|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thống Kê
|
Trang đã được xem
lượt kể từ ngày 05/18/2010
|
|
|
|
|
|
|
Chủ đề: Khoa học gia China nói về Lư Hồng Chí
|
|
Tác giả |
|
wonder_kid1412 Hội viên
Đă tham gia: 13 August 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 70
|
Msg 1 of 2: Đă gửi: 27 November 2007 lúc 10:43pm | Đă lưu IP
|
|
|
Năm 1992 ở Trung quốc xuất
hiện một bậc kỳ nhân với hệ thống Công pháp độc đáo làm chấn động cả
giới Khí Công. Đó chính là hệ thống Pháp Luân Công đă được Hội nghiên
cứu khoa học Khí công Trung quốc công nhận là một trường phái trực
thuộc Hội. Kỳ nhân đó là Đại sư Lư Hồng Chí.
Tháng năm năm đó Đại sư đă chính thức giới thiệu Công pháp của
ḿnh trước công luận. So sánh với các hệ thống truyền thống khác, những
đặc điểm hoàn toàn mới cũng như tính độc đáo của hệ Công pháp này đă
hấp dẫn ngày càng nhiều người ham học. Không bao lâu sau đó môn Công
mới đă có một ảnh hưởng sâu rộng khó lường.
Những người nhờ vào các
điều kiện tiên quyết nên có may mắn được tập luyện đều bị thuyết phục
bởi những nguyên lư xâu xa, pháp quy chặt chẽ cũng như đều kinh ngạc
trước Công lực cao thâm và những tác động thần kỳ của Pháp Luân Công.
Như một viên minh châu hào quang sán lạn Pháp Luân Công đă làm tan lớp
bụi trong tâm mỗi người hâm mộ Khí công và toả sáng trên đường hành
công hoàn thiện.
- 1-
Đại sư Lư Hồng Chí sinh ngày 13 tháng 5 năm 1951 (tức mồng tám tháng tư âm lịch) trong một gia đ́nh trí thức tại thành phố Gongzhuling thuộc tỉnh Quế Lâm.
Ngay từ thuở nhỏ đă khác hẳn những trẻ em cùng lứa tuổi, ông rất
tài hoa và giàu ḷng thương người. Khi thấy mẹ hàng ngày làm việc mệt
mỏi, ông đă tự ư ḿnh đảm nhiệm mọi việc như trông nhà, nấu cơm, bổ củi
và trông nom các em nhỏ. Các em trai, em gái cũng như các bạn nhỏ đều
thích được chơi với ông v́ bên ông chúng thấy yên tâm.
Mới lên bốn tuổi Lư Hồng Chí đă được Đại sư Quanjue là Chưởng môn nhân
đời thứ mười của môn phái Phật Pháp, một Pháp môn đời nào cũng chỉ
truyền lại cho một truyền nhân duy nhất mà thôi, dạy cho Công phu và
ông đă rèn luyện Pháp môn bậc cao nhất về Chân, Thiện và Nhẫn. Thoạt
đầu thầy chỉ chơi với ông mà không hề dạy ông hành công. Khi ông làm
điều ǵ tốt, vẻ mặt của thầy tươi vui sán lạn. Khi ông làm điều ǵ xấu
trông thầy kém vui hẳn. Bản chất trẻ con đôi khi đưa ông đến chỗ cố ư
làm một điều hỗn xược như đánh nhau với các trẻ em khác. Sau đó bao giờ
cũng sảy ra một chuyện ǵ đó với ông. Ông tự nhiên ngă lăn ra, hết lần
này đến lần khác mà không hiểu tại sao, hầu như không thể đứng lên
được. Đôi khi tay ông bỗng nhiên chảy máu hoàn toàn không có lư do. Mỗi
lần như thế thầy đứng từ xa nh́n lại và không nói ǵ. Khi ông không
chịu nh́n ra sai sót của ḿnh, bỗng nhiên có mấy đứa trẻ lớn hơn từ đâu
chạy đến đánh đập ông. Trong khi đó thầy nh́n ông với nét mặt nghiêm
nghị cho đến khi ông đă nhận lỗi. Lúc này thầy mới tươi cười.
Khi lên tám tuổi ông nh́n thấy ở đuôi mắt ḿnh có cái ǵ đó, sau này
ông nhận ra đó là ba chữ Chân, Thiện, Nhẫn mà thầy đă in vào khoé mắt
cho ông. Những người khác không thể trông thấy những chữ này, trong khi
ông lúc nào cũng thấy chúng.
Những năm sau đó thầy đă giảng giải cho ông nghe ư nghĩa chân thực của ba chữ ấy:
Chân có nghĩa là làm việc Thật, nói sự Thật.
Người ta không nên nói dối hoặc lừa đảo người khác, nếu đă làm sai th́
đừng t́m cách che dấu lỗi của ḿnh. Sau cùng người ta sẽ trở về với
Chân và với Tự nhiên.
Thiện có nghĩa là phải có ḷng từ bi. Người ta
không nên đối xử xấu với người khác, phải thương xót kẻ yếu và giúp đỡ
kẻ nghèo khó. Người ta phải sẵn sàng làm điều tốt và giúp đỡ người khác.
Nhẫn có nghĩa là chịu đựng và vượt qua khi bị
dập vùi, hành hạ hay bị lăng nhục mà không than thở, không thù oán,
không găm đ̣n hoặc t́m cách trả đũa. Người ta cần chịu đựng nổi những
khốn đốn khắc nghiệt nhất mà một người b́nh thường không thể chịu nổi.
Thoạt nh́n đó chỉ là ba chữ nhưng chúng chứa đựng ư nghĩa vô cùng
phong phú. Đó chính là bí mật cao thâm nhất của vũ trụ. Mỗi lần nhớ lại
Đại sư Lư Hồng Chí thường phấn khích nói: Ở Vị thầy đầu tiên đă dạy tôi
suốt tám năm chỉ xoay quanh ba từ này. Qua đó đủ thấy công sức của ông
đă bỏ ra lớn như thế nào. Nói về Chân, Thiện, Nhẫn th́ dễ, nhưng thực
hành được th́ thật là gian nan. Thầy không những đă tạo điều kiện cho
tôi hằng ngày nh́n thấy ba từ này mà c̣n khắc xâu chúng vào kư ức của
tôi. Hơn nữa ông c̣n đ̣i hỏi tôi hành động theo đúng ư nghĩa ba từ đó.
Nhờ sự giáo huấn nghiêm ngặt của thầy, Đại sư đă tạo được cơ sở chắc
chắn cho Thiên tính của ḿnh ngay khi c̣n nhỏ tuổi.
Năm lên tám tuổi Lư Hồng Chí đă đạt Đại pháp và thu được pháp lực siêu nhiên.
Vị tôn sư đầu tiên đă có ảnh hưởng mạnh nhất đối với ông. Thầy đă gieo
vào tim ông hạt giống của Chân, Thiện, Nhẫn, ban cho ông Công lực phi
thường, trau dồi bản chất của ông h́nh thành cho ông những đặc tính quư
báu. Đại sư Lư Hồng Chí luôn sẵn sàng giúp người. Làm bất cứ việc ǵ
ông cũng nghĩ đến người khác trước. Khi trông thấy một ḥn đá trên
đường, ông nhặt và ném nó sang vệ đường để người khác không bị vấp ngă.
Khi c̣n ở bậc tiểu học ông thường ra Tây hồ để bơi lội.
Một hôm sau giờ học ông đang đi dọc theo bờ hồ bỗng nghe có người gọi:
Có người ngă xuống hồ! Cấp cứu, cấp cứu!Ỏ Ông chạy lại và thấy một
người ở khá xa bờ đang tuyệt vọng cố gắng chống chọi với nước. Không
ngần ngại, ông bỏ áo và nhảy ngay xuống nước. Bơi lại gần người kia ông
nói: Nín thở, đừng cựa quậy! Tôi sẽ giúp được. Người ấy nghe theo lời
ông. Sau khi đưa được người này lên bờ ông mới nhận ra là một người
lớn, cao to hơn ông nhiều. Khi người này tỉnh dậy ông mới đi về nhà.
Ông đă làm nhiều việc như vậy nhưng không hề kể cho ai nghe, măi cho
đến sau này khi t́nh cờ gặp gỡ và nói chuyện với những người kia. Bao
giờ ông cũng cho rằng ông chỉ làm nhiệm vụ của ḿnh và chẳng có ǵ đáng
nói. Từ thuở bé ông đă có trái tim thông cảm, mỗi lần xem phim hay đọc
truyện thấy có người tốt phải chịu đau khổ đôi mắt ông thường ướt đẫm
nước mắt.
Vị thầy đầu tiên xa rời ông khi ông mười hai tuổi. Khi từ biệt thầy cho
biết sẽ có một thầy khác đến đây tiếp tục dạy ông. Đạo sư thứ hai chủ
yếu dạy ông các phép luyện công Đạo gia, nội ngoại công phu và đao
thuật, thương thuật. Thầy thường đưa ông tới một nơi hẻo lánh và trông
nom ông luyện tập. Khi luyện Kỵ mă tấn ông đă giữ vững tư thế trong
nhiều giờ khiến mồ hôi ra như tắm. Nhờ những công pháp này thân thể ông
trở nên mềm như bông và rắn như sắt thép. Thời gian trôi nhanh, chốc
lát đă qua hai năm. Người thường không thể tưởng tượng nổi ông đă đổ
biết bao nhiêu mồ hôi để công phu đạt đến tuyệt đỉnh.
Vị tôn sư thứ hai mà ông quư mến xâu xa lại phải rời bỏ ông. Lúc
từ biệt thầy dặn rằng: Tên ta là Bát cực Chân nhân. Ta đến khắp mọi nơi
nhưng không có mặt ở một chỗ nào. Chẳng bao lâu sau khi ta xa con thế
gian sẽ có thảm họa lớn. Nhưng con không được để tâm vào chuyện ấy mà
chỉ được nghĩ đến một điều duy nhất là hành công cần mẫn! Đại sư Lư
Hồng Chí ghi nhớ lời dạy của thầy. Đêm đêm ông luyện công ở một nơi
vắng vẻ. Bàn tay ông đầy chai, vô số áo ướt đẫm mồ hôi. Nhưng khổ luyện
thành công. C̣n ở tuổi thiếu niên ông đă thu được những kết quả to lớn
trong Thế gian pháp.
- 2 -
Năm 1972 Đại sư Lư Hồng Chí
đă có nghề nghiệp th́ vị tôn sư thứ ba của ông xuất hiện. Đó là một vị
Đạo sĩ thuộc phái Đại Đạo từ dăy núi Trường Bạch. Vị thầy này khác hẳn
những vị trước đây ở chỗ ông không mặc trang phục đạo sĩ và trông hoàn
toàn như một người b́nh thường. Ông ta cũng không bao giờ nói nơi ở của
ḿnh. Ông đến không ai trông thấy và đi
không để dấu vết lại. Là một vị tôn sư nghiêm khắc ông thường đánh đập
không thương tiếc người học tṛ của ḿnh mỗi khi không hài ḷng.
Vị Đạo sư này chủ yếu dạy ông Nội công. Hồi ấy Đại sư Lư Hồng Chí không
dám luyện tập công khai. Ông thường phải luyện vào buổi tối. Nhiều khi
thầy chỉ đưa Chủ ư thức của ông đi luyện. Khi ngủ ông thường thực hành
theo những điều thầy đă đưa vào đầu hay vào Thiên nhăn của ông. Cách
luyện Nội công Đại Đạo này có yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với Thiên
tính. Thầy đ̣i hỏi ông phải rèn luyện Thiên tính ngay trong cuộc sống
hàng ngày. Nếu ông phạm sai lầm, bất cứ lúc nào thầy cũng có thể xuất
hiện ngay trước mắt ông. Ông có thể bị chê trách công khai do miệng
lưỡi của những người xung quanh.
Chính nhờ những đ̣i hỏi nghiêm ngặt này mà Thiên tính của Đại sư
Lư Hồng Chí đạt đến một bậc rất cao. Các đồng nghiệp đều công nhận ông
là người rất trọng tín nghĩa và thẳng thắn và đều thích gần gũi ông. Có
những người không hiểu được điều đó và cho là ông rất ngu xuẩn v́ không
quan tâm đến quyền lợi của chính ḿnh. Quả là ông đă phát triển đến bậc
như vậy. Ông đă từ bỏ hết thảy những ham muốn của một người b́nh thường
và mọi quyền lợi cá nhân. Ông sử thế thống nhất với tự nhiên và thanh
thản không vướng tiền tài danh vọng. Đôi khi ông cũng chịu quở trách vô
lư, nhưng rồi có những người khác can thiệp bảo vệ ông. Ông thường mỉm
cười bỏ qua tất cả những chuyện như vậy.
Năm 1974 vị tôn sư phái Đại Đạo ra đi và một Ni sư Phật giáo đến
dạy ông Phật pháp và các Công pháp của Thiền môn. Tuy mới hai mươi ba
tuổi Công lực của Đại sư đạt đến một bậc khá cao. Năm 1982 được giải
ngũ ra khỏi quân đội Đại sư đă t́m được việc làm trong ngành dân sự ở
thành phố Trường Xuân. Từ đó ông càng luyện tập cần mẫn hơn. Chỉ trong
khoảng mười hai năm ông đă được sự hướng dẫn của hơn hai mươi bậc tôn
sư Đạo gia và Phật gia. Gần
như cứ mỗi khi ông lên một bậc công phu cao hơn lại có một thầy mới đến
dạy tiếp. Dù ở bậc nào cũng vậy ông đều phải chịu những bức bách khắc
nghiệt mà người thường không thể tưởng tượng nổi.
Đến đây Công lực của Đại sư đă lên đến một bậc cực cao. Nhiều công năng
của Đại sư ở vào mức người thường không thể tưởng tượng đến và không
thể hiểu nổi. Một buổi tối tháng bảy năm 1990 ông cùng vài môn sinh
hành công trong sân của một cơ quan tại Bắc kinh. Bỗng nhiên bầu trời
phủ đầy mây đen và sấm chớp dữ dội tưởng như ngay trên đầu mọi người.
Các môn sinh đều xao động v́ theo nguyên tắc luyện Khí công th́ không
được hành công trong thời tiết như vậy. Thấy Đại sư vẫn ngồi thế toà
sen nghiêm tĩnh trên một phiến đá không hề tỏ ư muốn tránh thời tiết,
mọi người lại tiếp tục hành công. Điều đáng chú ư là không có một hạt
mưa nào rơi tuy những khối mây đen nặng nề treo rất thấp và sấm chớp
vẫn dữ dội.
Sau buổi tập Đại sư b́nh thản bảo các học viên rằng trong nửa giờ
nữa trời chưa thể mưa được và họ có thể yên tâm đi về nhà. Trong số môn
sinh có một người ở tận phía tây thành phố và phải đi xe khách gần nửa
giờ mới về đến nhà. Anh ta vừa đặt chân vào cửa th́ trời mưa như trút
nước. Đại sư c̣n làm nhiều điều kỳ lạ khác mà chúng tôi không thể kể
hết ra đây được.
Sau nhiều năm hành công bền bĩ Đại sư Lư Hồng Chí không những chỉ đạt
được một bậc công phu vô cùng cao thâm mà điều quan trọng hơn là đă
kiến tính được Chân bản chất của vũ trụ, đă thấy được bao nhiêu điều kỳ
diệu hằng tồn tại trong vũ trụ của chúng ta cũng như biết được xuất sứ,
sự phát triển và tương lai của nhân loại.
- 3 -
Khi
không hành công Đại sư thường băn khoăn một điều là tại sao các bậc tôn
sư lại dạy ông những công pháp này và ông ra đời để làm ǵ.
Khi hành công ông không có th́ giờ nghĩ đến điều đó. Mỗi lần t́nh cờ
nghĩ đến đây ông thường không t́m được câu trả lời. Nhờ dần dần hoàn
thiện nâng bậc công phu lên cao hơn ông càng nhận thức được xâu sắc hơn
về con người và cuộc sống.
Người ta lẽ ra phải
luôn luôn có ḷng tốt. V́ đánh mất bản ngă của ḿnh nên tinh thần của
con người bị suy giảm và thân thể bị dày ṿ. Tuy mức sống của nhân loại
có lên cao dần nhưng phẩm chất tinh thần không theo kịp sự phát triển.
Mỗi lần nghĩ đến đây Đại sư lại thấy đau buồn trong tâm. Nhân loại cần
một thân thể khoẻ mạnh, một tâm hồn trong sáng để sống và xây dựng một
cuộc đời, một xă hội thật sự cao cả, đẹp đẽ. Đại sư biết rơ nhiệm vụ
của ḿnh và quyết tâm cố gắng hết sức ḿnh để đem lại sức khoẻ cho nhân
dân và xây dựng một thiên đường của những tâm hồn cao cả.
Để đạt mục đích này Đại sư đă quyết định sáng tạo nên một Công
pháp mới trên cơ sở con đường tự hoàn thiện mà ông đă trải qua sau
nhiều năm tháng bí mật hành công. Công pháp này phải thích hợp với việc
tu tập của những con người b́nh thường. Ông biết rằng mục đích này tuy
ưu việt nhưng rất khó thực hiện, v́ đó là một con đường đầy chướng ngại
và nguy hiểm. Một lần đă quyết định Đại sư tiến hành công việc không
một chút ngần ngại.
Từ năm 1984 Đại sư Lư Hồng Chí đă nghiên cứu chu đáo vấn đề Khí
công ở trong nước cũng như ngoài nước và tham dự các khoá huấn luyện
Khí công. Ông phân tích đặc điểm của những con người b́nh thường. Để
phổ biến được trong những người b́nh thường Công pháp mới phải thích
hợp với những nguyên tắc của cuộc sống b́nh thường. Con người b́nh
thường có công việc của ḿnh, thời gian dành cho hành công bị hạn chế.
Các phép luyện công truyền thống thường rất phức tạp mà công năng chỉ
tăng cường chậm chạp. Công pháp mới phải khắc phục những nhược điểm đó
đồng thời phải duy tŕ những ưu điểm. Ông
nhận ra rằng nguồn gốc sức khoẻ của con người vốn nằm trong bản chất
tinh thần. Mọi người đều hướng về sự tốt đẹp. Chỉ v́ tinh thần của họ
bị lạc hướng nên mới có có sự xấu xa. Sáng tạo Pháp Luân Công ông đă đề
ra bốn nguyên tắc sau đây:
1. Công pháp này không tự tư tự lợi,
2. Công pháp này mang sức mạnh siêu nhiên,
3. Công pháp này tương ứng với ba đặc tính của vũ trụ là Chân, Thiện và Nhẫn.
4. Công pháp này bảo đảm an toàn tuyệt đối cho người luyện.
Đại sư đă đưa toàn tâm trí vào sáng tạo Pháp Luân Công. Ông thu
tóm tất cả ưu nhược điểm của các trường phái hoặc hệ thống Khí công đă
tồn tại từ xưa đến nay và đưa những ưu điểm vào hệ công pháp mới. Trong
khi sáng tạo Pháp Luân Công, tất cả các thầy dạy ông đă trở về. Các bậc
tôn sư của Phật gia, Đạo gia và Môn phái Đại Đạo cũng như các trường
phái thuộc các cơi không gian khác đă tham gia vào công tŕnh này. Từng
tư thế, từng động tác trong Pháp Luân Công đă được tŕnh diễn, lư giải
và sửa đổi nhiều lần cho đến hoàn chỉnh. V́ vậy có thể nói rằng Pháp
Luân Công không phải chỉ chứa đựng những kinh nghiệm của Đại sư Lư Hồng
Chí hay một vài trường phái nào đó mà tập trung những sức mạnh huyền
diệu của vũ trụ và do đó thể hiện tinh thần cơ bản của vũ trụ. Giờ đây
Công pháp này được thể hiện cụ thể qua chính Đại sư Lư Hồng Chí.
- 4 -
Sau khi Pháp Luân Công được hoàn thành về cơ bản vào năm 1989, Đại
sư Lư Hồng Chí vẫn chưa có ư định phổ biến ngay. Ông cẩn thận cho một
số môn sinh thực hành môn công mới. Sau hai năm theo dơi ông nhận thấy
số môn sinh này đạt được một bậc công phu khá cao. Trong các trường
phái khác phải hàng chục thậm chí vài chục năm hành công cần mẫn mới
đạt được Tam Hoa Tụ Đỉnh, trong khi đó nhiều học viên của ông chỉ sau
hai năm luyện Pháp Luân Công đă đạt kết quả này. Đó là một bằng chứng
cho thấy Công pháp này phát triển Công năng rất nhanh chóng.
Tháng năm năm 1992 Đại sư Lư Hồng Chí lần đầu xuất hiện trước công luận
với sứ mệnh của ḿnh. Mục tiêu của ông thật minh bạch: Trước hết giúp
những người nhờ sự phổ biến của các môn phái Khí công đă theo đuổi
luyện Khí công từ nhiều năm mà không triển khai được công lực nâng cao
tŕnh độ của họ lên một bậc. Thứ hai là chỉnh đốn những quan điểm xấu
về Khí công qua việc nhắc nhở những hiện tượng không lành mạnh trong
giới Khí công như miệt thị lẫn nhau, công khai chiến đấu với các thế
lực huyền bí, ăn trộm Khí của nhau và xả hắc khí ra để làm hại người
khác. Thứ
ba là thông báo một sự thật là có những thế lực đen tối từ các cơi
không gian khác t́m cách quấy nhiễu người hành công và trừ bỏ những thế
lực đó.
Trên cơ sở kiểm chứng chu đáo ban lănh đạo Hội nghiên cứu khoa học
Khí công Trung quốc đă công nhận hoàn toàn các nguyên tắc, các bài Công
và các tác dụng của Pháp Luân Công và chứng nhận Pháp Luân Công là một
trường phái trực thuộc của Hội. Hội cũng đă ủng hộ và viện trợ trong
việc phổ biến và quần chúng hoá Công pháp mới này. Hiện nay Đại sư Lư
Hồng Chí đă đáp ứng lời mời của nhiều địa phương trên đất Trung Quốc tổ
chức nhiều lớp huấn luyện Pháp Luân Công để thuyết pháp và giới thiệu
Công pháp. Số người tham dự các khoá đă lên đến hơn trăm ngàn. Đến bất
cứ nơi nào Đại sư cũng được giới hâm mộ Khí công nhiệt liệt chào đón và
ủng hộ. Các sự kiện thực tế cho thấy Pháp Luân Công với những tác động
huyền diệu của nó có một ư nghĩa vô cùng sâu sắc. Công
pháp này đă được các tôn sư của ông nhận định là một Đại pháp Đức hạnh
cao cả. Đại sư đă không hề mệt mỏi đi khắp đất nước để thực hiện lời
hứa của ḿnh. Ai đă tham gia luyện Pháp Luân Công đều có ấn tượng rằng
đây chính là một con đường hoàn thiện xứng đáng với danh nghĩa của nó.
Ngay từ giai đoạn nhập môn công pháp này đă đưa học viên lên một bậc
cao và không hề vị kỷ ban phát cho học viên những Công năng quư giá là
điều không thể có trong các môn phái khác.
Pháp Luân Công tiềm tàng sức mạnh siêu nhiên đă chủ trương phải hy
sinh và ban phát. Trong mỗi khóa học, Đại sư Lư Hồng Chí trước hết
thanh lọc cơ thể học viên để giúp họ thích nghi được với yêu cầu luyện
công. Ông giúp đỡ những người đau ốm tiêu trừ các ổ bệnh tật và khai
thông các kinh mạch. Sau đó ông đặt vào bụng dưới mỗi học viên một Pháp
luân luôn quay không ngừng nghỉ và có tác dụng giúp đỡ học viên trong
quá tŕnh luyện công. Nhờ thế đạt được mục tiêu dùng Pháp để cải thiện
con người. Tuy
người học viên không thể thường xuyên hành công, Pháp luân trong thân
vẫn không ngừng nghỉ gia tăng công lực cho người đó, giải quyết được
khó khăn về th́ giờ tập luyện cho con người trong xă hội ngày nay.
Ngoài ra nhiều Pháp luân khác được đặt vào các phần thân thể của học
viên để giúp họ khi hành công hoặc tiêu trừ bệnh tật. Những Pháp luân
này cũng quay không ngừng nghỉ và điều chỉnh trạng thái cơ thể của học
viên hoàn toàn tự động. Để học viên có thể nắm được các cách
hành công Đại sư c̣n ghép vào thân thể học viên những cơ chế năng
lượng. Các Khí cơ này cũng chuyển động liên tục như các Pháp Luân để
hướng dẫn cho học viên luyện đúng cách thức và để đưa các kinh mạch
trong cơ thể học viên vận chuyển theo đúng phép Chu thiên.
Trong khi luyện Pháp
Luân Công học viên được bảo đảm an toàn và không thể đi sai vào tà đạo.
Đại sư Lư Hồng Chí đă nhắc lại nhiều lần rằng người môn sinh Pháp Luân
Công không thể gặp hậu quả xấu do hành công. Tất cả các yếu tố có thể
gây lệch lạc ra khỏi chính đạo đă được loại bỏ. Thí dụ trong khi hành
công người học viên không được theo được theo đuổi một ư tưởng nào và
không được thực hiện một động tác đột ngột. Ngoài ra học viên c̣n được
Pháp thân của chính Đại sư che chở. Nơi ở cũng như nơi hành công của
học viên cũng được Đại sư thanh giải và bố trí một lớp bảo vệ để ngăn
ảnh hưởng các thông tin xấu ảnh hưởng đến học viên. Thực tế là Pháp
thân của Lư Đại sư không những chỉ bảo vệ người học viên mà biết rơ cả
Thiên tính của người đó nữa.
Đại sư Lư Hồng Chí rất tinh tường về những bí mật của vũ trụ và có khả
năng làm tan lớp sương mù đang bao phủ trong giới Khí công ngày nay.
Ông ngay thẳng và cởi mở, dễ gần và lịch sự . Ai có dịp được tiếp xúc
với ông đều phấn khởi và chịu ảnh hưởng của ông về cách sinh hoạt giản
dị, lời nói đơn giản và sự tận tâm đến quên ḿnh. V́ sự nghiệp của Pháp
Luân Công ông đă phải xin thôi việc và sống xa cách gia đ́nh. Để
giải thoát tất cả chúng sinh ông làm việc không biết mệt mỏi chẳng kể
ngày lễ hay ngày chủ nhật. Thường ông không có th́ giờ để ăn một bữa
cơm trọn vẹn hay để hưởng vài phút nghỉ ngơi. Nguyện vọng duy nhất của
ông là sao cho ngày càng có nhiều người được khoẻ mạnh và hạnh phúc.
Như mặt trời mới lên ở phương Đông, Pháp Luân Công do Đại sư Lư Hồng
Chí sáng tạo nên sẽ tỏa hào quang đầy sinh khí trên khắp trái đất, đem
lại nguồn nước sống c̣n cho mọi chúng sinh và nhiệt năng cho thế gian.
Công pháp này sẽ có một ư nghĩa không thể ước lượng nổi trong tạo dựng
một xă hội cao đẹp nhất và lư tưởng nhất.
Pháp Luân Công
Bản Đức văn của Hội nghiên cứu Khoa học Khí công Trung quốc
ISBN 7-11901846-9 nguồn
|
Quay trở về đầu |
|
|
wonder_kid1412 Hội viên
Đă tham gia: 13 August 2006
Hiện giờ: Offline Bài gửi: 70
|
Msg 2 of 2: Đă gửi: 18 January 2008 lúc 6:51am | Đă lưu IP
|
|
|
Thêm 1 bài của nhà khoa học về ông Lư Hồng Chí ******************************************** Tại sao tôi luyện Pháp Luân Công
Lời một chuyên gia Trung Quốc về Trung Y, Tây y và Khí công
Shao Xiaodong
Tên tôi là Shao Xiaodong. Tôi có bằng tốt nghiệp đại học Tây y của
Trung Quốc cấp và bằng nghiên cứu viên về Y học truyền thống do Viện
nghiên cứu của Trung Quốc cấp. Tôi đă nhận bằng về Khí công và Châm
cứu, từng là Hội phó Hội nghiên cứu Khí công tỉnh Hắc Long Giang và là
cố vấn của ngài Zhang Zhenhuan, nguyên thủ trưởng của Ủy Ban Khoa học
và Công nghệ Nhà nước cũng như đă được chọn làm cố vấn về Khí công Y
học (Chú thích: Ngài Zhang Zhenhuan là chủ tịch Hội nghiên cứu khí công
và Nhân chủng học của Trung Quốc).
Năm 1984, các Hội Y học của Châu và Hoa kỳ đă nhiều lần mời tôi sang
dùng khí công điều trị bệnh nhân và giảng dạy về khí công. Năm 1989,
các công năng của tôi đă được đài truyền h́nh Zhaori truyền trực tiếp
trên đất Nhật Bản trong chương tŕnh "Những khả năng phi thường", khi
tôi tŕnh diễn những công năng này trước khán giả. Tôi đă nhiều lần
được ngoại trưởng Nhật Bản (Ông c̣n là ứng cử viên ghế thủ tướng Nhật)
cũng như nhiều nhân vật trong giới thượng lưu nước Nhật mời đến điều
trị cho họ. Các phương tiện thông tin và báo chí nước Nhật cũng như
châu Âu đă đưa tin về những việc này. Tôi c̣n cho đăng kư lập Viện
Nghiên cứu Khí công chuyên điều trị bệnh nan y bằng khí công tại Tokio.
Trong năm 1990 tôi sang làm việc ở Nhật Bản. Từ đó tôi sống ở Tokio.
Trước khi sang NHật tôi đă là Bác sĩ trưởng tại Viện nghiên cứu Trung Y
quốc gia và c̣n là giảng sư tại Viện Nghiên cứu khí công Trường Đại học
Trung Y Bắc Kinh.
Với một người tu luyện th́ bằng cấp hàn lâm và chức vị không có ǵ là
quan trọng. Với các bằng cấp đă kể trên tôi chỉ muốn nói rằng, bản thân
tôi đă được hưởng sự đào tạo chính quy về khoa học hiện đại. Tôi là
chuyên gia về Trung Y cũng như Tây Y, về Khí công và về nhân chủng học.
Tôi đă từng trải Cách Mạng Văn Hoá cũng như nhiều trào lưu tư tưởng xă
hội khác. V́ thế, tôi đă quen quan sát các học thuyết và giáo thuyết
một cách có phê phán. Tôi không dễ dàng tin vào một ai đó hay một chính
kiến nào đó. Trước những sự kiện c̣n trong lĩnh vực Bất Khả Tri đối với
con người quan điểm của tôi là không được trả lời Có hay Không một cách
đơn giản, dễ dàng. Muốn loại bỏ nhữngthứ nhiễu trong quan điểm mà ta đă
nhiễm phải từ khi ra đời, ta phải t́m hiểu chúng với đầu óc sáng suốt,
phương pháp thích hợp, phải cẩn thận kiểm tra và nghiêm chỉnh xem xét
chúng với lương tri của ḿnh. Phải qua thực tiễn mà t́m hiểu, kiểm tra
và xác minh chúng, sau đó mới được phép đưa ra kết luận.
Sau đây tôi sẽ dùng những chứng kiến và kinh nghiệm của bản thân ḿnh
để giải thích, tại sao tôi lại tu luyện theo con đường của Pháp Luân
Đại Pháp. Khoảng trung tuần tháng Tám năm 1993 tôi từ Nhật Bản về Trung
Quốc để nghiên cứu về các trường phái và học thuyết khí công. Trong
công viên Zhongshan (Trung Sơn, N.D.?) tại Bắc kinh tôi bỗng nghe thấy
tiếng nhạc rất du dương, có ḥa âm đặc biệt ḥa hợp. Được âm thanh hấp
dẫn, tôi đi lại nơi phát ra tiếng nhạc. Ở chỗ ấy tôi thấy vài chục
người đang tập một thứ khí công mà tôi chưa gặp bao giờ.
Theo quan sát của tôi, trong bốn tư thế trang công có đến ba tư thế
cao, tức là cánh tay đưa lên cao hơn vai. Điều đó làm tôi hết sức kinh
ngạc. Là một chuyên gia nghiên cứu khí công tôi biết rằng trong thời
gian qua có nhiều môn phái và các khóa dậy khí công khác nhau đă phổ
biến cách tập đứng tấn. Phần lớn đều bắt đầu với các tư thế trang công
thấp hay trung b́nh. Tôi chưa bao giờ nghe nói là các học viên mới tham
gia luyện tập, bất chấp có cao huyết áp hay không, đă bắt đầu ngay với
các tư thế cao. Theo quan điểm phổ biến của Y học, những động tác như
vậy gây cao huyết áp. Các bệnh nhân cao huyết áp không được tập những
động tác như vậy. Thế nhưng tất cả những người tham gia luyện tập ở
đấy, kể cả người cao huyết áp, đều nói với tôi rằng không có vấn đề ǵ.
Nếu có huyết áp cao, nó sẽ hạ xuống. Nếu huyết áp thấp, nó sẽ tăng lên.
Hiện tượng này cho thấy nó không tương ứng với các lư thuyết quen
thuộc. Tôi nhận ra, đây là một bài tập khác thường. Chỉ riêng qua phân
tích h́nh thức bên ngoài của bài tập tôi đă thấy rơ, đây không phải một
thứ khí công b́nh thường nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe. Trong bài tập
có một nội dung đặc biệt và một cái ǵ đó rất xâu xa. Dễ hiểu là sau đó
tôi đă luyện Pháp Luân Công.
Tôi tiếp tục quan sát những người tập và nhận ra rằng bài tập thứ năm
được thực hiện trong tư thế ngồi ṭa sen song bàn. Người luyện công
được yêu cầu ngồi ṭa sen ở tư thế tốt nhất có thể. Điều này cũng làm
tôi rất kinh ngạc. Từ xưa tới nay các trường phái khí công thường chỉ
yêu cầu ngồi ṭa sen song bàn khi học viên luyện tập đă đến tŕnh độ
cao. V́ ngồi ṭa sen song bàn rất khó nên người ta thường luyện kín đáo
ở nhà riêng. Nhưng ở đây nó được phổ biến công khai. Và họ c̣n làm
những tư thế tay mà xưa nay vẫn được xem là bí mật của mọi bí mật.
Không phải người ta chỉ gần như không trông thấy những cái như vậy trên
thế giới này mà c̣n không mấy ai được nghe nói đến nữa. Chỉ nh́n nhận
từ h́nh thức bài tập đă thấy rằng khởi điểm của công pháp xuất phát từ
một bậc rất cao. Nó cao hơn tất cả các bài tập khí công bảo vệ sức khỏe
thông thường khác. Hôm ấy tôi chỉ đứng kiến tập và rút ra những kết
luận từ kết quả quan sát của ḿnh. Sau này, trong lớp học Pháp Luân
Công tôi đă được nghe những giải thích rất rơ ràng của thầy Lư Hồng
Chí: "Pháp luyện công này là một công pháp bậc cao có từ thuở ấy khi
tôi c̣n một ḿnh tu luyện. Tôi trao lại cho các vị mà không thay đổi
chút ǵ.".
Sau buổi tập tôi nói chuyện với các học viên. Họ cho biết rằng, bài tập
này có tên là Pháp Luân Công. Thầy của họ có tên là Lư Hồng Chí. Họ c̣n
nói rằng, thầy của họ có thể đặt cho họ một Pháp Luân vào bụng dưới.
Người nào có duyên với Pháp Luân Công và được nhận một Pháp Luân th́ đă
hoàn thành được một nửa quá tŕnh tu luyện của ḿnh. Họ c̣n nói rằng,
Pháp Luân Công chính là phép tu luyện. Thầy Lư không phải chỉ phổ biến
công pháp mà c̣n giảng Pháp nữa. Thầy giảng Pháp trên những b́nh diện
cao.
Tôi nghĩ, đây chính là một công pháp luyện lên bậc cao mà ḿnh đă theo
đuổi nhiều năm và vẫn hằng mơ tưởng. Tôi lập tức chuyển đến ở tại một
khách sạn gần công viên này để có thể tham gia học và luyện Pháp Luân
Công ngay trong công viên mỗi buổi sáng. Khi biết có một khoá học của
thầy Lư sắp khai giảng tôi đă đến ngay bà phụ trách để đăng kư xin học.
Tôi nói với bà: "Sáng được nghe Đạo, tối có thể an tâm từ giă cuộc
đời." V́ chịu ảnh hưởng mạnh cách tư duy của Phật Giáo tôi vẫn nghĩ
rằng cuộc đời vô thường. Một trời gió sương, ai mà tiên liệu được. May
rủi sớm tối có thể xẩy ra với con người. Nếu trong đời được biết Chính
Đạo và Chính Pháp th́ sống không phải là uổng. Dù có phải chết cũng đă
bơ công. Tất nhiên đó chỉ là những nhận thức thấp kém của tôi. Hồi ấy
tôi chưa hiểu được thấu đáo ư nghĩa xâu xa của câu nói: "Sáng được nghe
Đạo, tối có thể an tâm từ giă cơi đời." Ngày 27 tháng Tám năm 1993 do
tiên định của cơ duyên tôi đă trở thành học viên Pháp Luân Công khóa
thứ 13 tại Bắc Kinh.
Hồi ấy, cứ buổi chiều tôi lại đến hội trường của nhà máy cơ khí số 27 ở
khá xa trung tâm thành phố Bắc kinh để nghe thầy Lư giảng Pháp. Sau
ngày học thứ ba tôi đă về nhà tập 30 phút bài học thứ năm. Khi ngồi tư
thế ṭa sen song bàn tôi thấy toàn thân ḿnh thật sự nhẹ nhàng như bay
bổng. Tôi không thấy đau đớn, hai chân cũng không thấy bị tê. Đó là lần
đầu tôi cảm thấy được sức mạnh vĩ đại của Đại Pháp. Đúng như lời thầy
đă nói: "Muốn đạt đến trạng thái thân thể trắng như sữa, các trường
phái khác phải luyện tập trên mười năm, vài mươi năm và c̣n cần lâu hơn
nữa. Nhưng ở đây chỉ bằng một lần chúng tôi đưa Quư vị đến giai đoạn
này". "Chúng tôi đưa Quư vị đến đấy và cho cơ thể của Quư vị đến trạng
thái vô bệnh." Trước kia, mỗi khi ngồi song bàn 30 phút hai chân tôi
như bị sưng lên và đau đớn.
Thầy c̣n nói rằng: "Đặc điểm lớn nhất khi tu luyện theo Pháp Luân Công
là luyện Pháp Luân." Pháp luân là một sinh thể thông tuệ. Pháp luân c̣n
tự động quay không ngừng nghỉ. Điều đó nghe thật huyền bí. Ngay trong
cổ tích và trong huyền thoại cũng chưa bao giờ thấy nói như vậy. Sau
khi khoá học ở Bắc Kinh kết thúc, tôi vận dụng các kinh nghiệm của
những năm nghiên cứu khí công và nhân chủng học để làm một thí nghiệm
t́m xem Pháp luân có thật sự tồn tại hay không.
Tôi mời một cô gái người Nhật trước đây có học khí công với tôi và đă
mở được thiên nhăn. Cô có thể dùng thiên nhăn nh́n thấy kim đơn của
ḿnh. Tôi để cô nhắm mắt ngồi song bàn với hai bàn tay đặt mở ngửa trên
chân, sau đó đặt sấp một h́nh Pháp Luân trên hai bàn tay của cô nhưng
không nói đă để cái ǵ lên tay cô và cũng không ra hiệu ǵ hết. Sau khi
cô đă tĩnh tọa được một lúc, tôi thông qua một phiên dịch hỏi cô thấy
có cảm giác ǵ. Cô trả lời rằng, hai tay có cảm giác ấm lên. Giữa hai
tay có một vật ǵ tṛn và sáng. Vật này từ bàn tay lăn dọc theo cánh
tay mà đi lên và nhập vào trong cơ thể. Sau đó nó dịch chuyển xuống
trường đan điền nơi bụng dưới. Kim đơn có màu trắng và không chuyển
động. C̣n vật tṛn sáng th́ quay. Cả hai vật có khi nhập vào nhau rồi
lại tách ra. Cô có cảm giác rất ấm áp dễ chịu nơi bụng dưới. Nhưng ở
bậc của cô cô chưa thể nhận ra các h́nh chữ Vạn và h́nh Thái cực. Đó là
một thí nghiệm của tôi trong thời gian đầu tập luyện theo Pháp Luân
Công để chứng minh sự tồn tại khách quan của Pháp luân. Tất nhiên theo
nh́n nhận của tôi ngày nay th́ đó cũng là một thứ Chấp. Nhưng kết quả
đă thuyết phục tôi là Pháp luân thật sự tồn tại. Đó không phải là kết
quả của sự tưởng tượng bằng tập trung tư tưởng. Nhưng Pháp luân tồn tại
trong một không gian khác.
Trước đây tôi có tham gia ứng dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật
hiện đại vào nghiên cứu những khả năng phi thường của con người. Hồi ấy
một số của tờ Nhân Dân Nhật Báo có đăng trên trang đầu bài b́nh luận
bác bỏ sự tồn tại của những khả năng phi thường. Thời gian này các báo
chí, từ báo của Trung ương cho đến báo địa phương, vẫn c̣n những kẻ
viết lách bất lương. Họ nói xấu việc nghiên cứu các khả năng phi thường
của con người, phê phán là khoa học giả tạo và mê tín ngu xuẩn. Quả là
thời ấy người ta bài xích khắp nơi. Những nhà ngiên cứu chạy theo phong
trào đă sợ hăi bỏ cuộc. Chỉ một số người có đầu óc sáng suốt là vẫn
tiếp tục công việc. Được sự ủng hộ của nhà khoa học danh tiếng Tiền Học
Sâm chúng tôi đă tập trung được những người có khả năng phi thường của
toàn Trung Quốc. Với sự cộng tác của các nhà nghiên cứu thuộc Viện Vật
lư Trung Quốc, Viện Vật lư năng lượng cao, Viện Vật lư Sinh học và Viện
nghiên cứu mang số 1129 của cơ quan An ninh Quốc gia và với các máy
quay phim siêu tốc, thiết bị phát hiện, máy đo điện năo vv., những khả
năng phi thường đă được xác nhận, kể cả các khả năng thiên nhăn, thiên
lư nhăn, cách không khiển vật xuyên qua cả các cơi không gian khác. Nhờ
vậy chúng tôi biết rằng, bên cạnh không gian vật chất của chúng ta c̣n
tồn tại nhiều không gian khác. Những nghiên cứu trước đó về nhân chủng
học trong các chuyên ngành khoa học cao cấp của Trung Quốc cũng đă xác
nhận sự tồn tại các không gian khác. Các nhà khoa học gọi những trạng
thái như vậy là trạng thái Bất khả kiến hoặc trạng thái Trường, khi máy
quay phim siêu tốc cho thấy các viên thuốc, dưới tác dụng của trường
năng lượng đặc biệt của một số người, đă xuyên qua các không gian khác
nhau mà ra khỏi chai thủy tinh đựng chúng như thế nào. Những kết quả
nghiên cứu này đă được các chuyên gia công nhận và các nhà khoa học
tham gia nghiên cứu đă được thưởng huân chương nghiên cứu khoa học kỹ
thuật. V́ vậy các nhà lănh đạo đất nước thời ấy đă quyết định ban hành
Tam tiểu chính sách đối với Khí công và Nhân chủng học. Ba chính sách
đó là: Không tuyên truyền, không phê phán, không thảo luận về Khí công.
Thế nhưng từ năm 1996 một số phương tiện thông tin Trung Quốc đă vi
phạm Tam tiểu chính sách và hàng ngày bài xích Pháp Luân Công. T́nh
h́nh đă xấu đi đến mức cơ quan an ninh bắt giữ những người tập luyện
Pháp Luân Công khiến cho ngày 25 tháng Tư năm 1999 những người theo
Pháp Luân Công đă kéo về Trung Nam Hải.
Tháng Bẩy năm 1999 chính phủ Trung Quốc đă khởi động chiến dịch chống
Pháp Luân Công. Một số người mệnh danh là chuyên gia và là nhà khoa học
đă dại dột phủ nhận những hiện tượng mà họ chưa biết bằng kiến thức hạn
hẹp của ḿnh. Thái độ này dẫn đến dễ dàng đưa ra những kết luận nặng
tính chủ quan và do đó là thái độ phi khoa học không thể chấp nhận.
Ngay theo quan điểm khoa học thực nghiệm ta cũng không được phép phủ
nhận những ǵ chúng ta chưa hiểu nổi.
Ngày đầu tháng Giêng ở thành phố Trường Xuân nhiệt độ buổi sáng lúc 5
giờ 30 là âm 23 °C. Chúng tôi, những người từ hải ngoại về và học viên
Pháp Luân Công của thành phố Trường Xuân cùng tập luyện chung trong
công viên. Tôi chỉ mang một đôi găng tay mỏng. Đến bài luyện công thứ
hai tôi thực hiện tư thế ôm Pháp luân trước trán theo giới hạn thời
gian của âm nhạc. Yêu cầu của tư thế này là phải giữ vững trong bẩy
phút. Với tôi bẩy phút này dài như bẩy mươi phút. Các ngón tay trở nên
không khác ǵ những thỏi băng, tưởng như những mũi dao nhọn đâm xuyên
từ khe móng tay mà vào xâu trong xương thịt vậy. Khi những ngón tay
đau, cái đau thấu đến cả tâm can. Tôi gần như không thể chịu nổi nữa.
Tra tấn trong địa ngục có lẽ cũng chỉ đến thế thôi. Bỗng nhiên tôi tự
hỏi ḿnh, tại sao tôi không nghiêm ngặt với bản thân hơn. Nhất định tôi
phải thực hiện tư thế này thêm bẩy phút nữa. Dù đau đớn và khổ sở đến
đâu cũng do nghiệp chướng của bao tiền kiếp gây nên. Thầy đă nói rằng:
"Phải chịu nổi cái không thể chịu nổi, làm được cái không thể làm
được." Tôi phải quyết tâm chịu đựng. Thiện hay Ác chỉ xuất phát từ một
ư nghĩ. Pháp Luân quả là thông tuệ: Một lát sau tôi cảm thấy rơ mười
pháp luân bé nhỏ xoay quanh các ngón tay trước đây mấy phút c̣n cứng đờ
v́ cóng rét và đau đớn. Sau bẩy phút kéo dài ấy những ngón tay của tôi
không c̣n đau nữa. Dần dần c̣n có thêm một cảm giác ấm áp. Nhận thấy sự
đắng cay qua đi và cái ngọt ngào t́m đến này là một kinh nghiệm tôi
không bao giờ quên.
Từ trong xâu thẳm của tâm can tôi cảm nhận được sự vĩ đại, sự thần diệu
và sự chân chính của Pháp trong vũ trụ. Tôi thấy rằng, Đại Pháp nghiêm
chỉnh, đ̣i hỏi của Thầy với môn sinh rất nghiêm ngặt nhưng cũng tràn
đầy từ bi. Đại Pháp đâu phải là lời thuyết giảng trống rỗng mà hoàn
toàn là sự thật. Chỉ những người thực sự tu luyện mới nhận ra được điều
đó trên những bậc thang khác nhau trong quá tŕnh tu luyện của chính
ḿnh.
Pháp Luân Công là con đường tu luyện cho cả Tinh thần lẫn Thể xác. Nó
bao hàm cả luyện Phật thân mà Đạo giáo gọi là Thai nguyên và Phật giáo
gọi là Kim Cương thân bất khả hủy hoại. Trong phần nói về Huyền quan
trong cuốn "Chuyển Pháp Luân" thầy đă nói rơ về từng bước trong quá
tŕnh tu luyện chuyển hóa Phật thân. Với một ngôn ngữ b́nh dị, dễ hiểu
Thầy đă giải thích Huyền quan môt cách hết sức rơ ràng sáng tỏ. Tôi đă
từng đọc các sách "Đơn kinh" và "Đạo tràng" khi c̣n nghiên cứu cổ thư y
học tại Viện nghiên cứu Y học truyền thống Trung Quốc. Luận án nghiên
cứu viên của tôi có đề tài là "Kết quả nghiên cứu cổ thư về Luyện kim
đơn trong Đạo gia khí công Trung quốc." Chỉ riêng về "Đạo tràng" thư
viện đă có đến 5.285 cuốn sách. Quả là nhiều. Nhưng sau khi đọc mười
ngàn cuốn đi nữa người đọc vẫn chẳng hiểu Huyền quan là cái ǵ. Thầy Lư
đă mở hoàn toàn bức màn bí mật mà hàng ngh́n năm nay vẫn được xem là bí
mật của mọi bí mật.
Với những kinh nghiệm tu luyện đă kể trên tôi chủ yếu chỉ nói đến chủ
đề, tại sao tôi lại theo luyện Pháp Luân Công. Nhận thức của tôi c̣n
rất nông cạn, Pháp Luân Đại Pháp là một Pháp lớn của vũ trụ c̣n chứa
nhiều nguyên lư xâu xa khác.
Gần đây Nhân Dân Nhật Báo đă có bài xích Pháp Luân Công, nói rằng Pháp
Luân Công đă quyên góp tiền của học viên. Cái đó không đúng với sự
thật. Tôi đă theo khóa học Pháp Luân Công mười ngày và chỉ phải trả có
40 Nhân dân tệ, là mức lệ phí thấp nhất so với tất cả các khóa dậy Khí
công tại Trung quốc. Tôi có chứng chỉ của khóa học này. Chứng chỉ c̣n
mang dấu của Viện Khoa học Khí công Trung quốc. Trong chứng chỉ có lời
xác minh rằng, khoá học này do Viện Nghiên cứu Khí công Trung quốc tổ
chức. Hồi ấy người ta có thể học các bài công trên các sân tập trong
các công viên Bắc kinh mà không phải trả lệ phí. Trạm trợ huấn tại Bắc
kinh không có văn pḥng. Tôi muốn tặng tiền cho Pháp Luân Công, nhưng
sau khi Viện Nghiên cứu Pháp Luân Công xin ư kiến thầy Lư, đề nghị của
tôi đă bị từ chối. Theo lời những người cộng tác viên tại Viện, Thầy Lư
đă nhấn mạnh rằng, nhất thiết không được nhận tiền tặng của cá nhân.
Nếu những học viên giàu được phép khuyến tặng th́ những người ngèo cũng
muốn đóng góp. Nhưng họ sẽ không thể thực hiện được ư muốn này và tâm
tư do đó sẽ đau khổ. Đó là lư do không được nhận khuyến tặng của cá
nhân. Câu trả lời này làm tôi vô cùng xúc động. Đó chính là ḷng từ bi
vô ngă chân chính. Tôi có nghe nói, Bà Gao Qiuju là người phụ trách
Trạm trợ huấn của thành phố Đại Liên muốn tặng Thầy Lư một căn Villa.
Thầy đă từ chối và c̣n phê b́nh bà về chuyện này. Tôi cũng muốn tặng
Viện nghiên cứu Pháp Luân Công căn hộ sáu pḥng đă mua trước đây qua
dịch vụ đất đai và nhà ở nhưng Thầy Lư cũng từ chối không nhận. Năm
1997 tôi nghe nói ông Ye Hao, một người Mỹ giàu lớn, có ư định tặng
Pháp Luân Công 100 triệu USD nhưng Thầy Lư cũng đă từ chối. Những sự
kiện kể trên là do chính tôi chứng kiến hoặc đă nghe.
|
Quay trở về đầu |
|
|
|
|
Xin lỗi, bạn không thể gửi bài trả lời. Diễn đàn đă bị khoá bởi quản trị viên.
|
Bạn không thể gửi bài mới Bạn không thể trả lời cho các chủ đề Bạn không thể xóa bài viết Bạn không thể sửa chữa bài viết Bạn không thể tạo các cuộc thăm ḍ ư kiến Bạn không thể bỏ phiếu cho các cuộc thăm ḍ
|
Trang này đă được tạo ra trong 3.3359 giây.
|