Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 204 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Đạo đức của người xuất gia Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 1 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:22am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Tôi không biết làm điều này đúng hay sai??????

V́ hiện nay, trong cuộc sống chúng ta thấy những điều mà chúng ta không muốn thấy đối với các người đă xuất gia. Chỉ mong mở chủ đề này ra để tất cả mọi người giác ngộ và tu tâm.

I- Thanh Cao & Giản Dị


1.1. Không mở trai đàn

Thời Nam triều (420-589), đời nhà Tống, vua Vũ Đế (Lưu Dụ), niên hiệu Sở Sang (420-423), có một người xuất gia pháp danh là Mân.

Sư Mân xuất gia lúc 7 tuổi, bác thông kinh điển, tiếng đồn khắp nước, dân chúng gọi ngài là Mân pháp sư. Mân pháp sư kiến tạo, tu sửa chùa miếu, in kinh đúc tượng, phóng sanh, bố thí chưa từng mệt mỏi hay bỏ sót một việc nhỏ nào.

Có một người hỏi sư : “Công đức tu tập của Ḥa thượng không phải nhỏ, đáng tiếc chưa nghe Ḥa thượng mở hội trai đàn chẩn tế, sợ rằng công đức ấy không được viên măn”.

Sư trả lời : “Đại hội chẩn tế trai đàn rất khó thực hiện hợp lư, như pháp, vả lại, nhu cầu các thứ phẩm vật như gạo, rau, muối, giấm, củi, nước lạnh, nước sôi, than củi… rất tốn kém; rồi người đi lại giẫm đạp, rửa ráy, thiêu đốt… rất nhiều việc thương tổn đến vi trùng, những loài sinh vật nhỏ bé. Bởi vậy, tôi không mở đại hội trai đàn chẩn tế. Nếu như phó thác người tốt cho Vương Cung hay Đạt Quan biện liệu và xử lư th́ khó mà như pháp. Bọn họ chỉ cầu sự xă giao trong xă hội, mất đi ư nghĩa chân chính của việc trai đàn, chẩn tế, v́ vậy, dứt khoát không mở hội trai đàn”.

B́nh luận:
Người ngày nay làm một việc phước là mở hội trai đàn, cho danh tiếng tốt đẹp đó là viên măn; thậm chí, Ḥa thượng nhập thất, sau khi đóng cửa một hai ngày, liền nghĩ đến chuyện lo tổ chức trai đàn, ngày đêm tính toán chuẩn bị cho việc mở hội chẩn tế, luôn luôn không thể duy tŕ hoặc đánh mất việc tu hành và giữ chánh niệm. Than ôi! Lời nói của Pháp sư Mân đến nay đă hơn mười thế kỷ mà vẫn không sai.

1.2. Phân phát đồ nhận cúng

Thời Nam Triều (420-589), đời nhà Lương (502-577), ở Tích Đô, chùa Bành Thành, có pháp sư Huệ Khai, người Hải Diêm, Ngô Đô. Sư cùng học kinh luận với hai vị pháp sư Trí Tạng ở chùa Khai Thiện, Chung Sơn, và pháp sư Tăng Mân, chùa Trang Nghiêm, ở Dương Đô. Sau đó Sư giảng kinh, giảng rất hay, danh tiếng vang khắp thiên hạ. Thái thú Dự Chương tên Tạ Huệ kính ngưỡng đi nghe Sư giảng kinh, cúng dường rất nhiều tiền bạc, nhưng Sư không một lần đến nhà, tiền bạc cúng dường Sư đem bố thí, phân phát hết.

Thái thú Tấn An tên Lưu Nghiệp cúng dường cho Sư một vạn tiền, không đến một ngày, toàn bộ số tiền đó đều bố thí, cấp phát cho người nghèo khổ hết. Cá tính của sư rộng răi, vui vẻ tuỳ ḥa, không chú trọng vẻ bề ngoài, y phục bụi bặm bám đầy cũng không để ư đi giặt giũ.

B́nh luận:
Thuyết pháp mà không nhận của cúng dường như thế mới gọi là bố thí Pháp chân chính! Nếu như mỗi người xuất gia đều giống như Pháp sư Huệ Khai th́ tốt biết mấy!.

1. 3. Tích chứa bụi bặm và nuôi giữ côn trùng

Thời Nam Triều, đời nhà Lương (502-577), tại kinh đô Dương Châu, chùa Linh Cơ, có pháp sư Đạo Siêu.

Sư Đạo Siêu cùng học đạo với Pháp sư Mân ở chùa Linh Cơ, sau sống một ḿnh trong một am nhỏ, tuyệt giao bạn bè, không tiếp khách. Cả pḥng toàn bụi đất, bốn vách đều nghe tiếng dế kêu. Có một ngày, Trung thư Lương Trương Suất đến thăm sư, thấy t́nh h́nh như vậy, ông hỏi : “Côn trùng kêu ầm ỉ, bụi bặm chất đầy cao quá gối, thầy học đạo khó khăn đến nỗi không c̣n thời gian để ư những việc này sao?”. Sư trả lời : “Mỗi ngày nghe tiếng côn trùng nỉ non như nghe một bản nhạc hoà âm được tấu lên bởi tiếng sáo, tiếng tiêu; bụi bặm th́ theo gió mà đến đây, chưa bao giờ quét dọn, để quư khách trông thấy những thứ này thật là thất lễ, thật xấu hỗ quá!”.

Trương Lương Suất nghe mấy câu này rồi thêm bội phần khâm phục và hết lời khen ngợi.

1.4. Ở ẩn bên suối

Triều nhà Đường (618-907), tại Đông Dương, chùa Thanh Thái, có pháp sư Huyền Lang.

Pháp sư Huyền Lang là cháu nối dơi đời thứ sáu của Phó Đại Sĩ, thường tu hạnh đầu đà, ở bên khe núi, nên có biệt hiệu là Tả Khê Tôn Giả. Sư sống một ḿnh trong một am nhỏ, cho rằng am tuy nhỏ, nhưng có thể thấy rộng lớn như pháp giới vô lượng, đó chính là tâm cảnh trong kinh Hoa Nghiêm, một hạt bụi thâu nhiếp vô lượng thế giới. Hơn bốn mươi năm chỉ đắp một chiếc y thất (y 7 điều), cả đời người chỉ dùng một toạ cụ (ni-sư-đàn) không thay đổi. Nếu như không tra cứu kinh điển tuyệt đối không tuỳ tiện đốt đèn sáp; nếu như không phải là lễ Phật tụng kinh, tuyệt đối không tuỳ tiện bước đi một bước. Nếu sư muốn rửa bát th́ bầy khỉ trong núi tranh nhau đi rửa cho sư. Lúc sư tụng kinh, chim muông đều bay đến đậu trước mặt, đuổi không đi. Thứ sử Vương Chính Dung thường hay thỉnh sư vào thành cúng dường, nhưng sư đều từ chối, thoái thác rằng có bệnh, không thể đi được.

B́nh luận:
Người đời nay đọc sách đại sư Vĩnh Gia đối đáp với đại sư Huyền Lang (Xuất tự thiền tông Vĩnh Gia tập), trong đoạn đầu có ba câu viết thế này : ‘Kiến đạo không phải ở trong núi tịch tĩnh, kẻ ngu si, chốn ồn ào náo loạn, không chỗ nào không phải là đạo’, thế là coi thường sư Huyền Lang, cho rằng sư an phận vui cảnh vắng, không biết rằng đây là lời đại sư Vĩnh Gia dùng để phá tâm chấp pháp của sư Huyền Lang, chỉ là lời nói phương tiện tạm thời, giống như trong sách Tín Trung có ghi : ‘Như thế không phải là dùng thuyền trí tuệ để vượt biển pháp nhưng lại muốn bẻ lái quay đầu vào hang núi hay sao?’, là nhằm vào sư Huyền Lang, với mục đích thôi thúc sư xuống núi rộng độ chúng sanh. Phong độ, khí thế của đại sư Tả Khê Lang c̣n lưu lại chính là cái mà kẻ học ngày nay nên học đấy ! Làm người phải nên có cái thấy phân minh, kỉ lưỡng. Đại sư Vĩnh Gia trong cuốn Tín Trung có nói : ‘Được mất tại người, quan hệ ǵ đến động tĩnh’. Người đời nay nghiệp chướng sâu nặng, không những trong động không thể kiến đạo mà ngay trong tĩnh cũng khó giữ được chánh niệm tu tập; trước không lo ẩn cư tu tập cho thật vững chăi mà muốn hành đạo Bồ tát trong chỗ ồn ào náo nhiệt th́ không khỏi rơi vào sự nghi ngờ.

1.5. Tiền rơi không nh́n

Đời nhà Tuỳ (581- 618), có pháp sư Phú Thượng. Sư hành cước đến Ích Châu, chùa Tịnh Đức, trên đường đi, lúc nghỉ ngơi, sư treo một chiếc nón rộng vành, rất lớn, lên một bên đường, rồi ngồi dưới nón tụng kinh. Sư cũng không mở miệng hướng đến những người qua lại hoá duyên, xin bố thí; có ai bố thí tài vật cho sư cũng không cảm ơn hay giống như những vị Tăng hoá duyên trong miệng lâm râm cầu cho thí chủ tiêu tai thoát khổ, được phước. Bởi v́ đường vắng, hẻo lánh, ít người qua lại cho nên nhiều năm không nhận được một vật bố thí nào.

Có người hỏi sư : “Ở thành Tây bắc người qua lại rất đông, sự bố thí cúng dường cũng nhiều, v́ sao Ngài cứ ở măi chỗ này mà không qua đó?”.

Sư trả lời : “Một đồng hai đồng đă có thể duy tŕ sự sống này tốt rồi, hà tất phải cần nhiều? Nhiều cũng không dùng”.

Thứ sử Lăng Châu, Triệu Trung Thư, đương thời là một vị quan lại độc ác, nghiêm khắc trong Tam đại (ba triều đại Hạ, Thương, Chu), không tin Phật pháp, cũng không kính Tam Bảo, nhưng khi nghe đến chuyện đại sư Thượng, ông cố ư muốn thử ngài, bèn cưỡi ngựa đi qua đó, giả vờ vô ư đánh rơi một túi tiền. Phú đại sư vẫn điềm nhiên đọc kinh xem như chẳng có vật ǵ trước mắt. Thứ sử họ Triệu sau khi đi rất xa, bèn sai người trở lại lấy tiền, đại sư cũng chẳng để ư đến, coi như không nh́n thấy. Triệu trung thư liền hỏi đại sư: “Suốt ngày không có hơn một tiền, bây giờ có một ngàn tiền rơi trên đất, ngài để người ta lấy đi, v́ sao không ngăn cản?”. Đại sư nói: “Đó không phải là vật của tôi, v́ sao tôi phải mạo nhận nó là của tôi mà ngăn cản người ta lấy đi?”.

Thứ sử họ Triệu bèn xuống ngựa đảnh lễ nhận lỗi, rồi hết lời tán thán, tỏ ḷng khâm phục xong mới về.

1.6. Không chứa vải, lương thực

Đời nhà Đường có pháp sư Thông Huệ, xuất gia được ba mươi năm. Sư một ḿnh vào trong núi Thái Bạch tu hành mà không mang theo lương thực. Đói th́ ăn cỏ dại, quả rừng, khát th́ uống nước khe, ngủ th́ tựa dưới gốc cây, suốt ngày toạ thiền, tham cứu, trải qua hơn năm năm. Có một ngày sư dùng gậy đánh g̣ đất, g̣ đất bị phá nát không c̣n h́nh thể nữa hốt nhiên sư đại ngộ. Cuối đời, sư chỉ mặc một bộ đồ, đắp một cái chăn, mang một đôi giày, dùng như thế suốt hai mươi năm, y phục may vá mấy lớp, mùa đông mùa hạ đều không khác nhau.

1.7. Không quan tâm tiền cúng dường nhiều ít

Đời nhà Đường, ở thủ đô, chùa Hoàng Pháp, có sư Tỉnh Lâm, vốn là người Kinh Triệu Hoa, đạo hạnh cao siêu, đạo phong vang khắp mọi nơi, tín đồ cúng dường một ngày một đông. Tín đồ cúng dường tài vật cho sư, tất cả đều đưa cho thị giả, cũng không hỏi lại nhiều ít. Sau đó, có một ngày sư muốn đem tiền đi làm việc công đức, mới hối hận là ḿnh hết tiền, thị giả lấy tiền đem ra, sư nói: “Tưởng rằng hết tiền, không ngờ ta lại c̣n nhiều tiền như vậy”. B́nh sinh, y phục rách đều lấy chỉ khâu vá lại.

1.8. Cửa không đóng

Đời nhà Đường, ở Kinh sư, chùa Biện Tài, có Pháp sư tên Trí Tắc, người Ung Châu, Trường An. Sư tính t́nh quang minh lỗi lạc, phong độ tự nhiên phóng khoáng, không chú ư đến ăn mặc, thường đắp một y bá nạp, quần chỉ che đến trên gối, (tức giống như quần soọc ngày nay), trong pḥng chỉ có một chiếc giường, một chiếc bát đất, một cái muỗng bằng gỗ, ngoài mấy thứ đó ra, không c̣n một vật ǵ nữa. Sư ở một ḿnh một thất nhỏ và không bao giờ đóng cửa, người đời đều gọi ngài là người điên cuồng. Ngài nghe vậy cảm khái nói một tràng: “Bảo ta là người điên nhưng không biết chính các ông mới là điên! Ra khỏi nhà, ĺa khỏi tục, trở lại lo việc cơm áo (bận tâm việc cơm áo), đi th́ muốn mặc áo đẹp, ở th́ muốn ở nhà cao cửa rộng có tường che chắn, cửa th́ khoá, ḥm rương buộc nắp… lăng phí thời gian như thế đấy, nhiễu loạn đạo nghiệp, lại c̣n thu góp cất chứa tài vật, cả ngày bận rộn và tâm lo sợ không yên, những người này nếu không phải là điên cuồng th́ chắc không có người điên cuồng trên đời!”

1.9. Không cần thị giả

Đời nhà Đường, chùa Di Đà, ở núi Hành Sơn, có pháp sư Thừa Viễn.

Ngài Thừa Viễn lúc đầu học đạo ở thành đô, sau đến ở trong Sơn Nam, phía tây nam dăy Hành Sơn. Có người cúng dường vật thực cho sư th́ sư dùng, không có người cúng th́ ăn cỏ cây hoa lá. Có người ngưỡng mộ đức hạnh của sư mà đến lễ bái và gặp sư ở dưới khe núi cheo leo, cao và dốc, thân h́nh sư tiều tuỵ, đầu mặt dính bụi, tóc tai bù xù, liền tự ḿnh nhận trách nhiệm nhặt củi, lại đi t́m người để làm thị giả cho sư, nhưng sư không đồng ư, không biết rằng ngài chính là Viễn Đại Sư. Đường Đại Tông nghe đến đức hạnh của sư bèn ban cho sư trụ tŕ ‘Ban Chu Đạo Tràng’, người đời tôn xưng đại sư là tổ thứ ba Liên Tông (Tịnh Độ Tông).

B́nh luận :
“Vua Nghiêu c̣n ở nhà tranh vách cỏ, người ta xem đó chỉ cho là nhà nho ẩn cư ở thôn quê mà không biết rằng đó là chỗ ở của Hoàng đế; Vua Vũ mặc áo quần cũ rách, người ta không biết ngài là Hoàng đế, c̣n cho rằng ngài là người dân dă, quê mùa! Huống chi người xuất gia, vốn chỉ dùng một bát, một y để duy tŕ thân mạng, lại có thể coi trọng sao! Hiện thời, có những người xem trọng y phục xa hoa lăng phí, thuê nuôi nhiều người giúp việc, lại sợ người ta không biết ḿnh có tiền, mặc áo quần hoa lệ, mang theo nhiều người hầu, dương dương đắc ư đi qua chỗ có nhiều dân chúng sinh sống. Những hạng người này nên cảm thấy hổ thẹn!”

1.10. Mặc áo lá sen, ăn hạt tùng

Đời nhà Đường, ở Ninh Châu, núi Đại Mai, có Thiền sư Pháp Thường.

Thiền sư Pháp Thường sau khi được yếu chỉ tâm pháp ‘tức tâm tức Phật’ của Thiền sư Mă Tổ Đạo Nhất, liền về ẩn cư trong núi sâu, không người biết đến. Quan Quản Lam (giữ muối) viết thư triệu kiến sư, sư từ chối không đi, viết thư trả lời Quản Lam rằng: “Tôi ở đây có một cái ao vuông, trồng toàn hoa sen, tôi dùng lá sen để làm y phục che thân thể, dùng cũng dùng không hết. Có mấy cây tùng thật tốt, lên lớn rồi ra hoa, trái, dùng đở đói ḷng, đầy đủ có dư. Tôi cho rằng, chỗ ở của tôi không ai biết đến, có thể một ḿnh tu đạo thanh nhàn, không ngờ lại có người đến t́m, thế th́ tôi lại bỏ chốn này, dời vào trong núi sâu hơn để ở”.

1.11. Làm bạn với chim, nai

Thời Ngũ đại (907-960), đời Hậu Chu (951-960), trên đỉnh Phật Thủ, núi Lô Sơn, có đại sư tên Hạnh Nhân.

Đại sư Hạnh Nhân ẩn cư trên đỉnh Phật Thủ, Lô Sơn. Mỗi ngày vào lúc tối, có một con nai, một con chim sơn trĩ đến ngủ một bên thạch thất của sư, và rất thân mật, ôn hoà thuần hậu giống như những người bạn tốt, không có một chút sợ hăi. B́nh sinh sư không có đồ đệ, nhưng những Tăng nhân của các chùa, miếu gần đó tự động cúng dường cho sư, hầu hạ chăm sóc sư. Có một ngày, sư nói với thị giả : “Cuốn rèm treo cửa sổ lên, ta muốn đi”. Rèn cửa sổ vừa mới được cuốn lên, sư xuống giường đi được mấy bước, rồi đứng lại, viên tịch”.

B́nh luận:
“Người nhiều tham dục, lúc lâm chung sẽ rất nhiều khổ hại (dục vọng càng thêm đốt cháy mạnh mẽ), thậm chí tranh đoạt tài sản để lại (văn của Lục Cơ điếu Nguỵ Vơ Đế, có dẫn di mệnh của Vơ Đế rằng : ‘Dư hương có thể chia cho các phu nhân, những người trong nhà đều không có học, cũng có thể học làm giày dép mà bán.’ Đối với sự việc tài vật của người đời, nhớ nhung măi không thôi, xả không được, bỏ không xong. Không chỉ những người tại gia thế tục, mà ngay cả người xuất gia cũng có giống như vậy. Nếu như có thể mỗi người xuất gia đều giống như đại sư Hạnh Nhân, một đời thanh cao lẫm liệt, viên tịch giống như vui chơi, nhẹ nhàng, thoải mái, không phải là rất tốt sao?!”

1.12. Thiểu dục tri túc

Thời nhà Tống (420-479), tại Hồng Châu Vân Cư, Thiền sư Hoằng Giác Đạo Ưng huấn giới đồ chúng rằng : “Các ông đều đă là người xuất gia, giống như những phạm tù trong ngục thất được phóng thích ra, từ đây trở đi phải hướng đến đạo lớn liễu sanh thoát tử, xa hẳn trầm luân vạn kiếp, đây là vận may của các ông, nhân đây, phải chế ngự dục vọng, thường sống tri túc, không nên tham cầu những hư vinh thế tục, phải nên nhẫn chịu đói khát, lập chí học đạo, tu tập pháp vô vi, chơn như tịch chiếu (Kinh Kim Cang nói : “Hết thảy thánh hiền đều lấy pháp vô vi mà có sai biệt), siêng năng nghe, giữ Phật pháp, hun đúc tài năng, phẩm hạnh tốt dần lên, thật khó có thể quư hơn, tu hành Phật pháp phải chín lần chết một lần sống, vào nơi nước sôi lửa bổng, cũng không một khắc vứt bỏ”.

1.13. Ước mong biển chúng thanh tịnh

Đời nhà Tống (420-479), ở Đông Kinh, có Thiền sư Từ Thọ Huệ Lâm Hoài Thâm.

Có một hôm, sau khi đốt hương tham thiền, diễn ra một cuộc tham vấn nhỏ, Sư khai thị đồ chúng:

“Quư thầy hăy ngàn vạn lần quên đi danh và lợi, lấy sự đạm bạc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm thiểu rồi, hướng ư nghĩ về đạo thanh tịnh tự nhiên phát sinh thêm lớn. Giống như Ḥa thượng Biển Đam Sơn, một đời nhặt trái lịch* ăn cho đỡ đói. Đại sư Vĩnh Gia không ăn rau cải trồng bằng sự cày cuốc, bởi v́ cày cuốc sợ thương hại đến những sinh vật nhỏ bé ở dưới đất bùn, và kính trọng sự lao khổ cực nhọc của người nông phu đă bỏ giọt mồ hôi xuống đất cấy cày hạt gạo; bậc cao Tăng như Ḥa thượng Huệ Hưu, 30 năm chỉ mang một đôi giày, lúc đi đường đất không sỏi đá gai gốc th́ quải dép lên vai mà đi chân. Các thầy ngày nay cơm áo không thiếu, mỗi thứ hưởng thụ đầy đủ, chưa đói đă ăn, chưa lạnh đă thêm áo, thân thể chưa một hạt bụi bẩn đă tắm gội, chưa đến giờ ngủ đă ngủ, c̣n như con đường sanh tử th́ chưa nắm được rơ ràng, tâm cảnh ô nhiễm chưa rửa sạch, nghiệp chướng chưa đoạn, th́ dù phước báo như trên đă kể sao dám hưởng thụ?”

1.14. Đắp một y, ăn một bửa

Đời nhà Đường (618-907), ở Ích Châu, chùa Khuông Tuệ, có pháp sư Huệ Hy.

Pháp sư Huệ Hy độc cư một ḿnh, không có thị giả, ngày ăn một bửa, không tiếp nhận của người ta cúng dường. Trong pḥng, trên mặt đất ngoại trừ những vết chân đi lại, b́nh thường đi tới đi lui, c̣n lại rêu phong mọc đầy, chiếc giường của sư trừ chỗ chính giữa sư thường ngồi là tương đối không có bụi đất, c̣n lại hai đầu th́ bụi đất bám đầy đóng lớp, h́nh như lâu, thật lâu lắm chưa có người ngồi. Quần áo của sư rách nát, cũ nhàu không thể tả, chỉ có thể che chắn được gió lạnh, mùa đông th́ đắp chiếc y cũ rách này, mùa hạ th́ cởi nó ra treo lên trên sàn nhà. Người ta mộ danh sư mà đến yết kiến đảnh lễ, ở trong pḥng này mà lănh giáo, đại sư đối đăi rất từ bi, hoà nhă, thiết tha, ân cần khuyên bảo, có khi người đến đông quá phải đợi đến mấy ngày mới có thể gặp sư để đàm đạo.

1.15. Một ḿnh giữ cửa chết

Triều nhà Nguyên (1206-1368), ở Hàng Châu, Thiền sư Thiên Mục Cao Phong Nguyên Diệu.

Thiền sư Nguyên Diệu tu hành tại Long Tu 9 năm, tự tay chặt cây gỗ dựng thành một cái am nhỏ để ở, không kể mùa đông mùa hạ, chỉ mặc một chiếc áo nạp y may vá nhiều chỗ (nạp y là chiếc áo được may vá nhiều mảnh, giống như chiếc y ngày xưa ni sư Phước Huệ đă may trong vườn Lộc Uyển, tức nạp y). Sau đó, ngài đến trong thạch động Tây Nham núi Thiên Mục, kiến tạo một am nhỏ một mái giống như chiếc thuyền, lập một cái bảng gọi là ‘Cửa tử’. Trước mặt am la những tảng đá nước nhỏ giọt nhẵn bóng, trơn lụi, phía sau là đất bùn nhăo nhẹt, mỗi lần gió mưa chiếc am lại lung lay. Sư xin miễn cúng dường và thị giả, y phục và những vật dụng hàng ngày cũng nhất thiết không cần, không tắm rửa, không cạo râu tóc. Sư đem cái ṿ bụng lớn miệng nhỏ, cắt bỏ nửa trên làm thành cái nồi, mấy ngày mới ăn một bửa cơm chín, tự cho vậy làm vui; trong sơn động sư ở không có thang mây* không có cách ǵ để leo lên được. Sư đă vứt bỏ thang, cắt đứt ngoại duyên, dù là đồ đệ của sư cũng khó gặp được.

B́nh luận:
“Giống như mặt trời treo lơ lững ngoài chín tầng mây, những bậc đại đức ẩn cư trong vách núi cao ngàn vạn nhẫn**, trước có đại sư Huệ Hy, sau có đại sư Cao Phong Diệu đây, hai ngài quả thật là những bậc siêu trần bạt tục. Trước đây, tôi lên Thiên Mục Sơn, tiến vào động Trương Công, ghé mắt nh́n xuống thấy khe núi cao đến ngàn trượng, muôn ngh́n cảnh tượng hiện ra trước mắt. Luôn tiện tôi cũng đi yết bái di tích “Cửa tử”. Bấy giờ trước mắt tôi vẫn c̣n phảng phất h́nh bóng oai nghi và dung nhan của đại sư Cao Phong Diệu, tôi tự than trách thân phận ḿnh sanh sau đẻ muộn không thể thân cận để được nghe ngài chỉ giáo, không ngăn cản được xúc động, nước mắt tuôn rơi, lâu thật lâu không thể kiềm chế được!”.

1.16. Không ăn tối

Ở tỉnh Chiếc Giang, vùng Triệu Hưng, vào mùa an cư tham thiền, mỗi tối làm cơm ăn, gọi là “phóng tam phạn’ (bửa cơm thứ ba). Tương truyền tập tục ăn bửa cơm này rất thịnh soạn, xa xỉ hơn bửa cơm ngọ, rất nhiều thức ăn. Cái tập tục hư hại này lại được truyền rất lâu. Thuở xưa có một vị tiền bối đạo đức cao siêu (tức Thiền sư Pháp Huệ) nghe chúng Tăng pḥng bên cạnh làm thức ăn sau giờ ngọ không ngăn được nước mắt, than thở Phật pháp thời kỳ suy đồi, cho nên, cấm người xuất gia quá giờ ngọ không ăn bất cứ vật ǵ, huống chi đêm hôm lại ăn ư?! Trong giới luật có ghi : “Người đời khua chén bát ra tiếng, ngạ quỷ nghe không kềm chế được cơn đói, trong cổ tự nhiên lửa bừng cháy”. Huống chi đêm hôm mọi người đă yên nghỉ, khua động chày, máy, mâm, chén… âm thanh truyền vào tai người ta, lại chiên, rán, nấu, thổi, nướng… hương vị truyền vào mũi người ta. Không nhớ rằng đối với chúng sanh phải từ bi dạy bảo, phóng túng dục vọng cho thoả bụng miệng, tâm như thế có thể yên ổn ư? Hoặc hỏi : ‘Nửa đêm bụng đói phải làm sao?”. Có thể ăn vài loại quả trái cây, bánh kẹo, không phải động đến nồi niêu, vật thực nấu nướng, lại có thể đỡ đói. Huống nữa, người ta giữ ngọ, từ sau buổi trưa cho đến sáng hôm, trong khoảng thời gian đó, ngoại trừ uống nước, không ăn một thứ ǵ nữa. Chúng ta buổi tối dùng mấy thứ bánh kẹo, cây trái, thuốc dưỡng sinh cho đỡ đói lại c̣n không biết đủ, quả là thái quá đi rồi.

Phụ:
Luật Phật chế là căn cứ lập trường của một thầy thuốc, cho rằng ăn đúng giờ ngọ là điều kiện sống khoẻ mạnh và trường thọ, rất phù hợp với thực tại bây giờ. Ngày nay y học đă chứng minh. Trước kia phương pháp làm thức ăn bằng nhiệt lượng cao, nhiều tṛng trắng trứng đă bị lật đổ, hoàn toàn phủ định, phương pháp làm thức ăn này chỉ là con đường dẫn đến sự béo ph́, cao huyết áp, sơ cứng động mạch… những tâm bệnh, rất dễ đưa đến tử vong nhanh chóng. Ăn chay có thể tránh được những thứ tâm bệnh này và ngừa ung thư cũng đă được chứng minh và phổ biến rồi; bửa ngọ ăn ít, người sẽ gầy một chút, nhưng tuyệt đối không dẫn đến kém dinh dưỡng, tinh thần lại rất tốt. Đạo gia cũng có nói rằng : “Anh muốn sống lâu, trong ruột phải thanh tịnh”. Ngày nay người ăn ít sống lâu rất nhiều, như lăo Ḥa thượng Quảng Khâm, lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, đều hơn 90 tuổi. Nh́n lại, trên từ Phật Thích Ca, dưới đến lịch đại chư vị tổ sư, không một ai không tu khổ hạnh mà được thành tựu, thậm chí có ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt lúa, đâu đâu cũng có. Mạnh tử cũng nói : “Kẻ muốn làm việc lớn trong thiên hạ, tất trước phải nhọc gân cốt ḿnh, đói thân thể ḿnh, khổ tâm chí ḿnh, làm mà không rối loạn, đây gọi là động tâm nhẫn tánh, chỗ lợi ích Tăng thêm không ít”. Tài năng sửa trị việc đời c̣n cần phải ‘nhọc gân cốt, đói thân thể’, huống chi người xuất thế hướng đến đại đạo vô thượng, có thể ‘suốt ngày no nê’, vừa đói là ăn hay sao?

Huống nữa, “no ấm th́ nghĩ chuyện dâm dục”, sẽ là chướng ngại lớn cho việc tu hành, người xuất gia không thể không biết việc đó. Lợi ích của việc ăn đúng ngọ rất lớn, nhỏ th́ có thể kéo dài tuổi thọ, thân thể kiện khương, lớn th́ có thể liễu sanh thoát tử. Bởi trong Bát quan trai giới th́ chính là 8 giới với một ‘trai’. Trai có nghĩa là ăn đúng ngọ. Công đức của Bát quan trai giới lớn đến mức độ nào? Người tu Tịnh độ nếu như giữ thêm 8 giới quan trai, văng sanh tất không bị rối loạn. Niệm Phật trong một khoảnh khắc rất quan trọng. Nếu lúc lâm chung không như pháp ‘nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo’, rất dễ tuỳ theo nghiệp mà đi, rất nguy hiểm! Vạn nhất tâm rối loạn, điên đảo th́ phải làm sao?

Thứ nhất, phải nhờ sự trợ niệm của đạo tràng niệm Phật, nhắc nhở chánh niệm, đánh khánh dẫn dắt, xem tượng Phật …v́ vậy, tổ chức đạo tràng ‘liên xă liên hữu’ cũng rất quan trọng, đây cũng là một phương diện phản ánh pháp môn niệm Phật của đại thừa, nhập thế và tinh thần b́nh đẳng.

Thứ hai, chính là nhờ vào sự tŕ giới, bảo đảm có sức mạnh rất lớn. Người xem kinh Dược Sư đều coi trọng việc tiêu tai thêm thọ, đâu biết rằng lợi ích lớn nhất mà Phật Dược Sư cho chúng sanh ở cơi Ta bà này chính là văng sanh sang thế giới Lưu Ly Tịnh độ của Ngài ở phương Đông và thế giới Tây phương Cực lạc của Phật A Di Đà. Trong kinh có nói như sau:

“Lại nữa, Mạn Thù Sư Lợi, nếu có bốn chúng, Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di và những người có niềm tin thanh tịnh, thiện nam, tín nữ… có thể thọ tŕ tám phần trai giới, hoặc trải qua một năm, hoặc ba tháng, thọ tŕ những điều đă học, th́ nhờ thiện căn này mà nguyện sanh sang thế giới Tây phương cực lạc, nghe chánh pháp đức Phật Vô Lượng Thọ nói; c̣n chưa được định, nếu nghe danh hiệu đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, lúc lâm chung có tám vị Bồ tát lớn : Văn Thù Sư Lợi, Quán Thế Âm, Đắc Đại Thế Chí, Vô Tận Ư, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dược Thượng, Di Lặc, tám vị Bồ tát này từ trên hư không mà đến, chỉ cho con đường để đến thế giới kia, từ trong hoa báu nhiều màu tự nhiên hoá sanh”.

Xem đó có thể thấy rằng, giữ giới chỉ có ba tháng th́ đă có 8 vị Bồ tát lớn đến đón về Tây Phương, sự việc vô cùng tiện nghi. Ḷng từ của chư Phật và Bồ tát nghĩ ra rất nhiều phương tiện cho chúng sanh, chỉ v́ chúng ta không biết lợi dụng đó thôi. Cho nên, người niệm Phật nếu như chưa được nhất tâm bất loạn, tâm không điên đảo th́ nên giữ giới, ăn đúng ngọ cho tốt!.

1.17. Hoá duyên trái lẽ

Trong những thanh quy của Tăng đoàn chùa Vân Thê, có một điều như vầy: “Người đi quyên tiền, hoá duyên trái lẽ, trục xuất khỏi sơn môn”.

Có một thầy nói:

“Không cần phải cấm điều này, cấm th́ cơ hội gieo trồng phước điền của chúng sanh sẽ giảm ít đi. Bởi v́, tuy người phạm tội hoá duyên trái lẽ, vi phạm nhân quả, nhưng có thể làm cho chúng sanh phá bỏ được tánh xan tham, xả bỏ tài vật th́ cũng được lợi ích và công đức. Ngày xưa, khi Phật c̣n tại thế, người xuất gia mượn danh nghĩa của Phật để mưu sinh đức Phật đă bao giờ v́ những người này chế một điều cấm chưa?”.

Tôi trả lời:

“Lời nói của thầy cố nhiên không sai, phát tâm tốt, nhưng thầy chỉ biết có một mà không biết có hai. Hoá duyên trái lẽ, cái nhân giả dối th́ quả mờ mịt, người bố thí biết được, v́ đây mà thối mất đạo tâm, về sau không bố thí nữa, sao có thể khiến người ta phá xan tham được? Lúc Phật c̣n tại thế, có các đệ tử đi du hoá ở các phương xa trở về, đi qua một thôn lạc, người dân ở trong vùng ấy thấy các thầy Tỷ-kheo này từ xa vội vàng đóng cửa lại hết. Các thầy mới hỏi một số người gần đó v́ sao lại có t́nh trạng sợ hăi các thầy sa môn đến vậy, người ta trả lời nguyên do là v́ người ta sợ các thầy hoá duyên trái lẽ! Trước đây có các thầy Tỷ-kheo xấu đi hoá duyên trái lẽ, cho nên họ sợ quư thầy ở đây cũng giống như vậy. Sự việc xảy ra như vậy quư thầy sau khi trở về bẩm báo với đức Phật, đức Phật nghe rồi cho gọi các thầy Tỷ-kheo hoá duyên trái lẽ đến trách mắng, v́ sao có thể nói đối với việc này Phật không lập giới cấm!? Phải thận trọng, đừng đi hoá duyên trái lẽ”.

1.18. Thầy giảng pháp

Có những vị pháp sư giảng kinh, thuyết pháp có công đức, vô h́nh trung thay đổi tâm tánh chúng sanh lúc nào không biết, nhưng chưa có thầy thí thực và có trách nhiệm, giao thiệp đi lại làm bạn với quỷ thần (dễ chuốc lấy phiền muộn và nguy hiểm), chúng ta nên so sánh hai hạng người này có lỗi lầm ít nhiều ǵ không. Tôi th́ cho rằng không nhất định. Thầy giảng kinh nếu như không cẩn thận th́ cũng có thể chuốc lấy lỗi lầm rất lớn. Thí thực chỉ là một pháp môn, một pháp giống như dễ dàng tinh thông. Kinh luận th́ nhiều loại, muốn mỗi mỗi đều phải tinh thông th́ rất khó khăn. Bởi vậy, người xưa, nhiều vị chỉ chuyên nghiên cứu, học tập một pháp môn, như chuyên về nghiên cứu nghĩa lư kinh Pháp Hoa, hoặc chuyên về kinh Hoa Nghiêm… Người bây giờ th́ mỗi kinh, mỗi luận đều tuyên giảng, so với chư vị đại đức tiền bối phải chăng họ cao minh hơn? Nhưng mà chưa có bậc minh sư dạy dỗ hướng dẫn th́ làm sao dám tự cao tự đại ? y theo cái biết nông cạn, suy luận chủ quan của ḿnh mà phát biểu, thích đề cao cái mới, lập dị rồi phê b́nh bậy bạ những bậc tiền bối? Kinh luận chỉ có xem qua một chút đă tiến hành giải thích, nhưng chưa có một chút ư kiến bàn luận nào phát huy được rơ ràng. Những điều này th́ không đúng! Nhất định phải nghiên cứu lâu ngày, trường kỳ cho thật tinh thâm, nghiên cứu thảo luận nhiều mặt, ôm ấp trong ḷng nguyện vọng sáng đạo vốn có làm gốc, không mưu đồ lợi dưỡng, danh vọng riêng ḿnh như thế mới có nhiều công đức mà không lỗi lầm. Hoặc giả, có người hỏi rằng: “Đại sư Trí Giả nói : ‘V́ lợi dưỡng mà hoằng dương kinh Phật cũng có đầy đủ danh nghĩa Bồ tát, lời nói này như thế nào?’. Ồ, đại sư Trí Giả nói câu này là v́ khích lệ những người có đầy đủ ḷng từ bi nhưng hăy c̣n thiếu hạnh nguyện Bồ tát vào đời độ sanh mà nói, không phải v́ những người tham cầu danh lợi mà nói. Nếu như không suy nghĩ, t́m hiểu ư nghĩa của câu nói này, rất dễ dàng hiểu lầm.

1.19. Lợi ích của người xuất gia

Chư vị đại đức thuở xưa có nói: “Người tốt nhất chính là người xuất gia”; trong dân gian cũng có lưu truyền một câu như thế này: “Một người con xuất gia chín ḍng được sanh thiên*”. Những câu nói như vậy đều là tán thán, khen ngợi người xuất gia, nhưng chưa nói xác định rơ ràng chỗ lợi ích của người xuất gia. Suy cho cùng th́ lợi ích của người xuất gia là ở chỗ nào? Thật khó nói, người xuất gia không cần phải cấy cày, không đi dệt vải mà vẫn có cơm ăn, có áo mặc, đó là lợi ích của người xuất gia sao? Hoặc giả nói, không cần phải mua nhà, không cần phải thuê pḥng, nhưng vẫn có chỗ cư trú, đó là lợi ích của người xuất gia? Hoặc nói, quốc vương đại thần ủng hộ, tín đồ thí chủ cung kính, trên không bị quan lại bắt đi lính, dưới không bị thứ dân quấy nhiễu mà lại được tự nhiên vui vẻ, thanh nhàn, phóng khoáng, đó là lợi ích của người xuất gia?

Người xưa có bài kệ nói vầy:
“Hạt gạo của thí chủ
Lớn tựa núi Tu di
Nếu đạo lớn không thành
Mang lông đội sừng trả*”

Lại nói : “Một ngày kia lăo Diêm Vương tính toán cơm tiền với anh, xem anh lấy ǵ bồi thường?”. Xem đây đủ thấy, người xuất gia, trái lại nấp kín bên trong một cây đại tai hoạ, lại c̣n nói là lợi ích sao? Cái gọi là lợi ích của xuất gia chính là có thể thoát được phiền năo, dập tắt vô minh, chứng được vô sanh pháp nhẫn, liễu thoát sanh tử, đây mới là việc làm tối thắng, cao quư hơn hết, trong loài trời, người, hơn nữa, cha mẹ gịng họ cũng có thể nhờ đây mà ân triêm đức hạnh. Nếu không như lời này, dù có giàu có đến thiên vàng vạn bạc, cho đến được vinh hiển làm quốc sư cho bảy đời hoàng đế đi nữa (như Thanh Lương quốc sư) cũng chẳng có lợi ích ǵ để nói! Thật tại tôi rất lo sợ vạn phần, sợ phạm vào lỗi lầm lớn này, đồng thời nói với các bạn đồng tu cùng nhau cảnh giác, lo sợ mà tu.

TỔNG LUẬN
Tỷ-kheo là tiếng phạn Bikkhu, người Trung Hoa dịch là khất sĩ. Sống một ḿnh, thanh tịnh tu hành mới gọi là khất sĩ. Nếu như c̣n nhiều nhu cầu, nhiều sự nuôi dưỡng, tham dự nhiều việc, đây không phải là trái lại nghĩa gốc của hai chữ Tỷ-kheo sao? Chương này ghi chép lại sự việc từ pháp sư Mân, cho xuống đến chư vị đại đức, khoảng thời gian đó cho đến hôm nay có trên một ngàn năm lịch sử, nhưng phong độ và khí thế của quư ngài, vẫn c̣n lưu truyền cho đến hôm nay chưa tiêu mất, nghe biết phong độ, khí tiết cao sáng của quư ngài mà không quyết chí vươn lên lại có thể xứng đáng làm Tỷ-kheo sao?

* Trái lịch h́nh tṛn, lớn bằng đầu ngón trỏ, vị gắt, vỏ cứng, nhân giống như thịt hạt sen già, có thể ăn được, vỏ có thể làm thuốc nhuộm.

* Một loại thang dài dùng để đánh thành hay chửa cháy.
** Nhẫn, đơn vị đo lường ngày xưa, khoảng bảy tám thước
* Cửu tộc: từ ông cao tổ đến cháu huyền gọi là chín ḍng.
* Mang lông đội sừng trả tức là làm súc sanh.

C̣n tiếp.....
Nam Mô A Di Đà Phật!!

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 2 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:25am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

II - Nghiêm Chính


2.1. Không tiếp xúc với nữ giới, ni giới

Đời nhà Tuỳ (581-618), tỉnh Tượng Châu, chùa Diễn Không, có pháp sư Linh Dụ.

Pháp sư Linh Dụ là người Định Châu. Sư sắp xếp, bố trí cho chúng xuất gia ở hai khu vực, phân chúng đă thọ đại giới và chưa thọ đại giới làm hai nơi ở hẳn hoi. Nếu như ngôn ngữ, hành vi tản mạn chắc chắn bị quở trách. Ngài phát nguyện không truyền thụ giới cho ni giới, chỉ khi nào giảng kinh thuyết pháp, mới cho phép ni giới vào chùa nghe, và lúc bắt đầu buổi giảng phải vào sau cùng, kết thúc phải ra trước tiên. Ngài ở một ḿnh trong pḥng, tuyệt đối không cho Ni Giới vào. Chúng Sa di đến khi thọ giới cụ túc, tất phải thỉnh đại đức Tăng làm tôn chứng sư, nhưng phải đủ 20 tuổi mới cho đăng đàn Tỷ-kheo thọ giới cụ túc. Đại sư suốt đời chỉ đắp y bá nạp bằng vải thô. Chiếc quần dài chỉ đến mắt cá, tay áo lót, miệng rộng bốn ngón tay, dài chỉ đến khuỷ tay. Nếu như xem y phục nào quá ư sa hoa th́ cắt phá.

2.2. Tuổi nhỏ không vui đùa

Đời nhà Đường (618-907), tỉnh Kinh Đại, chùa Từ Ân, pháp sư Huyền Trang.

Pháp sư Huyền Trang, người họ Trần, là hậu duệ của Trần Trọng Công, Thái khâu trưởng triều nhà Hán. Tuổi nhỏ theo anh Tố xuất gia (tức là Trương Tiệp pháp sư), mới 11 tuổi đă tụng đọc kinh Duy Ma, Pháp Hoa. Sư tính t́nh chính trực siêu bạt, không a dua theo thời cuộc, ch́m nổi theo trần tục. Có một ngày thấy chúng Sa di ngồi nói chuyện bông đùa tán dốc, sư nói với chúng rằng : “Kinh Phật không có để nói à ? Là người xuất gia th́ phải tu pháp vô vi, tại sao lại có thể ngồi nói chuyện bông đùa như vậy ? Cứ tiếp tục măi như thế này th́ chỉ lăng phí cuộc sống quí báu này thôi !”. Người cao minh xem đến sự kiện này th́ biết đạo đức của đại sư thật phi phàm !

B́nh luận:

Tuổi nhỏ đă có đức hạnh cao siêu, đó không phải do thiên phú đặc biệt mà là do tập khí tu tập đời trước không quên mất. Biết được đạo lư này, có thể hiểu được cuộc sống hôm nay, cũng có thể nói cuộc sống hôm nay tu tập miên mật, th́ kiếp sau tự nhiên đạo đức siêu trần bạt tục.

2.3. Nghiêm Huấn Thị Giả

Đời nhà Đường (618-907), núi Giang Nam, chùa Chí Tương, pháp sư Trí Chính.

Pháp sư Trí Chính, người Định Châu, An Gia. Vào niên hiệu Khai Hoàng, năm thứ 10, triều Tuỳ Dạng Đế*, phụng chỉ sắc lệnh của Hoàng Đế trú trong chùa Thắng Quang, Nhân Thọ, sau đến núi Chung Nam, chùa Chí Tương và kết bạn với pháp sư Uyên, một vị giải hạnh tương đối cao, đáng được ngưỡng mộ ở kinh thành, cùng ở chung với nhau 28 năm, không liên quan đến vấn đề thế sự.

Đại sư Trí Chính có một đệ tử tên là Trí Hiện, vâng chịu sự dạy dỗ của Ngài; mỗi lúc đại sư Trí Chính xem sách, ngồi ngay thẳng suy nghĩ, pháp sư Trí Hiện cầm bút đứng hầu phía sau. Đại sư Trí Chính muốn nói ra điều ǵ, ngài lập tức ghi chép lại. Cứ như vậy trải qua mấy năm, lúc nào cũng chăm chỉ siêng năng không thay đổi. Lúc đầu pháp sư Hiện chỉ đứng không ngồi, có một ngày, chân bị đau, trong ḷng buồn bực, Hiện té xuống đất lúc nào không hay, Đại sư Trí Chính quở trách : “Vào thời quá khứ rất xa, thuở đức Phật Phất Sa tại thế, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một tiên nhân ngoại đạo, lên núi tuyết hái thuốc thấy đức Phật Phất Sa ngồi trên bảo toà trong hang nhập hoả định, phóng hào quang rực rỡ, thấy vậy trong ḷng rất hoan hỉ, kính tin, bèn bước tới đứng chắp tay, hướng đến Phật nhất tâm chiêm ngưỡng, mắt không rời bảy ngày bảy đêm, mở lời khen Phật rằng : “Trên trời, dưới trời không ai giống như Phật, mười phương thế giới cũng không ai có thể so sánh, con đă nh́n khắp thế giới này, tất cả không ai giống như Phật”, do lời khen ngợi và tấm ḷng ngưỡng mộ này mà trải qua chín kiếp, trong kiếp thứ 9 được thành chánh giác (Đại Trí Độ Luận, quyển 4, Bồ Tát Thích Luận), Con mới đứng có một chút th́ đă ngă rồi nguyên nhân là do tâm không trịnh trọng!”. Đại sư Trí Chính nghiêm khắc như vậy.

B́nh luận:

Đă bị té lại c̣n bị trách mắng, thật là quá nghiêm khắc ! Người xưa v́ cầu pháp mà quên đi bản thân ḿnh, như nhị tổ Thần Quang (Huệ Khả) vị sư cầu pháp nơi tổ sư Đạt Ma. Đạt Ma ở động thiếu thất, tĩnh toạ quay mặt vào vách núi, đại sư Thần Quang tiến về phía trước cầu pháp, đứng ở bên ngoài, tuyết phủ đầy mặt đất, suốt một đêm, tuyết ngập lên tận đầu gối. Lại nữa, hai vị học tṛ nhà nho là Du La Đạo và Dương Thời học Đạo với tiên sinh Y Xuyên; tiên sinh Y Xuyên bấy giờ đang nhắm mắt dưỡng thần, hai người đứng ở ngoài cửa, gặp lúc tuyết đang rơi, hai người không cảm thấy kinh động, tiên sinh ở trong pḥng mở mắt nh́n ra ngoài cửa, thấy tuyết dày đến ba tấc. Tấm gương tôn sư trọng đạo của hai người này, c̣n lại không nhiều. Người ngày nay ngồi luận đạo, lại có cảm giác chán chường mệt mỏi. Ôi ! làm thầy quản giáo nghiêm khắc, làm một người học tṛ tôn sư trọng đạo, những việc như vậy đă sớm bại hoại hết rồi, thực tại đáng buồn thay!

2.4. Phá hoại đồ đựng rượu

Đời nhà Đường (618-907), tỉnh Dịch Châu, chùa Thanh Hoá, có pháp sư Huyền Giám.

Pháp sư Huyền Giám là người Cao B́nh, Dịch Châu. Tính t́nh sư đôn hậu, ngay thẳng, bộc trực, thấy người đến không như pháp, nhất định bị sư quở trách ngay trước mặt, không kiêng nể đối phương là người có thế lực, ngoan cường như thế nào. Một đời đại sư kiến tạo, tu bổ rất nhiều đạo tràng. Lúc đó phải thuê mướn rất nhiều công nhân, nếu như có người đưa rượu đến cho công nhân uống, đại sư cấm cản bảo: “Tôi tạo tự viện nhất định phải làm như pháp, thà rằng công nhân băi công, không cho phép công nhân uống rượu”.

Lúc đó, chùa Thanh Hoá đang thi công làm chánh điện (Phật điện). Ở Dịch Châu có một vọng tộc*, gọi là nhà Tôn Nghĩa, chở hai xe rượu đến ủy lạo cho công nhân, Giám đại sư bèn đánh phá hết mấy ṿ rượu, rượu chảy tràn lan ra đất. Tôn Nghĩa rất giận, quyết định ngày hôm sau phải cho đại sư Giám khó xử, nhưng tối hôm đó ông nằm ngủ mộng thấy một người cầm dao đến muốn giết ông ta, bảo ông ta không được vô lễ đối với đại sư, tỉnh dậy Tôn Nghĩa biết được lỗi của ḿnh, thế là từ đó, ông rất cung kính, qú trước mặt đại sư xin sám hối.

B́nh luận:

Ngày nay chiêu đăi công nhân, không những dùng rượu bia, lại c̣n sát sanh, chiên nấu những thức ăn tanh, đến nỗi phá đất, nghinh thần tế lễ mời đại khách, càng sát hại rất nhiều sinh vật, dùng đinh, móc câu đóng sinh vật treo lên trên vách tường (dụ cho sự tàn sát trắng trợn). Cầu phước kiến tạo chùa chiền như vậy, thiên đường thành tựu đâu chưa thấy, trước đă gieo nhân tạo địa ngục rồi, đây là t́nh h́nh cuộc sống thực tại đấy, người muốn làm chùa, tu sữa tháp miếu cầu phước, ngàn vạn lần phải cấm chỉ hẳn những việc làm trên.

2.5. Không tiếp xúc người nữ

Đời nhà Đường (618-907), tỉnh Phong Châu, chùa Đại Hưng Quốc, có pháp sư Đạo Lâm.

Pháp sư Đạo Lâm người huyện Cáp Dương, Đồng Châu, năm 35 tuổi mới xuất gia vào sâu trong hang động núi Thái Bạch ẩn cư. Hoàng đế coi trọng Ngài, sắc lệnh cho trú tŕ chùa Đại Hưng Quốc. Không bao lâu, Ngài lại trốn đến ẩn cư ở phía nam Lương Sơn. Một đời cần kiệm, khắc khổ, cho rằng nữ sắc là gốc của tai hoạ, sản sinh ra dục nhiễm, suốt đời không nh́n mặt nữ giới; không v́ nữ giới nói pháp, không tiếp nhận vật thực nữ giới cúng dường, không cho người nữ vào pḥng của ḿnh, lúc lâm chung, có mấy nữ đệ tử đến hỏi thăm t́nh h́nh bệnh tật và hậu cận, đại sư ở trong pḥng biết được, bảo các cô không được bước vào, không cho các cô thấy mặt.

B́nh luận:

Trong giới luật cũng cho phép v́ người nữ thuyết pháp, nhưng phải thận trọng, không được cười đùa cho đối phương thấy răng của thầy, cũng không cho phép nói nhiều, nhưng đạo sư Đại Lâm th́ tuyệt đối không v́ những người nữ thuyết pháp, tựa hồ nghiêm khắc thái quá. Nhưng, là thời kỳ mạt pháp, tâm người không tốt, giới luật suy vi, căn bản không phải không yên ḷng người xuất gia v́ người nữ thuyết pháp, chỉ sợ người xuất gia v́ người nữ thuyết pháp rồi mê đắm, ái nhiễm mà thôi. Giống như phong cách của Thiền sư Đạo Lâm đây, kẻ hậu học có thể lấy làm gương .

2.6. Nỗ lực bảo vệ chánh điện, thiền đường

Đời nhà Đường (618-907), tỉnh Thuỷ Châu, chùa Hương Lâm, có đại sư Huệ Chủ.

Đại sư Huệ Chủ, người huyện Vĩnh Quy, tỉnh Thuỷ Châu, chuyên tâm tinh nghiêm nghiên cứu giới luật, ở tại chùa Thanh Lâm. Có một ngày, Lăng Dương Công đến Ích Châu. Lăng Dương Công xưa nay đối với Phật pháp không một chút tín ngưỡng, cho nên đem hơn một trăm cặp lừa, la dẫn vào trong chùa, sắp đặt ở đại điện, giảng đường, Tăng xá v.v… Trong chùa không một người nào dám chống cự. Đại sư Huệ Chủ từ trong thôn lạc trở về sau, thấy t́nh h́nh tạp loạn, bẩn thỉu, lập tức vào trong pḥng mang tích trượng và ba chiếc áo cà sa ra, nói lớn : “Chết sống hôm nay nhờ trời quyết định”!. Nói xong sư cầm tích trượng đánh đuổi lừa, la ra khỏi chùa; lừa, la bị Ngài đánh hôn mê ngă lăn trên đất, tựa như chết ngất đi một chập. Đại sư Huệ Chủ giơ tay lùa những lừa, la bỏ vào trong một hố lớn. Quan huyện địa phương biết sự việc này, vô cùng hoảng sợ, bắt đại sư Huệ Chủ đến chỗ Lăng Dương Công tŕnh phán tội.

Không thể ngờ rằng, Lăng Dương Công không những không trách phạt gia h́nh, mà c̣n hoan hỷ nói rằng: “Nhờ ơn luật sư đây khai thị, phá bỏ tâm tham dục, bủn xỉn hà tiện của con, từ đây con học hỏi sự giáo huấn của Ngài, được ích lợi không nhỏ.” Thế rồi tặng cho đại sư 10 cân trầm hương, 10 đoạn vải trừu. Sau trở về kinh thành, lại theo đại sư thọ Bồ Tát giới.

2.7. Đuổi các cô ni ngang ngược

Đời nhà Đường (618-907 ),ở kinh sư, Chùa Phổ Quang, pháp sư Huệ Măn.

Pháp sư Huệ Măn, người Ung Châu, 7 tuổi xuất gia, sau phụng thánh chỉ của Hoàng Đế trú tŕ chùa Hoằng Tế, đó thời gian các ni cô chùa Chứng Quả ở cung đ́nh thường ra vào, ngang ngược không cấm kị, và chiếm giữ chùa Ḥa thượng làm am ni giới. Đại sư Huệ Măn triệu tập đại chúng đuổi các cô đi, các ni sư đi vào tŕnh bày cáo trạng với đông cung thái tử, thái tử phái Di Chiêm Sự (tên quan chưởng quản đông cung sự vụ) Đỗ Chính Luân v.v… ra giải vây. Đại Sư Huệ Măn vẫn kiên tŕ đuổi các sư cô đi, mọi người sợ việc này tiếp tục sẽ chọc tức đến đại cung, chuốc lấy tai ương, thế là miễn cưỡng vứt bỏ thể diện theo cùng ni sư. Đại sư liên tiếp mấy ngày than thở không vui, sau các ni sư đến yết bái đại sư, tạ tội sám hối, đại sư vẫn đi thẳng, không ngó đến quư cô.

2.8. Không nhận sách tiên

Đời nhà Đường (618-907), tỉnh Minh Châu, núi Đại Mai, Pháp sư Pháp Thường.

Pháp sư người Tương Dương, tính t́nh cương trực nhạy bén, xưa nay vẫn đắp nạp y, dùng bát đất, mỗi ngày ăn một bữa vào sáng sớm mà thôi, suốt đời không thay đổi. Vào đời Đường Đức Tông (lên ngôi năm 780), niên hiệu Trinh Nguyên thứ 12 (797), sư từ núi Thiên Thai đến núi Đại Mai. Mai sơn là nơi tiên nhân Mai Phước, triều nhà Hán, ẩn cư tu hành. (Thuở xưa Mai Tử Trực cũng vào núi, thấy nhiều long huyệt, thần xà, mỗi khi nhả khí ra là thành lâu các, mây mưa tối tăm, bên trong khối đá có cất chứa kinh sách Tiên dược). Đại sư thường nghĩ đêm trong pḥng của Mai Phước ở ngày trước. Có một hôm sư mộng thấy thần nhân nói rằng : “Ngài không phải là người b́nh thường, ở trong khối đá này có tiên thư (ghi chép những sự việc quá khứ, tương lai), ngài xem rồi có thể làm chủ vương đế, không làm Hoàng đế, cũng có thể làm quốc sư cho Hoàng đế”.

Đại sư Pháp Thường nói : “Đây không phải là cái mà tôi hướng về, trước đây đại sư Tăng Trù, đời nhà Tề, tu thiền ở trong núi Tây Vương, Hoài Châu, nghe thấy hai con hổ dữ đánh nhau, gầm thét chấn động núi rừng, liền dùng tích trượng ngăn cách chúng ra, hoá giải trận đấu của hai con hổ, sau khi hai con hổ mỗi con tự giải tán rút lui, chốc lát bổng nhiên có một vị tiên cầm hai quyển kinh xuất hiện ở trên giường, Đại sư Tăng Trù nói : “Tôi vốn xưa nay tu tập theo đạo Phật há lại mong cầu người trường sanh sao?. Tôi tuy có truy cầu bất sanh bất diệt, nhưng mà là cái bất sanh bất diệt của Niết bàn vô dư, vô thượng mới là tốt hơn hết.” Thần nhân nghe xong vô cùng bội phục, hết lời tán thán.

2.9. Đóng cửa từ con

Đời nhà Đường, ở Lạc Kinh, chùa Quảng Ái, pháp sư Tùng Gián, người Nam Dương, xuất gia lúc tuổi tráng niên, không bao lâu đốn ngộ chơn lư chân không diệu hữu. Đời Đường Vơ Tông (841-847), niên hiệu Hội Xương thứ năm (846), huỷ báng đạo trời, triệt hạ chùa Phật, bắt Tăng ni phải hoàn tục, Phật pháp lâm vào đại nạn, bị tàn phá, huỷ hoại, bài xích, đại sư trốn đến ẩn cư trong biệt thự suối nước nóng ở Hoàng Phủ Mai. Đường Tuyên Tôn lên ngôi (847), niên hiệu Đại Trung, năm thứ nhất, khôi phục Phật giáo. Ngay sau đó sư trở lại Lạc Dương, chỗ ở ngày trước. Đứa con của ngài (lúc chưa đi tu ngài đă có gia đ́nh) từ Quảng Lăng đến thăm ngài. Ngài gặp nó ở cửa chùa, v́ không nhận ra ngài, nó hỏi : “Đại Sư Tùng Gián ở đâu ?”, đại sư Tùng Gián biết rơ là con ḿnh nên từ chối không nhận chỉ tay về bên hướng đông nam, con ngài hướng về phía đông nam đi t́m. Đại sư Tùng Gián ngay sau đó đóng cửa không tái xuất đi lại. Nén đau, cắt ái như vậy không gặp mặt đứa con thân sinh, công phu này không phải người b́nh thường có thể làm được .

2.10. Kháng cự bất khuất

Triều đại nhà Đường, ở kinh sư, chùa Đại Tổng Tŕ, có pháp sư Trí Thật.

Đại sư Trí Thật lúc ở Lạc Dương, vua Đường Thái Tông* lâm hạnh** Lạc Dương. Thuở ấy, v́ mê phương thuật của đạo giáo cho nên đạo giáo rất được sủng ái, vua hạ chiếu lệnh, danh vị Đạo sĩ cùng với Tề cung hạnh phải đứng trước mặt Tăng lữ. Tăng nhân ở Lạc Ấp trần thuật, dâng lời can gián, nhưng quan đương sự không chấp nhận. Đại sư Trí Thật thấy Hoàng đế giá lâm liền dâng biểu trần tấu, luận rơ những sai lầm to lớn, Hoàng đế mệnh lệnh cho tể tướng Sầm Văn Bổn viết thư chỉ trích đại sư, đại sư chọn điều thiện, cố chấp không chịu vâng theo chiếu lệnh của Hoàng đế. Hoàng đế rất giận, trong buổi đường triều sử phạt đại sư, cho người dùng cây đánh ngài, lột bỏ y phục của ngài, cho ngài mặc y phục của thường dân, rồi bắt đi đày đến địa phương Lănh Nam. Có người chê cười đại sư không biết tự lượng sức ḿnh, không biết tiến thoái, đại sư nói : “Tôi xưa nay vẫn biết không có cách ǵ chuyển biến cuộc thế trước đạo sau Tăng, nhưng v́ sao tôi cứ như lư mà tranh đấu cho mục đích, là v́ muốn để cho người đời sau biết rằng vào triều Đại Đường có một Ḥa thượng thà chịu chết không chịu khuất phục trước uy vũ và cố giữ lấy điều đúng”. Nghe đến những lời này ai nấy đều tán thán, bội phục không thôi.

2.11. Pḥng tâm ly quá

Triều đại nhà Tống (960-1279), ở Biện Kinh (tức phủ Khai phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc ngày nay), chùa Pháp Vân, có Thiền sư Thiện Bổn.

Thiền sư Thiện Bổn họ Đổng, là con cháu đời sau của Đổng Trọng Thư, tể tướng triều nhà Hán (947-950), bác học quần thư, quy y ở chùa Huệ Lâm, xuất gia với Thiền sư Viên Chiếu Tông Bản.

Thời Tống Triết Tông (1086-1101), Sư trụ tŕ chùa Pháp Vân, vua ban cho hiệu Đại Tống Thiền sư. Ngày thường, không luận làm hay nghỉ điều đoan chính nghiêm trang, mắt không hề liếc đi chỗ khác. Lănh chúng được 3 năm, chưa từng cười nói tuỳ tiện. Bất cứ đi đến chỗ nào, thấy tượng Phật, Bồ Tát Sư chỉ đứng tuyệt đối không dám ngồi; rau cải, trái cây biến chế gọi là thịt cá, vật liệu thức ăn chay mà gọi tên đồ mặn th́ không ăn. Công phu tu tập của đại sư luôn pḥng tâm không cho nó đi quá xa trong sự tham muốn, lỗi lầm, ngăn ngừa cẩn thận nghiêm khắc như vậy.

Đời Tống Huy Tông (1101-1126), niên hiệu Đại Quán (1107-1110) thứ 3 (1109), ngày giáp tư, tháng 12, đột nhiên Sư nói với mọi người rằng : “Ta chỉ c̣n ba ngày thôi”. 3 ngày sau quả nhiên ngài thị tịch. Người đời gọi đại sư Viên Chiếu Tông Bổn là Đại Bổn, Thiền sư Thiện Bổn gọi là Tiểu Bổn v.v…

B́nh luận:

Công phu “pḥng tâm ly quá” đến như vậy, người xưa cho rằng là Thánh Hiền, người ngày nay cho là cổ hủ, lạc hậu, thật là đáng buồn thay.

2.12. Suốt đêm chấp tay

Triều đại nhà tống, ở Lô Sơn, chùa Viên Thông, có Thiền sư Cư Nột. Sư thường hay nhập định, pháp tướng rất đặt biệt. Lúc đầu hôm, hai tay đan chéo vào nhau ngồi yên lặng; đến nửa đêm hai tay chấp lại từ từ đưa cao lên đến giữa ngực, thị giả mỗi khi thấy hai tay đại sư đưa lên đến giữa ngực là biết gà sẽ gáy lần đầu. Người cầu pháp phải nên chuyên tâm nhất trí như vậy.

2.13. Không nói chuyện đời

Triều đại nhà Tống, Thiền sư Quang Hiếu An, trụ tŕ chùa Thanh Thái.

Có một hôm ngài nhập định, trong định ngài thấy hai vị Tăng dựa lan can nói chuyện. Lúc đầu, có thiên thần ủng hộ, bảo vệ, cung kính nghe họ đàm luận, ít lâu sau thiên thần bỏ đi, không bao lâu lại nghe ác quỷ ở hai bên không tiếc lời mắng chửi họ, quét sạch những dấu chân họ đi qua. Sau khi xuất định Ngài truy cứu sự việc, kết quả, nguyên do là hai vị Tăng lúc đầu thảo luận Phật pháp, do đó thiên thần hộ vệ đến nghe, tiếp đến lại nói chuyện nhà trước đây, rồi sau nói đến sự việc cúng dường tài vật, ác quỷ nghe thấy cũng không tiếc lời thoá mạ. An Thiền sư ngay sau đó, phát nguyện suốt đời không nói đến chuyện thế tục.

B́nh luận:

Người xưa v́ sinh tử đại sự hành cước tham vấn, vừa mới gặp được thầy bạn liền vội vàng đàm luận thưa hỏi một việt lớn này, đâu có thời gian để thảo luận mấy chuyện vụn vặt của thế gian kia? Người ngày nay, suốt ngày nói những chuyện lộn xộn, không có ǵ để nói. Lại cho rằng phải khó lắm mới t́m được trường hợp giống như hai vị Tăng này, nghĩ rằng quỷ thần đâu phải lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta, họ lại làm ǵ được nào? Thực tại thật đáng sợ thay!

2.14. Thấy lỗi của Tăng

Thế tục có ngạn ngữ: “Người đời không nên thấy lỗi lầm của người xuất gia, thấy hoặc nói sẽ có tội”. Nhưng Khổng Phu Tử là thánh nhân, ông c̣n vui mừng khi người khác biết lỗi lầm của ông, chỉ trích ông. Tử Lộ là một người hiền, cũng vui mừng khi người khác nói lỗi lầm của ông. Là người xuất gia lại sợ người khác biết lỗi lầm của ḿnh mà không muốn nghe hay sao? Cần biết rằng, không nên chỉ thấy một mặt lỗi lầm của người xuất gia, đây là đối với người tại gia mà nói. Người xuất gia dựa vào câu nói nầy làm xằng làm bậy không một chút sợ sệt. Như vậy, cái câu nói này trở thành lương dược của người tại gia mà độc dược của người xuất gia, thật đáng buồn thay!

2.15. Môn đ́nh cao tuấn

Người xưa nói ư nghĩa của “Cửa đ́nh cao lớn” là giống như cư sĩ Duy Ma Cật thị hiện có bệnh, Phật sai quư thầy A-la-hán đi đến hỏi thăm, quư thầy A-la-hán mỗi người đều nêu lư do nói rằng họ không có tư cách đi thăm hỏi cư sĩ Duy Ma Cật. Bồ tát Văn Thù cũng nói: “Vị đại đức này rất khó ứng phó”, h́nh ảnh này gọi là “Môn đ́nh cao tuấn”. Sau này, chư đại tôn sư thiền tông, lúc người học đạo tham vấn, hoặc dùng cây đánh, hoặc thét lên thật lớn, hoặc đưa lên một ngón tay, hoặc trương cung lên muốn dùng tên bắn người, hoặc buông một câu nói, một khẩu ngữ, ví như mộc tai làm canh không có cách ǵ ăn được, lại giống như Thái a bảo kiếm, không thể sờ vào được (kiếm rất bén, sờ vào liền bị chảy máu), lại giống như ánh trăng trong nước, không thể nắm bắt được, nếu như không phải là kẻ tham học lâu ngày, công phu đă sâu, không dám lên cửa cầu giáo huấn, giống như trường hợp nầy gọi là “Môn đ́nh cao tuấn”. Kỳ thật, tôn sư b́nh đẳng thật ḷng tiếp người, tuyệt đối không cố ư làm nên cao lớn nghiêm khắc. Nhưng do tâm người học bị đánh tự đề cao lên, một cách tự nhiên sinh ḷng kính sợ. Đâu phải cố ư nâng cao tư thế, khiến oai phong, lời lẽ to lớn, sắc mặt nghiêm khắc, biểu hiện dáng vẻ bề ngoài nghiêm khắc, oai nộ mà cho là “Môn đ́nh cao tuấn” hay sao?

2.16. Người xuất gia đua theo việc học thế tục

Học vấn của nhà nho lấy các sách Lục kinh (thư, thơ, dịch, lễ, nhạc, xuân thu), Luận ngữ, Mạnh tử, làm chuẩn, và người học Lăo Trang thậm chí kinh Phật cũng cấm hẳn không cho học, chỉ chuyên nghiên cứu học hỏi một môn, đó là đạo lư chính đáng, không có ǵ lấy làm lạ. Làm người xuất gia cũng phải giống như thế, nên chuyên nhất một việc tu hành th́ mới mong thành tựu. Nhưng ngày nay, có nhiều Hoà thượng không đọc tụng kinh Phật mà đọc sách nhà nho, đọc sách nhà nho chưa đủ, thậm chí c̣n đọc Lăo Tử, Lăo Trang, người thông minh tinh sảo một chút lại thêm chú giải, viết sớ giải thích. Vậy c̣n chưa đủ, lại học làm thơ, sáng tác văn chương, học thư pháp, học thư tín…. Học toàn những thứ không đâu này đều chướng ngại cho việc học đạo. Xưa nay, chư vị tổ sư có người bác thông Nho gia, Lăo, Trang, thậm chí giỏi thơ từ, chữ, hoạ, là dùng để độ sanh, đó là v́ các ngài đă nắm lấy sự sống chết của các ngài rồi, học Phật đă đến chỗ tinh thâm, không hại đến du hí tam muội, để rộng hoá duyên. Người bây giờ việc sanh tử chưa xong mà đua theo việc học bên ngoài, đó là một hiện tượng suy vi của Phật pháp, thật không thuốc chữa!

Người xuất gia lại có người làm thầy địa lư, làm thầy bói quẻ, xem tướng số mệnh, làm thầy thuốc, làm thầy thuốc khoa phụ nữ, làm thầy phù thuỷ, đốt lửa luyện ch́, luyện thuỷ ngân … thời kỳ mạt pháp những sự tai hại thực tại rất nhiều. Hoặc có người nói : “Đại sư Bách Trượng Hoài Hải sai Tư Mă Đầu Đà tuyển chọn một đạo tràng có thể xây dựng cho 500 vị Tăng tu hành, liền t́m được đạo tràng Quy Sơn. Đây là nhờ công lao của thầy địa lư! Tiếp theo lại tuyển chọn trụ tŕ đạo tràng Quy Sơn và đă chọn được Thiền sư Đại Hữu, vị Tăng tài này không thể có nhiều được, đó là công lao của tướng sĩ ! V́ sao lại nói như vậy?” Ôi, đó là thánh hiền thửa xưa v́ xiển dương Phật pháp, phổ lợi quần sanh mà tuỳ thuận cơ duyên và phương tiện thôi! không phải chỗ cho hàng phàm phu tục tử có thể hiểu và đo lường được, huống chi Thiền sư Bách Trượng, Tư Mă Đầu Đà là hai người thuộc về nhân vật nào há có thể để cho những thầy địa lư, tướng sĩ… đem ra so sánh !?

TỔNG LUẬN

Có lẽ có người sẽ nói như vậy: “Tăng” có nghĩa là “lục hoà kính”, và c̣n phải tu nhẫn nhục, chịu đựng nên không thể có chữ “nghiêm”. Đây là không hiểu ư nghĩa chữ “nghiêm” mà tôi nói. Tôi nói “nghiêm” không phải “nghiêm khắc” mà là “nghiêm chính”! Dùng hạnh nghiêm chính để thâu nhiếp thân tâm, th́ tâm sẽ được chính; dùng hạnh nghiêm chính để nắm giữ chánh pháp th́ đạo phong pháp môn có thể tự ḿnh gây dựng lên sự nghiệp. Nếu như biểu hiện hành vi cử chỉ kỳ lạ đặc biệt để cầu danh dự, làm điều hung ác, bạo ngược để tỏ rỏ oai phong của ḿnh và cho đó là nghiêm chính, thực tại là có khác biệt một trời một vực, người xuất gia không thể không phân biệt rơ ràng!

* Có lẽ tác giả nhầm, niên hiệu Khai Hoàng là vua Tuỳ Văn Đế, ở ngôi 20 năm (581-601), c̣n Tuỳ Dạng Đế lên ngôi năm 605, niên hiệu Đại nghiệp.

* Nhà có danh vọng xưa nay.

* 627-650

** Nơi hoàng đế đến gọi là lâm hạnh


c̣n tiếp
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 3 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:27am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Không biết các bạn có thấy nên tiếp tục hay không vậy!!
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:40am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang

Kính bạn Toithichhoc!
Bài mà bạn post thật có ư nghĩa. Việc này không phải chưa từng có, nhưng hiện nay là thời mạt pháp mà Đức Thế Tôn đă huyền kỳ lại, vần đề càng nổi trội và lộ rơ khiến cho mọi người Phật tử phải nh́n nhận và xem xét lại.
Chúng ta không nên phỉ báng họ hay chỉ trích họ, dẫu sao họ cũng là Bậc Tăng già. Nhưng có thể trong đó sẽ ẩn tàng nhiều Bậc Cao Tăng Đại Đức tu hành chân chính thúc liễm thân tâm mà chúng ta khó nhận biết, đơn cử như: Tế Công Hoà Thượng-Ngài là Bậc A La Hán nhưng bản thân không lộ chân tướng, cứ ngỡ Ngài bậc không tu hành ǵ cà. Hăy cẩn trọng, hăy suy xét kỹ,Thân - khẩu -ư nghiệp; nó tạo ra công đức và cũng có thể phá huỷ rừng công đức như chơi mà ta đă tích luỹ bấy lâu. Đây không là lời cho bạn hay cho tôi mà cho tất cả mọi người tu học Phật Pháp cần suy xét và suy gẫm kỹ. Hăy buông bỏ mở rộng và bao dung hơn, v́ tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. Cùng nhau chúng ta phát lời thệ nguyện này nhe bạn: " Con Nguyện Mến Thương MUôn Loài ".

Vài lời trao đổi cùng bạn, xin bạn cứ post tiếp, thành thực xin lỗi v́ đă xen vào bài đang post dở của bạn.
Kính chúc bạn vạn sự kiết tường
Phổ Quảng
kính
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 5 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:47am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

III - Cao Thượng


3.1. Trốn chạy sự ân sủng vào núi

Triều nhà Tấn, tại Trường An, có sư Đạo Hằng.

Vua Diêu Hưng, nước Diêu Tần (Hậu Tần, tên nước thời nhà Chu), thường xuống chiếu ép sư hoàn tục tham gia triều chính, giúp đỡ việc cai trị thiên hạ. (Bởi v́ sư Đạo Hằng có rất nhiều tài, đa văn, vơ dũng, học vấn nội ngoại tinh thông, Diêu Hưng thấy Ngài khôi ngô tuấn tú, lại có tài sử trị việc nước, cho nên ép sư hoàn tục để trợ giúp việc chấn chỉnh vương nghiệp của ḿnh), nhưng sư nhất định từ chối không chịu. Hao tổn, phiền phức rất nhiều, giằng co qua lại với nhau, cuối cùng được tha, sư liền cảm thán mấy câu rằng:

“Người xưa có nói một câu: Muốn giàu có tiền bạc cho ḿnh, muốn làm lớn mạnh thế lực cho ḿnh tất phải hao tổn tinh thần của ḿnh; muốn làm lớn mạnh danh vọng của ḿnh có thể sẽ tạo thành hoạ sát thân ḿnh!”

Thế là suốt đời sư ẩn cư trong núi, lấy cỏ cây hoa trái làm thức ăn nuôi thân, lấy thiền định làm thức ăn nuôi dưỡng huệ mạng, suốt đời không ra khỏi núi.

3.2. Người hầu thanh nhă

Triều nhà Tấn, tại Lô Sơn, có sư Huệ Vĩnh và Huệ Viễn cùng ở tại Lô Sơn Liên Xă, tỉnh Giang Tây. Tướng Quân Hà Vô Kị, trấn Nam, trấn giữ Cửu Giang, Giang Tây, có một đôi lần tại tiệc rượu Hổ Khê, mời sư Huệ Vĩnh và Huệ Viễn giá lâm. Đi theo sư Viễn có hơn 100 vị, mỗi mỗi điều đoan trang nghiêm chỉnh, nho nhă lễ phép; nhưng sư Vĩnh th́ đắp một chiếc y củ nát, vá khâu nhiều chỗ và một đôi giày cỏ, tay cầm tích trượng, ôm bát nhẹ nhàng, ung dung đi đến, thần khí tự tại, như như. Hà Vô Kị nói với mọi người: “Đại sư Huệ Vĩnh có phong cách thanh cao, siêu thoát ra ngoài trần tục, so với sư Viễn chỉ có hơn chứ không có kém!”.

B́nh luận:

Tuỳ tùng của sư Viễn hơn một trăm người, đều là những nhân tài và đức độ của Liên Xă, mà Hà Vô Kị c̣n phê b́nh, khen chê; nếu như người xuất gia ngày nay nuôi người ăn ở, cầm dù, gánh rương(xách vali), vội vàng t́m người phú quư, đi với những người có vị trí cao hơn ḿnh, Hà Vô Kị trông thấy cảnh tượng này, không biết lại phê binh như thế nào đây !

3.3. Không thọ hưởng sự cúng dường của vua

Đời Diêu Tần, tại Trường An, có đại sư Phật Đà Da-Xá, lúc ở tại Cô Tạng (nay là tỉnh Cam Túc), vua Diêu Hưng sai di sứ đến thăm hỏi và tặng nhiều lễ vật quí trọng nhưng sư điều không nhận. Khi sư đến Trường An, vua Diêu Hưng đích thân ra đón tiếp, đặc biệt kiến lập công thự mới trong nhà khách tại vườn Tiêu Diêu, cung cấp cho sư vật thực ăn uống, y phục, toạ cụ, thuốc men,… tứ sự cúng dường nhưng sư đều không nhận. Đến giờ chỉ ăn một lần (vào giờ ngọ). Y phục, ngọa cụ cúng dường cho sư chất đầy ba pḥng, từ trước đến nay sư không dùng chúng, vua Diêu Hưng liền sai người đem bán, số tiền thu được xây một ngôi chùa ở Nam thành.

3.4. Vua đến không đón, đưa

Thời Bắc Triều, nước Tề (479-502), tại Nghiệp Tây, Long Sơn, chùa Vân Môn, có sư Tăng Trù.

Vua nước Tề, Văn Tuyên Đế, thường hay dẫn tuỳ tùng tả hữu và thị vệ đến chùa thăm hỏi và thỉnh giáo sư, sư xưa nay vẫn ngồi trong pḥng nhỏ, không đi đón tiếp cũng không đưa tiễn; đệ tử của sư khuyên sư nên đối đăi với Hoàng Đế ân cần một chút, nên đi đón tiếp, đưa tiễn, sư trả lời:

“Ngày xưa, tôn giả Tân Đầu Lô*, đi bảy bước đón tiếp vua Ưu Điền, khiến cho vua bảy năm mất nước, ta nay đức hạnh kém cơi, so với tôn giả Tân Đầu Lô th́ không bằng, nhưng cũng không dám phá hoại h́nh tướng tôn quư của người xuất gia, chỉ hy vọng rằng Hoàng đế nhân v́ cung kính Tam Bảo mà được phước báo”.

Người trong thiên hạ đối với đức hạnh, tiết tháo của sư lại càng thêm cung kính, gọi sư là Trù thiền sư.

3.5. Không giao du với người phú quư

Thời Nam triều, đời Nhà Lương (502-557), tại Chung Sơn, chùa Tống Hi, có sư Trí Hân, người Kiến Khương, Sơn Dương. Sư diễn giảng nghĩa kinh, danh đồn khắp nước. Vua Tề Vũ Đế, niên Hiệu Vĩnh Minh (483-494) năm cuối, thái tử thường hay đến dự lễ Tỉnh điền ở Đông thành, một đôi lần có ghé đến chùa lễ bái, thăm hỏi sư Trí Hân, sư thoái thác rằng có bệnh không thể tiếp khách, ẩn cư trong Chung Sơn, nhởn nhơ an nhàn. Sư không lui tới giao tiếp với người phú quư, phong cách thanh cao rất khác người đời. Từ xưa đă không cất giữ vật dụng, tiền bạc cúng dường cho sư đều đem đi xây dựng, tu sửa chùa viện.

3.6. Không dẫn đường cho giặc

Triều nhà Tuỳ (581-618), tại Kinh Châu, núi Thanh Khê, có sư Đạo Duyệt, người Kinh Châu, sư thường tŕ tụng kinh Bát Nhă. Lúc sư c̣n trú tŕ chùa Ngọc Tuyền, gặp bọn Ngưu Sán tạo phản, chạy vào chùa sư, vơ vét hết tài sản lương thực lại muốn giết chết cả sư, sư Đạo Duyệt không một chút sợ hải; bọn loạn tặc thấy sư không một chút sợ hăi th́ không giết, gọi sư dẫn đường đi đến nơi bí mật, sư đi mấy bước rồi ngồi xuống đất nói: “Ta là người xuất gia, không phải là người dẫn đường, thân thể của ta do bốn đại hư huyễn mà hợp thành, muốn giết cứ giết”. Ngưu Sán hết sức kinh hăi và khâm phục chí tiết cao thượng của sư, liền đưa sư về chùa.

3.7. Không vào cung

Triều nhà Đường, Tăng thống nước Tân La, pháp sư Từ Tạng (Tân La ngày nay là Hàn Quốc), thường thầm lặng siêng tu Phật pháp, sau đó có cảm ứng hiển hiện, mọi người đều kính phục. Quốc Vương mấy lần triệu sư vào cung, sư đều không đi, quốc vương rất giận, mệnh lệnh đem sư giam ở nhà tù trong núi, chuẩn bị đem sư đi giết. Sư nói với tên sứ giả rằng: “Ta thà giữ giới một ngày mà chết chứ không sống một đời phá giới”. Sứ giả nghe nói rất cảm động, không nỡ tâm giết sư, viết biểu tấu tŕnh sự việc lên quốc vương, nhà vua cuối cùng cũng cảm động phong cách của sư mà tha tội.

3.8. Thà chết không đứng dậy

Triều nhà Đường, tại B́ Châu, núi Song Phong, có thiền sư Đạo Tín, Tổ thứ tư thiền tông, trú tŕ chùa Song Phong, Hoàng Mai (nay là tỉnh Hồ Bắc), hơn 30 năm. Vào niên hiệu Trinh Quán (627-650), vua Đường Thái Tông ba lần xuống chiếu mời sư đến thủ đô. Một cách nh́n thông thái, Tứ Tổ đều thoái thác có bệnh, từ chối không đi. Hoàng đế mệnh lệnh cho sứ giả nếu như lần này không vào kinh th́ sẽ lấy đầu Tứ Tổ. Khi sứ giả đến Tổ đưa cổ ra cho chém, không một chút sợ hăi. Sứ giả đem việc này bẩm báo lên Hoàng Đế, Đường Thái Tông than thở không thôi, cuối cùng không làm khó Tổ nữa lại c̣n đem những tơ lụa quư hiếm tặng cho Tổ. Cuối đời Tổ ở hẳn trong núi.

B́nh luận:

Nghiêm Tử Lăng trước sống ở Đông Hán, người Diêu, họ Nghiêm, tên Quang, Tự Tử Lăng, lúc nhỏ cùng với vua Quang Vũ Đế, nhà Hán đi du học. Quang Vũ lên ngôi, Tử Lăng ẩn thân đổi tên biệt tung tích, vua sai người đi t́m, khổ cực lắm mới t́m được đem về triều làm quan phụ tá vương nghiệp, nhưng ông ta cự tuyệt không chịu về, chỉ thích cày ruộng ở núi Phú Xuân. Triều nhà Tống, ở Lạc Dương, Có Nhân Chủng Phóng, ẩn cư ở Chung Nam, ghiền rượu cùng canh, tự hiệu là Vân Khê tuư tửu. Thời Tống Chơn Tông (998-1023), vua mời ông làm Tả Tư Giám, ông t́m cách từ chối về núi. Sau đến đời tống Nhân Tông (con Chơn Tông) lên ngôi (1023-1064), ông cũng cự tuyệt không nhận lời mời. Phong cách của hai người này, bất quá chỉ là phong cách của những ẩn sĩ mà thôi, đă thanh cao, nhưng vẫn chưa nghe qua việc uy vũ ép bức đến chết vẫn thản nhiên cự tuyệt không nhận! Phong cách thanh cao này, quả giống như loan phượng bay vút trên bầu trời cao, thật tại chỉ nh́n thấy mịt mờ không dấu tích, không bao giờ theo kịp! Tứ Tổ là người vô cùng vĩ đại sư Từ Tạng cũng là người vô cùng vĩ đại!

3.9. Ba lần xuống chiếu mời vào cung đều từ chối

Triều nhà Đường, tại Phần Châu, chùa Khai Nguyên, có sư Vô Nghiệp, người Ung Châu, Xiểm Tây.

Vua Đường Mục Tông (821-825) phái Di Tả Nhai Tăng Lục (tên vị Tăng làm quan, bắt đầu có chức quan này từ thời Diêu Hưng, nước Tần, đến đời Đường lại phân làm hai, tả hữu Nhai Tăng Lục, giữ chùa, miếu, thế độ và quan hệ với những vị quan chức), mang chiếu thư đi thỉnh sư vào kinh. Sư cười nói: “Bần Đạo không có đức hạnh ǵ, rất lấy làm hổ thẹn phải làm phiền đến Hoàng thượng mời thỉnh, lần này tôi không thể từ chối, xin Ngài đi trước, tôi sẽ theo sau”.

Sau đó sư tắm gội thân thể, trải toạ cụ ngồi ngay ngắn, xong gọi đồ chúng lại, nói:

“Các người mắt thấy tai nghe, thân thể xúc chạm có cảm giác, ư thức biết căn tánh, th́ măi măi không để giảm sút, và phải giống hư không vô cùng vô tận (tức thức căn hoặc có huỷ diệt nhưng thức tánh bất diệt), hết thảy các hiện tượng bên ngoài chỉ là sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh ra sáu thức hư vọng huyễn hoá mà thôi, vạn pháp chỉ có thức và do nhân duyên tạo thành nên bản tánh vốn không, tự tánh bản thể th́ một hạt bụi không nhiễm, phổ biến khắp pháp giới, chỉ cần thấy rơ hết thảy đều là tâm th́ diệt trừ được vọng tưởng phân biệt, hết thảy cảnh giới đều giống như hư không. Chúng sanh do v́ vô minh không tỏ ngộ, bị ngoại cảnh mê hoặc, trôi lăn theo ḍng chảy luân hồi trong sáu nẻo, ba cơi, tiếp nối từ đời này sang đời khác không có chấm dứt. Nếu như có thể y theo lời ta đă dạy ở trên, thường cố gắng tu tập để hiểu rơ hết thảy các pháp như huyễn, như mộng, không có một pháp nào có thể phân biệt và nắm giữ, th́ yên tâm ở chỗ chư Phật, tức là đă khế hợp với tâm pháp của chư Phật”.

Nói xong, sư ngồi ngay thẳng đến nửa đêm th́ viên tịch. Linh Chuẩn trở về kinh, đem sự việc này tŕnh tấu Hoàng thượng, Hoàng đế vô cùng cảm động, truy phong cho sư làm Đại Đạt Quốc Sư. Hai thời vua Đường Hiến Tông (806-821) và Đường Mục Tông (821-825) tổng cộng có ba lần xuống chiếu mời thỉnh sư Vô Nghiệp, sư đều từ chối.

3.10. Chiếu thư đến không đứng lên

Triều nhà Đường, ở Nhuận Châu, núi Ngưu Đầu, có sư Pháp Dung, ẩn cư ở phía Nam kinh, núi Ngưu Đầu (Ngưu thủ sơn), Hoàng thượng biết danh tiếng của sư, sai di sứ mời sư vào cung gặp mặt, lúc sứ giả đến núi Ngưu Đầu, sư đang ngồi trên đất, đốt phân ḅ, nướng khoai lang ăn. Trời rất lạnh, nước mũi chảy đầy mặt. Sứ giả nói: “Có chiếu lệnh của Hoàng đế đến, mời tôn giả đứng lên nghe thánh chỉ”. Sư vẫn điềm nhiên chú ư nướng khoai mà không hỏi ông ta. Sứ giả cười nói: “Nước mũi chảy đầy trên mặt Ngài rồi ḱa!” Sư nói: “Ta đâu có rảnh công phu v́ người thế tục lau mũi!”. Hoàng thượng nghe việc này khen là hy hữu liền trọng thưởng và biểu dương sư.

3.11. Chịu chết nuôi Tăng chúng

Đời nhà Đường, tại Cổn Châu, Chùa Pháp Tập, có sư Pháp Xung, người Thành Kỷ, Lăng Tây. Vua Đường Thái Tông, niên hiệu Trinh Quán năm đầu (627), hạ lệnh một ḿnh độ người xuất gia, phạm tội tử h́nh. Bấy giờ ở núi Dịch Dương, có rất nhiều người không có độ điệp (chứng điệp) của quốc gia cấp phát làm người xuất gia, sư Pháp Xung đều thâu nhận hết, nhưng v́ người đông, lương thực thiếu hụt. Sư liền đi đến gặp vị trưởng châu, nói: “Tôi đến đây xin được chịu trách nhiệm xử chết, chỉ xin Ngài bố thí cho lương thực để cứu giúp người xuất gia an tâm tu tập, suốt đời ngài sẽ được phước báo và được sự chở che của Tam Bảo”. Châu trưởng rất vui mừng, khen ngợi chí khí của sư, dám chịu phạm vào luật pháp để cứu mọi người.

3.12 Không dự yến tiệc

Triều nhà Đường, có Thiền sư Thao Quang, dựng một am tranh ở tịnh tu tại núi Linh Ẩn, Sơn Tây. Thứ sử Hoàng Châu, Bạch Cư Dị, chuẩn bị cơm chay cúng dường, viết một bài thơ thỉnh sư đến thọ cúng. Sư viết một bài kệ gởi lại cho Bạch Cư Dị, từ chối lời mời của ông, trong kệ có câu: “ Chốn phồn hoa đô thị ồn ào, thật không phải là chỗ của người xuất gia chúng tôi lui tới, đi rồi sợ rằng tiếng ca uyển chuyển du dương của chim Hoàng oanh trước Kim ngọc đường cũng sẽ nỗi giận bay đi” . Phong cách của sư là cao siêu như vậy.

B́nh luận:

Ngày xưa, có một vị đại đức đă viết một bài kệ từ chối lời mời dự yến tiệc quyền quư của triều đ́nh, có câu:

“Hôm qua, tôi rất vui mừng khi nhận được lời mời của Ngài, hôm nay tôi cũng muốn đi tham dự yến tiệc, nhưng ra đến cửa, đi được vài bước, dựng cây tích trượng suy nghĩ kỉ một chút, thấy rằng người xuất gia chỉ thích hợp ở trong hang núi, thực sự không thích nghi tham gia yến tiệc của quốc gia đại thần”.

Ư cảnh thanh cao này cùng với sư Thao Quang trước sau thật chẳng khác nhau. Hai bài kệ này người xuất gia nên sớm hôm tụng niệm, kỉ lưỡng xem xét một lần.

3.13. Không nhận y và danh hiệu

Triều nhà Đường, tại Việt Châu, tu viện Thanh Hoá, có Thiền sư Toàn Phó, người Côn Sơn, Ngô Đô. Sư yết bái Thiền sư Nam Tháp Dũng ở Ngưỡng Sơn, Viên Châu, được đốn ngộ tâm pháp*. Sau đó, sư trú tŕ thiền viện Thanh Hoá ở Cáp Hồ Sơn. Vua Trung Hiến Tiền Thị sai di sứ mang áo ca-sa đỏ tặng cho sư, sư dâng biểu lên Hoàng thượng cực lực từ chối không nhận, sứ giả lại mang tới lần nữa, sư lại từ chối, nói :

“Tôi không phải giả trang thiền tướng khiêm nhượng không nhận, tôi chỉ sợ rằng người đời sau đam mê dục vọng lợi danh đầy đủ của ḿnh học theo tôi tiếp nhận sự ban tặng!”.

Sau đó ít lâu, vua Trung Hiến lại ban tặng cho sư Tôn hiệu Thuần Nhất Thiền sư, sư vẫn từ chối không tiếp nhận.

3.14. Dứt khoát từ chối nhận y đỏ

Thời Ngũ Đại, nhà Hậu Hán (947-950), ở Đệ Châu, chùa Khai Nguyên, có sư Hằng Siêu, người Uyển Dương, trú tŕ chùa Khai Nguyên, diễn giảng kinh luận hơn 20 năm. Trước sau các sứ thần nhận chức Mục châu vùng này đều ngưỡng mộ sư, rất nhiều người đến để lại danh thiếp, bày tỏ ư muốn gặp sư, sư sai thị giả thu nhận danh thiếp, nhưng rất ít người được gặp sư chuyện tṛ. Bấy giờ, Quan thủ Lư Công Tố cảm mến phong cách đức hạnh của sư muốn dâng biểu lên Hoàng thượng xin ban tặng áo ca-sa đỏ cho sư. Sư viết một bức thư ngăn cản ông ta, trong thư có đoạn : “Tôi thệ nguyện truyền bá chánh pháp, giảng giải kinh luận cho đến già, không muốn bị cuộc sống danh lợi của thế tục làm cho ô nhiễm”. Lư Công lại một lần nữa sai người đến khuyên sư nên tiếp nhận, sư nhất định từ chối không thay đổi, và nói: “Nếu ngài c̣n đến đây khuyên tôi, tôi sẽ trốn sang Lô Long (nay là tỉnh Hà Bắc, phủ Vĩnh B́nh)”.

Tể tướng Oanh Vương Phùng Đạo biết danh đức của sư, viết thư thăm hỏi và kết giao với sư, sư viết thư đáp lời : “Bần Tăng từ nhỏ đă từ bỏ cha mẹ, lập chí tu hành, chủ yếu là hy vọng được Ngài Di Lặc Bồ tát rũ ḷng từ ái, sau khi mạng chung được sanh lên cung trời Đâu Suất, ở trong nội viện nghe pháp, không muốn lăng truyền hư danh đến tai tể tướng. Tôi tu hành thấy rơ rằng, mọi thứ danh lợi trong đều hư huyễn, không thật!”. Tể tướng xem thư xong lại càng thêm tôn kính sư, dâng biểu lên tấu rơ với triều đ́nh, hậu Hán Cao Tổ liền ban tặng cho sư áo ca-sa đỏ. Ngày sư viên tịch, mọi người đều nghe thấy nhạc trời vang khắp hư không, đây là điều chứng minh sự thật sư được sanh lên cung trời Đâu Suất !

B́nh luận:

Được mặc áo ca-sa đỏ và kết giao với đại quan tể tướng là điều mà người ta thèm khát, hy vọng, nhưng chỉ sợ rằng không được. Vậy mà Toàn Phó thiền sư và Hằng Siêu thiền sư, cả hai vị đại đức đều kiên quyết từ chối, dường như tiếp nhận là một sự sĩ nhục lớn. Tiết tháo thanh cao người ngày nay không thể xâm phạm, có thể chiếu soi thiên cổ, ảnh hưởng đời sau, thật có thể khiến cho những người đam mê, vui sướng kết giao bạn bè với người quyền quư, say đắm lợi danh tỉnh mộng.

3.15. Không thích ở vương cung

Thời Ngũ đại, đời hậu Đường (923-936), ở Định Châu, chùa Khai Nguyên, có sư Trinh Biện, người Trung Sơn. Sư tu hành khắc khổ, thường lấy máu viết kinh. Bấy giờ, tại Tinh Châu (tỉnh Sơn Tây, Thái Nguyên), không cho Tăng lữ ở miền khác đến cư trú. Sư liền dă ngoại đến đó, ẩn cư trong một cổ mộ. Có một hôm, Vũ Hoàng Đế đi săn, sư mạnh dạn ra khỏi mộ đi đến kinh thành giảng kinh, thấy cờ, người, xe, ngựa của vua, sư vội vàng ẩn thân trong mộ, nhưng bị Vũ Hoàng phát hiện kéo ra, hỏi sư v́ sao lại ở đây, và kiểm tra chỗ ở của sư trong cổ mộ, chỉ thấy toạ cụ bằng cỏ, trên bàn bút mực, kinh điển, sớ sao rất nhiều, liền sinh ḷng kính phục, mang sư vào cung cúng dường. Tào Thái hậu rất kính ngưỡng, tôn trọng sư. Có một hôm, sư nói với Thái hậu rằng : “Bổn chí của tôi chủ yếu là tu học Phật pháp, ở lâu trong cung thế này có cảm giác như bị trói buộc tay chân”. Vũ đế liền thả sư tự do.

3.16. Dấu thư giới thiệu vào trong tay áo

Triều nhà Tống, tại Minh Châu, có Thiền sư Tuyết Đậu Trọng Hiển, được Thiền sư Trí Môn Tộ Công ấn chứng tâm pháp (ở Tuỳ Châu), hoát nhiên đại ngộ*. Có một hôm, sư Hiển định hành cước một chuyến đến sông Tiền Đường (sông Tiền Đường phía đông gọi là Chiết đông, phía tây gọi là Chiết tây, gọi chung là Lưỡng Chiết), học sĩ Tăng Công đề nghị với sư rằng : “Ngài nên đến chùa Linh Ẩn. Chùa Linh Ẩn ở gần sông Tiền Đường là một danh lam thắng cảnh nỗi tiếng trong thiên hạ, trụ tŕ chùa Linh Ẩn là Thiền sư San. Ông ấy là bạn của con”, rồi viết một lá thư trao cho sư mang đi.

Sư đến chùa Linh Ẩn, lặng lẽ theo chúng tu hành, trải qua hơn ba năm. Có một hôm, Tăng Công vừa phụng mệnh xuất xử Chiết Tây, thuận đường ghé thăm sư. Đến chùa Linh Ẩn, hỏi thăm Thiền sư Trọng Hiển th́ không có ai biết. Bấy giờ trong chùa có hơn ngàn người, Tăng Công lệnh cho cấp dưới kiểm tra danh sách từng người mới t́m được sư. Tăng học sĩ hỏi sư v́ sao trước đây đă viết thư giới thiệu trao cho sư mang đi mà không đưa ra cho trụ tŕ, sư Hiển lấy lá thư cất trong tay áo ra, vẫn c̣n nguyên vẹn, chưa tháo phong b́. Sư nói: “Ư tốt và sự quan tâm của huynh tôi rất cảm kích, nhưng chỉ là một vị Tăng hành cước, ngao du vân thuỷ như tôi, đối với danh lợi thế gian không cần đến làm ǵ, sao lại dám kỳ vọng vào lời giới thiệu của huynh để được danh dự, hiển đạt?”. Tăng công cười lớn. Thiền sư San nhân v́ việc này mà đối với sư Hiển có một cách nh́n đặc biệt hơn.

B́nh luận:

Người ngày nay được các quan chức, quư nhân suy cử th́ giống như được trân bảo hiếm có ở thế gian, ngày đêm dụng tâm truy t́m danh lợi. Có thể những người này chưa nghe nói qua tiết tháo thanh cao của Tuyết Đậu Thiền sư ! Tôi thường kinh ngạc sự khai thị thiền cơ của Lăo sư Tuyết Đậu, hai sự việc cây gậy và tiếng thét cùng đến một lúc, có khi như chớp điện rất nhanh, có khi như sấm sét đánh tỉnh mê hoặc, không thua ǵ các trưởng lăo Đức Sơn (cây gậy của Đức Sơn), Lâm Tế (tiếng thét của Lâm Tế). Khảo cứu một đời của sư mới biết rằng, khí lượng phong cách của sư vốn không giống người b́nh thường ! Làm người xuất gia, tên gọi sa môn, thật sự không thể không lấy làm tự ái”.

3.17. Bỏ thư không xem

Triều nhà Tống, tại Vũ Ninh, Chùa Diên Ân, có thiền sư Huệ An (c̣n gọi là Pháp An), và thiền sư Viên Thông Pháp Tú (c̣n gọi là thiền sư Thiết Bích, hay Thiết Diện), trú tŕ chùa Pháp Vân, ở Đông Kinh cùng tham bái, học đạo với Thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài ở Việt Châu. Sau đó, Thiền sư An về cư trú trong một tu viện rách nát ở một thôn vắng, tại Vơ Ninh, một ḿnh một bóng lặng lẽ suốt 30 năm. C̣n Thiền sư Viên Thông Tú th́ vâng chiếu của Hoàng đế trú tŕ chùa Pháp Vân, hào quang soi tỏ bốn phương, khắp nơi quy y. Sau đó, sư Viên Thông Tú viết thư gởi cho Thiền sư An, muốn suy cử sư An, nhưng sư An nhận thư không đọc mà bỏ đi, thị giả đứng bên hỏi v́ sao bỏ thơ đi không xem, sư trả lời : “Ta lúc đầu cho rằng Thiền sư Tú là bậc thấu triệt, sâu sắc, cao siêu, bây giờ mới biết ông ta là một thằng ngốc. Người xuất gia phải ở trong mồ hoang hay dưới gốc cây, tuỳ chỗ yên thân, nổ lực cần tu cầu thoát sinh tử, nhanh chóng gấp rút cứu lấy ḿnh như đang bị nguy cơ mất đầu. Ngày nay không chịu nổ lực tu hành, không duyên cớ ǵ phải ở nhà cao cửa rộng đầu đường cái lớn trong đô thị tứ thông bát đạt, nuôi dưỡng hàng trăm người nhàn rỗi chẳng có việc làm, như vậy chẳng khác nào người ngủ đă tỉnh rồi, mở to mắt mà vẫn đi đại tiện trên giường, ta lại có thể nói tốt cho ông ta sao?”.

B́nh luận :

Sư Tú đệ tử rất nhiều, sư An chỉ sống một ḿnh, nếu đem hoàn cảnh của họ đổi cho nhau th́ phong cách của hai người lại giống nhau. An đại sư không phải trách mắng Tú đại sư, chủ yếu là cảnh cáo người đời một chút, những người xuất gia ngu si mà thôi. Tuy nhiên, nuôi dưỡng cái chí thảnh thơi, thông thả như vậy c̣n khả dĩ. Ngày nay, chỉ nuôi dưỡng những thứ bận rộn, cả ngày bám vào chỗ dựa t́m cầu danh lợi … th́ không thể nói được nữa rồi !.

3.18. Đốt b́nh bát bằng gỗ quư trước mặt sứ giả

Triều nhà Tống, tại Minh Châu, núi Dục Vương, có thiền sư Hoài Liễn, người Chương Châu. Vào giữa niên hiệu Hoàng Hữu (1049-1054), đời vua Tống Nhân Tông, triệu sư đến khai thị Phật pháp ở Hoá Thành điện, vua rất hài ḷng, ban tặng cho sư hiệu Đại Giác thiền sư. Sư Liễn tŕ giới rất nghiêm mật. Hoàng đế có lần phái di sứ đến tặng cho sư b́nh bát làm bằng gỗ Long Năo hương, sư cầm bát đốt trước mặt sứ giả, nói : “Người học Phật chỉ mặc y phục bằng vải thô xấu, dùng b́nh bát bằng đất nung, chiếc b́nh bát này bằng gỗ Long Năo quá cao quư, xa hoa, không như pháp, không thể sử dụng”. Sứ giả trở về đem việc này tấu rơ với Hoàng đế, Hoàng đế nghe xong khen ngợi không thôi.

B́nh luận :

Thiền sư Liễn đốt bát mà ḷng không một chút sợ hăi, Tống Nhân Tông nghe sứ giả tấu rơ sự t́nh mà không sanh ḷng giận dữ, thật đúng là điều mà người ta gọi là : “Nếu như không phải là tiên sinh Nghiêm Tử Lăng th́ không thể thành tựu được cái khoan hồng độ lượng của Quang Vũ Đế; nếu như không phải là Quang Vũ Đế th́ không thể thành tựu được cái tiết tháo thanh cao của Nghiêm tiên sinh !” Khó mà biết được có phải là giai thoại của lịch sử thiền tông hay không !

3.19. Kiếp sau

Người xuất gia đời này giữ giới tu phước, nếu như chưa minh tâm kiến tánh, nguyện lực lại nhỏ bé, mong manh, lại không cầu sanh tịnh độ, người này kiếp sau sẽ được quả báo giàu sang phú quư rất nhiều. Nhưng cũng có nhiều người bị phú quư vinh hoa mê hoặc, thậm chí tạo ghiệp ác, đoạ lạc trong ba cơi. Có một vị Ḥa thượng xua tay không tin những lời tôi nói. Thấy vậy, tôi nói tiếp, khỏi phải bàn luận đến kiếp sau, trước mắt tôi đă thấy có một người xuất gia, sống ở trong một am tranh, phía Bắc dăy Phong Sơn, kiên tŕ tu tập, tinh tấn, gian khổ 10 năm. Sau đó, thiện nam tín nữ biết được, rất ngưỡng mộ, tôn sùng, giúp ông ta xây dựng một tịnh xá riêng bên ngoài, mời ông ta đến ở đó, cúng dường lâu ngày, cuối cùng, ông ta bị ch́m đắm trong danh văn lợi dưỡng, một chút đạo hạnh tu tập khổ cực trước đây cũng hoàn toàn tiêu rụi, hiện đời đă thấy rơ ràng cần ǵ phải nói đến kiếp sau ? Vị Ḥa thượng kia hỏi tôi nói vị Tăng đó là người nào? Tôi trả lời : “Chính là lăo huynh đấy chứ ai!”. Lăo Ḥa thượng nghe xong im lặng không nói năng ǵ.

Có người xuất gia nh́n thấy người ta phú quư hiển đạt, sanh tâm ước ao, thèm muốn, hy vọng có thể được như họ; cũng có người xuất gia xem thấy người ta hiển đạt, phú quư sinh tâm chán ghét, dường như không đếm xỉa đến. Cả hai hạng người xuất gia này đều không đúng. V́ sao? Bởi v́ bạn chỉ biết ước ao giống như người ta mà không biết rằng kiếp trước người ta là người xuất gia tu hành khổ hạnh, làm phước giống như bạn bây giờ, việc ǵ phải ước ao!? Và, bạn chỉ biết chán ghét người ta, mà không biết rằng sự tu tập khổ hạnh của bạn bây giờ, quả báo đời sau sẽ được làm quan, có địa vị danh lợi như người ta! Thế th́ v́ sao phải chán ghét ? Nếu như chưa thoát ly được sanh tử th́ vẫn c̣n trao đổi, luân hồi hỗ tương cho nhau, giống như đào giếng th́ có nước. Nghĩ đến sự sống chết không dừng này, có thể không khiến cho ḷng ớn lạnh sao? V́ vậy, phải nhất tâm hướng thượng, dũng mănh tinh tấn tu hành, không để một phút một giây lăng phí, ra khỏi tam giới, liễu thoát sanh tử, đâu có rănh công phu để đi mơ ước hay chán ghét người ta?.

3.20. Thích đồ cổ

Có một số người ưa sưu tầm đồ cổ tụ tập lại một chỗ, mỗi người đem đồ cổ ḿnh sưu tập được ra so sánh. Có người đem đồ cổ từ đời nhà Nguyên, nhà Tống hay từ thời Ngũ Đại ra, mọi người xem xong đều cười anh ta; thấy bị cười v́ niên đại các món đồ cổ c̣n quá ít, tiếp theo có người đem đồ cổ từ đời nhà Đường, nhà Tấn, nhà Hán, nhà Tần, thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu). Chỉ tiếc là không có được cái nồi của Cao Tân Thị, cái khoan của Toại Nhân Thị, cái Đàn Cầm của Thần Nông, cái Đàn Sắt của Thái Hạo, đá năm màu để vá trời của Nữ Oa. Trong số những người đó có một người nói : “Những đồ cổ của các anh sưu tầm cũng là rất cổ, nhưng mà không phải là thượng cổ, lại càng không phải là thượng cổ trong số những số thượng cổ”. Mọi người nói : “Như vậy là mặt trời và mặt trăng sao?”. Người ấy nói : “Không phải, trước có thiên địa rồi sau mới có mặt trời mặt trăng”. – “Như vậy là trời đất chăng?”. Người ấy lại nói : “Không phải, có hư không rồi mới có trời đất”. - “Vậy là hư không chăng?”. Người ấy lại đáp:“Không thể nói được, rất cổ, đồ cổ của ta sưu tập được từ khi mặt trời mặt trăng chưa sinh ra, trời đất chưa thành lập, trước cả kiếp không. Các vị không tiếc ngh́n vàng mua lấy một cái lư, một cái bát, một cuốn thư pháp … mà không biết coi trọng các vật tối cổ, tối bảo, quư hiếm này th́ thật là mơ hồ !”. Mọi người nghe rồi nh́n nhau im lặng không biết nói ǵ.

Không lâu, có người nói : “Vật hiếm là quư, đồ cổ của Ngài mọi người ai cũng có như nhau, không phải chỉ một ḿnh Ngài có, th́ quư báu chỗ nào?”. Người ấy trả lời : “Đại gia nói không sai, nhưng mà chỉ hơi ngu, ngu và không có không phải hai, cho dù là tôi có một ḿnh cũng không phải sai !”. Người hỏi lại nói : “Đồ cổ chúng tôi thấy rơ ràng trước mắt, có thể xem xét được, c̣n đồ cổ của Ngài đâu?”. Người ấy đưa hai tay ra cho mọi người xem*, mọi người lại nh́n nhau, không thể nói ǵ.

3.21. Hộ pháp

Mọi người đều biết rằng, đem giáo pháp của Phật truyền bá ra bên ngoài, kết giao với Vương công Đại thần là công tác hộ pháp. Nhưng không biết rằng, làm người xuất gia là việc hộ pháp chủ yếu nhất, việc này không thể không cẩn thận ! Hộ pháp có ba điều: một là, xây dựng Chùa viện và tạo chỗ ở cho người tu hành; hai là truyền bá, tuyên dương Phật pháp; và ba là, khích lệ mọi người phát tâm xuất gia. V́ sao nói phải cẩn thận? Ví dụ, lấy điều thứ nhất để nói, xây dựng chùa viện bảo hộ người tu hành, nếu như tài sản xưa nay vốn thuộc sở hữu của Chùa viện, bị người ta dùng bạo lực xâm chiếm, nay lấy lại trả cho chùa viện, đây là việc làm hợp lư. Nếu như tra xét hồ sơ, quyền tài sản không rơ ràng, năm tháng lại quá xa, hiện tại quyền sở hữu đă đổi cho người khác, chúng ta nhờ quyền thế để đoạt lại có được không? Vui vẻ hỷ xả đi mới là điều tốt đẹp nhất, thế lực người ta không bằng bạn, miễn cưỡng trả lại cho bạn, đó gọi là chỗ tụ tập oán nghiệp. Nếu như người xuất gia chỉ khuyến hoá các đại quan có thế lực, bảo người ta làm những việc công đức lớn, để tu sửa Chùa viện cũ, mà không nghĩ đến rằng Phật pháp vốn b́nh đẳng đối đăi với tất cả chúng sanh, người b́nh dân cũng phải cho họ có cơ hội tích tập góp công đức chứ, không nên chỉ hướng đến những người quyền quư để hoá duyên! Lại nữa, nếu như dùng thế lực bóc lột tiền bạc và sức lực của trăm họ để xây dựng Chùa tháp, th́ cho dù Chùa tháp có rộng hơn ngàn mẫu, cao đến chín tầng mây, dùng gốc chiên đàn để xây dựng, dùng trân châu bảo ngọc để trang hoàng, th́ Phật cũng chỉ thương chúng sanh đau khổ mà thôi, không thể hoan hỷ được. Những việc làm này không có công đức, ngược lại có tội, không thể không cẩn thận! Đây là điều thứ nhất. Thứ hai, nói về việc truyền bá Phật pháp, nếu như trước tác hoặc giảng giải kinh điển, xa th́ hợp với tâm Phật, gần th́ khế hợp với yếu chỉ của kinh điển, chúng tôi tán thán và truyền bá, tuyên dương việc đó. Điều này th́ hợp lư. Nếu như thuyết pháp hoặc sáng tác mà giống như ngoại đạo, vọng kiến, tà thuyết, hoặc thấy biết nông cạn, lệch lạc, chúng tôi phản đối và không chấp nhận cho lưu truyền. V́ sao ? Nếu như người xuất gia lúc có sáng tác, trước thuật chỉ cố t́m cầu những nhân vật to lớn viết cho lời tựa, lời bạt, mà không nghiên cứu, suy nghĩ xem nội dung trước tác có hại cho người đời sau hay không, nếu có, không chỉ không có công đức mà c̣n có tội, không thể không cẩn thận! Đây là điều thứ hai. Điều thứ ba là, khích lệ người xuất gia, nếu như người xuất gia này thật tu thật học, thực sự muốn được khai ngộ, có học vấn và có trí tuệ cao th́ nên cúng dường họ; người xuất gia phải có chánh tri kiến, tu học đến nơi đến chốn, nghiêm tŕ giới luật, tu hành thâm hậu, th́ nên tín ngưỡng họ, gần gũi họ. Đây là điều hợp lư. Nếu như vị Tăng này là người giả trang thiền tướng, biểu hiện bên ngoài, mà bên trong không có đức độ của kẻ học thiền, xấu xa bỉ ổi, lại hạ lưu, cũng tôn kính họ, thân tín họ, có được không? Giống như người xuất gia thân cận, t́m chỗ dựa những người phú quư, hy vọng họ che chở cúng dường, giống như dùng tơ lụa, cẩm tú cao quư để che đậy cái thân thể hôi thối này, chỉ là Tăng thêm độc tính vào trong cơ thể, không chỉ không có công đức, trái lại c̣n có tội, không thể không cẩn thận! Đây là điều thứ ba. Nếu giống như đây, th́ Vương công Đại thần duy tŕ ủng hộ Phật pháp, mà người xuất gia trái lại phá hoại Phật pháp, thật đáng buồn thay!.

3.22. Xuất gia

Người mới phát tâm xuất gia, tuy chí nguyện có lớn nhỏ khác nhau, nhưng ít nhiều đều có tâm đạo, nhưng ngày một lâu, lại bị lợi danh, nhân duyên làm cho ô nhiễm, tiếp đến lại kiến tạo Chùa chiền, tu sức y áo, mua ruộng vườn, kinh doanh bất động sản, thu nhận đồ đệ, nuôi người ăn kẻ ở, cất giữ tiền bạc, dồn sức đi làm việc đời, đi t́m chỗ nương tựa, th́ giống như người thế tục chẳng khác nhau. Trong kinh Phật có nói : “Một người xuất gia tu hành, Thiên ma ba tuần phải lo sợ”, bây giờ vị Tăng đă biến thành người thế tục như vậy, Ma ba tuần có thể lấy rượu uống chúc mừng. Người phát tâm bồ đề xuất gia, việc trước hết phải biết một một điều như vậy. Tôi đă từng thấy một vị sa môn tu hành khổ hạnh trong rừng sâu núi thẳm, một khi xuống núi, bị những thiện nam tín nữ quy y cúng dường, lâu ngày liền mất đạo lực, sống một đời hèn hạ, huống hồ những người xuất gia tu tập đă quá tồi tệ ! Người xưa có nói, sau khi xuất gia, nhất định phải ra khỏi nhà phiền năo, phải cắt đứt mọi sự trói buộc ân t́nh cuộc đời, đó là xuất gia sau khi xuất gia. Xuất gia trước khi xuất gia th́ dễ, xuất gia sau khi xuất gia mới là khó khăn. Tôi làm mấy việc này, rụt rè thận trọng, thấp thỏm lo âu, sợ phạm lỗi lầm đă thuật ở trên.

TỔNG LUẬN

Chương trước ghi chép hạnh Trung thần của các cao Tăng, chương này ghi chép hạnh cao thượng. Hoặc có người hỏi : “Hạnh Cao thượng mới nói đây như vậy có tương phản với hạnh Trung thần không?”. Không phải như vậy! Cần phải xem chỗ lập trường sao rồi mới nói! Ở trong rừng núi hang động khổ tu thành tựu, đạo phong vang khắp muôn nơi, triều đ́nh nghe danh mời thỉnh, nếu như có nhân duyên, lời nói thích hợp, trên có thể độ được vua, dưới có thể độ được trăm họ, đây không phải là việc làm chân chính hoằng pháp lợi sanh sao? Chỉ sợ rằng đạo nghiệp tu hành không tốt, hạ thấp nhân cách của ḿnh đi t́m cầu vinh hoa phú quư làm cho người xuất gia mất mặt thôi! Ôi, người xuất gia phải lấy tu hành làm sự nghiệp, tự trọng tự ái, nhân đó khiến cho Quốc vương và Đại thần biết rằng trong thiên hạ có những người xuất gia vui đạo tu hành, vứt bỏ danh lợi mà tán thán, ước ao họ, như vậy hạnh Trung thành rất nhiều, việc ǵ nhất định phải đối mặt tŕnh thuật, dâng lời khuyên gián mới gọi là Trung? Cho nên, tôi đă ghi quốc sư Huệ Trung ở Nam Dương được bảy đời Hoàng đế tôn sùng, và Thiền sư Vô Nghiệp ba lần từ chối chiếu lệnh của Hoàng thượng triệu vào cung, tuy hai người chỗ tao ngộ và phương thức hành động không giống nhau, nhưng đạo nghiệp của họ th́ cao quư như nhau, đều là những vị có hạnh trung quân.

------------------------------------------------------------ --------------------

* Tân Đầu Lô Phả La Đoạ là tôn giả Tân đầu lô thứ nhất trong 16 vị La Hán,tức La hán Trường Mi. Tân đầu lô phiên âm là ‘Bất động’, Phả la đoạ dịch âm là ‘Tiệp tật’ (thấy được bệnh), lợi căn, trọng đồng… Vị này nguyên là cần thần của vua Ưu Điềm, thành Câu Xá Di. Vua thấy ông siêng năng nên khiến ông đi tu, chứng được quả A la hán. Do v́ vọng nói thần thông với Bạch y nên bị Phật quở trách, không được trụ ở Diêm phù đền, sai ông giáo hoá ở châu Tây Cù Da Ni. Sau tứ chúng ở Diên Phù nhớ ông, bạch với Phật. Phật nghe lại mà không nghe nhập Niết bàn, khiến ông ở măi trên núi Ma-lê của Nam thiên, v́ tứ chúng thời mạt pháp làm phước. Theo Tứ phần luật, cuốn 53, ghi: Thế Tôn ở tại nước Câu đà di, vua Ưu Điềm là tri thức thân hậu của Tân đầu lô, buổi trưa vua thường đến thăm hỏi. Bấy giờ có một đại thần Bà la môn không tin Phật pháp, thấy Tân đầu lô không đứng dậy đón vua bèn dùng ác tâm chỉ trích với vua. Vua nói: ‘Sáng ngày mai ta đến, nếu không đứng th́ sẽ lấy mạng’. Sáng hôm sau Tân đầu lô thấy vua từ xa đến bèn đứng dậy đón. Vua hỏi: ‘Hôm nay v́ sao ngươi đứng dậy đón ta?’. Ông đáp: ‘V́ vua cho nên đứng’. Vua hỏi : ‘Hôm qua v́ sao không đứng?’. Ông đáp: ‘Cũng v́ vua’. Vua hỏi: ‘Sao lại v́ ta?’. Ông đáp: ‘Hôm qua vua đến đây với thiện tâm, hôm nay vua đến đây mang tâm niệm ác, nếu tôi không đứng th́ sẽ mất mạng. Nếu tôi mất mạng vua ắt hẳn bị đoạ địa ngục. Nếu tôi đứng dậy đón, vua sẽ mất ngôi. Thà rằng để vua mất ngôi chứ không muốn vua đoạ địa ngục, v́ vậy cho nên đứng’. Vua nói : ‘Mấy ngày nữa mất ngôi?’. Ông trả lời bảy ngày sau sẽ mất ngôi. Tức như đă ghi, đến ngày thứ bảy, vua nước Uư Thiền , Ba la thù đề, đến cướp ngôi, bắt Ưu Điềm bỏ tù 7 năm).

* Theo Tống Cao Tăng truyện, sư thâm nhập được cái thế của Ngưỡng Sơn, đốn ngộ được cái tâm của Trực Hạ.

* Trọng Hiển lúc mới gặp Trí Môn Tộ, hỏi : “Một niệm không khởi v́ sao nói có tội?”, Môn gọi đến gần đánh cho một cây phất trần, mới định nói lời ngăn, lại bị đánh, sư hốt nhiên khai ngộ, không nói một lời.

* Phật tánh vô thỉ, điều mà họ nói là vật có từ trước kiếp không, Phật tánh không thể không thấy, đại thiên thế giới, h́nh h́nh sắc sắc, đều là Phật tánh, có thể nơi mỗi h́nh sắc thấy được Phật tánh, th́ nơi hai tay đưa ra cũng thấy được, nếu lúc đưa hai tay ra mà không thấy th́ muôn h́nh muôn sắc cũng không thấy.

C̣n tiếp....
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 6 of 34: Đă gửi: 29 April 2006 lúc 7:56am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Xin Cảm Ơn bác Phổ Quang!!
Vài lời của Bác đă giúp tôi nhận thức rơ việc của ḿnh làm. Tôi xin ghi nhớ và thật tâm của tôi cũng muốn cảnh tỉnh đối với người trong nhân gian và tôi cũng xin phát lời thề nguyện "Con Nguyện Mến Thương Muôn Loài". Mong rằng sẽ giúp ích cho mọi người.
Nam Mô A Di Đà Phật
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 7 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 1:19am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

bên cạnh đó tôi cũng đưa ra vấn đề nhân cách trong kinh Phật để mọi người xem :

Phật Pháp không phải là sách tiểu thuyết để đọc rồi quên đi. Phật Pháp có liên quan đến đời sống -- một đời sống thực, một đời sống mà bạn và tôi trải qua hằng ngày. Giá trị của đời sống nầy sẽ gia tăng đáng kể khi Phật Pháp được diễn dịch ra hành động, và thấm nhập vào tánh t́nh của chúng ta qua các nỗ lực thường xuyên, qua các thực tập mỗi ngày.

Mục đích tối hậu của Phật Pháp là Niết Bàn -- vượt thoát khỏi hoạn khổ. Mục đích trước mắt là giúp ta hiểu rơ và giải quyết các vấn đề trực diện với ta trong đời sống hằng ngày, giúp ta trở thành những con người sống an lạc, thảnh thơi và thăng bằng, sống ḥa hợp với môi trường chung quanh và những người đồng loại. Tuy thế, sự thăng bằng nầy cũng không dễ thực hiện, nhất là trong thế giới ngày nay với nhiều giá trị ảo tưởng và các thành kiến hư ngụy.

Khác hẳn với các giá trị tương đối -- và có khi là giả tạo -- trong thời đại của chúng ta, lời dạy của Đức Phật là một sự khải hiện các giá trị chân thật và tuyệt đối. Chân Pháp đó cần phải được mỗi người tự thể nghiệm. Phật giáo dạy về sự tư duy rơ ràng, sự tự chế, và nuôi dưỡng tâm ư như là các phương tiện để thấu đạt Chân Pháp. Người cư sĩ nào biết xây dựng cuộc sống hằng ngày trên căn bản vững chắc của tri thức giải thoát với các lư tưởng rơ ràng th́ người ấy được bảo đảm các tiến bộ và thành công trong đời sống tại gia của ḿnh.

Do đó, Phật Pháp là các hướng dẫn trong đời sống hằng ngày của ta, và các nguyên tắc căn bản của đạo Phật có những giá trị thực tiễn trong nghệ thuật sống trên đời. Người cư sĩ tại gia, trong khi phải dấn thân vào xă hội v́ cưu mang các trách nhiệm trong đời sống, sẽ không bao giờ quên mục đích tối hậu của họ là Niết Bàn giải thoát. Người ấy lúc nào cũng nên xem rằng đời sống của ḿnh chỉ là một băi tập, để sửa soạn tiến đến thực chứng mục đích tối hậu ấy.

Kinh Đại Hạnh Phúc (Maha-Mangala Sutta) có nói rằng các phước hạnh thật sự của đời sống là có được "một tâm ư có định hướng đúng" (atta-samma-panidhi). Có nghĩa là ta phải nhận thức đúng đắn vị trí của ḿnh trong thế gian, có quyết định đúng đắn về mục tiêu, và t́m một con đường đúng đắn để tiến đến mục tiêu đó. Người an lạc và thăng bằng là người có một mục đích cao thượng trong đời sống, có một đường lối tốt để đi theo, và có một triết lư sống giản đơn nhưng đầy ư nghĩa để dẫn đường. "Triết lư" ở đây là một ước vọng hướng thiện để thông hiểu bản tánh và tương lai của con người trong vũ trụ. Không có triết lư như vậy th́ đời sống trở nên tẻ nhạt, buồn chán, vô ích, và vô nghĩa. Triết lư đó giúp con người sống hài ḥa với thế giới và đồng loại trong một tiến tŕnh thăng hoa dựa theo các tri thức chân chánh.

Trong đạo Phật, tâm ư bao trùm vật chất. Một nét đặc thù của tâm ư là ư định. Để sử dụng tốt cuộc đời và nghiệp kế thừa của ḿnh, ta phải biết chọn một mục tiêu hướng thượng và thực tiễn trong đời đời sống và tạo ra một kế hoạch để đi đến đó. Chúng ta sẽ trở nên những ǵ mà ta mong muốn được như vậy.

Khi ta càng thông hiểu bản thân -- qua hành tŕ tự quán sát và tự phân tích -- ta sẽ càng có nhiều khả năng để tự cải tiến và phát triển. Thêm vào đó, ta nên tự hỏi rằng ḿnh sẽ tiến và tiến đến cấp độ nào trong việc tu tâm để ḿnh trở nên độ lượng, an b́nh, tự tại, dịu dàng, thông cảm, chân thật, hiền lành, chất phát, cẩn thận, tinh tấn, cần mẫn, nhẫn nại, bao dung, và khôn khéo. Đó là các đức tính cao quư của một Phật tử biết sống hợp thời. Ta phải cố gắng tự cải thiện mỗi khi có cơ hội -- mỗi ngày một chút. Ta nên hiểu rằng mỗi khi ḿnh thực hiện một hành động hướng thiện, dần dần nó được huân tập thành một thói quen tốt. Từ các thói quen tốt đó, chúng sẽ thấm nhập tạo thành các đặc tính cao thượng cho bản thân.

Chánh niệm (Sati) là một sự tỉnh giác quan trọng. Chánh niệm là cách nh́n sự vật một cách khách quan, lột bỏ mọi ưa ghét, thành kiến và thiên vị. Đây là cách nh́n mọi sự vật theo bản thể chân thật của chúng -- các sự kiện lột trần. Khả năng làm được điều nầy đánh dấu sự trưởng thành trong Phật Pháp. Nguyên tắc quán sát vô tư phải được áp dụng rốt ráo trong các tư duy hằng ngày. Từ đó, sự suy tư của ta sẽ được rơ ràng, trong sáng hơn và ta sẽ sống hướng thiện hơn, làm giảm thiểu các ảnh hưởng xấu xa tác động vào ḿnh, từ các phương tiện truyền thông quảng cáo tiêu thụ vật chất, và kết quả là ta có được các tăng trưởng về các quan hệ tốt giữa con người với con người.

V́ vậy, một Phật tử có nhân cách thăng bằng là người phải biết tự chủ, tự quyết định, tự tạo ra các ư kiến và kết luận khi phải đối phó với các khó khăn trong cuộc sống, dựa vào các nguyên tắc cơ bản của Phật Pháp. Người ấy có một tri thức và luân lư dũng mănh. Người ấy sẵn sàng đứng một ḿnh, theo đuổi một con đường sống của ḿnh, cho dù người khác có thể hiểu lầm và dị nghị. Dĩ nhiên là người Phật tử ấy phải biết đón nhận các ư kiến đóng góp và cố vấn của người khác -- bởi v́ việc thu nhận các ư kiến xây dựng từ những người có kiến thức và kinh nghiệm th́ không phương hại ǵ đến sự tự do chọn lựa của ḿnh -- nhưng cuối cùng rồi th́ phải tự ḿnh có những quyết định cho đời ḿnh.

Thấy được sự quan hệ giữa ḷng tham dục và sự khổ đau, chúng ta phải luôn luôn ǵn giữ một mức độ xả ly, thoát khỏi các ràng buộc quá đáng của thế tục. Chúng ta phải biết điều chỉnh đời sống của ḿnh trong kỷ cương của năm giới luật cư sĩ (ngũ giới). Từ đó, ta bảo vệ được sự an lành của ta, trong hiện tại và tương lai, qua cách sống thuận ḥa với các quy luật phổ quát của Phật Pháp áp dụng vào đời sống tinh thần và đạo đức của ḿnh. Phát triển đặc tính luân lư và đạo đức (Sila - tŕ giới) nầy là một điều kiện tiên quyết để huân tập tâm ư và từ đó, làm nền tảng tạo trí tuệ (Panna) cần thiết để thực chứng Niết Bàn.

Đời sống là vô thường, lúc nào cũng có nhiều thay đổi. Các tai họa hoặc những việc bất ưng ư có thể sẽ xẩy ra cho ta, và khi đó, ta phải biết trực diện chúng một cách b́nh thản và thăng bằng. Nếu làm được như thế th́ chứng tỏ ta đă có sự hiểu biết chân chính, biết nh́n rơ ràng sự kiện xẩy ra theo luật nhân quả, do nhân duyên hợp thành, và biết rằng chính ta là người gieo nhân và chịu trách nhiệm gặt quả -- nếu không trong đời sống nầy th́ cũng là từ nhiều kiếp trước. Ta sẽ vượt qua các nỗi sợ hải và lo âu thái quá, không có cơ sở và không có luận lư, bởi v́ ta biết chế ngự các cảm tính của ḿnh. Từ đó, những ngộ nhận, những bất công trong đời, những u sầu v́ tưởng rằng ḿnh bị đối xử tàn tệ sẽ được ta thông hiểu rơ ràng và đón nhận nhẹ nhàng hơn, v́ ta đă hiểu được cặp nguyên lư nghiệp quả và tái sinh.

C̣n một lư do nữa để người Phật tử ǵn giữ tác phong triết lư của ḿnh. Người ấy có uy lực bắt nguồn từ các nguồn lực vô h́nh khác -- kho tích trữ các hành động toàn thiện, các đức tính của tự thân, các hạnh phúc có được trong lúc tập hành thiền, tất cả các nguồn lực nầy hoàn toàn độc lập với của cải vật chất. Như thế, người ấy là chủ nhân của một tâm ư tự lực và tự túc. Người ấy biết sống đơn giản, không có nhiều nhu cầu. Của cải vật chất đối với người ấy chỉ là những đầy tớ, không phải là những chủ nhân ông. Người ấy hoàn toàn tự do, không bị lệ thuộc vào sự sai khiến của các sự vật bên ngoài. Người ấy nhận thức được rằng các sự vật thấy được th́ chỉ là tạm bợ và thay đổi luôn. Tóm lại, người ấy có được một tâm ư b́nh thản, chừng mực, và tri túc. Tri túc, như lời Phật dạy, là một nguồn tài sản lớn nhất, là một trong bốn nguồn hạnh phúc:

Không bệnh là lợi tối thượng
Tri túc là của tối thượng
Thành tín là bạn tối thượng
Niết Bàn là lạc tối thượng
(Pháp Cú, 204)



Khi đă thông hiểu như thế, người Phật tử đó sẽ học được cách thích nghi với những hoàn cảnh đổi thay mà không bao giờ sầu khổ than van hay cay đắng.

Nếu ta có Chánh Tín (Saddha), nghĩa là có niềm tin nơi Phật Pháp dựa trên sự hiểu biết, ta phải cố gắng thực hành. Mỗi Phật tử chân chính phải thực hành liên tục bốn điều tinh tấn -- Tứ Chánh Cần -- vốn là chi thứ sáu của Bát Chánh Đạo. Đó là: tinh tấn vượt qua và tinh tấn ngăn chận các pháp bất thiện như là các ư tưởng sân hận; tinh tấn phát triển và tinh tấn nuôi dưỡng các pháp thiện trong tâm ư như là các ư tưởng từ bi. Các tâm ư nầy chẳng những sẽ bảo vệ bản thân ta, mà từ đó cũng sẽ giúp được các người khác chung quanh ta.

Ta phải tập có thói quen suy xét về các tư tưởng và hành động của chính ḿnh để xem chúng có chân thật hay không, bởi v́ chân thật với chính ḿnh là một con đường chắc chắn đưa đến tâm ư toàn thiện. Thêm vào đó, chúng ta phải biết dành th́ giờ mỗi ngày để tĩnh lặng tự quán soi hay là hành thiền, để ôn lại các việc làm trong ngày, và để suy xét xem ta có đi ngược lại với các nguyên tắc căn bản mà Đấng Từ Phụ của chúng ta đă từng khuyên dạy, để mà sám hối và tránh phạm các lỗi lầm đó trong tương lai.

Mỗi ngày ta cũng nên đọc một đoạn kinh từ các bài giảng của Đức Phật. Thói quen hữu ích nầy giúp chúng ta phát triển tâm ư thiện, làm giảm đi các u sầu, phiền muộn, và giúp đưa đời sống của ta đi vào con đường chân chính.

Qua các cách thức nêu trên, là những cư sĩ đệ tử của Đức Phật, chúng ta sẽ luôn tăng trưởng trong ánh sáng nhiệm mầu của Chánh Pháp, luôn luôn uốn nắn nhân cách của ḿnh, rèn luyện tâm thức, huân tập các cảm tính, và tăng cường ư chí dũng mănh để tạo các lợi ích phước báo lâu dài cho bản thân và cho người khác.

Nguyên tác: Robert Bogoda, 1996. The Balanced Personality. In: Buddhist Culture, The Cultured Buddhist. Bodhi Leaves No. 139. Buddhist Publication Society, Sri Lanka.

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 8 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 1:59am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

       Từ Bi Với Bác Ái
       Uông Trí Biểu
   Việt dịch: Thích Tuệ Đăng

Các nhà tôn giáo xướng lên thuyết bác ái, những nhà học giả không bàn xét đến lư chân thật, đua nhau họa theo, và cho đó là thiên kinh địa nghĩa. Phật giáo chẳng những không nói bác ái, mà c̣n cho "ái" là cái nhân của khổ năo và nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Vậy Phật giáo nói từ bi, các tôn giáo khác nói bác ái khác nhau ở điểm nào.

Xin trả lời rằng: Hai thuyết này ư nghĩa tuyệt nhiên không giống nhau; bởi v́ đă gọi là "ái" tức là yêu, tất có năng ái và sở ái (nghĩa là người yêu và kẻ được yêu), đă có năng sở (người yêu và kẻ được yêu), tất có nhân ngă (người và ta), lấy ngă làm năng ái, nhân làm sở ái. Đă có tướng nhân ngă, tức là có tâm phân biệt, yêu ta hơn yêu người, thế gian thường t́nh đều như thế cả, đó gọi là tục kiến; nhưng nếu mà yêu người hơn yêu ta, th́ cũng trở thành thiên kiến. Hơn nữa, đă gọi là "yêu", tất phải có điều kiện để yêu, ví dụ: Ta yêu người kia v́ tướng mạo đẹp, học vấn giỏi, phẩm tính tốt; thế nhưng tướng mạo, học vấn, phẩm tính không phải là cố định, chẳng phải là tuyệt đối; một mai theo thời gian biến đổi không c̣n đẹp, giỏi, tốt được như xưa hoặc chẳng được bằng người, th́ sinh ra chán ghét không c̣n trở lại yêu người ấy nữa. Tiến thêm một bước để nói, cái ǵ ta yêu th́ người khác cũng yêu, ta yêu nên lấy đó làm vật sở hữu của ta, và người khác phải mất cái vật để yêu của họ, v́ ta được mà người mất, người được mà ta mất, cho nên sinh ra tâm ghen ghét, phát ra ở việc làm là giết hại, trộm cướp, dâm dục; và xét đến kết quả của nó là oán ghét nhau mà gặp gỡ là khổ, cầu mong việc ǵ mà không được toại ư là khổ, yêu muốn mà phải xa ĺa là khổ. V́ thế, Phật nói "Ái" là gốc của luân hồi sinh tử và nhân của ưu bi khổ năo. "Ái" đă là cái nhân nhim trược, th́ "Bác" dù có nghĩa là "rộng răi" đến đâu đi nữa cũng không thế nào biến ô nhim thành thanh tịnh được. Đó là cái lư do Phật giáo không đề xướng thuyết "Bác ái".

Lại có một câu nói cửa miệng là: "Ái Ngă Địch Nhân" có nghĩa là tôi yêu kẻ địch của tôi, đó là một câu nói mà các nhà tôn giáo thường đề cập đến. Nhưng thật ra, đă gọi là kẻ địch, ắt hẳn trong tâm đă có tướng đối địch, đối với tướng đối địch mà khởi ra tâm thù oán, hờn giận, ghen ghét, chứ quyết không thể sinh ra tâm vui mừng, ḥa nhă thương yêu được; ví dù họ có min cưỡng thương yêu kẻ thù địch của họ đi nữa, đó chẳng qua cũng chỉ là cái tâm hư ngụy giả dối mà thôi. Phật giáo th́ không bao giờ nói đến cái tâm ấy, mà chỉ dạy chúng ta đối đăi với bọn người làm năo hại ta, trước hết, phải có quan niệm b́nh đẳng, mà không có tư tưởng đối địch, và cũng không cần yêu thương đến họ, mà chỉ nên khởi tâm đại bi đồng thể, bằng cách t́m mọi phương pháp làm cho họ tiêu tan cái tâm ác hại, chuyển thành cái tâm vui mừng, đó mới đúng là Phật pháp.

Nghĩa chính của hai chữ Từ bi, theo Phật giáo giải thích: Từ là cho vui, Bi là cứu khổ. Từ bi không phải lấy cái "Ngă" làm trung tâm xuất phát mà là kiến lập trên thể tướng b́nh đẳng đối với tất cả chúng sinh. Như vậy, Từ bi với Bác ái khác nhau. Ở trên đă nói, đứng về phương diện vật chất, th́ tất cả chúng sinh đều cùng một thể không sai khác; đứng về phương diện tinh thần, th́ tất cả chúng sinh đều có đủ tâm thức, vả lại, tinh thần lại không có thể phân chia giới hạn được, như thế chứng tỏ là tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng nhất thể. Nên chữ Từ trong Phật giáo cũng gọi là B́nh đẳng từ, Vô duyên từ: Bi là Đồng thể bi. Chúng ta khi luyện tập pháp "Từ bi quán" trước hết, phải quán nghĩ tất cả chúng sinh (trong đó có ta) là b́nh đẳng nhất thể, nếu thấy chúng sinh cần dùng vật ǵ, ta nên tùy phận, tùy sức giúp đỡ cho họ vật ấy khiến họ được đầy đủ và vui thích. Trong khi ta thí xả, cần nhất là không nên tưởng nghĩ rằng ta là người cho, kẻ kia là người được cho, và cũng không nên tưởng nghĩ đến những tài vật ḿnh cho nhiều hay ít; có như thế mới không sinh tâm ngă mạn, không cầu danh dự, không mong báo đáp, không duyên với mọi tướng; đó mới được gọi là Vô duyên từ - B́nh đẳng từ. Nếu thấy chúng sinh có điều ǵ đau khổ, nên khởi ra cái tâm tưởng đồng thể, chúng sinh bị khổ, tức là ta bị khổ, không phân biệt kẻ kia với ta, và nên phát tâm đại bi, tuỳ phận, tùy sức để cứu giúp cho họ qua khỏi sự đau khổ. Trong khi ta cứu độ chúng sinh cũng không nên tưởng nghĩ đến tướng ta, tướng người, không cầu danh dự, báo đáp, không trụ vào mọi tướng, đó mới gọi được là Đồng thể đại bi.Ta đă hiểu rơ lư luận của hai chữ Từ bi rồi, tự nhiên không c̣n giết hại chúng sinh để dinh dưỡng cơ thể, không c̣n lấy của cải phi nghĩa để tiê xài xa phí, và cũng không c̣n tham yêu sắc đẹp để khởi tâm dâm dục. Bởi khi ta đă giác ngộ được ḿnh với các loài vật như gà vịt, trâu ḅ v.v. . đều cùng chung một bản thể, của cải sắc đẹp cũng không phải ngoài tâm ta mà có, cho đến người tham và vật bị tham cũng không có nữa; song chúng sinh sở dĩ phạm vào tội Sát, Đạo, Dâm đó chẳng qua chỉ là do "ngu si" mà thôi. Lại nữa, sau khi ta hiểu rơ lư luận của từ bi rồi th́ đối với những vô số sự tích cảm ứng của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không nên cho là mê tín và hư ngụy, v́ ta biết rằng Pháp thân Bồ Tát với bản tính chúng sinh là B́nh đẳng nhất thể, cho nên, ta có cảm, th́ Ngài có ứng, nhưng cần phải đầy đủ ḷng chí thành khẩn thiết bằng không th́ sẽ bị tham dục phiền năo làm chướng ngại, khó cùng với bản thể để tương ứng. Nếu Bồ tát với bản tính chúng sinh không đồng nhất thể, th́ Bồ tát không thể tùy duyên ứng hiện và đi lại cơi nhân gian để cứu ứng những phiền muộn khổ năo cho chúng sinh được.

Bạn nghĩ như thế nào về đạo đức và các thuyết như trên??
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 9 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:39am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Tiếp theo     
    IV - Tŕ Trọng

4.1. Sau khi được truyền pháp ẩn cư rất lâu

Triều nhà Đường, Lục Tổ Huệ Năng, ở chùa Nam Hoa, tỉnh Thiều Châu, lần đầu đến yết kiến ngũ tổ Hoàng Mai, sau được minh tâm kiến tánh. Ngũ tổ nói : “Ông căn tánh đại lợi, hăy vào sau viện giă gạo!”. Thế là sư đến sau viện giă gạo, làm mọi việc Tăng gia sản xuất, nhưng v́ sư gầy quá, phải cột thêm đá vào người mới đạp chày giă gạo nổi, làm việc cực khổ như vậy cúng dường đại chúng. Sau đó được Ngũ Tổ truyền y bát, sợ có người xấu tranh đoạt y bát làm hại đến Sư, nữa đêm Ngũ Tổ tiễn Sư đi. Sư ẩn cư với bọn thợ săn suốt 16 năm. Sau đó long thần hộ pháp bảo Sư ra hoằng pháp độ sanh. Thế là Sư đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, lúc ấy pháp sư Ấn Tôn đang giảng kinh Niết Bàn. Bấy giờ, gió thổi cây phướng lay động, một vị Tăng nói :”gió động”, một vị Tăng khác nói : “phướng động”, hai người tranh căi măi không thôi, Huệ Năng bèn nói : “Không phải gió động, không phải phướng động, là tâm các ngài động”. Đại chúng kinh ngạc bội phục, pháp sư Ấn Tôn mời Sư thượng đường, thỉnh Sư khai thị, rồi cạo tóc cho Sư, lạy Sư làm thầy, hổ trợ cho Sư hoằng pháp, thành lập pháp môn Đốn Giáo Nam Tông…

4.2. 10 năm bí mật

Triều nhà Đường, tại Chương Châu, tu viện La Hán, có sư Quốc Sâm, người Thường Sơn. Lúc đầu sư học Giới luật, sau tham học thiền Nam tông với chư vị Đại đức, thiện tri thức khắp nơi, cuối cùng sư được đại sư Huyền Sa Sư Bị (Sư Tông Nhất), ở Phước Châu khai thị, liễu ngộ tâm địa. Sau đó Sư bí mật hành tŕ không cho ai biết.

Nhưng sau đó, Sư bị Châu mục Chương Châu, Vương Công Thái Nguyên, phát hiện khả năng trác việt của Sư, mời Sư về Liên Cung, ở Thạch Sơn, thành Tây, tỉnh Phúc Kiến trú tŕ hơn 10 năm. Sư tu tŕ mật hạnh nhưng không xem thường khai thị diệu pháp cho người; tuy nhiên có người khẩn thiết hỏi pháp sư mới v́ họ khai thị. Không lâu sau Sư chuyển đến viện La Hán. Tuy viện La Hán tường vách mục nát, mọi thứ đều hư hơn một nữa, nhưng Sư vẫn ở điềm đạm, vui vẻ. Thái Bảo Cần Châu, Lang Nhị Công, tha thiết thỉnh Sư hoằng dương Phật pháp, cuối cùng Sư không thể từ chối, nhận lời mời, khai diễn pháp môn thâm diệu, một lần thuyết giảng người đến tham học không biết bao nhiêu mà kể. Sư hoằng dương mạnh mẽ tông Pháp Nhăn (Pháp nhăn tông là một trong năm phái thiền tông, bắt đầu từ Sư Hành Tư).

4.3. Không nói những điều linh dị

Triều nhà Đường, tại Vĩnh Hưng, tu viện Vĩnh An, có sư Thiện Tĩnh, người Kim Thành, Trường An. Sư vân du đến phương nam, núi Nhạc Phổ, tham kiến Thiền sư Nguyên An, ở Tô Khê, Lễ Châu, cùng với môn hạ. Cuối cùng Sư được khai thông, liễu ngộ được bổn tánh. Sau đó Sư trở lại quê hương. Lưu thú Trường An, Vương Công, xây dựng Thiền viện Vĩnh An nhường lại cho Sư trú tŕ hoằng pháp. Một đời Sư, lúc tắm rửa, trên thân thể đă từng rơi ra nhiều xá lợi, sư vội vàng nhặt lấy dấu đi, không cho đồ chúng đem xá lợi cho người khác xem hoặc nói cho người khác biết. Lại nữa, lúc ngồi thiền nhập định, đă từng thấy bổng nhiên trong sân thiền viện có hạc trắng bay đến, ngoan ngoăn đứng ở đó giống như đang nghe pháp vậy, Sư sai người ra đuổi chúng đi. Có rất nhiều việc thần kỳ, linh dị như vậy, Sư đều bí mật không nói cho ai biết.

B́nh luận :

Người xưa có việc thần ḱ, linh dị bí mật không nói cho người khác biết, để pḥng người sau tham cầu thần thông linh dị mà bỏ việc tu tập chính giác. Ngày nay, không có thần thông linh dị cũng nói dối rằng có, mê hoặc người khác để trục danh lợi, hai loại tâm thuật này thật khác nhau một trời một vực! Thánh hiền càng tu hành càng đến cảnh giới hoàn thiện; người ngu si càng tu càng đi đến chỗ trầm luân đoạ lạc, giống như thế này lại c̣n cho là kỳ quái sao?.

4.4. Dấu vết trong đám tiều phu – mục đồng

Triều nhà Đường, ở Tŕ Châu, Thiền viện Nam Tuyền, có sư Phổ Nguyện, người Tân Trịnh, Trịnh Châu, nương theo Thiền sư Đại Huệ ở núi Đại Ôi, huyện Mật, xuất gia tu học. Sau đó, được ngộ diệu pháp nơi Thiền sư Mă Tổ Đạo Nhất, ở Giang Tây, thấy rơ tâm địa, sư giấu kín, ẩn cư không để lộ tài hoa và đạo hạnh, xem giống như câm điếc.

Vào niên hiệu Trinh Nguyên thứ 10 (795), đời vua Đường Đức Tông, Sư đến trú tại núi Nam Tuyền, huyện Tŕ Dương. Mặc áo tơi, đội nón cỏ đi chăn trâu, dấu tích để lại trong đám Tiều phu và Mục đồng, phá núi làm ruộng, 30 năm không xuống núi Nam Tuyền.

Đến đời Đường Văn Tông, khoảng niên hiệu Thái Hoà (827-836), thái thú Tŕ Dương và Tuyên phủ sứ Lục Công, hộ quân ở Bành Thành, thỉnh Sư xuống núi khai diễn Phật pháp, rộng độ người sau, một thời đạo phong vang khắp, mọi người tôn xưng sư là Nam Tuyền Cổ Phật.

B́nh luận :

Tổ sư Huệ Viễn 40 năm không rời chân khỏi núi Lô Sơn, Vương Lăo Sư (tức Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện, ngài họ Vương) 30 năm không xuống núi Nam Tuyền, tiết tháo cao thượng của người xưa là vậy. Nhưng đây đều là những sự việc xảy ra sau khi đă hiểu rơ tâm địa, không thích hợp với người mới tu học. Người xuất gia nếu việc lớn sanh tử chưa rơ, tâm chưa khai ngộ, phải nên không sợ đường xa, t́m thiện tri thức để cầu được khai thị dẫn dắt, đâu có thời gian ngu dại ngồi nh́n, giậm chân một chỗ, tự chận đứng cơ hội tiến lên của ḿnh! Triều nhà Đường, ở Triệu Châu, Đông Viện, Thiền sư Tùng Thẩm đến 80 tuổi rồi vẫn c̣n ra ngoài hành cước tham phương học đạo; tại Phước Châu, núi Tuyết Phong, thiền viện Quảng Phước, Thiền sư Nghĩa Tồn, đời nhà Đường, cũng hơn ba lần lên đến Thư Châu, núi Đầu Tử tham bái Thiền sư Đại Đồng, 9 lần đến Sơn Động, Quận Châu, tham yết cầu pháp với Thiền sư Lương Giới. Tôi bạo gan viết mấy lời này, là khuyên bảo một cách thành thật những người xuất gia ngu si mà cứ đi ẩn cư.

4.4. Mọi việc đều do duyên khởi

Triều nhà Đường, ở Đàm Châu, núi Thần Đỉnh, có Thiền sư Hồng Đàm, người Dự Châu, danh tiếng ngang hàng với Thiền sư Thiện Châu, ở thiền viện Thái Tử, Phần Dương. Sư đắc đạo lúc tuổi c̣n nhỏ, chưa đến 30 tuổi, ẩn cư ở Nam Nhạc Hành Sơn 20 năm, sau mới ra trụ tŕ, lại 20 năm sau mới khai đường thuyết pháp. Đây đều do thời cơ nhân duyên chưa đến, không phải ư của Sư, hoặc phải ẩn cư nhiều năm mới trụ tŕ, hoặc thuyết pháp. (Những bậc cao Tăng đại đức sau khi ngộ đạo đều có đủ thần thông tuệ nhăn, hiểu rơ căn tánh chúng sanh, thời cơ và nhân duyên, giống như đi giữa đêm trăng, nhậm vận mà đi).

4.5. Đóng cửa nhiều năm

Triều nhà Tống, ở Đàm Châu, núi Vân Cái, có Thiền sư Thủ Trí. Vào niên hiệu Nguyên Hữu thứ 6 (1091), đời vua Tống Triết Tông, từ bỏ trụ tŕ, rút lui tây đường ẩn cư một ḿnh 30 năm.

4.6. Ở lâu trong rừng sâu

Triều nhà Minh (1368-1644), ở Tuỳ Châu, Long Tuyền, có Thiền sư Vô Văn Tuyệt Học Chính Tông. Sau khi đại triệt ngộ, Sư một ḿnh vào trong núi Quang Châu ẩn tu 6 năm, rồi vào trong núi sâu ở Lục An Châu 6 năm, sau đó lại trở về núi Quang Châu thêm 3 năm nữa, đều ở một ḿnh một bóng trong rừng sâu núi thẳm như vậy tu hành trước sau tổng cộng 17 năm, rồi sau mới vào đời hoằng pháp.

B́nh luận:

Sau khi giác ngộ lớn, độc hành độc toạ, giống như Thiền sư Phổ Nguyện sau khi ngộ, ẩn cư ở núi Nam Tuyền. Những người mới học, tâm tánh chưa khai ngộ, đă từ bỏ Tùng lâm, không ưa ở trong Tăng chúng, xa ĺa thiện tri thức ở ẩn một ḿnh, kiến thức nông cạn, không phải là sai lầm sao?

4.7. Tám lần mời không đi

Triều nhà Tống, ở Phần Dương, thiền viện Thái Tử, có Thiền sư Vô Đức (Thiện Chiêu), đă từng tham học với 70 vị thiện tri thức, trước sau 8 lần được mọi người mời xuống núi thuyết pháp, Sư đều từ chối. Sau đó Sư sống thảnh thơi ở Chùa Bạch Mă, tại Dương Châu. Những người xuất gia, tại gia ở các vùng Tinh Châu, Phần Châu hơn 1000 người đồng loạt kéo lên núi cung thỉnh Sư hạ sơn thuyết pháp độ sanh, cuối cùng, v́ thạnh t́nh khó từ chối, Sư thuận theo ư mọi người xuống núi. Đại sư một lần khai giảng th́ tông phong được chấn hưng lớn, xa gần đều đến, nhưng Sư vốn là người từ trước tới nay không ra khỏi cửa. Sư tự làm một bài ca ‘không ra tự viện’ để biểu hiện rơ chí hướng của ḿnh.

B́nh luận :

Nhất nhất quán sát các bậc cao Tăng Đại đức, sau khi được pháp, đều không để lộ tài năng, mai danh ẩn tích. Đến lúc thời cơ chín muồi rồi mới hiển lộ; nhưng, như Thiền sư Vô Uư đây, bị người ta mời thỉnh đến lần thứ 8 vẫn không đi th́ giấu kín, cẩn thận thái quá. Sau đó Tông phong được đại chấn, lẽ nào không phải là uyên nguyên sâu xa mà lưu truyền trường cửu? Không phải một sớm một chiều có thể bồi dưỡng tạo thành như thế! Ngày nay, người thanh niên mới chút ít tài năng đă vội vàng muốn biểu hiện, sợ người sau không biết đến, sợ làm người lạc hậu, thật không b́nh thường! Giống như quả chưa thật sự chín muồi th́ hái xuống không thơm ngọt, không ăn được. Hỡi những người xuất gia! Phải luôn phản tỉnh xem lại ḿnh, phải chăng xuất thế quá sớm?.


Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 10 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:43am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

4.8. Trọng pháp ẩn cư trong núi.

Triều nhà Nguyên (1206-1368), tại Yên Đô (miền bắc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), chùa Phổ Khánh, có sư Pháp văn, 7 tuổi xuất gia. Sau theo đại sư Quảng Ôn học kinh Pháp Hoa, Duy Thức, Nhân Minh luận và Tứ Phần Luật. Đại sư Quảng Ôn bảo Sư phải tự trọng, tương lai c̣n dài, tiền đồ rất khó khăn, tất cả hy vọng đều đặt lên người Văn Pháp sư. Sư đứng trước tượng Phật đốt một ngón tay, lấy máu viết kinh v.v… cúng dường Phật, để biểu hiện sự tôn sùng Phật pháp. Tiếp đó Sư ẩn cư ở Ngũ Đài Sơn, 6 năm không ra khỏi cửa, đại tạng kinh năm ngàn quyển, tụng được ba lần. Quốc sư của Hoàng đế tán thán, khen rằng : “Người Hán cũng có những Ḥa thượng cao minh như vậy!”.

Không lâu sau, Tây An Vương Đ́nh mời Sư đến chùa Nghĩa Thiện ở Thành Nam, Tây An, khai giảng đạo tràng, Hoàng Đế nghe đến danh đức của Sư, triệu kiến vào hoàng cung, lệnh cho Sư trú tŕ chùa Đại Nguyên Giáo, phong cho Sư hàm Ngân Chương nhất phẩm. Rất nhiều người cầu giới và đắc giới nơi Sư. Niên hiệu Đĩnh Hữu năm thứ tư (1317), ngày 14 tháng 3, đời vua Nguyên Nhân Tông, Sư ngồi ngay thẳng mà tịch.

4.9. Ẩn cư trong chùa cũ

Triều nhà Nguyên, ở Cù Châu, núi Ô Thạch, có sư Kiệt Phong Thế Ngu, người huyện Tây An, Cù Châu. Sư tham học với các đại sư Đại Giác Bố Nạp Tổ Ung, Hàng Châu Đoạn Nhai Liễu Nghĩa, Thiên Mục Trung Phong Minh Bổn… Sau đó lại tham yết đại sư Chỉ Nam, Sư hoát nhiên đại ngộ. Sau khi được khai ngộ, Sư trở về núi Ô Thạch ở Tây An dựng một am tranh tu hành trong một ngôi chùa đỗ nát (chùa cổ Phước Huệ), 6 năm không xuống núi. Sau danh tiếng của Sư truyền đến triều đ́nh, Hoàng đế sai người tâm phúc mang danh hương và Cà sa Kim lan ban tặng cho Sư, phong cho Sư hiệu Hoằng Biện pháp sư. Đời vua Nguyên Thuận Đế, niên hiệu Chí Chính (1341-1368), có xây dựng các Chùa viện mới, như Long Viên, Cổ Vọng, Bảo Cái, Phổ Nhuận v.v… đều thành khẩn cầu Sư làm tổ khai sơn, bất đắc dĩ Sư phải đáp ứng nguyện vọng mọi người.

4.10. Việc ḿnh ḿnh tự lo mới có thể v́ mọi người.

Người xưa đại triệt đại ngộ, việc học đă hoàn thành rồi c̣n phải vào bên suối, dưới rừng, nuôi lớn thánh thai, không sợ đầu lưỡi nhân v́ lâu ngày không nói mà phát mốc. Long thiên Hộ pháp cực lực thúc giục các Ngài xuất thế mới vào đời độ người. Cho nên, một vị Đại đức từ chối không vào đời thuyết pháp đều nói nguyên ư đời đời kiếp kiếp đang ở vào địa vị tham học, để rèn luyện, tu hành. Tôi lúc mới xuất gia, thành kính phụng tŕ điều này, ghi nhớ trong ḷng, sau đó v́ bị bệnh cho nên vào núi tịnh dưỡng, Tăng tục nối tiếp nhau đến cùng tu, lâu dần bất giác h́nh thành Ṭng lâm đạo tràng. Nhưng cho đến hôm nay vẫn không dám tự cho ḿnh là Phương trượng Ṭng lâm; không dám mở miệng vọng luận đạo lư Thiền tông. Chỉ bất quá cùng chúng tu học, không phải lănh đạo mọi người tu hành! Tôi rất xấu hỗ, tuổi đă cao, làm bậc trưởng bối, chỉ hy vọng cùng quư ngài hỗ tương khích lệ nhau mà thôi. Kỳ vọng quư vị Đại đức xem tôi là bằng hữu, có ǵ không phải, xin quư ngài chỉ giáo và sửa chỗ lỗi lầm cho tôi, đây là điều vinh hạnh cho tôi vậy.

4.11. Làm việc chắc chắn, lớn tuổi rồi mới vào đời.

Người xưa sau khi đắc ngộ tâm địa, ở trong hang sâu núi thẳm, dùng nồi bể nấu thức ăn, ẩn náu nuôi dưỡng, cho đến khi Long Thiên Hộ pháp cực lực thôi thúc vào đời, vạn bất đắc dĩ mới nhập thế độ chúng. Người đời sau dần dần không như người xưa. Chỉ học đ̣i làm Pháp sư giảng kinh, luận, hoặc học làm thầy cúng (làm pháp sư du-già thí thực), học thành rồi mà tuổi c̣n nhỏ không dám ra đi, đợi đến tuổi lớn rồi mới dám đi ra. Ngày nay, trước mắt thấy rất nhiều vị thiếu niên lên toà giảng sư ! Thảo nào Phật pháp suy vi.

4.12. Trước thuật nên ở cuối đời

Trước tác của người tu đạo không phải như văn chương, truyện kư… trong thế gian, văn từ có thể dùng ví von, so sánh. Tác phẩm của người xuất gia nhất định phải, trên th́ làm sáng tỏ tâm pháp của Phật, dưới th́ phải khai mở phương pháp ngộ đạo cho người sau. Trách nhiệm này không phải nhỏ. Nếu như sở học chưa tinh thông, chỗ thấy biết chưa chính xác, ổn định, chỉ có một chút sai lầm, không phải là làm trái ư chỉ của Phật và để lại sai lầm cho người hậu học sao? Khổng Tử ba lần đoạn tuyệt vi sách mới đem 10 cách dịch văn ra khen hoàn thành (vi là da, ngày xưa không có giấy, viết chữ lên thẻ tre, dùng da kết lại cho nên gọi là vi sách. Thập dịch là Khổng Phu tử khen dịch văn, tức là Thượng thoán, Hạ thoán, Thượng tượng, Hạ tượng, Thượng hệ Hạ hệ, Văn ngôn, Thuyết quái, Tự quái và Tạp quái). Ông Châu Hy lúc lâm chung c̣n đem yếu chỉ trong chương ‘Thành ư’ của sách Đại học ra cải định. Người xưa đối với việc trước thuật cẩn thận đến như vậy. Học vấn thế gian mà c̣n thận trọng như vậy huống ǵ câu cú, ngôn luận xuất thế, nói là dễ sao? Triều nhà Đường, ở Lăng Châu, có Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám (họ Châu, người Quảng Châu), sau khi xuất gia chuyên tâm nghiên cứu Luật tạng, đối với tánh tướng các kinh đều quán thông yếu chỉ, thường hay giảng kinh Kim Cương, cho nên người bấy giờ gọi sư là Châu Kim Cương. Sau nghe ở phương Nam giường Thiền hưng thạnh, Sư căm giận, bất b́nh, bèn nói: “Người xuất gia ngàn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp học tế hạnh của Phật c̣n chưa thành Phật, nay kẻ ma ở phương Nam dám nói : “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, ta phải đập tan cái sào huyệt này, trừ hết những nghiệt chủng ấy để báo ân Phật”. Sư bèn gánh Thanh Long sớ sao lên đường đến đất Thục, huyện Lễ Dương, gặp một bà già bán bánh, nhân đó sư dừng lại mua bánh ăn điểm tâm. Bà già chỉ vào gánh hỏi: “Đây là gánh ǵ?”, sư trả lời : “Thanh Long sớ sao”. Bà già hỏi: “Giảng kinh ǵ?”. “Kinh Kim Cang”. Bà già lại nói: “Tôi có một câu hỏi, nếu như trả lời được, cho bánh ăn điểm tâm, nếu như trả lời không được, hăy xéo đi chỗ khác. Trong kinh Kim Cang có nói, ‘tâm quá khứ bất khả đắc, tâm hiện tại bất khả đắc, tâm vị lai bất khả đắc’, xin hỏi sư muốn điểm tâm nào?”. Sư trả lời không được, bèn t́m đến Long Đàm. Đến pháp đường sư nói: “Đă lâu nghe danh Long Đàm, đến đây th́ đàm không thấy mà long cũng chẳng hiện”.

Long Đàm Sùng Tín Thiền sư nói : “Người đă đến gần được Long Đàm”. Sư không biết nói ǵ, bèn ở lại. Sau sư đại ngộ, đem Thanh Long sớ sao đến trước pháp đường châm lửa, nói: “Tột cùng các biện luận siêu huyền như một sợi lông ném trong hư không; hết sạch các trọng yếu ở đời giống như một giọt nước trong hồ lớn”, nói xong sư châm lửa đốt sạch. Nếu như sư Đức Sơn không đến Long Đàm th́ cho rằng Thanh Long sớ sao của ḿnh sáng tác là hiếm có trong đời.

Lại có Thiền sư Tùng Duyệt ở Đâu Suất, phủ Long Hưng, theo học với Thiền sư Đạo Ngô, rồi đến Ḥa thượng Trí ở Vân Cái, sau nghe lời Ḥa thượng Trí đến tham học với Ḥa thượng Văn ở Động Sơn, rồi trở về yết kiến sư các đại Hoà thượng Chơn Tịnh Văn v.v… thâm lănh được yếu chỉ sâu xa, vừa được ấn chứng. Sau đó Sư đến Đàm Châu, Thạch Sương, Sở Viên, gặp thị giả của Thiền sư Từ Minh là sư Thanh Tố.

Thiền sư Thanh Tố có đầy đủ sở kiến, Sư thành khẩn xin chỉ giáo, sư Thanh Tố nói rằng, những điều Động Sơn dạy cho ông đều là chánh tri chánh kiến, tiếc rằng ông ĺa xa thầy Văn quá sớm, nhưng chỗ người đạt được chỉ có thể vào Phật mà không thể vào ma, há chẳng thấy cổ nhơn nói một câu rốt sau mới đến lao quan. Nay v́ ông điểm phá, như thế mấy tháng, mới được đại sư Thanh Tố ấn khả. Như vậy, lúc đầu được Thiền sư Duyệt (Diệu Hỷ), ở Đâu Suất làm cho đầy đủ đại tại rồi, sau mới được sự ấn chứng tâm pháp của Thiền sư Thanh Tố. Người tuổi trẻ lo trước tác c̣n không vội tu tập.

TỔNG LUẬN

Hoặc giả có người sẽ hỏi: “Đức Thế Tôn sau khi ngộ đạo thành chánh đẳng chánh giác liền thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm, cũng có Sadi, mới 7 tuổi dự hội thuyết pháp. Nếu như phải ẩn cư nhiều năm, lâu lâu mới xuất thế, th́ ai tiếp độ chúng sanh?” Thật không biết rằng, người xưa làm việc thận trọng không phải là tự lợi cho riêng ḿnh mà quên đi sứ mạng vào đời độ sanh ! Đạo hạnh càng cao, chí hướng càng kiên định, nguyện lực càng sâu rộng, tâm địa càng sáng tỏ, làm việc càng cẩn thận, càng không sai nhân quả. Sau khi ngộ đạo, ở trong rừng, bên suối, nuôi lớn và ǵn giữ tâm linh, đợi cho đến lúc hạnh giải hợp nhất, đạo lớn đă thành, như trái đă chín, hương vị tự nhiên bay khắp, thơm tho, Long thần hộ pháp tự nhiên đến mời xuất thế, công phu lúc này, tuỳ ư tự nhiên thoải mái đều là việc làm tốt đẹp, dùng đức độ chúng giàu có dư dật. Bạn chỉ biết đức Phật một đời cứu độ chúng sanh làm lợi ích cho chúng sanh, mà không biết rằng Ngài đă trải qua ba đại kiếp A-Tăng-kỳ tu tập ! Và không biết rằng Sadi 7 tuổi có thể giảng kinh ấy là đă nhiều đời nhiều kiếp tu luyện huân tập mà thành tựu hay sao? “Phật pháp không phải là cá tươi, sợ để lâu nó thối sao?”, câu nói này tuy đơn giản mà nghĩa lư rất sâu xa!

Nam Mô A Di Đà Phật
Nguyện đem công đức này tiêu trừ nghiệp xưa nay.
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 11 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:48am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Chương 10

V - Cảm Ứng


5.1. Tinh thần cảm giới

Triều nhà Tấn, sư Đạo Tiến, người Trương Dịch, đến đảnh lễ luật sư Đàm Vô Sấm xin thọ giới Bồ tát, luật sư Sấm không nhận lời, bảo Sư trở về sám hối 7 ngày rồi trở lại. Thế là Sư trở về chí thành đảnh lễ sám hối 7 ngày đêm, đến ngày thứ 8 sư lại đến luật sư Sấm cầu giới, luật sư Sấm lại giận không chịu nhận lời. Sư lại trở về đảnh lễ sám hối ṛng ră trải qua ba năm, có một hôm, Sư mộng thấy Phật Thích Ca đích thân truyền giới cho Sư. Sáng ra sư đi đến yết bái luật sư Sấm, định kể lại giấc mộng hồi đêm của ḿnh, nhưng đi chưa đến, từ xa, luật sư Sấm đă nói : “Thầy đă được giới rồi!”. Thế là sau đó, đạo tục khắp nơi đến thọ giới với Sư, người đắc giới có hơn ngàn người.

5.2. Sám hối được diệu âm

Triều nhà Tấn, ở Trung Sơn Bạch, có sư Pháp Kiều, lúc tuổi c̣n nhỏ thích tụng kinh điển, nhưng âm thanh không được rơ ràng, trong sáng. Thế là sư tuyệt thực sám hối bảy ngày đêm, mỗi ngày đảnh lễ Bồ tát Quán Thế Âm, cầu xin Ngài cho quả báo được âm thanh trong sáng rơ ràng trong đời này. Các bạn đồng tu đều khuyên Sư không nên như vậy, sư không nghe, một ḷng chí thành sám hối, đến ngày thứ 7, Sư cảm thấy trong cổ rỗng rang, khai thoáng, muốn uống nước, từ đó về sau âm thanh giọng nói của Sư trong trẻo, rơ ràng, lúc tụng kinh, người ở xa một dặm vẫn nghe được âm thanh của Sư.

5.3. Nguyện ngồi toà sư tử.

Thời Nam Triều, đời Lưu Tống (Tống Vũ đế, hiệu Lưu Dụ), ở Kinh sư, chùa Long Quang, có pháp sư Trúc Đạo Sinh. Đạo Sinh lúc giảng kinh Niết Bàn có nói rằng, kẻ ác tri kiến, không có thiện căn, cuối cùng cũng đều có thể thành Phật. Lúc đó, chỉ có pháp sư Đàm Vô Sấm ở Bắc Lương dịch Đại Bát Niết Bàn kinh, 40 quyển, chưa có các pháp sư Huệ Nghiêm… ở Lưu Tống dịch Đại Bát Niết Bàn, 36 quyển sau này, bấy giờ các pháp sư cựu học đều cho rằng lời nói của Trúc Đạo Sinh là tà thuyết, và phê b́nh Sư. Sư liền ở giữa đại chúng phát thệ nguyện rằng : “Nếu như những lời tôi vừa nói không hợp với nghĩa lư kinh điển, kiếp này cam chịu ác báo; nếu như những lời tôi nói đều khế hợp với tâm ư của Phật, chỉ xin nguyện đến lúc lâm chung, được ngồi trên toà sư tử thuyết pháp mà xả báo thân!”.

Thế là sư đến núi Hổ Châu, quân Ngô, xếp đá vây quanh làm đồ đệ, rồi ngồi giảng kinh Niết Bàn, giảng đến đoạn “Siển đề cũng có Phật tánh”, sư hỏi : “Ta nói như vậy có hợp với tâm Phật không?”, các tảng đá đều gật đầu. Không bao lâu, đại bản kinh Niết Bàn được truyền sang Nam kinh, quả nhiên giảng ‘Siển đề có Phật tánh’. Sau đó, sư về tịnh xá ở Lô Sơn giảng kinh Niết Bàn, vừa giảng xong, đại chúng hốt nhiên phát hiện cây phất trần trong tay Sư rơi xuống đất, Sư đă ngồi ngay thẳng trên pháp toà, giữ nguyên sắc mặt mà viên tịch.

B́nh luận

Ngôn luận của Thánh Nhân có nhiều khi văn từ không đủ nhưng ư nghĩa th́ đầy đủ, rơ ràng; giống như kinh Niết Bàn nói “Siển đề có Phật tánh” là một trường hợp cá biệt. Việc ǵ phải đợi đến khi đại bản kinh Niết Bàn đến nơi? Người thông đạt giáo lư th́ dung hội quán thông, kẻ ngu si th́ cố chấp nơi ư nghĩa câu văn bên ngoài, không chỉ một trường hợp xiển đề có Phật tánh mà thôi, trong kinh Phật có rất nhiều trường hợp như vậy. Và, chánh tri kiến của Trúc Đạo Sinh không hề xao động, kiến cố như Kim Cương, đến lúc lâm chung, quả nhiên như lời thệ nguyện, ngồi toà sư tử thuyết pháp, cao minh chiếu soi kim cổ, thật là vĩ đại.

5.4. Thay đầu trong mộng

Thời Nam triều, đời Lưu Tống, tại Kinh sư, chùa Trung Hưng, pháp sư Cầu-Na-Bạt-Đa-La, người Trung Ấn Độ, tuỳ duyên vân du hoá độ chúng sanh, đến kinh đô nhà Tống. Sau đó, thừa tướng Nam Tiếu Vương, trấn thủ ở Kinh Châu, mời sư cùng đi đến Kinh Châu an nghỉ ở Chùa Hạnh. Tiếu Vương muốn thỉnh Sư giảng kinh Hoa Nghiêm, nhưng Sư tự lượng sức ḿnh không thông thạo tiếng Trung Hoa lắm, nên không dám đảm nhận; thế là sau đó Sư ngày đêm lễ Phật sám hối, cầu nguyện Bồ tát Quán Thế Âm gia bị. Có một đêm, bổng nhiên Sư mộng thấy có một người bạch y, một tay cầm kiếm, một tay cầm một chiếc đầu người đi đến, hỏi sư rằng : “Thầy có việc ǵ lo buồn?”. Sư kể lại toàn bộ sự việc và tâm nguyện của ḿnh cho vị ấy nghe. Người ấy nghe xong bèn dùng kiếm cắt đầu sư và thay vào đó một cái đầu mới. Sư kinh hồn tỉnh mộng, bổng nhiên thông hiểu ngôn ngữ âm nghĩa tiếng Trung Hoa, thế là sư khai giảng các kinh, hoằng dương Phật pháp rất lớn.



Pháp giới các hàm thức, đồng chứng đạo vô thượng.
Nam mô Tây Phương Cực lạc thế giới Đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 12 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:53am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

5.5. Sám hối về tội phá giới.

Thời Nam triều, nước Tề (479-502), tại chùa Bảo Minh, có sư Tăng Vân. Sư Tăng Vân trú tŕ chùa Bảo Minh, nổi tiếng giảng kinh thuyết pháp.

Có một lần, vào ngày rằm tháng tư, chúng Tăng kiết giới an cư, lúc sắp tụng giới, sư nói với đại chúng : “Giới luật mỗi người đều phải đọc tụng, hà tất phải tụng nhiều lần? Có thể gọi một người lên diễn dịch để cho người sau hiểu được ư nghĩa của giới luật th́ tốt”. Đại chúng không ai dám phản đối, thế là không tụng giới nữa.

Đến ngày rằm tháng bảy, giải hạ tự tứ, chúng Tăng vân tập bổng nhiên không thấy sư Vân ở đâu cả, mọi người tứ tán đi t́m, cuối cùng t́m thấy sư trong một cổ mộ cách chùa ba dặm, trên người sư máu me đầm đ́a, hỏi nguyên cớ v́ sao, sư nói : “Có một người rất khoẻ mạnh và hung dữ, tay cầm đao lớn đến chỉ vào mặt tôi mà nói rằng : ‘Tăng Vân! Ông là người ǵ? Tại sao dám bỏ lời Phật chế mỗi nữa tháng tụng giới một lần, dám tự tác lập nghĩa?”. Nói xong dùng dao chém vào người tôi, đau đớn không thể tả”.

Đại chúng khiêng Sư về chùa. Từ đó trở đi, Sư bắt đầu chí thành sám hối, trải qua 10 năm, chí tâm thành kính, y theo quy tắc nữa tháng tụng giới một lần, chưa từng gián đoạn. Đến ngày lâm chung, có mùi hương lạ bay khắp, sư vui vẻ văng sinh. Người đời bấy giờ khen ngợi Sư là người hiện đời có phạm giới nhỏ nhưng mà biết ăn năn hối cải lỗi lầm.

B́nh luận

Ngày nay tôn sùng kinh luận mà xem thường Giới luật, từ hai ngàn năm đến nay không có một Chùa nào nữa tháng tụng giới một lần. Tôi không tự lượng sức ḿnh, Chùa tôi ở trong núi, phục hưng Giới luật bị mất mát, bỏ quên này, lại có nhiều người không tin. Ôi ! Nhân quả báo ứng rơ ràng hiển hiện, từ sư Tăng Vân có thể chứng minh, hy vọng người xem đến chương này nên suy nghĩ nhiều lần.

5.6. Bệnh tật được khỏi

Thời Nam Triều, nước Tề, tại Lương Châu, chùa Tiết, pháp sư Tăng Viễn, trú tŕ chùa Lương Châu Tiết, không đoái hoài ǵ đến oai nghi tế hạnh, vui vẻ với người thế tục uống rượu ăn thịt, phóng đăng không hạn chế. Có một hôm bổng nhiên Sư mộng thấy một vị thiên thần giận dữ mắng sư rằng : “Ông là người xuất gia làm xằng làm bậy như vậy tại sao không lấy gương tự soi lại ḿnh?”. Sáng hôm sau thức dậy, sư lấy thau nước tự soi thấy trong nước h́nh ảnh của ḿnh trên vành mắt có vết đen, cho rằng là bị dơ, lấy tay rửa nó, lông mày theo tay rụng hết xuống đất. Trong một lúc tỉnh hồn, Sư nhận lỗi về ḿnh và tự nhận trách nhiệm, tha thiết sửa đổi lỗi lầm trước đây. Sư mặc áo cũ, đi giày rách, ngày ăn một bửa ngọ, không ăn thịt cá, sớm hôm lễ Phật sám hối, bi thương rơi lệ, trải qua nhiều tháng. Một hôm Sư mộng thấy vị thiên thần lần trước đến mỉm cười nói với sư : “Biết lỗi sám hối có thể nói là đó là người có trí tuệ, bây giờ đương nhiên ta tha thứ cho ngươi!”, sư kinh hăi tỉnh mộng, ḿnh toát mồ hôi, trên mặt sáng láng và lông mày cũng từ từ mọc ra trở lại. Viễn đại sư hai thấy ác-thiện báo, thành tín nhân quả ba đời, không một chút nghi hoặc, từ đó trở đi khẩn thiết phụng hành Phật pháp, không c̣n thối lui, cuối cùng trở thành danh Tăng đại đức.

5.7. Cần khổ tu hành được chứng ngộ

Thời Nam triều, nước Lương, ở Dương đô, chùa Linh Cơ, pháp sư Đạo Siêu, tục tánh Lục, người Ngô đô, thấy pháp sư Mân (xem trước) học vấn giải nghĩa hải nội vô song, trong ḷng rất ngưỡng mộ, muốn được học hỏi giống như Ngài, thế là Sư hăm hở dụng công, quên ăn quên ngủ, hết ngày đến đêm. Có một hôm Sư mộng thấy có người nói với Sư : “Pháp sư Mân vào thời quá khứ, thuở đức Phật Tỳ Bà Thi đă có thể giảng kinh thuyết pháp, thầy mới học Phật tu hành, làm sao bằng Ngài được, chỉ cần nổ lực dụng công, cho dù không được theo căn khí của ḿnh nhưng cũng có chỗ giải ngộ và thành tựu”. Thế là sư khắc khổ, chịu khó, dụng công tu hành, không lâu Sư đại ngộ.

5.8. Lễ Phật sám hối kéo dài tuổi thọ

Thời Nam triều, nước Lương, ở Dương đô, chùa Tuyên Vũ, sư Pháp Sủng, lúc 38 tuổi gặp đạo nhân Pháp Nguyện ở chùa Chính Thắng đến, ông này tinh thông tướng thuật, nói với sư rằng: “Thầy chỉ thọ đến 40 tuổi, không thể trốn thoát. Chỉ có một cách duy nhất là thành khẩn lễ Phật sám hối những tội lỗi trước đây th́ có thể hy vọng được sống thêm”.

Sư Pháp Sủng lấy gương soi mặt quả nhiên phát hiện trên mặt có hắc khí. Thế là sư bán y bát toạ cụ mua hương hoa lễ vật, đi thuyền về phía đông, thẳng đến chùa Quang Hưng ở Hải Diêm (lúc mới xuất gia sư ở chùa này), nhập thất sám hối, dứt bỏ hết mọi việc, suốt ngày quên ăn uống ngủ nghỉ, tối đến không cởi y áo, chỉ tạm nghỉ chốc lát, rồi tiếp tục hành tŕ. Đến năm 40 tuổi, tối hôm năm tuổi, sư cảm thấy hai tai sưng lên rất đau, sư càng thêm sợ hăi, suốt tối hôm đó lễ Phật sám hối đến canh tư, đột nhiên nghe ngoài cửa có người nói : “Nghiệp báo phải chết của thầy đă hết”, sư vội vàng mở cửa ra xem, bốn bề đều lặng lẽ, không thấy thứ ǵ; đến sáng ra hắc khí trên mặt sư hoàn toàn tiêu sạch, hai tai sinh ra một khúc xương. B́nh thường mỗi ngày Sư đảnh lễ 100 vị Phật. Sau đó, Sư sanh bệnh không có cách ǵ đứng được, nhưng vẫn ngồi trên giường mỗi ngày thành khẩn cúi đầu đảnh lễ một trăm lần, coi như là lễ trăm lạy, sư sống đến 74 tuổi mới viên tịch.

5.9. Tụng kinh kéo dài tuổi thọ

Thời Nam triều, nhà Lương, ở Chung Sơn, chùa Khai Thiện, sư Trí Tạng, người Ngô đô, vốn tên Tịnh Tạng, trú tŕ chùa Khai Thiện, núi Chung Sơn.

Có một hôm sư gặp thầy bói tướng mệnh nói với sư : “Nghe nói thầy thông minh cái thế, đáng tiếc thọ mạng không dài, chỉ sống đến năm 31 tuổi”. Lúc đó sư mới 29 tuổi. Thế là sư ngưng việc giảng kinh thuyết pháp, vào tàng kinh các t́m kinh Kim Cương, chí thành tụng niệm, lễ Phật sám hối nghiệp chướng, ngày đêm không nghỉ. Đến năm 31 tuổi, bổng nhiên nghe trong hư không có tiếng nói: “Thọ mạng của thầy vốn đă hết, nhưng v́ công đức tụng kinh Bát Nhă, thọ mạng của thầy được Tăng lên gấp đôi (62 tuổi)”.

Sau đó sư gặp lại vị thầy tướng nọ, ông ta vô cùng kinh ngạc, không biết v́ sao như vậy. Sư bèn nói cho ông ta biết nguyên do, mới biết được rằng công đức của kinh Phật thật bất khả tư ngh́.

B́nh luận:

Tuổi thọ dài ngắn tuy là vận mệnh của mỗi người, nhưng lễ Phật sám hối, tụng kinh có thể kéo thêm tuổi thọ, như thế sống chết do số mệnh đời trước có thể thay đổi. Thí như vào triều nhà Đường, ông Tấn Quốc Công Bùi Độ, mới đầu thầy bói tướng nói ông ta đă hết mạng, sẽ chết đói. Có một hôm Ôâng đi chơi ở chùa Hương Sơn, gặp một thiếu nữ cha bị phán tội oan, đi xin mọi người cho mượn ba viên ngọc, một sừng tê giác, muốn hối lộ quan lớn để cứu cha, lúc cô ta đến trước tượng Phật lễ bái, để các vật đó ở ngoài hiên, rồi quên mất bỏ đi, Bùi Độ t́m kiếm cô ta để trả lại, cuối cùng Ông ta cứu được một mạng người. Sau đó gặp lại vị thầy bói tướng, ông ta nói : “Số mạng của Ngài đă thay đổi, nhất định Ngài đă làm một việc ǵ đó tích âm đức, cho nên đoản mạng đă tiêu mất, ngược lại tương lai c̣n muôn dặm”. Lại giống như vào triều nhà Tống, có ông Tống Tường (tức Tống Giao), người Ung Khâu, cùng với em là Tống Kỳ, đồng đổ tiến sĩ, người đời gọi là Đại Tống, Tiểu Tống. Có một hôm, một vị Hồ Tăng hỏi Đại Tống rằng : “Thần phong của Ngài tôn quư đốn dị, như có thể cứu sống hàng vạn mạng người, rốt cuộc v́ nguyên nhân nào đột nhiên hiện tướng mạo tốn quư này?”. Tống Tường suy nghĩ một lát rồi nói : “A, dưới mái hiên nhà tôi có một hang kiến càng, v́ gió lớn mưa to ngập hết, tôi chơi tṛ bắc cầu tre cho kiến ḅ qua khiến chúng khỏi chết ngộp!”. Hồ Tăng nói : “th́ ra là do công đức này”.

Xem hai chuyện trên đây, sức người đời có thể hoán đổi được thiên mệnh huống chi sức mạnh công đức bất khả tư ngh́ của Tam Bảo? Chỉ sợ rằng không thành kính lễ Phật sám hối giống như hai vị pháp sư Pháp Sủng và Trí Tạng mà thôi! Nếu như là, lúc tụng kinh th́ tụng vài tiếng giống như thổi cái loa nhỏ, ỏn à ỏn ẻn, không chú trọng vào lời kinh để tu quán hoặc do nơi văn kinh mà vào lư; c̣n lúc lễ sám th́ chỉ giống như người giă gạo, trước sau đụng đầu vài cái, căn bản là không có một chút xấu hổ, tàm quư và tâm chí thành sám hối, kinh sám hối như vậy lại trách v́ sao Phật, Bồ tát không có linh ứng.


Tăng trưởng các phước huệ, viên thành căn thắng thiện.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 13 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 2:57am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

5.10. Đĩng chuơng cứu khổ

Triều nhà Tuỳ, ở Kinh sư, chùa Đại Trang Nghiêm, cĩ Pháp sư Trí Hưng, giữ chức vụ đĩng chuơng ở trong chùa.

Vào niên hiệu Đại Nghiệp thứ năm (604), đời vua Tuỳ Giản Đế, Hồng đế đến Giang Nam, nữa đường bị bệnh rồi băng hà, tin dữ này khơng đưa về nhà, Hồng Hậu mộng thấy trượng phu nĩi vời bà : “Ta đến Bành Thành, khơng may bệnh chết, sau khi chết bị đoạ trong địa ngục, rất đau khổ, may nhờ tiếng chuơng chùa Trang Nghiêm, âm thanh chấn động địa ngục, mới cĩ thể vơi bớt đau khổ và được giải thốt, muốn báo đáp ân đức này th́ nên đem 10 thếp tơ lụa tặng cho pháp sư Trí Hưng.”

Hồng hậu đem 10 thếp vải dâng cúng pháp sư Trí Hưng, Sư khiêm tốn tự cho ḿnh khơng đủ đức độ, đem phân phát hết cho mọi người. Đại chúng hỏi sư đánh chuơng v́ sao cĩ cảm ứng lớn như vậy? Sư trả lời : “Tơi đánh chuơng, lúc khai chuơng tơi nguyện “Nguyên chư thánh hiền đồng vào đạo tràng”, thế là đánh ba tiếng, và trước khi đánh một hồi dài tơi lại nguyện “cho hết thảy chúng sanh trong ác thú nghe tiếng chuơng của tơi đều được thốt khỏi khỗ năo”.

Mùa đơng giá rét, tay cầm dùi chuơng da thịt đều nứt ra, máu chảy đọng lại trong lịng tay, nhưng vẫn khơng từ gian khổ làm việc này.

5.11. Thiên thần bảo vệ

Triều nhà Đường, tại Kinh Triệu, chùa Tây Minh, cĩ luật sư Đạo Tuyên, họ Tiền thị. Lúc đầu Sư cùng sư phụ mới nghe Giới luật một lần, liền muốn hành cước tham phương học đạo, sư phụ ngài nĩi : “Đi xa phải từ gần, tự biết khiêm tốn khơng đủ, thọ-tŕ-trí-xả phải hợp thời, tŕnh độ luật học của thầy cịn chưa đủ lại muốn bỏ luật học thiền”. Cưỡng chế Sư đến mười lần. Sau đĩ, Sư tŕ Giới Luật rất tinh thâm, nghiêm khắc, trên đời ít cĩ.

Cĩ một hơm, lúc nữa đêm đang đi thiền hành tại chùa Tây Minh, Sư vấp phải đống đá bị té nhào, đột nhiên cĩ một vị thiên thần mặc áo giáp đỡ Sư lại. Sư hỏi vị ấy là thần ǵ? Thần đáp: “Tơi là Trương Tử Quỳnh, con của Bát xoa thiên vương (Cơn Lưu Bát Xoa, tức Tây phương Quảng Mục Thiên Vương) nhân v́ thấy đại sư giới luật đức hạnh cao siêu cho nên một lịng hộ vệ Ngài”. Tuyên đại sư liền hỏi ơng ta t́nh h́nh lúc Phật cịn tại thế, thần nhất nhất giải đáp rơ ràng, và tặng cho Sư chiếc răng của Phật, bảo chứng cúng dường, dùng để làm tin. Tuyên đại sư ở rất lâu ở Chung Nam, hoằng dương Giới luật, cho nên cĩ hiệu là Nam Sơn luật tơng giáo chủ, sau khi văng sanh, vua truy phong Trừng Chiếu luật sư.

B́nh luận

Nghĩa lư của Giới luật khơng phải là rất huyền áo, Tuyên luật sư cũng khơng phải là người độn căn trí, v́ sao phải giảng lui giảng tới nhiều lần? Bởi v́ giới là gốc rễ căn bản của sự tu tập, v́ để cho nĩ thâm nhập vào xương tuỷ, nghiền ngẫm lâu ngày trở nên kiên cố khơng quên. Hiện tại thọ giới, sau khi thọ một lần th́ đă bỏ qua một bên, cịn khơng hiểu ư nghĩa sơ lược của Giới luật, càng khơng thể nĩi là sư phụ giảng nhiều lần, đệ tử nghe nhiều lần, nghiên cứu thâm nhập như vậy. Tơi nhân đây biết rằng sư phụ của ngài Đạo Tuyên khơng phải là người b́nh thường, và đệ tử của Ngài đào tạo ra đều là những bậc Đại đức, đại hiền, cũng là từ đĩ!

5.12. Cảm thấy tịnh độ.

Triều nhà Đường, tại Lạc Dương, chùa Vơng Cực, cĩ pháp sư Tuệ Nhật, dùng thuyền vượt biển sang Ấn Độ, tham học với các bậc thiện tri thức, thỉnh giáo được các phương pháp tu hành.

Học giả Ấn Độ đều tơn sùng pháp mơn tịnh độ. Đến nước Kiện-Đà-La (Grandhàra), vùng đơng bắc đại sơn cĩ tượng bồ tát Quán Thế Âm, nếu cĩ lịng chí thành cầu nguyện Bồ tát sẽ hiện thân. Sư Tuệ Nhật thành khẩn đảnh lễ và tuyệt thực, lập nguyện dù cĩ bỏ mạng tại đây cũng phải thấy được Bồ tát Quán Thế Âm, đến bảy ngày đêm sau, hốt nhiên thấy trong khơng trung kim thân của Bồ tát Quán Thế Âm hiện rơ ràng, ngồi trên tồ sen báu, đưa tay xoa đầu sư và nĩi : “Con muốn hoằng pháp tự lợi, lợi tha, phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà ở thế giới Tây phương cực lạc, cần phải biết rằng pháp mơn tịnh độ hơn hẳn các pháp mơn khác”. Nĩi xong liền biến mất. Sư Tuệ Nhật sau khi trở về Trường An, phổ biến pháp mơn và khuyên người niệm Phật.

B́nh luận:

Đại sư Tuệ Nhật tại nước Kiền đà, lịng chí thành đă cảm ứng Bồ tát Quán Thế Âm hiện thân; và, vào triều nhà Đường, tại Ngũ Đài Sơn, chùa Trúc Lâm, pháp sư Pháp Chiếu (tổ thứ 4 tơng Tịnh Độ), siêng năng cần mẫn tu tập đă cảm ứng đến hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền hiển hiện trên Ngũ Đài Sơn*. Hai sự kiện này đại lược tương đồng và đều là do lịng chí thành khẩn thiết mà sau cĩ cảm ứng, khơng cĩ ǵ nghi ngờ. Sự cảm ứng của Tịnh Độ khơng chỉ một người cĩ, đầy đủ đă ghi trong Văng sanh tập, ở đây khơng tiện ghi ra.

5.13. Nước cam lồ rĩt vào miệng

Vào thời Ngũ Đại, tại Tiền Đường, chùa Vĩnh Minh, cĩ Thiền sư Diên Thọ. Lúc chưa xuất gia Sư làm quan phát lương cho quân lính, dùng tiền của quân đội mua vật phĩng sanh, tội đáng bị xử tử, nhưng vua Ngơ Việt Văn Mục Vương đặc xá cho Sư.

Sau xuất gia, Sư từng thực hành pháp sám hối Pháp Hoa hai mươi mốt ngày, rất mực thành khẩn. Một đêm nọ, Sư mộng thấy Bồ tát Quán Thế Âm dùng nước cam lồ rĩt vào trong miệng Sư, từ đĩ trở đi Sư biện tài vơ ngại.

5.14. Sám hối được thọ kư

Triều nhà Đường, tại Lộ Châu, chùa Pháp Trú, Thiền sư Đàm Vinh, mỗi năm vào mùa xuân và mùa hạ giảng kinh luận giáo,vào mùa thu và mùa đơng tỉnh toạ tham thiền. Sư từng đến chùa Diên Thánh, ở Hương Huyện, Hàn Châu, lập pháp sám hối, Thứ sử Phong Đồng Nhân tặng 3 viên xá lợi, Pháp sư Vinh nĩi với đại chúng: “Cơng đức của xá lợi biến hố khĩ lường, nếu cĩ lịng thần khẩn muốn tiêu trừ tội chướng và cầu nguyện cĩ thể xin được nhiều viên”. Thế là mọi người lấy một bát nước đặt trước 3 viên xá lợi và đốt một lị hương, suốt đêm cầu nguyện đến sáng hơm sau thu hoặc hơn 400 viên xá lợi.

Vào niên hiệu Trinh Quán thứ 7, Thanh Tín, Sĩ Thường, Ngương Bảo v.v… mời đại sư Vinh ở chùa Pháp Trú thực hành pháp Sám hối Phương Đẳng (đại sư Thiên Thai nương theo kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni sáng tác ra, cĩ Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp 1 quyển. Phương Đẳng Tam Muợi và Pháp Hoa Tam Muội đều là bán hành bán toạ Tam Muội trong bốn loại Tam muội. Thực hành Phương Đẳng Tam Muội để sám hối tội chướng của 6 căn). Chùa Pháp Trú cĩ một vị Hịa thượng tên là Tăng Định, giới hạnh tinh nghiêm, thấy trên đạo tràng cĩ đại hào quang, trong hào quang cĩ 7 vị Phật quá khứ, cĩ một Đức Phật nĩi với đại sư Vinh rằng: “Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni, v́ thấy con thân tâm giới hạnh thanh tịnh cho nên đến thọ kư cho con, sau này con sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Ninh, là một trong ngh́n vị Phật ở kiếp Hiền”.(Cũng thọ kư cho ngài Tăng Định thành Phật hiệu là Phổ Minh).

Vào mùa đơng năm ấy sư Vinh viên tịch. Lúc viên tịch, cĩ mùi hương lạbay khắp phịng, thật lâu khơng mất.

5.15. Trong miệng mọc hoa sen.

Vào triều nhà Đường, tại Minh Châu chùa Đức Nhuận, cĩ pháp sư Toại Đoan, trú tŕ chùa Đức Nhuận. Sư chuyên tụng kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ngày đêm 12 thời, chưa từng nghỉ ngơi, càng già càng siêng năng. Vào đời Đường Ư Tơng, niên hiệu Hoặc Thơng năm thứ 2, sư ngồi kiết già rồi hốt nhiên viên tịch. Sau khi viên tịch khơng lâu, trong miệng mọc ra một cành hoa sen dài 7 cánh.

Thi thể của ngài chơn ở dưới núi, phía đơng, trong khoảng hai mươi năm ngơi mộ thường phát ra hào quang, mọi người khai quật mộ lên, mở nắp hịm ra vẫn thấy dung mạo h́nh sắc thi thể ngài như cũ khơng thay đổi, khơng hư hại khơng thối rữa, giống y như lúc người cịn sống. Đại chúng liền rước di thể của Ngài về lại trong Chùa, phủ lên người ngài một lớp vàng để trang sức, cúng dường như xưa. Hiện nay Chùa Ứng Nhuận (Tống Cao Tăng Tuyện gọi là chùa Đức Nhuận), gọi là Viện Chân Thân.

5.16 Thầy thí thực

Pháp Du Già Diệm Khẩu thí thực là do Ngài A Nan bị Ngạ quỉ hăm doạ, nĩi ngài ba ngày sau sẽ chết và đoạ vào đường Ngạ quỉ, trừ phi bố thí cho trăm ngàn vạn ức vơ số ngạ quỉ ẩm thực, và cúng dường tam bảo, th́ mới thoat nạn. Ngài A Nan hỏi Phật phải dùng phương tiện thí thực như thế nào th́ được thốt nạn khổ này? Phật bảo Ngài A Nan : “Cĩ thần chú Đà La Ni tên gọi là “Vơ lượng oai đức tự tại quang minh thù thắng diệu lực”, nếu cĩ người tụng chú Đà La Ni này th́ cĩ thể đầy đủ thức ăn thượng diệu cho Na Do Tha trăm ngàn hằng hà sa vơ số ngạ quỉ và Bà La Mơn, tiên nhân.v.v… Tất cả các chúng như vậy cho đến mỗi mỗi đều được bảy bảy bốn chín hạt cơm của nước Ma Ca Đà. A Nan! Ta ở kiếp trước làm một Bà la mơn, nơi chỗ Bồ tát Quán Thế Âm và Thế Gian Tự Tai Oai Đức Như Lai, được chú Đà La Ni này, cĩ thể phân phát thức ăn bố thí cho vơ lượng ngạ quỉ và chư tiên.v.v…khiến cho hết thảy các lồi ngạ quỉ được giải thốt khổ đau và sanh lên cơi trời. A Nan! Ơng nay thọ tŕ chú này th́ phước đức thọ mạng đều được Tăng trưởng”.(Trích “Phật nĩi kinh cứu bạt diệm khẩu ngạ quỉ Đa La Ni”), là kinh điển thâu nhiếp tồn bộ Phật giáo. Mật giáo do pháp Sư Kim Cang Trí và pháp sư Đại Quảng Trí Bất Khơng ở Triều Nhà Đường ra sức hoằng dương mà được đại hưng thịnh. Hai ngài cĩ khả năng sai khiến quỷ thần, dời núi lấp biển sức mạnh oai thần khơng thể nghĩ bàn. Truyền được mấy đời sau th́ khơng cĩ người kế thừa cho nên chỉ cịn lại một pháp thí thực mà thơi. Tay kiết ấn, miệng tụng chú, tâm quán tưởng, ba nghiệp thân miệng ư tương ưng gọi là làm pháp “ Du Già” việc này khơng phải dễ! Người ngày nay tay kiết ấn, miệng tụng chú cịn chưa được tinh thơng huống ǵ cơng phu quán tưởng cịn khĩ hơn? Như vậy, cơng phu thân khẩu ư khơng được tương ưng khơng đến nơi đến chốn th́ khơng chỉ khơng cĩ lợi ích cho ngạ quỉ quần sanh, mà ngược lại cịn cĩ hại cho ḿnh.

Tối hơm qua, tại núi Vân Thê của chúng tơi cĩ một vị khách Tăng, bị bệng rất trầm trọng, tối hơm đĩ ngồi chùa đang làm lễ thí thực. Vị Tăng này nĩi với những người giúp ơng ta rằng: “ Cĩ một con quỉ muốn dẫn tơi cùng đi ăn thí thực tơi từ chối khơng đi, khơng lâu sau con quỉ lại trỡ về nĩi: Thầy thí thực chưa thành tâm cúng thí, báo hại chúng tơi khơng được ăn, chạy khơng một chuyến, nhất định phải trừng trị ơng thầy này một phen thế là bọn chúng khiêng tơi cùng đi. bọn quỉ cầm mốc câu nhiểu loạn, muốn kéo ơng thầy cúng thí thực xuống đất. Tơi vơ cùng sợ hăi, thất thanh kêu cứu bọn quỉ mới bỏ đi”. Qua mấy ngày sau vị Tăng này chết, trước khi chưa chết đă đi với quỉ, là điềm báo trước phải chết. Hơm đĩ khơng phải ơng ta kinh hải kêu lên th́ ơng thầy trên đàn thí thực đă gặp nguy hiểm .Khơng phải chỉ một sự kiện này, cịn cĩ một thầy thí thực khác khơng thành tâm thành ư, bị quỉ khiêng xuống nhận nước dưới sơng mà chết đuối; ngồi ra cịn cĩ một thầy thí thực quên khố tủ quần áo trong lịng ơng ta chỉ nhớ đến xâu ch́a khố, các lồi quỉ chỉ nh́n thấy thức ăn trên bàn đều là sắt thép, cuối cùng khơng ăn được. Lại cĩ một thầy thí thực khác phơi áo lơng quên đem vào phịng gặp trời mưa, trong lịng nhớ đến chiếc áo lơng này, các lồi ngạ quỉ xem thấy thức ăn trên bàn đều là lơng thú hai người này đều bị quả báo hiện tiền. Ngồi ra cĩ một người từng ở trong định, đi vào địa ngục, thấy cĩ một địa ngục hắc ám trong đĩ cĩ hàng trăm vị tu sĩ, h́nh hài tiều tuỵ dung mạo thiểu năo giống như vơ cùng đau khổ, ưu sầu, hỏi họ là người ǵ, mới biết đĩ đều là những thầy thí thực! Thí thực khơng phải là một việc làm đơn giản, từ đây phải Tăng thêm lịng tin tưởng.

Cĩ một vị tự xưng là người Tây vức đến, chuyên làm pháp sư thí thực. Lúc ơng ta hành lễ khơng dùng nước lạnh để sái tịnh mà dùng nước sơi để trong b́nh, lấy tay vĩc ra vẩy, những giọt nước sơi này văng ra đụng vào mặt người ta khơng làm bỏng. Mọi người đều rất kinh ngạc, v́ vậy thỉnh mời ơng ta đi cúng rất nhiều, liên tục khơng dứt. Tơi cho rằng việc này chẳng cĩ ǵ đáng để thưởng thức. Ngày nay trên thế giới cĩ những thầy mo hiệu Đoan cơng thái bảo cũng cĩ khả năng dùng những cuộn thép lửa hồng trĩi quanh thân thể của ḿnh, dùng dao bén đâm vào họng, th́ những việc dùng tay khơng vĩc nước sơi so với việc này chỉ là tiểu mo thấy đại mo mà thơi. Đức Phật thiết lập pháp Diệm khẩu thí thực vốn là v́ để cứu cái nghiệp lực của ngạ quỷ mỗi khi đưa thức ăn đến miệng bị biến thành than lửa, cho nên dùng nước cam lồ và những ngữ chú, chân ngơn để tiêu diệt những phiền năo khổ đau của chúng, khiến cho chúng được thanh lương. Thế th́ dùng nước sơi để mà làm ǵ? Những lời đức Phật dạy, những kinh điển đă ghi chép lại đây để làm ǵ? Những người này dùng phép thuật mê hoặc chúng sanh, dụ dỗ trăm họ, thật tại tội đại cực ác, khơng cĩ một tội lỗi nào cĩ thể so sánh hơn.

Hoặc cĩ người nĩi : Ơng ta cĩ thể dùng nước đồng sơi biến thành nước lạnh, cho nên khơng cần phải dùng nước! Thử suy nghĩ kỷ một chút, nếu quả thật như vậy th́ ơng ta cũng nên biến củi mục thành trầm hương, đàn hương mà bất tất phải dùng hương; đem bĩng tối biến thành ánh sáng mà khơng cần phải dùng đèn; đem ngĩi gạch biến thành trái táo, trái lật mà khơng cần phải mua sắm trái cây; đem cây cỏ biến thành mẫu đơn, thược dược mà khơng cần phải dùng hoa; đem bùn đất biến thành lúa dẻ, lúa mạch, lúa mùa, lúa tắc, mà khơng cần đến cơm gạo. Nếu quả thật như vậy v́ sao hơm nay ơng ta khơng đem nước sơi sái tịnh biến ra những hương, hoa, đèn, cái cây, cơm gạo v.v…? người mắt sáng nên suy nghĩ kỷ một chút!

TỔNG LUẬN

Tơi ghi chép tơn hạnh của chư vị cổ đức đến đây lấy chương Cảm ứng làm chương kết, cĩ người ở bên cạnh cười nĩi:

“Cái gọi là đạo th́ khơng cần phải mượn sự tu tŕ, mượn sự ấn chứng, chân như tự tánh vốn tự đầy đủ, khơng tu, khơng chứng tức là vốn khơng cĩ cảm ứng, xưa nay khơng cĩ một vật, bụi bặm bám vào đâu? Tâm khơng định như vậy, thầy khơng phải là người nhớ ghi cảm ứng để biến thành mưu kế t́m cầu danh lợi sao?”

Tơi trả lời: “Đánh vào trống th́ trống phát ra âm thanh, trăng soi xuống nước th́ thấy bĩng trăng, đĩ là cái đạo lư rất tự nhiên, đâu cần phải cĩ mưu kế và t́m cầu? Cho nên, vào triều nhà hậu Hán, cĩ trung thần Lượng Phu. Lúc bấy giờ đất nước đang gặp mùa hạn hán, ơng ta lập đàn trên núi cầu trời, tự phơi ḿnh ngồi nắng, v́ thần dân trăm họ mà cầu phước, phát thệ nguyện rằng, đến trưa mà trời khơng mưa th́ ơng ta sẽ dùng thân ḿnh để tạ tội, chất củi tự thiêu. Đến trưa hơm đĩ, núi đổi sắc, trời mưa xối xả, hết thảy đều được thấm nhuận. Người đời gọi đĩ là lịng chí thành mà được. Lại nữa, vào triều nhà Tấn, hiếu tử Vương Tường, sớm mồ cơi mẹ, ơng đối xử với mẹ kế rất chí hiếu. Cha mẹ cĩ bệnh, ơng hầu hạ khơng mệt mỏi. Mẹ ơng thèm ăn cá tươi, bấy giờ trời đang mùa đơng, trên đất tuyết phủ băng dày, Vương Tường cởi áo nằm ra trên đất, băng tự nhiên tan ra và cĩ cá nhảy ra, ơng đem cá trở về dâng mẹ*. Lịng chí trung, chí hiếu mà cĩ cảm ứng đĩ là đạo lư rất b́nh thường! Đâu cĩ ǵ lấy làm lạ lùng? Giả như khơng cĩ cảm ứng th́ khơng thể nĩi một chút nhân quả, báo ứng. Trong Chứng đạo ca, Thiền sư Vĩnh Gia cĩ nĩi : “Thơng suốt được lẽ khơng mà bỏ mất đạo lư nhân quả th́ tai ương, hoạ hoạn khĩ lường”, chính là sợ người tu hành chấp vào cái ngoan khơng, dễ phủ nhận nhân quả, mịt mịt mờ mờ, bất tri bất giác trơi lăn trong vạn kiếp khổ đau. Người tu hành cĩ thể khơng cẩn thận, lo sợ sao?

* Đại sư Chiếu được hai vị Thiện Tài và A Nan dẫn vào cửa chùa, trước chùa cĩ một cái bảng lớn bằng vàng, ghi : “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”, khuơn viên chùa rộng 20 lư, 120 viện đều cĩ bảo tháp trang nghiêm, tất cả đều bằng vàng, suối, hồ, hoa, cây cối đều tốt tươi. Đại sư Chiếu vào đến trong giảng đường, thấy Bồ tát Văn Thù ở phía tây, Bồ tát Phổ Hiền ở phía đơng,đều ngồi tồ sư tử thuyết pháp tất cả đều nghe được. Đứng hầu hai bên Bồ tát Văn Thù cĩ hơn một vạn Bồ tát; Bồ tát Phổ Hiền cũng cĩ vơ số Bồ tát vây quanh. Đai sư Chiếu đến trước hai vị Bồ tát đảnh lễ nĩi: “Thời kỳ mạt pháp chúng sanh phàm phu cách thánh thời xa, tri thức nơng cạn, nghiệp chướng sâu dày, Phật tánh do đĩ khơng hiển hiện; Biển phật pháp mênh mơng, khơng biết tu hành pháp mơn ǵ là tốt nhất? Xin nguyện đại thánh v́ con đoạn trừ nghi hoặc này”.Bồ tát Văn Thù tră lời: “Con nay niệm Phật chính là phải lúc, tất cả các pháp mơn tu hành khơng cĩ pháp mơn nào hơn niệm Phật, cúng dường Tam Bảo phước huệ song tu. Hai pháp mơn này là tối thắng hơn hết. V́ sao? Ta ở trong kiếp quá khứ nhân tu quán, niệm Phật, và cúng dường cho nên ngày nay được nhất thiết chủng trí. V́ thế, hết thảy các pháp Bát Nhă Ba La Mật, thiền định thậm thâm, cho đến chư Phật, đều từ niệm Phật mà sanh. Cho nên phải biết rằng niệm Phật là vua của tất cả các pháp, con phải nên thường niệm vô thượng pháp mơn này, khiến cho khơng dưng nghĩ”. Đại sư Chiếu lại hỏi: “ Phải niệm như thế nào?” Bồ tát Văn Thù nĩi: “Ở thế giới phương tây cĩ đức phật A Di Đà, đức phật đĩ cĩ nguyện lực khơng thể nghĩ bàn con phải liên tục niệm danh hiệu của ngài khiến cho khơng giáng đoạn sau khi mạng chung nhất định được văng sanh, vĩnh viễn khơng thối chuyển. Nếu thiện nam tín nữ v.v…Muốn nhanh chĩng thành phật th́ nên niệm phật khơng gián đoạn, chắc chắn nhanh chĩng chứng quả vơ thượng bồ đề.”

*8 Nằm trên băng cĩ cá nhảy ra cĩ ba trướng hợp, một là Vương Tường, hai là Vương Diên, ba là Sở Liêu, đều cĩ ghi trong “Sưu thần kí”


Nam Mơ Ta Bà Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Phật
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
sunbeam
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 06 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 96
Msg 14 of 34: Đă gửi: 30 April 2006 lúc 8:30pm | Đă lưu IP Trích dẫn sunbeam

Toithichhoc đă viết:
        Từ Bi Với Bác Ái
       Uông Trí Biểu
   Việt dịch: Thích Tuệ Đăng

Các nhà tôn giáo xướng lên thuyết bác ái, những nhà học giả không bàn xét đến lư chân thật, đua nhau họa theo, và cho đó là thiên kinh địa nghĩa. Phật giáo chẳng những không nói bác ái, mà c̣n cho "ái" là cái nhân của khổ năo và nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Vậy Phật giáo nói từ bi, các tôn giáo khác nói bác ái khác nhau ở điểm nào.

Xin trả lời rằng: Hai thuyết này ư nghĩa tuyệt nhiên không giống nhau; bởi v́ đă gọi là "ái" tức là yêu, tất có năng ái và sở ái (nghĩa là người yêu và kẻ được yêu), đă có năng sở (người yêu và kẻ được yêu), tất có nhân ngă (người và ta), lấy ngă làm năng ái, nhân làm sở ái. Đă có tướng nhân ngă, tức là có tâm phân biệt, yêu ta hơn yêu người, thế gian thường t́nh đều như thế cả, đó gọi là tục kiến; nhưng nếu mà yêu người hơn yêu ta, th́ cũng trở thành thiên kiến. Hơn nữa, đă gọi là "yêu", tất phải có điều kiện để yêu, ví dụ: Ta yêu người kia v́ tướng mạo đẹp, học vấn giỏi, phẩm tính tốt; thế nhưng tướng mạo, học vấn, phẩm tính không phải là cố định, chẳng phải là tuyệt đối; một mai theo thời gian biến đổi không c̣n đẹp, giỏi, tốt được như xưa hoặc chẳng được bằng người, th́ sinh ra chán ghét không c̣n trở lại yêu người ấy nữa. Tiến thêm một bước để nói, cái ǵ ta yêu th́ người khác cũng yêu, ta yêu nên lấy đó làm vật sở hữu của ta, và người khác phải mất cái vật để yêu của họ, v́ ta được mà người mất, người được mà ta mất, cho nên sinh ra tâm ghen ghét, phát ra ở việc làm là giết hại, trộm cướp, dâm dục; và xét đến kết quả của nó là oán ghét nhau mà gặp gỡ là khổ, cầu mong việc ǵ mà không được toại ư là khổ, yêu muốn mà phải xa ĺa là khổ. V́ thế, Phật nói "Ái" là gốc của luân hồi sinh tử và nhân của ưu bi khổ năo. "Ái" đă là cái nhân nhim trược, th́ "Bác" dù có nghĩa là "rộng răi" đến đâu đi nữa cũng không thế nào biến ô nhim thành thanh tịnh được. Đó là cái lư do Phật giáo không đề xướng thuyết "Bác ái".

Lại có một câu nói cửa miệng là: "Ái Ngă Địch Nhân" có nghĩa là tôi yêu kẻ địch của tôi, đó là một câu nói mà các nhà tôn giáo thường đề cập đến. Nhưng thật ra, đă gọi là kẻ địch, ắt hẳn trong tâm đă có tướng đối địch, đối với tướng đối địch mà khởi ra tâm thù oán, hờn giận, ghen ghét, chứ quyết không thể sinh ra tâm vui mừng, ḥa nhă thương yêu được; ví dù họ có min cưỡng thương yêu kẻ thù địch của họ đi nữa, đó chẳng qua cũng chỉ là cái tâm hư ngụy giả dối mà thôi. Phật giáo th́ không bao giờ nói đến cái tâm ấy, mà chỉ dạy chúng ta đối đăi với bọn người làm năo hại ta, trước hết, phải có quan niệm b́nh đẳng, mà không có tư tưởng đối địch, và cũng không cần yêu thương đến họ, mà chỉ nên khởi tâm đại bi đồng thể, bằng cách t́m mọi phương pháp làm cho họ tiêu tan cái tâm ác hại, chuyển thành cái tâm vui mừng, đó mới đúng là Phật pháp.

Nghĩa chính của hai chữ Từ bi, theo Phật giáo giải thích: Từ là cho vui, Bi là cứu khổ. Từ bi không phải lấy cái "Ngă" làm trung tâm xuất phát mà là kiến lập trên thể tướng b́nh đẳng đối với tất cả chúng sinh. Như vậy, Từ bi với Bác ái khác nhau. Ở trên đă nói, đứng về phương diện vật chất, th́ tất cả chúng sinh đều cùng một thể không sai khác; đứng về phương diện tinh thần, th́ tất cả chúng sinh đều có đủ tâm thức, vả lại, tinh thần lại không có thể phân chia giới hạn được, như thế chứng tỏ là tất cả chúng sinh đều b́nh đẳng nhất thể. Nên chữ Từ trong Phật giáo cũng gọi là B́nh đẳng từ, Vô duyên từ: Bi là Đồng thể bi. Chúng ta khi luyện tập pháp "Từ bi quán" trước hết, phải quán nghĩ tất cả chúng sinh (trong đó có ta) là b́nh đẳng nhất thể, nếu thấy chúng sinh cần dùng vật ǵ, ta nên tùy phận, tùy sức giúp đỡ cho họ vật ấy khiến họ được đầy đủ và vui thích. Trong khi ta thí xả, cần nhất là không nên tưởng nghĩ rằng ta là người cho, kẻ kia là người được cho, và cũng không nên tưởng nghĩ đến những tài vật ḿnh cho nhiều hay ít; có như thế mới không sinh tâm ngă mạn, không cầu danh dự, không mong báo đáp, không duyên với mọi tướng; đó mới được gọi là Vô duyên từ - B́nh đẳng từ. Nếu thấy chúng sinh có điều ǵ đau khổ, nên khởi ra cái tâm tưởng đồng thể, chúng sinh bị khổ, tức là ta bị khổ, không phân biệt kẻ kia với ta, và nên phát tâm đại bi, tuỳ phận, tùy sức để cứu giúp cho họ qua khỏi sự đau khổ. Trong khi ta cứu độ chúng sinh cũng không nên tưởng nghĩ đến tướng ta, tướng người, không cầu danh dự, báo đáp, không trụ vào mọi tướng, đó mới gọi được là Đồng thể đại bi.Ta đă hiểu rơ lư luận của hai chữ Từ bi rồi, tự nhiên không c̣n giết hại chúng sinh để dinh dưỡng cơ thể, không c̣n lấy của cải phi nghĩa để tiê xài xa phí, và cũng không c̣n tham yêu sắc đẹp để khởi tâm dâm dục. Bởi khi ta đă giác ngộ được ḿnh với các loài vật như gà vịt, trâu ḅ v.v. . đều cùng chung một bản thể, của cải sắc đẹp cũng không phải ngoài tâm ta mà có, cho đến người tham và vật bị tham cũng không có nữa; song chúng sinh sở dĩ phạm vào tội Sát, Đạo, Dâm đó chẳng qua chỉ là do "ngu si" mà thôi. Lại nữa, sau khi ta hiểu rơ lư luận của từ bi rồi th́ đối với những vô số sự tích cảm ứng của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm không nên cho là mê tín và hư ngụy, v́ ta biết rằng Pháp thân Bồ Tát với bản tính chúng sinh là B́nh đẳng nhất thể, cho nên, ta có cảm, th́ Ngài có ứng, nhưng cần phải đầy đủ ḷng chí thành khẩn thiết bằng không th́ sẽ bị tham dục phiền năo làm chướng ngại, khó cùng với bản thể để tương ứng. Nếu Bồ tát với bản tính chúng sinh không đồng nhất thể, th́ Bồ tát không thể tùy duyên ứng hiện và đi lại cơi nhân gian để cứu ứng những phiền muộn khổ năo cho chúng sinh được.

Bạn nghĩ như thế nào về đạo đức và các thuyết như trên??



Trước khi đạt được hai chữ Từ Bi th́ phải qua giai đoạn Bác Ái.

Sinh ra đời ai cũng có sẵn t́nh yêu vị kỷ. Biết được như thế, người tu phải dần dần từ bỏ nó để đạt cho được ḷng bác ái vị tha. Mà hễ ai có ḷng tất cả v́ người mà làm, mà yêu thương th́ ḷng Từ Bi cũng đạt được luôn.

Thực tế muốn là con người tốt th́ không sao tránh khỏi điều này : có một việc ǵ đó để làm, có một ai đó để yêu và có một điều ǵ đó để hy vọng.

Là Phật tử, không ai mà không yêu mến Đức Phật. Có ai khởi ḷng yêu thương Ngài giống như một con kiến đang cắn ḿnh không?

Ḷng từ bi chung chung dễ biến con người thành gỗ đá chứ chẳng thành Phật thành Thánh ǵ cả đâu.

Đạo Phật là đạo của lư trí mà cũng phát sanh một nhánh là Tịnh Độ Tông. Nếu xét cho cùng th́ cũng giống như các tôn giáo Độc Thần khác. Của ḿnh th́ ḿnh tha, người khác làm th́ ḿnh la, ḿnh rủa. Thế là thế nào?

Quay trở về đầu Xem sunbeam's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sunbeam
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 15 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:03am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Xin cảm ơn bạn sunbeam.

bạn đă phân tích rất hay, và tôi cũng chắc bạn đă đọc và nghiên cứu rất kỹ.

Tôi cũng xin nói cho bạn rơ hơn!

Tôi cũng chỉ nêu lên chung một vấn đề đó là Bác Ái và Từ Bi, v́ mọi người sẽ nh́n nhận khác, và mục đích của tôi cũng không ngoại trừ làm cho con người nhận thức được vấn đề đó thôi. Khi họ đă nhận thức rồi, tôi tin họ sẽ t́m hiểu kỹ hơn và giúp xă hội có nhiều người tốt cho xă hội ngày càng có nhiều điều làm chúng ta phải nghĩ tới.

Bạn có đồng ư với tôi không??? Mong tin của bạn. để tôi sẽ có nhận thức đúng hơn điều tôi làm. Xin cảm ơn!

Nam Mô A Di Đà Phật


Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 16 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 2:09am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

        "CHỮ MUỐN"

Một tấc QUAN ÂM một tấc vàng,

Thương đời BỒ TÁT giáng trần gian,

Đem mầm chơn lư gieo cùng khắp,

Nhắc nhở nhơn sanh tỉnh mộng tràng.

Xă hội tại sao có thể làm được những điều vĩ đại cũng như hèn kém cũng tại một chữ, chỉ một chữ thôi, trong bước đường hành đạo cũng như tu thân, để toàn thể hiền sĩ hiền muội hiện diện nơi đây cũng như khiếm diện suy gẫm mà tự làm chủ thân tâm, khắc phục mọi chướng ngại do nội tâm để hầu vững bước tu thân hành đạo.

Đó là chữ “Muốn”.

Từ ngàn xưa, các bậc Thánh Nhân cũng do chữ Muốn mà được sáng danh nơi hậu thế. Các Đấng Phật Tiên Thánh Thần cũng do chữ Muốn nên được Thiên Tôn và Thế Tôn. Các bậc tiền nhân ưu thời mẫn thế, thương nước thương dân, được khảm vào sử xanh trong mai hậu, cũng do chữ Muốn.

Người xưa, các bậc, các đấng từ ngàn xưa đă có chữ Muốn. Do chữ Muốn đă làm động cơ thúc đẩy cho hành động. Người xưa không bị chữ Muốn điều khiển v́ đă có lư trí xét đoán tận cùng, đă nhờ bản tâm cương trực kềm chế chữ Muốn, do đó không thể nào làm nô lệ cho chữ Muốn. Nếu không có chữ Muốn nơi con người th́ không có động lực thúc đẩy cho làm một sự ǵ. Nhưng nhờ các bậc ấy làm chủ điều khiển sự Muốn, chi nên nó chỉ được hoạt động thúc đẩy trong giới hạn, trong phạm vi đạo lư nhơn nghĩa lễ trí.

Tiếc v́ đời nay, người thế gian sanh vào thời trọng trược, vật chất nặng mang, sự nh́n và xét đoán rất thiển cận và ích kỷ, nên lơ đễnh một chút th́ đă bị chữ Muốn sai khiến. Một lần sai được nhiều lần sai được, rồi lần hồi biến con người trở thành nô lệ cho sự Muốn. Do đó nên trong Đạo Giáo và các kinh điển Đạo học, có nhiều chỗ ngăn cấm và dạy người đời phải diệt ḷng ham muốn.

Sự thật, nếu mỗi người không có ư Muốn, như cây như đá, như vật vô tri vô giác, không thể nào làm được việc ǵ. Than ôi! mấy ai hiểu được tường tận và phân tách tỉ mỉ như vậy. V́ thế cho nên, cũng v́ chữ Muốn đă làm con người từ thanh cao đến hạ tiện, từ chỗ thương nước mến dân đă trở thành người buôn dân bán nước, từ chỗ xây dựng đạo lư nghĩa nhơn đă trở thành người phá Đạo và vô nhơn bất nghĩa.
V́ không làm chủ giới hạn được ḷng ham muốn mà cha giết con, con bất hiếu, tṛ vong ơn thầy, bè bạn bội tín, vợ chồng vong nghĩa. V́ không làm chủ được ḷng ham muốn đă khiến từ bậc ly gia cắt ái, trường trai khổ hạnh, gương mẫu đạo đức đă trở thành người quên Đạo, quên đức, đến rượu thịt say sưa, té ngă cùng đường, trà đ́nh tửu quán, tù tội gian lao!

Cũng do nơi không làm chủ được ḷng ham muốn nên:

Miệng th́ niệm tiếng Nam Mô,

Mà ḷng lại tưởng cơ đồ tóm thâu.

Do ḷng ham muốn mà:

Miệng th́ kinh kệ tối ngày,

Vợ chồng nhân nghĩa đổi thay liền liền.

Đó là bài học điển h́nh để cho người đời suy gẫm làm tiêu chuẩn đo đạc những ư nghĩ và công quả hành đạo của ḿnh.

Hỡi chư hiền sĩ hiền muội, đă mang thân xác con người, khi vừa ra khỏi ḷng mẹ là đă phạm tội rồi, dầu ít hoặc nhiều, mỗi một tội lỗi là một duyên nghiệp. Nếu người không hồi tỉnh tu công lập đức và mài gươm trí huệ để gột lần hồi duyên nghiệp, ắt phải bị duyên nghiệp càng ngày càng chồng chất, càng dày lên măi măi như vỏ trái đất trong triệu triệu năm qua.

Do đó, Hăy nhắc nhở chư hiền sĩ hiền muội hăy cố gắng, nếu được tổ chức thường xuyên các buổi giảng đạo từ sơ đẳng đến trung cấp, tạo nhiều hoàn cảnh tốt để trao đổi đạo lư đàm luận đạo sự, để t́m ra yến sáng và những yến sáng đó rọi măi từ ngoại thể đến nội tâm soi cùng tột để ḍ kiếm những ư muốn nào là hợp với đạo lư nhân nghĩa, thuận ḷng Trời, hợp ḷng người.

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
kimphuong
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 11 February 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 125
Msg 17 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 4:57am | Đă lưu IP Trích dẫn kimphuong

Toithichhoc đă viết:
        Từ Bi Với Bác Ái
       Uông Trí Biểu
   Việt dịch: Thích Tuệ Đăng

Các nhà tôn giáo xướng lên thuyết bác ái, những nhà học giả không bàn xét đến lư chân thật, đua nhau họa theo, và cho đó là thiên kinh địa nghĩa. Phật giáo chẳng những không nói bác ái, mà c̣n cho "ái" là cái nhân của khổ năo và nguồn gốc của sinh tử luân hồi. Vậy Phật giáo nói từ bi, các tôn giáo khác nói bác ái khác nhau ở điểm nào.

Xin trả lời rằng: Hai thuyết này ư nghĩa tuyệt nhiên không giống nhau; bởi v́ đă gọi là "ái" tức là yêu, tất có năng ái và sở ái (nghĩa là người yêu và kẻ được yêu), đă có năng sở (người yêu và kẻ được yêu), tất có nhân ngă (người và ta), lấy ngă làm năng ái, nhân làm sở ái. Đă có tướng nhân ngă, tức là có tâm phân biệt, yêu ta hơn yêu người, thế gian thường t́nh đều như thế cả, đó gọi là tục kiến; nhưng nếu mà yêu người hơn yêu ta, th́ cũng trở thành thiên kiến. Hơn nữa, đă gọi là "yêu", tất phải có điều kiện để yêu, ví dụ: Ta yêu người kia v́ tướng mạo đẹp, học vấn giỏi, phẩm tính tốt; thế nhưng tướng mạo, học vấn, phẩm tính không phải là cố định, chẳng phải là tuyệt đối; một mai theo thời gian biến đổi không c̣n đẹp, giỏi, tốt được như xưa hoặc chẳng được bằng người, th́ sinh ra chán ghét không c̣n trở lại yêu người ấy nữa. Tiến thêm một bước để nói, cái ǵ ta yêu th́ người khác cũng yêu, ta yêu nên lấy đó làm vật sở hữu của ta, và người khác phải mất cái vật để yêu của họ, v́ ta được mà người mất, người được mà ta mất, cho nên sinh ra tâm ghen ghét, phát ra ở việc làm là giết hại, trộm cướp, dâm dục; và xét đến kết quả của nó là oán ghét nhau mà gặp gỡ là khổ, cầu mong việc ǵ mà không được toại ư là khổ, yêu muốn mà phải xa ĺa là khổ. V́ thế, Phật nói "Ái" là gốc của luân hồi sinh tử và nhân của ưu bi khổ năo. "Ái" đă là cái nhân nhim trược, th́ "Bác" dù có nghĩa là "rộng răi" đến đâu đi nữa cũng không thế nào biến ô nhim thành thanh tịnh được. Đó là cái lư do Phật giáo không đề xướng thuyết "Bác ái".

Bạn nghĩ như thế nào về đạo đức và các thuyết như trên??



chào Toithichhoc ,

KP t́nh cờ đọc bài này của tác giả Uông Trí Biểu mà hết sức ngạc nhiên bởi tác giả UTB và dịch giả Thích Tuệ Đăng là những bậc tu hành đáng kính nhưng tại sao sự hiểu biết lại có phần giới hạn phân biệt nhỏ hẹp qua câu chữ như vậy . Có lẽ có sự nhầm lẫn nào chăng người nào đó mượn tên tác giả mà đăng bài viết ? Một bậc tu hành xuất gia thông thường mà KP tiếp xúc th́ rất trí tuệ rộng mở sáng suốt vô cùng trong nh́n nhận vấn đề .

TỪ BI - BÁC ÁI chỉ là một nội dung . TỪ BI là ḷng thương yêu rộng mở trăi rộng đến muôn loài vạn hữu từ hữu h́nh đến vô h́nh . BÁC ÁI cũng tương tự là ḷng thương yêu tha nhân bao la vô bờ bến .
Tác giả có lẽ không phải là người Đạo Phật nên không biết ÁI mà ĐỨC PHẬT nói là t́nh yêu nam nữ vị kỷ hay sự ham muốn hưởng thụ cá nhân . Chứ ḷng TỪ BI th́ luôn luôn hiện diện trong Đạo Phật , cũng v́ ḷng từ bi này mà các bậc Đại Bồ Tát phát thệ nguyện độ muôn triệu chúng sinh trong vô lượng kiếp .

Trong kinh điển THAM ÁI hay c̣n gọi là ÍCH KỶ là nguyên nhân của đau khổ , chỉ ḷng ham muốn hưởng thụ vị kỷ cá nhân mà sinh đau khổ . Đây là những điều căn bản nhất trong đạo Phật mà bất cứ người nhập môn nào đều được các Thầy hướng dẫn học đạo .
ÁI ích kỷ này là nguyên nhân của đau khổ . Nếu nói nguồn gốc đau khổ , luân hồi sinh tử th́ không phải là ái dục này , đó chỉ là cái nh́n gần . Sự thật ra nguồn gốc sâu xa của luân hồi sanh tử , đau khổ tham ái này từ VÔ MINH mà ra . Khi một người tu tập dần minh tâm , kiến tánh dứt vô minh th́ tham ái , đau khổ đoạn trừ nên cũng không c̣n luân hồi sanh tử nữa . Điều này phải tu tập qua nhiều kiếp sống trần thế .
Vài ư nhỏ với bạn Toithichhoc .

Kim Phượng

   
Quay trở về đầu Xem kimphuong's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi kimphuong
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 18 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:01am | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Xin chào Bạn Kimphuong!

Xin chân thành cám ơn đă cho tôi thêm kiến thức.

Tôi rất mừng khi có người cùng ư tưởng với tôi. v́ khi tôi post bài này lên tôi cũng rất băn khoăn như bạn đă phân tích. Nhưng tôi cũng một có 1 điều tôi cũng muốn tŕnh bày với bạn như sau :

- Tôi đă coi lại rồi tác giả không sai và không ai mượn danh đâu. C̣n ư tưởng của tác giả, bạn đă phân tích có lẻ bài này và phần nhập đề cho hướng dẫn mọi người, sự phân tích chưa sâu. Nên khi nào có bài tiếp của tác giả tôi sẽ post tiếp đă các bạn tham khảo nhé. Hay Bạn có bài nào của tác giả xin hăy post lên để mọi người tỉnh ngộ và thấm nhuần giáo lư của Phật.

Nam Mô A Di Đà Phật

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 19 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:32pm | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Tôi xin đưa ra ư kiến của một người bàn về Đạo Đức người xưa để các bạn tham khảo nhé :

Tịnh thất An Lạc
Mùa hạ năm Tân Tỵ – PL.2545.
Hạo nhiên- Thích Nguyên Hùng

Có một vị Tăng hỏi : “Người xuất gia cần phải làm việc ǵ ?”. Tôi trả lời : “Làm đạo, cầu đạo”. Ông ta nói: “Cầu đạo căn bản nhất phải làm ǵ?”. Tôi trả lời : “Đức hạnh”. Ông ta nói : “Ái chà! Ngài thật là cố chấp, người thượng căn lợi khí th́ tu huệ mà vào đạo, kẻ hạ căn độn khí th́ tu phước mà thôi, cho nên, người xuất gia chủ yếu phải cầu cho được trí tuệ, có trí tuệ th́ đầy đủ tất cả, cần đức hạnh để mà làm ǵ ?”.

Tôi nói: “Người xưa từng nói, đức hạnh là điều căn bản làm người xử thế. Lại nói, người lập chí lớn, làm đại sự cần phải tự lượng khí chất và kiến thức của ḿnh, huống chi diệu pháp Chánh Đẳng Giác của nhà Phật chí cao vô thượng, há người tuỳ tiện có thể tu hành thành tựu sao?

Nếu tích chứa (cất giữ) sữa Sư Tử mà không dùng b́nh lọ làm bằng Lưu Ly th́ đỗ nát mất mà thôi; giống như tay nâng một chiếc đỉnh nặng vạn cân, ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, cơ hồ khó tránh khỏi bị lật ngă mà chết đắm.

Người xuất gia ngày nay, có chút ít thông minh, tài trí, th́ đă chuyên học cách chú giải khảo cứu, giống như những thư sinh nhà nho dốc hết sức lực nghiên cứu điển tịch. Thông minh tài trí cao hơn một chút nữa th́ thu thập một cách máy móc những thứ vụn vặt, t́m kiếm những lời dạy tuỳ cơ thuyết pháp của chư vị đại đức tổ sư từ xưa đến nay rồi lại cho là của ḿnh, nắm bắt mấy thứ ấy chỉ là kiến thức cặn bả, lông da của tổ sư mà cứ cho là của ḿnh có, quả là nắm gió bắt h́nh, không có thứ ǵ là thật cả, ngược lại c̣n bị người trí chê cười. Những người này nói chuyện, thuyết giảng mới nghe qua, câu câu đều phảng phất giống như lời Phật tổ, những bậc cao minh, nhưng khảo sát lại hành vi của họ th́ có khác chi những kẻ phàm phu tục tử. Thời kỳ mạt pháp, những hiện tượng bại hoại như vậy, thật tại rất là nhiều.

Tôi lo lắng những người tu hành rơi vào những t́nh cảnh nông nỗi như vừa nói trên, cho nên sưu tập, ghi chép lại những thiện hạnh của người xưa, trích lục những phần trọng yếu, phân thành mười loại. Mười loại đó là ǵ ? Viễn ly sự ô nhiễm của thế tục mới gọi là người xuất gia. Xuất gia, điều trước tiên phải nói đến đó là sự thanh cao, giản dị, cho nên, điều thiện hạnh thứ nhất là Thanh Tố (thanh cao và giản dị). Nhưng thanh cao mà không nghiêm túc th́ biến thành thành cái cao của kẻ cuồng sĩ. Người học Phật nhất định phải thâu nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ư mới có thể thành tựu, cho nên điều thiện hạnh thứ hai là Nghiêm chính. Hành vi nghiêm chính cần phải nương tựa lời dạy của thầy mới có thể nắm giữ không sai lầm, người thầy thực tại là mẫu mực mô phạm làm người, cho nên điều thiện hạnh thứ ba là Tôn sư. Có song thân sanh thành nuôi dưỡng ta, sau lớn khôn mới có thể tiếp nhận những lời dạy của thầy, cho nên, quên mất công ơn cha mẹ mà bất hiếu là vong bản ! Vả lại, giới hạnh, luật nghi tuy nhiều, nhưng điều quan trọng vẫn là hiếu thuận, v́ vậy điều thiện hạnh thứ tư là Hiếu thân. Người trung thần bắt nguồn từ người con hiếu, đạo lư trung hiếu phải vẹn toàn, chỉ biết có t́nh thân không biết có ân quân chủ chính là hành vi tự tư tự lợi; trong sách có ghi : ‘một người có phúc, vạn dân đều nhờ’, có một bậc quân chủ đức độ nhiếp chính, th́ quốc thái dân an, chúng ta mới có thể xuất gia học đạo, thanh nhàn tự tại đi khắp núi sông rừng suối, ân huệ của vua thật là lớn thay ! V́ vậy, điều thiện hạnh thứ năm là Trung quân. Nhưng đạo trung quân là giao tiếp qua lại với những giới lănh đạo, cấp trên, thiếu sự quan tâm đối với những người cấp dưới, ân huệ của họ đă bố thí cho chúng ta cũng là không đúng, nhất định cần phải đoái hoài đến những người bần cùng khốn khó, v́ vậy, điều thiện hạnh thứ sáu là Từ vật. Từ và ái rất gần nhau, người xuất gia nếu nảy sinh ái nhiễm th́ là một chướng ngại lớn cho việc tu hành, v́ vậy, điều thiện hạnh thứ bảy là Cao thượng. Nhưng cao thượng không phải là cô phương tự phụ, xa rời chúng sanh, một mặt là kỳ vọng người tu hành trước siêng năng trau dồi bản thân, công phu cao sâu rồi tự nhiên ánh sáng tài học, đức hạnh toả ra bốn phương, cho nên, điều thiện hạnh thứ 8 là Tŕ trọng (làm việc giữ ǵn cẩn thận). Là cẩn thận mà ẩn cư, thanh nhàn vô sự chẳng qua cũng là việc bất đắc dĩ, cho nên điều thiện hạnh thứ chín là Gian khổ. Có người sợ lao nhọc mà vô công, đó không phải gian khổ trác tuyệt, đạo tâm đă thối lui, kỳ thật nhân quả cảm ứng là một sợi lông mảy bụi không sai, v́ vậy điều thiện hạnh thứ mười là Cảm ứng.

Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 
Toithichhoc
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 25 February 2006
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 157
Msg 20 of 34: Đă gửi: 01 May 2006 lúc 9:33pm | Đă lưu IP Trích dẫn Toithichhoc

Mười điều thiện hạnh trên đă tu tập đầy đủ rồi, đức hạnh mới hoàn thiện, mới là nhân tài kham nhận tu tập Phật pháp, giống như một khi đất đai đă được cải thiện, ph́ phiêu mầu mở, sau đó có thể trồng cây được tươi tốt; đất tâm một khi đă tinh thuần rồi, sau mới thọ tŕ, tin hiểu những lời dạy đến lẽ xác thực, đạo lớn Bồ đề chí cao vô thượng mới có thể kỳ vọng thành tựu. Nếu không như lời trên đây th́ chỉ là một phường phàm phu bỉ lậu mà thôi !

Đạo làm người mà không làm được th́ làm sao có thể học làm Phật? Dù thầy là người lợi căn lợi khí, rất mực tài trí thông minh đi nữa, chỉ có hại mà thôi. Trí lực càng cao chướng ngại càng lớn, th́ tu hành càng khó thành tựu, người không có đức hạnh làm sao có thể làm người xuất gia tu hành ?!”

Tôi nói xong mấy câu này th́ vị Tăng đó lại nói : “Diệu pháp của tôi tu hành là một hạt bụi không lập, xưa nay không một vật, bụi bặm bám vào đâu, mười loại thiện hạnh đem dùng vào chỗ nào ?”

Tôi nói : “Rơ ràng sắc, thọ, tưởng, hành, thức, năm uẩn đang thiêu đốt, rối loạn; địa, thuỷ, hoả, phong, bốn đại đang gây phiền phức khắp nơi v́ sao nói là không một hạt bụi ?”

Vị Tăng ấy nói : “Bốn đại vốn không tướng, năm uẩn vốn không thật có”.

Tôi đánh cho thầy ấy một tát tai, nói : “Hiện nay kẻ học đ̣i lời lẽ của cổ đức, dùng kiến giải của người ta để bày tỏ ư ḿnh rất nhiều, thầy trả lời không đúng vào đâu cả, hăy dùng kiến giải của bản thân thầy thử nói lại tôi xem”.

Vị Tăng đó không đáp được, giận dữ bỏ đi.

Tôi cười nói : “Bây giờ khuôn mặt của thầy đầy vẻ giận dữ, chính là bụi nhơ của bốn đại, năm uẩn che đầy trên mặt thầy rồi, v́ sao thầy không lau đi ?”.

Người xuất gia cần phải chú ư ! Lên cao phải tự biết ḿnh nhỏ bé, chớ nên tự đại, không nên vọng nói Bát nhă, lạm giải tánh không, tự t́m lấy tai hoạ. Ngàn vạn lần không nên say đắm nơi một chút danh lợi, hư vinh. Tốt hơn hết là tu dưỡng phẩm chất đạo đức của ḿnh, dốc hết tấm ḷng, tinh thần, sức lực học đạo, một phen sống chết, lâu ngày tự nhiên tâm khai ngộ đạt, sau đó mới có khả năng thể hội chân chính, không bỏ vạn hạnh nhưng cũng không bị nhiễm trần; suốt ngày không chấp Không, nhưng cũng không chấp Có, đó chính là con Đường Trung Đạo, Đệ Nhất Nghĩa Đế, Chân Không Diệu Hữu. Đây mới chính là trí tuệ chân chính của nhà Phật ! Chỉ nguyện xin người xuất gia hăy một lần để tâm tham cứu.

Tôi rất lấy làm xấu hỗ v́ hăy c̣n chưa thể hội được đạo lớn vô thượng, thêm nữa đức hạnh mong manh, viết cuốn sách này, mục đích chủ yếu là muốn cứu văn những căn bệnh của người xuất gia ngày nay, dùng để báo đáp ân Phật mà thôi. Người có trí tuệ, thấu t́nh đạt lư, nếu như không v́ chỗ nông cạn của tôi mà bỏ qua một bên những lời tôi nói, lại hy vọng lưu truyền khắp chốn, dạy những người tu thiền, th́ thật là quư báu.

Niên hiệu Vạn lịch năm thứ 13
Hàng Châu, ngày trọng đông
Sa môn Châu Hoằng
Quay trở về đầu Xem Toithichhoc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi Toithichhoc
 

Trang of 2 Kế tiếp >>
  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.1465 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO