Tác giả |
|
sunbeam Hội viên

Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 1 of 3: Đă gửi: 27 April 2006 lúc 12:42am | Đă lưu IP
|
|
|
BuddhaSasana Home Page
Sự truyền bá đạo Phật tại Tây phương :
một cuộc Chuyển Pháp Luân mới?
Trịnh Nguyên Phước
Đứng trước thềm thế kỷ XXI, chúng tôi có một vài giả thuyết có lẽ hơi táo bạo và khiêu khích về chiều hướng phát triển của đạo Phật. Tuy nhiên, chúng tôi cũng thấy nên đưa chúng lên diễn đàn như một đề tài mới để cùng nhau suy nghĩ và thảo luận.
Những giả thuyết này có thể tóm tắt trong bốn điểm :
1) Sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây phương là một điều bổ ích, không riêng cho Tây phương mà cho cả thế giới. Hơn nữa, sự phát triển của đạo Phật tại Tây phương là một dịp may lớn đối với đạo Phật, nó sẽ mang lại cho đạo Phật nguồn sinh khí cần thiết. Đó có thể là một cuộc Chuyển Pháp luân mới.
2) Đạo Phật sẽ dần dần thoát khỏi h́nh thức tôn giáo, tín ngưỡng, và sẽ tồn tại lâu dài dưới h́nh thức một con đường tâm linh thế tục và phổ biến (spiritualité laique et universelle), mở rộng cho tất cả mọi người, thuộc những truyền thống, văn hóa khác nhau.
3) Tương lai của đạo Phật không c̣n nằm ở Đông phương, mà là ở Tây phương. Đạo Phật Tây phương sẽ là đầu tầu cho sự chấn hưng của đạo Phật, qua những đổi thay tất yếu đưa tới bởi những điều kiện xă hội kinh tế, khoa học kỹ thuật mới, bắt nguồn từ Tây phương.
4) Phật giáo Việt Nam phải dựa theo kinh nghiệm của đạo Phật Tây phương, nếu muốn tự canh tân, hiện đại hóa, để thích hợp với thời đại. Dù muốn hay không, đạo Phật Việt Nam cũng không thoát khỏi định luật toàn cầu hóa (mondialisation), và sẽ bắt buộc phải tiến hóa theo chiều hướng thế giới, tức là chiều hướng Tây phương.
Những giả thuyết đó dựa lên những lập luận sau đây, mà chúng tôi xin phép được tŕnh bầy :
Đối với nhà sử học văn minh Arnold Toynbee, "Sự kiện có ư nghĩa nhất của thế kỷ XX là sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây phương"("L'évènement le plus significatif du XXè siècle est la rencontre du bouddhisme et de l'Occident").
Sự đánh giá đó đă được chứng minh một cách hùng hồn bởi sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phật tại các nước Âu, Mỹ và Úc châu, trong mấy thập niên vừa qua.
Sự phát triển này không phải chỉ thể hiện trên bề mặt, qua các phim ảnh báo chí (hiện tượng được gọi là "Buddhamania"), mà c̣n thâm nhập xă hội Tây phương trong chiều sâu, qua sự phổ biến rộng răi kinh sách, sự thành lập của hàng ngàn tự viện, thiền thất, sự tổ chức những khóa tu học Phật mỗi ngày một thêm đông đảo. Trong nhiều nước Tây phương, đạo Phật đă trở thành tôn giáo thứ ba, sau Ky Tô giáo và Hồi giáo.
Vậy th́, từ lưu vực sông Hằng, sau khi được truyền bá về hướng Nam vào thế kỷ thứ III trước CN dưới h́nh thức Nguyên Thủy, về hướng Đông vào thế kỷ thứ I dưới h́nh thức Đại Thừa, về hướng Bắc vào thế kỷ thứ VII dưới h́nh thức Kim Cương Thừa, phải chăng Phật pháp đang được truyền bá về hướng Tây vào thế kỷ XX, dưới h́nh thức tạm gọi là Tây Phương Thừa?
Phải chăng sự truyền bá Phật pháp về hướng Tây này là một cuộc Chuyển Pháp luân mới? Những câu hỏi này lại kéo thêm ba câu hỏi nữa :
1. Đạo Phật Tây phương có những điểm ǵ khác biệt so với đạo Phật Đông phương?
2. Đạo Phật Tây phương đă đóng góp được những ǵ, và có thể nào mang lại một nguồn sinh khí mới cho Phật giáo thế giới?
3. Phật giáo Việt Nam có thể nào dựa lên kinh nghiệm của đạo Phật Tây phương, để tự ḿnh canh tân, hiện đại hóa, thích hợp với thời đại?
-oOo-
Nh́n qua những thể hiện đầu tiên của sự gặp gỡ giữa đạo Phật và Tây phương, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét :
a) Những biến chuyển xẩy ra trên thế giới vào cuối thế kỷ XX cho thấy rằng câu khẳng định của Rudyard Kipling "Đông là Đông, và Tây là Tây, hai bên sẽ không bao giờ gặp nhau" đă tỏ ra hoàn toàn sai lầm. Nhờ những tiến bộ không ngừng của kỹ thuật truyền thông và vận chuyển, sự giao lưu văn hóa giữa Đông và Tây đă trở thành mỗi ngày một thêm phong phú và mau lẹ.
Và không riêng những thành quả tốt đẹp, mà ngay cả những khía cạnh tiêu cực của xă hội (như phá hủy môi trường, bệnh do HIV, ma túy, bạo động, stress, sự suy đồi của đạo đức, v.v.) cũng lan tràn khắp nơi. Đó là hiện tượng toàn cầu hóa (mondialisation), một hiện tượng phù hợp với lư nhân duyên, tương hữu của đạo Phật.
b) Khi truyền đạt tới Tây phương, đạo Phật lần đầu tiên đối chiếu với khoa học, kỹ thuật, là tinh hoa của nền văn minh Tây phương, phát xuất từ nền văn minh cổ Hy Lạp, trong đó có cả khoa học tâm thần.
Đạo Phật cũng đối chiếu với các tôn giáo thần khải, đặc biệt Ky Tô giáo, trên lănh thổ truyền thống của họ, nơi họ đă trị v́ trong mười mấy thế kỷ.
Tại đây, và không phải chỉ tại đây, đạo Phật cũng đối chiếu với nền văn minh vật chất cực thịnh, với kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản, khuynh hướng tiêu thụ và hưởng thụ đang lan tràn thế giới.
Thật ra, thử thách lớn nhất đối với đạo Phật ngày hôm nay không phải là đối chiếu với khoa học, bởi v́ trong bản chất đạo Phật và khoa học phù hợp với nhau, bổ túc cho nhau, và sự trao đổi giữa hai bên chỉ mang lại lợi ích cho nhau.
Cũng không phải là đối chiếu với các tôn giáo thần khải, bởi v́ dù muốn dù không xă hội cũng đă đi về chiều hướng mất thiêng liêng (désacralisation), không thể nào đi ngược lại, và khuynh hướng chung là mở rộng cuộc đối thoại giữa các tôn giáo lớn, qua tiếng nói của các nhà đại diện ôn ḥa mỗi bên. Tuy rằng trên thế giới vẫn c̣n những cuộc chiến tranh tôn giáo giữa các giáo đồ quá khích, nhưng đó chỉ là những hiện tượng lỗi thời sẽ bắt buộc phải lùi dần trong bóng tối.
Thử thách lớn nhất đối với đạo Phật là sự đối chiếu với nền văn minh vật chất đang lan tràn mọi nơi, song song với sự phát triển kinh tế, làm cho cuộc sống con người mỗi ngày một đầy đủ hơn về vật chất nhưng trống trải hơn về tinh thần. Điều ngược đời là trong khi Tây phương, là cái nôi của nền văn minh vật chất, đang đi t́m một lối thoát cho ngơ cụt ḿnh gặp phải, bằng cách hướng về các truyền thống tâm linh của Đông phương, th́ chính Đông phương, là cái nôi của các truyền thống tâm linh đó, lại lao ḿnh theo mô h́nh tranh đua vật chất của Tây phương.
Thật ra vấn đề không đơn giản, bởi v́ con người hiện đại vừa muốn nắm giữ những thành tựu khoa học và tiện nghi vật chất, vừa ước vọng một cuộc sống tâm linh trọn vẹn và thanh cao. Có thể nào dung ḥa được hai khía cạnh đó, trong đời sống cá nhân cũng như xă hội? Đó là một câu hỏi lớn đặt ra cho tương lai nhân loại nói chung và cho đạo Phật nói riêng.
Trở về hai câu hỏi đầu tiên, "đạo Phật Tây phương có những điểm ǵ khác biệt so với đạo Phật Đông phương?" và "đạo Phật Tây phương đă đóng góp được những ǵ cho Phật giáo thế giới, và có thể nào mang lại một nguồn sinh khí mới?", chúng ta có thể đưa ra vài nhận xét :
1) Nhờ sống quen trong truyền thống khoa học, cho nên người Tây phương thường nghiên cứu mọi đề tài, ngay cả về tôn giáo, với tinh thần khoa học, phê phán, và luôn luôn sẵn sàng đặt lại vấn đề.
Phật học đă trở thành một ngành chuyên môn được giảng dậy trong các trường Đại học lớn trên thế giới, và đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu Phật học nghiêm chỉnh và có giá trị phát xuất từ đây, cũng như từ các Phật học viện, các Hội Phật học Tây phương.
Nhờ những phương pháp truyền thông dồi dào, qua sách báo và các phương tiện viễn thông, Tây phương đă đóng góp một phần rất lớn, nếu không muốn nói là hàng đầu, trong việc truyền bá đạo Phật. Ngay cả trong giới Phật tử Việt Nam, nhiều người cũng phải công nhận rằng họ đă học hỏi được về đạo Phật ở các sách báo Tây phương (như những tác phẩm của T.W. Rhys Davids, P. Carus, E. Conze, A. Watts, C. Humphreys, P. Demiéville, E. Lamotte, A. Bareau, Nyanatiloka, H. Dumoulin, A. Govinda, W. Rahula, H.W. Schumann, T. Cleary, R. Gombrich, H. Bechert, J. Blofeld, v.v.) một cách đầy đủ và rơ ràng hơn là ở các sách báo Việt Nam.
Như vậy, sự đóng góp của ngành Phật học Tây phương cho Phật giáo thế giới, từ gần một thế kỷ nay, là một sự đóng góp rất lớn, không thể nào phủ nhận được.
Một điểm đáng lưu ư là, trong khi tại các nước theo truyền thống Phật giáo, người Phật tử thường mang nặng trong đầu óc những định kiến về đạo Phật như chén trà đầy, th́ ngược lại người Tây phương thường tới với đạo Phật như một tờ giấy trắng, sẵn sàng t́m hiểu và đón nhận một giáo lư hoàn toàn mới lạ so với những tôn giáo thần khải họ đă gặp trước đây. Đó là một lợi điểm không nhỏ của họ khi đi tới với đạo Phật.
2) V́ chiều hướng chung mất thiêng liêng (désacralisation) của xă hội, cho nên đa số người Tây phương tới với đạo Phật không phải như một tôn giáo, một tín ngưỡng, mà như một con đường trí tuệ, một con đường giải thoát (gần với nghĩa giải phóng, libération) tâm linh. Ngay cả những người tu theo Phật giáo Tây Tạng (Kim Cương thừa) cũng phải công nhận rằng các h́nh thức nghi lễ, các thần chú (mantra), ấn quyết (mudra), đồ h́nh (mandala), v.v. chỉ là những phương tiện thiện xảo (upaya-kausala) có tác dụng vào tâm thần, hơn là những h́nh thức tín ngưỡng. Nói chung, người Phật tử Tây phương đặt nặng vào trí tuệ (prajna) hơn là vào đức tin. Họ cũng tin, nhưng đó là sự tin tưởng (saddha) vào Chánh đạo, vào những vị thầy đă đi trước, những người chỉ đường cho họ, chứ không phải là sự sùng tín (bhakti), vào những vị thần linh, đầy những phép mầu cứu vớt họ.
Gần đây, những trao đổi giữa các nhà khoa học tâm thần và các nhà lănh đạo Phật giáo đă mở ra một chân trời mới đầy hứa hẹn. Đó có thể là nền móng của một con đường "tâm linh thế tục" cho nhân loại trong những thế kỷ tới, mà trong đó đạo Phật sẽ đóng góp một phần quan trọng, theo lời của đức Đạt Lai Lạt Ma.
3) Chính v́ khuynh hướng "thế tục hóa tâm linh", cho nên đạo Phật tại Tây phương chủ yếu là đạo Phật của những người cư sĩ, những người Phật tử tại gia, chứ không phải là của những nhà tu sĩ, là một đạo Phật nhập thế chứ không phải một đạo Phật xuất thế. Dĩ nhiên đă có một số người Tây phương xuất gia, thọ giới, gia nhập Tăng đoàn, sống như các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni Đông phương, nhưng số này không nhiều so với các Phật tử tại gia. Phần lớn các Phật tử Tây phương chọn lựa tiếp tục sống trong gia đ́nh và xă hội.
4) Trong khi áp dụng đạo Phật vào xă hội Tây phương với những đặc điểm của nó, người Phật tử Tây phương bắt buộc phải sáng tạo, khế cơ, t́m ra những giải pháp thích hợp cho các vấn đề của thời đại, theo tinh thần của đạo Phật. Đối với họ, đó là một điều tự nhiên và tất nhiên, bởi v́ không thể nào tránh khỏi đổi thay và chọn lựa, trong khi áp dụng một giáo lư cổ xưa, thuộc vào một nền văn minh xa lạ. Người Phật tử Đông phương không dễ ǵ làm được như vậy, bởi v́ những truyền thống và thói quen ông cha để lại đă trở thành những gánh nặng khó ḷng lay chuyển.
Vậy th́ nguồn sinh khí mới mà đạo Phật Tây phương có thể mang lại cho Phật giáo thế giới là một cái nh́n mới về đạo Phật, và những kinh nghiệm mới, trong khi áp dụng đạo Phật vào một cuộc sống mới.
Ngược lại, những bài học và những kinh nghiệm tu chứng của các tu sĩ Đông phương, qua những truyền thống ngàn năm, là những kho tàng vô cùng quí báu đối với các nhà Phật học, khoa học và Phật tử Tây phương. Những kho tàng đó, nếu biết khai thác đúng mức, sẽ giúp họ rất nhiều trên con đường nghiên cứu và tu tập.
Phật giáo Việt Nam có thể nào dựa lên kinh nghiệm của đạo Phật Tây phương, để tự ḿnh canh tân, hiện đại hóa? đó là câu hỏi thứ ba có thể đặt ra.
Chúng tôi sẽ không đề cập tới vấn đề cơ chế và tổ chức, đă được bàn luận nhiều trong các bài khác. Chúng tôi chỉ xin gợi lên 5 mục tiêu cho đạo Phật Việt Nam, phát xuất từ những bài học kinh nghiệm của đạo Phật Tây phương :
1) Triệt để gạt bỏ mọi mê tín dị đoan ra khỏi đạo Phật.
Đó là một trong những việc đầu tiên phải làm ở Việt Nam, v́ hai lư do : thứ nhất là để trả lại cho đạo Phật sự thuần túy nguyên thủy của nó, thứ hai là v́ tinh thần khoa học. Giáo Hội phải cương quyết dẹp bỏ tại các chùa chiền những việc bói toán, lấy số Tử vi, xin quẻ, lên đồng, đốt vàng mă hay chữa bệnh bằng bùa phép, là những tập quán lạc hậu, không những không liên quan ǵ, mà c̣n đi ngược lại với tinh thần của đạo Phật.
Về mặt lư thuyết, cũng phải bỏ dần những điều huyền hoặc, phản khoa học trong đạo Phật, dù là đă được ghi trong Kinh điển. Chẳng hạn như những khái niệm "cơi Trời", "linh hồn", "ma quỷ", "địa ngục", v.v. hay những hiện tượng siêu nhiên (ngoài những hiện tượng tâm linh chưa giải thích được). Những điều huyền hoặc này không mang lại lợi ích ǵ, mà chỉ gây hoang mang cho những người có học, và gây thêm hiểu lầm về đạo Phật.
Đạo Phật phải tích cực đóng góp vào công cuộc mở mang dân trí, để ḥa nhập dân tộc với nền văn minh thế giới.
Bởi v́, như lời nhà bác học Mỹ E.O. Wilson, "Ngày nay, sự cách biệt lớn nhất giữa những con người không tới từ chủng tộc hay tôn giáo, cũng không phải từ sự biết đọc hay không biết đọc, mà là hố sâu chia rẽ những nền văn hóa khoa học và không khoa học"("Aujourd'hui, la plus grande division entre les hommes ne vient pas des races ou des religions, ni même du fait de savoir lire ou pas, c'est l'ab qui sépare les cultures scientifiques et les non-scientifiques") .
2) Nghiên cứu và phổ biến giáo lư thuần túy của đạo Phật một cách nghiêm chỉnh.
Đó là một công tŕnh cơ bản hết sức quan trọng đă bắt đầu từ vài chục năm nay ở Việt Nam, với công việc dịch thuật, in ấn và phát hành các kinh sách Nguyên thủy, như Tam Tạng Kinh điển (Tipitaka) từ tiếng Pali sang tiếng Việt. Trong công việc nghiên cứu, chúng ta phải áp dụng phương pháp khoa học, như đi t́m tài liệu tận gốc khi muốn có những chỉ dẫn chính xác về một vấn đề (thay v́ đi ṿng vo qua những bản sao chép, dịch thuật, đa số bằng chữ Hán), và luôn luôn t́m cách dẫn chứng và kiểm chứng.
Những trao đổi rộng răi với các cơ quan Phật học thế giới sẽ mang lại cho ngành Phật học Việt Nam một nguồn sinh khí mới, thoát khỏi triệu chứng "tháp ngà" hay "ếch ngồi đáy giếng" gây nên bởi t́nh trạng bị cô lập, đóng cửa với bên ngoài trong một thời gian khá lâu.
Tất cả những nỗ lực đó đều nhằm tới thống nhất giáo lư căn bản, thuần túy của đạo Phật, để phổ biến cho quần chúng một giáo lư sáng sủa, giản dị và dễ hiểu. Giáo Hội phải tổ chức hoằng pháp một cách chặt chẽ hơn, bằng cách tuyển lựa những giảng sư Phật học (tăng sĩ và cư sĩ) vững chăi về giáo lư, đă được đào tạo tại các Phật học viện, các Trường Cao đẳng Phật học, để tránh những hiện tượng thuyết giảng bừa băi, sai lạc bởi những kẻ hiểu ít, nói nhiều.
3) Phát triển các phương pháp tu Phật như những phương pháp tu luyện tâm linh.
Nếu người Tây phương tới với đạo Phật như một triết lư sống và một phương pháp tu luyện tâm linh, th́ người Việt Nam thường quan niệm đạo Phật như một tôn giáo và một truyền thống. V́ những lư do lịch sử văn hóa, đặc biệt là ảnh hưởng Trung Hoa, cho nên Phật giáo Việt Nam, khởi thủy là theo trường phái Nguyên thủy và Thiền tông, đă phát triển mạnh mẽ theo chiều hướng Tịnh Độ. Có thể nói rằng ngày nay đa số chùa chiền, đa số Phật tử Việt Nam tu theo phương pháp Tịnh Độ, tụng niệm Kinh điển Đại thừa, tôn thờ chư Phật chư Bồ Tát và lấy hạnh nguyện Bồ Tát làm chuẩn đích.
Dĩ nhiên, tất cả những pháp môn đều là những phương tiện tu tập, phù hợp với mỗi người tùy theo căn cơ của ḿnh. Nhưng nếu trở về nguồn gốc của đạo Phật, là một con đường tự giác, dựa lên sức mạnh của chính ḿnh (tự lực), th́ cũng như lời dậy của đức Phật trong Kinh Niệm Xứ (Satipatthana-sutta), tất cả các phương pháp tu luyện tâm linh đều hướng về một điểm tức là niệm (sati), là "con đường duy nhất" (ekayano maggo). Nhờ chánh niệm, con người làm chủ được cái tâm của ḿnh, giữ cho tâm an tịnh và tránh được phiền năo, khổ đau. Đó là căn bản của Thiền định, là phương pháp ngắn gọn, trực tiếp nhất để đi tới giải thoát.
Một lư do nữa để phát triển mạnh mẽ phương pháp Thiền định tại Việt Nam là tinh thần dân tộc. Một điều hiển nhiên là thời đại huy hoàng nhất của đạo pháp và dân tộc Việt Nam là thời đại Lư, Trần. Đó cũng là lúc mà Thiền tông Việt Nam cực thịnh, với sự xuất hiện của một ḍng Thiền duy nhất thuần túy Việt Nam là ḍng Trúc Lâm Yên Tử. Triển khai truyền thống tốt đẹp này vừa là một điều khơi dậy niềm tự hào dân tộc, vừa phù hợp với thời đại.
Nhưng phát triển Thiền không có nghĩa là quên Kinh. Bởi v́, cũng như Thiền sư Thanh Từ đă nói : "Thiền là tâm của Phật, Kinh là miệng của Phật. Đức Phật tâm miệng không khác th́ Thiền và Giáo làm sao tách rời được. Cho nên chúng tôi chủ trương "Thiền, Giáo đồng hành"". Ở Việt Nam hiện nay có phong trào "Thiền, Tịnh đồng tu" cũng không khác ǵ tinh thần đó.
Đạo Phật như một cây cổ thụ, nhiều cành lá nhưng chung một thân cây. Nh́n cành lá th́ thấy khác biệt nhau, nhưng nh́n lại thân cây th́ chỉ thấy có một, đó là thân Bồ Đề (bodhi) hay là "giác ngộ".
4) Áp dụng tinh thần b́nh đẳng trong đạo Phật
Đạo Phật có thể gọi là đạo b́nh đẳng nhất trên thế giới. Hơn hai chục thế kỷ trước "Bản Tuyên cáo Thế giới về Nhân quyền" (1789), đạo Phật đă bác bỏ những khác biệt về tâm linh giữa những thế cấp (castes), và quan niệm rằng con người ai ai cũng có "Phật tính" (tathagata-garbha), tiềm tàng trong mỗi người, và có khả năng tự giải thoát. Từ một cư sĩ như Duy Ma Cật (Vimalakirti) tới một chú bé bán củi không biết đọc, biết viết như Huệ Năng, tất cả đều có khả năng giác ngộ. Tăng hay tục, già hay trẻ, nam hay nữ, giỏi hay dốt, tất cả những đệ tử của Phật đều b́nh đẳng trên mặt tâm linh.
Vậy th́ tại sao đạo Phật lại tiếp tục bị coi như một tôn giáo khinh rẻ phụ nữ, một tôn giáo "macho" như bao nhiêu tôn giáo khác, tại sao địa vị của các Ni cô và Ni sư lại quá thấp như vậy, so với các Tăng sĩ? Đạo Phật Tây phương dĩ nhiên không bao giờ chấp nhận những kỳ thị lỗi thời đó, và Phật giáo Việt Nam cũng sẽ bắt buộc phải cải tổ trong chiều sâu những quan hệ nam-nữ trong Tăng đoàn, để ḥa nhập ḿnh với thế giới hiện đại.
Truyền thống kính trọng tăng sĩ ở Việt Nam là một truyền thống tốt đẹp, nhưng cũng đồng thời là một sự cản trở cho các cư sĩ muốn đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại hóa đạo Phật, v́ kính nể các tăng sĩ cho nên không dám lên tiếng nói. Quan hệ tăng sĩ - cư sĩ đă từ lâu được coi như một quan hệ thầy - tṛ (qua sự xưng hô Thầy - con, bất kể tuổi tác), trong khi đó trong nguồn gốc, tăng sĩ và cư sĩ chỉ khác nhau v́ một bên xuất gia và một bên tại gia, tức là đă lựa chọn hai khung cảnh tu tập khác nhau. Nếu đặt sự kính trọng nơi sự tu chứng, th́ cũng có nhiều cư sĩ rất đáng kính trọng, và có những tăng sĩ không đáng kính trọng một chút nào.
Hơn nữa, h́nh thức tôn sùng quá đáng những tăng sĩ có chức vị hay "nổi tiếng, giảng hay" bằng cách biếu xén, cúng dường tài của, có thể đưa tới sự kiện làm hư hỏng một số tăng sĩ dễ lung lạc, và chia rẽ Tăng đoàn. Muốn tránh những sai lệch đó, Giáo Hội phải một đằng áp dụng chặt chẽ, nghiêm ngặt hơn những giới luật liên quan tới tiền bạc (trong tương lai, sự quản lư các cơ sở Phật giáo bởi những cư sĩ chuyên nghiệp sẽ không thể nào tránh khỏi được), một đằng đẩy mạnh hơn tinh thần b́nh đẳng của đạo Phật.
Đó là tinh thần b́nh đẳng giữa tăng sĩ - cư sĩ một bên, và giữa những tăng sĩ một bên. Trong đạo Phật nguyên thủy, không có sự phân chia chức vị, cấp bậc. Tất cả đều là Tỳ kheo, Tỳ kheo ni (và trước đó là Sa di, Sa di ni). Sau này mới xuất hiện các chức vị, cấp bậc, ban cho bởi Giáo Hội (và đôi khi tự ban bởi đương sự) : Đại đức, Thượng tọa, Ḥa thượng, v.v. Những phân chia chức vị này không tránh khỏi gây nên một số chia rẽ, tị hiềm làm xáo trộn không khí thanh tịnh của Tăng đoàn. Hơn nữa, cấp bậc là một sự cản trở cho những việc canh tân cần thiết, đối với những tăng sĩ trẻ, năng động, có ư kiến đổi mới. Chúng ta có thể đặt lại vấn đề của sự lợi ích mang lại bởi những chức vị này, theo kinh nghiệm của Tây phương : mỗi chùa chỉ cần một vị tăng sĩ Trụ tŕ là đủ, không cần ǵ đến những chức vị khác.
5) Sống đạo Phật "bây giờ và tại đây"
Cuối cùng, Phật giáo Việt Nam nên noi theo tinh thần thực dụng của Tây phương, bỏ bớt những "hoa hoè hoa sói" đi, và chỉ giữ những điều ǵ cần thiết và thiết thực cho đời sống con người, trong khung cảnh xă hội ngày hôm nay.
Đạo Phật mà quần chúng Phật tử đ̣i hỏi và trông đợi ở các Tăng Ni, các cư sĩ có hiểu biết và kinh nghiệm về đạo Phật, là một đạo Phật "bây giờ và tại đây", một đạo Phật gần gũi với cuộc sống, một đạo Phật để tu "tại gia, tại chợ", hơn là "tại chùa".
Người Tây phương tới đạo Phật như một con đường thoạt trông tưởng là xa lạ, nhưng thật ra rất gần với họ. Người Việt Nam từ bé đă đi trên con đường quen thuộc đó, nhưng nh́n kỹ lại mới thấy rằng đạo Phật chân thực c̣n khá xa.
Một bên cần đủ can đảm để đi tới đạo Phật, một bên cần đủ can đảm để đặt lại vấn đề đạo Phật. Cả hai đều có thể hỗ trợ cho nhau một cách bổ ích, nhất là khi những hàng rào văn hóa giữa những thế hệ sau sẽ không c̣n nữa.
Như vậy, nếu sự truyền bá đạo Phật sang Tây phương có thể coi là một lần Chuyển Pháp luân mới, th́ tại sao đạo Phật Việt Nam không bám víu vào vành xe này mà chuyển động?
Và làm sao tránh khỏi chuyển động?
Trịnh Nguyên Phước
Tháng 8 / 2000
------------------------------------------------------------ --------------------
Source: Người Cư Sĩ, France, http://www.multimania.com/cusi/
------------------------------------------------------------ --------------------
[Trở về trang Thư Mục]
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên

Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 2 of 3: Đă gửi: 28 April 2006 lúc 3:07am | Đă lưu IP
|
|
|
HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẠO PHẬT:
Một công tŕnh lâu dài và cấp bách
Trịnh Nguyên Phước
Người ta có thể có hai cách nh́n khác biệt về đạo Phật :
- Hoặc như một giáo lư hay một triết lư vĩnh cửu, vượt khỏi thời gian và không gian, không bị hạn chế bởi lịch sử, không đổi thay với thời cuộc. Một đạo Phật bất biến, lâng lâng như trên một đám mây, vượt lên khỏi trần thế.
- Hoặc như một triết lư hay một tôn giáo nằm trong một bối cảnh lịch sử nhất định, phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử xă hội, và luôn luôn biến chuyển với thời cuộc. Một đạo Phật linh động, ḥa ḿnh trong khung cảnh sống, gắn liền với xă hội loài người.
Đối với người Phật tử thấm nhuần lẽ vô thường, duyên khởi, th́ chỉ có cách nh́n sau này là hợp lư. Đạo Phật, một phong trào khởi xướng cách đây hơn 2500 năm, đă đương nhiên trở thành một công tŕnh tập thể, đa nguyên và đa dạng, không ngừng phát triển qua các thời đại.
Để mượn một h́nh ảnh, chúng ta có thể nh́n đạo Phật như một cây cổ thụ xum xuê cành lá, với cội rễ bám chặt vào những nền tảng cổ truyền, và những chồi non không ngừng vươn mọc. Đạo Phật cũng có thể nh́n như một gịng sông hùng vĩ, chảy qua bao nhiêu rừng núi, đổi thay từng giây phút, nhưng vẫn là gịng sông.
Và cũng như cây cổ thụ phải đâm chồi, gịng sông phải uốn khúc mới có thể tồn tại được, đạo Phật cũng phải đổi thay, phải thích nghi với thực tại, tức là phải hiện đại hóa.
Trong sự tiến hóa này, những người Phật tử, tu sĩ cũng như cư sĩ, đều đóng một vai tṛ quan trọng, v́ vừa là người kế thừa đạo Phật, vừa có bổn phận đóng góp tích cực vào công cuộc đổi thay.
Nh́n lại quá khứ
Phong trào canh tân đạo Phật, khởi xướng bởi pháp sư Thái Hư bên Trung Quốc năm 1930, nhằm "cách mạng giáo lư, giáo chế và giáo sản", tính ra đến nay đă được hai phần ba thế kỷ.
Tại Việt-Nam, đạo Phật cũng đă có phong trào phục hưng, cải tổ, và sau những biến cố năm 1963 tại miền Trung và miền Nam, cũng đă bắt đầu vươn ḿnh lên trong một nguồn sinh khí mới. Những công tŕnh nổi bật là sự thống nhất Giáo Hội Phật Giáo Việt-Nam giữa Nam Tông và Bắc Tông, sự thành lập Viện Hóa Đạo, Viện Cao Đẳng Phật Học, trường Đại Học Vạn Hạnh, và nhiều Phật học viện khác, tạo nên những điều kiện thuận tiện cho việc nghiên cứu Phật học cũng như sự phổ biến giáo lư qua những sách báo, bài giảng, băng giảng...
Nhưng chiến tranh, thời cuộc, và những thăng trầm của lịch sử đă không cho phép đạo Phật Việt-Nam được canh tân thực sự. Ngày hôm nay, chúng ta phải thực tế công nhận rằng đạo Phật Việt-Nam, trong t́nh trạng hiện tại, không có khả năng đáp ứng những nhu cầu của một thế giới đang chuyển ḿnh một cách mănh liệt.
Lư do thất bại
Sở dĩ đạo Phật Việt-Nam từ mấy chục năm qua đă không phát triển được theo chiều hướng hiện đại hóa, một phần lớn là v́ những lư do bên ngoài, như chiến tranh và hậu quả của chiến tranh, t́nh trạng nghèo nàn lạc hậu của đất nước, và những hạn chế hoạt động xă hội văn hóa. Nếu cởi mở là điều kiện tiên quyết của đổi mới, th́ đạo Phật cũng phải được tự do hoạt động mới có thể phát huy được tiềm lực của ḿnh, và điều đó không nhằm ngoài mục đích mang lại hạnh phúc cho dân tộc.
Nhưng chúng ta cũng phải công nhận rằng có những lư do bên trong. Đó là sự thiếu đồng nhất của những người Phật tử, sự chia rẽ giữa các tăng ni cũng như các cư sĩ, trong lư thuyết cũng như trong hành động. Đó là sự thiếu ư chí canh tân, thiếu quyết tâm trong công cuộc hiện đại hóa đạo Phật. Chúng ta thiếu cái dũng của đức Phật Thích Ca khi ngài quyết tâm ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề cho đến khi hoàn toàn giác ngộ. Chúng ta cũng thiếu cái trí của các tổ sư Thiền, biết buông thả, biết trút những gánh nặng của ngàn năm truyền thống, để gạn lọc lấy cái tinh hoa của đạo Phật, đem đạo Phật nhẹ nhàng, trong sáng áp dụng vào cuộc đời. Chúng ta c̣n bám vào những kinh điển, những từ ngữ nhai đi nhai lại, những tập quán quen thuộc từ hồi nhỏ, những lễ nghĩa thầy tṛ cứng nhắc tới mức không dám đặt lại vấn đề, dù chỉ là trên lư thuyết.
Một ư nguyện chung
Để gợi lại tinh thần canh tân đạo Phật, tôi xin được trích dẫn vài ḍng trong cuốn "Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày" do Viện Hóa đạo xuất bản năm 1973 :
"Giáo lư của đức Phật phù hợp với các điều kiện sinh hoạt tâm lư, kinh tế và xă hội của con người cho nên được gọi là một giáo lư khế cơ... Phật giáo là một tôn giáo không bảo thủ, biết cởi mở và khai phóng để mở rộng chân trời tương lai (...) Thái độ bảo thủ v́ thói quen, v́ thành kiến và cố chấp là một thái độ trái ngược với tinh thần cởi mở và tiến bộ của đạo Phật. Người Phật tử không thể nhắm mắt làm theo tất cả những điều mà người xưa đă làm, lấy cớ "xưa bày, nay làm". Người Phật tử phải xét xem những điều do người xưa bày ra hiện c̣n có giá trị trong hoàn cảnh hiện tại hay không. Nếu c̣n th́ ta vẫn tiếp tục thi hành. Nhưng nếu những điều ấy không c̣n giá trị nữa th́ ta phải bỏ và t́m ra những điều khác thích hợp với ta hơn (...) Đạo Phật không phải là của riêng của một số người ẩn dật nơi tự viện. Đạo Phật là của mọi lớp người : của thiếu nhi, của thanh niên, của phụ nữ, của lao động trí thức và lao động chân tay. Đạo Phật chỉ có sinh lực khi nào giáo lư đạo Phật được áp dụng trong đời sống hàng ngày, trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, chính trị, kinh tế, tổ chức, trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống gia đ́nh, quốc gia và xă hội".
Hơn hai chục năm đă qua, đọc lại những ḍng này, tôi không khỏi bùi ngùi và phấn khởi. Bùi ngùi v́ thấy thời gian trôi qua quá nhanh, lôi cuốn theo bao nhiêu hy sinh, cam khổ của các tăng ni Phật tử, mà vẫn chưa thấy một dấu hiệu ǵ đạo Phật được canh tân, phát huy thực sự. Nhưng cũng phấn khởi v́ cảm thấy ư nguyện của bao nhiêu thế hệ Phật tử vẫn đồng nhất và c̣n nguyên vẹn, đó là hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật đi vào cuộc đời.
T́nh trạng thế giới
Nh́n chung, nhân loại đang sống một giai đoạn đặc biệt của lịch sử, không phải là lúc "tận cùng của lịch sử" như Fukuyama đă tuyên bố, mà là một giai đoạn nổi bật v́ ba hiện tượng chính :
- Thứ nhất, sự gia tốc của lịch sử. Thế kỷ sắp qua đầy rẫy những chiến tranh, diệt chủng, đồng thời những khám phá khoa học, những trao đổi văn hóa, những đảo lộn chính trị, xă hội, với những hậu quả không thể nào lường được, đến với một tốc độ mỗi ngày một gia tăng.
- Thứ nh́, sự thế giới hóa (mondialisation) trong mọi lănh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xă hội.
Không c̣n một giải đất nào có thể biệt lập ra khỏi địa cầu, không c̣n một lănh vực nào của cuộc sống không có những sợi giây liên đới gắn liền ḿnh với những lănh vực khác, cũng như h́nh ảnh một mạng lưới Internet khổng lồ đang đan díu tất cả vào nhau, đúng như thuyết duyên khởi của đạo Phật. Thông tin tràn ngập khắp nơi, không ǵ ngăn chận nổi. Con người trao đổi với nhau với tốc độ điện tử qua báo chí, truyền thanh, truyền h́nh, điện thoại, fax, vệ tinh viễn thông... Mặt khác, chiến tranh vẫn không ngừng tiếp diễn, không những bằng bom đạn mà c̣n bằng kinh tế, bằng thị trường, giữa các quốc gia, các vùng, một cách không kém phần hung bạo. Kinh tế đă trở thành toàn cầu, với vai tṛ trọng đại của những thị trường hối đoái, những chuyển giao công nghệ, những di chuyển xí nghiệp. Văn hóa cũng trở thành toàn cầu : trong khi tư tưởng phương Đông bắt đầu thâm nhập phương Tây, th́ lối sống phương Tây lại ồ ạt tràn ngập các nước phương Đông. Những vấn đề trên thế giới đă trở thành những vấn đề chung của tất cả : nạn nhân măn, sự phá hủy môi trường, sự gia tăng chênh lệch giầu nghèo giữa các quốc gia, các tầng lớp xă hội, những vấn đề vi phạm nhân quyền, bạo động, đô thị, thất nghiệp, suy thoái gia đ́nh và đạo đức, những vấn đề sinh học mới...
- Thứ ba, sự chờ đợi chuyển hướng của thế giới, có thể gọi là một khúc quanh của lịch sử.
Hơn bao giờ hết, kinh tế hoàn toàn chế ngự mọi lănh vực của cuộc sống. Nhưng ngược đời thay, trong khi các nước chậm tiến và các nước xă hội chủ nghĩa cũ đang lao đầu vào "kinh tế thị trường", th́ ngay tại các nước tư bản, người ta đang đặt lại vấn đề về căn bản của sự phát triển. Theo nhận xét chung, tiếp tục phát triển theo chiều hướng hiện tại sẽ có khả năng đưa tới những bế tắc trầm trọng và một cuộc khủng hoảng không tiền khoáng hậu. Con người đang hoang mang, lạc hướng, đang sống trong một bầu không khí "cuối thế kỷ", đang chờ đợi một sự chuyển hướng, một sự gẫy đoạn đưa tới một cái ǵ hoàn toàn mới lạ. Có thể đó là một trào lưu tư tưởng mới, một hệ thống tổ chức xă hội mới, hay là sự tổng hợp các tư tưởng cũ được thích nghi với hiện tại. Cũng có thể đó là một số giá trị tinh thần được lấy làm nền tảng cho một nền văn minh mới, một giá trị tinh thần "phổ biến, thế tục và phù hợp với khoa học", theo lời đức Đạt Lai Lạt Ma.
Đạo Phật có thể là một trong những giá trị tinh thần đó.
|
Quay trở về đầu |
|
|
sunbeam Hội viên

Đă tham gia: 06 February 2006 Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 96
|
Msg 3 of 3: Đă gửi: 28 April 2006 lúc 3:11am | Đă lưu IP
|
|
|
(tiếp theo)
Ưu thế của đạo Phật
Sở dĩ đạo Phật có khả năng đáp ứng nhu cầu tinh thần của thế giới hiện tại là v́ một số lư do :
1) Trong một thế giới đang mất dần tính chất thiêng liêng (désacralisé), mất đức tin ở Thượng đế, ở thần linh, đạo Phật xuất hiện như một con đường đặc biệt chú trọng đến con người, đặt con người vào trung tâm điểm. Khác với các tôn giáo khác, đạo Phật không phải là một tôn giáo thần khải. Đạo Phật là một con đường tự giác, đặt niềm tin và trách nhiệm nơi con người.
2) Trong một thế giới thấm nhuần khoa học, đặt nặng vào trí tuệ, đạo Phật xuất hiện như một con đường đặc biệt dựa lên trí tuệ và có nhiều điểm phù hợp với khoa học. Đạo Phật và khoa học gặp gỡ nhau nơi tinh thần thực tiễn, thực nghiệm, thuyết tất định (déterminisme), quan niệm hỗ tương (interdépendance) và tổng thể (holisme) của sự vật.
3) Trong một thế giới mỗi ngày một chú trọng tới những vấn đề tâm thần, đạo Phật xuất hiện như một phương pháp rèn luyện tâm thần hữu hiệu. Các nhà khoa học nhận thức đang t́m thấy trong đạo Phật một kho tàng kinh nghiệm tâm thần vô cùng quư báu. Áp dụng những kinh nghiệm này để hiểu rơ sự vận động của tâm thần, để làm chủ được cái tâm của ḿnh, và điều trị các tâm bệnh, là một con đường đầy hứa hẹn.
4) Trong một thế giới mỗi ngày một đa dạng về văn hóa, với nhiều trào lưu nguồn gốc khác nhau, cần đến sự trao đổi trong sự tôn trọng lẫn nhau, đạo Phật xuất hiện như một truyền thống bao dung và ôn ḥa, đáng làm gương mẫu.
Nhược điểm của đạo Phật
Đó là những ưu điểm có thể làm cho đạo Phật trở thành, trên lư thuyết, một giá trị tinh thần siêu việt. Nhưng trên thực tế, đạo Phật, đặc biệt Phật giáo Việt-Nam, c̣n nhiều hạn chế và nhược điểm, cho nên vẫn chưa phát huy được tiềm lực của ḿnh :
1) Đạo Phật c̣n mang nặng h́nh ảnh một tôn giáo khó hiểu, phức tạp, một phần v́ quá đa dạng, quá nhiều tông phái, đôi khi mâu thuẫn lẫn nhau. Người mới đến với đạo Phật như lạc vào một mê cung, một khu rừng rậm, giữa những đạo Phật Nguyên Thủy, Thiền, Tây Tạng, Tịnh Độ, Duy Thức, Thiên Thai, Nhật Liên, v.v..., không biết nên đi về hướng nào. Người ta c̣n có thể tự hỏi rằng có nhiều đạo Phật, hay là có những đạo Phật tuy mang tên là đạo Phật nhưng không phải là đạo Phật ? Nói như nhà học giả Henri Arvon : "Cũng như một hạt giống, không c̣n nhận ra được khi đă nảy mầm và trở thành một thân cây, giáo lư nguyên thủy của đức Phật, trước áp lực của nhu cầu tín ngưỡng và thần bí của con người, đă sinh ra nhiều đạo Phật khác chỉ c̣n giống lờ mờ so với đạo Phật ban đầu..."
2) Đạo Phật bị coi là xa vời, thiếu thực tế, khó áp dụng trong đời sống.
Làm thế nào diệt dục trong khi cuộc đời đầy rẫy những lôi cuốn, làm thế nào định tâm trong khi cuộc sống quay cuồng, làm thế nào buông xả trong khi mỗi ngày phải vật lộn với xă hội ? Đó là những câu hỏi của người Phật tử tầm thường như chúng ta, đứng trước khoảng cách sâu rộng giữa đạo Phật lư thuyết và đạo Phật thực tế, giữa đạo Phật của nhà tu hành và đạo Phật thế tục, giữa đạo Phật trí thức và đạo Phật dân gian.
3) Đạo Phật c̣n bị mang nặng một số thành kiến tiêu cực, không phải là không có căn cứ, nhưng cần được giải trừ một cách cặn kẽ, như : "Đạo Phật yếm thế, tiêu cực, đạo Phật chủ trương khổ hạnh, xa lánh cuộc đời, hủy diệt mọi t́nh cảm, đạo Phật khinh rẻ đàn bà" v.v...
4) Riêng Phật giáo Việt-Nam c̣n có một số đặc điểm, do chính lịch sử của ḿnh :
- Đó là ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo Trung Quốc, của Tịnh Độ và Mật Tông so với đạo Phật Nguyên Thủy và Thiền Tông, pha trộn với tín ngưỡng dân gian. Rất đông người theo đạo Phật v́ truyền thống, nhưng có bao nhiêu người thực t́nh hiểu và sống đúng đắn đạo Phật ? Điển h́nh là từ vài năm nay tại Việt-Nam, số người đi lễ chùa càng này càng đông, đặc biệt những ngày rằm và ngày lễ. Nhưng đa số lên chùa là để cúng vái, để cầu xin cho chính bản thân và gia đ́nh ḿnh (tức là vẫn c̣n chấp ngă), chứ không phải là để t́m một con đường tự giác. Thậm chí đă có nhiều sinh hoạt mê tín, dị đoan, chữa bệnh bằng bùa phép, xuất hiện ngay tại hay bên cạnh các chùa chiền.
- Tổ chức Phật giáo Việt-Nam c̣n thiếu chặt chẽ, thiếu qui củ, so với các giáo hội khác, như Công giáo chẳng hạn. Tại hải ngoại, ai ai cũng có thể lập hội, xây chùa và mời một nhà tu hành tới trụ tŕ, miễn là có Phật tử tới cúng dường và đóng góp.
- Về nhân lực, tuy đă có nhiều cố gắng trong công tŕnh đào tạo, nhưng Phật giáo Việt-Nam vẫn c̣n thiếu kém, chưa đủ tăng ni có tŕnh độ cao học, để cùng với một số cư sĩ họp thành một đội ngũ có khả năng đáp ứng những nhu cầu nghiên cứu và giảng dậy.
Đối tượng của công cuộc hiện đại hóa
Việc đầu tiên, là phải xác định đâu là đối tượng của công cuộc hiện đại hóa này. Đạo Phật phải hướng về ai, và dựa lên ai ?
- Thứ nhất là phải hướng về quảng đại quần chúng, nghĩa là những người nông dân, bởi v́ 80 phần trăm dân số Việt-Nam sống ở thôn quê, chúng ta đều biết rơ điều đó. Đại đa số Phật tử không phải là người trí thức, do đó phải làm sao giản dị hóa đạo Phật, làm cho đạo Phật dễ hiểu cho đến tận nông thôn. Nhưng giản dị và dễ hiểu không có nghĩa là sai lệch, là hoang đường. Truyền bá đúng đắn đạo Phật chính là đóng góp vào công việc nâng cao dân trí.
- Thứ hai là hướng về tuổi trẻ. Bởi v́ 50 phần trăm dân số Việt-Nam dưới 18 tuổi, đạo Phật phải là đạo Phật của tuổi trẻ, nếu muốn c̣n tồn tại trên giải đất này. Đạo Phật chỉ có tương lai khi thu hút được thanh thiếu niên, khi cảm thông được những vấn đề của tuổi trẻ, khi dùng những từ ngữ trẻ trung, khi có những sinh hoạt thích hợp với thế hệ trẻ.
- Thứ ba là hướng về phụ nữ. Phải đặc biệt coi trọng vai tṛ của người phụ nữ trong thế kỷ tới, trong sự điều ḥa gia đ́nh cũng như xă hội, và thực thi sự b́nh đẳng nam-nữ trong đời sống hàng ngày cũng như trong tổ chức Phật giáo.
- Thứ tư là hướng về và dựa lên người cư sĩ. Đa số Phật tử là cư sĩ, chứ không phải là tu sĩ, điều đó quá hiển nhiên. Hiện đại hóa đạo Phật cũng có nghĩa là t́m một đạo Phật thích hợp với cuộc sống của người cư sĩ. Và trong công tŕnh đó, chính người cư sĩ phải đóng một vai tṛ tích cực, bởi v́ hơn ai hết, người cư sĩ hiểu rơ những vấn đề của chính ḿnh và xă hội ḿnh đang sống trong đó. Nói như vậy không có nghĩa là không coi trọng vai tṛ của nhà tu hành, nhưng phải công nhận rằng sự bức thiết hiện đại hóa đạo Phật phát xuất chính từ nhu cầu của xă hội thế tục chứ không phải từ đoàn thể tăng già.
Chương tŕnh hiện đại hóa đạo Phật
Đó là một chương tŕnh lâu dài cần phải được xác định một cách chín chắn, để đi tới một sự nhất trí trong hành động. Tôi chỉ xin đưa ra một vài đề nghị, để làm khởi điểm cho những suy nghĩ sâu xa hơn :
1. Làm sáng tỏ thế nào là đạo Phật
Cũng như mọi công tŕnh tập thể, việc đầu tiên là phải định nghĩa một cách sáng tỏ : thế nào là đạo Phật ? Liệu có một đạo Phật dưới nhiều h́nh thức khác nhau, hay có nhiều đạo Phật, hay có những đạo Phật không phải là đạo Phật ?
Người ta có thể vin vào lời đức Phật : "Có 8 vạn 4 ngàn pháp môn" để cho rằng tất cả những ǵ dính dáng ít nhiều tới đạo Phật đều là đạo Phật. Nhưng như vậy là coi đạo Phật như là một món hổ lốn, ai bỏ ǵ vào xào xáo cũng được, hoặc như là một "quán trọ Y Pha Nho" ai ra vào cũng được. Không phải cứ dán nhăn hiệu vào là thành đạo Phật, cũng như không phải cứ thờ Phật là trở thành Phật tử. Đạo Phật có những căn bản, có một lịch sử, có những đặc tính rơ rệt.
Từ đạo Phật Nguyên Thủy là cội gốc, đạo Phật đă phân chia ra làm nhiều ngành, nhiều tông phái khác nhau, phát triển theo những chiều hướng khác nhau. Dĩ nhiên, mỗi người đều có quyền lựa chọn, tùy theo căn cơ của ḿnh, mà đi theo ngành này hay ngành khác : người nào thấy ḿnh thanh thản lúc tụng kinh th́ theo Tịnh Độ, người nào thích thiền định th́ theo Thiền, người cần những nghi lễ có sắc thái huyền bí th́ theo Mật Tông...
Nhưng điều quan trọng là phải làm sáng tỏ những đặc điểm của mỗi ngành, đồng thời gạt bỏ những ǵ không phải là đạo Phật, những ǵ trái ngược với tinh thần đạo Phật, chẳng hạn như thờ cúng thần linh, mê tín dị đoan, cuồng tín, lợi dụng, làm tiền tín đồ, và gây bạo động, như một số giáo phái gần đây tại Nhật Bản.
2. Gạn lọc những tinh hoa của giáo lư đạo Phật
Ai ai cũng biết rằng giáo lư đạo Phật sâu rộng như rừng như biển. Nhưng cũng phải công nhận rằng có những điều quan trọng, có những điều thứ yếu, và những điều lỗi thời. Đặt lại một số vấn đề, gạn lọc những tinh hoa, cao thâm của đạo Phật, bỏ những điều cũ kỹ, bụi bậm là một công tŕnh tập thể và lâu dài vô cùng hệ trọng.
3. Phát triển những phương pháp tu Phật
Nên viết lại và thống nhất "Nghi thức tụng niệm" thường dùng trong những buổi lễ, tóm tắt lại những tinh hoa của giáo lư đạo Phật, dùng tiếng Việt giản dị dễ hiểu, tránh chữ Hán, bỏ những bài chú tiếng Phạn phiên âm ra chữ Hán, bỏ những khái niệm hoang đường như "linh hồn", "ma quỷ", "địa ngục", v.v... hoàn toàn lỗi thời và thiếu khoa học. Ngoài tụng niệm ra, nên phổ biến rộng răi các phương pháp thiền định, và nghiên cứu tác dụng trên tâm thần của những phương tiện tu hành trong Mật Tông như thần chú (mantra), đồ h́nh (mandala) và ấn quyết (mudra).
4. Đổi mới chương tŕnh đào tạo tăng ni
Nên làm nhẹ bớt những môn học kinh điển, cổ xưa không c̣n ích lợi cho hiện tại. Ngược lại, tăng thêm phần ngoại ngữ, các môn khoa học, tâm lư, xă hội học, các vấn đề thời sự, khuyến khích học nghề, gửi đi du học. Mục đích là hiện đại hóa kiến thức của các tăng ni, và làm cho sự hiểu biết của họ mỗi ngày một gần hơn với cuộc sống.
5. Áp dụng đạo Phật trong mọi lănh vực của cuộc sống
Để đi tới xác định lập trường của đạo Phật trong những lănh vực như giáo dục, y tế, kinh tế, văn hóa, môi trường v.v... cần có sự cộng tác chặt chẽ của các tu sĩ và cư sĩ trong mọi ngành.
Cố gắng tranh thủ các chính quyền địa phương để tổ chức những buổi thuyết tŕnh, hội thảo trong khuôn khổ Phật học viện hay chùa chiền, những buổi sinh hoạt xă hội, văn hóa, trong mục đích học hỏi, trao đổi, tương trợ, thành lập những ban chuyên môn về "Các vấn đề gia đ́nh, giáo dục", "Các bệnh tâm lư, xă hội", v.v...
6. Tổ chức lại Giáo Hội, tăng đoàn
Hướng tới một Giáo Hội thống nhất, độc lập đối với chính quyền, với một tổ chức chặt chẽ, có trên dưới, có kỷ luật, nhưng phải luân chuyển, có tính chất dân chủ, b́nh đẳng, có cơ quan kiểm soát. Cần sự đóng góp của các cư sĩ có khả năng về quản lư, hành chánh, kinh tài. Ngoài sự cúng dường, t́m những phương thức kinh tài bằng trồng trọt, thủ công nghệ, in ấn kinh sách...
Một công tŕnh lâu dài và cấp bách
Một trong những khẩu hiệu đang thịnh hành trong nước là "hiện đại hóa đất nước". Làm sao cho đất nước trở thành hiện đại, không c̣n lạc hậu so với thế giới chung quanh. Đó là một việc cần thiết cho sự sống c̣n của dân tộc.
Đạo Phật Việt-Nam cũng vậy. Đạo Phật cần phải được hiện đại hóa để thoát khỏi t́nh trạng chậm tiến, chênh lệch hiện nay so với cuộc sống hàng ngày.
Công tŕnh hiện đại hóa đạo Phật quả là một công tŕnh lâu dài, đầy chông gai cam khổ, nhất là khi Phật giáo Việt-Nam c̣n bị hạn chế trên nhiều mặt, trong một đất nước c̣n nghèo nàn, lạc hậu, với một tŕnh độ dân trí c̣n thấp kém.
Nhưng công tŕnh đó phải được khởi sự một cách cấp bách. V́ nhu cầu của những người Phật tử, nhu cầu của đất nước, và nhu cầu của thế giới đang thúc đẩy. Hơn bao giờ hết, đạo Phật cần được hiện đại hóa. Đó không phải là một từ ngữ suông, một khái niệm hợp thời trang. Đó là một sự cần thiết thực sự, một công tŕnh cấp bách trong đó mỗi người Phật tử phải cố gắng đóng góp phần nhỏ bé của ḿnh.
Đứng trước ngă ba đường, Phật giáo Việt-Nam phải chọn lựa :
- Hoặc giữ như cũ, cổ kính, kinh điển, nặng h́nh thức tín ngưỡng, xa ĺa cuộc sống, không am hiểu những vấn đề của thời đại.
- Hoặc đổi mới, thực sự đi vào cuộc đời, cảm thông những vấn đề khoa học, xă hội, tâm lư đặt ra cho con người của thế kỷ sắp tới.
Nếu đă chọn lựa con đường sau này, th́ người Phật tử phải quyết tâm, đồng nhất, cùng nhau xác định, trong tinh thần phá chấp, khế cơ và sáng tạo, đâu là nền tảng, tinh hoa của đạo Phật, phải can đảm tách rời những ǵ không phải là đạo Phật, phá bỏ những cách biệt giữa đạo và đời, để cùng nhau tạo dựng nên một đạo Phật sống động, gắn liền với thực tại.
Trịnh Nguyên Phước (TVHS)
Sửa lại bởi sunbeam : 28 April 2006 lúc 3:16am
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|