lienhuong Hội viên
Đă tham gia: 11 July 2006 Nơi cư ngụ: United States
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 4
|
Msg 12 of 14: Đă gửi: 12 July 2006 lúc 1:33pm | Đă lưu IP
|
|
|
thêm một bài nữa, hy vọng giúp được bạn:
Kinh Phật nói Thí Ngạ Quỷ Cam Lồ Vị Đại Đà-ra-ni
(Đại Chánh Tân Tu Đại
Tạng kinh, quyển 21, kinh số 1321, Mật bộ)
Hán dịch: Đại đức Bạt
Đà Mộc A
Chuyển ngữ: Bửu Quang
Tự đệ tử Như Ḥa
Như thế này: Một thời, đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai trong hải
hội thuyết pháp, trụ núi Cô Đà, trên ngọn Kim Cang Luân, nơi đạo tràng Rô Kê Xá
Bà La, cùng a-tăng-kỳ bất khả thuyết tứ chúng vây quanh, an tường ngự trên ṭa
kim cang sư tử tám cạnh, v́ các Bồ Tát nói pháp Phương Quảng. Lúc thuyết pháp gần
xong, khi đó, đức Thế Tôn nghĩ thương các loài chúng sanh trong đường ác, toan
muốn diễn nói Thân Na Tất Lợi Đa Ma Đà-La Bát Giá Đà-ra-ni (Hán dịch: Đà-ra-ni đại đạo tràng hội thí vị cam lộ
cho quỷ đói) đại bi thù thắng gọi là Bí Mật
Thiện Môn, nên từ trong tâm ngầm phóng ánh sáng màu Nguyệt Tinh Ma-ni, gọi là
Nguyệt Ái Từ Quang, trên thấu trời Hữu Đảnh, dưới thấu địa ngục A Tỳ, tất cả
các loài trong ấy đều được ánh sáng soi suốt, như gương pha lê chiếu soi h́nh ảnh,
cho đến mười phương không chỗ nào là chẳng soi khắp, bảo các đại chúng rằng:
- Này thiện nam tử! Các ông hăy xem các thứ khổ năo thọ
thân trong sáu nẻo.
Ngay khi đó, đại chúng nương oai thần của Phật thấy sự ấy rồi,
đều cất tiếng rằng:
- Thưa
vâng, đă thấy.
Phật dạy:
- Thế gian tám khổ che trùm chẳng thể nói trọn. Các tai
ương trong sáu nẻo thật đáng kinh sợ, v́ cớ sao thế? Người đời chẳng tin tội
phước, báng không có nhơn quả, điên đảo, vô tri, keo kiệt, tham lam, ghen ghét.
Sau khi chết đi, bị đọa Vô Gián, chịu đủ các nỗi khổ chẳng thể nghĩ bàn. Từ địa
ngục ra, sanh trong ngạ quỷ, đủ các ác nghiệp, thọ báo sai khác. Do bởi ác nghiệp,
thọ ba mươi sáu thứ thân quỷ đói, như là: Bệ-lệ-đa quỷ (Tàu dịch quỷ đói), Xa-da
quỷ (ảnh quỷ), Kiện-đà quỷ (quỷ nuốt hương), Bố-sắt-ba quỷ (quỷ đói ăn hoa), Kệ-bà-da
quỷ (quỷ ăn bào thai), A-thâu-giá quỷ (quỷ ăn thứ đồ nhơ), Bà-đá quỷ (quỷ nuốt
gió), Ô-đà-ha-la quỷ (quỷ ăn tinh khí), Đà-la-chất-đa quỷ (quỷ làm tâm điên cuồng),
Chất-đa quỷ (quỷ ác tâm), Bá-rô-da quỷ (quỷ ăn đồ cúng tế), Thị-vĩ-đá quỷ (quỷ
ăn mạng sống người), Tỵ-sa-kê-đà quỷ (quỷ ăn thịt, mỡ... của người), Xà-để quỷ
(quỷ ăn trẻ mới sanh), Yết-tra Bố-đan-na quỷ (quỷ sống nhờ vào mùi hôi, thân nó
như mùi xương đốt), Cưu-bàn-trà quỷ (quỷ giữ cung điện), Tất-xá-giá quỷ (thần
nhà cầu, canh chừng nhà cầu). Như thế cho đến các loài nặng nhẹ, sống trong lỗ
hang v.v...
Do
nghiệp ác sâu, lửa dữ đói khát, ghen ghét hừng hực, thường tham ăn uống, chỉ
nghĩ nước uống, không c̣n biết ǵ khác, các thứ đau khổ chẳng thể nói nổi. Cảm
phải thân ấy như khối lửa lớn, h́nh dạng gầy c̣m, khô kháo, chân tay mềm yếu,
bàn chân như cái chậu úp, da thịt khô ran, huyết mạch khô cạn, ví như thịt sấy.
Bụng to ph́nh trướng, h́nh như cái trống. Cổ họng như mũi kim, hơi thở chẳng
thông. Thường ở trong chỗ lửa mạnh thiêu đốt, sọ to lớn như năm núi Di Lâu (Sumeru: núi Tu Di), lửa mạnh sáng rực chưa từng tạm ngừng. Lúc động thân, lửa bốc cháy rực,
thường bị đói khát, lửa lớn bức bách, thiêu năo thân tâm, chạy cuồng Đông, Tây,
gào gào, thét thét, cầu t́m thức ăn. Ví dù thấy thức ngon muốn chạy đến lấy, nhưng
v́ sức năo tham, vị ngon thượng diệu biến thành máu mủ hôi tanh tràn trề. Tuy
thấy sông lớn, nước ngọt mát trong, muốn đến lấy uống, bèn bị các thủy thần
dùng gậy sắt đánh cho. Nếu không người ǵn giữ, nước trong mát lạnh biến thành
lửa hừng. Lại bị chim ưng, kên kên, cú, quạ, ngạc, các giống chim mỏ sắt xông tới
mổ mắt, ác thú hung dữ: hổ đói, sói đói, măng xà, chó đồng… chụp bắt, vồ xé, khổ
chẳng nói nổi. Thân thể đau đớn, lông tóc xơ xác. Trên mỗi đầu lông có một vạn
tám ngàn trùng nhỏ độc ác rúc rỉa.
Các quỷ
đói do bị cơn đói dữ bức bách, sân tâm càng mạnh, lại tàn hại nhau, bửa năo phá
tủy, tranh nhau ăn nuốt. Trong năm trăm kiếp, c̣n chẳng được nghe đến tên nước
nôi, huống là được thấy? Khổ năo như thế chẳng ǵ thí dụ nổi, chẳng thể tính biết
được nổi. Nói tóm lại, trọn đủ trăm ngàn ức kiếp thọ thân hắc nghiệp mỏng hèn, rồi
mới được thoát ly khổ ấy. Lại làm thân các thứ trùng, thú thường sống trong nhà
xí, hoặc làm thân hạ lưu, sống trong các chỗ ác hôi chẳng sạch.
Này các thiện nam tử! Các quỷ đói ấy đều do đời trước ngu
si, điên đảo che lấp, phiền năo, tham lam che lấp, tâm họ cứng cỏi như sắt, chỉ
ưa vơ vét, bóc lột người khác chẳng biết chán đủ; cha mẹ, vợ con đều chẳng cấp
cho. Sư trưởng răn dạy coi như phân dơ, chẳng thí cho đầy tớ, bạn bè. Người keo
như thế chẳng lo vô thường, tiếc giữ tài vật, nói làm [kế] trăm năm, lại c̣n dạy
người tham cầu chất chứa, chẳng biết vô thường, già, bệnh rồi sẽ đến thân, bị
cơn bệnh dữ, biết chẳng c̣n sống được lâu, thường thầm nghĩ rằng:
- Ta
trong cả đời siêng khổ cầu tiền của. Nếu ta chết đi, bọn người ác kia ăn tiền của
ta như nuốt lửa dữ, sống nơi nhà cửa của ta như sống trong nhà tối.
Lúc
nghĩ như thế, do bởi ác nghiệp, la-sát, ngục tốt biến thành người gây rối đoạt
lấy của cải, đến chỗ tội nhân dùng lửa đốt đi. Tội nhân hoan hỷ. Do nhơn duyên ấy,
trong đường ác nghiệp, tướng Trung Ấm hiện, Phong Đại khởi lên trước hết làm mất
các tướng nóng bức. Các trận gió vàng lạnh nhân đó phát động. Do ác phong nổi,
gân mạch đau nhức, trong miệng khô khan, mặt mắt ngây độn, khắp thân vàng héo,
bụng trướng to kềnh, mạch vàng, xanh hiện, uống ăn chẳng tiêu, thân thể c̣m
cơi. Miệng đắng, nước tiểu vàng, mắt nh́n ngây dại, chỉ thấy ánh lửa, cổ họng
sưng nghẹn, hơi nghịch tắc họng, hơi thối trong bụng trào lên cổ họng, tiếng
nghẹn, hơi ngắn, khắp thân lở lói, máu mủ thối nát, chịu khổ sở lớn. Lúc sắp
lâm chung, lại nghĩ thế này:
- Giá
được một viên sắt đốt tiêu cổ họng, được vào ngồi trong đống lửa lớn, lại được
một chỗ tối tăm để khỏi chói chang và trừ bệnh lạnh, cũng chẳng sướng ư?
Khi ấy,
ngục tốt hóa thành lương y, vờ nâng viên sắt như viên thuốc lớn, bỏ vào trong
miệng, bảo mau ngậm lấy. Lại hóa xe lớn, làm hoa sen vàng, trên có đồng tử cầm
phất trần cổ vũ. Bệnh nhân thấy rồi, tâm sanh mê đắm, cái nóng ấm hóa ra đó ắt
trừ được cái lạnh của ḿnh, liền tiến đến trước, khí dứt, mạng chung, sanh
trong ngục Vô Gián hang thiết hoàn. Trong địa ngục ấy là chỗ khổ năo lớn nhất
trong ngạ quỷ đạo. Có một núi sắt to lớn đến hai mươi lăm do-tuần. Mặt Đông của
núi có một hang nhỏ to bằng cái đấu nước Ma Già Đà, tỏa ra khói đen. Liền chui
vào đó, trùng mỏ nhọn, trùng lưỡi dao cắt rỉa thân ḿnh, khói mờ cả mắt, chẳng
thấy ngọn lửa, chạy quàng xiên lên, đầu va vào núi sắt, năo vỡ tóe tủy như b́nh
đựng chất lạc bị vỡ. Viên sắt chui từ đầu đến chân th́ ra. Nói tóm tắt là:
trong khoảng một niệm chết đi, trong khoảng một niệm sống lại.
Tội
hết, thọ thân trong loài quỷ ăn đờm dăi, quỷ ăn máu mủ. Từ đấy xoay vần, sanh làm
loài thần gác chuồng xí, t́m cầu đồ bất tịnh để ăn nuốt. Trong ấy tội hết, sanh
trong loài thú, nhiều lần làm thân chó v.v... Từ đó, tội hết, lại sanh trong
nhà nghèo cùng, cô độc, ghẻ lác, ghẻ độc, bệnh sốt rét dữ, tiêu ṃn, hết thảy
các tướng suy năo để nghiêm sức thân h́nh, người trông thấy sanh ghét, lạnh đói
mà chết.
Tướng
mạo, thọ báo tốt, xấu như thế. Lúc nghe nói thế, lông nơi thân c̣n dựng cả lên,
huống là mắt thấy. V́ thế, các ông nên khởi đại bi, cứu khổ nạn cho họ. V́ cớ
sao vậy? Các loài quỷ đói đều là cha mẹ, anh em, chị em của các ông trong quá
khứ. Do điên đảo, ngu si chẳng chịu cầu cái vui xuất thế, mến đắm tam giới, tạo
đủ các tội. Do sức nghiệp cảm, sanh trong quỷ đói, khổ năo chen đốt, không lúc
ra khỏi, trọn chẳng được thân người. Do mất thân người, xa ĺa bạn lành. V́ xa
ĺa bạn lành, lưới nghi thêm dày, trọn chẳng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. V́ thế, nên biết họ thật đáng thương xót, hăy bạt trừ khổ ách cho họ được
giải thoát.
Khi ấy, trong hội có một vị Bồ Tát tên là Nguyệt Ái, từng
đă thuần huân tập biển đại bi hạnh, thấy sự ấy rồi, thân thể rúng động, gân mạch
co rút, bi cảm khổ năo, từ ṭa đứng dậy, tiến lên đầu mặt làm lễ, lệ buồn đầy
tṛng, bạch trước Phật rằng:
- Than
ôi, bạch đức Bà Già Bà! Xin dạy chúng con pháp cứu giúp cho nhiều người được an
ổn.
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Nguyệt Ái Bồ Tát:
- Lành thay đại sĩ! Thật là đại bi, bậc tu đại bi v́ thương
xót hết thảy hỏi ta việc ấy. Ông nên khéo nghe.
Này
thiện nam tử! Ta có đại bi thù thắng gọi là đà-ra-ni môn, tên là Thân Na Tất Rị
Đa Đại Đạo Tràng Hội Cam Lộ Vị Pháp chẳng thể nghĩ bàn, đủ đại từ bi, có đại
oai thế, có thể làm tan nát núi nghiệp địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh rộng lớn; cũng
có thể làm cho Bồ Tát mau đạt được địa vị “con một” của Như Lai. Lại được thành
tựu một trăm mười tâm đại bi, có thể khiến người tŕ tụng ngay nơi thân này chứng
được Đại Bi Luân Đảnh Vương Đà-ra-ni, Đại Bi Bất Hoại Tạng tam muội môn.
Này
thiện nam tử! Đại thần chú ấy có thể diệt lửa dữ đói khát của quỷ đói, thí cho
vị ngon cam lộ trong mát, quyết định mau đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ví như mặt trăng trong đêm hay trừ nóng bức; Đà-ra-ni đây cũng tựa hồ như thế.
Ông nên chăm chú, nhất tâm lắng nghe, chớ để quên mất, ta sẽ nói cho.
Này thiện nam tử! Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di,
đồng nam, đồng nữ, cùng các trời, người, ư muốn thọ tŕ pháp phương tiện này, cần
phải triệu thỉnh khắp hết thảy các chúng ngạ quỷ thần trong sáu nẻo thuộc mười
phương cơi, nên nghĩ thế này:
- Nam mô Phật-đà-da.
Nam mô Đạt-ma-da.
Nam mô Tăng-già-da.
Nam mô Bổn Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
Nam mô An Trụ Đại Địa Bồ Tát Chúng.
Nam mô hết thảy trời rồng thiện thần.
Nguyện
dùng oai thần xót thương hộ trợ, con nay thỉnh vời mười phương cơi nước tận hư
không giới, hết thảy ngạ quỷ, loài hữu t́nh trong sáu đường, do sức oai thần của
Tam Bảo đều đến chỗ con.
Nói
như thế xong, mặt hướng về phương Đông, liền tụng Triệu Thỉnh Thần Chú bảy biến.
Khi ấy, đức Thế Tôn liền v́ ngài Nguyệt Ái tuyên nói Triệu Thỉnh
Đà-ra-ni thần chú, liền nói chú rằng:
Na
mồ bố rị, đát tha già đá gia.
Phật
bảo Nguyệt Ái:
-
Triệu thỉnh chúng xong, khi đó, ngạ quỷ thần trong mười phương hết thảy sáu đường
đều nhóm đến, chiêm ngưỡng hành giả xem như cha mẹ. Khi ấy, hành giả nên khởi
tâm đại bi, nói lời như sau: “Các ngươi nên khéo nghe, ta nay dùng đà-ra-ni này
khai yết hầu cho các ngươi, thí cho sự vui sướng mát mẻ mềm mại, muốn làm cho các
người ăn uống thỏa thích vị ngon cam lồ”.
Khi ấy,
đức Thế Tôn liền nói Khai Yết Hầu Đà-ra-ni Chú rằng:
Om,
bồ bố rị, ca đát rị, đát đá già đá.
Tụng
đà-ra-ni thần chú này đủ bảy biến xong, do sức thần chú, các ngạ quỷ ấy cổ họng
thông suốt, lửa mạnh tắt mất không c̣n khổ năo, thân tâm thơ thới. Khi ấy, hành
giả nên thí nước trước. Muốn thí nước th́ mỗi sáng sớm hoặc vào giữa trưa, lấy
một vốc nước sạch, mặt hướng về phía Đông, tụng chú bảy biến, rải lên không
trung. Nước đó do sức đà-ra-ni, một giọt rơi xuống đất biến thành mười hộc nước
cam lộ cơi trời, các bọn quỷ đói sung túc no đủ, hoan hỷ vô lượng.
Khi
đó, đức Thế Tôn v́ Nguyệt Ái liền nói chú. Thủy đà-ra-ni chú như sau:
Na
mồ tô rô bà duệ, đát tha già đá da, đát thiết tha, tô rô tô tô, bà ra tô rô, sa
bà ha.
Phật
bảo Nguyệt Ái Bồ Tát rằng:
-
Này thiện nam tử! Đây gọi là Thí Cam Lộ Tương Đà-ra-ni Thần Chú.
Lại
nữa, nếu các trời người muốn thí thức ăn, mỗi ngày nên vào lúc trước khi ăn cơm
trưa, dùng bát tốt đẹp nhất, hoặc đồ đựng bằng vàng, bạc, hoặc đồ đồng, đậu thạch,
kẽm, thiếc, hoặc các đồ đựng bằng: lưu ly, pha lê, ngọc bối v.v... Nếu không có
những thứ trên, chỉ cần đồ tốt bằng gỗ, đá, sứ thanh tịnh là được, hoặc vỏ quả
bầu cũng dùng được, chứa đầy sữa, lạc. Nếu không sữa, lạc, dùng nước sạch cũng
được. Lấy tất cả các thức ăn, hoặc là cơm nấu sữa, hoặc cơm nấu bằng gạo tám
hay đại mạch, hoặc bánh, cháo v.v... đặt trong đồ đựng, đừng để rau cỏ, đặt
trong bóng mát, dưới gốc cây.
Trước
hết tụng chú Triệu Thỉnh; rồi tụng chú Khai Yết Hầu như trên đă nói, tụng chú
vào thức ăn trong đồ đựng bảy biến xong, đổ dưới gốc cây. Khi ấy, mười phương hết
thảy quỷ đói do sức oai đức của đà-ra-ni đều được ăn uống, [thức ăn] cũng chẳng
bị biến thành máu mủ, cũng không bị ngăn cấm, tự ăn uống thỏa thích, no nê đầy
đủ, diệt đói, dập tắt lửa, thân thể an vui, không các thống năo. Lại có gió nhẹ
trong mát mềm mại, thổi chạm đến thân, cấu nhơ keo kiệt trừ diệt; thân không c̣n
các thứ nóng khổ, thư thái an vui. Các giống trùng ác sống trên những sợi lông
dài nơi thân rơi rụng, cũng không có hết thảy cầm thú độc ác xô tới tàn hủy,
tâm ư vui sướng. Bởi nhơn duyên ấy, tội hết, được thoát khỏi, sanh trong trời
người, được hưởng khoái lạc vi diệu tôn quư, thù thắng tự tại cơi trời. Nên biết
người ấy chỉ Phật cùng Phật mới có thể khen ngợi nổi.
Khi ấy,
đức Thế Tôn liền tuyên nói Thí Cam Lộ Thực Đà-ra-ni chú rằng:
Na
mồ sa bà đát tha già đá: nam phạ yết đế, tam mạt ra, tam mạt ra.
Khi ấy,
đức Thích Ca Mâu Ni nói đại bi thù thắng chính là đà-ra-ni thần chú này xong,
ngay khi ấy, trời đất chấn động sáu cách. Trong tam thiên đại thiên thế giới
này sáng rực; trời mưa hoa báu vần vũ như mây rơi xuống, và hương báu trời, anh
lạc, kỹ nhạc như mưa rơi ào ạt xuống. Ngay khi đó, hết thảy ngục Vô Gián trị tội
khổ trong sáu đường đều lay động, vang ra tiếng diễn xướng tiếng Vô Thường, Khổ,
Không, Giải Thoát. Vạc sôi, ḷ than găy vỡ tan nát, hết thảy tội nhơn tự biết
túc mạng, thanh thản, khoái lạc, như nhập Tam Thiền. Trong hội ấy có người đắc Sơ
Quả, cho đến được quả A La Hán. Vô lượng trời, người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
Khi ấy,
đức Thế Tôn bảo Nguyệt Ái Bồ Tát cùng các đại chúng:
- Đà-ra-ni
này khó thể được nghe, huống hồ được thấy! Quá khứ, vị lai câu-chi Như Lai đều
cùng tuyên nói. Ta, Thích Ca Mâu Ni, nay lại cũng v́ các ông khai thị, tuyên
nói.
Này
thiện nam tử! Nếu các trời, người như pháp thọ tŕ mà nếu bị các quỷ thần hay
đói khát bức bách đến nỗi phi phận chết ngang, th́ chẳng được gọi là Thắng Đại Bi,
là Đà-ra-ni vậy. Cớ sao thế? Đà-ra-ni này ví như Ma Ni Bảo Vương có thể thỏa măn
hết thảy ư nguyện, cũng như trăng sáng khiến hoa Ưu Đàm Bát nở x̣e tươi đẹp.
Này
thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát chẳng đắm vào sự vui sướng của tự thân, cứu khổ cho
người, huân tu đại bi, lợi lạc an vui hết thảy, thi hành đúng như pháp; người ấy
thật là đại bi Bồ Tát. Người ấy đă làm hạnh Quán Âm. Hết thảy chư Phật cùng duỗi
tay xoa đảnh, được các đức Bồ Tát cao quư yêu mến, ǵn giữ, hết thảy hiền thánh
xem như con; chư thiên, long thần chầu hầu, vệ hộ.
Nguyệt
Ái nên biết: Công đức của người ấy cũng như công đức của Di Lặc Bồ Tát, v́ cớ
sao thế? Thiện nam tử đó nếu có thể hùng dũng làm người đại trượng phu, ngày
ngày tu hành: Một ngày thí thực th́ ngạ quỷ trong một thiên hạ đều được ăn uống.
Nhiều ngày thí thực, hết thảy ngạ quỷ trong sáu nẻo mười phương đều no đủ cả. Bồ
Tát như vậy được khối phước chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể lường được, chẳng biết,
chẳng hay, tự nhiên mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này
thiện nam tử! Nếu chỉ tán tụng, biên chép đà-ra-ni này th́ người đó siêu việt
sáu mươi ức kiếp sanh tử vi tế trong thế gian, huống là như pháp tu hành không
lúc gián đoạn.
Này
thiện nam tử! Ta nay phân minh bảo ông, người tŕ chú đó ở trước Phật Di Lặc, nếu
chẳng được thọ kư quyết định thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác trong Hiền
kiếp này lần lượt làm Phật th́ ta sẽ mắc tội khi dối chúng sanh; kinh pháp ta đă
nói từ khi thành đạo đến nay không chi là đúng.
V́
thế, Nguyệt Ái phải biết: người đời vị lai nghe chú này xong, thâm tâm tin hiểu,
người ấy chuyển thân được ngôi Chuyển Luân vương, trăm ngàn vạn kiếp thường nhiếp
lấy phước đức cao quư, gặp Phật xuất thế cúng dường vô lượng, tu tập phạm hạnh,
xa đạt đến bờ hết thảy thần thông, được thọ lấy sanh thân kiên cố như Na La
Diên, thọ mạng dài lâu. Thân người ấy sắc vàng, dùng ba mươi hai tướng đại trượng
phu để tự trang nghiêm, được giọng nói giống như Phạm Vương, hết thảy oai đức thế
gian tự tại.
Này
thiện nam tử! Ai là người có trí thấy lợi như vậy mà chẳng thọ tŕ th́ nên biết
người ấy đánh mất lợi ích lớn.
Khi
đó, Nguyệt Ái Bồ Tát nghe lời Phật dạy xong, hoan hỷ vô lượng, lại bạch Phật rằng:
-
Lành thay đức Thế Tôn! Nguyện cho con được nghe sự nhàn tịnh. Con lại hỏi Đà-ra-ni
Đại Bí Tạng này phương pháp ra sao? Làm sao thọ tŕ? Kính mong nói cho.
Lúc ấy,
đức Thế Tôn quán sát đại chúng, mỉm cười rạng rỡ, khen Nguyệt Ái rằng:
-
Lành thay đại sĩ hỏi được việc này! Nhất tâm nghe kỹ, sẽ v́ ông nói.
Phật
bảo Nguyệt Ái:
- Nếu
có trời người ư thích thọ hành pháp môn Đại Bi của ta, người ấy nên trong ngày
mồng Tám tuần trăng sáng hoặc ngày Rằm, tắm gội bằng nước thơm, bôi các hương mầu
nhiệm, mặc áo trắng sạch, ăn ba thức ăn trắng (tức là sữa, lạc, cơm gạo tám hoặc là đại mạch), khởi tâm bi thương, đối với các chúng sanh thề nguyền
an lạc. Lúc mặt trời mọc từ phương Đông, hoặc vào đêm trăng tṛn, ở chỗ thanh tịnh,
hoặc vào đêm trăng nơi chỗ trống, nên làm Hương Thủy Mạn-đồ-la to ba khủy tay,
dùng bùn thơm bôi đất, trừ khử đồ nhơ. Đàn mở bốn cửa (Nếu tác pháp vào lúc mặt trời mọc th́ nên làm đàn
vuông. Nếu làm vào lúc đêm trăng tṛn, nên làm h́nh trăng tṛn).
Nên
đặt bốn bát sữa ở bốn góc. Lại đặt bốn b́nh chứa đầy nước thơm cũng đặt ở bốn cửa,
tùy theo mùa dùng cỏ cây năm màu cắm vào miệng b́nh. Đặt năm ḷ hương; bốn góc,
mỗi góc bày một ḷ, đặt ở chính giữa một ḷ. Lại dùng một ngọn đèn; đèn ấy thắp
bằng tô đặt ở chính giữa. Lại lấy bốn cái bát chứa đầy nước có thả hoa và cơm gạo
tám. Trung tâm đàn đặt một ṭa hoa sen, đệm lót nhiều màu trải trên đài; bày tượng
Phật hoặc tượng Quán Thế Âm [trên đó]. Nơi cửa này vẽ h́nh Diêm La v.v... Cửa
Đông vẽ h́nh thiên chúa, lược nói. Dùng các thứ phan lọng trang hoàng xen kẽ.
Hương đốt chỉ được dùng hương A-ca-rô (trầm
thủy hương).
Đúng
như pháp kết giới xong, hành giả ngồi ở cửa Tây, mặt hướng về Nam. Trước ṭa đặt một ḷ lửa, đốt than Thụ-lặc. Trước tiên
dùng tô, lạc, mật đựng chung một chỗ. Hành giả trước hết thỉnh mười phương Phật
cùng bậc Bồ Tát trụ đại địa, Kim Cang, thiên, long, quỷ thần rồi, chuyên tâm bất
loạn, tưởng chúng sanh trong sáu nẻo, các thứ khổ năo như trên đă nói. Đă thấy
như thế rồi buồn thương rất mực, muốn gấp cứu giúp. Lại tưởng thân ḿnh cưỡi
đài hoa báu bay đến chỗ họ, xoa bóp thân họ, lệ tuôn như mưa, muốn diệt lửa ấy,
càng thêm nghẹn ngào, đau thấu xương tủy (nếu
tâm chẳng tương ứng, hăy nên tưởng hết thảy ngạ quỷ như cha mẹ, vợ con yêu
thương của ḿnh).
Quán
như thế đủ mười bốn lượt rồi, liền từ trong định đạt được địa vị "con một
rất mực yêu thương" của Như Lai. Tưởng xong xuất quán, mặt hướng về phương
Đông, triệu thỉnh mười phương hết thảy ngạ quỷ, tụng Triệu Thỉnh Chú đủ mười bốn
biến xong, lại tưởng các quỷ đầy khắp Diêm Phù; rồi khai yết hầu cho họ được giải
thoát. Liền chú vào nước thơm, sữa, cơm, hương, hoa v.v... trong đàn; đem cơm
đă được chú đặt lại chỗ cũ.
Khi đó,
hành giả lấy một vốc sữa, lạc, tụng chú Thí Thực, chú ba biến xong một lần ném
vào lửa; trọn đủ ngàn biến như thế xong. Lúc bấy giờ, chỗ ấy có vô lượng trăm
ngàn na-do-tha mười phương ngạ quỷ hết thảy nhóm đến, ngục Vô Gián trống rỗng,
hoan hỷ ăn uống. Liền hiện thân ḿnh nói chuyện với hành giả, theo ư hành giả
mà làm hết thảy chẳng hề trái nghịch. Hành giả liền v́ họ chỉ dạy sự lợi lạc an
vui khiến cho giải thoát.
Ngay
trong lúc ấy, chư Phật hiện tại trong mười phương cơi nước xa khen hành giả, lại
c̣n xa thọ kư Bồ Đề cho, hết thảy Bồ Tát mừng vui mến nghĩ, hết thảy trời, rồng
ai nấy đem hương, hoa, anh lạc, các thứ kỹ nhạc từ xa thí cho hành giả. Do sức
oai thần của hạnh đó, hành giả chẳng đứng dậy khỏi chỗ ngồi mà được trăm ngàn
na-do-tha đà-ra-ni môn, trăm ngàn câu-chi tam-muội môn.
Này
thiện nam tử! Nói cốt yếu lại, thân đời này của người ấy lửa chẳng thể đốt nổi,
nước chẳng thể nhấn ch́m được, độc chẳng thể hại nổi, đao chẳng thể làm bị
thương nổi, chuyển sanh thọ thân liền lên Thập Trụ, thành địa vị Như Lai.
Phật
bảo Nguyệt Ái rằng:
- Đó
gọi là Thí Cam Lộ Vị Đại Đàn Tràng Pháp. Nếu muốn mau chóng được địa vị Con Một,
tam muội, đà-ra-ni v.v... cùng Vô Thượng Chánh Giác, cần phải nhập Đại Mạn-đồ-la.
Nếu bị việc ngăn trở chẳng thể làm nổi, chỉ đúng pháp thọ hành như trên đă nói
th́ hết thảy được thành nghiệm vậy.
Khi
đó, đức Thế Tôn liền v́ Nguyệt Ái Bồ Tát Ma Ha Tát mà nói kệ rằng:
Đà-ra-ni
môn này
Chư
Phật trước đă nói
Ta
nay cũng diễn nói
Để
nhiêu ích người, trời
Nếu
có ai tin ưa
Nghe
tŕ chú thế này
Ông
nghe công đức họ
Ta
nay sẽ lược nói
Trong
cả ngàn ức kiếp
Rộng
tạo nghiệp chẳng lành
Do
tŕ tụng chú này
Bảy
ngày liền trừ sạch
Bồ
Tát trong ức kiếp
Tích
tập các phước đức
Do tụng
tŕ chú này
Bảy
ngày vượt hơn họ
Nên
biết các Phật pháp.
Phương
tiện chẳng nghĩ bàn
Chứng
đắc mới ḥng biết
Phật
nói chẳng có hai.
Khi ấy,
đức Thế Tôn lại bảo Nguyệt Ái Bồ Tát rằng:
- Này thiện nam tử! Nên biết công đức của người ấy nói chẳng
thể cùng tận, ông nên nghĩ nhớ như pháp thọ tŕ. V́ cớ sao? Trong các kinh ta nói
thế gian, xuất thế gian vẫn chỉ là mới nói một phần. Bi điền thật là bậc nhất.
Lại
này Nguyệt Ái! Ta trong một thời, v́ các tỳ-kheo nói: “Nếu có người do tâm thâm
kính, thí thức ăn cho ta, giữa chừng chưa trao cho ta, lại đem thí cho chó”. Ta
khen ngợi người ấy được phước vô lượng.
V́
thế này Nguyệt Ái! Tuy thí cho A La Hán, Bích Chi Phật, quả báo đời này được hưởng
có hạn có lượng, chỉ được quả báo năm trăm kiếp trong cơi trời - người. Khéo
thí cho ngạ quỷ một búng cơm, phước đức của người ấy chính là Bồ Đề; Bồ Đề chẳng
thể hạn lượng, v́ thế phước thọ chẳng thể hạn lượng.
Ông
nay lắng nghe, ta lại v́ ông nói những công năng của đà-ra-ni này. Nếu lại có
người tội nặng ác nghiệp lũy chướng khó trừ đoạn nổi, mỗi ngày tụng chú vào
cháo sữa thí cho ngạ quỷ trọn đủ bảy ngày th́ hết thảy tội chướng đều diệt
không sót.
Lại
có một pháp: nếu người gặp bệnh nặng dữ, và các bệnh quỷ v.v… nên làm ba phần
cháo, miến, chú vào bảy biến, trong chỗ đồng trống thí cho các ngạ quỷ. Mười bốn
ngày như thế, bệnh đau mắc phải liền được trừ sạch.
Lại
nữa, trong cơi nước ác nghiệp độc khí lưu hành, nhơn dân tật dịch, súc sanh chết
ngang, hăy nên làm ḷ lửa, lấy Tát-lợi-sát-ba Tử (hạt cải trắng), ḥa với tô, mật
v.v... gọi các loài Tất-lị-đá v.v... Rồi cứ lấy một vốc, tụng chú một lần,
quăng vào trong lửa. Ngày ngày đều làm trăm lẻ tám biến như thế, qua bảy ngày
ác quỷ hoan hỷ, thâu nhiếp ác độc, tật hoạn trừ diệt.
Lại
nữa, nếu người bị nạn khẩu thiệt, nên làm mật tương, tụng chú bảy biến, rải lên
bốn phương, hết thảy khẩu thiệt tự nhiên diệt sạch.
Lại
nữa, nếu có oan gia tâm thù muốn mưu hại, nên vào sáng sớm v́ các bọn quỷ bày
thức ăn ngon, xưng tên người oán trên, các quỷ đói ấy liền khiến người đó sẽ bị
suy họa.
Lại
c̣n có pháp: nếu gặp lúc đói kém, nên chú vào ngũ cốc, sữa, lạc v.v... trăm lẻ
tám biến, ném xuống ao chuôm, nhơn dân trong nước liền được giàu vui.
Lại
c̣n có pháp: Nếu muốn tất-để-rị ma-gia (?) th́ lấy tô, sữa, lạc của ḅ, mặt hướng
về phương ấy, tụng chú ngàn biến, thí cho các ngạ quỷ, réo gọi Xá-đề Đà-lam-bà
v.v... hăy v́ ta bắt họ, họ liền phải tới. Nếu muốn trục đi, hô cho đi, liền
đi.
Lại
c̣n có pháp: Nếu muốn lấy các thứ tài bảo th́ bày thức ăn giống như trên, tụng chú
đủ vạn biến, hô danh mà nói, liền được vàng, bạc, bảy báu đến thí cho hành giả.
Lại
c̣n có pháp: lấy hồ ngạnh mễ, tô, lạc v.v... tay nhón lấy một vốc, tụng chú một
biến, thiêu một lần. Làm đủ một ngàn tám biến ắt được đại tài vật, hết thảy sở
cầu đều được như ư.
Lại
c̣n có pháp: nếu muốn bố thí trọn vẹn, hành giả mỗi ngày thí thức ăn cho ngạ quỷ,
đủ trăm ngày liền được trọn vẹn.
Lại
có pháp: nếu muốn cầu thọ mạng dài lâu, tác pháp giống như trên đủ trăm ngày liền
được trường thọ.
Lại
có pháp: nếu muốn thân hiện tại sắc lực tươi đẹp, người thấy hoan hỷ th́ nên
thí ngạ quỷ trọn đủ trăm ngày, ắt được như ư.
Lược
nói như thế, chỉ cần có hết thảy những điều cầu mong, [dứt]các thứ suy hoạn, khởi
ư đối trị th́ hết thảy đều được. V́ thế, ta nay lược nói như thế.
Khi ấy,
đức Thế Tôn lại bảo Nguyệt Ái Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:
-
Kinh đà-ra-ni này chẳng thể nghĩ bàn, nói công đức của kinh này dù hoặc một kiếp
hoặc gần một kiếp cũng chẳng thể hết. Nếu đời mai sau có thể tŕ kinh này, nên
biết người ấy đă nhiếp hai mươi thứ đại phước đức tụ. Ǵ là hai mươi?
Một
là hiện tại chẳng bị đói khát, tai ách, nghèo cùng, tật bệnh, suy họa nhiễu năo
thân tâm.
Hai
là tất cả thứ người ấy ăn, dù ngon hay không, đều thành thượng vị.
Ba
là người ấy vào trong đường hoang, trùng độc ḥa hợp, thảo dược chẳng thể hại
được.
Bốn
là quỷ thần, la-sát, tinh mị vơng lượng coi người ấy như là Phật.
Năm
là chư Phật, Bồ Tát, thiên tiên, long thần ǵn giữ người ấy như tṛng con mắt.
Sáu
là tất cả tật dịch dù là nghiệp cảm hoặc tai hoạnh chẳng thể đến gần thân người
ấy .
Bảy
là người ấy thọ mạng tăng tấn, ngủ yên, biết vọng, gặp sự cát tường.
Tám
là người ấy vào nơi đồng hoang, ít có cỏ nước, th́ tự nhiên được vừa ư.
Chín
là người ấy vẻ mặt tươi vui, da dẻ nhuận sáng, không có vẻ ác.
Mười
là người ấy thường gặp bạn lành, thậm chí Bồ Tát hiện làm bạn.
Lại
nữa, một là người ấy vị lai thường sanh trong nhà vua chúa ḍng Sát-lợi.
Hai
là người ấy đầy đủ sắc lực, sống thọ, vui vẻ, biện tài.
Ba
là người ấy thường sanh trước chư Phật, Bồ Tát.
Bốn
là người ấy ở chỗ nào, kho tàng tự hiện.
Năm
là người ấy luôn được người khác cung kính hầu tiếp.
Sáu
là tất cả tài bảo của người ấy chẳng bị đoạt mất.
Bảy
là những ư muốn mong cầu của người ấy đều được xứng ư.
Tám
là người ấy chẳng sanh trong kiếp nạn đói kém.
Chín
là thường sanh trên trời hưởng sự vui tôn thắng.
Mười
là thường dùng pháp hỷ thiền duyệt, không đói khát.
Đấy
là hai mươi thứ đại phước đức tụ.
Này
thiện nam tử! Đà-ra-ni này oai đức tự tại. Nếu thấy người đói khát đối mặt tụng
[th́ người ấy] liền được no đủ. Nếu tụng vào cây khô c̣n được sanh nhánh, huống
là hữu t́nh chẳng được hưởng phước ư? Vậy nên ta nay ân cần ba lượt phó chúc
cho ông, ông nên nghĩ nhớ, v́ chúng sanh nói, chớ để quên mất.
Khi ấy,
Nguyệt Ái Bồ Tát từ Phật được nghe pháp phương tiện này, hoan hỷ, hớn hở, liền
dùng Tỳ-lăng-già Ma-ni châu, anh lạc và các hoa hương để rải lên Phật. Liền ở
trước Phật, dùng kệ khen rằng:
Đại
bi Quán Thế Âm
Tiếng
Ca-lăng-tần-già
Dùng
các ngôn từ khéo
Khai
thị pháp cam lộ
V́
muốn dẹp tan hết
Núi nghiệp lớn rộng vậy
Dùng môn phương tiện này
Ân cần phó chúc con
Tuân lời Phật nghiêm dạy
Kham rộng lưu hành được
Chỉ nguyện sanh trong pháp
Lại lấy cỏ làm lều.
Phật nói kinh này xong, hết thảy Bồ Tát Ma Ha Tát, Kim Cang
lực sĩ, Thích Phạm, Tứ Trấn Thiên, Rồng, quỷ thần, nghe lời Phật Như Lai khen
nói Thân-na-tất-rị-đa Cam Lộ Vị Pháp Đà-ra-ni đều hoan hỷ, phụng giáo tu hành []
Kinh Thí Ngạ Quỷ Cam Lộ Vị Đà-ra-ni Thần Chú hết
(Phật lịch 2544, Bửu
Quang tự đệ tử Như Ḥa kính dịch xong ngày 26 tháng 09 năm 2000)
Phụ Chú
(Đây là phần trong Đại Tạng chép thêm ở cuối kinh)
Nam mô bộ bộ rị, đát tha yết đá gia. Om, tát bà bích rị đa
yết la da, a già xoa, sa ha.
Ấn pháp:
Đứng hai chân như h́nh chữ Thập. Trước hết, đặt ngửa tay trái
trên đầu gối, kết ấn Thí Vô úy, rồi gập ngón cái của bàn tay phải vào ḷng bàn
tay; bốn ngón c̣n lại giơ lên, đặt dưới trái tai phải; dùng đầu ngón lay động.
Liền tụng niệm diệu ngôn ba lượt. Khi ấy, quán hết thảy hàng ngạ quỷ ba mươi
sáu bộ quỷ thần đều nhóm đến bên người tụng chú, chắp tay chiêm ngưỡng quán sát
hành giả.
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, đồng nam, đồng nữ thọ
tŕ đọc tụng đà-ra-ni diệu ngôn này, thân hiện tại được mười khối phước. Những
ǵ là mười?
Một là chẳng trúng thuốc độc.
Hai là rắn độc chẳng dám cắn
Ba là đao gậy chẳng thể làm hại được.
Bốn là vua quan chẳng dám giận.
Năm là mọi người ái kính.
Sáu là trời rồng thường theo hộ vệ.
Bảy là cơm áo dư dật.
Tám là vẻ mặt đoan chánh.
Chín là trọn ĺa nỗi sợ dựng cả lông.
Mười là chẳng thọ thân trong tam đồ.
Om, bộ bộ rị, già đát rị, đát tha yết đa da.
Tướng khế ấn của chú này chuẩn theo pháp thỉnh vời nói ở
trên, đứng ngay ngắn, mười ngón tay chắp lại, các đầu ngón chạm nhau; khoảng giữa
để cách nhau một tấc. Tách cổ tay ra, đặt trên ngực. Đây gọi là Đại Bi Tâm Luận
Tra Ra Ni pháp. Lúc kết ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến. Khi đó, quán tưởng
trên ấn có một viên ngọc Thủy Tinh ma-ni, phóng ánh sáng Thủy Tinh, chiếu đến
các quỷ, hết thảy lửa mạnh đều chẳng cháy. Ánh sáng Thủy Tinh ấy nhập vào miệng
các quỷ, cổ họng bọn quỷ đều được thông suốt, ĺa các khổ năo.
Nam mô tố rô bà duệ, đát tha yết đa da. Đát điệt tha,
tô rô tô rô ba la tô rô, sa bà ha.
Ấn khế của chú này: Ngồi bán già, như cách Chuyển Luân
vương ngồi, trước hết dùng tay phải làm như đang đỡ lấy cổ, cách cổ khoảng một
tấc; khủy tay đặt trên đầu gối phải. Rồi ngửa tay phải lên, duỗi năm ngón tay rủ
xuống phía đầu gối phải làm ra vẻ như đang thí cho sữa.
Lúc kết ấn này, tụng niệm diệu ngôn bảy biến, tưởng quán đầu
mười ngón tay tuôn ra sữa màu trắng óng ánh hơn bạc trắng, tuôn ra chẳng ngớt.
Các ngạ quỷ kia tự há miệng nuốt sữa, đều được no đủ. Kết ấn này th́ thân hiện
tại của thiện nam tử sẽ được mười sáu công đức, những ǵ là mười sáu?
Một là thọ mạng dài lâu.
Hai là nhan sắc đẹp lạ.
Ba là khí lực sung thạnh.
Bốn là tâm thường vui sướng.
Năm là biện tài không bị úng trệ.
Sáu là thường không biết đói.
Bảy là trong miệng thơm sạch.
Tám là ai nấy đều kính ngưỡng.
Chín là thiên thần theo hầu, hộ vệ.
Mười là quỷ Tỳ-xá-giá hiện h́nh cung cấp.
Mười một là thân không bệnh tật.
Mười hai là oai đức như vua.
Mười ba là người ác, quỷ ác trông thấy đều sanh vui.
Mười bốn là được phước như ngàn vị Luân Vương.
Mười lăm là trong mộng thấy các Bồ Tát, La Hán.
Mười sáu là chỗ ḿnh sanh ra thế giới chấn động []
|