nhớ rằng 'con đường' chỉ là cách diễn đạt bóng bẩy. Theo quy ước chúng ta nói về đi trên con đường, trong nghĩa ư nghĩa tột cùng, tám bước có nghĩa tám yếu tố tinh thần. Chúng phụ thuộc và liên quan lẫn nhau và ở mức độ cao nhất, chúng hành hoạt đồng thời, chúng không hoạt động lần lượt theo số thứ tự. Ngay cả ở mức độ thấp, mỗi yếu tố có đượm vẻ chánh kiến ở một mức độ nào đó, v́ đó là ư chủ đạo của Phật Giáo.

Với lời nói mạnh mẽ, Đức Phật đă cảnh cáo tín đồ không được chỉ chú ư vào sách vở như sau:

- Dù tụng nhiều kinh, mà không hành động phù hợp, con người vô ư này giống như người chăn ḅ đếm trâu ḅ không phải của ḿnh (không có được sản phẩm về ḅ). Người đó không có phần thành quả của một người tĩnh lặng.

- Dù tụng kinh ít, nhưng hành động đúng theo giáo lư, bỏ tham, sân si, có chánh kiến, tâm người đó hoàn toàn giải thoát, không vương mắc điều ǵ ngay bây giờ và sau này, người đó có phần thành quả của người tĩnh lặng. (Kinh Pháp Cú)

Sự đạt được mục tiêu cuối cùng của Phật Giáo (Niết Bàn) không đ̣i hỏi sự tinh thông triết lư sâu xa và thâm thúy của Phật Giáo. Điều đ̣i hỏi là sự phát triển không ngưng tâm ư qua quá tŕnh đạo đức và thiền định. Đúc Phật tuyên bố: "Giữ giới và rèn luyện tâm ư, ta chứng nghiệm kiến thức dẫn đến giải thoát".

Giới

Vậy th́, giới, căn cứ trên t́nh thương yêu và ḷng từ bi, gồm có ba yếu tố của Bát Chánh Đạo. Đó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp vá Chánh Mạng.

Đức Phật dẫn giải giáo lư của Ngài v́ lợi ich cho chúng sanh, v́ hạnh phúc cho chúng sanh xuất phát từ ḷng từ bi cho thế giới.

Giới, giai đoạn tiên khởi của Bát Chánh Đạo, căn cứ vào ḷng từ ái này. Tại sao ta nên ḱm hăm, không hăm hại và cướp bóc người khác? Phải chăng v́ thương chính ḿnh và người khác? Tại sao ta nên cứu trợ kẻ nghèo kẻ thiếu thốn và những người trong nguy khốn? Phải chăng v́ ḷng từ bi với họ?

Tránh tội lỗi và làm điều thiện là chức năng của giới, chuẩn tắc hạnh kiểm đạo đức dạy trong Phật Giáo. Chức năng này không bao giờ làm mất giá trị ḷng từ ái. Giới bao gồm những đức tính của tâm như thương yêu, nhũn nhặn, khoan dung, hiếu thảo, nhân từ, và vui vẻ với sự thành công của người khác.

Theo Phật Giáo một người hoàn hảo phải phát triển hai đức tính bằng nhau: một mặt từ bi và một mặt trí tuệ. Nơi đây từ bi tượng trưng bằng t́nh thương yêu, nhân từ, tử tế, khoan dung, và những đức tính cao quư như vậy về mặt cảm xúc hay những đức tính của con tim, trong khi trí tuệ đứng về mặt trí thức hay đức tính của tâm ư. Nếu một người chỉ phát triển mặt cảm xúc và không lưu ư đến phần trí thức, có thể trở nên một người ngốc tốt bụng; trong khi chỉ phát triển mặt trí thức, không lưu ư mặt cảm xúc, có thể trở thành một người tri thức nhẫn tâm không có sự thông cảm với người khác. Cho nên muốn hoàn toàn, ta phải phát triển đồng đều cả hai.

Chánh Ngữ có nghĩa không:

* nói dối,
* nói xấu, vu khống và nói năng có thể mang sân hận, thù oán, chia rẽ và bất ḥa giữa cá nhân hay nhóm người.
* nói lời cục cằn, thô lỗ, không lễ độ, hiểm độc và những lời sỉ nhục, và
* chuyện phiếm, chuyện bép xép vô ích và dại dột, ngồi lê dôi mách. Khi ta ǵn giữ không nói những lời sai trái và có hại như vậy, đương nhiên ta nói điều chân thật, dùng những lời nói thân hữu và nhân đức, vui vẻ và lịch sự, có ư nghĩa và ích lợi. Ta không nên nói bừa băi: lời nói phải đúng lúc và đúng chỗ. Nếu không nói được điều ích lợi, ta nên giữ im lặng cao thượng.

Chánh Nghiệp là ǵn giữ không:

* giết,
* trộm cắp, và
* tà dâm, nên trau dồi từ bi, chỉ lấy khi được cho, và sống thanh tịnh và trong sạch.

Chánh Mạng là bỏ lối sống sai trái mang tai hại và khổ đau cho người khác: Buôn lậu

* súng ống và vũ khí gây chết người,
* súc vật để giết thịt,
* người (tức mua bán nô lệ lan tràn trong thời Đức Phật)
* các thứ nước uống có chất say; và
* thuốc độc

và nên sống bằng nghề nghiệp không ai chê trách, không làm hại ḿnh, hại người.

Ta có thể nh́n thấy rơ ràng nơi đây Phật Giáo chống lại mạnh mẽ bất cứ hính thức chiến tranh nào, buôn bán súng ống và vũ khí giết người là một tội lỗi và là phương cách kiếm sống bất chính.

Nên hiểu rằng đạo đức và hạnh kiểm luân lư (Giới) của Phật Giáo nhằm vào vận động một đời sống hạnh phúc và hài ḥa cho cá nhân và xă hội. Giới được coi như nền tảng cần thiết cho tất cả đạt quả vị tinh thần cao hơn. Tinh thần không thể phát triển được nếu không có luân lư căn bản ấy. Những nguyên tắc luân lư này mục đích làm xă hội an ninh bằng cách vận động đoàn kết, ḥa hợp, sự quan hệ đứng đắn giữa người dân.

Trong Phật Giáo, đạo đức chưa phải là mục đích. Nó chỉ là một phương tiện để đi đến mục đích. Hạnh kiểm toàn hảo tách ra khỏi mục đích, không tiến về mục đích mong muốn, có rất ít ư nghĩa từ quan điểm của người Phật Tử. Không chỉ tội lỗi mà điều thiện cũng phải được siêu việt. Cả đến giáo lư của Ngài phải siêu việt. Đức Phật so sánh giáo pháp của Ngài với một cái bè sử dụng bởi chúng ta Nissaranatthaya tức chỉ với mục đích vượt qua sông, và Nagahanatthaya - tức không phải giữ bè lại. Khi chúng ta sang được bờ bên kia, chúng ta không cần phải mang theo cái bè ấy nữa. Bè đó phải được bỏ lại.

Kỷ Luật Tinh Thần

Tiếp theo là kỷ luật tinh thần gồm có ba yếu tố trong Bát Chánh Đạo là Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Chánh Tinh Tấn là sự nỗ lực kiên tŕ:

* để ngăn chặn các tư tưởng tội lỗi và bất thiện chưa phát sanh,
* loại bỏ những tư tưởng tội lỗi đă phát sanh,
* làm cho phát sanh và phát triển tư tưởng thiện chưa phát sanh, và
* đẩy mạnh, củng cố tư tưởng thiện đă phát sanh.

Cho nên chức năng của Chánh Tinh Tấn là thận trọng, kiểm soát tất cả những tư tưởng không lành mạnh, trau dồi, thúc đẩy và duy tŕ tư tưởng thiện và trong sạch phát sanh trong tâm con người.

Người khôn ngoan làm chủ lời nói và hành động nhờ Giới (sila) gắng sức nghiên cứu kỹ lưỡng tư tưởng và các yếu tố tinh thần của ḿnh, và tránh làm rối tư tưởng.

Chánh Niệm là luôn tỉnh thức, chú ư và lưu tâm đến:

* những hoạt động của thân (kaya),
* cảm giác hay cảm nghĩ (vedana),
* những hoạt động của tâm (citta), và
* ư kiến, tư tưởng, quan niệm và pháp (dhamma)

Tu tập về tập trung hơi thở (anapanasati) là một trong những phương pháp rèn luyện có quan hệ với thân để phát triển tinh thần. Có một vài phương cách khác để phát triển sự chú ư liên quan đến thân - những phương pháp về thiền.

Về cảm giác và cảm nghĩ, ta nên tỉnh thức với tất cả các dạng cảm giác và cảm nghĩ, hài ḷng, không hài ḷng và cảm giác không rơ rệt, chúng phát sinh và biến đi trong ta như thế nào.

Về hoạt động của tâm, ta nên tỉnh thức xem có phải tâm ta có đầy dục vọng hay không, có sân hận hay không, có lừa dối hay không, có xao lăng hay tập trung vân vân.. Theo cách đó, chúng ta nên giác tỉnh xem tất cả những hoạt động của tâm xuất hiện và biến đi như thế nào.

Về ư kiến, tư tưởng, quan niệm và pháp, ta nên biết bản chất của chúng, chúng xuất hiện và biến đi ra sao, phát triển ra sao, bị đè nén và tiêu diệt ra sao vân vân.

Điều thứ ba và là yếu tố cuối cùng của Kỷ Luật tinh thần là Chánh Định dẫn đến bốn giai đoạn của Thiền, thường được gọi là nhập định. Ở tầng thứ nhất, những ham muốn say mê, và một số tư tưởng bất thiện như dâm dục, ác ư, bạc nhược, lo lắng, bồn chồn, và nghi ngờ bị loại bỏ, và cảm nghĩ vui và hạnh phúc được duy tŕ với một số hoạt động tinh thần. Ở tầng thứ hai, tất cả những hoạt động tinh thần bị loại bỏ, tĩnh lặng và nhất điểm tâm phát triển, và cảm nghĩ hỉ lạc, hạnh phúc vẫn c̣n. Ở tầng thứ ba, cảm nghĩ hỷ lạc, là một cảm giác tích cực, cũng biến đi, trong khi khuynh hướng hỷ lạc vẫn c̣n thêm vào sự thanh thản trong tâm. Ở tầng thứ tư, tất cả những cảm giác, cả dến hạnh phúc hay không hạnh phúc, vui và phiền năo, biến đi, và chỉ c̣n lại sự tĩnh lặng thanh tịnh và tỉnh thức c̣n lại.

Cho nên tâm được huấn luyện, rèn luyện và phát triển nhờ Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Huệ

Hai yếu tố c̣n lại là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy thuộc về Huệ.

Chánh Tư Duy gồm tư tưởng bao hàm các ư nghĩ về từ bỏ trần tục, thiện chí, từ bi hay không làm hại. Những tư tưởng này phải được trau dồi và mở rộng tới tất cả các chúng sanh không phân biệt giống ṇi, đẳng cấp xă hội, bè này phái kia. V́ chúng bao gồm tất cả những điều cần thiết nên không có giới hạn. Những tư tưởng cao quư như vậy không thể có được nơi một người vị kỷ, chỉ biết ḿnh.

Một người có thể là thông minh, uyên bác, và học rộng, nhưng thiếu tư tưởng chính đáng, theo như giáo lư của Đức Phật, người đó là người ngốc nghếch (bala) không phải là một người hiểu biết chính đáng và tuệ giác. Nếu nh́n sự vật với nhận thức vô cảm, chúng ta sẽ hiểu rằng ham muốn vị kỷ, sân hận và bạo lực không thể đi đôi với Trí Huệ thực sự. Chánh Kiến và Huệ (Trí Huệ) bao giờ cũng thấm nhuần với tư tưởng chính đáng, không bao giờ làm mất chúng.

Chánh Kiến là hiểu biết sự vật chúng đúng là như thế, Tứ Diệu Đế giải thích sự vật chúng đúng như thế nào. Cho nên Chánh Kiến chủ yếu là hiểu rơ Tứ Diệu Đế. Sự hiểu biết này là trí tuệ cao cả nhất nh́n thấy Sự Thật Tối hậu.

Theo Phật Giáo có hai loại hiểu biết: Cái mà ta thường gọi hiểu biết là kiến thức về một sự tích lũy của trí nhớ, một sự tóm thâu trí thức của một vấn đề theo một số dữ kiện. Điều này gọi là 'cái-biết-phù-hợp'. Nó không sâu lắm. Hiểu biết thật sâu xa gọi là 'thâm nhập' (pativedha), nh́n sự vật theo đúng bản chất, không phải tên và nhăn hiệu. Sự thâm nhập này chỉ có thể có được khi nào tâm đă gột rửa được hết những bất tịnh và đă hoàn toàn phát triển qua thiền định.

Chánh Kiến hay thâm nhập Trí huệ là kết quả của sự tu tập thiền định không ngưng, kiên tŕ hay sự trau dồi cẩn thận về tâm. Một người có Chánh Kiến không thể có một quan điểm mờ mịt về hiện tượng, với người đó không thể c̣n nhiễm những bất tịnh v́ đă đạt được sự giải thoát không lay chuyển về tâm.

Đi Theo Đường Đạo

Những lời dạy của Đức Phật giải thích chức năng, mục đích cua việc trau dồi đức hạnh, kỷ luật tinh thần, và trí tuệ. Giải thoát có nghĩa là kinh nghiệm sống về sự chấm dứt được ba nguyên nhân gốc rễ tội lỗi, Tham Sân Si và vô minh tấn công vào tâm con người. Những nguyên nhân gốc rễ ấy phải được loại bỏ bằng giới hạnh, kỷ luật tinh thần và trí tuệ.

Cho nên rơ ràng giáo lư của Đức Phật nhằm vào sự thanh tịnh hóa cao nhất, tinh thần lành mạnh toàn hảo, thoát khỏi tất cả những thôi thúc ô uế.

Vậy th́ sự giải thoát này khỏi ô nhiễm tinh thần, khỏi ác ư, hoàn toàn và tuyệt đối nằm trong tay của chính ḿnh chứ không phải người nào khác hay thần thánh. Ngay cả đến Đức Phật tối thượng cũng không chuộc con người khỏi các gông cùm của cuộc sống ngoại trừ chỉ cho người ấy biết con đường.

Con đường Giới, Định, Huệ đôi khi được tham chiếu như Tam (vô lậu) học (tividhasikkha), một trong ba cũng không phải là mục đích, mỗi một chỉ là phương tiện để đi đến mục đích. Một không thể hoạt động độc lập riêng rẽ mà không tùy thuộc những cái kia. Giống như trường hợp một kiềng ba chân sẽ ngă khi một chân bị lấy đi, nơi đây cũng vậy, môt không thể hoạt động được nếu không có sự hỗ trợ của những chân kia. Ba cái cùng nhau hành hoạt, cái này hỗ trợ cái kia. Giới hay đạo đức củng cố Kỷ luật tinh thần, và Kỷ Luật tinh thần (Định) đến lượt đẩy mạnh Huệ (Trí Huê). Trí huệ giúp ta nh́n rơ sự vật - nh́n đời đúng như nó là thế - phải nh́n đời sống và tất cả sự vật thuộc đời sống phát sanh và mất đi ra sao.

Mặc dù kiến thức khoa học lớn mạnh vững vàng, con người trên thế giới vẫn bồn chồn và nhức nhối với sợ hăi và bất măn. Họ vẫn say sưa với ḷng ham muốn thích được nổi tiếng, có của cải, quyền hành, và làm vừa ḷng giác quan. Thế giới hỗn loạn này vẫn sôi động với hận thù, ngờ vực, ham muốn vị kỷ, và bạo lực, lúc này cần thiết hơn bao giờ hết thông điệp t́nh thương và hiểu biết của Đức Phật, Bát Chánh Đạo, dẫn đến việc chứng nghiệm Niết Bàn. Chỉ có kiến thức về con Đường không thôi, tuy đầy đủ, sẽ không kết quả. Trong trường hợp này, bổn phận của chúng ta là phải theo con đường và giữ lấy nó.

Đuơng nhiên con đường này là khó khăn nhưng chúng ta luôn luôn chú ư và giác tỉnh hoàn toàn, bước vào từng bước một, một ngày nào đó chúng ta sẽ tới đích. Đứa trẻ học đứng học đi cũng gặp khó khăn. Cũng vậy, có những vĩ nhân trải qua giai đoạn này đến giai đoạn khác tuy chồng chất nhiều thất bại nhưng cuối cùng vẫn đi đến thành công. Đó là con Đường dẫn đến sự chứng nghiệm Sự Thật Tối Hậu, tự do hoàn toàn, hạnh phúc, ḥa b́nh nhờ sự toàn hảo về luân lư, tinh thần.

Từ bản tường tŕnh tóm tắt này, ta có thể nh́n thấy đó là cách sống phải theo, tu tập và phát triển bởi mỗi cá nhân. Đó là sự tự kỷ luật về thân, khẩu và tâm ư, sự tự phát triển và sự tự thanh tịnh hóa. Con đuờng này không có liên quan ǵ đến niềm tin, cầu nguyện, sùng bái, hay lễ nghi.



__________________
Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
Quay trở về đầu Xem tieudongtu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieudongtu
 
tieudongtu
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 April 2006
Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 25
Msg 2 of 3: Đă gửi: 12 April 2006 lúc 4:47am | Đă lưu IP Trích dẫn tieudongtu

 

NHỮNG CÔNG NĂNG VĨ ĐẠI CỦA PHÁP

 

Lời Phật dạy thường được gọi là Pháp (Dhamma hay Dharma). Lời dạy này chẳng phải là một khám phá hay một ức đoán truyền thuyết với sự quanh co thần học. Đó là Chân Lư lan tràn trong Vũ trụ, là sự khám phá duy nhất của một đại đạo sư giác ngộ. Tuy nhiên, Phật giáo là thuật ngữ hiện được dùng cho Pháp và được đặt tên sau khi khám phá ra. Đức Phật Cồ Đàm, nhận thức ra Chân Lư và phổ biến chân lư này cho thế giới. Chắc chắn có sự khó khăn cho một người b́nh thường thấu triệt được đúng v́ tâm ư họ c̣n bị vẩn đục bởi ảo tưởng.

Có nhiều công năng trong Pháp khiến Pháp tuyệt vời và toàn bích trong ư nghĩa cao cấp nhất của thuật ngữ này. Tuy nhiên có ba khía cạnh về Pháp cần được ghi nhận. Khía cạnh thứ nhất là lư thuyết phải được học trong sự thanh tịnh ban sơ. Khía cạnh thứ hai là sụ áp dụng thành thực, sự thực hành lời giáo huấn, sống theo lời dạy của Đức Phật bằng cách tránh tất cả tội lỗi, làm điều thiện và thanh tịnh tâm ư. Khía cạnh thứ ba là phát triển trí tuệ, đạt được sự hiểu biết hoàn toàn về sự thực của những hiện tượng.

Trong số nhiều các công năng, sáu đặc tính nổi bật ghi trong các bản văn có căn cứ đích xác. Những Pháp Đức Hạnh này được tụng trong các khóa tụng niệm hàng ngày của người Phật Tử. Kệ b́nh dân bằng tiếng Pali giải thích những Pháp đức hạnh ấy như sau:

Svakkhata Bhagavata Dhammo, Sanditthiko, Akaliko, Ehipassiko, Opanayiko and Paccatam Vedittabo Vinnuhi.

Chi tiết về những đặc diểm nổi bật này được miêu tả và giải thích như sau:

1. Svakkhato Bhagavata Dhammo

Thuật ngữ này có nghĩa là Pháp được khám phá ra và công bố bởi Đức Thế Tôn. Pháp này được coi như công năng chung của tất cả ba khía cạnh Giáo Lư, gọi là lư thuyết, sự tu tập chân thành và thấu triệt hoàn toàn trong khi phần từ ngữ c̣n lại liên quan với siêu trần (lokuttara) gồm có tám giai đoạn đạt thánh quả và Niết Bàn - coi như cứu cánh tuyệt đối của Phật Giáo.

Pháp được giải thích cặn kẽ bởi Giáo Chủ. Phần đầu xuất sắc, phần giữa xuất sắc và phấn cuối cũng xuất sắc. Không có mâu thuẫn, không có sự tự ư thêm vào và cũng không chệch hướng. Cũng như mỗi giọt nước trong biển cả chỉ có một vị, vị của muối mặn, Pháp chỉ có một, chỉ có một vị bất cứ lúc nào, vị hạnh phúc Niết Bàn. Pháp chân thật cả chữ lẫn ư. Môn học về Pháp bắt đầu với Giới (Sila) tức hạnh kiểm tốt, với Định (Samadhi), ư thức của tâm thanh thản, và với Huệ hay Trí Huệ (Panna) phát sanh sau khi đạt được Định.

Muốn đạt kiến thức về Pháp phải bắt đầu với việc nghiên cứu Pháp bằng cách nghe những bài thuyết tŕnh thông thái giải thích cặn kẽ sự phức tạp của nó và hiểu thấu phương pháp để áp dụng vào thực tiễn. Do sự tu tập kiên tŕ, ta có thể loại bỏ những ô trược tinh thần đưa đến kết quả tâm trở nên thanh thản, b́nh tĩnh và hạnh phúc. Hoàn tất được trạng thái tinh thần như vậy sẽ dọn đường cho việc đạt được kiến thức cao hơn gọi là tuệ giác hay tuệ minh sát (Vipassana). Kiến thức nội tâm này khi phát triển vững vàng tức đạt vinh quang hoàn hảo của sự chứng đắc rực rỡ, điều có thể đạt được ngay trong hiện đời.

Lời giải nghĩa của Đức Phật về chúng sanh và thế giới tạo thành kiểu mới nhất về tư tưởng con người. Căn cứ vào sự khám phá trên căn bản sự hiểu biết hữu lư, không dính dấp ǵ đến truyền thuyết thời đại, Đức Phật đi sâu vào cốt tủy Pháp và xuất hiện với sự khám phá về sự hiểu biết nằm dưới tất cả sự hiện hữu có thể nhận thức bằng giác quan. Không độc tài hay độc quyền, Ngài tuyên bố Pháp- giáo lư thay thế cho tất cả giáo lư khác.

Pháp không liên quan ǵ tới bất cứ cái ǵ gọi là thần thông tối thượng, nhưng được tŕnh bày bởi Đức Phật trên cơ sở cá nhân, tức người này đến người kia cho phép hành giả nhận định và suy ngẫm cho chính ḿnh những phương cách để đạt giải thoát không cần t́m đến sự giúp đỡ bên ngoài. Pháp có trên hoàn vũ, và là một lợi ích sống c̣n cho nhân loại tở bất cứ nơi nào trên thế giới vào bất cứ lúc nào.

Thật ư nghĩa Ngài đưa ra sự giải thích hữu lư và khoa học riêng của Ngài về tất cả những ngôn ngữ triết lư trước khi chúng được đem sử dụng trong giáo lư của Ngài về Pháp. Chẳng hạn trước Đức Phật, Nghiệp chỉ có nghĩa là hành động, nhưng nay có nghĩa mới là ư muốn đằng sau hành động.

Pháp cao thượng không ngừng tố cáo sự bất công như chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, nô lệ và kỳ thị thân phận thấp hèn về phụ nữơ. Đức Phật chẳng bao giờ là nhà độc tài mà là vị Đạo Sư dân chủ.

Bắt đầu với Ba nơi Nương Tựa (Tirana), và cuối cùng dẫn đến việc đạt được hạnh phúc Niết Bàn, tín đồ của Đức Phật thấy ḿnh hết sức an ổn dưới sự hướng dẫn và che chở của Pháp đuợc tuyên bố là - Savakkhato.

2. Sanditthiko

Sanditthiko đem ư nghĩa là nếu Pháp được nghiên cứu kỹ, và mang ra thực hành chân thành, kết quả lợi ích sẽ nh́n thấy ngay tại chỗ và ngay tức khắc. Chẳng hạn, ngay cả một người ác, có thể là một tai họa thực sự cho chính hắn và xă hội, t́m nương tựa nơi Đúc Phật và Pháp, và bắt đầu một cuộc sống mới, tất cả những khó khăn và lầm than sẽ chấm dứt. Như đă được chứng minh bằng cuộc đời Hoằng Đế A Dục Vương (Asoka), sau khi đi theo Phật Giáo, ông đă thay đổi từ một người cầm quyền độc ác gọi là Candasoka thành một người chánh đáng Dhammasoka.

3. Akaliko

Akaliko ngụ ư hậu quả lợi lạc từ việc tu tập Pháp không bị chậm trễ. Pháp, mặc dù khoảng thời gian dài từ khi được tuyên bố đă trôi qua, vẫn như mới và không hề hấn ǵ. Pháp tiếp tục tồn tại song song với tư tưởng khoa học mới nhất. Nếu có chân lư, chân lư ấy không bao giờ lỗi thời. Pháp là Chân Lư ấy không bao giờ già nua theo thời đại v́ nó miêu tả sự thật nằm dưới tất cả hiện tượng hiện hữu trong luân hồi. Tóm lại, Pháp nói rằng thế gian là bất toại nguyện và chính cái tham này là nguyên nhân không tránh được về t́nh trạng các biến cố hiên nay. Biện pháp cứu chữa sự bất măn này là loại bỏ ḷng tham qua sự tu tập tám yếu tố khéo léo gọi là Bát chánh Đạo.

4. Ehipassiko

Ehipassiko là công khai mời tất cả mọi người đến xem, điều tra, nghiên cứu kỹ lưỡng Pháp, và nếu cần phê b́nh trước khi chấp nhận v́ không có điều ǵ là hoang đường hay huyền bí cả. Pháp trong sạch và trong suốt như pha lê. Nó nguyên chất như vàng thoi. Chính Đức Phật đă tuyên bố: "Đừng chấp nhận điều ǵ tôi nói, chỉ v́ kính trọng tôi mà chấp nhận là không nên. Cũng như vàng nguyên chất chỉ biết chắc khi đem thử lửa hay mài rũa bằng đá mài, giống như vậy, Pháp chỉ nên chấp nhận sau khi đă nghiên cứu kỹ lưỡng." Sự khẳng định không hề sợ sệt này cho phép nghiên cứu kỹ càng giáo lư chứng tỏ sự vĩ đại của Đức Phật, và chân lư vững chắc của Giáo Pháp tuyệt vời.

5. Opanayiko

Opanayiko có nghĩa là tất cả những ai trung thành với Giáo Pháp, sẽ bước vào con đường dẫn đến ḥa b́nh và hạnh phúc trường cửu. Pháp cho biết có bốn tầng thánh quả đạt được bằng cách phát triển theo thứ tự lớp lang. Pháp dẫn môn đồ từ tầng này đến tầng kia cho đến khi giải thoát hết tất cả những ràng buộc và gông cùm của cuộc sống.

6. Paccattam Veditabbo Vinnuhi

Nhóm từ trên ngụ ư Pháp được lĩnh hội bởi người trí. Không ai có thể thâm nhập Pháp thay thế cho người khác, giống như không ai có thể làm cho người khác hết khát trừ khi chính người khát phải uống nước. Quan sát thấy có hai khía cạnh có ư nghĩa trong thuật ngữ này: thứ nhất, đạt giác ngộ có tính cách cá nhân, thứ nh́, Giáo Pháp chỉ có thể thấu triệt bởi người trí.

Đức Phật không phải là vị cứu thế mà là vị thầy - Người thầy chỉ con đường cho người khác theo. Phần c̣n lại là do cá nhân liên hệ phải giữ giới. Giữ Giới (Sila), tu tập Thiền Định (Samadhi), tập trung tư tưởng và sau đó phát triển huệ (Panna), trí tuệ trực giác giúp cho cá nhân thành công trong việc giải thoát bằng nỗ lực của chính ḿnh.

 



__________________
Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
Quay trở về đầu Xem tieudongtu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieudongtu
 
tieudongtu
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 12 April 2006
Nơi cư ngụ: Spain
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 25
Msg 3 of 3: Đă gửi: 12 April 2006 lúc 4:50am | Đă lưu IP Trích dẫn tieudongtu

MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI

 

Mục đích của cuộc đời là ǵ? Đó là một câu hỏi thông thường luôn luôn được người ta hỏi. Không dễ dàng ǵ có câu trả lời thỏa dáng cho câu hỏi có vẻ như tầm thường nhưng phức tạp này. Mặc dù một số người đă đưa ra một số trả lời theo cách nghĩ của họ, nhưng dường như câu trả lời không mấy thỏa măn người trí thức. Lư do là họ không học hỏi để nh́n đời một cách khách quan và hiểu viễn ảnh thích đáng của cuộc đời. Họ đă tạo ra những tưởng tượng về cuộc đời theo sự hiểu biết hạn hẹp của họ. Đồng thời chúng ta biết nhiều đạo sư, triết lư vĩ đại, thi sĩ nổi tiếng, và những nhà tư tưởng lớn, cũng không thỏa măn về bản chất đời sống. Một số nói đời đầy khổ đau; bất trắc và bất toại nguyện. Một số nói: "Hay biết mấy nếu tôi không được sinh ra". Một số khác hỏi: "Tại sao chúng ta sinh ra cơi đời này để khổ đau mà không được ǵ?"

Theo như lời họ nói, chúng ta hiểu họ là những người biết cách nh́n đời một cách khách quan, đời thật đúng là thế. Nhưng người b́nh thường luôn luôn nh́n đời một cách hời hợt không phải đời đúng là vậy. "Đời không phải là cái ta nghĩ về đời mà là cái chúng ta nghĩ trở thành đời" Đó là lời của một nhà tư tưởng vĩ đại khác.

Một số người nói không có mục đích đặc biệt trong đời sống, nhưng đời có thể sử dụng vào bất cứ mục đích ǵ. Có một điều ǵ trong câu nói này cho chúng ta suy nghĩ khôn ngoan; muốn sử dụng đời cho mục đích đem lợi ích cho chúng ta và cho nhân loại thay v́ làm phí phạm nó một cách khờ dại. Theo đường lối này, mục đích của cuộc đời có thể nói tùy thuộc vào đường lối ta điều khiển và sử dụng nó. Nếu ta sử dụng nó sai lầm v́ vi phạm các đức tính thiện của con người, lạm dụng phẩm giá con người, và phạm phải các hành động sai trái chịu thua các nhược điểm cùa chúng ta, chúng ta không thể hoàn tất được điều đáng giá và cao quư về mục đích cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta hành động khôn ngoan và chu đáo bằng cách ǵn giữ những nguyên tắc luân lư và đạo đức phổ thông, thực hành kiên nhẫn, khoan dung, t́nh cảm, nhũn nhặn và tử tế, tạo hiểu biết và phục vụ không vị kỷ, rèn luyện tâm trí để đạt trí tuệ, chúng ta có thể đạt điều cao quư và lợi ích cho tất cả v́ mục đích cuộc đời. Những ai trau dồi những đức hạnh như vậy sẽ chứng nghiệm ḥa b́nh, hạnh phúc, an ổn, thỏa măn và tĩnh lặng. Đời sẽ thật đáng giá - Phải là một niềm vui được sống trên đời!

Bản Chất Của Đời Sống

"Đời tự nó phí phạm trong khi chúng ta sửa soạn vào đời" một nhà trí giả nói vậy. "Bệnh tật, già nua, và khổ sở là giá ta trả để giữ thân xác như một cái nhà", một nhà trí giả khác nói như vậy. "Chúng ta phải trả nợ cái sợ hăi và lo âu để sống như một con người." Đó là một câu khác do một nhà tôn giáo nói. Khi ta xét tất cả những quan điểm này, chúng ta t́m thấy bản chất của cuộc đời và phán đoán liệu có một mục đích nào trong cuộc đời không.

Nếu chúng ta chỉ thỏa măn giác quan là mục đích của cuộc đời, chúng ta phải chuẩn bị đối đầu với những khó khăn phát sanh từ cái mà không ai vui hưởng dục lạc mà không đương đầu với khó khăn.

Mặc dù các khoa học gia đă khám phá ra nhiều thứ tuyệt vời trong vũ trụ, nhưng chính họ cũng không biết mục đích của cuộc đời.

Về cách cư xử của con người, một học giả viết: "Con người không phải là cái nó là, là cái không phải nó". Theo ông, con người không xử thế đúng như một "con người" thực sự. Theo Phật Giáo, con người không phải là một thực thể làm sẵn mà là một biểu cảm tồn tại theo nghĩa đen từng khoảnh khắc một trên cơ sở năng lượng. Một nhà học giả khác nói: "Không thể chữa khỏi sanh và tử, hăy vui hưởng giữa khoảng cách sanh và chết"

Chúng ta không thể hiểu được bản chất thực sự của đời sống do vô minh và tham ái mạnh mẽ. Đó là lư do tại sao chúng ta phải đau khổ nơi đây. Đó là lư do tại sao khó khăn cho chúng ta xem có một mục đích rơ ràng trong đời sống hay không trên thế giới này và trong h́nh thái này.

Đời sống được mô tả như một sự kết hợp của tâm và vật. Kết quả của sự kết hợp này, một chúng sanh hiện hữu và nó tiếp tục thay đổi cho đến khi tan ră. Tuy nhiên, khởi đi từ năng lượng tinh thần rồi lại kết hợp với các thành phần hay vật chất tái xuất hiện dưới nhiều h́nh thức và bầu trời khác nhau theo đời sống phù hợp với bản chất của tiền kiếp. Sự tiếp tục của ḍng suối đời cứ thế tiếp tục măi măi bao lâu mà nghiệp lực và tham sống vẫn c̣n.

Năm Uẩn

Theo Pháp, đời sồng gồm năm uẩn. Chúng là Sắc, Thọ, Tưởng Hành, và Thức. Bốn thành phần là chất đặc (đất), chất lỏng (nước), hơi nóng (lửa), và chuyển động (gió) gồm trong sắc (vật chất). Sắc cùng bốn yếu tố tinh thần nói trên là thọ, tưởng hành, thức cùng nhau kết hợp thành đời sống. Bản chất thực sự của năm uẩn này được giải thích trong giáo lư của Đức Phật như sau: Sắc tương đồng với một đống bọt biển, thọ như bọt nước, tưởng mô tả như ảo ảnh, hành như cây chuối và thức như một ảo tưởng. Với cách lư giải đời sống như thế, khó có thể xác quyết sự thực hay mục đích của đời sống như đă được tạo nên.

Sự phân tích đời sống là một thách thức to lớn đối với nhiều triết gia và niềm tin tôn giáo thời đại. Không có thứ ǵ là đời sống vĩnh viễn hiện hữu mà không có thay đổi và tan ră. Xác thân chẳng là ǵ cả, chỉ là một tổng hợp trừu tượng cho một hỗn hợp luôn luôn thay đổi của thành phần hóa chất cấu tạo. Con người bắt đầu nh́n thấy đời ḿnh như một giọt nước trên một ḍng sông đang chảy và vui mừng đóng góp phần ḿnh vào ḍng sông đời vĩ đại.

Một Thế Giới Của Sóng

Phân tách khoa học về vũ trụ cho thấy thế giới không là ǵ cả mà là một sự tiếp tục vận hành không ngưng nghỉ. Tiến Sĩ Einstein nói "Tất cả vật chất được tạo thành bởi sóng và chúng ta sống trong một thế giới sóng"

"Chúng ta là một phần của những sóng như thế
Nếu một người có thể nhận thức được:
T́nh trạng xác thân của ḿnh,
cảm nghĩ của ḿnh,
t́nh trạng của tâm và
t́nh trạng của các đối tượng tinh thần,
sự nhận thức như trên sẽ dẫn người đó khám phá ra vấn đề liệu có hay không mục đích của cuộc đời".

Bạn Hăy Tự Thay Đổi

Bạn có thể kiện toàn bằng cách thay đổi thế giới không? Không bao giờ. Bạn chỉ có thể cảm thấy cái cao ngạo của bạn và xoa dịu tính ích kỷ của bạn. Bạn sẽ bị ràng buộc bởi bánh xe luân hồi. Nhưng bằng cách bạn tự thay đổi, bằng cách nhận thức được bản chất của cái ta nhờ tự buông bỏ, tự kỷ, tự nỗ lực bạn có thể thành người hoàn toàn. Bằng việc thành công toàn hảo như vậy, bạn đền đáp nhân loại bằng sự phục vụ cao cả nhất. Tấm gương của bạn sẽ truyền cảm hứng cho người khác và họ cũng sẽ theo bạn và hoàn thành mục tiêu cuộc đời.

Con người ngày nay là kết quả của cả triệu tư tưởng và hành dộng trong quá khứ. Con người không phải được làm sẵn; họ bắt đầu và tiếp tục bắt đầu. Tính nết của con người được xác định bởi sự suy tư của chính ḿnh. Con người không hoàn hảo do bản chất, con người phải tự rèn luyện để trở nên hoàn hảo.

Đời sống không phải chỉ thuộc về loài người thôi. Nhiều dạng thức sống khác hiện hưũ trong vũ trụ. Tuy nhiên loài người biết suy nghĩ nhiều hơn và có khả năng lư luận. Trong phương diện ấy, con người cao hơn chúng sinh khác v́ có trí thông minh để xây dựng cuộc đời, để thoát khỏi đau khổ trần thế. Cho nên nếu mục đích cuộc đời là chỉ để quét sạch đau khổ, con người có thể đạt cứu cánh ấy do nỗ lực của chính ḿnh. Nhưng đời sẽ là sự thất bại nếu không được sử dụng thích đáng.

Đức Phật nhấn mạnh đến phẩm giá con người và giảng dạy về giá trị con người. Ngài vẽ một bức tranh toàn hảo về con người, phấn đấu và tranh đấu hết đời này đến đời khác trong việc t́m cầu toàn hảo.

Đời sống là một kinh nghiệm độc đáo. Không thể lấy ǵ để so sánh được, không thể đo lường giá trị của nó đối với những thứ khác, và tiền bạc không thể mua được nó. Nhiều người chưa biết phải làm ǵ với 'hạt ngọc vô giá này'. Nơi đây đời sống không có nghĩa chỉ là xác thân vật chất hay giác quan mà là trí thông minh con người.

Bốn Hạng Người

Đức Phật phân chia tất cả nhân loại thành bốn nhóm:

* Những người làm việc v́ lợi ích của chính ḿnh, mà không v́ lợi ích của người;
* Những người làm việc v́ lợi ích của người mà không v́ lợi ích của ḿnh;
* Những người không làm việc v́ lợi ích của ḿnh và cũng chẳng làm việc v́ lợi ích của người;
* Và những người làm việc v́ lợi ích của ḿnh và cũng làm việc v́ lợi ích của người.

Ai là người chỉ làm việc v́ lợi ích của ḿnh mà không làm việc v́ lợi ích của người? Đó là người chỉ phấn đấu loại bỏ tham, sân si cho chính ḿnh, mà không khuyến khích người khác loại bỏ tham sân si và cũng không làm ǵ phúc lợi cho người khác.

Ai là người chỉ làm việc v́ lợi ích cho người mà không làm việc v́ lợi ích của ḿnh? Đó là người khuyến khích người khác loại bỏ nhược điểm con người và phục vụ cho họ nhưng không tự tranh đấu để loại bỏ nhược điểm của chính ḿnh.

Ai là người không làm việc v́ lợi ích của chính ḿnh và cũng chẳng làm việc v́ lợi ích của người? Đó là người không tranh đấu để loại bỏ nhược điểm của chính ḿnh và cũng chẳng khuyến khích người khác bỏ các nhược điểm và cũng không phục vụ người .

Ai là người làm việc v́ lợi ích của chính ḿnh và làm việc v́ lợi ích của người? Đó là người tranh đấu để loại bỏ tư tưởng tội lỗi trong tâm của ḿnh, đồng thời giúp người khác làm điều thiện.

Đời Là Khổ Đau

Nếu chúng ta suy ngẫm sâu xa, chúng ta phải đồng ư với khái niệm đời là khổ đau. Chúng ta đau khổ cả thể chất lẫn tinh thần ở bất cứ lúc nào. Ta có thể t́m được người nào trên thế giới này thoát khỏi được cái đau đớn thể chất và tinh thần không? Quả là khó khăn. Cả đến những người đạt tới bậc thánh cũng không thoát khỏi cái đau đớn thể xác chừng nào mà họ c̣n mang xác thân vật chất.

Nếu có ai hỏi: "Điều ǵ bất trắc nhất trên thế giới này?" - Câu trả lời đúng phải là: "Đời là điều bất trắc nhất". Tất cả mọi thứ ta làm trên cơi đời này là để thoát khỏi khổ đau và cái chết. Nếu chúng ta buông lung chỉ một giây, cũng thừa đủ để chúng ta mất nó. Hầu hết tất cả những thói quen hàng ngày như làm việc, ăn, uống, dùng thuốc men, ngủ và đi lại là những phương cách và phương tiện áp dụng bởi chúng ta để tránh khổ đau và cái chết. Mặc dù thỉnh thoảng chúng ta kinh qua một vài lạc thú trần tục thỏa măn ham thích của ḿnh nhưng ngay sau đó chính lạc thú ấy có thể biến thành khổ đau. Cho nên kho tàng ḥa b́nh và hạnh phúc cao quư không cần thiết phải ở trong tay người giàu có mà nơi con người từ bỏ trần tục.

Tất cả mọi thứ trong đời sống của chúng ta đều phải thay đổi và bất toại nguyện. Do đó Đức Phật đă giải thích chừng nào mà ta c̣n tham dục lạc trần thế hay ham muốn sống th́ chúng ta không thể tránh khỏi khổ đau thể chất và tinh thần. Ham muốn rất quan trọng cho cuộc sống. Khi cuộc sống hiện hữu, khổ đau không tránh được.

Nhiều người t́m kiếm một đời sống bất diệt, nhưng trớ trêu thay những người đi t́m cái bất tử này lại thấy rằng đời đáng chán đến nỗi họ không biết làm ǵ để qua ngày! Theo Đức Phật, cái tham về bất tử này là một trong những nguyên nhân của tư tưởng ích kỷ và sợ chết.

"Thật dễ dàng ta vui vẻ
Khi đời trôi chảy như bài ca
Nhưng người thật xứng đáng
là người có thể mỉm cười
dù đời đi vào vô vọng".

Cái hạnh phúc bé nhỏ này được bảo đảm giữa nhiều bất măn, không thành công và thất bại. Con người không t́m thấy ư nghĩa của cuộc đời nếu không có xáo trộn, khó khăn, tai ương, thất vọng, sợ hăi, bất an, thua lỗ, bất hạnh, trách cứ, bệnh tật, già yếu, và cả ngàn t́nh trạng khác không thích thú. Ngày dêm, con người phấn đấu để thoát khỏi những t́nh thế bất hạnh này. Nhưng càng tranh đấu để thoát khỏi t́nh trạng bất hạnh này theo đường lối trần tục, th́ con người lại tự ḿnh càng vương mắc vào nhiều khó khăn khác. Khi t́m cách thoát ra khỏi một khó khăn dù hữu ư hay vô t́nh con người cũng tự ḿnh tạo ra những khó khăn khác. Chấm dứt những khó khăn ấy ở đâu? Muốn tồn tại, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn và khổ đau như vậy không phàn nàn v́ không có sự lựa chọn nào khác. Khổ đau lúc nào cũng ở đấy! Không có cách nào có thể tránh được khổ đau và bất hạnh. Khổ đau theo Đức Phật, là một căn bệnh chỉ có thể hoàn toàn khỏi được khi đạt được toàn hảo.

Lăo Tử, một đạo sư nổi tiếng Trung Hoa nói: "Ta đau khổ v́ ta có thân xác. Nếu ta không có thân thể chất này, làm sao ta có thể đau khổ được?"

Khi bạn nh́n con người đau khổ như thế nào trên thế giới này, bạn có thể nh́n thấy t́nh trạng thực sự của đời sống trần thế. Tại sao ta phải chịu đau kh? như vậy? Ai là người chịu trách nhiệm về những đau khổ ấy? Theo Đức Phật, mỗi người chúng ta chịu trách nhiệm về khổ đau của chính ḿnh. Con người đau khổ ngày nay v́ quá tham sống. Đó là nguyên nhân chính của khổ đau. Phải mất hơn 2500 năm, các triết gia và các nhà tâm lư học mới hiểu được điều mà Đức Phật nói là đúng. Một thi nhân nói:

"Con thiêu thân bay vào lửa,
không biết ḿnh sẽ chết.
Con cá nhỏ cắn lưỡi câu,
không biết ḿnh bị nguy hiểm.
Nhưng dù biết rơ hiểm nguy
của những lạc thú tội lỗi trần tục,
ta vẫn bám chặt vào chúng,
Quả thật ta khờ dại đến chừng nào!"

Bản Chất Phù Du Của Cuộc Đời

Phật Giáo nhấn mạnh đời người rất ngắn ngủi và ta nên lưu tâm, tích cực hoạt động và lưu ư để được giải thoát.

"Con người chẳng bao giờ có thể hiểu rằng chúng ta ở cơi đời này chỉ trong một thời gian ngắn. Nhưng dù có được chân lư ấy vẫn đau khổ với tất cả những xung đột và căi cọ để rồi chấm dứt."

Thi sĩ Davis nh́n cuộc đời phù du ra sao như dưới đây:

"Đời là ǵ, sao quá cẩn trọng,
Không có th́ giờ để đứng và ngắm xem?
Không có th́ giờ để dừng dưới cành cây
Để chỉ nh́n con cừu và con ḅ cái.
Không có th́ giờ nh́n cánh rừng khi ta đi qua
Nơi những con sóc dấu những hạt trong cỏ.
Không có th́ giờ, nh́n ánh sáng tỏ ban ngày
Ḍng suối tinh tú tràn đầy bầu trời ban đêm.
Không có th́ giờ để thoáng nh́n cái đẹp,
Ngằm đôi chân nàng, xem chúng nhảy múa
Không có th́ giờ chờ đợi nụ cười nở trên môi, khóe mắt long lanh.
Cuộc đời khốn khổ như thế, nếu hết sức cẩn trọng,
Chúng ta không thi giờ để đứng và ngắm xem

Chiến Trận

Toàn thể vũ trụ là một chiến trường rộng lớn. Cuộc sống chẳng là ǵ cả mà là một cuộc tranh đấu vô ích, nguyên tố chống nguyên tố, năng lượng chống năng lượng, nam giới chống nam giới, nữ giới chống nữ giới, người chống thú vật, thú vật chống người, người chống thiên nhiên, thiên nhiên chống người, và chính trong phạm vi của hệ thống vật chất là một chiến trường to lớn. Chính tâm con người là một chiến trường lớn nhất.

Con người không thanh thản với chính ḿnh không thể ḥa b́nh với thế giới, chiến tranh bên ngoài cứ tiếp diễn để che đậy sự thực chính từ nơi cá nhân, chiến tranh thực sự ở bên trong. Lời cầu nguyện quan trọng nhất của nhân loại ngày nay là ḥa b́nh, nhưng không có ḥa b́nh trên thế giới tan nát v́ chiến tranh này cho đến khi nào những mâu thuẫn của con người với chính ḿnh chấm dứt.

Dưới mắt Đức Phật chúng sanh run rẩy như con cá trên gịng sông sắp cạn, bị ḱm kẹp trong tham ái, vùng vẫy hết chỗ này chỗ kia để thoát, giống như con thỏ rừng bị mắc bẫy hay như mũi tên lạc bắn trong đêm tối. Ngài nh́n thấy sự tranh giành lẫn nhau, cái vô nghĩa của hàng loạt cướp bóc trong đó kẻ này ăn kẻ khác, chỉ để rồi bị ăn bởi người khác. Chiến tranh gây ra do tâm con người và cũng chính tâm con người này có thể tạo ḥa b́nh và công lư nếu con người sử dụng tâm không thiên lệch.

Lịch sử thế giới cho chúng ta biết kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo cuồng tín, và tham quyền thế chính trị, và của cải đă tạo thêm nhiều thống khổ và tai hại lớn lao trong thế giới này và đă tiêu diệt một phần lớn nhân loại trong một đường lối độc ác. Những sự việc này không bao giờ đóng góp ǵ cho việc phát triển thế giới. Con người khát vọng quyền uy và của cải, bị đầu độc bởi ganh ghét bao giờ cũng tạo khó khăn, thường cố biện minh hành động độc ác của họ bằng cách nói một cách vô nghĩa dưới danh hiệu hoà b́nh và công lư. Chúng ta đang sống trong một thế giới đoàn kết về vật chất nhưng chia rẽ về tinh thần và đồng thời tinh thần đoàn kết nhưng vật chất chia rẽ.

"Chúng ta sống. làm việc và mơ mộng,
Mỗi người đều có một ư đồ nho nhỏ,
Đôi khi chúng ta cười;
Đôi khi chúng ta khóc.
Và cứ thế ngày tháng trôi qua"

Thái Quá

Chúng ta làm cực nhọc, đầu tắt mặt tối để duy tŕ thân xác. Chúng ta phạm tội không kể xiết để thỏa măn nhu cầu và tham ái của xác thân. Chúng ta muốn nổi tiếng và danh vang để thỏa măn ḷng vị kỷ cố hữu trong chúng ta. Chúng ta làm một ngh́n lẻ một những sự việc để nâng cao cái gọi là uy tín, và rồi khi chết đến, với cái mục rữa của thân xác trong mồ, hay xác thiêu chúng ta ra đi - xác thân không c̣n nữa.

Trong cuộc đời chúng ta tạo nhiều điều quan trọng quá mức trên xác thân. Cũng như chúng ta đă làm điều đó cho cái chết. Thi sĩ Khantipalo mô tả cái ồn ào thái quá tạo ra bởi chúng ta như sau:

"Quá nhiều ồn ào
Quá nhiều người
Quá nhiều th́ giờ
Quá nhiều khó khăn
Quá nhiều nước mắt
Quá nhiều tiền bạc
Tất cả thứ đó để làm ǵ?
Cho xác thân bé nhỏ!
Một viên tṛn chất đạm
Phân hủy nhanh chóng.
Cái thân nhỏ bé
Tan ră nhanh chóng.
Không c̣n ǵ nữa
Cha mẹ thân yêu
Hay bất cứ người thân nào khác.
Mặc dù như vậy
Chúng ta phải có
An ủi và quan tài
Đám ma và mộ chí
Tụ tập và tang tóc
Nghi thức và nghi lễ
Chôn hay thiêu
Ướp xác để giữ hoài
Tất cả những thứ ấy cho
Xác thân bé nhỏ phồng lên.
Các con hăy nhớ,
Các cháu hăy nhớ
Và sau chúng
Người chết bị lăng quên,
Đá và xương c̣n lại.
Vậy điều này không phải
Là một sốù nhiều vô nghĩa sao?

Giá Trị Tinh Thần

Julian Huxley nói: Đời phải dẫn đến chỗ thực hiện những khả năng không kể siết về thể chất, tinh thần, tâm linh vân vân...mà con người có thể làm được. Nhân loại có khả năng làm nhiều việc vĩ đại hơn, và cao quí hơn.

Bạn sinh ra trong cơi đời này để làm việc thiện và không để th́ giờ trôi qua vô ích. Nếu bạn biếng nhác, bạn là gánh nặng cho thế giới này. Bạn phải luôn luôn nghĩ đến việc nâng cao ḷng tốt và trí huệ. Bạn sẽ lạm dụng cái đặc ân trở thành một con người nếu bạn không chứng tỏ bạn xứng đáng với nguyên nhân mà v́ nó bạn được hưởng vị trí này. Phí phạm cuộc sống con người trong nuối tiếc dĩ văng, trong biếng nhác và không lưu tâm chứng tỏ sự không phù hợp của bạn trên thế giới này. Cây văn minh mọc rễ từ những giá trị tinh thần mà đa số chúng ta không hiểu. Không có những rễ ấy, lá sẽ rụng và để lại một thân cây chết.

"Nếu tất cả núi là sách, và nếu tất cả hồ là mực, và nếu tất cả cây cối là bút viết, vẫn không đủ để miêu tả sự thống khổ trong đời này"(Jacob Boehme)

Cho nên tại sao những đạo sư giác ngộ như Đúc Phật sau khi thấy đời đúng theo viễn cảnh của nó, không một động cơ vị kỷ hay ích kỷ nào, đă giải thích rằng không có mục đích thực sự của đời sống, nếu chúng ta cứ để đời sống chạy ṿng ṿng theo chu tŕnh sinh tử trong khi đau khổ về thể chất và tinh thần. Nhưng chúng ta có thể sử dụng hữu hiệu đời sống này cho mục đích tốt đẹp hơn bằng cách phục vụ người khác, trau dồi luân lư, rèn luyện tâm trí,và sống như một người có văn hóa trong ḥa b́nh, ḥa hợp với phần c̣n lại của thế giới. Theo Đức Phật, con người không phải là bù nh́n vô trách nhiệm. Con người là quả cao nhất của cây tiến hóa. Tuy nhiên triết lư cổ xưa tŕnh bày mục đích của đời sống như sau: "Dẫn từ tăm tối đến ánh sáng, từ không chân lư đến chân lư, và từ tử đến bất tử". Những lời nói đơn giản nhưng có ư nghĩa này cho chúng ta vấn đề đáng suy nghĩ.

Tử và Bất Tử

Tất cả những câu con người hỏi về đời sống đều liên quan đến sự thực của cái chết; con người khác biệt tất những sinh vật khác, v́ con người biết được cái chết của ḿnh nhưng lại không bao giờ chịu ḥa giải với sự chia sẻ với số phận tự nhiên của tất cả những sinh vật sống. Nếu chỉ con người mới có thể hiểu được đời sống ngắn ngủi và cái chết không tránh được, con người có thể giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến đời sống. Trong cuộc cầm cự chống lại cái chết, con người tuy đă thành công kéo dài đời sống nhưng cũng chỉ giống như đứa trẻ chơi tṛ xây cất lâu đài bằng cát trên bờ biển để rồi đợt sóng nối tiếp phá vỡ đi. Con người thường làm cho cái chết trở thành đối tượng trung tâm của tôn giáo, cầu khẩn phước báu thiên đường để đạt đời sống bất diệt.

Chết xẩy ra với tất cả chúng sinh, nhưng chỉ có con người trước sự đe dọa không ngưng của cái chết, tạo ra ư chí để chịu đựng. Ngoài việc ham thích được trường cửu và bất tử trong tất cả các dạng thức có thể tưởng tượng được, con người tạo ra tôn giáo, đến lượt nó, cố gắng đưa ra một sự kết thúc cuộc đời có ư nghĩa hơn.

Mặc dù có nhiều tín đồ của nhiều tín ngưỡng tin tưởng có sự hiện hữu của thiên dường trường cửu, nơi đây đời sống là một hạnh phúc bất diệt, chúng ta vẫn chưa nghe thấy những tín đồ thuần thành của một tôn giáo nào say mê từ bỏ cuộc sống trần thế và những thứ mà họ là sở hữu chủ để rồi được về thiên đàng ngày nay. Tương tự như vậy, ngay cả người Phật Tử cũng thích bám víu vào đời sống trần thế quí giá của họ chừng nào họ tồn tại, mặc dù họ biết rằng đời sống trên thế giới này chẳng là ǵ cả mà chỉ là khổ đau, và hạnh phúc tối thượng là Niết Bàn. Có bao nhiêu người đạt được Niết Bàn bằng bỏ tham ái?

Ngày nay cái khó khăn nhất mà các quốc gia phải đương đầu là vấn đề bùng nổ dân số. Đường lối và biện pháp phải được t́m ra để kiềm chế vết sưng không ngưng này của ḍng đời. Hàng triêu người cần thực phẩm, chỗ ở, tiện nghi và an ninh. Với những người ấy câu hỏi không phải là "Mục đích của cuộc đời là ǵ?" mà là "Phải làm ǵ với đời sống?". Câu trả lời đơn giản là ta nên sử dụng một cách hữu hiệu nhất đời sống và t́m ra cái ǵ là hạnh phúc mà ta có thể đạt được bằng phương thức thực tiễn và chính đáng hơn là lo lắng quá đáng về lư thuyết trừu tượng về mục đích bí ẩn của cuộc đời. Tuy nhiên, tôn giáo bước vào để an ủi con người hay thức tỉnh con người về sự thật đời sống không thê lương và vô vọng như nó được nh́n từ cơ sở xác thân vật chất không thôi. Có hy vọng cho một đời sống tốt đẹp hơn.

Tất cả những tiến bộ trên thế giới này được tạo ra bởi con người là do sự thật là con người nhận thức được con người phải chết và muốn để ảnh hưởng lại sau khi ra đi. Nếu con người đạt được bất tử và những ngày trên trái đất là vô tận th́ con người sẽ có xu hướng thoải mái và mất tất cả sự khích lệ và sáng tạo để tiến bộ, con người sẽ không c̣n ham thích trong việc tạo thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn. Nếu không có chết, đời sống sẽ đ́nh trệ, buồn tẻ, gánh nặng không tả xiết và chán nản. Nếu con người có tuệ giác biết được thời gian bao lâu nữa sẽ chết, con ngưới ấy sẽ hành động khác hẳn hành động mà người ấy đang làm hiện nay.

"Xác Thân Trở Thành Tro Bụi,
Nhưng Ảnh Hưởng Vẫn C̣n" - (Đức Phật)

Dù rằng cha ông chúng ta đă chết và ra đi, chúng ta vẫn cảm thấy họ vẫn hiện hữu với chúng ta không vật chất nhưng qua ảnh hưởng tạo ra từ thế hệ này đến thế hệ kia - ảnh hưởng của họ vẫn c̣n. Bằng từ ơ "tổ tiên", chúng ta không chỉ liên tưởng đến tổ tiên mà đến tất cả những ai đă đóng góp vào phúc lợi và hạnh phúc của người khác. Trong ư nghĩa này, chúng ta có thể nói những anh hùng, nhà hiền triết, và các thi nhân của ngày xưa đă không c̣n, nhưng vẫn hiện hữu giữa chúng ta qua ảnh hưởng của họ. V́ chúng ta tự liên hệ đến những liệt sĩ, và những nhà tư tưởng, chúng ta chia sẻ những tư tưởng khôn ngoan nhất, lư tưởng cao quư và cả đến âm nhạc tuyệt diệu của hàng thế kỷ qua.

Kêu gọi con tim của con người cho một mục đích là xác nhận không rơ ràng bản chất của đời sống. Khi con người cảm thấy bản chất cao quư hay tuyệt trần của ḿnh, người đó không c̣n khóc than ǵ về mục đích cuộc đời v́ đă nhận thức được chính ḿnh là mục đích.

Người biết suy nghĩ nhận định rằng ḍng lịch sử loài người được quyết định không phải ǵ xẩy ra trên trời mà là do cái diễn ra trong tâm con người.

Đức Phật nói không có một siêu nhân nào có thể cao hơn con người toàn thiện.

Con người có thể và phải tự nâng chính ḿnh lên trên giới hạn cá nhân của ḿnh, theo bước chân của Đức Phật.

Sử Dụng Hữu Hiệu Nhất Đời Sống

Điểm quan trọng nhất về đời sống là chúng ta có nó cho nên ta phải sử dụng nó một cách hữu hiệu nhất. Đó thật sự là giá trị lớn nhất của đời sống, cơ hội sử dụng hữu hiệu nhất nó. Nhiều người sống một cuộc đời hẹp ḥi, giới hạn, buồn tẻ và thất vọng v́ họ không cố gắng sử dụng hữu hiệu nhất đời sống. Nhưng điều này có thể làm được bằng cách có được lư tưởng và tuân theo nó. Lư tưởng của chúng ta phải thế nào? Chúng dùng để trau dồi đức tính con người dẫn đến sống một cuộc đời hạnh phúc và an lạc. Lối sống này được xem như một cuộc sống đạo hạnh, cao thượng, chính đáng học thức được kính trọng bởi mọi người. Không làm cho người khác hạnh phúc, một người không thể sống hạnh phúc. Con người phải cố gắng hết sức ḿnh đồng thời khi gặp đối nghịch, hay được tưởng thưởng bởi phần nào thành công, phải tự hỏi "Tôi đă làm hết ḿnh chưa", và cả đến khi thua, phải nhớ lại con đường giải thoát không chỉ nằm trong chiến thắng mà là trong việc chấp nhận cuộc chiến.

"Cái cây mang nhiều trái
Con sông làm đất ph́ nhiêu
Ḍng sữa tốt của con ḅ
Công việc cực nhọc liên tục của người thiện;
Của cải này đáng giá, công việc này đă làm,
Cho lợi ích người khác, không phải cho riêng ḿnh.

Học thuyết hiện đại về phục vụ xă hội cần thiết đến thế, có thể nói là nền móng đạo đức của tất cả những tôn giáo vĩ đại.

Niết Bàn

Nếu ai dạy: Niết Bàn là sẽ phải ngưng
Hăy nói với họ: nói dối
Nếu ai dạy: Niết Bàn là sẽ phải sống
Hăy nói với họ: sai lầm"
--(Sir Edwin Arnold trong Thi Phẩm Ánh Sáng Á Châu)

Định nghĩa đă nói ở trên đây về về đời sống thừa đủ cho người nào hiểu quan niệm đạt Niết Bàn, nơi đau đớn về thể chất và tinh thần không c̣n nữa, v́ Niết Bàn nói lên sự chấm dứt khổ đau. Mục đích của toàn bộ cuộc đời là ngăn chặn, giảm bớt khổ đau và t́m hạnh phúc. Nếu thực sự chúng ta muốn có hạnh phúc trường cửu - hạnh phúc ta chứng nghiệm trong tâm hoàn toàn thoát khỏi những phiền toái, chúng ta phải học cách đạt được nó. Bằng cách kiếm nhiều của cải, quyền uy, và những điều kiện trần thế nhiều hơn, chúng ta không bao giờ có thể đạt thỏa măn thực sự, măn ư, tâm an lạc và hạnh phúc không thay đổi - được gọi là "làm dịu giác quan và làm nguội những ô trược đang cháy trong tâm."

Phải nhớ rằng không ai bắt chúng ta phải làm một hành động đặc biệt nào đó. Không ai phạt hay thưởng chúng ta. Chúng ta có hoàn toàn tự do ư chí và chọn lựa. Nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể chịu được tất cả những đau đớn và khổ đau vật chất và tinh thần, bạn có thể vẫn c̣n ở trong ṿng sanh tử và tiếp tục gào khóc, rên siết, đau khổ, bị nguyền rủa, càu nhàu, tranh đấu, lo âu, chiến đấu để tồn tại, làm việc như nô lệ đêm ngày, đương đầu với khó khăn và chướng ngại to lớn. Thực ra trong suốt cuộc đời, chúng ta đă bỏ th́ giờ, năng lực và tâm trí vào chiến trường - tranh đấu để tồn tại, tranh đấu để có quyền thế, lợi lạc, tên tuổi, lạc thú và tranh đấu để thoát những sự việc nguy hiểm. Đôi khi chúng ta đạt được một chút lạc thú xen vào giữa. Lạc thú nào th́ cũng chấm dứt với khổ đau.

Hăy nh́n vào thế giới, chúng ta có thể thấy con người đánh nhau như thế nào, giết chóc, thiêu đốt, ném bom, bắt cóc, cướp máy bay, và đánh phá lẫn nhau. Tiêu diệt người đồng chủng trở nên một tṛ chơi giải trí hay để vui đùa. Toàn thế giới như một nhà điên. Con người đă quên đi tính nết tốt con người và để tư tưởng, lời nói, và hành vi tội lỗi ngự trị con người. Rơ ràng không có chỗ trong tâm con người để trau dồi tư tưởng và hành vi thiện. Làm sao ta có thể t́m được ḥa b́nh và hạnh phúc trên chiến trường mà người ta chiến đấu không ngừng để thắng hay để thoát hiểm?" Thái độ vô nhân đạo của con người đă gây nên hàng ngàn tang tóc không kể xiết.

Nếu bạn có thể hiểu được cái mong manh của đời sống và cái nguy hiểm của thế giới, th́ bạn có thể hiểu được ư nghĩa của việc đạt Niết Bàn. Bạn sẽ không c̣n chậm trễ trong cố gắng t́m cầu trạng thái hạnh phúc này. Ngày nay bạn chiến đấu để thoát khỏi khổ đau bằng phương cách trần thế. Nhưng đó là trận thua. Sẽ chỉ có thất bại. Tuy nhiên nếu bạn cố gắng quét sạch khổ đau bằng cách phát triển khía cạnh tinh thần trong đời bạn, bạn có thể t́m thấy an lạc thực sự. Đó là Niết Bàn.

Lạc Thú Trần Tục

Chúng ta biết có nhiều người trong thế giới này, cả đến người Phật Tử, không chuẩn bị tu tập để đạt Niết Bàn. V́ lư do đó, một số đă mô tả Niết Bàn như thiên đàng, nơi con người có thể vui hưởng lạc thú vô tận. Sự mô tả này lôi cuốn những người kém hiểu biết về đời sống và sự việc trần thế và những ai đắm ḿnh vào tham ái, luyến chấp trong đời sống và lạc thú trần tục. Họ không hiểu rằng quan niệm về Niết Bàn như vậy chỉ là mộng. Tuy nhiên người trần tục luôn nghĩ và cầu nguyện loại Niết Bàn ấy. Mặt khác có những người nghĩ rằng tốt hơn là cứ ở trên thế giới này mặc dù đủ loại khổ đau để vui hưởng đời sống. Họ không hiểu rằng do tham dục và luyến chấp phát triển nơi họ, họ không thể cảm thấy hạnh phúc tối thượng của Niết Bàn. Những điều trần tục khác mà họ coi là hạnh phúc không thể giải thoát họ khỏi cái đau khổ vật chất và tinh thần.

Theo Đức Phật, v́ vô minh mà con người tham cuộc sống trong ṿng luân hồi sinh tử - trong khi đau khổ và mải mê chạy theo ảo tưởng trong sự t́m cầu điều nhằm thỏa măn giác quan. Họ phải nên học cách làm dịu giác quan thay v́ xoa dịu chúng bằng nuông chiều phù du.

Hệ Thống Thế Giới Vô Tận

Một số người nghĩ rằng nếu tất cả chúng ta đều đạt Niết Bàn th́ thế giới này sẽ là môt nơi trống rỗng và sẽ không có ai làm việc cho sự tiến bộ của thế giới. Đó là ư kiến nông cạn xuất hiện trong tâm của những người thiếú hiểu biết kiến thức thực sự về cuộc sống.

Họ phải hiểu rằng thế giới này không bao giờ trống rỗng v́ chỉ có một số ít người trí có thể đạt được Niết Bàn. Trong chừng mực mà hệ thống thế giới c̣n liên quan đến th́ không có giới hạn nào đối với chúng cả. Không có sự việc như bắt đầu hay chấm dứt hệ thống thế giới hay vũ trụ. Các hệ thống trần thế bao giờ cũng hiện ra và mất đi. Khi một hệ thống thế giới này mất đi, nhiều hệ thống khác vẫn c̣n lại. Trong khi đó những hệ thống thế giới rải rác tái xuất hiện do sự phối hợp của các phân tử và năng lượng. Chúng sanh xuất phát từ những hệ thống thế giới khác xuất hiện do sự phối hợp của các thành phần này, vật chất, năng lượng và khuynh hướng tinh thần. Ta không nên nghĩ rằng chỉ có một số chúng sinh giới hạn đi loanh quanh trong vũ trụ này. Chúng sanh là vô giới hạn và vô cùng tận.

Tiến Bộ và Ô Nhiễm

Thực ra chúng ta có làm việc cho sự tiến bộ của thế giới này không? Chúng ta nghĩ rằng chúng ta làm việc cho sự tiến bộ của thế giới này, nhưng thực ra chúng ta hiện nay làm tổn thương thế giới này. Chúng ta khám phá ra nhiều máy móc cải tiến để phá hoại thế giới. Thiên nhiên đă sản xuất quá nhiều thứ. Để đạt mục đích, chúng ta đă làm hại thế giới bằng đào bới, chặt phá, san lấp và phá hoại cái đẹp tự nhiên của trái đất. Chúng ta đă ô nhiễm bầu không khí, sông ng̣i và biển cả. Chúng ta đă phá hoại đời sống cây cối và đời sống những con vật đáng thương. Chúng ta không bao giờ nghĩ rằng ở nơi đời sống của mỗi cây có giá trị thực phẩm hay giá trị dược tính. Mỗi chúng sanh phải đóng góp phần của ḿnh trong việc bảo tŕ môi sinh. Chúng ta không nên cho rằng chỉ có con người mới có đặc quyền đặc lợi của các cư dân có quyền sống trên trái đất này. Mỗi và bất cứ chúng sanh nào đều có quyền b́nh đẳng sống nơi đây. Nhưng chúng ta đă tước đi quyền lợi của các chúng sanh khác. Không những thế, ngay trong cộng đồng nhân loại, chủng tộc này cố gắng phá hoại chủng tộc khác, cản trở sự tiến bộ và không để cho chủng tộc khác được sống trong ḥa b́nh. Họ tuyên bố chiến tranh và chém giết lẫn nhau dưới danh nghĩa ái quốc.

Chừng nào mà con người c̣n có tâm ô nhiễm th́ không thể có ḥa b́nh trên thế giới này. Do sự tồn tại của những chúng sanh như vậy nên trên trái đất này trở thành một nơi rối loạn. Ngày nay chúng ta thấy sự chém giết khắp nơi trên thế giới. Người này mưu toan lừa đảo người kia. Tư tưởng ích kỷ chiếm ưu th? trong tâm họ. Người này không thể tin nổi người kia. Họ nh́n người khác với nghi kÿ trong tim họ. Người này không thể hiểu được tính chất thực sự hay động cơ của người khác. Mặc dù con người có thể tránh thoát con vật, nhưng rất khó khăn tránh thoát nổi chính con người.

Con Người Chịu Trách Nhiệm

Con người luôn luôn nói về sự bất ổn của t́nh h́nh thế giới. Ai là người chịu trách nhiệm về t́nh trạng bất hạnh này? Có ai khác hơn là con người được gọi là người tài trí? Làm sao ta có thể mong mỏi một thế giới tốt đẹp hơn và ḥa b́nh nếu con người cư xử xấu xa hơn con vật? Sao ta có thể vui hưởng cuộc đời trong cái thế giới không thể tin tưởng được này? Các nhà khoa học theo đuổi cuộc chinh phục thiên nhiên v́ mục đích vật chất. Triết học Đông phương mong muốn sống ḥa hợp với thiên nhiên v́ tâm an lạc và thành tựu tinh thần. Bạn không thể thay đổi điều kiện trần thế theo lời mong ước của bạn nhưng bạn có thể thay đổi tâm bạn để phát triển sự măn nguyện nhằm t́m thấy hạnh phúc. Một người chỉ chú trọng t́m cầu thỏa măn trần tục, sẽ không bao giờ đạt được kiến thức cao hơn, v́ kiến thức này không thể t́m thấy mà không có việc t́m kiếm tích cực. Chủ nghĩa duy vật hạ con người xuống hàng súc vật trong khi tôn giáo nâng con người lên hàng thần thánh hay cao quư. Trong chế độ nặng về vật chất, con người trở thành nô lệ cho giác quan. Tự nhiên đa số người không thích nh́n thấy sự thực của đời sống. Họ muốn ru ngủ chính họ vào sự yên ổn của giấc mộng huyền ảo, vào tưởng tượng và lấy bóng làm thật. Thái độ của Đức Phật về quyền uy trần thế và lạc thú t́nh dục như sau: "Tốt hơn cả quyền tối cao tuyệt đối trên trái đất này, tốt hơn về thiên đàng, tốt hơn cả đến quyền lực trên tất cả những thế giới, đó là thành quả của người đạt thắng lợi: giai đoạn đầu của sự toàn hảo". Bằng cách bỏ cả cuộc đời vào tiến bộ vật chất trần thế hầu thỏa măn tham dục không thể cho con người nh́n thấy cứu cánh của cái bất toại nguyện trong đời sống. Theo Đức Phật, thế giới này đặt nền tảng trên mâu thuẫn, bất đồng hay bất toại nguyện. Bằng cách nhận thức được bản chất thực sự của hoàn cảnh trần thế, Đức Phật cũng nói Ngài không tán dương thế giới v́ nó bất toại nguyện và vô thường. Ngài nói phương cách đi tới lợi lạc trên trần thế là một việc và phương cách đi tới mục tiêu cuối cùng - Niết Bàn- là một việc khác.

Con Người và Mật Ngọt

Dưới đây là một câu chuyện ngụ ngôn để chúng ta suy ngẫm về bản chất của đời sống và lạc thú trần tục. Một người đi lạc vào rừng dậm toàn là gai góc và đá lởm chởm. Người ấy chạm trán một con voi to lớn bắt đầu đuổi hắn. Hắn bắt đầu chạy để thoát mạng. Khi đang chạy hắn nh́n thấy một cái giếng, hắn nghĩ đây là nơi tốt để hắn có thể tránh thoát con voi. Nhưng bất hạnh thay, dưới đáy giếng lại có một con rắn độc.

Tuy nhiên trong lúc vô kế khả thi hắn liều ḿnh bám vào một cây leo tḥng ḷng xuống giếng. Trong khi hắn bám vào cây leo này, hắn nh́n thấy một con chuột trắng và một con chuột đen đang cắn cây leo mà hắn đang níu vào. Hắn cũng thấy một tổ ong bên cạnh lâu lâu lại rỏ một giọt mật.

Trong khi đương đầu với cái chết trong ba đường nguy hiểm, hắn vẫn c̣n tham nếm giọt mật rớt xuống từ tổ ong. Nh́n thấy t́nh cảnh lâm ly của của con người khốn khổ này, một người hào hiệp đi qua, t́nh nguyện dang tay cứu vớt đời hắn. Nhưng con người tham lam và khờ dại này từ chối v́ vị ngọt của mật ong mà hắn đang vui hưởng. Vị ngọt của mật ong đă đầu độc hắn khiến hắn quên đi cái nguy hiểm mà hắn đang phải đương đầu.

Nơi đây trong câu truyện ngụ ngôn này, con đường gai góc trong rừng tương ứng với luân hồi - bánh xe sinh tử luân hồi. Con đường gai góc luân hồi là một con đường bất ổn và khó khăn. Không dễ dàng ǵ cho một người tiếp tục đời ḿnh qua cái rừng gai góc khó khăn của luân hồi. Con voi tượng trưng cho cái chết. Cái chết luôn luôn theo ta, làm cho chúng ta bất hạnh phúc, tuổi già của chúng ta cũng tạo bất hạnh phúc và bất an trong tâm ta. Cây leo tượng trưng cho sanh. Giống như cây leo, cây leo càng lớn càng quấn vào cây khác, cũng như vậy do sanh, ḍng đời chảy trôi tích lũy, nắm giữ, bám víu vào nhiều thứ trên thế giới. Hai con chuột tượng trưng cho ngày và đêm. Ngay từ ngày sanh ra trong thế giới này, ngày đêm trôi qua cắt bớt và thâu ngắn ḍng đời. Những giọt mật là những lạc thú phù du trần thế quyến rũ con người ở lại trong thế giới vô thường và bất trắc này. Người thiện đến dang tay ra giúp đỡ chỉ cho hắn con đường chính đáng để thoát khỏi t́nh trạng nguy hiểm là Đức Phật.

Một người nghĩ rằng sẽ là tốt hơn để sống trên cơi đời nhằm hưởng thụ không cần cố gắng đạt Niết Bàn, giống như người từ chối thoát ra khỏi t́nh trạng nguy khốn trong đời sống chỉ để nếm một chút mật ngọt. Mục đích của cuộc đời là để đạt giải thoát khỏi gánh nặng vật chất và tinh thần.

-ooOoo-



__________________
Tuệ giác phá tan ṿng hắc ám
Chân tâm phá vỡ lưới vô minh
Biết ra vốn thiệt ta là phật
Giác phật, mê ma cũng là ḿnh
Quay trở về đầu Xem tieudongtu's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tieudongtu
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.6094 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO