Msg 1 of 1: Đă gửi: 14 April 2006 lúc 8:40pm | Đă lưu IP
|
|
|
1. THAM HƠN
Có hôm Bác ghé "cốc" của đứa cháu, thấy trên vách có ghi:
"Kiếp sau xin chớ làm người
Làm thân sen báu bên trời Tây phương".
Nhiều người khen hay!
Bác nói:
– Tu mà tham quá!
Nêu chuyện trên dụng ư đưa ra vài dữ kiện để suy tư với cả hai chiều định lư, hầu t́m một lối thoát chính xác cho khỏi cảnh:
"Kiến kia miệng chậu ḅ quanh,
Tưởng xa nhưng chẳng khỏi vành chậu ô".
Tác giả thấy ḿnh quanh quẩn măi, chưa ra khỏi ṿng đai VỊ NGĂ nên nêu lên đề tài THAM HƠN ngầm mong một sự xót thương chung!
2. PHẬT BÀ HÓA HIỆN
Bác Hai thích thực tế, không ưa chuyện mơ hồ. Bác có quen mấy cháu ở Vĩnh Chánh, những người niệm Phật kiên tŕ lắm! Họ tự qui định ngày niệm mấy muôn, nếu thiếu phải thức khuya dậy sớm niệm bù lại.
Một hôm có dịp Bác nói với các cháu ấy:
– Không rơ cơ duyên làm sao mà Bác lại niệm Quan Thế Âm Bồ Tát nhiều hơn niệm Phật.
Một cháu hỏi:
– Ông Hai ơi! Con nghe người ta nói niệm Quan Thế Âm hay thường nằm mộng thấy Phật Bà lắm! Vậy Ông có mộng thấy Phật Bà lần nào hôn?
Bác đáp:
– Không! Ông không chiêm bao gặp, mà có gặp Phật Bà hiện ra ban ngày ở Long Xuyên.
Cô bé tỏ vẻ ngạc nhiên, mở to mắt nh́n Bác.
Bác kể tiếp:
– Hôm ấy khoảng 3–4 giờ chiều. Chiếc xe Long Xuyên – Cái Dầu sắp rời bến. Nhưng có một băng chưa đủ người, v́ có một ông cùi ngồi nên c̣n hai chỗ không ai chịu ngồi cả. Lẽ ra với số khách đó cũng đủ cho xe rời bến, nhưng v́ dưới bến c̣n khách nên lơ xe t́m cách chở đủ số lượng. Bác tài lại thương thuyết ǵ đó với ông cùi, nhưng ông tỏ vẻ bất b́nh, không chịu. Sau cùng chú lơ xe lại đôi co:
– Ông đi làm tôi mất hết hai chỗ ngồi.
– Việc đó đâu phải lỗi tại tôi, Ông cùi đáp. Người ta không đi mặc họ, tôi đi trả tiền đủ thôi!
Chú lơ cáu lên:
– Ông xuống đi xe khác, tôi cho tiền xe ông!
Ông cùi đáp:
– Tôi cần về nhà, chứ không cần tiền. Nếu ai cũng nói như chú th́ tối nay tôi ngủ đâu?
Không giải quyết được, tài xế và lơ xe lằng nhằng hoài. Hành khách cũng nhốn nháo. Ngay lúc ấy, một cô hành khách rất "moden" đứng dậy nói:
– Để tôi giải quyết cho!
Chú lơ xoay lại hỏi:
– Chị chịu trả thêm hai chỗ ngồi nữa hôn?
Không cần! Cô ấy nói. Tôi giải quyết ổn thôi.
Rồi cô đến bên ông cùi và nói:
– Thưa Bác, Bác ngồi sát vô con ngồi kế Bác là xong!
Cô vừa ngồi bên ông cùi, một người lên ngồi cạnh cô và một người khác đến ngồi ghế cô vừa bỏ trống.
Xe rời bến, người cư sĩ chứng kiến sự việc năy giờ tự nhủ:
– Lẽ ra việc làm đó là việc của ḿnh, nhưng v́ ḿnh chờ xem, ngờ đâu cô "moden" kia giải quyết đẹp quá!
(Chính vị cư sĩ này thuật lại chuyện trên).
Đến đây Bác kết thúc câu chuyện:
– Cô gái moden là hiện thân của Phật Bà đấy!
Cháu bé lên tiếng ngay:
– Con thà trả thêm hai chỗ ngồi nữa, chứ không thể ngồi như vậy được!
Bác nói:
– Phật Bà ngồi mới được! Chứ cư sĩ ngồi không được đâu!
4. PHẬT ĐI NHỜ
Bác Hai có chiếc ghe độ sáu bảy chục giạ mà mấy cháu mượn đi mua bán chuối ở Long Xuyên. Bến chuối th́ nhỏ mà ghe chuối rất đông. Chiếc nào đến sau phải đậu ngoài chờ trống mới chen vô được. Ghe chuối nào cũng có 5 – 7 buồng chín, cần giải quyết sớm. Có ghe đến đậu sau ghe Bác. Chủ ghe hỏi đi nhờ trên mui ghe ḿnh để đem chuối chín lên, Bác đồng ư.
Ghe Bác nhỏ, đậu cạn, mà gánh chuối đi trên mui nên rúng ghe lắm! Mấy cháu than:
– Đi như vậy tụi con thấy nhót ruột lắm! Đành rằng ghe của Bác, Bác cho người ta đi nhờ, nhưng cũng tại tụi con mượn đi buôn nên mới có cảnh này.
Bác đáp:
– Kệ rángg giúp người ta trong lúc ngặt. C̣n ghe ḿnh sớm hay muộn ǵ nó cũng phải hư thôi! Mà... Phật đi đó, chứ phải người phàm sao?
Mấy cháu hiểu ư nên cùng mỉm cười!
5. ĐẶNG CHÀI ĐẶNG CH̀
Cô Bé (cô tên Bé) ở Long Xuyên là cư sĩ tại gia. Cô có hứa với mấy chị bạn (mấy cô này cất cốc tu theo hạnh xuất gia) là để cô thu xếp việc nhà rồi sẽ cất cốc gần với mấy chị đặng tu.
Hôm nọ, cô Bé gặp Bác Hai bèn hỏi ư kiến (dạo đó mới tiếp thu):
– Con muốn cất cốc tu, chú Hai thấy sao?
Bác hỏi lại:
– Gia đ́nh cháu khá không? Anh em nhiều ít? Cha mẹ c̣n không?
Cô đáp:
– Nhà có ăn, cha mẹ c̣n đủ, anh em có ít người mà ai cũng dành nuôi cha mẹ hết.
Ư cô muốn nói rằng cô rất rảnh, khỏi lo tiếp gia đ́nh. Bác Hai th́ không có lập trường là phải tu tại gia, tu cốc hay chùa ǵ cả! Nhưng v́ cô Bé nói anh em cô có ít người mà ai cũng dành nuôi cha mẹ hết, nên Bác mới nói:
– Ủa! Sao người ta không tu mà biết dành nuôi cha mẹ, c̣n ḿnh tu mà không biết dành nuôi?
Thế là cô Bé bỏ ư định cất cốc. Ít lâu sau mấy cô cư sĩ rủ cô bé cất cốc hôm nọ đó, mời Bác Hai ghé cốc mấy cổ chơi. Sau khi cơm nước và đàm luận một lúc lâu, mấy cô mới nói:
– Nhờ anh Hai giải thích giùm: Cái hiếu thế gian và cái hiếu xuất thế gian!
– Chèn ơi! Hồi nào tới giờ tôi không phân chia cái hiếu ra như vậy nên không biết. Theo ư tôi th́ con người làm cách nào đó để đền ơn cha mẹ, là người con có hiếu.
Mấy cô nói:
– Có người quan niệm phải xuất gia tu hành đắc đạo để cứu vớt cha mẹ. Vậy anh thấy sao?
Bác đáp:
– Cái đó quí vô cùng, nhưng nên nhớ: "Đặng chài đặng ch́; mất chài mất ch́" nhé!
6. HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY
ông giáo, nhà ở trong ngọn, dạy học ngoài vàm và ở luôn bên vợ ngoài ấy.
Bữa nọ chiếc tàu đ̣ trong ngọn chạy ra, dừng chầm chậm ngay trường học. Có một người tḥ đầu ra hỏi to:
– Có thầy A ở đó không?
Lũ học tṛ đáp:
– Dạ không có! Thầy A chưa đến!
– Bây báo tin gấp cho ổng hay:"Má ổng chết rồi!".
Tàu mở máy chạy luôn. Học tṛ hỏa tốc chạy cho thầy hay! Ông giáo quưnh quáng, báo cho gia đ́nh bên vợ và Ban Giám Hiệu. Ai nấy vội vàng đi mua đồ phúng điếu. Riêng thầy A đạp xe chạy thục mạng về trước, ḷng buồn vô hạn. Ông đinh ninh từ nay đă mất mẹ rồi!!!
Về tới nhà, xe vừa quẹo vô tới cửa rào thấy mẹ xách hai thùng nước nhỏ tưới trầu, ông quăng ngay chiếc xe, nhào lại ôm mẹ kêu:
– Trời ơi! Má! Má! Má ơi Má!
Bà già ngạc nhiên hết hồn, không biết vụ ǵ mà con bà ôm chặt lấy bà với nước mắt ràn rụa và cứ kêu má măi! Hồi lâu ông giáo mới bệu bạo:
– Vậy mà ai ác ôn, nhắn tin nói má chết rồi!
Lát sau, bên vợ ông giáo và mấy thầy cô đồng nghiệp chở đồ phúng điếu vô đến, hay rơ sự việc ai nấy cười ngất. Sẵn đồ đạc, thôi th́ họ làm một bữa tiệc ăn mừng!
Bây giờ ông giáo rất vui. Ông không oán trách kẻ trác ḿnh, v́ vụ "chơi khăm" vừa qua giúp ông nhận được bài học quí.
"Mẹ c̣n là nguồn hạnh phúc lớn lao!" Chớ có thờ ơ uổng phí!!!
7. CẢM NHẬN
Có một cháu hỏi:
– Câu thành ngữ: "Máu ai thơm thịt nấy" là sao Bác?
– Thường th́ mẹ rất thương con. Có khi con ḅ chơi dưới đất, mặt mày lem luốc mà mẹ vẫn ẵm bồng hôn hít một cách ngọt ngào, thơm lắm!
"Máu ai thơm thịt nấy" là thế!
– Các câu tục ngữ luôn luôn ư nghĩa rất sâu xa, mà câu này con nghĩ măi thấy nó cũng tầm thường, có ǵ đâu! Nay Bác nói con mới nhận ra.
– Cái đầu không biết đâu. Trái tim mới nhận được!
8. BỮA CƠM NGON TUYỆT
Vợ chồng chú Bảy mua bán máy cũng phát tài lắm! Chú thím đều dùng chay trường.
Một hôm gặp Bác, thím than văn:
– Chú Hai ơi! Ông nhà tôi dạo này ổng ngán ăn tương quá rồi! Chú làm sao khuyên giúp giùm.
Nhân có mặt chú Bảy ở đó, Bác nói:
– Ăn chay không nổi tôi biết nói sao bây giờ, tính sao đó tính. Rồi Bác nói tiếp:
– Có hai vợ chồng chú Út nọ, đều là giáo viên, đời sống cũng tương đối khá. Chú có người anh là sĩ quan ngụy, học tập hơn 5 năm mới về.
Trong câu chuyện ông anh kể lại những nỗi khổ ở trại cải tạo, có nhắc đến ông Bác sĩ trước là Trưởng ty Y Tế Kiến Phong (Đồng Tháp) cũng học tập cùng trại.
Ông Bác sĩ khao khát được ăn một miếng canh rau tươi. Bên ngoài vách trại có loại rau trai. Ông lấy kẽm gai làm cây móc để khều từng cọng rau kẽ theo vách, khó khăn lắm mới nhặt được một đọt. Được 5–7 đọt ông rửa sạch để vào lon Guigoz cho vào ít nước và muối, đậy kín gởi trong chảo cơm. Thế là bữa đó có món canh ngon! Mà lâu lắm mới được một bữa như vậy. Chế độ ăn uống trong trại thật kham khổ, một cái hột vịt tám người ăn v..v.. Cả cơm cũng thiếu!
Nghe ông anh kể nỗi khổ trong tù, chú giáo xúc động lắm!
Chiều hôm đó vợ chú dọn cơm canh bồ ngót với cá kho. Bữa cơm b́nh dân, đạm bạc thôi, thế mà chú ăn ngon lạ!
Do sự xúc động thương tâm v́ chuyện nhọc nhằn, thiếu thốn, khổ đau trong tù của người anh, khiến chú thấy bữa ăn đơn giản ấy trở thành thịnh soạn, ngon hiếm có vậy!
Bác kể đến đây thôi, không kết luận.
9. TỤNG - NIỆM, CÁI NÀO HƠN?
Một ông bạn hỏi Bác Hai:
– Theo ư anh tụng – niệm, cái nào hơn?
Bác trả lời:
– Hai cái đó chẳng có cái nào hơn cái nào cả. Hơn kém do sự dụng tâm của con người. Nếu ḿnh niệm Phật mà thấm nhuần các đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật và đem ứng dụng vào đời sống, cái tác dụng đó mới đáng kể. C̣n tụng kinh mà ḥa nhập cuộc sống sát với nghĩa lư trong kinh th́ sự tụng kinh ấy mới có giá trị.
Ngược lại, nếu niệm Phật mà không thể hiện được đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật; tụng kinh mà không thấu được nghĩa lư, không sống khế hợp với lời dạy trong kinh th́ cũng như trả bài vậy thôi! Tóm lại, do dụng tâm đúng sai mà có hơn kém, chẳng phải do tụng hay niệm.
Ông ấy hỏi tiếp:
– Theo tôi nghĩ ḿnh khởi tâm muốn niệm Phật là động. Niệm năm mười tiếng rồi khởi tâm niệm Phật thêm là động nữa. Vậy có phải động không?
Bác Hai đáp:
– Đúng rồi! Khởi tâm niệm Phật là động. Nhưng, thí dụ nhà hàng xóm gặp tai nạn nguy cấp, ḿnh lo lắng cứu giúp lăng xăng th́ đó là động mà ḷng ḿnh cảm thấy b́nh an. Thế là động, mà vẫn tịnh. Lại có khi ḿnh ngồi không, chẳng làm ǵ hết lại không an.
10. SỐNG CHẾT LÀ MỘT
Có người hỏi:
– "Sống chết là một". Là sao Bác Hai?
Bác đáp:
– Mỗi một ngày qua, có thể nói ḿnh sống thêm được một ngày, hay bảo rằng ḿnh đă chết đi hết một ngày cũng đều đúng!
11. XIN MỘT LỜI KHUYÊN
Có mấy cháu đến nhờ Bác dạy cho những kinh nghiệm tu hành.
Bác trả lời:
– Bác chẳng có kinh nghiệm ǵ cả, chỉ coi Sấm giảng mà tu như mấy cháu vậy thôi.
Mấy cháu năn nỉ:
– Thôi th́ Bác cho cháu một lời khuyên.
Bác nói:
– Việc tu hành điều quan trọng là phải thành thật với chính ḿnh. Nếu không thành thật với ḿnh th́ không thể tu được. Với người, đôi khi ta có thể dấu được. V́ sao? Bởi có những sự thật không nên nói, v́ nói không có lợi.
|