saodem Hội viên
Đă tham gia: 18 January 2006 Nơi cư ngụ: Germany
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 36
|
Msg 1 of 1: Đă gửi: 01 February 2007 lúc 3:35am | Đă lưu IP
|
|
|
Ư Nghĩa Của
Bố Thí Và Cúng Dường
Cúng dường và bố thí vốn cùng một nghĩa "cho". Cái ǵ của ḿnh mà có thể đem ra "cho" người khác, th́ gọi là "cho".
Cũng cùng một nghĩa, song tùy theo trường hợp hay hoàn cảnh mà nghĩa "cho" này có những tên gọi khác nhau. Thông thường th́ chỉ gọi là "cho", trường hợp khác th́ gọi là "tặng", đôi khi gọi là "biếu". Riêng danh từ "bố thí" được dùng để chỉ trường hợp "cho" những người bần cùng nghèo khổ, ăn xin ăn mày. Và trường hợp khi một người Phật tử đem những ǵ của ḿnh ra "cho" Tam Bảo, vốn là nơi nương tựa của ḿnh, th́ gọi là "cúng dường".
Thế gian thường nh́n nghĩa "cho" này theo chiều hướng "kẻ cả", nghĩa là người cho bao giờ cũng ở bên trên người nhận. Người cho là người ban ân, người nhận là người thọ ân. Do đó mà người cho luôn luôn có uy thế đối với người nhận. Đây đúng là trường hợp của "cho" và "bố thí". Song trong các trường hợp ngược lại, người cho ở vị thế thấp hơn người nhận, th́ thông thường gọi là "biếu". Nếu vị thế người cho càng thấp hơn nữa so với người nhận, và người nhận lại hoàn toàn có uy thế đối với người cho, th́ lúc ấy "cho" được gọi là "dâng lên". C̣n nghĩa "tặng" là "cho" giữa những người ngang hàng với nhau, "cho" để kết t́nh thân hay cốt để gây một ấn tượng t́nh cảm tốt đẹp mà thôi, th́ gọi là "tặng".
Trong thế gian không có nghĩa "cúng dường", song có nghĩa "bố thí". Tuy nhiên nghĩa "bố thí" trong Đạo không giống với nghĩa "bố thí" của thế gian.
Đạo pháp nh́n "bố thí" không theo chiều hướng "kẻ cả" hay "ra ân" mà theo một chiều hướng tâm linh rất thâm sâu, bao gồm nhiều ư nghĩa của Đạo. Chúng ta hăy khảo sát một cách tổng quát về nghĩa Đạo của bố thí như sau :
Bố thí gồm có ba thành phần chính : một là người cho, hai là vật để cho và ba là người nhận. Thiếu một trong ba thành phần này th́ pháp bố thí sẽ không thành lập được.
Trong ấy, vật để cho là mối liên kết giữa người cho và kẻ nhận. Vật này trước tiên hết phải thuộc về người cho sở hữu, nghĩa là nó là vật của người cho. Cho một vật không phải của ḿnh thời không thành nghĩa bố thí được. Sau khi cho, vật ấy trở thành vật của người nhận, và người cho không c̣n quyền hạn ǵ đối với vật ấy nữa.
Cho như thế có nghĩa là "xả bỏ" các sở hữu của ḿnh, xả bỏ những ǵ mà ḿnh có. Tại sao lại phải xả bỏ các sở hữu của ḿnh ?
Con đường giải thoát trong Đạo Phật cho thấy rằng sự hiện hữu của mỗi hữu t́nh chúng ta là một sự ràng buộc trói chặt chằng chịt vào nhau. Cái tâm thức mà là chúng ta một khi đă trói dính vào thân này, thời phải trói dính vào quần áo, nhà cửa, đồ ăn thức uống v.v... để nuôi dưỡng và duy tŕ thân này. Một khi tâm thức ấy đă trói chặt vào thân ấy cho đó là Tôi, th́ nó sẽ trói chặt luôn vào vợ tôi, con tôi, nhà cửa gia sản của tôi, bạn bè thân quyến của tôi... Khi Đạo pháp nói rằng chúng ta bị trói dính vào luân hồi biến chuyển đau khổ, chúng ta không được giải thoát, tức có nghĩa là chúng ta, hay đúng hơn cái tâm thức mà là chúng ta, bị trói chặt vào thân này và các sở hữu khác của nó.
Thế nên giải thoát có nghĩa là cởi tâm thức ra khỏi các trói chặt của thân và các sở hữu. Tâm thức tự trói ḿnh vào các thứ ấy bằng tâm ái luyến, nên chính tâm thức cũng phải tự cởi ḿnh ra bằng tâm thoát ly hay tâm xả bỏ các pháp sở hữu ấy.
Con đường giải thoát khuyến khích mạnh mẽ tâm thoát ly cho đến mức viên măn thoát ly th́ thành ra là giải thoát Niết Bàn.
Tâm xả bỏ có một chiều hướng khác và bao gồm nhiều ư nghĩa thâm sâu hơn là tâm thoát ly. Ư nghĩa thoát ly, theo con đường Giải thoát chỉ là xả bỏ tâm ái luyến đối với các vật sở hữu, đồng thời phát khởi một tâm đối trị tâm ái luyến này, tức tâm chán ghét ĺa xa. Do đó nên tâm thoát ly phải đón nhận và thâm nhập sâu xa vào ư nghĩa vô thường, khổ, vô ngă của thân ḿnh và các pháp sở hữu. Trong khi tâm xả bỏ ở đây không phải chỉ thuần túy là ĺa xa ở bên trong đối với các pháp sở hữu, mà chính yếu lại là tâm "chiếu cố" đến người khác, đến sự cầu mong của người khác nên xả bỏ sở hữu của ḿnh để ban cho họ được thỏa măn ḷng mong cầu.
Như vậy, trong khi tâm thoát ly chỉ nh́n vào tính chất vô thường khổ của các vật sở hữu để tự ḿnh phát khởi sự chán ghét mà ĺa xa các pháp ấy đi, để rồi chính nơi ḿnh tự thành tựu được sự thoát ly vĩnh viễn cứu cánh gọi là Niết Bàn, th́ tâm xả bỏ lại nh́n vào sự khao khát mong cầu của các người khác, để phát khởi lên một tính chất thương xót ngay nơi chính ḿnh, để rồi mạnh mẽ "nhường lại" hay xả bỏ các vật sở hữu của ḿnh để đưa ra cho họ. Tâm thoát ly để mặc sự vật ở yên đó với tính chất vô thường biến hóa của nó, trong khi tâm xả bỏ ở đây sử dụng sự vật như một phương tiện để thỏa măn người khác.
Như thế tâm xả bỏ ở đây không hề có nghĩa là do v́ chán ghét không thích nên mới xả bỏ, mà xả bỏ là v́ quan tâm chiếu cố đến sự đ̣i hỏi của người khác, đáp ứng theo sự cầu xin của họ, mà xả bỏ ra cho họ. Xả bỏ ở đây cũng không phải là để thoát ly các đối tượng bị trói buộc và chính yếu là để thoát ly chính tâm tham ái trói buộc nhằm tự chứng lấy cứu cánh giải thoát ; mà xả bỏ ở đây là để xoa dịu các khao khát của người khác và chính yếu là để thành lập tâm Đại bi nhiếp hộ người khác nhằm đưa họ đến chỗ giải thoát cứu cánh vĩnh viễn thỏa măn.
Xả bỏ theo nghĩa ấy mới được gọi là "bố thí". Bố thí ở đây do đó không hề có nghĩa bố thí của thế gian, như một "kẻ cả" ở bên trên, ra ân thí cho các kẻ nghèo cùng khốn khổ ở bên dưới. Chính yếu, Bố thí ở đây có nghĩa là đáp ứng lại vô điều kiện và không lưỡng lự đối với sự cầu xin của bất cứ ai, trên ḿnh hay dưới ḿnh, khổ hơn ḿnh hay sướng hơn ḿnh, cho đến bất kể là loài hữu t́nh nào đi nữa. Hễ có xin là có cho, và đă xin ǵ là cho nấy, dù là gia sản, vợ con, cho đến chính thân thể ḿnh. Tại sao lại phải cho một cách "quá đáng" như vậy ?
Bởi v́ Bố thí ở đây thuộc về con đường thành Phật, một hành giả đi theo con đường thành Phật này bị đ̣i hỏi cần phải có một bản thể hay một tư cách Bố thí như thế. Bố thí là nền tảng hay cơ sở cho con đường thành Phật vậy. Do bởi Bố thí bao hàm các tính chất chính yếu của một vị Phật như sau :
1- Bố thí buông xả tất cả các pháp sở hữu cho đến buông xả luôn cả chính chủ thể sở hữu. Đây chính là tính chất trí huệ vô ngă vô ngă sở.
2- Bố thí buông xả không phải do ghét bỏ muốn ĺa xa các pháp sở hữu, mà bố thí buông xả để biến mọi pháp sở hữu chuyển thành phương tiện để nhiếp hộ chúng sinh. Đây là tính chất phương tiện thiện xảo.
3- Bố thí buông xả không phải để cho chính tự ḿnh được hưởng sự giải thoát, mà Bố thí buông xả là để cho mọi người khác được toại nguyện và an lạc. Đây là tính chất từ bi lợi tha.
Chưa hết, Bố thí như thế là một sự thực hành thiết thực cụ thể, nhằm siêu việt ranh giới ta người, để phát hiện ra và thâm nhập vào lănh vực vô phân biệt, b́nh đẳng, nhất như, vốn là cảnh giới chân thật nhất, là bản thể tột cùng của tất cả các pháp.
Trong khi một hành giả giải thoát ĺa bỏ tất cả mọi thứ của thế gian này, lẻ loi một ḿnh trong rừng sâu, dồn hết bao nhiêu năng lực để cắt đứt ḿnh đi khỏi mọi trói buộc với thế gian, mong tự ḿnh thành tựu lấy cảnh giới chân thật vô phân biệt này, gọi là giải thoát hay Niết Bàn, th́ một hành giả thành Phật ôm trọn mọi pháp của thế gian, sống giữa muôn loài chúng sinh, thực hành pháp Bố thí, để cụ thể thiết thực ḥa ḿnh vào với thế gian hữu t́nh cũng như vô t́nh, để chứng thực ra giữa thế gian với vô vàn liên hệ chằng chịt này một cảnh giới "bất nhị" b́nh đẳng vô phân biệt. Chân lư ngay tại đây, ngay nơi thân ḿnh, ngay nơi vật để cho, ngay nơi người nhận, chứ không phải chỉ nằm trong rừng sâu hay trong cô đơn tĩnh lặng.
Do đó, nếu đă sống giữa thế gian này, giữa muôn loài, mà không cho ra, không Bố thí, thời thế gian này sẽ không bao giờ được chuyển hóa. Mà đă cho, thời phải cho tất cả những ǵ là ḿnh và của ḿnh, thời ranh giới phân hai giữa ta và người mới bị tan biến và toàn thể thế gian mới bộc lộ ra được toàn thân chân thật của nó. Lúc ấy sự thực hành Bố thí sẽ chuyển hóa toàn thể thế gian này sang một lănh vực không c̣n phân biệt là có ta cho, có người nhận, có vật để cho, cả ba đều không c̣n hiệu hữu nữa, bởi đối cực chủ thể khách thể ta và người không c̣n phân hai nữa.
Sự liên hệ giữa ta một bên, thế giới và người khác một bên, do sự thực hành Bố thí này mà đều được thể nhập vào cảnh giới b́nh đẳng nhất như, tất cả đều thoát hết ra khỏi lănh vực duyên khởi tương đối ràng buộc chằng chịt, hoàn toàn viên măn đến "bờ bên kia", bờ hợp nhất giải thoát. Thế nên Bố thí đến đây được gọi là Bố Thí Ba La Mật Đa (tức "bố thí đến bờ bên kia").
Bố thí như thế không dễ ǵ thực hiện. Thế nên một hành giả muốn thực hành Bố Thí Ba La Mật Đa cần phải có một tiến tŕnh tuần tự tu tập Bố thí từ từ : trước tiên hết, người thực hành Bố thí bắt buộc phải khởi tâm nguyện dứt khoát đi theo con đường thành Phật để cứu độ chúng sinh. Tâm nguyện dứt khoát này thường gọi là Bồ Đề tâm. Sau đó người ấy phải tạo tất cả công đức của thế gian như Bố thí cho người nghèo khổ, làm tất cả mọi điều tốt hữu ích cho mọi người, thực hành tŕ giới nhằm bảo vệ cho chúng sinh được an ổn và không c̣n sợ hăi.
Các công đức này thật sự cần thiết chứ không phải chỉ là phước đức hữu lậu hưởng thụ thuộc ngũ dục như chúng ta thường lầm tưởng. Do nhờ có công đức này th́ người thực hành mới có phương tiện để xả bỏ ban cho chúng sinh mà hành Bố Thí Ba La Mật Đa.
Song để cho tâm nguyện Bồ Đề được dứt khoát và kiên cố, cũng như để cho khi thực hành các công đức thế gian, người thực hành không đi lạc ra khỏi con đường thành Phật, thời bắt buộc người ấy phải thực hành cho vẹn toàn một công đức nền tảng nhất, đó là công đức "cúng dường".
Cúng dường giản dị có nghĩa là "bố thí" cho Tam Bảo. Khi một hành giả thực hành Bố Thí Ba La Mật Đa thời đối tượng để Bố thí phải là tất cả mọi loài chúng sinh và phải là tất cả mọi cấp bậc hữu t́nh từ địa ngục lên cho đến Phật. Khi Bố thí cho các loài hữu t́nh khác ngoài Phật, các bậc thánh Nhị thừa hay các đại Bồ Tát, th́ Bố thí ấy thuộc về tính chất Đại Bi. Song khi Bố thí cho Phật, các Thánh và đại Bồ Tát, th́ Bố thí này thuộc về tính chất Trí Huệ. Do đó mục tiêu của Cúng dường chính là để thành tựu Trí Huệ vậy.
Chúng ta đă biết, Bố thí có tác dụng chính yếu là để hợp nhất hay để xóa tan ranh giới phân hai giữa chủ thể và khách thể, qua động cơ "t́nh cảm" là thương xót và quan tâm hoàn toàn vào tha nhân (tức Đại bi tâm), với phương tiện là đưa ra cho hết toàn thể mọi sở hữu của ḿnh, khi ấy tâm thức của hành giả được đặt để vào trong một trạng thái không c̣n phân biệt ta người nữa. Và đó chính là trạng thái chân thật nhất, nguyên thủy nhất, và cứu cánh nhất của tâm thức hữu t́nh. Trạng thái này là cảnh giới chân lư mà mọi người tu hành mong đạt đến.
Cúng dường cũng thế, cũng có tác dụng hợp nhất chủ thể và khách thể, đồng thời cũng nhằm đạt đến trạng thái cứu cánh như nhất vô phân biệt của Tâm thức. Song v́ đối tượng của Cúng dường là Tam Bảo, thế nên sự thực hành Cúng dường có khác ít nhiều với sự thực hành Bố thí.
Sự thực hành Cúng dường vẫn được khởi động từ một động cơ t́nh cảm. Song t́nh cảm ở đây không phải là tâm thương xót mà là tâm cung kính. Cung kính đây không phải là một cung kính sợ hăi ḷn cúi, một thứ cung kính không dám đến gần, mà nếu phải đến gần th́ khớp sợ và mất tự chủ. Cung kính ở đây trái lại là một tâm "khao khát hâm mộ" mong được gần gũi, như kẻ ái mộ mong được gần gũi người ḿnh thần tượng. Gần gũi không phải để sở hữu lấy đối tượng cung kính, mà để chính đối tượng cung kính ấy sở hữu lấy ḿnh. Cung kính như thế bao gồm các tính chất khao khát gần gũi để mà phụng sự, nghe theo và vâng lời.
Khi Bố thí là hành giả chiều theo sự đ̣i hỏi mong cầu của chúng sinh, nhằm làm cho chúng sinh được thoả nguyện mà nhiếp độ họ. Khi Cúng dường là hành giả tuân phụng theo "chỉ thị" của Tam Bảo, nhằm chuyển ḿnh theo chân lư để được thoả nguyện giác ngộ mà độ chính ḿnh. Tự độ và độ tha hoặc tự giác và giác tha chính là kết quả tối hậu của hai pháp môn Cúng dường và Bố thí này.
Cũng như Bố thí, các pháp sở hữu của hành giả là phương tiện chính yếu để thực hành Cúng dường. Xả bỏ tất cả những ǵ ḿnh có, cho đến xả chính thân ḿnh mà cúng dường, là nhằm dứt khoát ḥa hợp làm một với Tam Bảo. Cúng dường đến mức tuyệt đối vẹn toàn như thế, thời tâm thức của hành giả sẽ được đặt để vào một trạng thái không c̣n phân hai nữa giữa ḿnh là người thực hành và Phật là kết quả để thành. Do ḿnh cũng không c̣n có, Phật, Pháp, Tăng cũng không c̣n có, thế nên tâm thức của hành giả thật sự đạt đến trạng thái Bát Nhă Ba La Mật Đa, một trạng thái siêu việt lên bờ bên kia, bờ hợp nhất, tránh xa hai cực đối đăi giữa chủ thể t́m chân lư và chính chân lư là khách thể được t́m.
Cúng dường đến mức viên măn như thế cũng không dễ ǵ mà thực hiện. Song hành giả không hề bị ép buộc làm quá khả năng ḿnh bao giờ. Điều cần thiết nhất là động cơ thúc đẩy hành giả Cúng dường phải là động cơ chân chính, tức tâm thức cần cầu trí huệ giác ngộ, thành tựu Phật quả, để độ chúng sinh. Đó chính là Bồ Đề tâm.
Kế đến hành giả cần phải có bàn thờ với h́nh tượng Phật để mà cúng dường. Phẩm vật Cúng dường là tất cả các pháp như mầu sắc : ánh sáng, đèn, hoa, quả, âm thanh : thỉnh chuông, xướng lên tán thán hay ngay cả âm nhạc như cơi trời thường cúng dường Phật như vậy, hương : hương đủ loại, ngay cả hương của hoa quả nữa, vị : trái cây, đồ ăn thức uống, cảm xúc : như mát, ấm, quần áo, sự tô điểm đẹp đẽ trang nghiêm của bàn thờ, cho đến giữ ǵn bàn thờ cho sạch sẽ thanh khiết, tô điểm bàn thờ cho thật trang nghiêm, chiêm ngưỡng bàn thờ cho thật thiết tha, đảnh lễ bàn thờ cho thật chân thành. Tất cả mọi hành vi của hành giả đối với bàn thờ Phật, nhất cử nhất động, cùng với tất cả các pháp xung quanh, đều được nhiếp vào tâm niệm cung kính cúng dường.
Tâm thức Cúng dường phải hết sức bén nhậy, ngay khi thiết lập bàn thờ, đó chính là đang Cúng dường rồi, cho đến quét lau bàn thờ, đều là các thực hành cúng dường. Do đó, để ra một pḥng làm pḥng thờ cũng là Cúng dường pḥng, nên quét lau pḥng thờ cũng là thực hành cúng dường, cho đến bước chân ra chợ mua hương hoa để cúng dường, th́ bước chân đi ấy cũng là thực hành Cúng dường vậy.
Dần dà người thực hành Cúng dường sẽ cảm nhận ra rằng cả một phần đời sống của ḿnh là đời sống cúng dường. Nếu người ấy phát triển sự Cúng dường rộng răi hơn nữa, như công quả ủng hộ chùa chiền, in kinh ấn tống, Cúng dường gần gũi phụng sự chư Tăng, th́ người ấy sẽ cảm thấy rơ ràng là cả một nửa cuộc đời ḿnh là cuộc đời cúng dường. Và nếu nửa đời kia liên hệ với xă hội là để thực hành Bố thí th́ người ấy sẽ hoàn toàn thấy rơ trọn cuộc sống ḿnh là cuộc sống Bố thí và cúng dường.
Từ Bi và Trí Huệ là trọn vẹn cuộc sống của ḿnh và được thực hành ngay trong đời sống của ḿnh với phương tiện là chính thân ḿnh và các vật sở hữu của ḿnh đang được sử dụng để nối kết ḿnh vào làm một với chúng sinh và Tam Bảo, để chuyển hóa toàn thể cuộc sống của ḿnh trở thành một hiện thân của chân lư bất nhị siêu việt tối thượng.
Để đạt đến mục tiêu ấy, tâm thức Cúng dường không chỉ càng ngày càng bén nhậy, mà càng ngày càng phải rộng mở ra hơn nữa. Hành giả từ tâm thức tạo dựng chùa chiền để cúng dường, in kinh để cúng dường, tiến thêm nữa sẽ thành tâm nguyện xây dựng chùa tháp, trùng tu già lam khắp nơi... cho đến thành đại nguyện của Bồ Tát là xây dựng chùa tháp khắp cơi Diêm phù, hoằng dương chính pháp khắp nơi khắp xứ... cho đến cuối cùng thành lập Tịnh Độ đầy đủ trang nghiêm để lợi độ chúng sinh viên măn bất tận...
Để cho tâm thức hành giả được thiết thực mở toát ra hết đối với Tam Bảo như vậy, nơi tâm niệm cung kính Cúng dường bao giờ cũng kèm theo tâm nguyện khát khao gặp Phật, khát khao sinh về cơi Phật, khát khao cúng dường vô lượng tất cả chư Phật, khát khao gần gũi phụng sự vô biên tất cả chư Phật. Tâm khát khao gặp Phật này phải cấp thiết chân thành, như con thơ đi lạc mong gặp mẹ, phải chuyên nhất một mối như người gặp nạn hiểm chết đến nơi chỉ một ḷng cầu thần lực cứu thoát, phải tràn ngập hân hoan như kẻ đi t́m châu báu đang tiến đến trước cửa kho tàng.
Với tâm niệm cúng dường như thế, dần dà mọi tâm nguyện hoằng pháp lợi sinh sẽ đều hội tụ về một mối và phát sinh tăng trưởng mạnh mẽ. Điều thiết yếu là tất cả mọi tâm nguyện này khởi động đều thuộc về bản chất cúng dường, tức đều hướng về một mối là chuyển hết các công đức ấy về kết quả cuối cùng là thành Phật, chính là khi hành giả và Phật không c̣n phân hai nữa. Cúng dường trong giai đoạn này c̣n gọi là "hồi hướng về vô thượng Bồ Đề".
Tóm lại, Bố thí và cúng dường đều là các pháp môn được thực hành ngay trong ḷng chúng sinh, ở giữa trần gian này, bằng chính t́nh cảm của chúng sinh, bằng tâm phân biệt ta người của hữu t́nh, song mục tiêu vẫn là để đưa đến chỗ chân lư cứu cánh cũng như thành Phật và giải thoát.
Điều quan trọng sau cùng mà chúng ta cần lưu ư là : chân lư thật sự giản dị chỉ là bàn thể thường hằng xưa nay của tâm thức chúng sinh, nên bản thể này có thể được nh́n ra và thật chứng bởi rất nhiều cách thức ngoài đạo Phật cũng như trong đạo Phật, khác với Bố thí và Cúng dường (nếu nói rộng th́ gồm đủ cả sáu Ba La Mật Đa). Nhưng các cách thức khác ngoài đạo Phật sẽ không hề đưa lại được sự giải thoát chân thật chứ đừng nói là thành Phật.
C̣n các cách thức khác ở trong đạo Phật là thuộc về các pháp môn tự lợi của nhị thừa, thời có thể đưa tới một giải thoát chân thật, song lại không thể thành Phật được. Do đó, chỉ có các pháp môn Bố thí và Cúng dường thuộc sáu Ba La Mật Đa này mới là con đường đưa đến kết quả thành Phật. Thế nên, các vị Bồ Tát sẽ thường xuyên thực hành Bố thí và cúng dường (cũng như cả sáu Ba La Mật Đa), trải qua rất nhiều kiếp mà không chịu chứng Thật Tế (tức chân lư) và giải thoát Niết Bàn, cho đến bao giờ thực hành viên măn hết Bố thí và Cúng dường, và gồm cả các Ba La Mật Đa khác, thời bấy giờ Bồ Tát mới chịu chứng Thật Tế và Niết Bàn.
Khi ấy Bồ Tát được gọi là Phật hay Chính Đẳng Chính Giác. Nói cách khác là phải bao giờ thành tựu đầy đủ viên măn các công đức của một vị Phật (tức sáu Ba La Mật Đa), lúc ấy một Bồ Tát mới chịu chứng đạo và chứng giải thoát Niết Bàn. Thế nên sự tu hành theo con đường đại thừa Bồ Tát Đạo là một tiến tŕnh lâu dài trong rất nhiều kiếp và giữa ḷng thế gian này, chứ không phải chỉ là một kỷ luật tu tập ngắn hạn nào đó trong ṿng một đời sống này để đưa đến cứu cánh giác ngộ và giải thoát. Đó là điều một hành giả thực hành Bố thí và cúng dường cần phải ư thức và ghi nhớ vậy.
__________________ Đời Mất anh Rồi vui với Ai !
|