Đăng nhập nhanh
Mạnh Thường Quân
  Bảo Trợ
Chức Năng
  Diễn Đàn
  Thông tin mới
  Đang thảo luận
  Hội viên
  Tìm Kiếm
  Tham gia
  Đăng nhập
Diễn Đàn
Nhờ Xem Số
  Coi Tử Vi
  Coi Tử Bình
  Coi Địa Lý
  Coi Bói Dich
  Chọn Ngày Tốt
Nghiên Cứu và
Thảo Luận

  Mệnh Lý Tổng Quát
  Qủy Cốc Toán Mệnh
  Tử Vi
  Tử Bình
  Bói Dịch
  Mai Hoa Dịch Số
  Bát Tự Hà Lạc
  Địa Lý Phong Thủy
  Nhân Tướng Học
  Thái Ất - Độn Giáp
  Khoa Học Huyền Bí
  Văn Hiến Lạc Việt
  Lý - Số - Dịch - Bốc
  Y Học Thường Thức
Lớp Học
  Ghi Danh Học
  Lớp Dịch & Phong Thuy 2
  Lớp Địa Lư
  Lớp Tử Vi
    Bài Giảng
    Thầy Trò Vấn Đáp
    Phòng Bàn Luận
    Vở Học Trò
Kỹ Thuật
  Góp Ý Về Diễn Đàn
  Hỗ Trợ Kỹ Thuật
  Vi Tính / Tin Học
Thư Viện
  Bài Viết Chọn Lọc
  Tủ Sách
Thông Tin
  Thông Báo
  Hình Ảnh Từ Thiện
  Báo Tin
  Bài Không Hợp Lệ
Khu Giải Trí
  Gặp Gỡ - Giao Lưu
  Giải Trí
  Tản Mạn...
  Linh Tinh
Trình
  Quỷ Cốc Toán Mệnh
  Căn Duyên Tiền Định
  Tử Vi
  Tử Bình
  Đổi Lịch
Nhập Chữ Việt
 Hướng dẫn sử dụng

 Kiểu 
 Cở    
Links
  VietShare.com
  Thư Viện Toàn Cầu
  Lịch Âm Dương
  Lý Số Việt Nam
  Tin Việt Online
Online
 446 khách và 0 hội viên:

Họ đang làm gì?
  Lịch
Tích cực nhất
dinhvantan (6262)
chindonco (5248)
vothienkhong (4986)
QuangDuc (3946)
ThienSu (3762)
VDTT (2675)
zer0 (2560)
hiendde (2516)
thienkhoitimvui (2445)
cutu1 (2295)
Hội viên mới
thephuong07 (0)
talkativewolf (0)
michiru (0)
dieuhoa (0)
huongoc (0)
k10_minhhue (0)
trecon (0)
HongAlex (0)
clone (0)
lonin (0)
Thống Kê
Trang đã được xem

lượt kể từ ngày 05/18/2010
Khoa Học Huyền Bí (Diễn đàn bị khoá Diễn đàn bị khoá)
 TUVILYSO.net : Khoa Học Huyền Bí
Tựa đề Chủ đề: Một trường hợp chứng đắc của Tịnh Độ Tông ? Gửi trả lời  Gửi bài mới 
Tác giả
Bài viết << Chủ đề trước | Chủ đề kế tiếp >>
sakura_85v
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 23 October 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 33
Msg 1 of 11: Đă gửi: 07 June 2006 lúc 1:08pm | Đă lưu IP Trích dẫn sakura_85v

H̉A THUỢNG THÍCH THIỀN TÂM
VÔ NHẤT ĐẠI SU KIM XÀ THÁNH GIẢ
Uu Bà Di BẢO ĐANG ghi


LTS. Liên Tông sư tổ Huệ Viễn Đại Sư, Tổ thứ nhất trong số 13 vị tổ của Tịnh Độ Tông tại Trung Hoa, được người đương thời tôn hiệu là "Bích Xà Thánh Giả". Sỏ dĩ có tôn hiệu này v́ vô số rắn xanh đủ loại thường vây quanh đại sư để chờ nghe giảng pháp.
Tương truyền, vùng Lô Sơn có rất nhiều rắn độc, từng làm nguy hại tính mạng của dân cư trong vùng. Nhưng kể từ khi ngôi chùa Đông Lâm do Huệ Viễn Đại Sư dựng lên ở đây, th́ các loài rắn dữ đều trở nên hiền lành, ngày lẫn đêm thường vây quanh đại sư để nghe kinh kệ.
Tại miền Nam Việt Nam, từ 1968 tới 1992, có Hoà Thượng Thích Thiền Tâm, ẩn tu trong núi rừng tỉnh Lâm Đồng, cũng đă "qui y" cho hàng ngàn rắn độc. Loại rắn vùng này ḿnh có xọc vàng, kêu là kim xà, và vị cao tăng được tôn là Vô Nhất Đại Sư, Kim Xà Thánh Giả.
Sau đây là các trích đoạn từ sách "Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm" do Ưu bà di Bảo Đăng biên soạn về vị Hoà Thượng có nhiều huyền thoại lạ lùng nhất, trong các vị cao tăng VN cận đại.

============================

Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm, sinh năm 1924, tại làng B́nh Xuân, quận Hoà Đồng, G̣ Công, xuất gia từ năm 13 tuổi. Năm 1964, Hoà Thượng là Viện Trưởng Sáng Lập Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Hoà Thượng Thích Thanh Từ, vị thiền sư nổi danh tại VN hiện nay, và Hoà Thượng Thích Bửu Huệ, lúc đó là hai vị phụ tá của Hoà Thượng Thiền Tâm.
Trong khi điều hành Phật Học Viện Huệ Nghiêm, Hoà Thượng Thiền Tâm c̣n giảng dạy Phật pháp tại Phân Khoa Phật học Viện Đại Học Vạn Hạnh, làm Giáo thọ tại các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm, phiên dịch và trước tác nhiều kinh sách giá trị, hiện vẫn đang được dùng cho việc tu học.

- Năm 1964-1965: Hoàn thành công việc soạn thuật bộ sách "Phật Học Tinh Yếu", gồm 3 cuốn 1,2 và 3 dài trên 1,200 trang.
- Năm 1965-1966: Ngài hoàn tất việc biên soạn quyển "Niệm Phật Thập Yếu" gổm 10 chương, dài gần 400 trang (kể luôn các phần bổ túc sau nầy, trên 50 trang (1979-1980).

- Năm 1966-1967, Ngài hoàn tất hai quyển kinh sách:

1. Duy Thức Học Cương Yếu, gần 300 trang. Sách giảng dạy hầu hết các phần quan yếu trong Bộ Môn Duy Thức Học.

2. Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh, c̣n gọi là "Thiên Thủ, Thiên Nhăn, Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni Kinh," trên 150 trang. Đây là quyển kinh Mật Tông, giảng dạy và hiển dương về oai lực của chú Đại Bi, một thần chú rất phổ thông đang được dùng trong hầu hết các khóa lễ hiện nay nơi Phật tự.

Năm 1974, Hoà Thượng Thiền Tâm xin từ chức Viện Trưởng Phật Học Viện Huệ Nghiêm, vào núi ẩn tu giữa hàng ngàn rắn độc. Năm 1992, nhằm ngày 14 tháng 12 dương lịch, Hoà Thượng viên tịch, thọ 68 tuổi.
Ba ngày sau, trong lễ khai mộ của ngài, mọi người hiện diện đều trông thấy một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây ḅ đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt. Các h́nh ảnh về đôi Kim Xà này đều đă được ghi nhận đầy đủ bằng h́nh chụp và video. . .

Phú An là một thôn nhỏ, nằm trong Tổng Đại Ninh, thuộc xă Phú Hội, Huyện Đức Trọng, Tỉnh Lâm Đồng (Tuyên Đức- Đà Lạt). Dân số nơi đây vào năm 1968, chỉ có chừng 50 mươi nóc gia mà trong đó khoảng 10 nhà là người Kinh (người Việt), số c̣n lại là của người Thượng (dân tộc thiểu số).
Đa số nhà người Kinh th́ ở gần bên quốc lộ Đà Lạt-Sài G̣n (tức là quốc lộ số 20), c̣n nhà sàn của người Thượng th́ nằm sâu trong rừng, cách quốc lộ khoảng chừng 3,4 cây số. Thôn này nằm trên bờ sông Đại Ninh, c̣n gọi là sông Đa Nhim, v́ ở thượng nguồn của con sông này trên Đà Lạt, có đập thủy điện cao thế Đa Nhim. Chiều ngang của con sông rộng chừng 300 thước, chảy từ hướng Tây của Ấp, qua hướng Nam Đông-Nam của vùng Đại Ninh với một gịng nước ngọt, êm đềm, hiền ḥa và mang nhiều chất phù sa mầu mỡ đă làm cho đất đai của vùng nầy, đă từ lâu trở nên vô cùng phong phú...
"Hương Quang tịnh thất" là nơi của cố Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm ẩn tu không nằm sát ngoài quốc lộ như đa số nhà của các người kinh khác trong thôn mà lại là nằm sâu bên trong, sát với khu vực của người Thượng cho nên muốn vào đến chỗ trụ xứ của ngài th́ phải đi bộ một khoảng đường rất xa mất gần cả giờ đồng hồ mới tới.

Vùng Phú An này (vào thời gian 1968) đặc biệt là chỗ của cố Ḥa Thượng tịnh tu, v́ là nơi rừng núi, ít người lai văng và có lẽ cũng v́ ở gần sông, suối nên có rất nhiều loại rắn khác nhau.
Theo lời ngài kể lại, th́ trong gần nửa năm đầu tiên về ẩn tu nơi đây, ngài gặp nhiều thứ rắn độc khác nhau, to có, trung b́nh có, nhỏ có. To th́ cỡ bằng cột nhà, trung trung th́ bằng bắp vế, nhỏ th́ bằng bắp chân, cườm tay trở xuống v.v...
Có đôi lúc sau khi làm vườn xong, đến khi trở vào thất th́ thấy rắn nó quấn đuôi trên ngạch cửa, tḥng ḿnh xuống, hả miệng, le lưỡi thở khè khè. Ban đầu th́ ngài cũng có ư sợ, chần chờ không dám bước qua, nhưng rồi nghĩ không lẽ đứng ở ngoài sân hoài, hay là dùng cây đập đuổi th́ gây thù oán khó ḷng. Thôi th́ cứ niệm Phật mà bước ngang qua đại, rủi có bị nó cắn chết th́ ḿnh cũng quy Tây Phương, càng tốt chớ sao! Rồi ngài nhiếp tâm niệm Phật và nghĩ đến phép "từ bi quán" đoạn nhắm mắt, đi ngang qua cửa. Con rắn "đánh đu" ḿnh qua bên này, bên kia chạm vào mặt, vào cổ lạnh ngắt mà ngài vẫn cứ làm tỉnh bước đi. Đến khi vào trong thất xong rồi mới mở mắt nh́n lại th́ nó cũng vừa buông ḿnh ra, rớt xuống đất nghe một cái đụi rồi ḅ ra ngoài rừng đi mất.
Lại có lần khác, sáng sớm thức dậy (để sửa soạn vào khóa lễ) ... Vừa bước chân xuống "đơn" (tức là cái đi-văng nhỏ, bề ngang khoảng 8 tấc, bề dài khoảng 2 thước rưỡi của người tu) th́ ngài có cảm giác như là đạp trúng phải vật ǵ tṛn tṛn và mềm mềm. Ngó xuống, té ra đó là một con rắn hổ đen thui, to bằng bắp chân đang nằm khoanh một đống ở dưới chân giường!
Ngài nghĩ:
- Cha chả, ḿnh đạp trúng nó một cái mạnh như vậy, chắc nó cắn ḿnh quá.
Liền niệm A Di Đà Phật năm bảy câu rồi đứng chết trân tại chỗ chớ không dám nhúc nhích. C̣n con rắn kia dù bị ngài đạp trúng mà nó cũng không có phản ứng ǵ hung hăng hết, y ta từ từ cất đầu lên, nh́n ngài một hồi rồi le cái lưỡi đỏ ḷm ra khè khè mấy cái đoạn nằm im trở lại.
Lúc đó ngài mới dám bước đi, vừa mở cửa ra vừa niệm Phật mà bảo với y ta rằng:
- Thôi sáng rồi, đạo hữu cũng nên về đi để cho thầy c̣n niệm Phật nữa.
Tưởng đâu nói khơi khơi vậy rồi thôi, không dè y ta dường như biết nghe nên y mới từ từ bung ḿnh ra dài cả mấy thước, chầm chậm ḅ đến cửa một cách êm ái ḥa b́nh, rồi ra ngoài rừng mất dạng.
Thêm một lần khác, đêm đó ngài niệm Phật và tŕ chú Đại bi đến khuya mới xong, vừa bước chân xuống cầu thang th́ đạp phải lên một đống ǵ đó đen thui, to tướng, ngài biết chắc là rắn (quen với mấy người quá xá rồi!) nhưng cũng làm tỉnh niệm A Di Đà Phật một hồi, đoạn bước đến bàn viết, vặn đèn lên cho tỏ để xem th́ thấy một con rắn quá to (không biết làm sao mà nó lọt vào nhà được trong khi cửa nẻo đă đóng kín rồi - sau này mới biết chúng nó là các loại rắn thần) đang cuộn tṛn một đống bên cạnh đôi dép của ḿnh. Nó nh́n ngài, ngài nh́n nó. Hai bên làm thinh ngó nhau một chặp, ngài vừa niệm Phật vừa hỏi y ta rằng:
- Phải đạo hữu vào đây để nghe kinh, nghe niệm Phật không? Nếu phải vậy th́ gật đầu ba cái cho thầy biết đi.
Rắn ta liền gật đầu 3 cái. Cố ḥa thượng biết rằng đây là loại rắn linh cũng ưa tu niệm chớ không có ư ǵ muốn làm hại ḿnh. Cũng như các lần trước, ngài mở cửa ra bảo thôi đạo hữu hăy về đi... và y ta nh́n ngài với ánh mắt hiền lành rồi từ từ ḅ ra ngoài đi mất.
Từ đó trở đi, mỗi lần làm vườn hay t́nh cờ gặp phải các "người bạn dài thọng, thấy dễ sợ" này th́ ngài niệm Phật cho nó nghe một hồi, rồi mạnh đường ai nấy đi, việc ai nấy làm chớ không có xảy ra chuyện ǵ khác lạ cả.
Biết vùng này có nhiều loại rắn linh mến mộ tu hành như vậy nên ngài mới làm pháp "Du già thí thực", hồi hướng công đức tu niệm của ḿnh để bố thí đến cho loài rắn và nói rằng (nói khơi khơi một ḿnh nhưng dùng tâm tưởng và tác ư cho loài rắn được nghe):
- V́ khác loài nhau, nên từ nay nếu như quư vị muốn nghe kinh chú và niệm Phật, v.v... để tu theo th́ cứ ở ngoài sân chớ đừng có vào trong thất của thầy nữa.
Sau vài lần "truyền lịnh" như thế rồi th́ từ đó về sau tuyệt nhiên không c̣n có một con rắn nào vào trong cốc nữa.
Nơi miền rừng núi cao nguyên này, thường th́ có rất nhiều g̣ mối lớn đặc biệt của miền sơn cước. Chính cái thất mà ngài đang ở (Phương Liên thất) cũng nằm trên một g̣ mối lớn. Hầu hết g̣ mối đều là ổ hang của rắn cả, (rắn làm hang trong đó để ăn mối) g̣ mối càng lớn bao nhiêu th́ rắn ở trong đó càng nhiều và càng to bấy nhiêu.
Như vừa lược qua, căn tịnh thất của ngài ở được xây cất trên một g̣ mối lớn (đă được san bằng) v́ vậy nên có nghĩa là trên mặt đất th́ cố Ḥa Thượng ở, c̣n dưới mặt đất là rắn ở. Ḥa Thượng đă vô t́nh "sống chung ḥa b́nh" với cả đống rắn độc mà không hay biết chi hết. Sở dĩ các con rắn này nó không làm hại chi đến ngài là v́ cứ mỗi tối, khi ngài niệm Phật, tŕ chú, hoặc lễ bái, sám hối, tụng kinh v.v... th́ các "y ta" nằm im ở dưới nền nhà, hoặc là ḅ lên mặt đất, rồi ẩn h́nh nằm tại chỗ để nghe và tu theo. (Đây là lư do v́ sao mà khi ngài mới dọn về - như đă có lược qua trong phần trước - là ở dưới chân giường, cầu thang... bỗng nhiên có rắn xuất hiện, con nào con nấy cũng dài đến cả mấy thước, to bằng bắp vế, nằm một đống đen thui trong cốc mà ngài không hiểu v́ sao nó lại vào thất được, trong khi ngài đă đóng cửa nẻo kỹ lưỡng hết rồi).
Nhờ tu theo bằng cách "dựa hơi ḥa thượng" các "ông dài" này dần dần trở nên linh thông biến hóa được. Do v́ thầm cảm cái ơn trọng đại đó, cho nên các "y ta" kính lễ cố Ḥa Thượng như bậc cha, thầy, c̣n các "y ta" th́ giữ bổn phận của con, cháu hay đệ tử - V́ thế nên từ đó về sau các loài rắn này trở nên hiền ḥa - chẳng những nó không làm cho ngài bực bội hay gây thương tổn chi, mà trái lại c̣n âm thầm theo bảo vệ cho "Sư Phụ" nữa.

Sau đây là một vài chuyện liên hệ mà khi c̣n sanh tiền, cố Ḥa Thượng đă tự thân kể lại cho ni sư Thanh Nguyệt và cháu là Đ.Đ. bổn sư Thích Hải Quang nghe:
Có lần, cố Ḥa Thượng đang ngồi làm cỏ tranh và xới đất bên cạnh một g̣ mối lớn ở phía sau thất (Phương Liên) của ngài - lúc ngài quơ tay ra sau lưng để cầm cuốc th́ ngài lấy làm lạ mà nói trong bụng rằng: Ủa, sao bữa nay cái cán cuốc có vẻ là lạ và bự quá vậy? Ngài quay đầu ngó lại th́ té ra là ḿnh đang nắm nhằm cần cổ của một con rắn to bằng bắp chân người lớn, màu đen có sọc vàng. Rắn ta v́ bị nắm cổ nên hả miệng, le lưỡi ra khè khè năm sáu tiếng làm cho ngài hết hồn vội vă buông tay ra và bước lùi lại phía sau, niệm Phật cả mấy chục câu mới định thần được. Xong rồi ngài đứng ngó y ta một lúc và nói rằng:
- Ủa nhà ngươi ở đâu mà ra đây, nằm sau lưng ta hồi nào vậy? Thôi hăy đi đi.
Ngài lấy tay xua, khởi ư đuổi đi. Rắn ta cũng ngó ngài một hồi, gật đầu mấy cái (giống như xin lỗi) rồi ḅ ra phía sau g̣ mối. Ngài đứng ngó theo xem nó ḅ đi đâu cho biết nhưng chờ hoài mà vẫn không thấy tăm hơi ǵ hết, mới nghĩ: Ủa, bộ nó c̣n nằm gần đây sao mà không thấy ḅ đi đâu hết vậy ḱa? Ngài đi ṿng quanh g̣ mối, t́m kiếm mấy lần mà cũng không thấy y ta đâu hết.
Khuya lại, sau thời khóa tŕ niệm (gần 4 giờ sáng) ngài đang ngồi trên ghế bên cạnh bàn viết nghỉ mệt, định bụng chút nữa sẽ pha cà phê uống th́ nghe bên ngoài có tiếng gơ cửa. Ngài lấy làm lạ, trong bụng nghĩ rằng: Ủa, giờ này c̣n sớm quá mà sao Thượng lại tới gơ cửa vậy ḱa? (Bởi v́ mỗi buổi sáng mấy người Thượng ưa tới gơ cửa thất của cố Ḥa Thượng để hỏi việc làm như là cuốc đất, phát cỏ hoang và lên giồng trồng khoai, sắn v.v...
Ngài mới đứng lên, đi ra mở cửa th́ thấy: bên ngoài, trước thất của ngài là hai người Thượng một nam, một nữ, tuổi chừng 50, dung mạo rất đơn sơ, mặt mũi sần sùi, da dẻ đen đúa, cả hai đều mặc quần áo màu chàm trông cũng rất sơ sài, đầu hơi nhọn, đi chơn đất (không có dép, giày ǵ hết), bàn tay nhám nhúa giống như có vảy, đang chắp tay, cúi đầu chào ngài, miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật.
Ngài nghĩ bụng: Ủa, hai người Thượng này ở đâu đến mà thấy lạ mặt, ḿnh ở đây cũng đă lâu rồi mà chưa quen với hai vợ chồng này. Ngài hỏi:
- Phải hai vị đến xin việc làm hôn?
Hai người ấy đáp:
- Mô phật, kính bạch Ḥa Thượng, không!
- Ủa, vậy chớ có chuyện ǵ cần không mà gọi cửa tôi sớm quá vậy?
Người đàn ông đáp:
- Bạch Ḥa Thượng, hai vợ chồng con đến đây để xin lỗi Ḥa Thượng về chuyện đáng tiếc ban trưa, có đứa cháu nội đă làm cho ngài giật ḿnh. Xin Ḥa Thượng từ bi tha lỗi và cho vợ chồng con sám hối.
Cố Ḥa Thượng lấy làm kỳ, nên ngài mới hỏi:
- Cháu nội của hai vị hả, hồi nào, nó bao nhiêu tuổi? Tôi nhớ suốt cả ngày hôm qua có gặp đứa cháu nào đâu!
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Ḥa Thượng, cháu trai của con là đứa bé hôm qua mặc áo quần đen có sọc vàng nằm hầu phía sau lưng của ngài lúc ngài làm vườn đó.
Ngài mới hỏi (mà trong bụng cũng chưa nhớ rơ ra là ai, bởi v́ đâu có đứa nhỏ nào mặc áo quần đen, sọc vàng theo hầu sau lưng ḿnh suốt ngày hôm qua đâu):
- Vậy hả, cháu bé bao nhiêu tuổi?
Người đàn bà đáp:
- Kính bạch Ḥa Thượng, cháu được 95 tuổi !!!
Cố Ḥa Thượng của chúng ta giật ḿnh, sảng sốt hỏi tiếp:
- Ủa, cháu nội mà được 95 tuổi th́ hai vị đây bao nhiêu tuổi?
Người đàn ông đáp:
- Dạ con được 842 tuổi và vợ của con 760 tuổi!
Đến đây th́ Ḥa Thượng đă biết rơ họ là ai rồi, nên ngài mới hỏi tiếp:
- Hai vị ở đâu tới đây?
Người đàn ông thưa:
- Bạch Ḥa Thượng, chúng con ở Huỳnh Xà Thôn nằm về phía Đông của thôn Phú An này cách nơi đây khoảng 9 cây số, gia đ́nh con có khoảng một ngàn người...
Vừa nói tới đây th́ người đàn bà nắm lấy tay của ông chồng dặt dặt mấy cái như ra hiệu đừng nên nói nữa (chắc sợ bị lộ tông tích) làm cho người chồng mới nói đến câu: khoảng một ngàn người... th́ làm thinh luôn.
Cố Ḥa Thượng gật đầu nói:
- Thôi hai vị yên ḷng về đi, không sao đâu.
Nghe ngài bảo như vậy th́ hai vợ chồng người này đồng chắp tay cúi chào rồi quay lưng đi ṿng ra sau thất của ngài. Ḥa Thượng mới nom theo xem họ đi đâu và làm thế nào cho biết, th́ ngài thấy khi họ ra đến phía sau rồi, cả hai người đồng hóa ra hai luồng ánh sáng màu vàng nhạt lớn bằng cườm tay, bay bổng lên không về hướng Đông đi mất (giống như ông đi, bà xẹt vậy).

Do đó nên ngài biết rằng: Đứa bé 95 tuổi mặc áo đen, sọc vàng là con rắn đen có vằn vàng ngày hôm qua đă làm cho ḿnh hết hồn! Hai vợ chồng này là rắn chúa (chúa động). Hang ổ chánh của họ nằm về hướng Đông của ấp Phú An, cách đây 9 cây số có tên là "Huỳnh Xà Động" (động rắn vàng).
Chắc có lẽ họ mới biết biến h́nh nên dung mạo c̣n thô sơ chớ chưa đẹp người. Và hơn nữa chắc mỗi đêm họ ít nhiều ǵ đó cũng có đến đây nghe kinh và tu theo ḿnh nên mới có vẻ kính trọng ḿnh và biết chắp tay niệm Phật như vậy...

Quay trở về đầu Xem sakura_85v's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sakura_85v
 
sakura_85v
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 23 October 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 33
Msg 2 of 11: Đă gửi: 07 June 2006 lúc 1:10pm | Đă lưu IP Trích dẫn sakura_85v

Tiếp theo đây, Bảo Đăng tôi xin kể hầu cho quư vị nghe thêm một vài chuyện nữa có liên quan đến hai vị "Kim Xà Vương" này và "Kim Xà Thánh Giả", Vô Nhất Đại Sư của chúng ta:
Nguyên gần 10 năm về trước, lúc cố Ḥa Thượng c̣n nhập thất ở Bến Tre, ngài có quen với một vị tu sĩ tên là "Ông sư Mỏ Cày". Sở dĩ gọi là ông sư Mơ Cày v́ vị này tuy có h́nh tướng một nhà sư Phật giáo, nhưng thật ra là một người đạo sĩ tu tiên luyện điển theo phương pháp xuất hồn, địa danh (tên của vùng đất) nơi ông sư này ở tu tên Mơ Cày, không ai biết được tên thật của ổng là chi hết. Ông sư này rất kính quư cố Ḥa Thượng qua phong cách và đạo hạnh của ngài, nên thỉnh thoảng cũng có đến viếng thăm. Ḥa Thượng cũng có chỉ dẫn thêm cho sư một vài pháp tu bổ túc, v́ vậy mà sư có một sự mang ơn ở nơi cố Ḥa Thượng.

Lúc ngài về Sàig̣n và làm Đốc giáo ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm rồi th́ sư cũng có đến thăm một lần, đến khi cố Ḥa Thượng ĺa Huệ Nghiêm để ẩn tu th́ hai đàng biệt nhau. Măi đến mấy năm sau, sư mới t́m được lên Đại Ninh (trước sau hai lần) để thăm cố Ḥa Thượng - và rồi sư qua đời vào mấy năm sau đó.
Lần đầu tiên sư lên thăm cố Ḥa Thượng vào năm 1970 (lúc đó th́ ngài không c̣n ở Hương Quang thất nữa, mà đă dời về thất mới là Phương Liên tịnh xứ rồi) và được Ḥa Thượng cho phép ở lại thất của ngài vài ba hôm để đàm đạo giáo lư và tu tập (Sư thọ giáo mật tông từ nơi cố Ḥa Thượng).
Qua đêm đầu tiên, sáng lại sư có thưa với cố Ḥa Thượng rằng thất của ngài đang ở tu nằm trên miệng hang của một động rắn "Kim Xà" rất lớn và xin Ḥa Thượng hăy cẩn thận v́ đây là các loại rắn thần con nào con nấy cũng sống trên mấy trăm năm hết...
Cố Ḥa Thượng gật đầu, nói với sư là ngài đă biết việc đó từ lâu rồi và cũng có kể lại cho sư nghe về vài ba chuyện của các Kim Xà này.

Qua ngày kế đó, sư nằm ngủ và xuất hồn ra đi "thăm" xà động này, khi thức dậy sư có thưa cùng ngài như sau:
Nguyên từ mặt đất của nền thất Phương Liên đi thẳng xuống dưới (ḷng đất) sâu 800 thước có một động rắn lớn, trong đó có khoảng 200 "ông dài" đều sống từ hơn 100 cho đến gần 1000 tuổi hết. Động này có đường (hầm) thông qua 3, 4 động khác nữa - Chúa tể của tất cả các động rắn này là một đôi Xà Vương (rắn chúa) màu nửa đen, nửa vàng và đều đă được trên một ngàn tuổi rồi - Cặp Xà Vương này hiện đang ở ngay dưới nền thất của cố Ḥa Thượng cùng với các con cháu, mỗi đêm có đều nghe ngài niệm Phật, tŕ chú và tu theo cho nên biết biến hóa và đồng thờ cố Ḥa Thượng làm thầy để nương theo tu tập.

Sư kể tiếp rằng, khi sư xuất hồn ra gặp hai vị Xà Vương động chúa này rồi th́ mấy vị đó có nhờ sư về thưa lại với ngài là họ muốn được quy y Tam Bảo cho được sớm thoát khỏi kiếp rắn, họ cũng nói rằng trước kia họ chỉ có sống lâu thôi chớ không biết phương cách tu hành (v́ rắn lột da cho nên sống lâu lắm), cứ ban ngày th́ ngó mặt trời, ban đêm th́ ngó theo trăng, sao (tu theo phép luyện âm dương nhị khí) nên mặc dù sống hơn cả ngàn năm rồi mà vẫn không sao biến hóa được. Từ khi cố Ḥa Thượng về ở đây tu, mấy năm trôi qua cũng nhờ nương theo oai lực chú ấn và câu niệm Phật của Ḥa Thượng mỗi đêm, cho nên nay đă bắt đầu biến hóa được rồi và thân ḿnh cũng đă đổi từ màu đen ra màu hơi vàng (tức là từ Hắc Xà vương chuyển dần sang Kim Xà vương). Hiện thời th́ hai vị đó đang cùng với các quyến thuộc đều ẩn h́nh ở tại đây để tu và ngầm bảo vệ cho ngài là bậc đại sư của họ.

Ḥa Thượng gật đầu và nhờ sư xuất hồn ra chuyển lời lại cho các vị Xà Thần này biết là hôm sau Ḥa Thượng sẽ truyền phép Tam Quy (Quy Y Phật, Pháp, Tăng - Tam Bảo) để cho họ được dự vào hàng Phật Tử.
Hôm sau, Ḥa Thượng đắp y, hậu ngồi trên pháp ṭa bày sẵn giữa tịnh thất, tŕ chú và bắt ấn triệu thỉnh, chỉ đích danh 2 vị Xà Vương chúa động Huỳnh Xà thôn (với sự hiện diện của Sư Mơ Cày) gọi về...
Liền sau đó ngài thấy trước mặt mờ ảo ẩn hiện ra hai vị xà thần ḅ vào và hiện h́nh ra hai người một nam, một nữ trong lứa tuổi khoảng ngoài 60, cả hai đều mặc áo ngắn màu vàng luốc, quỳ trước mặt chắp tay cúi đầu phụng mạng.
Ḥa Thượng mới thuyết Tam Quy cho nghe và kế đó là quy y cho họ cùng các quyến thuộc, đốt chú ấn (mà ngài đă vẽ sẵn trên giấy vàng) để pháp thí cùng rải nước cam lồ xoáy tịnh, chú nguyện cho họ sau khi thoát kiếp rắn đều được sanh thiên, y như Phật Pháp tu hành ...
(Kể từ đây ngoài các đệ tử thuộc về nhơn đạo ra, ngài c̣n có thêm các đệ tử thuộc về thần đạo và súc đạo nữa - việc làm này những tăng ni (lục lục thường tài) chỉ biết tụng kinh niệm Phật, cầu phước qua ngày, không ḷng tin, không tu Mật Tông và không có cảm ứng đạo giao với cảnh giới vô h́nh đều không thể nào hiểu thấu được cả). Ngoài ra cố Ḥa Thượng cũng c̣n có quy y cho chư thần địa phương như thổ thần, sơn thần, thọ thần v.v... Các vị này cũng đều đồng nương theo ngài để tu tập hết...

Đến năm 1974, Sư Mơ Cày có lên thăm cố Ḥa Thượng một lần nữa và ở cùng với ngài một tuần lễ - Sư có thưa cùng với cố Ḥa Thượng mấy điều sau:

1/- Về t́nh h́nh đất nước vào năm tới (1975) sẽ có một sự "đổi đời" rất lớn, vô số người chết... (tức là biến cố tháng 4 năm Ất Măo 1975).
2/- Sư có xuất hồn ra gặp lại các Xà Thần, điều đặc biệt nhất mà sư thưa cùng với cố Ḥa Thượng là cặp Xà Vương Động Chúa Huỳnh Xà thôn, mấy năm qua nhờ được quy y Tam Bảo và tu theo phép của ngài truyền cho (đốt nghi thức tu để pháp thí) khi trước nên bây giờ đều được biến hóa linh thông, từ nơi Hắc Xà Vương nay đă chuyển ra thân Kim Xà Vương (Rắn Chúa màu vàng) và thường hay biến thành h́nh sư tăng mặc áo vàng, mỗi đêm đều có đi kinh hành niệm Phật chung quanh thất của Ḥa Thượng hầu hạ và bảo vệ cho ngài trong tất cả mọi hoàn cảnh (để báo đức tôn sư).

Mấy đêm sau, qua sự trung gian của vị sư Mơ Cày, ngài mới cho triệu hai vị Chúa Động này về. Đêm đó, cố Ḥa Thượng chiêm bao, thấy như sau:
Bên ngoài có hai vị, một tăng, một ni đều mặc áo vàng đi theo sau sư Mơ Cày vào trong thất quỳ xuống cung kính đảnh lễ. Ngài hỏi là ai và từ đâu đến?
Hai vị ấy thưa là:
- Bạch tôn sư chúng đệ tử là động chúa Huỳnh Xà thôn, nghe lịnh triệu thỉnh nên về phục mạng.
Ḥa Thượng truyền cho đứng dậy th́ thấy hai vị ấy thân tướng cũng quang minh, thần sắc sáng sủa, nghiêm chỉnh, trên trán mỗi người đều có chữ Vạn màu đỏ, trước ngực mang một xâu chuỗi lóng lánh hào quang.
Ngài hỏi v́ sao hai con lại có được các món pháp bửu này?
Hai vị ấy thưa:
- Bạch tôn sư, chữ Vạn này là nhờ nơi quy y Tam Bảo mà có, c̣n xâu chuỗi này là do công tu tập mà thành - Bất cứ người nào (ư nói là xà thần) ở gần và tu theo tôn sư 3 năm đều cảm hiện ra được cả. Trong hàng quyến thuộc của con hầu hết đều được chuỗi này. Kể từ khi chúng con có 2 món bửu bối này (chữ Vạn là một, xâu chuỗi pháp bảo là hai) th́ mỗi khi chúng con đi dạo chơi đến nơi nào cũng đều được chư thần ở địa phương đó kính trọng, nhường đường và gọi chúng con là Phật Tử...
Ḥa Thượng gật đầu thuyết pháp cho nghe cùng khuyến nhắc tu hành. Các vị ấy đều lạy tạ ơn và biến mất.

Mấy hôm sau "Sư ông Mỏ Cày" ra về và có thưa với cố Ḥa Thượng rằng: Lần này là lần cuối cùng gặp nhau. Sang năm (1975) sư sẽ dời về vùng núi Thất Sơn ẩn tu và sẽ tịch vào năm 1980, không c̣n có dịp gặp lại ngài được nữa.

*** C̣n Ḥa Thượng Thiện Tâm th́ tịch 18 năm sau.

Ngày mở cửa mả của ngài, hai vị Kim Xà đệ tử này có đến hiện h́nh ra là hai con rắn màu vàng rực rỡ ḅ lại trước đầu mộ của ngài một chốc rồi mới ḅ vào trong đám cỏ tranh và biến mất, tất cả mọi người hiện diện trong buổi lễ hôm đó đều thấy rơ ràng - Bên Việt Nam chỉ trừ có độc nhất một ḿnh ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt (và bên Mỹ là Đại Đức Bổn Sư Thích Hải Quang) là biết rơ căn cột của cặp rắn này mà thôi - ngoài ra không một ai hiểu thấu v́ sao mà lại có đôi kim xà này xuất hiện đúng vào ngày "mở cửa mả" của cố Ḥa Thượng - nên đều có ư nghi ngờ). Đây là chuyện sau. ***

Sau năm 1975, có một vài vị tăng sinh của Phật Học Viện Huệ Nghiêm lên Đại Ninh thăm cố Ḥa Thượng và ngụ ở ngoài tu viện Hương Nghiêm. Nửa đêm thức giấc (đi tiểu) ở phía sau (nhà cầu), sáng dậy nói với mấy thầy nơi tu viện rằng:
- Cha chả, ông già của tụi ḿnh tu hành tinh tấn ác ôn!
Mấy thầy Tu Viện hỏi:
- Sao biết là ông già tu hành tinh tấn?
Khách tăng trả lời rằng:
- Hồi hôm này lúc 2 giờ khuya, tôi thức dậy đi tiểu, lúc trở vào, ngó qua bên thất của ông già thấy ổng vẫn c̣n mặc hậu đi kinh hành ở ngoài lan can trên lầu thất của ổng, nên biết rằng ông già tu hành suốt cả đêm, tụi ḿnh thiệt không bằng.
Thật ra th́ người mặc áo vàng đi kinh hàng chung quanh lầu đó không phải là ngài đâu, mà chính là một trong hai vị Kim Xà Vương đệ tử hiện h́nh tăng tướng đi ṿng quanh thất để bảo vệ cho "Sư Phụ" của ḿnh được an lành nghỉ ngơi và tu niệm.


Đến đây, trước khi qua một chương khác, Bảo Dăng tôi xin kể hầu quư vị thêm một vài chuyện ngắn khác nữa (trong số rất nhiều chuyện mà Bảo Đăng được nghe từ nơi Đại Đức bổn sư) như sau:
Một lần khác, quư thầy bên Tu Viện (Hương Nghiêm) dọn đất trồng lúa, bắp - nên gom các cỏ tranh, chà, bổi vừa mới làm xong... lại thành một đống lớn để trên g̣ mối gần đó, đốt bỏ. (Hôm ấy cố Ḥa Thượng ngó qua, thấy thế ngài mới rầy, bảo là đốt như vậy lỡ chết côn trùng mang tội - sau này Đại Đức bổn sư cũng bị ngài rầy hết mấy lần (về việc tương tợ như vậy) v́ đốt rác ẩu ở trên g̣ mối).
Khuya lại, sau khóa lễ (gần 1 giờ sáng) ngài chuẩn bị đi ngủ th́ nghe có tiếng khóc ở phía trước cửa. Ban đầu ngài tưởng đâu v́ ḿnh xớn xác nên nghe lầm, nhưng khi lắng tai nghe kỹ lại th́ rơ ràng là tiếng con nít khóc chớ không sai chạy chút nào hết, ngài mới mở cửa ra đứng bên ngoài nh́n chung quanh để t́m. Đêm đó nhờ có trăng tỏ cho nên chỉ một chút sau th́ ngài thấy ở dưới gốc mít phía trước thất có một đứa nhỏ đang ngồi khóc và có vẻ đau đớn lắm. Ngài lại gần hỏi con là ai, sao ngồi khóc vậy, lại đây thầy biểu coi.
Đứa nhỏ đứng dậy bước ra, đó là một em bé trai khoảng 5, 6 tuổi gương mặt cũng dễ coi, mặc áo màu xanh (chắc là rắn lục), lại gần cố Ḥa Thượng nói con bị phỏng hết cả lưng, đau rát lắm.
Ngài hỏi v́ sao mà bị như vậy?
Bé đáp:
- Hồi trưa này con đang nằm ngủ th́ bị lửa ở đâu đốt cháy, v́ ngủ mê nên không hay, đến khi nóng quá, giật ḿnh thức dậy th́ chạy không kịp nên cả lưng bị phỏng hết (lửa của mấy thầy đốt g̣ mối, xin tôn sư từ bi cứu độ).
Cố Ḥa Thượng vừa nghe nói vậy th́ ngài biết "Bé" này thuộc về giống ǵ rồi, nên ngài có ḷng thương, dẫn nó vào trong cốc, lấy chung nước cúng Phật trên bàn thờ xuống tŕ chú "A Di Đà Cam Lộ Chơn Ngôn" vào nước một hồi rồi rải lưng của nó, xong ngài mới bảo bé rằng thôi con về đi, không sao đâu mai sẽ lành.
"Bé" lạy tạ ơn, ra khỏi cửa rồi biến mất.
Đêm sau ngài nằm chiêm bao thấy có một người đàn bà chắc là "má-ḿ" dắt nó đến cám ơn, trong mơ thấy nó hết khóc rồi và cười nói vui vẻ...
Một câu chuyện khác:
Nơi cố Phương Liên 2 (có hai thất Phương Liên, thất 1 là của cố Ḥa Thượng ở - thất 2 là của ni sư Thanh Nguyệt cất cho thân phụ ở - C̣n ni sư th́ ở tại thất Bạch Vân), phía sân trước có một g̣ mối lớn bằng 5, 6 chiếc đệm, trên có tre gai mọc, choán cả một khoảng đất rộng. Đă mấy lần ni sư muốn đốn bỏ, dọn dẹp cho có đất trống để trồng bắp, đậu, nhưng hễ ai vừa tới gần g̣ mối, định đốn cây, phát cỏ th́ đều cảm thấy xây xẩm mặt mày và nhức đầu hết. Riết rồi mấy người Thượng (làm mướn) sợ quá, đứng ngoài xa chắp tay xá xá vào g̣ mối thôi, chớ không dám đến gần nữa. Họ nói chúng tôi không dám đâu, trong đó có thần thánh ở đừng đụng chạm đến mà chết...
Mấy năm trôi qua rồi mà g̣ mối cũng không sao phá được. Cuối cùng ni sư mới đem chuyện này tŕnh lên cố Ḥa Thượng xin giúp đỡ v́ rất cần đất trống để trồng trọt hoa màu. Lúc ấy cố Ḥa Thượng chưa bế quan, nghe vậy nên ngài mới vào xem tự sự... Sau khi làm phép và chú nguyện xong rồi, đêm đó ngài nằm mơ, vía thầy đi vào trong thất Phương Liên 2, lại gần chỗ g̣ mối, chỉ tay vào trong bụi tre, bảo:
- Vị nào trong đó hăy đi chỗ khác ở, để đất trống cho chư ni trồng trọt, sinh sống và tu hành.
Nói xong một lát sau th́ ngài thấy từ trong g̣ mối và bụi tre gai có một con rắn màu đỏ, to bằng cây cột nhà (chắc là rắn lục lửa) ḅ ra ngoài ngó ngài một hồi, đoạn gật đầu mấy cái rồi xuống sông đi mất.
Sáng ra ngài nói cho ni sư nghe và bảo rằng g̣ mối nay đă phá được rồi... Trước sự hiện diện của ngài mấy người Thượng mới dám đến đốn tre và bang bằng g̣ mối. Bấy giờ mới khám phá ra một việc hi hữu, ấy là... trong g̣ mối này có một bụi "Đơn Quy" rất lớn (là một vị thuốc bắc đặc biệt bổ máu - bồi bổ tổng quát) rất quư báu, củ to bằng bắp tay, bắp chân (mấy trăm năm rồi nên củ mới lớn như vậy) - nhiều đến nỗi đem về phơi cả mấy chiếc đệm mới hết.
Cố Ḥa Thượng nói với ni sư rằng:
- Hèn chi mà không ai phá được cái g̣ mối này hết. Té ra v́ trong đó tàng ẩn vị thuốc quư này nên mới có rắn thần canh giữ. Đây cũng là cái duyên của con đó, hăy giữ kỹ mấy củ đơn quy này mà dùng từ từ. Sau này con c̣n nhờ nó lắm.
Quả thật vậy, nhờ uống đơn quy này mà ni sư từ từ hết bịnh phong thấp và sốt rét rừng, sau phát ra tướng mập mạp, hồng hào tựa như Di Lặc Bồ Tát - Đây là lời của một Phật tử từ bên Mỹ về thăm ni sư, khi trở qua kể lại cho Bảo Đăng nghe như vậy.


Quay trở về đầu Xem sakura_85v's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sakura_85v
 
sakura_85v
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 23 October 2005
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 33
Msg 3 of 11: Đă gửi: 07 June 2006 lúc 1:16pm | Đă lưu IP Trích dẫn sakura_85v

Ḥa Thượng THÍCH THIỀN TÂM

Viện chủ Hương Nghiêm Tịnh Viện, Pháp chủ Phương Liên Tịnh Xứ Mật Tịnh đạo tràng, tại Đại Ninh, ấp Phú An, xă Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng VN.
Đă an lành thị tịch văng sanh vào lúc 6g15 sáng ngày 21-11 Âm lịch năm Nhâm Thân. (Nhằm ngày thứ hai 14-12 dl năm 1992). Hưởng thọ 68 tuổi.
Ngài là một vị Đại Tăng chói rực phần danh đức, được xem như là một thánh tăng đương kim và là con mắt của Phật giáo Việt Nam trong hiện tại.
Đêm đó (20 rạng 21), Ḥa Thượng ngồi trước bàn Phật (ở trên lầu) tŕ niệm suốt buổi. Đến 3 giờ sáng, ngài biết thời khắc văng sanh sắp đến nên mở mắt ra, truyền lịnh cho ni sư trưởng tử triệu chúng vào trong tịnh thất hộ niệm. Kế đó Ḥa Thượng bước xuống lầu rửa tay, mặt, nghiêm chỉnh y hậu xong ngài an tọa vào trên chiếc ghế nơi mà ngài vẫn thường ngồi để tịnh niệm thường nhật, tay trái kết ấn "Di Đà định", tay mặt lần chuỗi niệm Phật.
Trước mặt Đại Sư là ni sư trưởng tử và các đồ chúng nơi Phương Liên tịnh xứ vân tập đầy đủ. Đồ Tôn là Tỳ Kheo ni Thích Nữ Bảo Đàn thỉnh bức tượng tranh của đức A Di Đà Thế Tôn đứng trong vị thế tiếp dẫn đặt nơi trước mặt ngài. Các môn đồ, pháp quyến vừa rơi lệ khóc thầm, vừa cất cao tiếng hộ niệm...
Đại Sư mỉm cười thốt lời an ủi rằng:
- Hăy b́nh tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây Phương là điều hân hạnh, các con hăy theo đó mà cố gắng niệm Phật. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hạnh ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.
C̣n các việc thành, bại, vinh hư trên cơi đời này, chẳng phải là chỗ quan tâm đến của ta.
Đoạn ngài đọc bài kệ rằng:
Đời ta chí gởi chốn Liên Tŕ,
Trần thế vinh hư sá kể ǵ.
Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm,
Mừng nay được thấy đức A Di.

Tuyên xong lời kệ sau cùng này, ngài ngồi yên trên ghế, nhắm mắt như vào trong định. Đại Chúng biết chắc Đại Sư sắp sửa quy Tây, nên đồng cất cao tiếng hộ niệm, mỗi lúc càng thêm khẩn thiết.
Đến 6 giờ 15 phút (giờ Mẹo) Đại Sư bỗng mở mắt ra, chắp tay nói: "Ta đi đây. Đại chúng nên bảo trọng."
Đoạn nhắm mắt lại, tay trái ngài vẫn kết ấn Di Đà Định, tay mặt buông xuôi xuống, xâu chuỗi từ trên tay ngài rơi xuống chiếu và ngài lặng im, an nhiên thoát hóa ngay trên bản tọa.
Ni sư trưởng tử và các môn đồ pháp quyến cố gắng dằn ḷng xúc động, nén nỗi bi thương, vẫn để yên di thể ngài ngồi trên bản tọa như vậy và tiếp tục hộ niệm thêm hai giờ đồng hồ nữa. Đến 9 giờ sáng mới cùng nhau nhẹ đỡ pháp thể ngài lên, đặt nằm ngay ngắn trên đơn (của ngài), đắp mền lại kỹ lưỡng trông y như ngài vẫn c̣n đang ngủ vậy.
Toàn thân của Đại Sư vẫn mềm, ấm, dịu dàng và dung sắc vẫn hồng hào, tươi nhuận y như c̣n sống. Đỉnh đầu ngài nóng hực như tưới nước sôi.
Đại Sư hưởng thọ tuổi đời được 68 - Tuổi đạo 48 (Tăng lạp 42).
Về phần của các chúng nơi Phương Liên Tịnh Xứ th́ sau khi an pháp thể của Đại Sư ở trên đơn xong rồi, đồng nhau khấu đầu lễ tứ bái vĩnh biệt, kế đó đóng cửa thất của ngài lại, cùng bước ra ngoài để chuẩn bị lo tiếp các phần hậu sự...
Đến 9 giờ 30 phút, đại chúng ở ngoài Hương Nghiêm Tịnh Viện hay tin, đồng nhau kéo vào, dùng đa số và cường lực phá cửa thất ra "thỉnh ngang" di thể của ngài đưa thẳng về chùa...
Lễ di quan, nhập tháp hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25-11 Âl năm Nhâm Thân (18-12-1992 dl) tại Hương Nghiêm Tịnh Viện.
Đại Sư có lưu lại một viên NGŨ SẮC KIM CANG NHA XỈ XÁ LỢI (một răng cấm năm màu c̣n nguyên vẹn) cứng như kim cương, được bảo toàn kỹ lưỡng.

Ba ngày sau (21/12 dl 1992), trong lễ khai mộ của ngài, tất cả mọi người hiện diện đều trông thấy có một đôi kim xà màu vàng rực rỡ dài khoảng hai thước tây ḅ đến trước đầu mộ của Đại Sư, nằm im một chốc, đoạn cất đầu ngó lên ni sư trưởng tử Thanh Nguyệt, gật đầu ba lượt rồi ḅ đi vào trong đám cỏ tranh gần đó biến mất. Các h́nh ảnh về đôi Kim Xà này đều đă được ghi nhận đầy đủ bằng h́nh chụp và video.

CÔNG TR̀NH DỊCH THUẬT, TRƯỚC TÁC CỦA HT THÍCH THIỀN TÂM:

Mấy điệu Sen thanh
Lá thư Tịnh độ
Long thư Tịnh độ
Phật học Tinh yếu
Thiền và Tịnh độ
Niệm Phật thập yếu.... vân vân.
Các bạn có thể t́m thấy các kinh sách trên ở :
http://www.quangduc.com/tinhdo/index.html


(Nguồn http://dainam.net/forums/showthread.php?t=53645 )




Quay trở về đầu Xem sakura_85v's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi sakura_85v
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 4 of 11: Đă gửi: 07 June 2006 lúc 11:31pm | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang


Thành tâm kính lễ Đức Tôn Sư Vô Nhất Đại Sư-Thích Thiền Tâm Hoà Thượng.

Chân thành cảm ơn bạn sakura_85v, đă post về tiểu sử và xưng tán công đức của Đức Tôn Sư; một người mà tôi hằng nương theo Ngài tu tập cũng như Thầy KimCangTri.

Nói về đường lối tu luyện của Ngài, xin được nói rơ thêm là Ngài tu Tịnh-Mật song tu; Tịnh Độ là chánh hạnh và Mật Tông là trợ duyên. Cuối cùng th́ Ngài cũng thành tựu quả vị Bồ Tát nơi cơi Tây Phương an lành giải thoát, trên con đường tiến tới Phật vị.

Kính chúc quư vị liên-hữu sớm thành tựu Niệm Phật Ba La Mật, sớm văng sanh cơi Tây Phương, đồng chứng Phật vị.
Nam Tây Phưong Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.
Phổ Quảng
kính


Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
theanh
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 October 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 95
Msg 5 of 11: Đă gửi: 08 June 2006 lúc 1:48am | Đă lưu IP Trích dẫn theanh

Nam Mô A Di Đà Phật !!!

Nhất tâm đảnh lễ : Hương Nghiêm Tịnh Viện , Vô Nhất Thượng Nhân ,Thượng Thiền Hạ Tâm Tác Đại Chứng Minh !!!

Nam Mô A Di Đà Phật !!!



__________________
Bước phiêu bông ghé cơi nhân gian
Tại phù sinh t́m về cơi thanh tịnh !
Quay trở về đầu Xem theanh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi theanh
 
tuvils
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 September 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 286
Msg 6 of 11: Đă gửi: 08 June 2006 lúc 3:13am | Đă lưu IP Trích dẫn tuvils



Nam Mô A Di Đà Phật .

Cám ơn Hiền Huynh Sakura_85v đă giúp Chư Huynh Đệ trong diễn đàn Ôn Cố Tri Tân về công đức hoằng hóa_độ sanh của Cố Ḥa Thượng Thượng Thiền Hạ Tâm, Đệ Nhất Ân Sư Mật Tông của Tứ Chúng Phật Tử Việt Nam.

Những ǵ mà Hiền Huynh đề cập trên trang nầy là hoàn toàn trung thực và nhất quán với tiểu sử của Ngài.

Chí Tâm đănh lễ Nam Mô Hương Nghiêm Tịnh Viện - Vô Nhất Thượng Nhân - Đệ Nhất Ân sư Thượng Thiền Hạ Tâm tam bái .

                NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

Quay trở về đầu Xem tuvils's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi tuvils
 
theanh
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 October 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 95
Msg 7 of 11: Đă gửi: 11 June 2006 lúc 1:04am | Đă lưu IP Trích dẫn theanh

Nam Mô A Di Đà Phật !!!

Huynh nào có Di Ảnh của Cố Đại Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm !cho đệ xin 1 tấm !!!

Nam Mô A Di Đà Phật !!!



__________________
Bước phiêu bông ghé cơi nhân gian
Tại phù sinh t́m về cơi thanh tịnh !
Quay trở về đầu Xem theanh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi theanh
 
phoquang
Hội viên
 Hội viên
Biểu tượng

Đă tham gia: 14 November 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 511
Msg 8 of 11: Đă gửi: 11 June 2006 lúc 2:10am | Đă lưu IP Trích dẫn phoquang



Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm lược truyện

Bửu Quang tự đệ tử Liên Hương kính lục



Nam mô Hương Nghiêm Tịnh Viện, Hương Quang Tịnh Thất, Phương Liên Tịnh Xứ đường thượng Tam Tạng Pháp Sư Vô Nhất Thượng Nhân thượng Thiền hạ Tâm húy Trí Hiền Ḥa Thượng giác linh tác đại chứng minh.



Thượng Nhân pháp danh Trí Hiền, pháp tự Thiền Tâm, biệt hiệu Vô Nhất, bút hiệu Liên Du, thế danh là Nguyễn Nhựt Thăng, sanh năm Ất Sửu (1926) tại làng B́nh Xuân, quận Ḥa Đồng, tỉnh G̣ Công. Là con thứ mười của cụ Nguyễn Văn Hương, một bậc túc nho, và cụ bà Giác Ân Trần Thị Dung. Trong khi mang thai Đại Sư, cụ bà đột nhiên chăm lo làm công quả tại ngôi chùa nhỏ trong làng. Có lẽ đó là do phước nghiệp của Đại Sư chiêu cảm nên điều này.

Từ thuở nhỏ, Đại Sư đă không thích chạy giỡn, chơi đùa mà thường thích thắp hương, bái xá, và theo thân phụ học chữ Nho. Đến năm lên chín tuổi, Đại Sư đă có thể đọc trôi chảy các sách Nho học như Tứ Thư, các bộ truyện Tàu và viết chữ Hán khá lưu loát. Song song với việc học chữ Hán, Đại Sư c̣n học tiếng Pháp và chữ Quốc Ngữ.

Từ năm lên bảy tuổi, nhân mục kích cái chết rất trẻ của một thiếu niên trong xóm, Đại Sư đă bắt đầu có những ưu tư về lẽ sống chết. Vào khoảng năm 1935, lúc lên mười tuổi, trong lúc đang cắt cỏ ruộng với thân phụ, chợt Ḥa Thượng Phật Ấn, trụ tŕ chùa Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), đi ngang. Đại Sư liền chạy tới ba lượt đảnh lễ Ḥa Thượng. Ḥa Thượng liền huyền kư về sau đứa trẻ kỳ lạ này sẽ xuất gia và nhắc nhở gia đ́nh không nên ngăn cản.

Cuối năm 1937, sau khi hoàn tất bậc Tiểu Học, Đại Sư xin phép cha lên Mỹ Tho, ngụ tại chùa Vĩnh Tràng để tiếp tục học chữ và Đông Y. Chính trong thời gian này, Đại Sư đă tận dụng thời gian rảnh rỗi để tự trau giồi nội điển cũng như tham học Phật pháp với Bổn Sư Ḥa Thượng Phật Ấn. Ḥa Thượng đặt cho pháp danh cho Đại Sư là Trí Hiền. Do cơ duyên, Đại Sư cũng được học theo nghề thuốc với một vị Đông Y Sĩ nổi tiếng ở Mỹ Tho thời đó là thầy Tế An Đường và các vị đại phu nổi tiếng khác.

Đến năm 1943, Đại Sư đă lấy được bằng Thành Chung (tương đương Trung Học Đệ Nhất Cấp sau này). Trở về quê nhà, Đại Sư vừa hốt thuốc cho thân mẫu đang lâm bịnh vừa giảng dạy Phật pháp cho song thân và người anh thứ năm. Dưới sự khuyến hóa của Đại Sư, gia đ́nh ngài đă biết thờ Phật và tu niệm.

Năm 1945, sau khi cầu thỉnh xin xuất gia không được song thân chấp nhận, ngài đă lén trốn đi, t́m đến chùa Sắc Tứ Linh Thứu ở Xoài Hột để xin xuất gia với Ḥa Thượng thượng Thành hạ Đạo. Đại Sư được thọ Sa Di Giới với pháp tự là Thiền Tâm.

Nhận thấy sa di Thích Thiền Tâm sẽ là một bậc long tượng cho Phật Giáo Việt Nam sau này, Ḥa Thượng Linh Thứu đă thuyết phục Đại Sư lên Sài G̣n, t́m đến Ḥa Thượng viện chủ Tổ Đ́nh Ấn Quang thượng Thiện hạ Ḥa để xin gia nhập Phật Học Viện Liên Hải (chùa Sùng Đức) hầu thụ học chương tŕnh Trung Đẳng Phật Học từ năm 1948 đến năm 1950.

Năm 1950, Đại Sư thọ Cụ Túc Giới và cầu pháp nơi Viện Chủ Tổ Đ́nh Ấn Quang kiêm đốc giáo Phật Học Đường Nam Việt là Ḥa Thượng Thiện Ḥa. Khi chương tŕnh Cao Đẳng Phật Học khóa 1 được khai giảng, do thành tích học tập xuất sắc, Đại Sư được chọn vào lớp Tăng Sinh đầu tiên. Dù chỉ mới 24 tuổi, Đại Sư đă được ban giáo thọ tin cậy, giao đảm nhiệm chức vị Tri Chúng (tức là trưởng tràng). Trong quá tŕnh học tập, Đại Sư luôn nổi bật về mọi phương diện học vấn, tài đức, khả năng, thiện chí.

Khi khóa học hoàn tất vào năm 1954, trong số hơn 100 học tăng, chỉ có 13 vị được tốt nghiệp, Đại Sư được xếp hạng Tối Ưu. Sau khi tốt nghiệp, Đại Sư được ban giảng sư Phật Học Đường Nam Việt giao trách nhiệm hoằng dương Tịnh Độ. Đại Sư đă khẩn nài các vị tôn túc cho ngài được nhập thất chuyên tu Tịnh Độ một thời gian để có thể hoàn thành trọng trách ấy; nhưng các vị tôn sư chỉ hứa khả cho ngài nhập thất trong một thời gian ngắn và phải xuất quan bất cứ khi nào giáo hội cần đến ngài.

Trở về Mỹ Tho, Đại Sư lập cốc tại Cái Bè để chuyên tu Tịnh Nghiệp suốt năm năm (1955-1960). Trong thời gian ẩn cư này, dù gặp nhiều chướng duyên khảo đảo, Đại Sư vẫn tinh cần tu tập, đồng thời biên dịch hai tác phẩm quan trọng làm tư lương cho Tịnh Độ học nhân Việt Nam:

* Trích tuyển những bài văn quan trọng trong cuốn Ấn Quang Văn Sao, soạn thành tác phẩm Lá Thư Tịnh Độ (hoàn tất năm 1956) nhằm phá nghi, hóa đạo chúng sanh tin tưởng, hành tŕ Tịnh nghiệp.

* Soạn thuật bộ Tịnh Độ Tân Lương, 2 quyển, dày 800 trang để chỉ dạy cặn kẽ sự lợi ích thiết thực của pháp môn Tịnh Độ cũng như cách thức tu hành sao cho xứng hợi với từ bi nguyện hải của đức Từ Phụ Di Đà.

Từ năm 1960-1962, Thượng Nhân tiếp tục nhập thất tịnh tu tại Vang Quới (Bến Tre) và soạn thuật những tác phẩm quan trọng sau đây như Hương Quê Cực Lạc, Tịnh Độ Thập Nghi Luận, Tịnh Độ Pháp Nghi. Tiếp đó, trong thời gian nhập thất tịnh tu tại tịnh thất Giác Duyên (Chợ Gạo, Mỹ Tho), ngài đă phiên dịch kinh Phật Thuyết Thiện Ác Nhân Quả Báo Ứng theo thể văn vần và soạn thuật bộ Quán Vô Lượng Thọ Sớ Sao. Đây là một công tŕnh đặc sắc tổng hợp các ư kiến phán giáo và chú giải kinh Quán Vô Lượng Thọ của các vị Tổ Sư lỗi lạc như Thiên Thai Trí Giả, Linh Chi Nguyên Chiếu, Liên Tông Nhị Tổ Thiện Đạo v.v…

Năm 1963, sau cơn Pháp Nạn, viện Trung Đẳng Chuyên Biệt Phật Học được thành lập để đào tạo tăng tài tại chùa Huệ Nghiêm (Phú Lâm, Sài G̣n). Ḥa Thượng Thiện Hoa đă triệu Đại Sư về Sài G̣n giữ chức Viện Trưởng kiêm Đốc Giáo với sự phụ tá của hai vị Thượng Tọa Bửu Huệ và Thanh Từ. Học Viện sau được đổi tên thành Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm. Để việc đào tạo được toàn diện, Đại Sư đă quyết định mở thêm việc học ngoại điển theo chương tŕnh văn hóa phổ thông theo quy định của Bộ Giáo Dục. Ngoài việc giảng dạy tại Huệ Nghiêm, Đại Sư c̣n được cung thỉnh làm giảng sư giảng dạy môn Duy Thức cho Phân Khoa Phật Học của viện đại học Vạn Hạnh và làm giáo thọ cho các ni trường Dược Sư và Từ Nghiêm.

Tuy rất bận rộn, Ḥa Thượng vận tiếp tục soạn thuật các tác phẩm quan trọng sau đây: Phật Học Tinh Yếu, Niệm Phật Thập Yếu, Duy Thức Học Cương Yếu, Đại Bi Tâm Đà Ra Ni (Đại Chánh Tạng, quyển 20, kinh số 1060, bản Hán dịch của ngài Già Phạm Đạt Mạ). Riêng cuốn Niệm Phật Thập Yếu là một tác phẩm cực quư cho hành giả Tịnh Nghiệp, luận về mọi phương diện sự lư của pháp Tŕ Danh Niệm Phật, cách thức tu tập, ngăn ngừa chướng duyên cho hành giả Tịnh Độ. V́ thế, tác phẩm này đă liên tục được tái bản, tục ấn. Ngay cả Tịnh Tông Học Hội Đài Loan cũng đă trùng ấn tác phẩm này với số lượng lớn (10.000 cuốn).

Tiếc thay, Đại Sư đảm nhận trách nhiệm đào tạo Tăng tài cho Giáo Hội nhằm ngay thời kỳ đấu tranh kiên cố của thời Mạt Pháp. Ngay trong số những học tăng đang theo học tại Huệ Nghiêm, không ít vị đă bị lôi cuốn vào những cuộc đấu đá, sách động nhằm tranh giành quyền lực vô bổ. Chủ trương chuyên tâm nghiên cứu Phật học, tuyệt đối không tham gia vào những cuộc tranh chấp thế tục khoác mỹ hiệu bảo vệ đạo pháp của Ḥa Thượng bị chống đối và ngài bị chỉ trích là khiếp nhược, cầu an, thiếu tinh thần tương trợ để tăng thêm “sức mạnh” cho Phật Giáo Việt Nam!

Nhận thấy không thể làm ǵ khác hơn được để văn hồi t́nh trạng hỗn loạn nay biểu t́nh, mai tuyệt thực chống đối chính phủ được cầm đầu bởi những tăng sĩ hoạt đầu đầy tham vọng thời ấy, Đại Sư đành chọn con đường từ nhiệm để kết thất ẩn tu. Năm 1967, nhân một người tục gia đệ tử là Minh Thiện đến thăm và nhắc đến ấp địa danh Phú An, thấy địa danh này phù hợp với lời tiên triệu của Cố Bổn Sư ḿnh trong giấc mộng nên vào tháng 12 năm đó, Ḥa Thượng đă quyết chí tạ từ Ḥa Thượng Phó Tăng Thống Thiện Ḥa để xin về Đại Ninh ẩn tu, giao Phật Học Viện Huệ Nghiêm lại cho Thượng Tọa Bửu Huệ quản trị. Tuy vậy, Đại Sư vẫn phải lưu Học Viện một thời gian để giúp đỡ Thượng Tọa Bửu Huệ theo lời yêu cầu của Ḥa Thượng Phó Tăng Thống. Măi đến năm 1968, việc xây cất Hương Quang tịnh thất ở Phú An đă xong, Ḥa Thượng liền chính thức ẩn tu vào năm 43 tuổi!

Đại Ninh là một vùng hoang vu nằm cách quốc lộ 20 chừng ba cây số, cạnh sông Đại Ninh thuộc khu vực thủy điện Đa Nhim. Hương Quang tịnh thất được dựng trên một vùng đất hoang vu toàn g̣ mối, rắn rết thuộc thôn Đại Ninh, thôn Phú An, xă Phú Hội, quận Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Thôn Phú An chỉ có chừng 50 nhà và chỉ có 10 nhà là người Kinh. Hương Quang tịnh thất chỉ là một căn thất nhỏ lớn chừng 2 pḥng ngủ gồm 2 tầng: tầng trên để thờ Phật, tầng dưới để ở và làm việc. Về đây, Đại Sư chỉ lo chuyên tu tŕ niệm, rảnh rỗi th́ làm vườn, dọn rẫy. Đức hạnh của Sư đă cảm nhiều loài dị loại đến nghe kinh, hộ thất. Ḥa Thượng đă thực hành pháp Du Già Thí Thực để hồi hướng công đức đến cho chúng. Theo các đệ tử của ngài, những loài linh xà thường hiện thân trong giấc mộng xin quy mạng, thọ giới. Ḥa Thượng đều hoan hỷ lập đàn truyền giới cho họ.

Tuy đă quyết chí ẩn lánh thế tục, nhưng tứ chúng vẫn mến mộ đức hạnh của một bậc cao tăng đức hạnh nên lần lượt đổ dồn về Đại Ninh lập thất tu học. Chỉ trong ṿng một năm từ 1969 đến 1970, vùng Đại Ninh hoang vắng đă trở thành một “làng tu” nổi tiếng ở Lâm Đồng. Do tứ chúng vân tập quá đông đảo, chẳng đặng đừng, Đại Sư phải xuất quan theo lời thỉnh cầu của mọi người để lănh đạo công việc kiến thiết một tu viện cho tứ chúng có nơi an cư tu học. Nhờ phước lực của Ḥa Thượng, một đại đội công binh chịu trách nhiệm tu bổ kiều lộ trong vùng đă hoan hỷ đứng ra góp phần xây cất tu viện.

Đầu năm 1971, Hương Nghiêm tịnh viện được hoàn thành, trở thành đạo tràng Tịnh Độ đầu tiên trong vùng. Cuối năm 1971, Đại Sư giao việc quản trị Hương Quang Tịnh Thất và Hương Nghiêm Tịnh Viện cho đại chúng quản trị để nhập thất vĩnh viễn tại Phương Liên tịnh xứ ở gần đó. Ḥa Thượng dành trọn thời gian để tụng niệm, quán tưởng, lễ bái, dịch thuật. Trong thời gian này, Đại Sư đă phiên dịch các tác phẩm quan trọng sau đây: Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni (Đại Chánh Tạng quyển 19, kinh số 967), Đại Nhựt Kinh Sớ (do ngài Nhất Hạnh trứ tác, Đại Chánh Tạng quyển 39, kinh số 1796 gồm 20 quyển), Mấy Điệu Sen Thanh (lược dịch Tịnh Độ Thánh Hiền Lục), chú giải 100 bài kệ Niệm Phật của Tổ Triệt Ngộ, Liên Tông Thập Tam Tổ, Tam Bảo Cảm Ứng Yếu Lược Lục, Nhơn Quả Luân Hồi Tạp Lục Kư, Tây Phương Nhật Khóa và nhiều bản kinh Mật Tông quư giá khác.

Tháng Giêng năm 1989, nhận biết thân mẫu ḿnh sắp măn phần, Ḥa Thượng đă cho người đón mẹ lên Phương Liên Tịnh Xứ để dùng phương tiện thiện xảo khuyến hóa mẹ nhất tâm niệm Phật. Ngày mồng 2 tháng 5, cụ bà đến chào từ biệt Ḥa Thượng để đi xa. Biết mẹ đă biết trước ngày quy tịch, ngày hôm sau, Ḥa Thượng đă nhóm chúng hộ niệm cho cụ. Đến 12 giờ trưa ngày 3 tháng 5, cụ bà đă ngỏ lời chào vĩnh bệt và thoát hóa trong tiếng niệm Phật của đại chúng, thọ 98 tuổi.

Kể từ năm 1989, thân tứ đại của Đại Sư đă không điều ḥa, nhưng Đại Sư cương quyết khước từ bao lượt thỉnh cầu về Sài G̣n chữa bịnh của các môn đồ. Dù thân bịnh trầm kha, Đại Sư luôn tinh tấn và tùy cơ nhiếp hóa chúng sanh không mệt mỏi. Mồng Hai tháng Tám năm 1992, biết trước ngày văng sanh, Ḥa Thượng đă viết di chúc dặn ḍ hậu sự và chính thức chỉ định Ni Sư Thanh Nguyệt làm trưởng tử và là người chịu trách nhiệm chính lo liệu hậu sự cho Đại Sư vào ngày 12 tháng 10 năm 1992 để tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau khi Ḥa Thượng viên tịch. Trong di chúc, Ḥa Thượng dặn các môn nhân hoặc bỏ xác ngài trong rừng hoặc quăng xuống vực thẳm để thí cho các loài chim, thú, thủy tộc; hoặc bó chiếu chôn sâu, khỏa bằng, trên trồng thơm chuối. Cùng lắm là đóng sơ mấy tấm gỗ tạp, trong độn lá chuối, trên để tấm pháp y, xây ngôi mồ cỏ đơn sơ. Trên mộ, dựng tấm bia: “Bất huệ nạp tăng Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất mai cốt xứ” (Chỗ vùi xương của ông sư thiếu trí huệ là Thích Thiền Tâm hiệu Vô Nhất).

Đêm 20 rạng 21 tháng 11 năm Nhâm Thân 1992, Đại Sư tŕ niệm suốt buổi trước bàn Phật. Đến 3 giờ sáng, sư sai ni sư thị giả triệu đại chúng nhập thất hộ niệm. Đại Sư thay y hậu tề chỉnh, an tọa ngồi niệm Phật giữa tiếng hộ niệm tha thiết của đại chúng. Đại Sư an ủi:

- Hăy b́nh tâm lại, đừng có khóc nữa. Ta được về Tây là điều hân hạnh, các con hăy theo đó mà cố gắng niệm Phật chuyên cần. Nếu được như vậy, ắt một ngày kia sẽ cùng hội ngộ nhau nơi miền An Dưỡng.

Rồi ngài đọc kệ thị tịch:

Đời ta chí gởi chốn Liên Tŕ

Trần thế vinh hư sá kể ǵ

Bốn tám năm dài chuyên lễ niệm

Mừng nay được thấy đức A Di.

Nói xong, Đại Sư yên lặng nhập định. Đến 6 giờ 15 phút, Đại Sư bỗng mở mắt, chắp tay nói:

- Ta đi đây! Đại chúng nên bảo trọng.

Rồi tay vẫn kết ấn Di Đà định, an nhiên tọa hóa quy Tây ngay trên bản tọa. Đại Sư thọ 68 tuổi đời, 48 tuổi đạo, hạ lạp 42.

Lễ di quan, nhập tháp hoàn tất vào khoảng 8 giờ sáng ngày 25 tháng 11 năm Nhăm Thân (tức 18 tháng 12 năm 1992). Trong lễ khai mộ vào ngày 21 tháng 12, 1992, đại chúng thấy có một cặp rắn vàng óng ḅ đến nằm trước mộ một lúc lâu, rồi ngẩng đầu, gật đầu chào ni sư Thanh Nguyệt ba lần trước khi ḅ mất dạng. Theo các môn nhân, đó là cặp vợ chồng rắn đă từng quy y với Ḥa Thượng trước kia. Đại Sư có lưu lại một kim cang nha xỉ xá lợi (tức là một cái răng rất chắc chắn, sáng đẹp, không ai cưa cắt nổi).

Xét công hạnh, Đại Sư không những chỉ giáo hóa bằng ngôn giáo mà c̣n bằng cả thân giáo. Bao nhiêu người nhờ vào những tác phẩm của ngài hay được gặp gỡ ngài mà được lợi lạc nơi pháp môn Tịnh Độ. Điểm qua những dịch phẩm và trước tác của ngài, điểm nổi bật là một tŕnh độ Phật học uyên thâm, một mức độ hiểu biết sâu xa các nền triết học ngoài Phật giáo được tŕnh bày bằng một văn pháp giản dị, chính xác, trong sáng, trau chuốt, nhẹ nhàng, thanh thoát, bóng bảy nhưng không hoa mỹ, cầu kỳ, ư tứ thâm trầm nhưng dễ hiểu. Có nhiều đoạn Đại Sư chỉ dịch ư để cho hàng hậu học dễ lănh hội được ư nghĩa của từng văn bản cổ thay v́ bám chặt theo mạch văn khiến cho người đọc có cảm giác những tác phẩm ấy vừa được viết ngay trong thời đại này, thay v́ đă được viết ra vào thời Đường, thời Tống cách đây cả ngàn năm.

Có đọc những dịch phẩm ấy, ta mới thấy kiến văn của Đại Sư vô cùng quảng bác, không những chỉ đọc hết những kinh điển Tịnh Độ trong Đại Tạng và Tục Tạng, Đại Sư c̣n đọc rất nhiều tác phẩm Tịnh Độ cận đại nữa. Tuy chuyên chú nơi Tịnh Độ, Đại Sư vẫn bác lăm các kinh điển của chư Tông, mà điển h́nh nhất là Đại Sư đă được cung thỉnh dạy môn Duy Thức cho học tăng và sinh viên ngành Phật Học tại Đại Học Vạn Hạnh khi c̣n rất trẻ.

Không những là một vị tôn sư của Tịnh Độ, Vô Nhất Thượng Nhân c̣n là một hành giả thành tựu trong Kim Cang Thừa. Tuy chỉ dùng Mật chú làm trợ hạnh để hỗ trợ cho Tịnh nghiệp, Đại Sư đă đạt những thành tựu lớn lao trong Mật tông. Rất nhiều hành giả Mật Tông được pháp ích khi đến cầu học với ngài. Qua những dẫn giải thi thoảng đây đó trong các tác phẩm giảng dạy về Tịnh Độ, ta thấy Vô Nhất Thượng Nhân là một trong số rất ít những đại sư thâm hiểu tột cùng giáo pháp phức tạp, vi diệu của Đông Mật, nhất là hai hệ thống giáo nghĩa Kim Cang và Thai Tạng. Cùng với A Xà Lê thượng Viên hạ Đức, Đại Sư Thiền Tâm được xưng tụng là tối thượng Kim Cang A Xà Lê của Mật tông Việt Nam. Khi chọn các bản kinh Mật Tông để dịch, Ḥa Thượng cũng thận trọng chọn lấy những bản hoàn chỉnh nhất để dịch và chú giải tỉ mỉ khiến cho dịch phẩm của ngài dễ hiểu, dễ thực hành, vượt xa các dịch phẩm của những vị hoằng truyền Mật tông khác.

Thị hiện chỉ 68 năm trên cơi trần gian này và thực sự hành hóa chỉ 42 năm nhưng Đại Sư đă đóng góp rất lớn lao vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Chỉ bằng những tác phẩm của ḿnh, Đại Sư đă hóa độ bao nhiêu tứ chúng hữu duyên, huống hồ là những ai có cơ duyên gặp gỡ, đích thân lănh thọ sự giáo hóa của ngài. Thế mà, Đại Sư vẫn khiêm tốn chỉ xưng ḿnh là Vô Nhất, lấy ư từ câu “Nhất sự vô thành, thân tiệm lăo” (không có chuyện ǵ làm cho ra hồn hết mà thân đă già dần mất rồi). Đức hạnh, phong thái khiêm tốn ấy càng làm cho tứ chúng ngưỡng mộ, khâm kính. Ngưỡng mong hàng Phật tử Việt Nam ta sẽ luôn được giác linh ngài thầm gia hộ, d́u dắt để cùng được hội ngộ chốn Lạc Bang.

(Tài liệu tham khảo chính: Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm, một cao tăng cận đại của Bảo Đăng do chùa Pháp Hoa ấn hành)

Phụ lục:

Khuyến Tu

Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm soạn dịch

Xưa Nhan B́nh, Như Như cư sĩ,

Dẫn luận kinh, ư ư khuyên cầu

Bút nhàn khuyên giữa canh thâu

T́nh ai trần lụy, đổi sầu làm tươi

*

Thân bào ảnh lắm người yêu tiếc

Yêu quư thân cho lụy v́ thân

Cuộc vui những ước vô ngần

Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu!

Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ (1),

Vóc huyễn hư giọt lộ ḷng hoa (2)

Đôi mươi trẻ, tám mươi già

Số người yểu thọ, khó qua vô thường

Dép dưới giường, trên giường bỗng biệt

Sống ngày nay dễ biết ngày mai

Mạng người hô hấp cho hay,

Nghĩ cơn vĩnh biệt, tuyền đài mà đau!

Xót duyên kiếp v́ sao ngắn ngủi

Chấp thân chi để tủi cho thân,

Da bao những thịt, xương, gân

Xác người như thể đống phân sạch ǵ!

Tóc, răng, móng khác chi đất bợn

Mũi, dăi, đờm ghê tởm xiết bao

Bên ngoài rệp đút, muỗi đeo,

Bên trong sán, lải lẫn vào nhớp chưa?

Nỗi nóng bức, ngày trưa tiết Hạ

Cơn lạnh lùng, đêm giá trời Đông

Xét thân nhơ khổ vô cùng,

Xả ḷng tham luyến, khởi ḷng thoát ly

*

Trách người thế mê chi lắm nhẽ!

Sánh phong lưu phô vẻ y quan!

Kẻ khờ cũng học đài trang

Để ḷng điên đảo theo đàng sắc thanh

Đầu xương sọ: cài trâm, thắt lụa

Đăy da hôi: ướp xạ, xông hương

Khéo đ̣i nhung gấm phô trương

Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh

Những mảng tưởng ngày xanh muôn tuổi

Lắm cơ mưu theo đuổi yên hoa

Ngờ đâu tai điếc, mắt ḷa,

Diêm Vương sắp rước đến ṭa U Minh

Làn tóc bạc đưa tin quỷ sứ

Gốc răng long nhắn ư quy âm,

Càng tài, càng sắc, càng dâm

Càng cho đọa lạc, càng lầm mà thôi,

Cuộc hành lạc một đời tham tiếc

Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay

Đến khi sắp xuống Diêm Đài

Thịt xương đau nhức, chân tay rụng rời,

Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ

Con tiếc thương kể lể khóc than

Dầu cho quyến thuộc muôn ngàn

Có ai thay thế cho chàng được đâu!

*

Kẻ sống ở nặng oằn gánh tủi,

Người chết đi rong ruổi phách hồn

Đường âm mờ tựa đêm hôm

Trông ra quạnh quẽ, bồn chồn chỉn ghê!

Nại Hà đến lạnh tê gió lốc,

Quỷ Môn Quan ghê gốc tiếng thương

Bảy ngày ĺa quá cơi dương

Âm ty đă trải trăm đường khảo tra.

Tào quan xử thét la chẳng vị,

Ngục tốt hờn, xoa, chủy đâu tha.

Đài gương Nghiệp Cảnh chói ḷa

Soi tường thiện, ác chối qua được nào.

Người nhân đức đưa vào cơi phước

Kẻ hung hoang giải trước h́nh ty,

Đọa đày thảm khổ xiết chi,

Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm

Rừng đao kiếm bao năm hết tội

kiếp lông sừng nhiều nỗi đa mang,

Trả đền cho dứt nghiệp oan

Mới mong thoát khỏi con đàng long đong

Dù ai có to ḷng, lớn mật

Mặc chàng hay báng Phật, khinh Tăng,

Chẳng qua đối trước Diêm quân

Cúi đầu, co gối chịu phần khảo tra

*

Hồn phách đă xa chơi âm giới

Thi hài c̣n nơi cơi dương gian

Có tiền mua lớp áo quan

Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng

Chất da thịt sẽ lần tan ră,

Tấm h́nh hài lần hóa tanh hôi

Chỉ trong hôm sớm mà thôi

Chầy năm bảy bữa, sớm thời ít hôm,

Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng

Kiếp tài hoa h́nh bóng bạch vân

Khi xưa tài sắc mười phân,

Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh,

Thời oanh liệt, anh hùng đâu tá?

Nỗi ái ân hư giả c̣n ghi!

Phất phơ cành liễu xanh ŕ

Giấy tiền treo đó dường ghi mối sầu

Bóng chiều rủ xuống màu cỏ biếc

Bia mồ trơ một chiếc vắng không

Nghĩ thôi rơi lệ chạnh ḷng

Đời người đến thế là xong cuộc đời

*

Ví chẳng biết t́m nơi giải thoát

Nương về ngôi Chánh Giác quy y

Luân hồi dứt hẳn có khi

Bên trời Bát Nhă c̣n chi lo phiền

Lối ma quỷ đừng riêng sinh sống

Đất từ bi có giống hoa đàm

Giữ ḷng thiện, dứt ḷng tham,

Gái, trai, tăng, tục đều ham tu hành

Rơ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,

Biết miền chơn hăy chóng tu chơn,

Dần dà tính thiệt, so hơn

Tuổi xuân qua mất để hờn về sau

Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm

Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,

Chớ nên ḿnh phụ lấy ḿnh

Trách sao Diêm lăo vô t́nh chẳng dung!

Bỏ điều ác xin cùng tu thiện,

Chừa lỗi xưa, cải tiến đường sau

Lại v́ quyến thuộc bảo nhau

Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu tŕ

Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác

Cho mọi người đều thoát sông mê.

Dù cho lao khổ dám nề,

Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin…

Xin dốc tưởng tin theo lời Thánh

Đừng để cho rỗi rảnh, ưu du

Kiếp này nếu chẳng chuyên tu,

Chỉn e kiếp khác công phu lỡ làng []



(1) Lấy ư từ câu: “Nhân sinh như bạch câu quá khích” (Đời người như bóng con ngựa trắng chạy vọt qua khe cửa hẹp).

(2) Giọt lộ ḷng hoa: Giọt sương đọng trên cánh hoa, chốc lát tan mất.

***
Quay trở về đầu Xem phoquang's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi phoquang
 
theanh
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư
Biểu tượng

Đă tham gia: 09 October 2004
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 95
Msg 9 of 11: Đă gửi: 12 June 2006 lúc 8:06am | Đă lưu IP Trích dẫn theanh

Nam Mô A Di Đà Phật !!!

Cảm Ơn các Huynh nhiều lắm !!!

Nam Mô A Di Đà Phật !!!



__________________
Bước phiêu bông ghé cơi nhân gian
Tại phù sinh t́m về cơi thanh tịnh !
Quay trở về đầu Xem theanh's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi theanh
 
boduc
Học Viên Lớp Dịch Lư
Học Viên Lớp Dịch Lư


Đă tham gia: 20 July 2006
Nơi cư ngụ: Ghana
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 20
Msg 10 of 11: Đă gửi: 21 July 2006 lúc 7:41am | Đă lưu IP Trích dẫn boduc

Thật là được mở rộng một cơi nhân sinh quan. Cảm ơn các bác
Quay trở về đầu Xem boduc's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi boduc
 
vuhoangnguyen
Hội viên
 Hội viên


Đă tham gia: 24 October 2005
Nơi cư ngụ: Vietnam
Hiện giờ: Offline
Bài gửi: 282
Msg 11 of 11: Đă gửi: 21 July 2006 lúc 9:31am | Đă lưu IP Trích dẫn vuhoangnguyen

phoquang đă viết:

Không những là một vị tôn sư của Tịnh Độ, Vô Nhất Thượng Nhân c̣n là một hành giả thành tựu trong Kim Cang Thừa. Tuy chỉ dùng Mật chú làm trợ hạnh để hỗ trợ cho Tịnh nghiệp, Đại Sư đă đạt những thành tựu lớn lao trong Mật tông. Rất nhiều hành giả Mật Tông được pháp ích khi đến cầu học với ngài. Qua những dẫn giải thi thoảng đây đó trong các tác phẩm giảng dạy về Tịnh Độ, ta thấy Vô Nhất Thượng Nhân là một trong số rất ít những đại sư thâm hiểu tột cùng giáo pháp phức tạp, vi diệu của Đông Mật, nhất là hai hệ thống giáo nghĩa Kim Cang và Thai Tạng. Cùng với A Xà Lê thượng Viên hạ Đức, Đại Sư Thiền Tâm được xưng tụng là tối thượng Kim Cang A Xà Lê của Mật tông Việt Nam. Khi chọn các bản kinh Mật Tông để dịch, Ḥa Thượng cũng thận trọng chọn lấy những bản hoàn chỉnh nhất để dịch và chú giải tỉ mỉ khiến cho dịch phẩm của ngài dễ hiểu, dễ thực hành, vượt xa các dịch phẩm của những vị hoằng truyền Mật tông khác.

Thị hiện chỉ 68 năm trên cơi trần gian này và thực sự hành hóa chỉ 42 năm nhưng Đại Sư đă đóng góp rất lớn lao vào kho tàng văn hóa Phật Giáo Việt Nam. Chỉ bằng những tác phẩm của ḿnh, Đại Sư đă hóa độ bao nhiêu tứ chúng hữu duyên, huống hồ là những ai có cơ duyên gặp gỡ, đích thân lănh thọ sự giáo hóa của ngài. Thế mà, Đại Sư vẫn khiêm tốn chỉ xưng ḿnh là Vô Nhất, lấy ư từ câu “Nhất sự vô thành, thân tiệm lăo” (không có chuyện ǵ làm cho ra hồn hết mà thân đă già dần mất rồi). Đức hạnh, phong thái khiêm tốn ấy càng làm cho tứ chúng ngưỡng mộ, khâm kính. Ngưỡng mong hàng Phật tử Việt Nam ta sẽ luôn được giác linh ngài thầm gia hộ, d́u dắt để cùng được hội ngộ chốn Lạc Bang.

(Tài liệu tham khảo chính: Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm, một cao tăng cận đại của Bảo Đăng do chùa Pháp Hoa ấn hành)


***



Thật là tán thán công đức vô lượng, vô biên của Ḥa Thượng Thích Thiền Tâm , một Đại chân Sư đă xiển dương Phật giáo ở VN . Một Đại Sư đạo hạnh khiêm hạ , tài cao đức trọng đă dâng hiến cả cuộc đời ḿnh cho bá tánh, cho Đạo Pháp hưng long !

Nam Mô A Di Đà Phật

Vũ Hoàng Nguyên



Quay trở về đầu Xem vuhoangnguyen's Thông tin sơ lược T́m các bài viết đă gửi bởi vuhoangnguyen
 

Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời.
Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.

  Gửi trả lời Gửi bài mới
Bản để in Bản để in

Chuyển diễn đàn
Bạn không thể gửi bài mới
Bạn không thể trả lời cho các chủ đề
Bạn không thể xóa bài viết
Bạn không thể sửa chữa bài viết
Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến
Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ



Trang này đă được tạo ra trong 3.2598 giây.
Google
 
Web tuvilyso.com



DIỄN ĐÀN NÀY ĐĂ ĐÓNG CỬA, TẤT CẢ HỘI VIÊN SINH HOẠT TẠI TUVILYSO.ORG



Bản quyền © 2002-2010 của Tử Vi Lý Số

Copyright © 2002-2010 TUVILYSO